Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Tập hợp các bài viết của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Ghi chép lang thang
  • Nhận bài mới qua email

Hai Trầu Lương Thư Trung: Thư Nguyễn Hiến Lê (20.7.1979) gởi Đỗ Hồng Ngọc.

26/09/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Thư Hai Trầu Lương Thư Trung:

Kính gởi quý bạn,

Được biết bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc may mắn gặp được học giả Nguyễn Hiến Lê và có thư từ qua lại với thầy và nay thấy mấy anh em mình dù đã trộng tuổi rồi mà vẫn còn đi tìm mua và đọc sách của thầy Nguyễn Hiến Lê, nên anh Ngọc rất vui gởi tặng tôi lá thư thầy Nguyễn Hiến Lê gởi anh cách nay 45 năm (20-7-1979) để xem qua nét chữ và các trò chuyện thân tình của thầy với một người học trò nhỏ hơn thầy… 30 tuổi.
Vậy là tôi mừng quá, đọc ngay bức thư 4 trang của thầy rất cảm động và trong thư thầy có nhận xét về bài bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc viết về thầy: “ÔNG NGUYỄN HIẾN LÊ VÀ TÔI” đăng trên tạp chí Bách Khoa số cuối cùng (Số 426 ngày 25.4.1975), tôi liền xin anh Ngọc cho tôi bài viết  này vì tình thiệt là tôi chưa được đọc số Bách Khoa này có lẽ vì những ngày cuối tháng 4-75 quá lu bu và không nghĩ gì tới sách vở báo chí nữa và cho mãi tới hôm nay sau gần 50 năm tôi vẫn chưa đọc.
 Anh Đỗ Hồng Ngọc rất vui và gởi cho tôi bức hình chụp bài này trên tạp chí Bách Khoa số 426 ngày 25-4-1975:
https://www.dohongngoc.com/web/storage/2017/11/Nguyen-Hien-Le-DHN-BachKhoa-426.pdf
Nhận thấy đây là hai tài liệu quý về thầy Nguyễn Hiến Lê, nên tôi xin phép anh Ngọc được gởi chia sẻ với vài anh chị rất thân thiết để đọc cho vui trong vòng anh em.
Xin chân thành cảm ơn anh Đỗ Hồng Ngọc rất nhiều đã chia sẻ hai tài liệu quí này.
Kính chúc anh Ngọc cùng các anh chị luôn nhiều sức khỏe, an vui.
Thân mến,
Hai Trầu Lương Thư Trung

LÁ THƯ THẦY NGUYỄN HIẾN LÊ GỞI
BÁC SĨ ĐỖ HỒNG NGỌC

Long Xuyên 20. 7. 1979
Cháu Hồng Ngọc,
Tôi về đây từ 4.6, tính 1.8 mới trở lên Sàigòn. Về để chuẩn bị sang năm sẽ về ở hẳn dưới
này: già rồi, nhà tôi muốn ở tại quê hương gần họ hàng, người thân.
Mới nắng được một tuần nay, mà nắng gắt; trước đó mưa liên tiếp ba tuần, buồn quá,
không biết làm gì đọc lại báo cũ, số BK cuối cùng 25.4.75. Đọc lại bài cháu viết về tôi,
rồi đọc lại bài Bàng Bá Lân (trong Kỉ niệm nhà văn hiện đại), bài anh Ngư (trong Sống
và Viết) và tập Châu Hải Kỳ viết về tôi.
Bài của cháu ngắn nhất mà tôi thích nhất, vì thành thật, tự nhiên, thân mật nhất. Lối viết
của cháu cũng giống lối viết của tôi: Sáng sủa, gọn gàng, cụ thể, xen nhiều hồi kí, tình
cảm, hấp dẫn. Không có những câu dài lúng túng như một số cây bút trẻ.
Tôi nghĩ cái buổi trưa cháu thấy cuốn Kim chỉ nam của tôi ở trên vỉa hè đường Trần
Hưng Đạo đó. Không vì nó là một điểm quan trọng đánh dấu đời cháu mà cũng có ảnh
hưởng ít nhiều đến đời của tôi nữa. Trong bảy tám năm nay cháu giúp tôi được nhiều khi
tôi đau, nhờ cháu mà tôi biết cậu Hùng – cháu có gặp, cho tôi gởi lời thăm cậu ấy – mà
hết được tật và bệnh thận. Rồi bài cháu viết về tôi chắc khiến cho nhiều người hiểu tôi
hơn; lại còn những quà như bánh tráng, hột điều, mạch nha mà bây giờ không làm sao
có được nữa. Ngon lạ.
Nhớ lại hồi đó, mới đây thôi mà đã đúng như câu thơ cổ: “Vạn sự tan như mây khói” cả
rồi. Cả cái mộng đi một tua thăm Nam Trung Bắc cũng tan biến nữa. Tôi chưa về thăm
ngoài đó mà cũng không muốn về nữa.
Còn sống ít năm nữa thì rán viết như bắt óc làm việc cho nó khỏi mau suy, và cũng để
cho mau qua 24 giờ trong một ngày.
Tôi đã làm gần xong chương trình của tôi rồi: giới thiệu kĩ và dịch trọn hoặc gần trọn tác
phẩm của tất cả các triết gia lớn của T.H. thời Tiên Tần: 7-8 bản thảo trung bình 400
trang một. Không biết giữ được bao lâu? 10 năm, 20 năm nữa?
Tôi cũng tính viết qua loa (vài trăm trang thôi) hồi kí. B.B Lân đã viết xong 500 trang,
Quách Tấn viết cả ngàn trang rồi mà chưa xong.
Nhưng tôi không biết viết gì bây giờ? Viết về hoạt động văn hóa của tôi? Thì các tác
phẩm của tôi đó, viết thêm gì nữa?
Viết về đời sống của tôi hồi trẻ? Thì cũng đã lác đác có trong một số tác phẩm của tôi
rồi. Viết về bạn văn? Tôi ít bạn văn, chỉ khoảng mươi người, khen họ thì tôi nghĩ nên vắn
tắt thôi, không cần viết dài, còn chê thì tôi không có gì để chê!

Cháu nghĩ xem tôi nên viết gì đây? Tôi chưa đọc cuốn Mon ami qui s’appellait moi của
A.Maurois mà cháu nhắc trong bài báo BK đó. Ông ta nói gì trong đó? Cháu có cuốn đó
không? Tôi sẽ hỏi Lê Ngộ Châu xem có cuốn đó không.
Trong bài cháu viết, có nhắc tới “anh chín NS” thợ may. Nay ông ta vui không? Yên ổn
làm ăn được không? Con cái khá không?
Từ 1975 tới nay, tôi vẫn thường được thư của thanh niên, toàn là những cậu mới hay sắp
đậu tú tài thì nước nhà thống nhất. Họ vẫn tin tưởng ở sách của tôi. Tôi mong rằng họ sẽ
không thất vọng, và tôi thương họ!
À, gần đây cháu có gặp Thầy Từ Mẫn không? Ông Nguyễn Hữu Vị nữa?
Năm ngoái Viện khoa học xã hội sai người (người này quen tôi) lại dò xem tôi còn ở đây
không. Rồi mới hai tháng trước một cán bộ quen tôi từ mười mấy năm trước (sơ sơ thôi)
cũng lại hỏi tôi có tính đi đâu không. Tôi đáp: Có, tính về Long Xuyên ở cho trọn cái tuổi
trời. Họ ra về và chẳng trở lại nữa.
Thư này tôi viết ở L.X nhưng không nhớ địa chỉ của cháu, phải đợi về Sàigòn rồi mới gởi
được. Khoảng đầu Aout, chưa biết ngày nào tôi sẽ lên. Xe cộ đi bây giờ mệt lắm mà tốn
kém lắm.
Tôi chúc toàn thể gia đình cháu an vui.
Bệnh của nhà tôi bớt nhiều (8/10) rồi nhờ Gasepeline ở Pháp gởi về.
Thân ái,
Nguyễn Hiến Lê

Phụ chú:
-Hai Trầu đánh máy lại và ghi tựa bài.
-Xin đính kèm thủ bút của thầy Nguyễn Hiến Lê trong thư (trang 1 và trang 4):

Trang 1 và trang 4.

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

“Trò Chuyện Với Các Bạn Nhỏ” Ở Lagi (Bình Thuận)

15/07/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

Thư gởi bạn xa xôi (7.2024) 

“Trò Chuyện Với Các Bạn Nhỏ” Ở Lagi (Bình Thuận)

Tháng 6 mình có 2 dịp “Trò chuyện với các bạn nhỏ” là Học sinh tham dự khoá tu Mùa hè ở Ni Viện Viên Không Bà Rịa (9.6) và ở chùa Quảng Đức Lagi (30.6).

Bạn nhớ đúng rồi đó, mình là bác sĩ chuyên khoa Nhi mà, nên quan tâm đặc biệt lứa tuổi Vị thành niên, Tuổi Mới Lớn không gì lạ! Đây là lứa tuổi thường bị “bỏ quên” vì lớn thì chưa lớn mà nhỏ thì hết nhỏ. Đó là lứa tuổi “chuyển tiếp” có rất nhiều vấn đề về Tâm sinh lý, về Bệnh lý…phức tạp, không dám nói ra, không tiện nói ra… Ngay từ năm 1972 mới ra trường 3 năm, mình đã viết cuốn “Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò” mà lý do là viết từ “nỗi lòng” của mình, để lâu, sợ quên!

 

 

 

 

Rồi suốt hơn 10 năm viết cho báo Mực Tím (1989-2002) giữ Mục Phòng Mạch Mực Tím cho “tuổi mới lớn” mình nhận hàng mấy bao bố thư hỏi của các em về đủ mọi thứ chuyện “trên đời”, vì thế mà mình cũng đã có những cuốn sách tiếp theo như “Tuổi Mới Lớn”, “Bỗng nhiên mà họ ta lớn”, “Những câu hỏi của Tuổi mới lớn”, “Khi người ta lớn” “Ăn vóc học hay”…

Vậy đó, cho nên có dịp được trò chuyện với các em học sinh trong Khoa tu mùa hè thì mình rất vui.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Cảm ơn Nguyễn Văn Quyền đã quay được một clip video rất đẹp ở Lagi, quê mình.

Chuyển bạn xem vui nha,

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc

 

 

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Gươm báu trao tay, Nghĩ từ trái tim

Cao Huy Thuần “Chia tay mà không biệt ly”

09/07/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

“Chia tay mà không biệt ly”

Khi anh Cao Huy Thuần gởi tôi tập Im Lặng, như lời chia tay… , tôi nghĩ: chắc là “Im Lặng thở dài…” đây rồi! “Tôi đang lắng nghe tôi đang lắng nghe im lặng đời mình” (Trịnh Công Sơn)? Nhưng không. Cao Huy Thuần nói về “chia tay mà không biệt ly”…

Nhưng đâu là cách chia tay mà không biệt ly? Cao Huy Thuần dẫn bài thơ Feuille morte (lá chết) của Hermann Hess, tác giả Siddhartha. Anh “phát hiện” một điều thú vị: người Việt không ai nói “lá chết” mà nói “lá khô”, “lá rụng”. Quét lá rụng, quét lá khô, không ai nói quét lá chết như ngôn ngữ Pháp, Đức. Bởi vì, lá không bao giờ chết. Nó khô, nó rụng, rồi nó tái sinh thành lá búp lá non (Im Lặng, CHT).

“Chân lý” ấy do hai con sên của nhà thơ Jacques Prévert trên đường đi dự đám tang một chiếc lá chết, tựa là: “Bài ca hai con sên đi dự đám tang”.

Hai con sên đi đưa

Đám tang chiếc lá chết

Hai cái vỏ thì đen

Hai sừng băng trắng hết…

Hỡi ôi khi chúng đến

Mùa xuân đã đến rồi

Bao nhiêu lá chết xong

Tất cả đều lại sống

Hai chú sên trở về

Với xiết bao cảm xúc

Lòng tràn ngập hân hoan

Và vô biên hạnh phúc…

Ôi, làm sao hai chú sên đi dự đám tang chiếc lá chết buồn xo giữa mùa thu… mà nay lòng lại tràn đầy hân hoan, hạnh phúc? Ấy bởi vì chúng là sên. Chúng “bò như sên”! Bò hết cả mùa đông, chưa kịp đến nơi mà xuân đã về rồi! “Bao nhiêu lá chết xong/ Tất cả đều lại sống…”.

Tiễn mùa thu thì gặp mùa xuân. Tiễn cai chết thì gặp cái sống. Tiễn ảm đạm thì gặp tưng bừng. Hai con sên chia tay mà chẳng biết biệt ly là gì! (Im Lặng,CHT).

Cao Huy Thuần nói: “chúng chẳng có cả khái niệm…”. Dĩ nhiên, Cao Huy Thuần đang nói về Kinh Kim Cang! Khi ta mà biết sống “ly niệm”, khi ta không còn bám chấp vào khái niệm… thì “trí bất đắc hữu vô”. Thong dong. Tự tại.

Descartes nói “Je pense, donc je suis – Tôi tư duy, nên tôi tồn tại”. Ta cũng có thể bắt chước nói: “Tôi thở, vậy có tôi”. Nghĩa là nếu tôi không thở thì không có tôi. Nhưng cái thời tôi còn trong bụng mẹ, tôi cũng không thở mà vẫn có tôi đó thôi. Từ đó, suy ra rằng cái thời tôi… hết thở, ngừng thở, thì tôi vẫn tồn tại đó chứ, sao không? Tôi lúc đó trở lại trong bào thai Mẹ (bào thai Như Lai, Tathagata garbha) đó chứ!

Anh Cao Huy Thuần thân mến, nếu thỉnh thoảng ta mà vào được Tam muội Phổ Hiền, sống trong Như Lai tạng thì ta cũng có thể nhận ra cái “vô tưóng” – bỗng “hiện tướng”… đùa vui giữa chốn Ta-bà chút vậy thôi.

Khi con chim bay, nó không cần biết trời là gì, đâu là giới hạn. Nó chỉ bay. Trong bầu trời vô tận. Cao Huy Thuần đang bay.

Đường bay của hạnh phúc. Lấp lánh ánh vàng!

 

Đỗ Hồng Ngọc

 

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Gươm báu trao tay, Nghĩ từ trái tim

Khoá hè học sinh tại Ni Viện Viên Không 2024 (tiếp theo)

22/06/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc 3 Bình luận

Thư gởi bạn xa xôi (tiếp theo)

Khoá hè học sinh tại Ni Viện Viên Không 2024

 

Tạo không khí sinh đông và tích cực tham gia của các em không gì tốt hơn… kể chuyện xưa và cho các em  đặt câu hỏi “một cách bí mật” trên giấy, không ghi tên tuổi gì cả, dĩ nhiên là vẫn trong chủ đề “Lối sống lành mạnh về Ăn uống, Ngủ nghỉ và Giải trí… của tuổi học sinh.

Và các em đã rất vui:

 

 

 

Tôi mời các “tình nguyện viên”, các Sư cô rỗi rảnh cùng tham dự, kể cả phụ huynh…

 

 

 

Dưới đây là vài câu Hỏi-Đáp gởi các bạn đọc vui:

 

  1. Chuyên khoa nào cũng khó con ạ. Phải học tới nơi tới chốn.
  2. Phải say mê con ạ. Thấy việc mình làm là có ích cho mọi người.
  3. Khác một chút thôi: Họ rất bận rộn. Tinh thần trách nhiệm cao. Căng thẳng. Phải luôn học hỏi vì nếu không, sẽ bị “lỗi thời” nhanh lắm. Bác sĩ phải là một sinh viên y khoa suốt đời. Còn phải có lối sống gương mẫu trong cộng đồng nữa…
  4. Vui trong công việc của mình. Mỗi sáng bác ngồi thiền 30 phút và thể dục 30 phút theo kiểu riêng của bác. Ăn uống đơn giản, không rượu, không thuốc lá… con ạ.
  5. Thấy vui lắm. Thấy rất hạnh phúc

Đâu có! Người chết thì không còn biết gì. Nỗi buồn thường là ở người thân, bạn bè. Ông thì hy vọng điều cuối cùng… để lại là nỗi nhớ của các con về buổi học hôm nay dưới mái chùa này…

Giả bệnh để chi? Để trốn học hả? Uổng lắm. Sau này, trong đời ta còn có chút kỷ niệm là buổi học hôm nay, tại chốn này, cùng bạn bè bốn phương đó con.

Nhiều người sống khỏe đến tuổi trên 100 đó con ạ. Sống lâu, sống khoẻ nhưng phải sống an vui, hạnh phúc nữa.

Bác cứu con hổng nổi! Bác cũng vậy thôi. Con biết nhà thơ Đỗ Trung Quân không? Ông có bài thơ viết hồi còn đi học như con bây giờ: “…là bài thơ cứ còn hoài trong cặp/ giữa giờ chơi mang đến lại mang về”…

Chỉ có một cách là con biến bài học thành… chuyện “tào lao” thì sẽ nhớ tốt. Nguyên tắc là làm cho bài học vui, bằng cách kể chuyện, đố nhau, hoặc giả bộ làm thầy cô đặt câu hỏi cho mình, hay giảng bài cho người bạn cùng lớp…

Tuổi con mà cao 172cm là tốt rồi, còn dài thêm được không thì bác cũng chịu thua! Hỏi khó quá!

Phải có điều kiện gì mới cần phải giữ “tế bào gốc” theo lời khuyên của bác sĩ chuyên môn con ạ.

Con phải chỉ chị ấy là ai thì bác mới hỏi giùm con được. Bác sẽ nói với chị rằng có em nhỏ kia muốn biết tên và tuổi của chị nè!

Cám ơn con.

 

 

Cuối giờ, một số các em xin chụp chung tấm hình kỷ niệm, một vài em còn tìm đến hỏi riêng…

 

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc

(22.6.2024)

Thuộc chủ đề:Hỏi đáp, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Ngày Của Cha: NGƯỜI CHA TRONG THƠ CA & ÂM NHẠC

16/06/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

NGƯỜI CHA TRONG THƠ CA & ÂM NHẠC

PHẠM HIỀN MÂY

Người Cha Trong Thơ Ca

Cha trong ca dao, tục ngữ, trong thơ, thì nhiều lắm lắm, nêu ra, có mà cả ngày.

Nào là: công cha như núi Thái Sơn. Nào là: ơn cha nặng lắm ai ơi.

Rồi thì: còn cha gót đỏ như son / một mai cha mất gót con lấm bùn. Rồi thì: ơn cha dưỡng dục bằng non; ơn cha bóng núi âm thầm.

Chưa hết: khi con tát cạn biển Đông / thì con mới hiểu tấm lòng của cha. Rồi đây nữa: Cha một đời oằn vai gánh nặng. Hay: con giữ cha, gà giữ ổ.

******

Còn thơ thì, tôi nhớ hoài, một bài thơ đã từng làm tim tôi rúng động. Không phải là bài thơ con viết cho cha, con viết về cha, con ca ngợi cha, mà ngược lại, đó là lời từ biệt của người cha đối với con của mình, khi con gặp tai nạn bất ngờ, và qua đời trong sự đau đớn tột cùng của người cha.

Khi cha mất con, con chỉ vừa ngưỡng tuổi hai mươi, thanh xuân, tươi trẻ, xinh đẹp, giỏi giang. Đó là bài thơ của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà thơ, khóc con của mình, Đỗ Châu La Ngà, một bác sĩ tương lai.

Đọc, để biết cha thương con đến thế nào

TÌNH YÊU

Trước mộ con còn ướt
Ba nói với bạn bè ba rằng
Hãy yêu thương con mình cách khác
Đừng như ba
Giấu kín trong lòng

Bởi tình yêu
Có bao giờ cho đủ
Có đâu sợ dư thừa
Ba đã sai lầm bao nhiêu

Hãy tỏ bày đi
Vồ vập đi
Âu yếm ồn ào đi

Tình yêu
Có bao giờ cho đủ
Có đâu sợ dư thừa
Ba đã sai lầm bao nhiêu

Vì cứ chờ cứ đợi
Có biết đâu
Đời như mây nổi
Như gió thổi

Như chiêm bao
Ơi bài học tự thuở nào
Sao bây giờ mới hiểu
Muốn vồ vập con hôm nay

Muốn âu yếm con mãi mãi
Thì đã muộn rồi
Có bao giờ thừa thãi
Tình yêu?
(1990)

Vậy thì các bạn ơi, đừng nén, đừng giấu sự thương yêu trong lòng. Vì chẳng có lý do nào hợp lý cho việc che đậy những tình yêu thiêng liêng ấy.

Tình yêu cho cha, có bao giờ cho đủ?
Tình yêu cho cha, có đâu sợ dư thừa?
Tình yêu cho cha, sao phải chờ, phải đợi?

Hãy nói thật nhiều lời yêu thương khi còn có thể.

******

Người Cha Trong Âm Nhạc

Nhạc Việt, phải kể đến các ca khúc như: Cha Và Con Gái của nhạc sĩ Nguyễn Văn Chung. Sao Cha Không của Phan Mạnh Quỳnh. Cha Và Con của nhóm Bức Tường. Làm Cha của Dương Trường Giang. Cảm Ơn Cha của Nguyễn Hồng Thuận. Cha của Anh Tuấn. Ba Kể Con Nghe của Nguyễn Hải Phong. Cây Vĩ Cầm của Lê Yến Hoa.

Nhạc nước ngoài thì có các ca khúc như: Father And Son của nhạc sĩ người Anh Cat Stevens. The Father’s Day Song của Bryant Oden. Thank You For Being My Dad của Jon Barker. Father And Daughter của Paul Simon. Seeing My Father In Me của Paul Overstreet. Daddy’s Little Girl của nhóm The Shires. That’s My Job của Conway Twitty. Daddy’s Hands của Holly Dunn. My Old Man của Zac Brown Band.

******

Nhưng hay và đặc biệt nhứt, vẫn là ca khúc vinh danh Papa của Paul Anka, một nhạc phẩm pop xúc động về tình phụ tử, được viết bởi nhạc sĩ người Canada, sinh năm 1941, một trong những khuôn mặt được yêu thích của giới trẻ vào cuối thập niên năm mươi của thế kỷ XX.

Papa ra mắt vào năm 1974, cho đến nay, đã vừa tròn năm mươi năm. Thế mà, chưa một ca khúc nào có thể qua mặt được nó, kể cả về nội dung, giai điệu lẫn số lượng người hâm mộ, yêu thích.

Được coi là ca khúc kinh điển nhất về cha, Papa của nam ca sĩ Paul Anka đã từng được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Những ca từ đầy ý nghĩa về tình yêu thương vô bờ bến của một người chồng dành cho vợ và của một người cha dành cho các con mình, đã làm đắm say biết bao thế hệ người yêu nhạc.

Papa là lời kể của một người con khi hồi tưởng lại quá khứ cùng với nỗi nhớ cha da diết. Người cha trong ca khúc đã trải qua biết bao vất vả, khó khăn và cả những giọt nước mắt của sự hy sinh thầm lặng để đem lại cuộc sống ấm no cho gia đình mình.

Có những lúc tưởng như người cha ấy đã gục ngã trước những đắng cay, oan nghiệt của cuộc sống. Nhưng không, ông vẫn luôn mạnh mẽ và vững vàng để nuôi dạy con mình nên người. Papa mang một lời nhắn nhủ rằng: Cha luôn là người vĩ đại nhất và là tấm gương sáng nhất để con cái noi theo.

******

PAPA

Every day my papa would work
To help to make ends meet
To see that we would eat
Keep those shoes upon my feet

Every night my papa would take and
Tuck me in my bed
Kiss me on my head
After all my prayers were said

Growing up with him was easy
Time just flew on by
The years began to fly
He aged and so did I

I could tell that mama wasn’t well
Papa knew and deep down so did she, so did she
When she died, Papa broke down and cried
All he said was, God, why not take me

Every night he sat there sleeping
In his walkin’ chair
He never went upstairs
All because she wasn’t there

Then one day my papa said
Son, I’m proud the way you’ve grown
Make it on your own
Oh, I’ll be ok alone

Every time I kiss my children
Papa’s words ring true
Your children live through you
They’ll grow and leave you, too

I remember every word
My papa used to say
I live that every day
He taught me well that way

Every night, my papa would take me
And tuck me in my bed
Kiss me on my head
All my prayers were said

Every night, my papa would take me
And tuck me in my bed
Tuck me in my bed
All my prayers were said.

******

NGƯỜI CHA DẤU YÊU

Tại sao phải đợi đến Ngày Của Cha?

Vì ngày đó, ta mới được nghỉ? Vì ngày đó, ta mới rảnh rỗi để mua quà? Vì ngày đó, nếu không thăm cha, nếu không có quà cho cha, cha sẽ buồn?

Không cần rình rang, không cần lớn lao, to tát chi. Lâu lâu, đôi, ba ngày, một cuộc gọi, một tin nhắn, ba khỏe không ba? Thấy gì ngon, thấy gì hay, thấy gì cha thường thích, ghé mua, tạt qua về nhà, gõ cửa phòng cha, đưa món quà, hỏi, đúng ý ba hơm ba? Rồi nhận lại từ ba một cái gật đầu. Nhận lại từ ba ngón tay cái đưa lên. Thấy lòng rộn vui xiết bao.

Là mình vui.

Không ai có thể đoán trước được điều gì. Nên cố gắng đừng hẹn với lòng mình, đừng tặc lưỡi một cái, thôi cuối tháng này, thôi cuối tuần này, dzìa nhà thăm ba cũng được mà.

Có ai đó nói nhỉ, hãy sống như bạn sẽ chết ngày mai, à, ông Mahatma Gandhi. Thì bây giờ, sửa lại chút, hãy cứ đối xử với cha mình, người thân mình, như thể, họ chỉ còn hôm nay để sống.

Ưu tiên cho ba, thời gian và tình cảm, chuyện đó dễ thương xiết bao. Và nhớ nữa, những lời ba dặn: Con trai à, cha tự hào vì con đã khôn lớn. Hãy bước ra và làm chủ cuộc đời của riêng con. Đừng lo cho cha, cha ở một mình ổn mà. Con cái con mới là cuộc sống của con.

Hãy sống như thế, mỗi ngày, và.

MÃI KHẮC GHI TRONG TIM LỜI KHUYÊN CỦA NGƯỜI!

Sài Gòn 16.06.2024
Phạm Hiền Mây

 

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

NGUYỄN THIÊN NGA: Từ Bài Thơ Cùng Tuổi Với Tôi

11/06/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Từ Bài Thơ Cùng Tuổi Với Tôi

NGUYỄN THIÊN NGA

Trên kệ sách của mình, tôi đang chỉ có trên mười đầu sách của Nhà Thơ – Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Trong đó có một cuốn tôi mới được bạn tặng và có chữ ký của chính tác giả, đó là tác phẩm “Áo Xưa Dù Nhàu…”, xuất bản năm 2022. So với số lượng trên 60 đầu sách của ông ở nhiều thể loại tùy bút, tản văn, Y học, Phật học, Thiền học… thì số sách tôi đang có còn quá khiêm tốn.

Tôi có thói quen đọc sách nên luôn mải mê với từng tác phẩm mình đã có trong tay hoặc đi mượn bạn bè. Tuy nhiên có một tác phẩm của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc mà tôi đọc rất nhiều lần, đó là “Thư Gửi Người Bận Rộn”, NXB Văn Nghệ TP.HCM xuất bản 2005.

Lẽ nào tôi là một trong nhiều người bận rộn nên thích đọc “Thư Gửi Người Bận Rộn” (?)

Cũng có thể lắm chứ!

Cuốn sách này tập hợp 60 bài viết – 60 bức thư thật dễ thương tác giả gửi những người bận rộn. Giọng văn dí dỏm, giàu cảm xúc đan xen nhiều kiến thức y khoa của Đông – Tây khiến người đọc cảm thấy nhẹ nhàng, thú vị. Con số 60 cũng gợi nhớ đến 60 bức thư trong cuốn “Thư Gửi Người Đàn Bà Không Quen Biết” của André Maurois – Dịch giả Nguyễn Hiến Lê (điều này đã được bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc nhắc đến một cách hóm hỉnh trong bài viết thứ 61, tôi hiểu đó như thay lời Bạt của “Thư Gửi Người Bận Rộn”).

Tôi dừng mắt nhiều lần hơn ở bức thư cuối cùng: “Về Một Bài Thơ”. Trong đó, tác giả nhắc trọn vẹn “Thư Cho Bé Sơ Sinh”, bài thơ được viết vội sau ca trực đỡ sanh đầu tiên của mình vào một đêm năm 1965. Vốn cũng là “bé sơ sinh” vào cùng năm ấy, tôi bây giờ đã… sắp già, hóa thân vào bạn ấy ngấu nghiến một lần nữa bức thư bác sĩ gửi và cảm xúc luôn dâng trào.

 

Thư Cho Bé Sơ Sinh

 

Khi em cất tiếng khóc chào đời
Anh đại diện đời chào em bằng nụ cười
Lớn lên nhớ đừng hỏi tại sao có kẻ cười người khóc
Trong cùng một cảnh ngộ nghe em!


Anh nhỏ vào mắt em thứ thuốc màu nâu
Nói là để ngừa đau mắt
Ngay lúc đó em đã không nhìn đời qua mắt thực
Nhớ đừng hỏi vì sao đời tối đen!

Khi anh cắt rún cho em
Anh đã xin lỗi chân thành rồi đó nhé
Vì từ nay em đã phải cô đơn
Em đã phải xa địa đàng lòng mẹ…


Em là gái là trai anh chẳng quan tâm
Nhưng khi em biết thẹn thùng
Sẽ biết thế nào là nước mắt trong đêm
Khi tình yêu tìm đến!


Anh đã không quên buộc étiquette vào tay em
Em được dán nhãn hiệu từ giây phút ấy
Nhớ đừng tự hỏi tôi là ai khi lớn khôn
Cũng đừng ngạc nhiên sao đời nhiều nhãn hiệu!


Khi em mở mắt ngỡ ngàng nhìn anh
Anh cũng ngỡ ngàng nhìn qua khung kính cửa
Một ngày đã thức giấc với vội vàng với hoang mang
Với những danh từ đao to búa lớn
Để bịp lừa để đổ máu đó em…


Thôi trân trọng chào em
Mời em nhập cuộc
Chúng mình cùng chung
Số phận… Con người…

Đỗ Hồng Ngọc (Bệnh viện Từ Dũ, Sài Gòn 1965)

 

***

 

“Bé sơ sinh” trong bài thơ được sinh ra ở bệnh viện Từ Dũ, Sài Gòn. Còn tôi, cũng năm 1965 ấy, tôi ra đời tại nhà Bảo sanh cô Nhung, gần cuối con đường Đào Duy Từ, Đà Lạt. Cùng một khoảng thời gian, khác về không gian, nhưng những bé sơ sinh chúng tôi đều chào cuộc đời bằng tiếng khóc, hòa vào chuỗi âm thanh buồn của chiến tranh.

Anh nhỏ vào mắt em thứ thuốc màu nâu
Nói là để ngừa đau mắt
Ngay lúc đó em đã không nhìn đời qua mắt thực
Nhớ đừng hỏi vì sao đời tối đen!

Có một sự hồi tưởng nhẹ nhàng về các câu hát của nhạc sĩ Xuân Hồng trong ca khúc “Đôi Mắt”:

Mẹ cho em đôi mắt tuyệt vời

Để nhìn đời, nhìn rõ đục trong

Thôi thì, “thứ thuốc màu nâu” mà bác sĩ đã nhỏ vào mắt dù ngay lúc đó khiến bé “không nhìn đời qua mắt thực”; sau này hy vọng cũng giúp mắt bé sáng hơn để nhìn rõ cuộc đời trong đục.

Bài thơ được tác giả khai thác một cách tinh tế các khía cạnh tương phản của đời sống. Nghe như lời thủ thỉ mà rất thấm, rất sâu. Giật mình nhìn lại, sau bao nhiêu năm nhập cuộc, tôi có bớt ngỡ ngàng, thôi vội vàng, ít hoang mang (?). Chiến tranh đã lùi xa nhưng chưa mất dấu. Cả những cuộc chiến không bom rơi đạn nổ mà tan nát, đau xé lòng từng năm tháng này qua năm tháng khác.

 

Từ bài thơ bằng tuổi của tôi, tôi tìm đọc những bài thơ khác của cùng tác giả. Những bài thơ ngắn, rất ngắn, súc tích và mang đến cho tôi thật nhiều cảm xúc.

Đó là sự thương yêu dịu dàng, tưởng nhớ “Nụ Cười Của Mẹ” khi Mẹ đã đi xa:

 Lúc tủm tỉm,

 lúc chế giễu,

lúc mỉa mai,

lúc chua chát,

lúc thứ tha,

lúc trách mắng…

hay ngậm ngùi, tiếc nhớ về đứa con gái bé bỏng, ra đi còn quá trẻ:

Mỗi năm

Mỗi người

Thêm một tuổi

Chỉ mình con

Mãi mãi

Tuổi đôi mươi…

(La Ngà 3 -1990)

Có khi là sự đồng cảm, bùi ngùi khi vào “Trong Một Nhà Giữ Lão Ở Montreal”. Đó cũng có thể là hình ảnh của mỗi chúng ta sau này:

Mới hôm qua thôi
Nào vương
Nào tướng
Nào tài tử
Nào giai nhân
Ngựa xe
Võng lọng

…

Họ ngồi đó
Không nói năng
Không nghe ngóng
Gục đầu
Ngửa cổ
Móm sọm
Nhăn nheo

Bài thơ “Rùng Mình” gây xúc động cho nhiều người. Những câu thơ là những câu hỏi không lời đáp, cả sự rùng mình giận dữ khi thiên nhiên bị săn đuổi, hủy diệt đến tận cùng:

Người rùng mình hỏi vì sao động đất sóng thần cứ triền miên
hết ngày này sang ngày khác?
…

Trái đất cũng đang rùng mình tự hỏi vì sao
những ngọn núi cứ triền miên đổ sập?
vì sao những dòng sông nghẽn tắt?
vì sao những mũi đao cứ ngày đêm xoáy sâu vào lòng đất?
vì sao chim rừng cá biển không chốn nương thân
vì sao cổ thụ mầm xanh bị tận diệt
vì sao lúa bắp phải cấy ghép gen người?…
vì sao và vì sao?

Và đau đớn, khi mà:

Ta nương tựa vào nhau.
Nay có vẻ đã không còn cần nhau nữa!
Đất rùng mình phận đất…
Người rùng mình phận người…

Rùng mình vì lạnh. Cái lạnh buốt khi tình cảm giữa con người và con người với nhau, giữa con người và thiên nhiên, vạn vật đã trở nên quá vô cảm, thờ ơ.

Rùng mình vì sợ hãi. Nỗi sợ hãi khi con người luôn thẳng tay tận diệt tự nhiên, hủy hoại môi trường sống. Nỗi sợ hãi vì những người sống và làm giàu trên mồ hôi, nước mắt của đồng loại một cách thản nhiên. Bao đại án về tham nhũng đang còn đó.

Khủng khiếp quá! Cứ nghĩ về mọi chuyện lại rùng mình.

 

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc còn rất nhiều bài thơ hay. Tôi tình cờ được “thưởng lãm” phác họa con đường Thơ của ông qua ngòi bút nhà văn Phan Chính – Hội Văn Học Nghệ Thuật Bình Thuận. Bài viết “ĐỖ HỒNG NGỌC – Thơ Mãi Với Đời Và Bảng Lảng Trên Những Trang Văn” giúp người đọc hình dung rất rõ nét về người bác sĩ, nhà thơ tài hoa này.

Tôi xin phép trích nguyên đoạn cuối cùng từ bài viết của nhà văn Phan Chính:

“Cuộc hành trình sáng tạo và chia sẻ của Đỗ Nghê/ Đỗ Hồng Ngọc quả là sinh động và đích thực chân dung Đỗ Hồng Ngọc – một người thông tuệ, nặng tình như lời giới thiệu trên đặc san Văn hóa Phật giáo (2021)/ Viên Giác Tùng Thư, Hannover Đức Quốc: “Ngoài vai trò là bác sĩ, nhà giáo ông còn là một nhà thơ, nhà văn nổi tiếng. Ông viết nhiều tác phẩm đa dạng và rất được độc giả yêu thích”.”

***

Nhà báo Hồng Dung trong một lần gặp Bác sĩ, nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc đã nhận xét: “Trò chuyện với ông, sẽ thấy một nhà khoa học nghiêm túc, nhưng dí dỏm và đầy thi vị.”

Tôi thật tiếc là chưa được gặp ông, tuy nhiên tôi cũng đã nhận ra điều đó khi đọc những tác phẩm của ông. Có thể nói rằng, tôi đã có thêm sự hiểu biết nhất định về Y học Đông Tây để chăm sóc gia đình, chăm sóc bản thân; hiểu thêm về Thiền học, Phật học, để rồi có cái nhìn đa chiều, cởi mở hơn và cảm xúc về cuộc sống dày dặn hơn. Tôi có mặt khá thường xuyên trên “Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc”, để đọc, để học, để hiểu và ngưỡng mộ người bác sĩ – văn thi sĩ này vô cùng.

Tôi rất thích sự gắn bó giữa văn thơ Đỗ Hồng Ngọc với âm nhạc Trịnh Công Sơn. Không chỉ là tựa những tác phẩm: “Áo Xưa Dù Nhàu…”, “Gió Heo May Đã Về”, “Về Thu Xếp Lại…”, … mà trong nhiều áng văn của mình, BS Đỗ Hồng Ngọc cũng thường đưa những ca từ của nhạc sĩ họ Trịnh vào một cách tự nhiên, như một cách chuyển ý thật mềm mại, tinh tế. Chính điều này giúp người đọc đọc hoài mà không thấy khô khan, dù bài đó đang nói về một sự kiện vừa diễn ra ở đâu đó hay đơn thuần là kiến thức nói về cách tự bảo vệ sức khỏe.

Đặc biệt, trong tác phẩm “Về Thu Xếp Lại…”, cả 10 chương đều được đặt tên bằng những ca từ thơ mộng, đầy tính triết học và nhân văn của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn – một người tôi vô cùng yêu kính.

Chương 1: Cát Bụi Tuyệt Vời
Chương 2: Tôi Chợt Nhìn Ra Tôi
Chương 3: Về Thu Xếp Lại… Ngày Trong Nếp Ngày
Chương 4: Con Tinh Yêu Thương Vô Tình Chợt Gọi
Chương 5: Người Đã Đến Và Người Sẽ Về Bên Kia Núi
Chương 6: Đôi Khi Thấy Trên Lá Khô Một Dòng Suối
Chương 7: Chìm Dưới Sương Thu Là Một Đóa Thơm Tho
Chương 8: Trên Hai Vai Ta Đôi Vầng Nhật Nguyệt
Chương 9: Trời Cao Đất Rộng Một Mình Tôi Đi
Chương 10: Để Lại Trong Cõi Thiên Thu Hình Dáng Nụ Cười

Cư sĩ Nguyên Giác đã có một bài viết về tác phẩm “Về Thu Xếp Lại…” đăng trên website Thư Viện Hoa Sen vào 04/04/2019. Bài viết phân tích rất sâu, rất hay và thấm; dĩ nhiên, tôi đã đọc nhiều lần.

Từ ngày xưa, cứ sau mỗi lần nghe lại một ca khúc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, ngẫm nghĩ, tôi lại như “ngộ” ra được một điều mới mẻ. Tôi cứ nghĩ, những giai điệu thiết tha, những ca từ khúc chiết thấm đẫm tình yêu thương con người mà phảng phất “hơi thở thiền” của ông, phải chăng là một loại “thánh ca” của một thứ tôn giáo nào đó? Tôn giáo đó, bây giờ – khi ông đã vĩnh biệt chúng ta hai mươi ba năm – khoảng thời gian quá đủ để lắng lại – tôi đã gọi được tên: tôn giáo Tình Yêu Con Người. Và trong thế giới tôn giáo đó, ông là một nhà tiên tri, một người truyền đạo không mệt mỏi, một thiên sứ đi lang thang trong cuộc đời để mặc khải cho mọi tín đồ về khoảnh khắc vô thường, ngắn ngủi của kiếp người, để mong mọi người sống nhân hậu hơn, bao dung hơn và yêu thương nhau hơn…

Cho đến bây giờ, đọc “Về Thu Xếp Lại…” và một số tác phẩm khác của bác sĩ, thi sĩ Đỗ Hồng Ngọc, tôi cũng cảm nhận được nguồn cảm xúc ấm áp tương tự vậy. Có chăng, khác một điều là: tác giả Đỗ Hồng Ngọc vừa là bác sĩ, vừa là nhà thơ nên tác dụng “chữa lành” còn bao hàm cả về Y học nữa. Nếu đọc kỹ, ngẫm ngợi lâu sẽ thấy rất tuyệt diệu.

Ông viết về tuổi già, về bệnh tật, về cả cái chết, nhưng giọng văn không hề bi quan, không chút bối rối, nhiều khi hóm hỉnh dễ thương.

Già ư?

“Già khú” là giai đoạn một, thêm một bước nữa thì gọi là “già khú… đế”. Khú, Từ điển tiếng Việt bảo là “để thâm lại và có mùi hôi”, thí dụ dưa khú, tức là một thứ dưa để lâu quá, sắp hư. “Khú đế” là “vua” của khú đó chăng?

(Chương 2 – Về Thu Xếp Lại)

Chết ư?

Ông viết:

“Lắng nghe hơi thở của mình
Mới hay hơi thở của nghìn năm xưa

 

Một hôm hơi thở tình cờ
Dính vào hạt bụi thành ra của mình

 

Của mình chẳng phải của mình
Thì ra hơi thở của nghìn năm sau”…

 Nói tình cờ chớ chẳng phải tình cờ chi đâu, do duyên, do nghiệp cả đó thôi. Nói cho cùng thì cái thân hơi – hơi thở – kia là của ngàn năm trước, ngàn năm sau, chớ chẳng phải của ta, riêng ta gì đâu. Đừng tưởng bở! Nó đến nó đi vô tình, ngạo nghễ. Nó Như Lai. Không phân biệt.

… Chẳng ai có thể thở giùm ai được đâu. Chẳng ai có thể “thiền” giùm ai được. Cho nên phải quay về nương tựa chính mình “một mình tôi đi, một mình tôi về… với tôi” mà thôi.

(Chương 9 – Về Thu Xếp Lại)

Nhẹ tênh. Lạc quan.

Cư sĩ Nguyên Giác viết rằng:

“Tác phẩm “Về Thu Xếp Lại…” của Đỗ Hồng Ngọc không chỉ để đọc một lần. Sách này có thể nên đưa vào túi xách, nên mang theo bên người để thỉnh thoảng đọc lại. Để không sợ già, không sợ chết, để biết cách đùa giỡn với bệnh, và cũng để biết cách Thiền tập trong những cách tự quan sát thân tâm mình không rời.”

Tôi đã làm như vậy. Cảm giác thật an nhiên.

 

***

Trả lời một bạn đọc Báo Thanh Niên, khi được hỏi:

– Bác sĩ có thể kể về một kỷ niệm sâu sắc nhất trong cuộc đời làm nghề y?

Ông vui vẻ:

– Đó là lúc thực tập đỡ đẻ ở Bệnh viện Từ Dũ, năm 1965. Khi đỡ được ca đầu tiên mẹ tròn con vuông, tôi xúc động viết liền một mạch bài thơ Thư cho bé sơ sinh, sau đó còn chép vào bản phúc trình nộp lên thầy. Thầy rầy: Đỡ đẻ không lo đỡ đẻ, lo làm thơ! Hôm sau đã thấy ai đó viết bài thơ lên bảng đen và được nhiều bạn sinh viên thời đó yêu thích. Còn chú bé sơ sinh của tôi lúc đó nay đã gần 40 tuổi rồi còn gì! Mới thôi!

(Nguồn: Báo Thanh Niên, 07/02/2004)

 

Tôi thấy vô cùng thú vị với điều này.

Dạ thưa bác sĩ, sang năm thôi, chú bé sơ sinh ấy bước vào tuổi “lục thập”, sẽ được liệt kê là người cao tuổi. (Còn với bác sĩ, nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc thì nhẹ nhàng hơn: Già ơi…, chào bạn!)

Tôi – cô bé sơ sinh đồng tuổi với chú bé ấy – dù được gọi là người cao tuổi, đã, đang và sẽ vẫn ngồi bên hiên nhà, sáng sáng chiều chiều đọc văn, thơ của Bác sĩ, thi sĩ Đỗ Nghê – Đỗ Hồng Ngọc.

Cô ấy sẽ mỉm cười thư thái, nhẹ nhàng đọc lại những bức “Thư Gửi Người Bận Rộn” được xuất bản lần đầu còn thơm hoài dấu tay lật từng trang sách; tiếp tục “Về Thu Xếp Lại…” khi ngoài kia nắng gió thời gian ân cần nhắc nhớ: “Già ơi…, Chào Bạn!”.

Chúng tôi luôn cầu mong bác sĩ, thi sĩ Đỗ Hồng Ngọc bình an, khỏe mạnh để tiếp tục được gặp ông trên văn đàn mỗi ngày, để vẫn được đọc những câu thơ “chan hòa, giản dị, như tự bật ra từ trái tim, và khi thấy lòng mình đã lên tiếng vừa đủ, thì thơ ông nhẹ nhàng rút lui hay ẩn mình trong khói sóng”. (Nhà NCVH Huỳnh Như Phương).

Khói sóng màu lam dịu dàng, khiêm tốn và đượm mùi hương Ngọc Lan.

 

Dalat, 3/2024

Nguyễn Thiên Nga

(Ngôn Ngữ, số đặc biệt Đỗ Nghê – Đỗ Hồng Ngọc, tháng 5/2024)

 

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác

ĐỖ NGHÊ, ĐỖ HỒNG NGỌC – BẰNG HỮU & VĂN CHƯƠNG

05/06/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc 1 Bình luận

 

ĐỖ NGHÊ, ĐỖ HỒNG NGỌC – BẰNG HỮU & VĂN CHƯƠNG

Phạm Hiền Mây

 

IB 1_NGON NGU - DO HONG NGOC BB/

MỐI DUYÊN VĂN NGHỆ

1.
Đầu tháng ba, nhà thơ Luân Hoán nhắn tin cho tôi: Mây có thể viết về bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc một bài được không, tạp chí Ngôn Ngữ dự định tháng Năm này, sẽ thực hiện một chuyên đề về ông ấy.

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc ư. Chèn ơi, tôi nói thầm trong bụng, tôi còn lạ gì ông ấy nữa. Ổng là thần tượng của các bà mẹ trẻ chúng tôi thời ấy, với cuốn sách Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng.

Cuốn sách ấy không chỉ là cẩm nang, mà nó còn như tấm lòng của một người mẹ hiền, hướng dẫn một cách tận tình và chu đáo từ lúc mang thai cho đến lúc đủ chín tháng mười ngày, sinh nở, ẵm bồng, bú mớm, nuôi nấng cho đến khi con nhỉnh nhao ba tuổi.

Tôi trả lời anh Luân Hoán, cuối tháng, em gởi bài, anh nha.

Qua hôm sau, anh Luân Hoán nhắn, à, không phải là tháng Năm, mà tháng Ba này, làm số Đỗ Hồng Ngọc luôn. Thế là, tôi vắt giò lên cổ, ngay đêm ấy, bài viết hoàn tất, và tôi chuyển email liền cho anh Luân Hoán.

Chiếc cầu nối thứ nhứt giữa tôi và bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đã hình thành!

******

2.
Đêm qua, tôi nhận email của nhà thơ Trần Vấn Lệ. Ảnh chuyển toàn bộ thư của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc viết, qua cho tôi: Trần Vấn Lệ ui, ông cho tui số điện thoại của Phạm Hiền Mây nhé. Phạm Hiền Mây viết nhận định rất xuất sắc, nhất là về thơ. Mình không có facebook. Bạn cho mình email nữa nhé.

Đây là chiếc cầu nối thứ hai, nối liền mối duyên văn nghệ giữa tôi và bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc.

******

3.
Sáng nay, tôi nhận được tin nhắn trên điện thoại: Gởi Tác Giả Phạm Hiền Mây. Tôi là Đỗ Hồng Ngọc. Tìm mãi mới được số phone này. Tôi không có facebook. Nhờ hai ông bạn là Trần Vấn Lệ và Luân Hoán mới biết Phạm Hiền Mây đó. Làm ơn cho địa chỉ để Grab mang sách Ngôn Ngữ – Đỗ Nghê đến Phạm Hiền Mây nhé. Bài viết tuyệt vời. Chỉ với ba bài thơ Đỗ Nghê mà vẽ nên cả một chân dung. Đa tạ!

Mối giao tình giữa tôi và bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc – một người mà ba mươi năm về trước, tôi thầm biết ơn, nhờ cuốn sách của ông, mà tôi biết cách nuôi trẻ sơ sinh – được bắt đầu từ đây.

Thấy vui vui, thấy cả buồn cười nữa, vì tôi và bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đều ở Việt Nam, vậy mà, biết nhau, phải đi một vòng qua Canada và Hoa Kỳ.

******

II/ ĐỖ NGHÊ, ĐỖ HỒNG NGỌC – BẰNG HỮU VÀ VĂN CHƯƠNG

Cuốn Ngôn Ngữ – Số Đặc Biệt, nặng và dày tới bảy trăm mười bốn trang, được chia làm bốn phần. Gồm:

Phần I: Tác Giả
Phần II: Thơ Đỗ Nghê – Đỗ Hồng Ngọc
Phần III: Văn Đỗ Nghê – Đỗ Hồng Ngọc
Phần IV: Bằng Hữu Viết Về Đỗ Hồng Ngọc

Thư Đầu Sách do nhà thơ Luân Hoán phụ trách. Luân Hoán phụ trách phần này thì khỏi chê rồi. Vì sao tôi nói vậy. Ấy là vì, ngoài việc Luân Hoán là một nhà thơ, một người làm văn nghệ kỳ cựu, kiến thức cũng như kiến văn rộng, thì anh ấy còn là một người làm sách, giới thiệu tác giả, giới thiệu tác phẩm rất chuyên nghiệp, uy tín, được bạn văn và bạn đọc kính trọng, cảm mến, vốn đã từ xưa đến nay.

Trong phạm vi bài viết này, tôi chỉ xin điểm qua phần thơ của tác giả mà thôi.

******

1. TÁC GIẢ

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc là một trí thức đúng nghĩa của cả trước và sau năm 1975. Thuở nhỏ thì đỗ đạt, khoa bảng. Vào đời thì nổi danh. Danh gì ư? Ông là bác sĩ Nhi số một của Sài Gòn trong nhiều thập niên. Bằng cấp và các chức danh của ông, nếu viết ra cho bằng hết, chắc hai trang A4 cũng không đủ.

Y khoa là một môn khoa học. Thế mà ông lại giỏi chữ, mới là lạ lùng, mới là khó tin. Từ những năm 1960, ông đã cộng tác với các báo và tạp chí uy tín, lừng lẫy thời bấy giờ, tại miền Nam. Những nhật báo và tạp chí, mà nhiều người viết mong tên mình được một lần, ghi lên trang bìa.

Tôi đếm không hết được những sách đã xuất bản của ông, về thơ, về văn, tùy bút, tạp bút và các sách y học phổ cập cũng như các sách về Phật học. Tôi đồ chừng, số sách ấy, nếu để lên bàn cân, chắc là sẽ ngang với trọng lượng nửa tạ của tôi.

******

Trong cuộc trò chuyện giữa ông với Ngô Nguyên Nghiễm, tôi thích câu này của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc: Thơ, bản chất đã là nhân bản, dù được thể hiện dưới hình thức này hay hình thức khác, ở thời đại này hay thời đại khác.
Người ta đẻ ra mà tĩnh, ấy là tính Giời cho nguyên như thế, cảm ở vật ngoài mà động, thời ấy mới là sự muốn của tính. Đã có muốn, thời phải có nghĩ. Đã có nghĩ, thời phải có nói. Đã có nói, thời những cái ý nhị không thể nói hết ra được mà hình hiện ở trong lúc ngậm ngùi, ngợi than, tự nhiên tất phải có những giọng điệu, cung bậc, như không thôi đi được. Ấy tại thế mà sinh ra có thơ.
Chu Hy đã viết như vậy, gần ngàn năm trước, trong Bài tựa tập truyện Kinh Thi, khi có người hỏi ông: Thơ tại sao mà làm ra? (Tản Đà dịch).
Như Không Thôi Đi Được, bạn thấy không? Những người làm thơ trên cõi nhân gian đều vậy đó – Như Không Thôi Đi Được!

******

Trong trò chuyện giữa ông với Trần Thị Nguyệt Mai, tôi lưu ý một đoạn, kể rằng, đã mười hai tuổi, mà ông vẫn chưa được đến trường, thì thời ấy chiến tranh mà, cứ chạy tới chạy lui, tránh đạn tránh bom, cũng nuốt hết thời gian sống. Cậu ông là nhà thơ Nguyễn Ngu Í (nhà thơ này, tôi đã muốn viết giới thiệu từ rất lâu, nhưng không đủ tư liệu), bèn dắt ông đến trường tiểu học của một người bạn thân, gởi học miễn phí. Họ xếp ông vào học lớp Ba; vài tháng sau, cho lên lớp Nhì; vài tháng nữa, cho lên lớp Nhứt luôn. Cuối năm, ông chở phần thưởng dzìa nhà bằng xe xích lô, bị nhiều quá mà. Nghĩ đến hình ảnh đó, thấy dzui thiệt chớ.

Mới nói, những người đặc biệt, kiệt xuất, họ luôn xuất hiện những dị thường, từ lúc tuổi còn thơ.

Vào Đệ Thất, lại tản cư, bỏ học. Tình cờ, ông đọc được cuốn Kim Chỉ Nam Của Học Sinh do học giả Nguyễn Hiến Lê viết, ổng bèn tỉnh bơ, viết thư cho học giả, hỏi ngon lành, chớ con như này, học nhảy nữa, có nên không? Nguyễn Hiến Lê hồi đáp, được, được, đọc thư thôi, tôi cũng đã nhận thấy cháu ngang trình độ với các trò lớp Đệ Tứ rồi.

******

2. THƠ ĐỖ NGHÊ – ĐỖ HỒNG NGỌC

Cuộc đời ông, dành cho Y khoa, nhiều nhứt. Thì chắc chắn rồi, nghề của ông là bác sĩ mà. Lại cộng thêm những công việc liên đới tới bác sĩ như, giảng dạy, nói chuyện, nghiên cứu, viết sách.

Dành thời gian thứ nhì, hẳn là cho việc viết văn xuôi, bao gồm: sách y học phổ cập, tùy bút, tản mạn, tạp văn, thiền, Phật học.

Và cuối cùng, mới là thơ.

Ông làm thơ, tính ra, không nhiều, khi mà số lượng thơ của người ta được tính bằng đơn vị ngàn. Thế mà, dường như, nghiệp thơ lại dành cho ông rất nhiều ưu ái.

Thơ ông thường là những bài thơ ngắn. Không chỉ ngắn về số câu, mà số chữ trong câu, mà số chữ thể hiện trên mỗi dòng cũng ngắn. Nhưng chắt lọc, nhưng không thừa, chữ nào cần có mặt mới được có mặt.

Ông viết đủ các thể thơ: bốn chữ, năm chữ, bảy chữ, tám chữ, lục bát, thơ xuôi.

******

Thơ ông phần lớn, đọc lên, nghe rất mênh mang: Nước vẫn muôn đời / Không đi chẳng đến / Ai người nỡ hỏi / Nước đến từ đâu? Ai người nỡ hỏi / Nước trôi về đâu? (Nước).

Đố bạn vậy chớ, tại sao ông lại dùng từ “nỡ” ở đây, ai người nỡ hỏi? Là vì, nếu hỏi, thì sợ nước buồn. Hỏi, sợ nước đau. Hỏi, sợ nước tủi thân.

Thơ ông đậm chất suy tư, thiền vị: Lắng nghe hơi thở của mình / Mới hay hơi thở đã nghìn năm xưa / Một hôm hơi thở tình cờ / Dính vào hạt bụi thành ra của mình / Của mình chẳng phải của mình / Thì ra hơi thở của nghìn năm sau (Thở).

Và những câu hỏi đặt ra, khiến người đọc cũng thú vị theo. Kiểu như, nhận ra, ừ nhỉ, để làm chi: Tham chẳng còn / Sân cũng hết / Si đã tuyệt / Niết Bàn / Tịch diệt / Để làm chi? (Ngộ)

Hoặc những bài thơ rất đời, rất đúng, nói rất trúng tim gan người ta, nói rất trúng tâm lý cuộc đời. Cái kết thơ, vì vậy, cũng rất đột ngột, và đặc biệt, làm ngẩn tò te: Đừng nói điều hạnh phúc / Chẳng ai tin đâu / Hãy nhắc điều bất hạnh / Ai nấy đều vui. (Niềm Tin)

Có bài, đọc lên nghe rất ngộ, rất thơ, và hay. Câu một, câu hai, câu bốn, sử dụng toàn vần bằng như thơ của Bích Khê: Mưa trên Đông Hồ mưa mênh mông / Tô Châu nghiêng mình nghe mưa giăng / Thuyền câu mấy lá chìm mưa rộng / Ai người xưa mưa trời một phương. (Hà Tiên Mưa)

Phải nói là ông làm thơ chắc tay. Bạn sẽ hỏi tôi, chắc tay là gì. Ờ, thì kiểu như, siêu, ngon lành, đâu ra đó, gọn bâng, tỉnh rụi, và, rất tới: Anh đọc bài thơ tình / Em ngồi nghe lặng thinh / Anh đọc thêm bài nữa / Em vẫn ngồi lặng thinh / Anh thôi không đọc nữa / Em chồm lên hôn anh / Như đổ dầu vào lửa. (Thơ Tình)

******

Hay nhứt vẫn là những bài thơ ông viết cho con gái ông, Đỗ Châu La Ngà. Nỗi đau, đau quá, nên như lận vào bên trong. Nỗi đau, đau quá, nên như bục ngực, vỡ toang ra ngoài. Nỗi đau âm ỉ, không vơi. Nỗi đau cứ thế theo ngày. Nỗi đau cứ thế theo tháng. Nỗi đau cứ thế theo năm.

Hay kế tiếp là những bài thơ ông viết tặng cho một người bạn thơ nào đó, như: Đinh Cường, Trịnh Công Sơn, Trần Hoài Thư, Trần Vấn Lệ.

Nhưng hay và gây một cảm xúc đặc biệt trong tôi là bài thơ, ông viết cho chính ông, thì phải. Ông viết cho chính ông, trong một cơn bạo bệnh, trong một lần đứng trước cửa tử, mà thần chết chê, nên ông được trở lại với gia đình, với người thân, với bạn hữu

XIN CÁM ƠN, CÁM ƠN

Xin cám ơn, cám ơn
Cơn bệnh ngặt nghèo quật ta gục ngã
Như cỏ cây trước cơn bão dữ
Như con thuyền tung hê lên vách núi cao
Cho ta trở về làm con thú hoang sơ
Trần truồng như nhộng
Kẻ cạo đầu người lột da
Kẻ đục sọ người giúp thở
Kẻ đặt ống sonde vào đường tiểu
Người bơm thuốc qua dịch truyền
Cho ta trở về làm con thú trinh nguyên
Cho ta trở về làm em bé sơ sinh
Không lý trí không nghĩ suy không toan tính

Xin cám ơn, cám ơn
Cơn bệnh ngặt nghèo như cơn bão dữ
Bản tin thời tiết chưa kịp loan truyền
Quất qua đời ta cây cỏ
Để khi tỉnh dậy ta nhìn ra em
Nhớ tiếng người này nhìn ra người nọ
Gọi tên người này nhớ mặt người kia
Như đã qua một kiếp khác
Bao năm xa vắng quê nhà!
Nhớ bước chân trâu nhớ giàn bông bí
Nhớ cây khế ngọt nhớ trái dừa xanh
Nhớ tiếng mẹ già nhớ đàn con trẻ
Nhớ người hàng xóm lâu nay còn lạ
Nhớ những người thương nhớ luôn người ghét
Thấy ai cũng tội nghiệp
Như ta
Đã bao lâu ta không sống với mình
Ta có ta mà quên ta phứt.

Xin cám ơn, cám ơn
Cơn bệnh ngặt nghèo quật ta kịp lúc
Cho ta trở lại với mình
Ta muốn ôm hôn tất cả mọi người
Và ôm hôn ta nữa
Cái đầu trọc lóc bình vôi
Hai lỗ thủng và mười tám vết khâu từ ái
Ta ngạc nhiên lắng nghe mình thở
Lắng nghe sự sống cục cựa trong mình.

Xin cám ơn, cám ơn
Những cơn đau vật vã toát mồ hôi
Những nhức buốt thiệt thà thú vật
Khi đứng được hai chân như con người
Thật vô cùng hạnh phúc
Khi bước đi những bước con người
Khi còn được nghe được nói
Được cầm cây viết vẽ bâng quơ
Được đọc vài trang báo
Ôi phép lạ nhiệm mầu!
Những hòn sỏi bỗng có linh hồn
Những lá cây đong đưa lạ lẫm
Tiếng chim và ánh nắng
Như đã lâu rồi ta mới gặp nhau
Như đã lâu rồi ta mới quen nhau

Xin cám ơn, cám ơn
Cơn bệnh ngặt nghèo quật ta gục ngã
Cho ta trở về làm con thú trinh nguyên
Cho ta trở về làm em bé sơ sinh
Tràn đầy hạnh phúc
Để ta biết chắc một điều có thực
Tình yêu
Đã giúp ta tìm lại chính mình
Đã giúp ta vượt thoát!
(Bệnh viện AB 12/97)

Ông phải trải qua một cơn bệnh ngặt nghèo, quật ông gục ngã, ông mới tìm lại được chính mình.

Ông phải trải qua một cơn bệnh ngặt nghèo, quật ông gục ngã, thì ông mới có thể vượt thoát, vượt được cửa tử, thoát được cái chết, chỉ tày gang.

Còn tôi, tôi đọc thơ ông xong thì thẫn thờ, ừ nhỉ, đã bao lâu ta không sống với mình, ừ nhỉ, ta có ta mà ta quên phứt.

Bài thơ Xin Cám Ơn, Cám Ơn, dùng chữ không cầu kỳ mà lại vô cùng thành ý; viết tự nhiên như đương nói chuyện mà lại rất đỗi nhạc, rất đỗi thơ. Mới thấy, cái gì xuất phát từ tim, thì sẽ một đường đến thẳng trái tim mà không cần phải dụng bất kỳ một phương thức phức tạp, một kỹ thuật cao siêu nào.

******

III/ KẾT

1.
Giọng thơ của Đỗ Hồng Ngọc chân tình mà ấm áp; thẳng thắn mà dỗ dành, vỗ về. Trải dài suốt bảy trăm trang là rất nhiều những tâm sự và bộc bạch của ông. Tâm sự nào, bộc bạch nào, cũng hay;  cũng ngộ, là ngộ nghĩnh; cũng hết sức có lý có tình. Đến mức, đọc đi đọc lại hai, ba lần rồi, mà vẫn còn muốn đọc nữa, đọc nữa. Là vì, các ý ấy hay quá, đọc thích quá, thậm chí, với tôi, chúng mang ý nghĩa nhiều hơn cả những danh ngôn, những châm ngôn, lãng nhách, lãng xẹt, không hiện thực, mơ hồ, mà tôi hàng ngày thấy đầy rẫy trên trang mạng.

Tỉ dụ: Câu châm ngôn của ông Nguyễn Hiến Lê là “viết để học và học để viết”. Tôi chịu lắm. Chỉ có cách đó mình mới học được nhiều, học được sâu. Tôi bây giờ còn đi dạy và vẫn nghĩ “dạy để học và học để dạy”. Ấy là tôi bắt chước ông Nguyễn Hiến Lê đó.

Tạp Chí Ngôn Ngữ, số đặc biệt về bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, thật sự hay và phong phú. Tôi rất tiếc, vì đã không nói đủ được hết tất cả chuyện hay của sách, trong một bài viết buộc phải giới hạn về độ dài này. Các bạn nếu có thể, mua một cuốn, từ từ đọc. Sách không chỉ nói về một cuộc đời, mà trong đó, chúng ta có thể tìm được, rất nhiều, rất nhiều điều quý giá, tỉ như niềm vui, tỉ như sự san sẻ nỗi buồn, tỉ như giúp chúng ta mở mang hơn về mặt hiểu biết, kiến thức. Tôi tin lắm, như vậy!

******

2.
Dù là tiến sĩ, bác sĩ trưởng khoa hay là thầy dạy trường Y; dù là giám đốc hay từng tu nghiệp tại Harvard – Hoa Kỳ, thì nhà văn, nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc, vẫn là một người vô cùng khiêm cung và bác ái, vẫn là một người vô cùng hiền hòa với tấm lòng yêu thương bao la trước những các cảnh ngộ khổ đau và bất hạnh. Ông bình đẳng và chan hòa, ngay với cả một đứa trẻ sơ sinh vừa mới thoát thai:

Thôi trân trọng chào em
Mời em nhập cuộc
Chúng mình cùng chung
Số phận
Con người.
(Thư Cho Bé Sơ Sinh, 1965 – Đỗ Hồng Ngọc)

******

3.
Năm 1990, Sài Gòn lúc ấy không đông người như bây giờ, nhà nào, cũng thường mua báo xem, không thì ở cơ quan, cũng hay có báo. Tôi nhớ hoài, từng đọc một cái tin, làm rúng động, con gái đầu của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc là Đỗ Châu La Ngà, đột ngột qua đời vì tai nạn xe cộ, trong một chuyến công tác xã hội của trường Y.

Nỗi đau nào mới là nỗi đau lớn? Thiệt là khó để so sánh, bởi vì, nỗi đau nào cũng là những mất mát lớn lao và quá sức chịu đựng của ta.

Con gái mất, Đỗ Hồng Ngọc làm nhiều bài thơ khóc con. Trong đó có một bài, nhan đề là Tình Yêu:

Trước mộ con còn ướt
Ba nói với bạn bè ba rằng
Hãy yêu thương con mình cách khác
Đừng như ba
Giấu kín trong lòng

Bởi tình yêu
Có bao giờ cho đủ
Có đâu sợ dư thừa
Ba đã sai lầm bao nhiêu

Hãy tỏ bày đi
Vồ vập đi
Âu yếm ồn ào đi
Tình yêu
Có bao giờ cho đủ
Có đâu sợ dư thừa

Ba đã sai lầm bao nhiêu
Vì cứ chờ cứ đợi
Có biết đâu
Đời như mây nổi
Như gió thổi
Như chiêm bao
Ơi bài học tự thuở nào
Sao bây giờ mới hiểu

Muốn vồ vập con hôm nay
Muốn âu yếm con mãi mãi
Thì đã muộn rồi
Có bao giờ thừa thãi
Tình yêu?
(Đỗ Hồng Ngọc – 1990)

Đừng nén, đừng giấu sự thương yêu trong lòng. Vì chẳng có lý do nào hợp lý cho việc che đậy những tình yêu thiêng liêng ấy.

Tình yêu, có bao giờ cho đủ?
Tình yêu, có đâu sợ dư thừa?
Tình yêu, sao phải chờ, phải đợi?

Học theo ông, tôi sẽ luôn dặn mình, hãy nói lời yêu thương khi còn có thể.

Bài viết hôm nay, thay cho lòng yêu quý, gởi tặng đến một bậc tài hoa rất mực – bác sĩ, nhà nghiên cứu Đỗ Hồng Ngọc, đồng thời là nhà văn, nhà thơ Đỗ Nghê!

Sài Gòn 05.06.2024
Phạm Hiền Mây

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

Nguyên Giác: Đọc Ngôn Ngữ Số Đặc Biệt về Đỗ Nghê: Khi Đỗ Hồng Ngọc gặp Cao Huy Thuần

28/05/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Đọc Ngôn Ngữ Số Đặc Biệt về Đỗ Nghê: Khi Đỗ Hồng Ngọc gặp Cao Huy Thuần

Nguyên Giác

Đây là một tuyển tập đặc biệt của Tạp chí Ngôn Ngữ, chủ đề về Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc, ấn hành tháng 5 năm 2024. Nhan đề sách còn là “Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc: Bằng Hữu & Văn Chương.” Sách dày 716 trang, bao gồm tiểu sử, thơ và văn xuôi của vị bác sĩ nổi tiếng, khi làm thơ ký tên là Đỗ Nghê và khi viết văn xuôi ký tên thật là Đỗ Hồng Ngọc. Và phần cuối là tác phẩm của hơn 60 nhà văn, nhà phê bình, họa sĩ và nhạc sĩ viết về, vẽ chân dung, phổ thơ Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc. Tất cả các thơ, văn, bài viết trong tuyển tập đều xuất sắc.

B 1_NGON NGU - DO HONG NGOC BB
Bìa sách “Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc: Bằng Hữu & Văn Chương”

Hiển nhiên, có thể hiểu rằng tuyển tập là một món quà văn nghệ lưu niệm được nhóm chủ trương — Luân Hoán, Song Thao, Nguyễn Vy Khanh, Hồ Đình Nghiêm và Lê Hân — ấn hành để trao tặng cho Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc, một nhà thơ hy hữu trong dòng văn học Việt Nam, được nhiều nhạc sĩ phổ thơ và đưa các ca khúc này lên YouTube. Các bài thơ ghi lại trong Tạp Chí Ngôn Ngữ Số Đặc Biệt nằm trong Phần II là trọn tập thơ “Thơ Ngắn Đỗ Nghê.”

Phần III trong tuyển tập là văn xuôi Đỗ Hồng Ngọc, được Chủ biên Luân Hoán nhận xét: “Những bài viết này thường ngắn nhưng cũng xuất sắc như thơ, bởi qua đó những nhận xét tinh tế về cuộc sống, tình người, được ông phơi bày một cách đơn giản, nhưng sâu sắc như những bức ảnh chụp đủ chân tình, giàu dí dỏm. Mỗi tạp ghi là một cảnh sống linh động, chúng ta có cảm tưởng ông thật dồi dào vốn sống đời thường. Ông là một bác sĩ cao tay nghề, một người học Phật uyên thâm lại rất thích truyền đạt hiểu biết của mình theo một cách riêng. Tính ít nói cười nhưng sự nghiêm túc, được tâm hồn phóng khoáng giúp ông chơi thêm một trò vẽ vời nữa, cũng thi vị đậm đà không kém những bộ môn kể trên.” (trang 9)

Trong tuyển tập, tôi chú ý đặc biệt tới bài Đỗ Hồng Ngọc nơi các trang 265-270 có nhan đề “Đọc ‘Im Lặng, Như Lời Chia Tay’ của Cao Huy Thuần.” Hy hữu lắm, trong mắt tôi, họ Đỗ và họ Cao là hai đại cư sĩ đương thời của Phật Giáo Việt Nam. Hy hữu lắm, khi hai ngọn núi khổng lồ của nền văn học Phật Giáo bỗng nhiên ngồi chung một bàn, mời nhau ly cà phê và nói chuyện đạo với đời.

Từng dòng nơi bài viết, tôi đọc và có lúc thấy hiện ra trên mặt giấy hình ảnh hai vị lão niên cư sĩ đang ngồi trong nhà nói chuyện với nhau, và tôi, người đang đọc, y hệt như một kẻ hậu sinh còn đứng ngập ngừng nơi cửa, nhìn vào và lắng nghe. Đỗ Hồng Ngọc và Cao Huy Thuần đều ở tuổi U-90 (nói theo kiểu văn học đương thời tại Việt Nam, tức là dưới 90 tuổi và hơn 80 từ lâu). Cả hai đại cư sĩ ngồi bên nhau trong bài viết, y hệt như 2 cuốn tự điển Phật học xuất hiện bên nhau trên kệ sách, nơi đó, tôi đang nhìn vào và lắng nghe. Nơi đây, Đỗ Hồng Ngọc viết gì về Cao Huy Thuần?

Đỗ Hồng Ngọc viết, nơi trang 265: “Anh Cao Huy Thuần gởi tôi tập Im Lặng, như lời chia tay… dặn để đọc mấy ngày Tết. Tôi nghĩ: chắc là Im Lặng thở dài… đây rồi! “Tôi đang lắng nghe tôi đang lắng nghe im lặng đời mình” (Trịnh Công Sơn)? Nhưng không. Cao Huy Thuần không thở dài! Anh nói về “thiêng liêng” về “chia tay mà không biệt ly của cánh hoa rơi”…” (ngưng trích)

Im lặng, như lời chia tay. Lời chia tay của cánh hoa rơi. Đó là những chữ của Cao Huy Thuần được Đỗ Hồng Ngọc ghi lại. Đó là văn xuôi, và cũng là thơ. Một hình ảnh rất đẹp. Trong khi 2 đại lão cư sĩ hiện ra trên giấy như hai vị cõi Thiên có đại uy lực, với tâm được chế ngự, lặng lẽ nhìn chữ viết trong những ngày cuối đời mình như lời chia tay của cánh hoa rơi, tôi nhớ tới một hình ảnh được nói tới trong Kinh Trường Bộ DN 16, khi trái đất này chấn động sáu cách:

“Lại nữa này Ānanda, có vị Sa-môn hay Bà-la-môn có thần thông, tâm được chế ngự, hay hàng chư Thiên có đại thần thông, có đại uy lực; những vị này quán địa tánh có hạn, quán thủy tánh vô lượng, vị ấy có thể khiến quả đất này rung động, chuyển động mạnh. Đó là nhân thứ hai, duyên thứ hai khiến đại địa chấn động.” (Kinh DN 16, bản dịch của Thầy Minh Châu)

Trong khi Cao Huy Thuần nhìn sự chuyển hóa vô thường như chiêm ngắm một cánh hoa rơi, Đỗ Hồng Ngọc đã nói rõ hơn (than ôi, có những người, kiểu như tôi, cần được tác giả nói rõ hơn) rằng đó là Tử ma, là sự chết:

“Phật dạy có bốn thứ Ma thân thiết với ta. Phiền não ma, Ngũ ấm ma, Thiên ma, Tử ma. Tử ma chính là “thị giả” của ta, gần gũi ta và giúp đỡ ta, gắn với ta từ trong trứng nước. Tưởng là kẻ xấu mà không, hắn rất tử tế, luôn nhắc ta từng chút, nhờ vậy mà ta tránh biết bao tai ương, khổ nạn.

Nhìn lại, có hay không có tái sinh? Có hay không có “kiếp” sau? Có lần khi trò chuyện với Ni sư Trí Hải tôi hỏi một kiếp dài khoảng chừng 10 phút không cô? Cô cười, không trả lời. Có lẽ cô muốn nói… một kiếp dài cỡ một sát-na!” (trang 266)

Có phải một kiếp dài khoảng 10 phút, hay chỉ một sát na, hay là hơn 90 năm? Khi một cánh hoa rơi xuống, có phải những cánh bướm vẫn vỗ bay nơi góc rừng. Tử ma hiện diện khắp cõi này, kể cả trên chiếc lá khô. Nơi đây, hiển nhiên là Đỗ Hồng Ngọc rất mực tâm đắc với dòng văn Cao Huy Thuần khi nói về lá khô, lá rụng, rồi tái sinh thành lá búp, lá non. Trích:

“Im lặng bông hoa nở. Im lặng bông hoa tàn. Hoa rụng, nhưng mỗi cánh hoa rơi, bao nhiêu chân bướm vẫn còn lưu dấu… Đâu là cách chia tay mà không biệt ly? (Im Lặng). Rồi Cao Huy Thuần dẫn bài thơ Feuille morte (lá chết) của Hermann Hess, tác giả Siddhartha (Câu chuyện dòng sông, Phùng Khánh, Phùng Thăng dịch, Saigon 1966). Anh “phát hiện” một điều thú vị: ngôn ngữ Việt không ai nói “lá chết” mà nói “lá khô”, “lá rụng”. Quét lá rụng, quét lá khô, không ai nói quét lá chết như ngôn ngữ Pháp, Đức. Bởi vì, lá không bao giờ chết. Nó khô, nó rụng, rồi nó tái sinh thành lá búp lá non (Im Lặng).” (trang 268)

Có một hình ảnh khác nữa. Đỗ Hồng Ngọc nhắc về hình ảnh trong văn Cao Huy Thuần: hai con sên dự đám tang chiếc lá chết mà lòng tràn đầy hân hoan, hạnh phúc. Nhà thơ họ Đỗ ghi lại, trích:

“Ôi, làm sao hai chú sên đi dự đám tang chiếc lá chết buồn xo giữa mùa thu… mà nay lòng lại tràn đầy hân hoan, hạnh phúc? Ấy bởi vì chúng là sên. Chúng “bò như sên”! Bò hết cả mùa đông, chưa kịp đến nơi mà xuân đã về rồi! “Bao nhiêu lá chết xong/ Tất cả đều lại sống…”
Tiễn mùa thu thì gặp mùa xuân. Tiễn cái chết thì gặp cái sống. Tiễn ảm đạm thì gặp tưng bừng. Hai con sên chia tay mà chẳng biết biệt ly là gì! (Im Lặng)
Cao Huy Thuần nói nhỏ: “chẳng có cả khái niệm”. Phải, chúng chẳng có cả khái niệm. Dĩ nhiên, Cao Huy Thuần đang nói về Kim Cang đó! Khi ta mà biết sống “ly niệm”, khi ta không còn bám chấp vào khái niệm… thì “trí bất đắc hữu vô”, thong dong, tự tại.” (trang 269)

Chúng ta sẽ thấy trong từng trang giấy những phong cách dị biệt giữa hai nhà văn Cao Huy Thuần và Đỗ Hồng Ngọc. Trong khi họ Cao nói về Tử ma với hình ảnh cánh hoa rơi, lá khô, lá rụng… thì ngòi bút họ Đỗ lại chỉ vào hình ảnh thõng tay vào chợ, hiện tướng đùa vui giữa chốn Ta bà. Trích:

“Anh Cao Huy Thuần thân mến, nếu thỉnh thoảng ta mà vào được Tam muội Phổ Hiền, thì ta cũng có thể nhận ra cái “thiêng liêng” đó anh à, cái thiêng liêng từ “vô tướng” – trong Như Lai tạng – bỗng “hiện tướng”… đùa vui giữa chốn Ta-bà đó thôi.” (trang 270)

B 2 NGON NGU_ Do Hong Ngoc_Cao Huy Thuan_Mien Duc Thang
Từ trái: Đỗ Hồng Ngọc, Cao Huy Thuần, Miên Đức Thắng.

Nhìn chung, Tuyển tập này có rất nhiều bài để đọc. Và mỗi bài đều có sức lôi cuốn khác nhau. Danh sách các tác giả viết trong tuyển tập về Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc này là: “Ban Mai, Du Tử Lê, Duyên, Đinh Cường, Đinh Trường Chinh, Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc, Đỗ Thị Thanh Nga, Đỗ Trung Quân, Đỗ Trường, Elena Pucillo Truong, Hồ Đình Nghiêm, Hoàng Quốc Bảo, Huỳnh Như Phương, Huỳnh Ngọc Chiến, Khuất Đẩu, Khúc Dương, Lam Điền, Lê Chiều Giang, Lê Ký Thương, Lê Minh Quốc, Lê Ngọc Trác, Lê Uyển Văn, Luân Hoán, Lữ Kiều Thân Trọng Minh, Lương Thư Trung, Minh Lê, Ngân Hà, Ngô Nguyên Nghiễm, Nguyên Cẩn, Nguyên Giác Phan Tấn Hải, Nguyễn An Bình, Nguyễn Đức Tùng, Nguyễn Hậu, Nguyễn Lệ Uyên, Nguyễn Nhật Ánh, Nguyễn Quang Chơn, Nguyễn Thánh Ngã, Nguyễn Thị Khánh Minh, Nguyễn Thị Ngọc Hải, Nguyễn Thị Phương Trinh, Nguyễn Thị Tịnh Thy, Nguyễn Thiên Nga, Nguyễn Xuân Thiệp, Phạm Bảo Kim, Phạm Chu Sa, Phạm Hiền Mây, Phan Chính, Phat’s Blog, Tâm Nhiên, Thu Thủy, Thy Ngọc, Tô Thẩm Huy, Trần Hoài Thư, Trần Thị Nguyệt Mai, Trần Vấn Lệ, Trang Châu, Trịnh Công Sơn, Trịnh Y Thư, Trương Đình Uyên, Trương Trọng Hoàng, Vĩnh Điện, Võ Tá Hân, Ý Nhi.”

Nguyên Giác

(Nguồn: tranthinguyetmai wordpress 27.5.2024)

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Trịnh Y Thư: Cảm nhận nhân đọc “thơ ngắn đỗ nghê”

17/05/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Cảm nhận nhân đọc “thơ ngắn đỗ nghê”

Trịnh Y Thư

 

1.

Tôi thích đọc “thơ ngắn” của Đỗ Nghê. Những bài thơ “ý tại ngôn ngoại,” đọc đi đọc lại, mỗi lần đọc đều nhận ra thêm một cái gì mới, khác, mở ra những chiều kích bát ngát hương thơm. Hãy giở trang đầu tiên của tập thơ, bài Trái đất, cả bài thơ chỉ có vẻn vẹn sáu từ:

 

Giữa đêm

Thức giấc

Giữa ngày…

Boston, 1993

 

Từ chìa khóa để hiểu bài thơ là “Boston,” mặc dù nó chỉ là phụ chú cho bài thơ. Giữa đêm thức giấc, bên kia nửa vòng trái đất là giữa ngày, chợt bàng hoàng tỉnh giấc, thao thức nỗi nhớ nhà, chợt thấy cô đơn, ôm nỗi sầu vạn cổ, thấy cái tôi bé nhỏ không một chút trọng lượng lọt thỏm giữa vũ trụ bao la.

Tứ thơ cô đúc, được nén chặt đến cực độ trong sáu từ, đột ngột phóng ra như một tia chớp lóe, để người đọc mặc tình buông ra từ trí tưởng của mình những cảm xúc bát ngát diệu kỳ.

Trên bước đường lữ thứ của cuộc hành trình đời người, chúng ta ắt hẳn phải có lúc cảm thấy cùng một tâm trạng với bài thơ. Bài thơ chỉ có sáu từ sao lại có sức mạnh truyền tải cảm xúc mạnh mẽ đến thế!

Ý thức rất rõ về sự hữu hạn của vật thể hữu hình và tính vô thường của kiếp nhân sinh, thơ Đỗ Nghê chuyển hóa bi kịch đời sống thành những cung bậc cảm xúc đẹp buồn, trữ tình. Những dấu vết của đau thương, tan rã, chia lìa gần như được xóa nhòa để cái đẹp – dù là cái đẹp bi ai – thăng hoa thành nghệ thuật, và sau cùng đạt đến cõi như nhiên, tĩnh tại.

Từ nỗi đau xót như nhát dao cứa sâu vào da thịt:

 

Mỗi năm

Mỗi người

Thêm một tuổi

Chỉ mình con

Mãi mãi

Tuổi đôi mươi…

(La Ngà 3)

 

Nỗi đau xót ấy, như được sưởi ấm bằng những đốm lửa yêu thương, biến thành nỗi buồn man mác nhưng dịu ngọt:

 

Con cài bông hoa trắng

Dành cho mẹ đóa hồng

Mẹ nhớ gài lên ngực

Ngoại chờ bên kia sông…

(Bông hồng cho mẹ)

 

Những câu thơ đẹp, vì được kết tinh một cách ưu ái và trang trọng từ trái tim, từ trái tim người làm thơ sang thẳng trái tim người đọc, không cần qua một lăng kính hay một bộ phận chắt lọc nào. Nếu những cụm từ như “bông hoa trắng,” “đóa hồng” được dùng như một hoán dụ, thì hoán dụ ấy cũng chẳng thể ngăn cản cảm xúc dạt dào dâng lên như sóng vỗ tràn bờ. Thực chất, thơ Đỗ Nghê ít sử dụng ẩn dụ hoặc hoán dụ, mà phần nhiều là những câu nói (vâng, thơ là tiếng nói, tiếng nói tinh tuyền nhất) rất đơn sơ, rất thật và rất đậm tính người.

Có gì “người” hơn những câu thơ này?

 

Mùa xuân mừng tuổi thơm tho áo

Nắng cũng vàng phai ngày cũng xa

Anh thương nhớ quá làm sao nói

Gọi tên em vang động gốc cây già…

(Quê nhà)

 

Nó là tiếng kêu của muôn loài sống trên mặt đất, tiếng chim gọi nhau buổi ngày nắng tắt trên đầu non, tiếng kêu trầm thống của loài cá voi dưới mặt nước đại dương sâu thẳm. Nó là chất keo sơn giữ cho cuộc sống này bền chặt. Không có nó, thế giới vỡ tung mất thôi, và có vẻ như nó đang vỡ thật. Một mai nếu để mất nó, chúng ta sẽ rơi vào hố thẳm tuyệt vọng, vô phương cứu vãn, và linh hồn chúng ta sẽ mãi mãi trầm luân trong cõi huyền tẫn mịt mù, không ai có thể chuộc tội cho chúng ta, ngay cả người đóng đinh trên núi Sọ.

Vâng, tôi xin bắt chước nhà thơ, ngày xuân “gọi tên em vang động gốc cây già.”

 

2.

 

“Nước”, “sóng”, “sông”, “biển” là những thi ảnh xuất hiện nhiều trong thơ Đỗ Nghê. Trong bài thơ Nước – gồm 20 câu, một trong những bài thơ dài toàn tập thơ – thi sĩ vẽ hành trình của nước len lỏi qua nghìn dặm nẻo đường núi non sông lạch, thậm chí “từ cơn gió thoảng, từ làn mây trôi,” chỉ để bâng khuâng buông ra một suy nghiệm có tính siêu hình:

 

Nước vẫn muôn đời

Không đi chẳng đến

Ai người nỡ hỏi

Nước đến từ đâu?

Ai người nỡ hỏi

Nước trôi về đâu?…

 

Nước, trong ngữ cảnh bài thơ, là một hoán dụ ám chỉ khái niệm Duyên khởi và tính Không trong Phật giáo. Nước “không đi chẳng đến,” phải chăng ám chỉ khái niệm “vô thỉ vô chung” vốn chủ yếu liên quan đến sự hiểu biết về thời gian, sự tồn tại và quan hệ nhân quả.

Duyên khởi khẳng định rằng mọi hiện tượng phát sinh đều phụ thuộc vào các hiện tượng khác. Nó mô tả một chuỗi nhân quả, trong đó mỗi mắt xích phụ thuộc vào mắt xích trước đó, dẫn đến sự phát sinh của các hiện tượng tiếp theo. Theo quan điểm này, không có điểm bắt đầu hay điểm kết thúc biệt lập, độc lập đối với bất cứ điều gì trong chu kỳ tồn tại. Mọi thứ đều có mối liên hệ với nhau và phụ thuộc lẫn nhau.

Còn khái niệm tính Không thì nhấn mạnh đến sự thiếu vắng của bản chất nội tại cố hữu của sự vật. Sự vật không có sự tồn tại cố hữu. Sự tồn tại của chúng phụ thuộc vào các yếu tố khác. Do đó, khởi đầu hay kết thúc của tồn tại trở nên vô nghĩa. Thay vào đó, sự tồn tại trải qua vô tận các chu kỳ lặp đi lặp lại gồm có sáng tạo, hủy diệt và tái sinh (mà ta gọi là luân hồi). Trong những chu kỳ này, không có điểm bắt đầu hay điểm kết thúc cuối cùng.

Nó chính là “nước” của Đỗ Nghê: Không đi chẳng đến.

Theo Tứ Diệu Đế, khổ đau là cố hữu do tham ái và vô minh. Tái sinh được xem là sự tiếp nối của vòng đau khổ này cho đến khi người ta đạt được giải thoát (niết bàn). Theo nghĩa này, tồn tại được xem là không có khởi đầu, với khả năng giải thoát đánh dấu sự kết thúc của vòng tái sinh.

Hiểu được bản chất của “nước” là hiểu được chu kỳ của tồn tại, là hiểu được con đường dẫn ta đến giải thoát. Tôi đồ nhà thơ Đỗ Nghê chỉ muốn nói có bấy nhiêu. Một điều vô cùng giản dị mà sao chẳng mấy ai thực hiện nổi!

Khái niệm “Sắc tức thị không, Không tức thị sắc” còn được thi sĩ nhắc lại trong bài thơ Có không:

 

Tràn vào khắp ngả

Đất trời mênh mông

Nhẹ như không có

Có mà như không…

 

Thơ Đỗ Nghê thấm đẫm mùi Thiền, rất nhiều bài trong tập thơ mang phong vị Thiền học, nhưng nó là cái Thiền giúp ta thong dong đi vào phố chợ, nhập cuộc trần ai, mà lòng an nhiên như đang thảnh thơi dạo bước trên con đường mòn giữa cánh đồng hoa lá:

 

Duyên sinh vô ngã

Ngũ uẩn giai không

Từ đó thong dong

Thõng tay vào chợ…

(Vè thiền tập)

 

Bởi thi sĩ hiểu rõ chân lý sinh diệt của vũ trụ tuần hoàn, từ cát bụi, ta là ta hôm nay, ta là “đất động” hay “sóng thần,” nhưng rồi một ngày nào đó không xa, ta lại trở về cát bụi:

 

Đất động ta cũng động

Sóng thần ta cũng sóng

Giật mình chợt nhớ ra

Vốn xưa ta là đất…

(Đất)

 

3.

 

Một người làm thơ trữ tình như Đỗ Nghê ắt hẳn không thể nào dửng dưng với đất nước quê hương mình. Quê hương của ông là biển, là sông, là hồ, là cát, là cây, là đá, tất cả hòa quyện trầm mặc trong thơ. Các địa danh xa lạ với nhiều người nhưng thân thương với thi nhân, như hòn Bà, đá Ngãnh, được đem vào thơ, tái hiện hoài hoài trong những giấc mơ, hay một ký ức không thể bào mòn.

Tôi đặc biệt yêu thích bài Hội An sớm:

 

Hội An còn ngái ngủ

Mái chùa ôm vầng trăng

Giật mình nghe tiếng chổi

Gà gáy vàng trong sương…

 

Như một khúc Đường thi. Thi ảnh, tuy cổ điển, nhưng đẹp não nùng. Và, chao ơi, tiếng chổi. Sao lại tiếng chổi từ trong sân chùa một cách mơ hồ vọng ra? Sao không là tiếng tụng kinh, tiếng chuông, tiếng mõ vào buổi sớm? Chính sự bất ngờ ấy, đánh động tâm hồn khiến thi nhân giật mình, đã làm tăng thú vị khi đọc bài thơ. Bất ngờ hơn chuyện ông Trương Kế lúc từ Phong Kiều bước xuống thuyền nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn vọng lại. Bài thơ của Đỗ Nghê là bức tranh hiện thực được vẽ bằng bốn câu thơ năm chữ.

Và tiếng gà. À, thì ra ngôi chùa chẳng ở đâu xa mà nằm gần kề một thôn xóm quê nghèo. Nó cho ta cảm giác ám áp, gần gũi, thân thương. Cụm từ “vàng trong sương” là một thủ pháp tu từ mỹ học. Ở đây nó là điểm nhấn như điểm nhấn trong hội họa, để từ đó người đọc thơ có thể vin vào, đoạn phóng chiếu ra tổng thể một cảnh tượng lung linh bóng hình thật đẹp, gồm có cả hình ảnh lẫn ảo ảnh. Hình ảnh là ánh tinh quang nhạt nhòa trong sương sớm. Ảo ảnh là một thôn làng xa xôi rơi rớt trong mớ ký ức ngổn ngang buồn nhớ.

Ngôi chùa ở Hội An của Đỗ Nghê thân quen, gần gũi trong một tâm trạng cảm hoài nhưng một tâm thế u tĩnh, yên bình. Ngôi chùa Hàn Sơn của Trương Kế thì xa lạ, trống vắng trong một cảm giác bất an, mông lung, thậm chí bồn chồn, hoang mang, lạc lõng.

 

4.

 

Tình yêu là đề tài trong thơ của gần như mọi thi sĩ đông tây kim cổ. Tình yêu trong thơ Đỗ Nghê là một thứ tình yêu đằm thắm, nhẹ nhàng. Bạn đừng tìm kiếm những tứ thơ nồng cháy nóng bỏng, khốc liệt trong thơ ông. Ngôn ngữ tình yêu là những nét chấm phá thi vị. Và ý nhị, thâm trầm:

 

Cảm ơn em sợi bạc

Cảm ơn em sợi hung

Cảm ơn em năm tháng

Đã theo già cùng anh.

(Theo già)

 

Hay:

 

Lá chín vàng lá rụng về cội

Em chín vàng chắc rụng về anh…

(Lá)

 

Tôi thích những vần thơ tình nhẹ nhàng của Đỗ Nghê, bởi dù trong xa vắng, tình yêu của thi sĩ vẫn đẹp. Tháng năm trôi qua, đôi khi chạnh lòng nhớ lại kèm theo một chút bùi ngùi thương nhớ:

 

Hoa vàng đã rụng đầy sân vắng

Tình cũng ngùi phai theo tháng năm…

(Cố nhân)

 

Lòng còn vương vấn dù thời gian dâu biển bao mùa đã qua. Chẳng còn gì để nhớ, để thương… Không, hình như vẫn còn… Và chỉ chừng đó thôi đã đủ cho “ta” bồi hồi sung sướng:

 

Trái thông khô rớt vèo chiều tím

May mà còn ánh mắt dao cau…

(Tím)

 

Hình ảnh “bạo liệt” nhất trong thơ Đỗ Nghê là bài sau:

 

Anh đọc bài thơ tình

Em ngồi nghe lặng thinh

Anh đọc thêm bài nữa

Em vẫn ngồi lặng thinh

Anh buồn không đọc nữa

Em chồm lên hôn anh

Như dổ dầu vào lửa…

(Thơ tình)

 

Và, không kém quan trọng, tình yêu trong thơ Đỗ Nghê bao giờ cũng hòa quyện với tình yêu quê hương đất nước, với biển, cát, sóng, trời:

 

Anh… ngoằn ngoèo trên cát

Không ngờ mà hóa tên em

Biển xanh nắng vàng sóng bạc

Không ngờ cùng kéo đến xem…

 

Tình yêu trong thơ Đỗ Nghê là thứ tình yêu phổ quát, đẹp muôn đời, đáng ca tụng mãi mãi, thế hệ nào cũng có thể liên kết cá thể mình vào được. Ngôn ngữ ca ngợi tình yêu của thi sĩ giản dị, chân thành, biểu hiệu một tấm lòng thương quý dành cho món quà quý giá nhất Thượng đế ban cho loài người. Một món quà như thế mà hình như chúng ta đang đánh mất nó, đang để nó vuột khỏi tầm tay. Một mai không còn tình yêu nữa, chúng ta sống vô cảm, vô tính như một robot AI hay một con người văn minh, chỉ biết có khoái lạc nhục dục và soma gây mê, như Aldous Huxley miêu tả trong cuốn tiểu thuyết Brave New World của ông, thì liệu lúc đó con người có còn là con người nữa không? Đọc thơ tình Đỗ Nghê để giữ gìn, trân quý món quà Trời cho đó, xin bạn đừng bao giờ đánh mất.

 

5.

 

Ngôn ngữ thơ của Đỗ Nghê, nói chung, mang phong cách truyền thống. Cấu trúc và thi pháp cổ điển. Bởi thế, nhạc tính và cú điệu trong thơ du dương, trầm lắng.  Đêm trên biển Lagi là một bài thơ với niêm luật chỉn chu theo đúng tinh thần Đường thi. Ông không tìm kiếm sự cách tân trong thơ mình. Kỹ thuật được ưa chuộng bởi các nhà thơ cách tân, như thủ pháp đặt cặp phạm trù/ thi ảnh tréo ngoe liền kề, không hề thấy trong suốt thi tập. Chữ nghĩa ông thâm trầm, dung dị. Ông không nệ chữ, không chuộng sử dụng những từ lạ, hoa mỹ, không vắt dòng vô cớ, không tra tấn người đọc bằng những ký hiệu rối rắm, ngớ ngẩn. Nhưng chữ nghĩa của ông là thứ chữ nghĩa có trọng lượng và buộc người đọc thơ phải suy ngẫm, liên tưởng, để trèo từ tầng chữ nghĩa lên tầng cảm xúc của thơ, để khám phá, để đắm chìm vào những khung trời, trong đó tâm hồn mình được vuốt ve, yên ủi.

Tuy vậy, đó không phải loại thơ “khẩu khí” vốn đè nặng thi ca Việt Nam suốt mấy trăm năm qua và phần nào tiếp diễn cho đến ngày hôm nay. Thơ ông là tiếng nói, tiếng nói thầm thì nhưng trong veo và có sức mạnh chuyển tải cảm xúc, biểu hiệu cho một tâm hồn thơ giàu suy cảm.

Có thể có kẻ thấy thiếu vắng một ý thức lịch sử, xã hội hay chính trị trong thơ Đỗ Nghê, thiếu cả những thao thức, khao khát nội tâm, do đó, họ biện biệt, thơ thiếu chất sống, không tiếp cận với đời sống con người, thân phận con người, vốn là cơ bản cho tất cả các thao tác văn học nói chung, thơ nói riêng.

Tôi phản bác lập luận này. Đồng ý, thơ phải có một “đời sống thơ,” nhưng đời sống ấy không phải sinh ra để gồng gánh những trọng trách như minh họa kỷ nguyên lịch sử, miêu tả xã hội, bảo vệ ý thức hệ – dù là một ý thức hệ tốt đẹp – như Milan Kundera từng phát biểu nhiều lần. Mượn lời Kundera, tôi có thể nói là, thay vào đó, thơ tự cho nó một nhiệm vụ nói lên những điều “chỉ thơ mới nói được.” Ngôi nhà chữ nghĩa của thơ vốn ảo diệu, khó vào, thông thường chỉ mở lối cho người đọc thơ đi vào bằng con đường trực cảm hoặc linh cảm, thậm chí thần cảm. Khoác chiếc áo sứ mệnh nặng khôn kham lên thơ chỉ làm thơ thêm tội nghiệp và giết chết thơ.

Ý thức rất rõ về điều đó, nhà thơ Đỗ Nghê đã không khoác chiếc áo sứ mệnh lên thơ mình.

Nhưng “đời sống thơ” trong thơ Đỗ Nghê là gì, và ta phải hiểu như thế nào?

Nhờ thấm đẫm Thiền vị, như đã nói bên trên, thơ Đỗ Nghê thắt buộc sự hiện hữu của con người vào thế giới xung quanh, và quan trọng hơn, tìm ra được quan hệ hài hòa giữa sự hiện hữu ấy với thế giới. Con người và thế giới không là chủ thể-khách thể như được hiểu theo ý nghĩa triết học cổ điển, mà là một tương tác giao thoa. Triết học Hiện sinh đặt vấn nạn chúng ta bị ném ra ngoài thế gian này mà không biết tại sao. Chúng ta giống nhân vật thần thoại Hy Lạp Sisyphus, bị kết án vĩnh viễn lăn tảng đá lên đỉnh núi chỉ để nhìn nó lăn xuống lần nữa. Thơ Đỗ Nghê không thắc mắc chuyện đó. Thơ ông cho ta thấy khả năng con người nhận thức được thực tế của hiện tồn, để từ đó biết trực diện với khổ đau và cái chết, đối đầu với những thách đố của đời sống dựa trên sự thông hiểu sâu sắc về bản chất của hiện tồn.

Nhưng không thể gọi thơ Đỗ Nghê là thơ triết học. Đó là thơ. Thơ với tất cả những tố chất cố hữu của thơ. Bởi thơ ông không đưa ra một suy niệm tiên nghiệm nào, và bởi thơ đi thẳng từ trái tim thi nhân vào trái tim người đọc.

Đọc “thơ ngắn đỗ nghê” giữa một thế giới đảo điên như hôm nay, giữa một cuộc sống đầy gian truân, trắc trở, với tôi, là một hạnh phúc.

 

– Trịnh Y Thư

(Ngôn Ngữ số đặc biệt Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc, tháng 5/2024)

 

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

Minh Lê: Đọc và Cảm “Một ngày kia… đến bờ”

15/05/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Đọc và Cảm “Một ngày kia… đến bờ”

Minh Lê

Các tùy bút của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc thường ngắn, dễ hiểu và hấp dẫn như “tiểu thuyết”. Đã đọc là không dừng được. Từ ngữ giản dị, giọng văn thân mật, dí dỏm. Nhưng đừng tưởng bở, tác giả toàn viết kiểu “ý ở ngoài lời”. Đọc lần thứ nhứt, cười ha hả. Đọc lần thứ hai, cười tủm tỉm. Đọc lần thứ ba và thứ n, gật gù “đúng hen!”.

Rồi trong tập mới nhứt “Một ngày kia… đến bờ”, tác giả đổi kiểu viết. Nói chi tiết, cụ thể, tuy giọng văn vẫn rất “Đỗ Hồng Ngọc”. Anh Ngọc viết riêng cuốn này cho bạn bè “cùng một lứa”, những người nhiều kinh nghiệm sống và có hiểu biết về Phật pháp, nên với những người còn đang “bận rộn” và những người vừa mới “gió heo may đã về”, đoc vô rất dễ “tẩu hỏa nhập ma”.

Biết mình chưa đủ trình để hiểu, tôi thử cảm bằng… trái tim. Cảm nhận luôn chủ quan, nếu có chỗ nào sai mong Anh Ngọc sẽ cười tha thứ.

Trịnh Công Sơn viết trong bài “Phôi pha”: “Về ngồi trong những ngày, nhìn từng hôm nắng ngời, nhìn từng khi mưa bay”. Để thấy được vẻ đẹp của nắng, của mưa thì tâm ta phải bình an, không chộn rộn với suy tính, lo âu. Ai sống mà không suy tính, lo âu? Anh Ngọc dặn: “Khi thấy những ý tưởng nọ kia xuất hiện cũng là chuyện bình thường thôi. Cứ để tự nhiên. Nó đến rồi nó đi.” (tr. 89 – 90) Không thèm nghĩ nữa, cho hết mấy thứ “sinh sự” đó đi rồi thì lòng ta nhẹ, tha hồ “về lại nơi cuối trời làm mây trôi”.

Có người hỏi, nó cứ dính mắc hoài, làm sao buông? Vì cái hiểu “đủ duyên thì hiện, hết duyên thì tan” có thể vô đầu ta mà chưa vô được trái tim ta. Ta không chịu chấp nhận “chuyện phải tới nó sẽ tới”, rằng không phải lúc nào nắng cũng hay, mưa cũng đẹp. Anh Ngọc giải cứu liền: “Chẳng vì ta mà hoa nở, hoa tàn. Chẳng vì ta mà gió mát trăng thanh. Nhưng ta biết thưởng thức. Ta enjoy cuộc sống của mình trong từng giây phút.” (tr. 43) Nếu lúc nào ta cũng biết thưởng thức và “cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy” thì ta sẽ “ung dung, tự tại, an nhiên” (tr. 43).

Nhưng chừng đó chưa đủ. Câu hỏi “ta là ai, tại sao ta sinh ra và khi chết sẽ đi về đâu” vẫn còn ám ảnh. Cả vũ trụ này là một khối năng lượng, và định luật bảo toàn năng lượng đã được các nhà khoa học khẳng định từ lâu: “Không có năng lượng nào tự sinh ra hay mất đi, chúng chỉ thay đổi từ dạng này qua dạng khác”.

Ai làm chủ sự thay đổi đó? “Stephen Hawking bảo chắc chắn phải có một design, một thiết kế vĩ đại từ trong con virus đến khủng long… nhưng không có designer, không có nhà thiết kế. Nhưng tôi tin có một cái gì đó, gọi bằng tên gì cũng được, tạo ra cái trò chơi này và ngắm nghía thú vị.” (tr. 13) Cái “trò chơi” này, nói nôm na là game, nó vô cùng vô tận, nên chúng ta, người chơi game, cũng sẽ chơi dài dài.

Mục đích của game là Chân – Thiện – Mỹ, level của thế gian là đạt thành Phật, thành Phật rồi sẽ được “chơi” cấp cao hơn. Tuy vậy có những vị Phật và Bồ Tát muốn giúp chúng sinh mau lên level, nên chịu khó dạy bảo, dẫn dắt như đàn anh trong game chỉ cho đàn em cách đánh quái vật. Và khi đàn em thua hoài thì được an ủi: “Phật cười: Ta là Phật đã thành, Ông là Phật sẽ thành!” (tr. 47) Hồi nhỏ dù ta học dốt tới đâu mà có một thầy cô tin tưởng khuyến khích, chắc chắn ta sẽ gắng học và trở nên giỏi hơn. Phật biết rõ điều đó!

“Ai nói gì không biết chớ tôi tin có kiếp trước kiếp sau. Phải có, mới tạo được sự công bằng, hoàn hảo chứ!” (tr. 105) Rốt cuộc ta là ai? Ta là một khối năng lượng có ý thức, nhờ duyên mà mượn thân xác kiếp này để học những gì cần học, học chưa xong ta lại sang kiếp sau học tiếp. Sau mỗi lần “ngủm” trong game, ta lại hồi sinh với nhiều kinh nghiệm hơn, có khả năng tới gần đích hơn. Một ngày nào đó trong tương lai, ta sẽ đạt tới level của Phật.

Vậy có gì đâu mà buồn mà sợ? Anh Ngọc nói không chỉ cần sống vui (well-being) mà còn cần chết vui (well-dying). Biết cái chết là tất yếu, nên sống hết mình từng giây phút để không tiếc nuối khi cái chết đến – đó là “chết vui”. Biết sống vui thì ta sẽ dễ dàng “chết vui”, ngược lại ngộ ra “chết vui” thì sống vui đâu có khó.

“Một ngày kia đến bờ, đời người như gió qua.” Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc luôn là cơn gió nồm nam mát rượi thổi bay sự oi bức trong đầu và trong lòng người đọc. Mọi thứ rồi sẽ “phôi pha”, nhưng những lời khai ngộ của Anh còn được nhớ hoài, như “bàn chân ai bước nhẹ, tựa hồn những năm xưa”.

Minh Lê

(Nha Trang, 05/2024)

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống

Thư gởi bạn xa xôi: Khoẻ Để Tu

01/05/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc 2 Bình luận

 

Thư gởi bạn xa xôi (04/24)

Khoẻ Để Tu

 

Thân gởi bạn,

Gởi bạn một clip nhỏ, do em Quyền vừa mới làm xong.

Đó là buổi Trò chuyện thân tình của mình với các Sư cô Thiền Viện Trí Đức Ni tai Long Thành Đồng Nai, ngày 16.04.2024 vừa rồi, theo lời mời của Ni Sư Hạnh Chiếu, Trụ trì.

Mình hỏi, “Nói chuyện gì đây Ni sư?”. Ni sư nói năm xưa bác sĩ đã đến thăm Ni viện, đọc thơ, và hứa sẽ về Trò chuyện với các Sư cô một bữa, ai cũng mong, nhưng vì dịch Covid nên phải huỷ cuộc hẹn. Mình hỏi Ni sư muốn nói về đề tài gì hôm nay. Ni sư cười bảo bác sĩ cứ “ngẫu hứng” Trò chuyện, đề tài gì cũng được, à mà lần này nói về vấn đề sức khoẻ cho các Sư cô đang tu tập thì tốt.

Vì thế mà có cái clip này.

Cảm ơn Ni sư Hạnh Chiếu, các sư cô Thiền Viện Trí Đức Ni, Long Thành

Và riêng cảm ơn Lệ Mai, Thuỷ, Quyền, Hùng và chú Đức.

Thân mến,

ĐHN

 

 

Thuộc chủ đề:Lõm bõm học Phật, Nghĩ từ trái tim, Thiền và Sức khỏe

“Phép lạ là đi trên mặt đất” (tiếp theo)

08/04/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc 1 Bình luận

 

Thư gởi bạn xa xôi (tiếp theo)

“Phép lạ là đi trên mặt đất”

Như đã hứa, mình tiếp tục phần hoạt động “ngoại khoá” của mình để bạn coi cho vui nhe. Cũng xin chia sẻ với vài hình ảnh thôi. Làm biếng quá rồi!

Ngay buổi chiều đầu tiên đến Mũi Né, một vài vị đã đề nghị mình “kể chuyện học Phật”. Sc KN bảo, năm 2008, tại Huế, trong Tuần lễ Văn hoá Phật giáo, Sc có dịp dự, đã được nghe mình trình bày về Thở và Thiền rất ấn tượng.

Chị Nga, một doanh nhân có mặt kể chuyện 40 năm trước đã từng mang con gái 2 tuổi đến mình khám chữa bệnh, mình tiếp ở phòng khách chớ không có phòng mạch, và chỉ dặn cho bé ăn thêm dầu ăn để tăng cường calorie mà không cho thuốc men gì thêm. Vậy mà bé hết suy dinh dưỡng, hết bệnh, nay đã là cô giáo một ngôi trường lớn ở Sài gòn. Hồi đó mình nhớ mỗi khi khám bệnh cho một em bé`thì thường cho các bà mẹ khác bế con đứng sau lưng nghe… lóm. Đây là một phương pháp “giáo dục sức khoẻ” tốt nhất!

“Tiếng lành đồn xa”, sáng hôm sau, đã có buổi “văn nghệ” đặc biệt, khá rôm rả. Sư cô HN tặng mình cuốn “Tình Thầy” và đọc 2 bài thơ trong tập thơ “Đôi Khi” rất hay của Sư cô. Mình “đáp lễ” bằng cách đọc bài thơ “Thư cho bé sơ sinh”, viết từ năm 1965 ở Bệnh viện Từ Dũ, rồi bài “Trong một nhà giữ lão ở Montreal” viết năm 1997 ở Canada, sau cùng là bài Bông hồng cho Mẹ. Lê Bá Thông ôm đàn hát tiếp bài thơ của Đỗ Trung Quân về Mẹ thật cảm động. Rồi một vị sư cũng ôm đàn hát thêm mấy bài nữa. Buổi họp mặt tạm ngừng khi đoàn doanh nhân vừa tụ tập về đến Mũi Né, chuẩn bị cho buổi Khai mạc.

Thấy Pháp Lâm ở Darlak gởi tặng mình bản thư pháp do thầy vừa mới viết xong. Buổi trò chuyện bên lề trên bãi cỏ xanh cùng các bạn trẻ doanh nhân sau khi đi thiền hành về rất vui.

Theo yêu cầu của các bạn trẻ và cả các vị “xuất sĩ” muốn mình đọc bài thơ Mũi Né ngay tại Mũi Né này. Mình nói đây là bài thơ tình, có nên đọc ở đây không?

Càng tốt, sao không!

Vậy là mình đọc. Em có về thăm Mũi Né không? Hình như trời đã sắp vào xuân…

Một cô bé bỗng mở bài hát Mũi Né do nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo phổ nhạc với tiếng hát Thu Vàng…  da diết. Không khí trầm lắng hẳn. Năm nay người có về ăn Tết/ Có ngậm ngùi nghe chút ấu thơ?

Đọc bài thơ Mũi Né ở… Mũi Né.

 

Buổi tối 29.3.2024, trước buổi Toạ Đàm, mấy bạn trẻ còn yêu cầu mình nói vài điều đáng nhớ. Đang ở biển, mình nói về Sóng và Nước. Về “bổn lai vô nhất vật”. “Ta xô biển lại sóng về đâu…?” (TCS). Rồi nói chút về Năng lượng. Về điện. Về thể, tướng và dụng… vì đang ngồi trong quán Bar, đèn sáng trưng!

Trò chuyện với các doanh nhân trẻ (tối 29.3.2024 tại Mũi Né)

Chỉ có vậy. Thôi nhé,

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc

(Saigon 8.4.2024)

Thuộc chủ đề:Ghi chép lang thang, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Uncategorized

“Phép lạ là đi trên mặt đất”

06/04/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

Thư gởi bạn xa xôi (tháng 4. 2024)

“Phép lạ là đi trên mặt đất”

Đó là Khoá Thực hành cho Doanh nhân, lần thứ 6, tổ chức tại Mũi Né, Phan Thiết, do CLB Doanh Nhân Saigon phối hợp với các Sư Thầy Sư Cô Làng Mai từ nhiều nơi về hướng dẫn… Có các vị từ Pháp, từ Thái Lan, từ Huế, từ Ban Mê Thuộc, từ Cam Ranh, từ Đồng Nai… với hơn 20 vị và với trên 200 doanh nhân về tham dự trong 4 ngày tại một Resort rộng rãi, đẹp đẻ của khu du lịch nổi tiếng Mũi Né.

Mình không phải doanh nhân, cũng không xa lạ với các phương pháp tu tập của Làng Mai, nhưng vừa học xong Phẩm “Nhập Pháp Giới” của Kinh Hoa Nghiêm với Nhóm Học Phật ở chùa Xá Lợi nên  muốn trực tiếp “nhập” một phen xem sao. May mắn là Ban Tổ chức có các bạn Lê Bá Thông, chị Yến Ngọc (dân Phan Thiết) nên các bạn “hoan hỷ” cho mình đi ké, bên lề, không bị “dính” gì với Chương trình thực tập nghiêm túc, mình chỉ quan sát, ghi nhận, ngẫm nghĩ, phù hợp với sức khỏe, tuổi tác, cùng thói quen “tuỳ nghi, tự tại… vô ngại” của minh. Đã vậy mình chỉ tham dự được vài hôm thôi, vì phải về quê ở La Gi dự Họp Mặt bà con họ Đỗ mà mình nay đã gần là… Trưởng lão, với tuổi 85 rồi (Tuổi ta!).  Dù vậy, BTC đã không quên mời mình tham gia vào buổi Toạ đàm ở ngày thứ hai, về 5 Phương pháp Thực tập Chánh niệm, sẽ là nền tảng vững bền cho Doanh nghiệp, trên Chủ đề chung của Khoá thực hành này: “Phép lạ là đi trên mặt đất”…

Phải nói là BTC đã khéo léo sắp xếp một Chương trình “thực hành” vô cùng phong phú.  Có thiền tập, thiền ca, có pháp thoai, pháp đàm, tham vấn, lửa trại, đọc thơ, thiền hành… Mình chỉ hơi tiếc, giá thời gian kéo dài được vài tuần hẳn mọi người sẽ “thấm” sâu hơn. Nhưng không lo. Những người đến đây đều đã học Phật từ lâu, nay muốn có dịp trải nghiêm thực hành với những phương pháp cụ thể ra sao và dĩ nhiên sau đó sẽ thực hành dài lâu trong đời sống hàng ngày. Phần mình dĩ nhiên cũng có nhiều buổi “ngoại khoá’ với Chương trình kể chuyện, đọc thơ, ca hát, trao đổi… cũng không kém phần thú vị, sẽ kể riêng bạn sau nhe.

Như thường lệ, mình chỉ đưa lên đây một ít hình ảnh để chia sẻ cùng bạn xa xôi.

 

 

 

 

Hoàng hôn trên bãi biển Mũi Né (27.3.2024)

Bình minh trên bãi biển Mũi Né (28.3.2024)

Đi dạo quanh vườn.

 

 

 

 

 

 

 

Toạ đàm tối 29.3.2024 (từ trái: Thầy Linh Thứu, Doanh nhân Thuỳ Dương, Sư cô Khải Nghiêm, Doanh nhân Lê Bá Thông, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc).

 

Mỗi ngày đều có buổi thiền hành trên bãi biển Mũi Né.

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc.

(Saigon 6.4.2024)

Thuộc chủ đề:Ghi chép lang thang, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

GS Trần Văn Khê nói về cuốn “Nghĩ từ trái tim” của Đỗ Hồng Ngọc

19/03/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

GS Trần Văn Khê nói về cuốn “Nghĩ từ trái tim” của Đỗ Hồng Ngọc

( Ghi theo băng audio-cassette do chị Lý Thị Lý thu tại bệnh viện Triều An, ngày 17.10.2003. Chị Lý Thị Lý là phu nhân nhà báo Trần Trọng Thức, cũng là người đã thực hiện bộ Hồi ký Trần Văn Khê, NXB Trẻ, 2002).

Lời của Giáo sư Nhạc sĩ Trần Văn Khê:

Tôi đọc “Nghĩ từ trái tim” của Đỗ Hồng Ngọc trong lúc đang ở bệnh viện một cách say mê liên tục từ đầu tới cuối, vừa đọc vừa ghi chú bên lề những cảm giác có tại chỗ hoặc những ý gợi lại những chuyện xưa. Trước hết là con đường đi tới Tâm Kinh của tôi.

Thuở nhỏ tôi đã từng nghe đọc kinh, trong đó có Tâm Kinh. Khi đó tôi chỉ biết:

Quán Tự Tại Bồ tát hành thâm Bát Nhã Ba-la-mật-đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.

Xá lợi tử! Sắc bất dị không. Không bất dị Sắc. Sắc tức thị Không. Không tức thị Sắc.

Đến năm 8 tuổi tôi theo gánh hát cải lương của cô Ba. Trong màn Võ Đông Sơ tưởng Bạch Thu Hà chết rồi nên tổ chức đàn làm chay, cậu Năm tôi đưa cả thầy tu lên sân khấu đọc kinh, tụng kinh, tán và có thay đổi một số vần điệu để có tính chất cải lương. Từ một bài Tâm Kinh cậu Năm phổ nhạc ra thành hai bài gồm “Phật y phổ niệm” là đoạn đầu cho tới “diệc vô vô minh tận nãi chí vô lão tử diệc vô lão tử tận”, phần sau mang hơi buồn là “Bạch hạc minh bi” (Con chim hạc trắng kêu lên một tiếng buồn thảm). Hồi đó tôi bị nhạc của cậu Năm làm cho có một quan điểm sai về Tâm Kinh vì cậu Năm vốn không phải là người hiểu rõ về Phật học mà chỉ phổ nhạc Tâm Kinh theo tư tưởng của người không nắm được Phật giáo.

Đến năm 1965 tôi viết về nhạc của Phật giáo nên thường xuyên được thầy Nhất Hạnh giảng cho nghe những bài kinh, bài tán, nhờ đó tôi hiểu được với từng nội dung có những nét nhạc khác nhau. Thầy chỉ nói một câu rằng Tâm Kinh chính là bản tóm tắt hầu hết những điều Phật dạy. Điều quan trọng đối với tôi lúc đó không phải là giáo lý Phật giáo mà là nhạc Phật giáo, có mấy cách tán, khi nào thì tán rơi, tán sấp hay tán trạo, nhạc đánh làm sao… Sau đó tôi học qua với thầy Viên Châu về những cách niệm hương, khai kinh.

Năm 1995 khi qua Mỹ tôi tình cờ đọc được bài viết của thầy Nhất Hạnh nói về Trái tim hiểu biết. Thầy dịch rất sát nghĩa, tuy tôi hiểu được chữ Hán một phần nhưng chỉ theo cách hiểu của bản thân. Quyển sách chủ yếu mang tính chất giáo khoa.

Con đường đi tới Tâm Kinh của tôi vòng vo như vậy, mãi cho tới khi gặp bà Karfung tôi mới hiểu rõ hơn. Bà Karfung là một thầy thúôc châm cứu, dạy khí công của tôi. Suốt một năm rưỡi bà chỉ chuyên tâm cắt nghĩa Tâm Kinh bằng tiếng Pháp..

Bà Karfung đọc và giảng từng câu cũng như Đỗ Hồng Ngọc đã đề cập trong cuốn sách của mình. Bà Karfung cho rằng không dịch ra mà để nguyên chữ Phạn, chỉ đọc ra âm thanh thôi. Âm thanh đó nhắc nhở con người phải hành, phải đi tìm chân lý, bến giác. Đến chữ “Yết đế” trong câu Yết đế, Yết đế, Bala yết đế, Bala tăng yết đế, bồ đề, tát bà ha!, bà dịch là avant, encore en avant, toujours en avant et plus loin en avant (đi tới, đi tới, còn đi tới nữa và luôn luôn đi xa tới hơn nữa) để tới đáo bĩ ngạn, tới Paramita.

Thêm một cái may nữa là lần này về Việt Nam được đọc cuốn sách Nghĩ từ trái tim của Đỗ Hồng Ngọc, những điều tôi biết về Tâm kinh từ bà Karfung đều được Đỗ Hồng Ngọc nói rõ ràng bằng tiếng Việt, văn phong chẳng những giản dị mà còn dí dỏm, kèm thêm những thí dụ trong cuộc đời, lâu lâu lại chêm vài câu Kiều, thơ của Xuân Diệu hay lời ca của Trịnh Công Sơn. Càng đọc tôi càng thấy thấm thía và có phần gần gũi. Tôi đọc mà vô cùng thú vị, qua đó cho thấy hiểu biết của tác giả rất sâu sắc. Có những điều tôi hoàn toàn đồng ý với tác giả. Mọi người cho rằng trong Tâm Kinh, đức Phật phủ định tất cả những gì mình đã dạy. Nhưng Đỗ Hồng Ngọc lại nghĩ ngài không phủ định mà chỉ khẳng định lại những điều mình đã dạy một cách rõ ràng hơn. Điều đó đúng quá, Đức Phật nói lần lần cho người ta hiểu.

Đỗ Hồng Ngọc là một bác sĩ, làm như phải có khoa học thì mới tìm được những chi tiết trong Tâm Kinh. Người bác sĩ này có cả tâm hồn hướng về con người nên đã viết cho trẻ con, cho những người già, người sản phụ, tìm hiểu căn bệnh để trừ bệnh, để giúp cho người ta bớt bệnh bớt khổ. Tâm tư đó là tâm từ đi tới bi. Người bác sĩ đó có được một tinh thần phóng khoáng, một tâm từ, còn là một nhà văn dí dỏm, một nhà thơ mộc mạc dễ thương nên hiểu được Tâm Kinh như thế. Phải trải qua một trận đau, một lần bị giải phẫu, khi đó cả một cơ thể mình chuyển động thay đổi, tâm tư thay đổi thì tự tìm lấy cách để trị bệnh cho mình. Trong khi học trị bệnh tức là đã hành. Tâm Kinh không chỉ đọc hiểu không thôi mà phải hành. Đỗ Hồng Ngọc nhờ tổng hợp được những yếu tố đó mà viết ra được quyển Nghĩ từ trái tim như thế này thì tôi cho đây là một tuyệt tác, nắm được tinh hoa của đạo Phật giảng ra một cách dễ hiểu, dễ dàng để cho người ta tìm thấy được mỗi chuyện làm ở trong đời….

Theo bà Karfung, Tâm kinh tuy gồm 260 chữ nhưng gút lại có bốn chữ vô cùng quan trọng là “ngũ uẩn giai không”, tôi thấy Đỗ Hồng Ngọc cũng nói về ngũ uẩn giai không như thế. Đỗ Hồng Ngọc còn đi xa hơn một chút. Bà Karfung cắt nghĩa chữ Không là vacuité, tức là không mà có rồi lần lần đi tới chỗ không mà không có là đi tới chữ vô. Đỗ Hồng Ngọc cắt nghĩa rõ ràng từ chữ không đi tới chữ vô. Cái vô đó không phải phủ nhận nhưng phải một người như Đức Phật mới dám nói tới chữ vô vì ông đưa ra Tứ diệu đế, đưa ra cái khổ của con người ai cũng phải có mà bây giờ ông nói là không khổ gì hết. Không khổ như thế mới là vô quái ngại, không sợ sệt, vượt ra khỏi vòng sanh tử rồi mới thanh thản đi tới chỗ đời sống. Đọc Tâm Kinh này mà mình thưởng thức và hành được thì mới thành công. Trong cái hành đó có cái thiền. Cái thiền đó tác giả nói cũng rõ ràng lắm. Thiền đó không phải học chơi mà phải làm. Trong đó có nhiều chuyện làm cho mình thích lắm. Người bác sĩ như Đỗ Hồng Ngọc không phải chỉ có cái nhìn của nhà khoa học không mà còn có cái nhìn từ bi của con người thương con người, thấu hiểu được tâm kinh, hiểu được biết bao nhiêu chuyện đời, chắt lọc được tất cả những cái gì hay, đưa ra một cách giản dị, làm cho người mới đọc lần đầu sơ sơ đã thấy có cái gì như ánh sáng loé lên, càng đọc càng thấy rõ. Tôi cho rằng quyển sách này tuyệt vời.

Trong trang 37 Đỗ Hồng Ngọc nói người nào kiểm soát được hơi thở thì kiểm soát được cái tâm của mình.Khi kiểm soát hơi thở mình kiểm soát được cái tâm, cái tình cảm của mình rất là đúng. Đó là kinh nghiệm bản thân của tôi.

Ngoài ra đến trang 102, Đỗ Hồng Ngọc nói rằng: “Biết sống hôm nay, ở đây và bây giờ”. Đó cũng là kinh nghiệm của tôi theo một câu kinh. “Không nên hối tiếc quá khứ, đừng quá bận tương lai vì quá khứ đã qua rồi mà tương lai thì chưa tới. Hãy biết sống trong hiện tại”.

Trang 80 Hồng Ngọc có ghi rằng: “Mây lang thang vô định, xây thành rồi tan biến rồi lại xây. Mây thành mưa. Mưa thành suối, sông hồ, biển cả rồi lại bốc hơi thành mây”. Tôi đọc câu đó mà nhớ đến thời điểm năm 1952, tôi đang ở bịnh viện thì người ta nói rằng ráng một tháng nữa sẽ được ra viện. Tôi chờ đợi cho hết tháng rồi tới gặp bác sĩ, ông  nói chưa ra được ráng thêm ba tháng nữa. Từ tưởng tượng mình được ra viện bỗng cũng như mình được lên trời lại phải trở về chỗ cũ. Bữa đó buồn quá nên tôi ngồi viết bài “Mưa”. Lúc ấy tôi đang nghiên cứu về nhạc miền Trung nên bài Mưa mang hơi hướm của Nam bình Huế:

Hôm nay suối lạc dòng
Hôm nay suối lạc dòng
Dưới ánh nắng vàng nước tan thành hơi
Nước lên trời, lên trời thành mây, mây ơi!
Khi bay theo đám mây lành, bỗng gặp cơn gió lạnh
Hồn nước biến thành mưa trở về trần gian chảy kiếp thừa.

Đọc cuốn sách của Đỗ Hồng Ngọc, từng đoạn từng đoạn vừa hiểu được Tâm Kinh mà thấy rằng cách diễn tả đó nếu người nào chịu khó đọc rồi cũng sẽ hiểu được Tâm Kinh. Mà nếu chịu khó hành Tâm Kinh, trước nhứt là kiểm tra hơi thở của mình lần lần kiểm tra được tình cảm của mình, tìm thấy được mọi việc. Cái mà mình tưởng là có thì chỉ là ảo ảnh của chuyện đó. Từ đó mà cái mất cái còn đối với mình không còn quan trọng. Mất thì mình tiếc chuyện đó vì tưởng nó có hình thức nhưng thực ra nó không có gì hết, nó có mà không có, mất rồi thì sẽ có cái khác. Trong tất cả những chuyện đó mình đi lần tới chỗ vô ngã thì chừng đó người ta chửi thì mình cũng không giận. Mình giận là tại sao họ dám động tới “ta”. Làm sao đi tới chỗ mình thấy ngã không còn là quan trọng nữa. Thầy Thiện Siêu có nói vô ngã là niết bàn. Điều đó khi tôi đọc quyển sách hiểu thấu được như vậy, tôi vô cùng hoan nghênh.

Trang 54 Đỗ Hồng Ngọc có nói rằng khi có cảm gió thì thưởng thức lá xông, tô cháo hành. Cảm gió tùy theo loại cảm gió, nếu đó là gió luồng, gió mưa hay gió tuyết thì khi bị cảm thì khí âm nhập vào người mặc dầu nó làm mình nóng sốt nhưng trong cái sốt đó âm rất nhiều. Vì vậy mà khi cảm lạnh thì người Việt Nam mình ăn một chén cháo gừng vì gừng đem dương vô chế ngự khí âm. Nhưng nếu bị cảm nắng thì phải ăn cháo hành vì cảm nắng dương vô nhiều quá phải đem hành là cái âm vô để chế ngự lại. Cái đó chứng tỏ người Việt Nam mình trong cách ăn là đã trị bịnh phù hợp âm dương rồi. Cho nên có những câu cách ngôn thông thường mà suy nghĩ kỹ mình mới thấy hay thí dụ: “Mùa hè ăn cá sông mùa đông ăn cá biển”. Mùa hè thì chung quanh ta là khí dương mà cá sông có nước ngọt thấm vào có nhiều khí âm để chế ngự trong khi mùa đông khí âm tràn lan, cá biển thấm nước mặn và thấm cả khí dương nên ăn vô trị cái âm của trời đất.

Đọc cuốn sách của Đỗ Hồng Ngọc có nhiều cái suy tư, nhớ lại, trùng hợp nhiều cái thành ra thú vị vô cùng. Mỗi trang sách có sự thú vị khác nhau. Nhưng cảm giác này mãnh liệt dồi dào và xảy ra trong lúc đang bịnh nằm trong bịnh viện mà đọc đựơc Nghĩ Từ Trái Tim. Nhờ có cuốn sách mấy ngày đó tôi quên bịnh, chỉ đọc cái đó mà thú vị, đọc vô thấy khỏe trong người và ghi trở lại một vài điều hôm nay.

(tặng Thức-Lý)

Thuộc chủ đề:Nghĩ từ trái tim, Thiền và Sức khỏe, Vài đoạn hồi ký

Họp mặt “bỏ túi” ở Lan Viên Cố Tích

20/02/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc 1 Bình luận

 

Thư gởi bạn xa xôi ( M5 Tết Giáp Thìn, 2024)

Họp mặt “bỏ túi” ở Lan Viên Cố Tích

 

Cứ tưởng là cổ tích, nhưng không. Cố Tích. Vết xưa. Dấu xưa. Lối xưa. “Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo…” (BHTQ).

Chiều Mùng 5, (ngày 14.2), có một buổi Họp mặt “bỏ túi” thân tình ở vườn nhà Thái Kim Lan, khu Kim Long, Huế.

Gọi là “bỏ túi” vì đó là một buổi họp mặt nho nhỏ, thân tình, đầu năm, giữa vài bạn bè thân quen với Đỗ Hồng Ngọc vừa từ phương Nam mang chút nắng vàng về… Kinh.

Thái Kim Lan “chủ xị”, lúc đầu tính mời rộng qua FB nhưng mình can, Tết nhứt, ai cũng bận bịu. Vậy mà cũng hơn vài ba mươi người chớ không ít.

Gởi bạn vài tấm hình coi chơi thôi nhe.

Khu vực vườn nhà Thái Kim Lan rất rộng, có cả bảo tàng cổ vật sông Hương, thư viện, hội trường…

 

 

bạn bè đến khá đông vui… nhiều người tóc đã trắng phau, vẫn áo dài truyền thống thướt tha đầy màu sắc…

Một… hội trường mở rộng vào không gian vườn vừa cổ xưa vừa hiện đại… Mình được mời nói một chút về chuyện Thơ văn, chuyện học Phật…

Và bắt đầu sôi nổi với những câu hỏi của nhà báo Nguyễn Khoa Diệu Hà, nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Thị Tịnh Thy, của bác sĩ Pham Đức Thành Dũng, của nhà Phật học Nguyễn Phố…

D

 

 

 

 

 

 

 

Thuộc chủ đề:Ghi chép lang thang, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

  • « Chuyển đến Trang trước
  • Trang 1
  • Trang 2
  • Trang 3
  • Trang 4
  • Trang 5
  • Interim pages omitted …
  • Trang 42
  • Chuyển đến Trang sau »

Thư đi Tin lại

  • Lịch “Trò chuyện, giao lưu…”
  • Lại đính chính: “SAIGON BÂY GIỜ”
  • ĐÍNH CHÍNH: BSNGOC không phải là BS ĐỖ HỒNG NGỌC
  • Đính chính: BS NGỌC không phải là Bs Đỗ Hồng Ngọc
  • bsngoc đã lên tiếng đính chính
  • Thư cảm ơn và Đính chính về FACEBOOK Bác sĩ NGỌC
  • ĐÍNH CHÍNH: Bài viết "TÀN NHẪN" không phải của Bs Đỗ Hồng Ngọc

PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG

Bs Đỗ Hồng Ngọc với Khoá tu “Xuất gia gieo duyên” tại Tu viện Khánh An.

Hỏi chuyện Học Phật với Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Bản dịch tiếng Đức “Một Ngày Kia… Đến Bờ”

CON ĐƯỜNG AN LẠC Bài 6: Học cách Phật dạy con

Minh Lê: Đọc và Cảm “Một ngày kia… đến bờ”

Thăm Sư Giới Đức Triều Tâm Ảnh

Nguyên Cẩn: Đọc “Một ngày kia… đến bờ “của Đỗ Hồng Ngọc

“MỘT NGÀY KIA… ĐẾN BỜ” Tuỳ bút Đỗ Hồng Ngọc

Từ góc nhìn “Phê bình sinh thái” về bài thơ “Rùng mình” của Đỗ Hồng Ngọc

MỘT NGÀY KIA…ĐẾN BỜ V2

Xem thêm >>

Chuyên mục

  • Một chút tôi
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy

Bài viết mới nhất!

  • Video Podcast: Học cách Phật dạy con
  • Video Podcast: Vận động ở tuổi già
  • Video Podcast: Đỗ Hồng Ngọc “GIÚP CHA MẸ VUI TUỔI GIÀ”
  • Video Podcast. Phùng Minh Bảo: Chia sẻ trải nghiệm Chăm sóc Mẹ già
  • Video Podcast: Đỗ Hồng Ngọc TUỔI GIÀ HỌC PHẬT

Bài viết theo tháng

Ý kiến bạn đọc!

  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Phòng mạch của chim
  • H.Tuyen trong Phòng mạch của chim
  • Phạm Anh Trang trong Lịch “Trò chuyện, giao lưu…”
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Nước Mắm Phan Thiết
  • QN trong Thư gởi bạn xa xôi
  • Nguyễn Lê Hải Minh trong Nước Mắm Phan Thiết
  • Trần Liên Hương trong “Sách bỏ túi” cho người cao tuổi: CON ĐƯỜNG AN LẠC
  • Minh Trí trong Giao Lưu-Ra Mắt Sách Chuyện Hồi Đó của Đỗ Hồng Ngọc (10.8.2025)
  • hai trầu trong Thư gởi bạn xa xôi: Vài hình ảnh Ra Mắt Sách CHUYỆN HỒI ĐÓ
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong 10 Năm: GS Nhạc sĩ TRẦN VĂN KHÊ

Cùng một tác giả

  • 0
  • 1
  • 1
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6

Thống kê

Nhà tài trợ

biệt thự vũng tàu
biệt thự vũng tàu cho thuê | biệt thự vũng tàu cho thuê theo ngày giá rẻ | cho thuê biệt thự vũng tàu có hồ bơi
© 2009 - 2016 Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Phát triển & Hỗ trợ kỹ thuật bởi SGC.
Trích dịch nội dung để dùng trong nghiên cứu, học tập hay dùng cho cá nhân đều được tự do nhưng cần phải chú thích rõ nguồn tài liệu và đối với các trích dịch với mục đích khác, cần phải liên lạc với tác giả.
  • Một chút tôi
    ?
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    ?
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    ?
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    ?
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    ?
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy
  • Nhận bài mới qua email