Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Tập hợp các bài viết của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Ghi chép lang thang
  • Nhận bài mới qua email

Minh Lê: Lá thư thứ nhất: “Gió heo may đã về …”

25/10/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Lá thư thứ nhất: “Gió heo may đã về …”

Minh Lê (Nha Trang)

Bạn thân mến,

Từ tuổi 40 bước sang tuổi 50, bạn có cảm thấy gì không? Mình thì cảm nhận rất rõ chút gì đó len lén tới từng ngày, như ẩn như hiện. Trời chưa phải mùa thu mà sao cứ ngỡ “một chút gió heo may đã về, những chiếc lá vàng đã rơi lác đác trên những con đường thành phố, một mùi gió bấc quen thuộc đã len vào giữa những hàng cây…” (tr. 8)

Chắc bạn đang nghĩ mình trích dẫn từ cuốn sách văn chương nào đó, nhưng bạn ơi, là từ sách Gió heo may đã về… của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đó. Thập kỷ tuổi 50 trong cuộc đời một người được mô tả qua đôi mắt tinh tường của một bác sĩ, đầu óc văn chương của một văn sĩ, và trái tim lãng mạn của một thi sĩ như vầy: “Niềm vui thì vẫn vậy sao mắt môi như trĩu nặng. Một nếp xếp đã đậm vòng cung khóe miệng, những dấu chân chim đã hằn trên khóe mắt. Và kia, một vài nhánh tóc đã nhạt phai, khô quắt, mỏng tanh.” (tr. 11)

Một chân dung chỉ vài nét thoáng qua mà sao chính xác quá! Tác giả tiếp tục định nghĩa cái tuổi “gió heo may” ấy một cách vừa văn học vừa y học: “Tuổi chớm già, ấy là tuổi của chuyển tiếp, của lúng túng, hoang mang, tuổi của những stress, của những lo âu và phiền muộn, của những mối hiểm nguy rình rập về sức khỏe, về quan hệ gia đình, xã hội… đồng thời tuổi chớm già cũng là tuổi của thành tựu, của thành đạt và uy tín trong xã hội.” ( tr 23-24)

Ôi cái tuổi chớm già phức tạp thật! Nhưng đừng lo, tác giả sẽ giúp ta tìm ra vấn đề và cách giải quyết. Bài “Người về soi bóng mình” mô tả những thay đổi về thể chất ở tuổi “gió heo may” cùng lời khuyên của tác giả với tư cách bác sĩ, cũng là người đã trải nghiệm, coi nên làm gì để gió thổi… chậm lại. Bài này có một câu đơn giản mà đúng vô cùng, đọc lên nghe như câu ngạn ngữ xưa: “Ngày như dài ra, năm như ngắn lại. Khác với lúc trẻ, ngày thì ngắn mà năm thì dài.” (tr. 30)

Rồi bài “Về thu xếp lại” nói về đời sống tính dục ở tuổi chớm già của nam và nữ, “bật mí” nhiều điều “bí mật” mà nhiều người thắc mắc nhưng “không nói ra thì không ai biết”. Lời khuyên quý giá của thầy thuốc kiêm “tâm lý gia” Đỗ Hồng Ngọc là ở giai đoạn này, các cặp vợ chồng thường “dễ nóng giận, dễ xúc phạm, làm mếch lòng nhau” nên nếu “được chuẩn bị tốt, họ có thể cảm thông, tha thứ và biết chờ đợi nhau” thì sẽ có “một tuổi già hạnh phúc” (tr. 46)

Bài “Cát bụi tuyệt vời” và “Chân đi nằng nặng hoang mang” phân tích những thử thách về tinh thần ở tuổi chớm già. Người ta bắt đầu nhìn lại đoạn đường đã qua để chọn lựa cách sống phù hợp cho “tuổi mới”. Bài “Trong khi ta về…”  nói tới hai cách sống thường được lựa chọn ở độ tuổi này.

“Sông cạn đá mòn” chỉ ra mâu thuẫn quan trọng giữa cha mẹ và con cái khi cha mẹ vào tuổi “gió heo may” và con cái đã lớn khôn, nhưng cha mẹ chưa quen với việc đổi vai từ “chăm sóc, giám sát, quyết định mọi việc cho con” thành “người cố vấn, chỉ cho những lời khuyên suông” (tr. 77) Mâu thuẫn thứ hai là giữa vợ chồng tuổi trung niên. Tác giả khéo léo đưa ra giải pháp cho cả hai vấn đề một cách nhẹ nhàng và đầy thuyết phục.                                                                                           Minh hoạ: Đỗ Trung Quân

“Sống trong đời sống” bàn về công việc và nghề nghiệp. “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui” lại nói về sở thích và đam mê của tuổi chớm già. Ông thầy thuốc có tâm hồn nghệ sĩ viết một câu rất đỗi phóng khoáng: “nhớ Trịnh Công Sơn viết “Một chiều ngồi say, một đời thật nhẹ, ngày qua” mới thấy để cho ngày qua thật nhẹ đôi khi người ta cần một chút say.” (tr. 97) Ông còn “xúi giục”: “Ở tuổi chớm già, người ta phải say một cái gì đó nếu không muốn… tự tử!” Ôi trời, ông bác sĩ cho thuốc khá đắng, nhưng đúng là “giã tật”. Bạn thấy đúng không?

Ông mô tả những sở thích của tuổi chớm già, hóa ra khá nhiều, quan trọng là ta có tìm ra cái gì để “say” một cách lành mạnh không. Nếu tìm ra rồi, chấp nhận rồi, thoải mái với “cái già” rồi thì “Người ta nhìn đời bằng con mắt cảm thông hơn, độ lượng hơn bởi vì người ta đã từng trải, đã tích lũy nhiều kinh nghiệm sống, người ta đã “tri thiên mệnh”.” (tr. 105)

“Và như thế tôi đến trong cuộc đời” tổng kết lại những “bí kíp” quan trọng nhất theo tác giả để có “một tuổi chớm già biết thuận thiên, biết tiêu dao, tự tại” (tr. 119) Từ đầu đến cuối sách, ông thầy thuốc nói chuyện “chuẩn bị già” bằng một giọng văn giản dị, dí dỏm, trích dẫn đủ văn chương lẫn thơ phú nên đọc về tâm sinh lý mà người đọc không bị bối rối vì gặp từ khó hiểu, lại gật gù tâm đắc và thỉnh thoảng cười tủm tỉm trước cái duyên của ông bác sĩ “nghịch ngầm”.

Cuối sách có in hai bài viết của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn và thi sĩ Đỗ Trung Quân. Trong khi Trịnh nhạc sĩ cự nự “Cái biên giới của tuổi chớm già và tuổi trẻ chỉ là một ước lệ mà nghìn năm trước đã bịa ra” (tr. 121) thì Đỗ thi sĩ thực tế hơn “tôi đương nhiên tin bác sĩ” và khen: “Viết về tâm sinh lý, chuyên môn y học bằng giọng văn tâm tình, “ướt át” như thế quả là hiếm gặp trong sách y khoa giáo dục.” (tr. 125)

Đâu phải “hiếm gặp”, là “duy nhất” mới chính xác, tôi nghĩ vậy khi đóng lại cuốn tùy bút xinh xắn. Dễ gì trăm năm nữa có thêm một người vừa là bác sĩ, văn sĩ và thi sĩ, để viết cho chúng ta đọc kiểu tùy bút nói chuyện sức khỏe vừa văn vẻ vừa thơ ca mà không kém phần uyên bác như vậy chứ?

Cho nên bạn ơi, đọc sớm đi, còn chờ gì nữa?

(ML)

* Các trích dẫn từ sách Gió heo may đã về…, Đỗ Hồng Ngọc, Nhà XB Tổng hợp TP HCM tái bản 2019.

Thuộc chủ đề:Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định, Vài đoạn hồi ký

Nguyên Cẩn: Đọc “Một ngày kia… đến bờ “của Đỗ Hồng Ngọc

31/12/2023 By Bac Si Do Hong Ngoc 1 Bình luận

 

Đọc “Một ngày kia… đến bờ “của Đỗ Hồng Ngọc

Nguyên Cẩn

 

hà thảo

 

Khi Đỗ Hồng Ngọc viết  “Thư cho bé sơ sinh”, anh đã chân thành nói :

Khi anh cắt rún cho em

Anh đã xin lỗi chân thành rồi đó nhé

Vì từ nay em đã phải cô đơn

Em đã phải xa địa đàng lòng mẹ.

….

Thôi trân trọng chào em

Mời em nhập cuộc

Chúng mình cùng chung

Số phận…

Con người.

(ĐHN 1965)

 

Và rồi “tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người “ ( Trịnh Công Sơn ) đã cùng đứa bé ấy bước vào hành trình “ Sinh- Lão- bệnh – Tử “ với tất cả thất tình lục dục cho tới “ Một ngày kia …đến bờ “. Hôm nay đây Đỗ Hồng Ngọc ( ĐHN) vị bác sĩ viết bài thơ ấy nhìn lại toàn bộ hành trình của mình và anh , qua 26 đề mục của những bài tùy bút , viết theo dòng cảm hứng ngỡ như bất chợt , đã lý giải sự hiện hữu của kiếp người , những thắc mắc băn khoăn về Ngã , về Ma chướng , về Nghiệp, về Phật tánh , về chân Không diệu Hữu , về Như lai tạng… , đồng thời đúc kết những giải pháp giúp ta sống trọn vẹn , đầy đủ , viên mãn . Anh viết với tư cách một hành giả , trải nghiệm thực chứng bằng chính kinh nghiệm tu tập của mình , và dưới lăng kính một bác sĩ , một nhà khoa học , lý giải nhiều vấn đề bằng tri thức về y học . Anh viết “ tưng tửng “ , nhẹ nhàng , dễ hiểu nhưng sâu sắc , thấp thoáng sau bài viết nụ cười của một thiền giả . Ví dụ anh “ thấy tức cười |” vì tự nhiên mình có mặt trên cuộc đời này , vì sao ? Anh lý giải “ từ cái duyên của cha mẹ ông bà từ muôn vạn thứ duyên khác , từ đất , nước , gió lửa…”Nhà Phật gọi là thân tứ đại .Rồi nhìn vũ trụ này , vạn vật này, anh nhận xét :

“Tóm lại trùng trùng những dây mơ rễ má , dính chùm dính chụp, mà ngộ , con nào ra con đó ..Gene chăng , DNA, RNA, virus vi khuẩn rào rào kiếm ăn rồi nhân giống , con này ăn con kia , rồi đơn bào đa bào , đâu đó răm rắp nề nếp chẳng chơi…phải có một design , một thiết kế vĩ đại từ con virus đến con khủng long nhưng không có designer .”Anh hiểu vạn pháp do duyên sinh .

Lý luận về Nghiệp , ĐHN không giải thích cầu kỳ mơ hồ về quan hệ nhân-duyên- quả , tiền kiếp hay hậu kiếp mà anh dùng chính ý kiến của Thiền sư Tuệ Sỹ “

Ngoài cơ chế vật lý của ký ức , còn có sự tham gia của một yếu tố phi vật chất , không nhất thiết là ý thức , để lấy đó làm cơ sở tiếp cận đến vấn đề nghiệp tích lũy, cho đến trong đời sau được xử lý cho quả dị thục của nó “ Thế nên , Nghiệp theo ĐHN không chỉ từ gène mà còn từ môi trường ( biểu sinh = ngoại di truyền epigenetic) chế độ ăn uống , bệnh tật, nghiện ngập , lối sống là cơ chế của y báo (ngoại di truyền , epigenetic mechanisms, có tác động đến hoạt động của các gène , điều hòa các gène.”

Đặc biệt anh giải thích Phật và Như lai là một mà không phải một vì Phật cũng ốm đau bệnh hoạn già chết nhưng Như lai thì không.” Thiện nam tử , Thân Như lai là thân thường trụ , thân không thể hư hoại , thân kim cang , càng không phải thân do sự ăn uống mà thành , chính là pháp thân “ ( Đại bát Niết bàn kinh ) “Phật thị hiện bệnh khổ , thị hiện : là hiện ra cho thấy trước sau gì cũng …già, cũng bệnh cũng chết . Thôi đừng có tham sân si gì nữa cho …mệt … Hãy sống trong pháp thân trường cửu “

Ở đây chúng ta cần phân biệt báo thân, pháp thân và ứng thân là khác nhau . Ứng thân (hóa thân ) chịu mọi đau khổ của già chết bệnh tật . sau khi chết ứng thân tự tiêu diệt . Báo thân thường mang ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp và chỉ Bồ Tát mới thấy trong giai đoạn cuối cùng của thập địa . Riêng pháp thân ( mà trong MKKĐB , ĐHN gọi là Như lai ) thì không ,vì Như lai thì “ vô sở tùng lai , diệc vô sở khứ “ ( không từ đâu mà đến , chẳng đi về đâu ) Như lai được xem là danh hiệu Phật , là sứ gỉả trực tiếp của Chân như , là gạch nối giữa hiện tượng và bản thể . Nên ĐHN viết “Khóm cây ngọn cỏ cũng là Như lai;con ong cái kiến cũng là Như lai …”Phải chăng cũng trong suy nghĩ ấy , Phạm Thiên Thư viết :

Mười con nhạn trắng về tha

Như lai thường trụ trện tà áo xuân

Và Bùi giáng cũng tha thiết nhìn cuộc đời qua diệu pháp

“ Trần gian ơi , cánh bướm cánh chuồn chuồn

Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại

Con vi trùng sâu bọ cũng yêu luôn “

Vì như ĐHN nhận thức “ Một là tất cả “,khi anh nhìn người thợ tạo hình từ đất sét, đã tạo nên nhiều hình tượng khác nhau ( duyên sinh ) Đất sét là một tạng . Từ một đó mà cho ta tất cả . Rồi một hôm tất cả các vật dụng , sắc tướng này đổ bể , tan vụn lại thành đất sét .Như nhạc sĩ họ Trịnh viết “ Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi / để một mai tôi về làm cát bụi “ Chẳng phải một là tất cả và tất cả là một sao ?Chân không mà diệu hữu đó sao ?”Cho nên bảo thực tướng là vô tướng mà chẳng phải vô tướng .’Kiến tướng phi tướng tức kiến Như lai’ ( Kinh Kim Cang )

ĐHN nhận định “Trong thân chúng sanh vốn có Phật tánh , tức Như lai tạng cũng đã thấy biết Thường , Lạc , Ngã, Tịnh . Hãy tự quy y chỗ ‘tam quy chân thật này , chẳng cần tìm kiếm đâu xa .” Người trí biết rõ tánh đó vốn không có hai (Bất nhị), đó là thật tánh .”

Như lai tạng vốn lìa ngoại tướng hữu vi .Cho nên Như lai tạng là ‘cái duy trì , cái thiết lập ‘( Kinh Thắng Man ) Đến đây , ĐHN đưa ra ví dụ Francis Crick , người cùng James D. Watson đồng phát hiện ra cấu trúc phân tử DNA và tuyên bố ‘ Phân từ DNA là hệ thống chứa thông tin hiệu quả nhất trong toàn vũ trụ …Hình thành sự sống là một phép mầu. ”

 

 

Anh giải thích giản dị nhưng sâu sắc “ Thực tướng là ta vừa vô tướng , vừa hữu tướng . Vô tướng vì hiểu Bát Nhã , hiểu chân Không . Hữu tướng vì ta biết cái duyên sinh , với vô vàn hình tướng , cái diệu Hữu ( Hoa Nghiêm ) Cho nên “ sự sự vô ngại “ đó thôi… Ung dung , tự tại , an nhiên. Chẳng vì ta mà hoa nở , hoa tàn chẳng vì ta mà gió mát trăng thanh , nhưng ta biết thưởng thức , ta “ enjoy” cuộc sống của mình trong từng giây phút .

Chúng ta hiểu sống trong pháp giới Hoa Nghiêm là sống trong “tánh khởi” hay trong Nhất Tâm của tất cả chúng sanh và thế giới. Tâm bất tịnh thì biến pháp giới trở thành thế giới bất tịnh, do đó sống trong chia cắt, chướng ngại, xung đột, khổ đau. Tâm thanh tịnh thì thấy và sống trong pháp giới thanh tịnh của Phật. Tâm Phật thì tạo ra cảnh giới Phật. Tùy mức độ thanh tịnh của tâm đến đâu thì chứng nghiệm được sự thanh tịnh của pháp giới đến đó.

Nói như Tô Thùy Yên

“Ta về cúi mái đầu sương điểm

Nghe nặng từ tâm lượng đất trời

Cảm ơn hoa đã vì ta nở

Thế giới vui từ nỗi lẻ loi“

( Ta về )

Theo Tâm kinh thì “ Xá Lợi Tử, thị chư pháp không tướng: Bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm” Các pháp vốn không tướng nhưng khi có ảo tưởng, vọng thức thì liền có các giả tướng B’, B’’. Khi trí tuệ bát-nhã chiếu soi thì không tướng hay thực tướng của pháp xuất hiện. Vì vậy trí tuệ bát-nhã còn gọi là tuệ không. Tuệ không nghĩa là không vô minh, ái dục, không ảo giác, ảo tưởng, không lý trí, vọng thức v.v. Nhìn pháp bằng tuệ không thì thấy pháp là không tướng, không tướng lại chính là thực tướng nên mới nói:

“Có thì có tự mảy may

Không thì cả thế gian này cũng không”.( Từ Đạo Hạnh )

Tướng không của pháp vượt ngoài ý niệm sinh diệt, sống chết, nhưng vẫn có thực tánh sinh diệt, vì đó là bản chất của pháp hữu vi mà Dịch Lý gọi là “sinh sinh chi vị dịch”. Cho nên em bé có sinh thì đương nhiên có chết. Chỉ có pháp vô vi mới thực sự không sinh không diệt, nhưng vì không sinh nên không diệt chứ không có nghĩa là trường tồn bất biến theo ý niệm thời gian của thường kiến luận.

ĐHN cũng đề cập ý này : “ Cho nên Tâm kinh viết ‘ Vô vô minh, diệc vô vô minh tận,’ Không có vô minh mà cũng chẳng bao giờ hết vô minh ! Khoái thật. “ Hay nói cách khác , không có lão tử cũng không có hết lão tử, tức không có 12 nhân duyên.

Anh cũng đã từng trải qua giai đoạn làm việc quá độ rồi bị tai biến.Khi thoát được giai đoạn thập tử nhất sinh ấy , anh thấy phải đi tìm một con đường khác. Đọc Tâm kinh ,anh thấy câu “…chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. ”Anh thấy phải ‘ tự tại “ thôi . Phải dựa vào chính mình . Phải thực hành thôi .”

Chúng ta đã biết rõ ngũ uẩn được cấu tạo như thế nào nên cũng có thể hiểu tại sao soi thấy ngũ uẩn đều không thì vượt qua tất cả sự trói buộc của phiền não khổ đau. Chính hành làm cho sắc, thọ, tưởng, thức bị rối loạn, nhưng khi hành được tuệ chuyển hóa thì tưởng và thức không còn chấp trì kinh nghiệm, thành kiến, quan niệm để bóp méo sự thật nữa, nghĩa là ngũ uẩn trở thành không: không ảo tưởng, ảo giác, không còn cái gọi là A’, A’’, B’, B’’, không vô minh, ái dục.

Và thiền định là một giải pháp . ĐHN thấy rằng có sẵn một con đường mà bấy lâu mình xa lạ. Con đường” chiếu kiến ‘ đó chính là Thiền Quán niệm hơi thở (Anapanasati) An ban thủ ý , nhập tức xuất tức niệm “Thở vào thì biết thở vào , thở ra thì biết thở ra. Trong 40 đề mục thiền quán , anh chọn một : chọn hơi thở . Thở luôn trong thì hiện tại , ở đây và bây giờ Khi vào sâu trong thiền , hành gỉả sẽ không cảm nhận mình còn thở nữa . Đó chính là “ quãng lặng :” ở cuối thì thở ra ..

Yếu tố quyết định nữa là thả lỏng toàn thân , giảm tiêu hao năng lượng ..Tác giả cho biết nhúc nhích cơ hoành 1cm , đã có 250 ml không khí vào ra , bấy giờ họ cần rất ít oxy …hiện tượng thiếu oxy kinh niên ( chronic hynoxia) tạo ra các hormones như dopamine, serotomine, endorphine , oxytocin giúp sảng khoái . lâng lâng , dễ chịu , gia tăng trí nhớ , giảm đau .. chính là trạng thái thiền duyệt vậy. tác giả viết :”“Khi học Phật chữ Anapanasati tôi bèn tự đề ra cho mình chữ Pranasati ,nghĩa là đặt chánh niệm vào giữa khoảng thở vào và thở ra đó. Nó là quãng lặng , là nghỉ ngơi , là ’ bardo’ giữa hai hơi thở , giữa sự sống và chết , tái sinh .”

Như Thiền sư Nhất Hạnh dạy chúng ta

Thở vào tâm tĩnh lặng

Thở ra miệng mỉm cười

An trú trong hiện tại

Giây phút đẹp tuyệt vời

Khi đã thiết lập được đời sống thăng bằng, bước tiếp nữa là điều phục tâm. “Hãy chú tâm cảnh giác, chánh niệm tỉnh giác” là pháp hành quan trọng, cần duy trì liên tục. Tâm luôn bị các chướng ngại pháp xâm chiếm. Chỉ một giây lơ là, vọng tưởng sẽ dẫn dắt và lôi kéo chúng ta rời xa chánh niệm. Luôn nhớ nghĩ về đề mục, nhiếp tâm vào đề mục với sự tỉnh thức và rõ biết tất cả. Những hoạt động trong đời sống hàng ngày đều được ghi nhận rõ ràng. Chánh niệm, tỉnh giác hỗ trợ nhau và là nền tảng quan trọng để tiến sâu vào thiền định.

ĐHN chỉ chúng ta Tứ niệm xứ .” Tứ Niệm xứ là con đường Thiền định .Thân thọ tâm pháp mà các vị Tổ sau này rút gọn cho dễ nhớ :Thân bất tịnh , Thọ thị khổ, Tâm vô thường , pháp vô ngã …Quán thân , thọ , tâm , pháp để đi vào Samadhi ( định ) .Phật lúc nảo cũng ở trong “ định “ và theo con đường Trung đạo.Vì chính Phật lúc tưởng đâu chết vì ép xác tu khổ hạnh thì chén cháo sữa của Sujata làm cho Người tỉnh táo . ĐHN đã rút ra bài học xương máu ấy và kết luận “ Thực tập thiền Tứ niệm xứ ,quán, thấy biết và chứng cái tâm vô thường thì tất cả mọi việc mình coi như gió thoảng mây bay. Cuối cùng thực chứng pháp vô ngã, phá được tất cả trần lao, nghiệp chướng của chúng ta. Thật vậy, các pháp vô ngã thì ta, người và sự vật đều vô ngã, không có thực tánh vì các pháp do duyên sanh. Quán sát và thực chứng pháp vô ngã, tất nhiên phiền não không khởi lên, mình trở thành thanh tịnh Tỳ-kheo giải thoát.” Và anh viết :”Ta cứ thuận pháp mà sống , hồn nhiên như nhiên. ‘Đến nay ngẫm lại chừng quên hết / chỉ nhớ trên đầu một chữ Như ‘( TS Phước Hậu ) .

Vì anh nói “Tôi cho rằng chính lúc cận kề vối cái chết , giai đoạn cận tử đó là đang ở trong trạng thái “ Diêt thọ tưởng định “ mới thấy được cái vô tướng từ Như lai tạng mà ra, từ Pháp thân của chính mình mà tỉnh ngộ … Từ đó có Tứ Diệu đế , Bát Chánh đạo , Thập nhị nhân duyên để dần dần xóa bỏ Tham sân si của kiếp người “ Cũng nên chú giải thêm về Thập nhị nhân duyên , Hành là nhân chính tạo ra ngũ uẩn mới, vòng duyên khởi mới. Và nếu hóa giải được sự tác nghiệp của hành là vượt khỏi tam giới, là thoát ra luân hồi sinh tử, đến bờ kia và vượt qua mọi khổ ách. Sở dĩ hành (ái, thủ, hữu) tạo tác được là do vô minh. Như vậy, khi trí tuệ hay tri kiến như thực soi chiếu thì tưởng – hành không còn khả năng biến A thành A’, A’’, không thấy B thành B’, B’’ được nữa, nghĩa là toàn bộ ảo tưởng, ảo giác, ảo ảnh, ảo kiến, vọng thức trong khái niêm A’, A’’ – B’, B’’ đều biến mất, nhường chỗ cho thực tánh hiển lộ. Đó chính là qua bờ bên kia (paramitā), là đáo bỉ ngạn.

Vì vậy trí tuệ này gọi là bát-nhã ba-la mật-đa (paññā paramitā). Từ lâu nguyên tính A và B bị ngăn cách bởi sông mê (vô minh) bể khổ (ái dục).

Vượt qua – vượt qua bờ bên kia – chính là vượt qua vô minh ái dục, vượt qua ngũ uẩn mà cụ thể là tưởng – hành. “Biển khổ mênh mông hồi đầu là bến”, cho nên bỉ ngạn cũng chính là thực tại hiện tiền,không phải lúc nào, nơi nào khác. Quay lại là thấy ngay tức khắc, chẳng cần rong ruổi tìm kiếm đâu xa.

Bờ đây là bờ mé của giác ngộ hay bờ vực cận kề cái chết ? Trí tuệ bờ kia (paññā pāramitā) , bờ trên (paññā upapāramitā ) hay bờ cao thượng (paññā paramattha pāramitā) là trí tuệ vượt qua vô minh ảo vọng, chấm dứt sự tạo tác luân hồi sinh tử của các hành qua trực tiếp liễu tri thực tánh của pháp là chính.

Gate là vượt qua sông mê biển khổ ; Paragate là vượt qua luân hồi sinh tử bằng trí tuệ này ;Parasamgate là trải nghiệm đại dụng của các pháp ,vượt qua trầm luân sinh tử, vượt thoát vô minh ái dục bằng trí tuệ này…

ĐHN viết về “ ngày kia đến bờ” phải chăng nói về cái chết khi anh viết “Giác ngộ tốt nhất là hiểu được cái chết là tất yếu và …thiết yếu , không có không được của cuộc đời ta.”

Khi tôi viết bài này, một nhà văn dịch giả vừa qua đời ngay trong đêm Noel 2023,anh Mai Sơn . Nhắc về anh, người ta đăng lại bài phỏng vấn anh về tác phẩm “ Hư cấu “ . Người ta hỏi “Vậy trong Hư cấu (NXB Hội Nhà văn, 7/2004) với 10 truyện ngắn, những ý tưởng mà anh cần bám đuổi và mổ xẻ nhiều nhất là gì? “Mai Sơn trả lời “:

– Nhiều nhất vẫn là cái chết. Không phải vì nó bí ẩn và đáng sợ mà vì cái chết đã bị quên lãng trong cuộc tồn tại bề bộn này. Thật ra ai cũng biết, để vượt qua cuộc sống khổ ải này thì cần phải rũ bỏ bớt những gánh nặng, đặc biệt là gánh nặng về cái chết tất yếu. Nhưng cũng rất nhiều người tưởng mình sẽ sống mãi. Chính vì những người này mà chúng ta cần phải phục hiện bộ mặt đáng kính của cái chết. Và để thấy rằng sự chết là một thành phần sống động trong hiện hữu đầy ắp của con người. Martin Heidegger nói: “Bản chất con người là luôn luôn bị ném về phía trước, mà phía trước xa nhất là gì nếu không phải là cái chết.”

ĐHN đã tìm ra lời giải hay đáp số cho bài toán ấy. Anh viết “Chữ không ( sunyata) như trả lời tôi câu hỏi ‘ Tại sao ?’ ( Why ?) Thắc mắc bấy nay về ‘ Tại sao có ta ?

Ta từ đâu đến ?Đến để làm gì ? ‘ … Và chuẩn bị cho một cái chết tốt ( good death ) và một giai đoạn cận tử vui…vui..”

Vậy giai đoạn cận tử ấy ,sau hơn 80 năm sống trên cõi đời này ,trải qua những giây phút cận kề cõi bên kia , sống như thế nào ? ĐHN cho rằng sống với chữ Như, trong thiền định và quán hơi thở, là “sống trong từng giây phút một . Mỗi khoảnh khắc , mỗi sát na là vô tận .Bởi không có thời gian chẳng có không gian , là sống với Như lai , sống cùng Như lai , sống trong Như Lai với Thường , Lạc , Ngã, Tịnh… và hiểu ngay Không đây không phải là không có mà do mà do duyên sanh , duyên khởi , không có tự tánh riêng biệt . “Vì anh biết rằng “..cái tướng mà ta đang sống đầy khổ đau đây vì “ vô thường , khổ , vô ngã , bất tịnh “ chẳng qua chỉ là cái thấy biết vì “ điên đảo mộng tưởng “ không có thiệt , bởi nó chỉ là thực tướng ‘ ảo‘. “ Và hãy nhớ “ well-being and well-dying nhé !”

Ta nhớ lời kinh nguyện “ngày an lành , đêm an lành , ngày đêm 6 thời đều an lành

… sống an lành và chết cũng an lành .“

 

Rồi nhắm mắt ta đi vào cõi mộng

Như sương mai như ánh chớp mây chiều (Tuệ Sỹ )

Xin mượn lời Thiền sư Tuệ Sỹ để kết bài viết này .

“Sống, tuy có danh nhưng không cần, không bám vào nó. Sống an nhiên với tâm niệm rồi đây thân và danh này cũng mục nát với cỏ cây. Nếu có tài, gặp cơ duyên thích hợp thì đem ra phụ giúp cho đời, đem khả năng của mình ra để phục vụ nhân sinh. Hợp thời thế thì làm, bằng không thì cũng chẳng buồn bã chi. “Bất đắc chí, độc hành kỳ đạo” có bạn đồng hành để xây dựng xã hội thì mình đi vào, không thì sống với triết lý riêng của mình. Sống với thiên nhiên, với vũ trụ của mình. …Cái triết lý sống này rất đẹp, nó gián tiếp tạo nên một cái trật tự xã hội, tạo nên một sự cần thiết. Chúng ta sống làm sao cho đến lúc chết không có gì hối hận, không có gì sai lầm. Đối với bạn bè không có sự lường gạt. Giao tiếp với mọi người không có sự gian dối. Cho tới khi mình chết, mình an tâm, an toàn. Chết đi về đâu, không cần biết. Chỉ cần biết mình đã làm những điều chân chánh , hợp đạo lý thì khi chết nhất định sẽ đến những chỗ an toàn. (HT. Thích Tuệ Sỹ)

Tác phẩm của ĐHN được viết nhẹ nhàng , nhưng sâu lắng , nói bâng quơ như những câu chuyện nhàn đàm nhưng là kết tinh của bao năm nghiên cứu Phật học thâm sâu , với bao kinh nghiệm thực chứng của một hành giả trên hành trình tìm chân lý , kể lại cho chúng ta nghe , để cùng cảm nhận và chia sẻ , dù khó khăn hay dễ dàng tùy quá trình tu tập hay căn cơ từng người để rồi hiểu ra mình cũng sẽ “ một ngày kia …đến bờ “ vì ‘ đời người như gió qua. “ ( Trịnh Công Sơn )

Hãy hoan hỷ đọc và chiêm nghiệm với một nụ cười thanh thản .

Nguyên Cẩn

27.12.2023

Thuộc chủ đề:Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định, Phật học & Đời sống

NT KhánhMinh: Cười Với Nắng Một Ngày Sao Chóng Thế (Tuệ Sỹ)

20/12/2023 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

Cười Với Nắng Một Ngày Sao Chóng Thế (Tuệ Sỹ)

Nguyễn Thị Khánh Minh


Thầy Tuệ Sỹ, nơi bàn làm việc tại chùa Già Lam
Photo by nt khánh minh (2009)

Vâng, chóng đến nỗi tôi nghĩ đó là giấc mộng, giấc mộng thiện hảo quý báu quá khiến tôi tiếc ngẩn ngơ sao chóng đến vậy.

Đó là buổi ra mắt tập thơ của tôi tại quán cà phê Du Miên. – Chỉ với 50 ấn bản Bùa Hương do Ý Thức Bản Thảo ấn hành 2009 – với sự có mặt của các anh chị Đỗ Hồng Ngọc-Ngọc Bích, Lê Ký Thương-Kim Quy, anh Nguyên Minh và anh Lữ Kiều, và tôi. Bảy người, đối với riêng tôi, số 7 khiến tôi liên tưởng đến bảy sắc cầu vồng, bảy nốt trong âm nhạc, thất bảo, của một buổi sáng tuyệt vời.

Và bản quý duy nhất, Bùa Hương, được ấn chứng bằng những chữ ký thân tình. Buổi sáng đẫm hương bằng hữu. Nó không chỉ chấm dứt vào buổi trưa khi chia tay. Nó kéo dài cho tới bất cứ lúc nào hồi ức tôi lay động.

Sau buổi sáng, anh Lữ Kiều bảo, giờ anh sẽ đưa em đến chùa Già Lam, – Thầy Tuệ Sỹ ạ? – Ừ, mình cùng đi với Giai Hoa.

Lòng tôi vừa bồi hồi vừa lâng lâng khó tả. Run run. Vì sắp được gặp một người mà mình nghĩ rằng khó có cơ hội được diện kiến. Chùa Già Lam. Có đóa sala rụng ở sân chùa, cầm trong tay thơm ngát. Ép vào sách, đến giờ giở ra còn nghe thơm. Thơm phút giây nhặt nó ở sân chùa, thơm vì nó cùng tham dự với tôi buổi trưa độc nhất ấy, nơi có vị sư của những lời thơ Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ/ Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn… (Tuệ Sỹ, Không Đề) Đã bao trăng tàn bên chiếc lan can này nghe Sư nói chuyện một mình? Hai bóng sáng hòa âm trong đêm, để lại cho đời những lời thơ bất hủ, theo mãi trong lòng người hình bóng một vị chân tu.

Chúng tôi ngồi ở đó, ban công trước phòng Sư, trông xuống một vườn cảnh nhỏ, gió buổi trưa hiu mát, trái tim tôi như chiếc lá bay. Sư và anh Lữ Kiều, Giai Hoa đang bàn về chương trình buổi ra mắt tập thơ Những Điệp Khúc Cho Dương Cầm, tập thơ tôi được Sư tặng sau đó.

Tôi tặng Sư tập thơ Bùa Hương, và tôi có được chữ của Sư trong bản duy nhất kia. Chữ của Sư, chữ Hán lẫn Việt, lấp lánh dưới nắng trưa: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn/ Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về. Nét chữ có linh hồn của sự cương nghị bất khuất và u ẩn một điều cưu mang…

Mỗi khi giở xem lại nét chữ ấy lòng run run như đang mở xem điều gì đó vô cùng quý báu.

– Giai Hoa là người phụ đạo piano cho thầy-. Anh Lữ Kiều nói. Rồi, chúng tôi được nghe và thấy Sư ngồi đàn, một Nhà Thơ gõ trên phím những nốt nhạc của tâm hồn, Sư ngồi đó, Sư đang ở đó, như vừa mới đến, như vừa ra đi trong âm ba tiếng nhạc. Không gian thời gian như nhập lại một dòng trôi vi diệu vô thường…

Năm tháng vẫn như nụ cười trong mộng… ôi, Như Lai đâu có đi có đến…

Thời gian tiếng dương cầm, giờ như đang đọng từng hạt vàng trong nắng Già Lam. Đó Ngày Mộng của tôi. Ngày mộng khởi duyên cho bao thiện lành trong từng bước tu hướng về Người…

ĐỈNH ĐÁ NÀY VÀ HẠT MUỐI ĐÓ CHƯA TAN
(Tuệ Sỹ, Khung Trời Cũ)

Tôi kính ngưỡng nỗi u ẩn trong tình tự hạt muối chưa tan. Ôi biển đời kia xô động…

Cũng vì vậy, đọc thơ Tuệ Sỹ, tôi cứ thấy hình ảnh con đường dài, và muôn dặm bóng cô lữ một khung trời viễn mộng dằng dặc nỗi ưu tư,

Trời viễn mộng đọa đày đi mấy thuở
Mộng kiêu hùng hay muối mặn giữa trùng khơi

(Những Điệp Khúc Cho Dương Cầm)

Bước độc hành như sương hạt rơi khuya, như tiếng mõ trầm trầm hun hút ở rừng thẳm, ở núi cao… nhưng khó làm sao để tường tận cái chấp chới của vạt áo tỳ khưu đẫm ánh trăng đêm, của một vì sao bên khoé miệng rưng rưng, thấp thoáng ẩn hiện. Hiện lên Người và ẩn một cõi thơ tịnh tĩnh. Khó làm sao lọt được vào cõi im lặng tủy đá ấy…

Có chăng, tôi lần theo bằng nhịp đập của trái tim thơ khởi đi từ hạt lệ mở đường,

 Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn…

Cô quạnh và tự tại của hạt lệ đèn hòa thanh ánh trăng, và câu chuyện gì khiến thế gian nhỏ lệ? Đọc thơ Người thấy mình nhỏ bé quá dưới cái huyễn lộng, hay chỗ nào, vì sao hay, hỏi như hỏi mây xanh bay, theo như đuối dòng nước trôi hoài kia. Chuyện trăng tàn là chuyện gì, chưa nghe thấu nỗi đã rúng động. Trăng tàn giật mình sững sờ cái núi lạnh biển im, tấm lòng băng khiết?

Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan…

Hỏi, tại sao, vì đâu lòng muối kiên định… để bất khuất chưa tan?

Tưởng chỉ là Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ, bỗng vầng trăng vụt sáng mới hay Lãng du ai ngỡ cô liêu bạc đầu! (Tóc huyền) Cô liêu tóc trắng ấy cũng ngang ngửa với cái cô quạnh nghìn năm viên đá cuội. Nghe quá cảm khái trong câu hỏi hồn tôi đâu…

Viên đá cuội mấy nghìn năm cô quạnh
Hồn tôi đâu trong dấu tích hoang đường?

(Dạ Khúc)

Hay đó là mênh mang sầu của cánh mỏng về đâu, là chiếc lá xa mùa đau lòng phận nước?

Con bướm nhỏ đi về trong cánh mỏng
Nhưng về đâu một chiếc lá xa mùa…

(Mưa cao nguyên)

Tôi sứ giả hư vô
Xin gởi trong đôi mắt bà
Một hạt cát

(Hạt cát)

Sứ giả của hư vô, gửi vào đôi mắt một hạt cát, để khơi lệ huyễn mộng rực rỡ không dấu chấm hết? Một hạt cát chứa vô biên không gian thời gian.

Tất cả câu hỏi về thơ Người, chỉ có thể tìm được câu trả lời qua những bước chân cô độc kiên trì trên con đường dài Người đã đi, qua tấm lòng băng khiết Người đã sống với Đạo với Đời, qua nếp sống giản dị thanh bạch của hạt cát tinh tuyền, giờ hạt cát ấy đã lồng lộng hư vô, nhưng âm thanh của cát vẫn vang động. Nếu chúng ta cùng nghe được âm vang của một hạt cát thì sứ giả hư vô ấy là trái tim son sắt của Người.

NHỚ BUỔI NGHE SƯ ĐÀN

Cùng nhà thơ Lữ Kiều và Giai Hoa, 20.9.2009, tại cốc của sư trong vườn chùa Già Lam

Buổi trưa ngồi nghe sư đàn
Trăm con lá rớt. Tình tang cõi ngoài
Mùa đâu hốt đã thu phai
Một phương viễn mộng. Đọa đày*. Bao thu

Viên đá cuội nghìn năm*. Ru
Niềm cô quạnh. Dấu biệt mù. Âm xưa
Trăng tàn nhỏ lệ đèn khuya
Hắt con bóng dựng đá chờ nước non

Áo tỳ khưu. Dặm mỏi mòn
Trùng khơi. Hạt muối đó còn chưa tan…

Nguyễn Thị Khánh Minh
9.2020

* Thơ Tuệ Sỹ: Trời viễn mộng đọa đày đi mấy thuở/… Viên đá cuội mấy nghìn năm cô quạnh/ Hồn tôi đâu trong dấu tích hoang đường…

(Nguồn: tranthinguyetmai.wordpress.com)

Thuộc chủ đề:Gì đẹp bằng sen?, Nghĩ từ trái tim

Tuệ Sỹ: “Chén trà lão Triệu mà chưng hoa ngàn”

13/10/2023 By Bac Si Do Hong Ngoc 2 Bình luận

Chén trà lão Triệu mà chưng hoa ngàn

Đỗ Hồng Ngọc

Thị giả của Thầy Tuệ Sỹ nhắn tin tôi: Thầy Tuệ Sỹ đang ở Sài Gòn. Mời Bác đến Hương Tích chơi. Tôi đến. Tuệ Sỹ gầy ốm, xanh xao lắm. Nhưng vui vẻ, hoạt bát, thông tuệ như bao giờ!

Thầy Tuệ Sỹ và Đỗ Hồng Ngọc (ảnh Quảng Ngộ, 9.2023)

Thầy viết tặng tôi tập Thơ song ngữ: Dreaming the Mountain do Nguyễn Bá Chung và Martha Collins dịch (2023), cùng với cuốn Phạm Công Thiện của Nohira Munehiro (Võ Thị Vân Anh dịch) và Phật Học Luận Tập, số mới nhất.

Phần tôi, gởi tặng Thầy bản thảo “Một ngày kia… đến bờ” vừa mới viết xong. Trong đó tôi viết: Phật cũng già, cũng bệnh và… cũng chết; viết về Phật là Như Lai nhưng… Như Lai không phải Phật; về Thiền và những hormones hạnh phúc; về “Chất lượng cuộc chết” v.v…

Thầy đưa tôi coi mấy phiếu xét nghiệm và cười, nói: “Chỉ còn một nửa”. Đúng. Chỉ còn một nửa. Hématocrite chỉ còn 17%, Hémoglobine còn 7g/dL…

Mấy ngày sau tôi nghe sức khoẻ thầy đang rất yếu. Đã phải vào bệnh viện và được truyền 3 đơn vị hồng cầu lắng.

Trong bản thảo “Một ngày kia… đến bờ”, tôi có nhắc Je pense donc je suis của Descartes: Tôi tư duy, vậy có tôi. Vậy không tư duy là không… có tôi! Ta cũng có thể nói như một thầy thuốc: “Tôi thở, vậy có tôi”. Nghĩa là tôi không thở thì không có tôi. Nhưng cái thời tôi còn ở trong bụng mẹ, tôi cũng không thở mà vẫn có tôi đó thôi. Vậy phải chăng cái thời tôi… hết thở, tôi ngừng thở, thì tôi không còn nữa? Còn chứ! Tôi lúc đó lại trở về bào thai Mẹ, bào thai Như Lai (Tathagata-garbha) đó chứ!

Tuệ Sỹ viết trong Tổng quan về Nghiệp (2021), Thời kinh nói: “Thời gian đến, chúng sinh chín muồi; thời gian đi, chúng sinh bị hối thúc. Thời gian thức tỉnh chúng sinh…” Đây là tri giác về thời gian theo chu kỳ sống chết của sinh loại. Tri giác về thời gian cũng là tri giác về sự chết. Thời gian được biết đến từ tri giác về sự sinh thành và hủy diệt của một đời người.

Rồi khép lại hàng mi về cõi mộng

Như sương mai, như bóng chớp, mây chiều. 

Thì ra là lời của kinh Kim Cang đó:

Nhất thiết hữu vi pháp

Như mộng, huyễn, bào, ảnh

Như lộ diệc như điện.

Ưng tác như thị quán!

 

Thành ngữ kālaṃ karoti, “nó tạo tác thời gian”, nghĩa là nó chết. Đây không phải là tri giác mà là ám ảnh về thời gian như một thứ định mệnh không thể tránh, rồi ai cũng phải chết. Cho nên, về mặt ngữ nguyên, kāla, nghĩa là thời gian mà cũng có nghĩa là màu đen tối, màu của đêm tối, của sự chết. Kāla cũng được hiểu là do gốc động từ kal (kalayati) thúc giục, hối thúc, sự chết đang hối thúc ta (Tổng quan về Nghiệp,Tuệ Sỹ).

Lửa đã tắt từ buổi đầu sáng thế

Một kiếp người ray rứt bụi tro bay 

(Ngồi giữa bãi tha ma)

Trong bài “Phương nào cõi tịnh”, Tuệ Sỹ viết từ cảm hứng khi đọc cuốn “Cõi Phật Đâu Xa” của tôi về Kinh Duy Ma Cật (2017), ông dẫn 4 câu thơ, trích từ Giấc Mơ Trường Sơn:

Ta hỏi kiến nơi nào Cõi Tịnh,

Ngoài hư không có dấu chim bay?

Từ tiếng gọi màu đen đất khổ,

Thắp tâm tư thay ánh mặt trời. 

(Giấc Mơ Trường Sơn)

Phải, chỉ có Trí Tuệ (thắp tâm tư thay ánh mặt trời) mới có thể Từ Bi giúp ta vượt thoát màu đen đất khổ đó vậy!

Tuệ Sỹ cho rằng, “vì trình độ ngôn ngữ và năng lực tư duy của chúng ta vốn hữu hạn, cho nên bằng con đường nghệ thuật mà đi vào ngõ đạo có thể tương đối dễ hơn” (Phương nào cõi tịnh), ông chủ trương thơ, nhạc, vũ, kịch… có thể là “ngõ đạo”.

Ông thường nói về vở nhạc vũ kịch Duy Ma Cật, ở đó có hình tượng một Thiên nữ rải hoa trời tán thưởng một lời không nói (của Duy Ma…) và cõi của một lời không nói đó chính là cõi thơ.

Giữa thế giới Ta-bà và cõi Phật Chúng Hương, tòa sư tử và thành Tì-la-da, cái vô cùng lớn đến trong cái vô cùng nhỏ, và cái nhỏ đi vào trong cái lớn: đây cũng là cặp phản diện bối cảnh làm lộ rõ thể tính tồn tại của thế gian, vũ trụ. Bằng hình ảnh đó mà tập luyện cho tư duy vượt ngoài khuôn sáo ước lệ, vượt qua thế giới thường nghiệm để vươn lên cảnh giới siêu nghiệm, bất khả tư nghị.

Như thế, đọc Duy-ma-cật sở thuyết như đang xem một kịch bản, với những nhân vật và bối cảnh phản diện, với những biến cố mang đầy kịch tính, đó là cách tự huấn luyện và tự trang bị cho mình một công cụ định hướng tư duy để vươn lên chiều cao của giác ngộ.

Da mồi tóc trắng, chính là cảnh giới của Duy Ma. Cảnh giới đó là cõi đối biện thượng thừa; cõi im lặng vô ngôn bát ngát của cư sĩ Duy Ma Cật. Và cũng là cõi tịch mặc nhưng tráng lệ của thi ca.

Cười với nắng một ngày sao chóng thế

Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng

Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ

Bụi đường dài gót mỏi đi quanh 

(Khung trời cũ)

 

Tâm Thiền thì không có ngôn ngữ gì khác biệt với ngôn ngữ thường tình. Nhưng còn ngại rằng khi đã cạo tóc mà tình thơ vẫn còn. Thôi thì, thiền đạo và thi ca là đồng hay là khác, cũng chớ nên nghi ngờ mà tra hỏi.

Có lẽ “Những phím dương cầm” là bài thơ rất tình của ông tay em run trên những phím lụa ngà, anh trĩu nặng núi rừng trong đáy mắt, nhưng ông đã dặn “chớ nên nghi ngờ mà tra hỏi” rồi đó!

Tự hôm nào suối tóc ngọt lời ca

Tay em run trên những phím lụa ngà

 

Lời em ca phong kín nhụy hoa hờn

Anh trĩu nặng núi rừng trong đáy mắt

 

Mờ phố thị những chiều hôn mái tóc

Sóng ai ngồi so phím lụa đàn xưa 

(Những phím dương cầm)

Bởi theo ông, đạt tới cõi thượng thừa của Thơ, như người học Thiền chứng chỗ Không tịch của Đạo; cái đó vừa khó vừa dễ. Học Thiền ba mươi năm, ba mươi năm đày đọa thân tâm, mà không thành. Phẫn chí, bỏ đi; bất chợt thấy một cánh hoa rơi, cõi Không tịch cũng hoát nhiên, đột ngột mở ra. Chỗ ảo diệu đó, khó giảng cho thông! Muốn cho lời thơ tuyệt diệu, thì phải là đừng gò ép, vừa Không và vừa Tĩnh. Tĩnh cho nên thâu tóm hết mọi vọng động. Không cho nên bao hàm vạn cảnh. Ngắm nhìn sự đời, bôn ba giữa đời, mà thấy mình như nằm trên chóp đỉnh mây cao. Đủ hết các thứ mặn nồng, chua chát; trong đó có cái hương vị tuyệt vời. Thơ và Pháp (Đạo) không chống trái nhau, không hại nhau. (Tô Đông Pha, những khung trời viễn mộng, Tuệ Sỹ)

Đọc thơ Tuệ Sỹ, tôi thường ngẫm ngợi tại sao thơ ông thường nhắc đến ngày hội lớn, cung trời hội cũ?

Đôi mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũ

Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang 

(Khung trời cũ).

 

Người mắt biếc ngây thơ ngày hội lớn

Khóe môi cười nắng quái cũng gầy hao 

(Một thoáng chiêm bao)

Ngày hội lớn đó ở đâu? Cung trời hội cũ ở chỗ nào đó vậy? Sao nghe thấy quen quen!

A, có phải buổi hôm đó, dưới cội Bồ đề nơi Đức Phật thành đạo, Ngài nói đó là “quả an vui”, ở Hội thứ nhất của Avatamsaka, một thế giới hoa tạng mở ra bát ngát, Như Lai đã hiện tướng thành một vị Phật mắc biếc, ngây thơ, tủm tỉm cười… như hồi còn là chú bé 7, 8 tuổi ngồi xem Lễ Hạ Điền mà nhập định không hay?

Còn cung trời hội cũ kia phải chăng là Hội thứ chín, nơi rừng Thệ Đa, khi người ta nhập pháp giới, đi vào cuộc Lữ, để thấy được pháp giới thể tính mà thõng tay vào chợ?

Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở

Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan 

Trên đỉnh Hy-mã-lạp- sơn kia là những vỏ sò và dưới đáy biển sâu thẳm nọ là những hạt muối lâu đài thành quách…

 

Cõi thơ, có đến và có đi, nhưng không hề có dấu vết. Một cánh chim Nhạn, một cánh chim Hồng ngoài ven trời vạn dặm.

Tôi vẫn nghĩ, chính cõi thơ “không hề có dấu vết” kia đã “cứu rỗi” Tuệ Sỹ, một cánh chim Nhạn, một cánh chim Hồng ngoài ven trời vạn dặm, để ông được trở về với mái nhà tranh quen thuộc của mình mà “nâng chén trà lão Triệu”. (Phương nào cõi tịnh, Tuệ Sỹ).

Đỗ Hồng Ngọc

(Saigon, tháng 9.2023)

 

 

Thuộc chủ đề:Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Đỗ Hồng Ngọc: Thi Sĩ và Hơi Thở “Pranasati”

04/10/2023 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Đỗ Hồng Ngọc: Thi Sĩ và Hơi Thở “Pranasati”

Ngân Hà

 

Có lần lên thăm Thầy Thích Phước An trên Đồi Trại Thủy ở Nha Trang, Thầy nói: “Thi ca là một con đường khác để mình có thể đi vào trong chiều sâu của Phật Pháp”. Một vị cao tăng nói như vậy thì hiểu theo trải nghiệm của mỗi người chứ không nhất thiết là phải tranh luận thêm, và tôi vẫn tập tành trên con đường này để được trở về bên trong mình. Cho đến khi lớn lên, bỗng một ngày gặp thêm một vị đã tìm vào Phật Pháp bằng cả hai con đường: Y Khoa và Thi ca: bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc.

 

  1. Cái “thật tướng” mới đẹp làm sao

Trong số 7 cuốn thi ca và hơn 60 đầu sách về 3 lĩnh vực Y, Văn và Phật của tác giả Đỗ Hồng Ngọc, tôi đọc được khoảng… một phần ba các tác phẩm này thôi, còn thì đọc thêm trên trang nhà dohongngoc của ông nữa cũng lai rai thì không tính. Nhưng hễ có đầu sách mới ra là tôi chờ đợi, tò mò, mong được khám phá “Như Lai Tạng” của ông, các “Pháp” của ông biện biệt trong thi ca hay từng trang ông viết về sức khỏe thân tâm. Đọc ông viết về Phật Pháp dưới góc nhìn của một bác sĩ thì thấy được cái “điên đảo mộng tưởng”. Đọc ông viết về Phật Pháp dưới góc nhìn của một thi sĩ thì “còn nhớ trên đầu một chữ Như”. Đọc ông viết về Phật Pháp mà dưới góc nhìn của con người với tổng hòa các mối quan hệ xã hội thì “Hóa ra chỉ có một sự chân thành từ một tấm lòng mới đến được với tấm lòng”. Cuối cùng đi từ biện biệt để đạt đến một sự thinh lặng như không, chẳng còn lời giải thích nào nữa, là Thiền.

Ông cũng viết về Thiền và hành Thiền, và ông nắm nguyên tắc Thiền Anapanasati với câu chú tự trong ông miên mật “Thả lỏng toàn thân, thả lỏng chưa?”. Sau đó là bài vè mà ông sáng tác có tên “Pranasati” đúc kết các kỹ thuật Thiền:

Thả lỏng toàn thân/ Như treo móc áo/ Ngồi xếp bằng tròn/ Vai ngang lưng sổ/ Dõi theo hơi thở/ Như mượn từ xa/ Khi vào khi ra/ Khi sâu khi cạn/ Chú tâm quãng lặng/ Pranasati/ Hơi thở xẹp xì/ Thân tâm an tịnh/ Không còn ý tưởng/ Chẳng có thời gian/ Hạt bụi lang thang/ Dính vào hơi thở/ Duyên sinh vô ngã/ Ngũ uẩn giai không/ Từ đó thong dong/ Thõng tay vào chợ…

Định nghĩa về sức khỏe của ông cũng là một sự đúc kết từ chính cuộc đời mình mà ông đã tự bạch trong bài viết “Tôi bây giờ” năm 2023: “Khỏe là một trạng thái hoàn toàn sảng khoái (well-being) về thể chất, tâm thần và xã hội”. Nghe có vẻ rất… dễ hiểu đấy, nhưng mà sống chất lượng như thế thì phải luyện rèn chứ không thể chỉ nói suông và nghe suông. Trải nghiệm là lối đi của người trí đến với huệ, của tia chớp đạt ngộ khi nhận ra “cái thật tướng ấy mới đẹp sao” thì mới thấy “Tất cả mọi sự ở đời như giấc mộng, như huyễn, như bèo bọt, như ảo ảnh, như sương mai, như điện chớp…” nhận ra để không còn bám chấp hay ảo vọng thì mới thật có đời sống “Well-being”.

Người học Thiền ngày càng nhiều, đi hành Thiền ngày càng đông, nhưng để chuyển hóa thành thi ca với cái tên gọi riêng từ tiếng lòng mình đặt ra thì có lẽ tôi mới có biết được mỗi một mình ông.

 

  1. “Ở đó, ta có quãng lặng”

Nhà thơ William Blake đã có 4 câu thơ được truyền tụng đến ngày nay: “Thấy thế giới trong một hạt cát nhỏ/ Và thiên đường trong mỗi đóa hoa tươi/ Giữ Vô hạn trong bàn tay hé mở/ Và Thiên thu trong khoảnh khắc cuộc đời”, nhưng ít ai đọc được điều này từ Blake: “Trong vũ trụ, có những thứ đã được biết đến, và những thứ chưa được biết đến, và ở giữa, có những cánh cửa”.

Có lẽ thi sĩ Đỗ Hồng Ngọc cũng đã tìm ra con đường của mình để đi vào những cánh cửa ở giữa đó: “Và tôi, nhờ cái vốn y học, đã tìm trong Cơ thể học, Sinh lý học, Thần kinh học, Tâm lý học… từ đó mà thấy con đường rất khoa học Phật đã dạy cho Thiền Định: Anapanasati, Quán niệm hơi thở… Từ đó tôi nghiền ngẫm thực hành và đặt một từ cho riêng mình: “Pranasati”: đặt Niệm vào khoảng trống ở giữa hai hơi thở vào và hơi thở ra. Khi vào Định thì không còn “nhớ nghĩ” gì đến hơi thở nữa… Đó có thể coi là một bardo, trung gian giữa hai hơi thở vào và hơi thở ra. Ở đó, ta có quãng lặng, không thở, ngưng thở, một “quãng chết ngắn”. Đó là cách “tập chết” hiệu quả mỗi ngày mà có lẽ các hành giả Mật thừa trải nghiệm quá trình sự chết, học tập sự chết… Pranasati cũng được người xưa coi là “Nguồn sống” ấy là cõi không thở, cõi trước khi thở… Đây cũng chính là giai đoạn người ta sống trong bào thai mẹ, hay trở về bào thai Như Lai, Như Lai tạng”.

Cái “quãng lặng” ấy thật vi diệu và sâu thẳm tận cùng. Trong âm nhạc, quãng lặng để cảm xúc được giữ lại ngưng đọng rồi vọt trào. Trong hội họa, quãng lặng là những tiếng thở cuối cùng đọng lại khi ta rời khỏi tác phẩm. Trong thi ca, khoảng lặng chính là “đêm tối với khoảng trống trần gian” của Rilke. Trong quãng lặng của Đỗ Hồng Ngọc, ta chẳng thấy gì nữa khi đã thực sự bước qua bờ bên kia nhờ “Nguồn sống” Pranasati.

Trong kinh Luận Vãng Sanh mà tôi từng đọc trong những ngày đầu sau người thân lìa đời, bài kinh dài với nhiều từ ngữ liệt kê, tôi nhận ra mình đã vô cùng kinh ngạc khi đọc câu: “Cái không” không thể nào hủy diệt “cái không”. Chính lời này đã giúp cho tôi và người đã ra đi được an lành đến cõi sáng.

Đó phải chăng chính là khởi sự cho sự chết bắt đầu bằng sự sống quy hồi vĩnh cửu?

Chỉ trong khoảng vài trăm chữ ngắn ngủi, nhưng bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đã mô tả rõ ràng về cái chết và sự tái sanh liền kề trong chứng nghiệm của riêng ông. Nếu một y sĩ mà không đi vào các Pháp bằng con đường của thi ca, thì ông sẽ chứng nghiệm thế nào? Đó là câu hỏi mà tôi dành lại cho sự chứng nghiệm của các bạn đọc, bởi vì tôi, sau khi đọc những dòng trên thì đã tự trả lời cho riêng mình rồi.

 

  1. Hạt bụi và cánh bướm

Mở đầu tác phẩm “Triết học về Tánh không”, thầy Tuệ Sỹ ghi vài dòng lời của triết gia Martin Heidegger mà tôi tạm dịch là: “Vào một ngày hè, con bướm đậu trên bông hoa và khép cánh, đung đưa theo gió đồng cỏ nội” (Aus der Erfahrung des Denkens – Kinh nghiệm Tư tưởng)

Tác phẩm này Ôn Tuệ Sỹ viết ở tuổi hai mươi lăm với câu kết “Nếu ta coi nó như là ngón tay chỉ mặt trăng, vậy thì mặt trăng đang lơ lửng nơi phương nào?…”

Tôi đọc một câu mang tư tưởng triết lý mà nghe ra trong đó có thi ca, âm nhạc và cả hội họa. Hình ảnh cánh bướm, sự tĩnh tại khi đong đưa đôi cánh theo hơi thở đồng nội thanh tân. Tôi càng cảm khái hơn khi đọc những dòng tác giả Đỗ Hồng Ngọc trong bài “Con đường trung đạo”, ông ghi lại hình ảnh Đức Phật lúc mới khoảng 10 tuổi, theo vua cha làm lễ Hạ Điền đầu năm, “ngồi dưới bóng cây giữa cánh đồng mát mẻ, không bị “dính mắc” gì với buổi lễ Hạ điền dưới kia, lúc đó Ngài chẳng biết gì về tham thiền, nhập định hay tứ thiền bát thiền gì cả vì hãy còn rất nhỏ, chỉ biết hồn nhiên, trong sáng, vậy là đã ly dục, ly tầm ly tứ, vào sự sảng khoái lâng lâng gọi là hỷ lạc và đã thực sự thanh tịnh… Nếu sống hồn nhiên như một em bé thảnh thơi, thanh tịnh thì đã vào Tam muội Phổ Hiền rồi vậy!”.

Cho nên, đối nghịch với cái ngây thơ trong sáng tĩnh lặng thảnh thơi ấy, con người tự đọa mình vào những “hì hục từng bước từng cấp, tu đến “xì khói” với bao mong cầu ước nguyện…, “Ngã” cứ ngày càng to đùng ra, nào chùa to Phật lớn, nào lên chức lên lon, huênh hoang màu mè diêm dúa, rồi hù dọa chúng sanh để vinh thân phì gia… thì không còn hành trì Chánh pháp nữa”, bác sỹ Đỗ Hồng Ngọc viết.

Bài viết cuối cùng trong tập bản thảo Một Ngày Kia Đến Bờ, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đặt tựa “Tôi bây giờ”, còn tôi thì mạo muội thêm vào vế sau “chính là Như Lai – Nó đến vậy đó” như nguyên nghĩa của “như lai”. Và tôi thấy ông đang có đời sống trẻ thơ “Từ tuổi 60 đến giờ bệnh lai rai. Tôi kệ nó. Tôi không thích mấy thứ xét nghiệm nọ kia. Và rất hạn chế dùng thuốc. Nhất là không ưa mấy thứ quảng cáo bổ dưỡng này nọ, theo tôi, không bằng ăn cơm với cá kho, với khô nướng, rau luộc, khoai lang, bắp và chè các thứ…”. Mà lại càng đúng bởi đã sống sau một lục thập hoa giáp, thì từ sáu mươi trở đi là trở về lại làm đứa trẻ hát ca lang bạt kỳ hồ cho đến một ngày kia đến bờ… gaté gaté paragaté parasamgaté bodhi svaha” thôi chứ còn tham sân si với hỉ nộ ái ố làm chi. Đã biết sống hạnh phúc “well-being” thì sẽ rời đi trong niềm vui “well-dying”.

Như cánh bướm mùa hè yên lặng đong đưa trong gió đồng nội thổi tới của Heidegger, như W. Blake “thấy thế giới trong một hạt cát nhỏ và Thiên đường trong mỗi đóa hoa tươi”, thì thi sĩ Đỗ Hồng Ngọc đã trở mình với “Hoàng hôn sóng vỗ bên trời biếc/ Sóng vỗ trong hồn ta ngẩn ngơ…” (trích Thơ Đỗ Nghê).

Cánh bướm, hạt bụi, hoàng hôn, sóng vỗ… trong cõi vô cùng vô tận của vũ trụ càn khôn này, có phải chăng cũng chính là ưu tư về Tánh Không Luận của Tuệ Sỹ đã tự đặt câu hỏi và trả lời ở tuổi hai mươi lăm: “Trong tư tưởng, mọi sự trở thành cô liêu và lững thững”.

Còn tôi thì xin tặng bài “vè” này cho tác giả Đỗ Hồng Ngọc:

Thì giờ đây mọi sự đã rõ rồi
Tôi là tôi, Tôi Bây Giờ là tôi
Tôi là Nó cùng đến như vậy đó
(Tịnh Thủy)

 

Ngân Hà

(phatviet.info 3.10.2023)

.

 

Thuộc chủ đề:Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định, Thiền và Sức khỏe

LỜI BẠT viết cho cuốn Tuỳ bút “MỘT NGÀY KIA… ĐẾN BỜ” của Đỗ Hồng Ngọc. 

06/09/2023 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

LỜI BẠT viết cho cuốn Tuỳ bút “MỘT NGÀY KIA… ĐẾN BỜ” của Đỗ Hồng Ngọc. 

Nguyễn Minh Tiến

Tôi nhận được bản thảo này của anh Đỗ Hồng Ngọc với lời nhắn gửi thân tình:
“Anh nhờ em ĐỌC giùm, và viết cho anh một lời Bạt.” Chữ “đọc” anh cố ý viết in
hoa làm tôi hơi… sợ. Với một bậc đàn anh đa tài mà tôi luôn kính trọng, tôi tự biết
việc đọc và viết lời Bạt cho tập sách đặc biệt này của anh quả thật không dễ. Tôi
không dám chắc rằng mình có thể đọc hiểu đúng và đủ những ý tưởng độc đáo của
anh để có thể viết ra một lời Bạt đúng nghĩa.

Nhưng rồi hôm nay vẫn phải mở sách ra đọc để cố gắng viết một lời Bạt như lời
anh dặn, cũng là lúc một trong những người đàn anh thân thiết đã vĩnh biệt chúng tôi
để ra đi “về cõi hoang sơ” như lời thơ anh ấy nói. Có vẻ như khi mái tóc đổi màu
thì chúng ta càng có nhiều cơ hội hơn để cảm nhận những bài học về vô thường.

Anh Đỗ Hồng Ngọc là người từ lâu tôi quý mến, và anh cũng xem tôi như đứa em
thân thiết, nhưng không phải vì thế mà tôi dám dễ duôi tự cho phép mình quên đi
việc anh là một “cây đại thụ” trong thế hệ những người đi trước mà tôi may mắn
được biết tên. Tôi từng đọc Nguyễn Hiến Lê viết về anh: “Một bác sĩ, lại là một thi
sĩ thì luôn làm cho chúng ta ngạc nhiên một cách thú vị…” Tôi biết, không có
nhiều nhà thơ hay nhà văn đương thời tạo được ấn tượng tốt đẹp với lời ngợi khen
như vậy từ một người uyên bác và nghiêm túc như Học giả Nguyễn Hiến Lê, và
bọn hậu sinh như chúng tôi không thể không vui mừng khi may mắn có được tấm
gương sáng như anh để noi theo, trong sự học tập cũng như khi tập tành viết lách.
Và bây giờ thì anh đã cho tôi thêm một sự ngạc nhiên thú vị nữa qua tập sách này,
khi anh còn là một tấm gương sáng trong sự tu tập Phật pháp. Tôi bỗng dưng muốn
lặp lại nhận xét của Học giả Nguyễn Hiến Lê, tất nhiên là với một chút “cải biên”
của riêng tôi: “Một nhà văn, bác sĩ, lại là một thiền sư thì luôn làm cho chúng ta
ngạc nhiên một cách thú vị…”

Tôi biết là anh không muốn và thậm chí có thể sẽ trách nhẹ tôi vì đã gọi anh là
“thiền sư”, nhưng tôi không… sợ. Vì tôi tin là tôi có thể chứng minh rằng tôi nói
đúng. Sự kết hợp những phẩm tính của nhà văn, bác sĩ và thiền sư trong anh đã hòa
quyện, biểu lộ rất rõ với tập sách này.

Ngay cái tựa đề “Một ngày kia đến bờ” mà anh mượn trong ca từ nhạc phẩm Phôi
pha của Trịnh Công Sơn cũng đã cho thấy cái tố chất mơ màng lãng mạn của một

nhà văn. Nhưng trong khi Trịnh Công Sơn gây cho chúng ta một nỗi buồn man
mác khi nhìn lại “đời người như gió qua” thì Đỗ Hồng Ngọc lại chuẩn bị cho “một
ngày kia đến bờ” với tinh thần tích cực của một người học Phật và hiểu Phật, cho
một cuộc viễn du với tấm thông hành đóng dấu “well-dying”.

Và khi nghe anh bàn về “well-being” với “well-dying” thì chúng ta không còn nghi
ngờ gì điều đó nữa. Anh nói về những chuyện này với tư cách là người trong cuộc,
không giống như bàn chuyện người khác. Những gì anh nói, ta có thể thấy rõ đều
là những cảm nhận, những trải nghiệm của riêng anh, bằng chính cuộc đời mình.
Anh đã “well-being” ngay cả trong nhiều hoàn cảnh khắc nghiệt, bệnh tật, thiếu
thốn… từ thời thơ ấu, và tiếp tục “well-being” cho đến nay vào độ tuổi U90, độ tuổi
của những chiếc lá vàng hiếm hoi cùng thời với anh còn sót lại. Vì thế, chúng ta có
đủ căn cứ để tin rằng những gì anh nói, anh làm, hoàn toàn có thể bảo đảm cho anh
một viễn cảnh “well-dying” tốt đẹp như dự tính.

Nhà Thiền có câu “sinh tử sự đại”, nay anh đã đối diện, giải tỏa và vượt qua được
cái ngưỡng “sự đại” đó thì chuyện “một ngày kia đến bờ” hẳn cũng là một lẽ
đương nhiên, và chắc chắn rồi sẽ đến trong sự thản nhiên của một “người vô sự”
theo đúng tinh thần của nhà Thiền.

Điều đáng nể phục nơi anh là ở độ tuổi vào bậc huynh trưởng của hàng “cổ lai hy”
nhưng ngòi bút của anh vẫn không mất đi nét dí dỏm, hài hước xưa nay vẫn thường
gặp ở giọng văn anh. Cái chất hài hước nhẹ nhàng ấy như bàng bạc trong mọi tác
phẩm của anh, dù là khi anh viết về chuyện sức khỏe, chuyện văn chương hay ngay
cả về Phật học. Tôi đã gặp không ít người trì tụng hoặc tìm hiểu kinh Pháp Hoa,
nhưng đọc kinh Pháp Hoa mà nhìn thấy được Phật Thích-ca bước vào bảo tháp
“tay bắt mặt mừng” với Phật Đa Bảo thì duy nhất chỉ có anh. Những vấn đề khô
khan trong y học, phức tạp và siêu hình trong Phật học, qua ngòi bút của anh đều
trở nên nhẹ nhàng, vui vui, dễ tiếp nhận.

Và lần này, giọng văn hài hước của anh không ẩn giấu nữa mà khởi đầu ngay từ
tiểu mục “Nghĩ tức cười”, ấy là anh muốn công khai nêu ra những cái “tức cười”
trong cuộc tồn sinh của vạn hữu từ muôn triệu năm nay (hay còn lâu hơn nữa?)…
mà thật ra ai cũng nhìn thấy nhưng lại chẳng biết cười như anh. Bây giờ nghe anh
nói rồi thì thấy đúng là thật “tức cười”.

Nhưng với Đỗ Hồng Ngọc thì cười không chỉ để… mà cười. Cái cười của anh thật
ra là thâm trầm, sâu lắng, khởi đi từ manh mối của sự “Nhìn lại mình”, vốn là khởi
đầu cốt yếu của mọi pháp môn tu tập trong Phật pháp. Không “nhìn lại mình” thì
có bỏ nhà lên núi tu hành miên mật năm bảy chục năm cũng không mong gì đạt
được sự giải thoát hay giác ngộ. Bởi vậy, anh cười như kiểu “vui thôi mà” nhưng
lại bật ra một câu hỏi làm nhiều người choáng váng: “Có kiếp sau không?”
Choáng váng là vì đối với những con người còn đầy tham chấp hỷ nộ ái ố, vất vả
lắm mới quên đi được câu hỏi ấy để sống vui thì bỗng dưng anh khơi lại vấn đề
khiến họ không thể nào vui sống.

Mà thật ra thì anh cũng chỉ đùa thôi. Bởi anh không hỏi để tìm câu trả lời, mà chỉ
để gợi ra những phương thức rất tuyệt vời giúp mọi người vui sống. Đó chính là rõ
biết và chấp nhận “bốn thứ ma” (bởi không nhận thì chúng cũng đang có đó) và
“bắt tay làm hòa”, vui sống với chúng. Nhưng thử nghĩ mà xem, làm được như anh
nói chẳng phải đã là một thiền sư “thõng tay vào chợ” rồi đó sao? Đâu còn bận
lòng gì với tử sinh, sinh tử?

Nhưng rồi anh quá rõ biết tâm niệm “chúng sinh” nên tuy nói vậy mà vẫn ân cần
giải thích. Hẳn anh biết là rất nhiều người trong chúng ta vẫn còn luôn ưu tư, thắc
mắc. Anh nói về “nghiệp”, về “bản ngã” và rồi cuối cùng chỉ ra một sự thật để ta
thấy rằng mỗi người chỉ có thể nỗ lực tự tu tập để cứu lấy chính mình, bởi vì “Phật
cũng già, cũng bệnh”, và tất nhiên là rồi… cũng chết.

Chỉ qua mấy đoạn văn ngắn với cách đề cập “vui vui” rất đặc thù của riêng anh,
người đọc như bừng tỉnh để nhìn lại chính mình và tự thấy ra cái “cuộc đời như
gió qua” này thật không đáng để chúng ta ôm giữ mãi quá nhiều khổ đau mà hầu
hết đều do chính mình tạo ra. Một cái nhìn nhẹ nhàng nhưng sáng rõ về cuộc đời sẽ
giúp cho cuộc sống của chúng ta cũng tự nhiên trở nên nhẹ nhàng hơn. Phải chăng
đây là định nghĩa thiết thực và dễ hiểu nhất của sự giải thoát?

Tập sách khá mỏng nhưng anh đã đề cập đến hầu hết các phần giáo lý quan trọng
từ những bộ kinh quan trọng của Phật giáo như Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Kim
Cang, Duy-ma-cật… Đây thật đúng như tinh thần mà anh tự bộc bạch: “Tôi chỉ học
lõm bõm ít kinh Phật…, và cũng chỉ học lấy cái ‘cốt lõi’”.
Thì quả đúng vậy. Những kinh anh đã đọc qua và nhắc đến, nếu so với số lượng
Kinh điển Phật giáo hiện còn trong hai tạng Nam truyền và Bắc truyền thì quả thật

là quá ít. Nhưng hai chữ “lõm bõm” của anh thì tôi thật không khỏi hoài nghi, bởi
lời anh nói là “chỉ học lấy cái cốt lõi” thì quả thật không phải ai cũng làm được.
Bởi muốn làm được cái việc “đãi cát chọn vàng”, từ vô số những ngôn từ phương
tiện Phật đã thuyết trong kinh mà trích xuất ra được “cái cốt lõi” thì phải hết sức
thông thuộc, am hiểu thấu đáo mới có thể làm được.

Tuy nhiên, cũng nên lưu ý rằng “cái cốt lõi” mà anh rút ra từ Kinh điển là “cái cốt
lõi” cho riêng anh, anh không hề có ý đưa ra để làm khuôn mẫu cho ai khác. Chính
cái tinh thần tự khai phá, tự tìm tòi trong sự tu tập của anh mới là tấm gương sáng
để chúng ta noi theo. Anh nói rõ: “Có tới 40 đề mục để thiền quán, tôi chỉ chọn
một…” Với tôi, chính sự chọn lựa này có thể đã quyết định phần lớn khả năng
thành công trong tu tập. Rất nhiều người khi mới đến với thiền phải loay hoay rất
lâu giữa các lựa chọn khác nhau, bởi không biết chắc được mình thích hợp với đề
mục nào, phương pháp nào. Khi hành giả xác định được một chọn lựa thích hợp
cho chính mình, sự tu tập sẽ dễ dàng và hiệu quả hơn rất nhiều, bởi có thể tập trung
toàn bộ tâm ý vào đề mục đó mà không bị phân tán bởi các lựa chọn khác.
Tôi cũng thực sự thán phục khi đọc qua những tiểu mục anh nêu đại lược chặng
đường anh tìm đến và đi qua nội dung những bộ kinh lớn.

Tôi có cảm giác anh như một nghệ sĩ tài hoa đang ngắm nhìn và cảm thụ một bức
tranh đẹp, không mất nhiều thời gian cho những họa tiết, phông nền… mà có thể dễ
dàng nhận biết ngay những đường nét chính yếu, những ý nghĩa ẩn tàng mà tác giả
muốn thể hiện. Bởi vậy, những bộ kinh đồ sộ đối với nhiều người trong chúng ta
thì qua mô tả của anh trở nên gần gũi, dễ tiếp nhận hơn, nhưng không vì thế mà
mất đi phần tinh túy. Tôi cũng từng đọc Pháp Hoa, Duy-macật… như anh, nhưng
tôi chưa bao giờ có được khả năng “tóm lược” một cách rõ ràng các điểm tinh yếu
của giáo pháp theo cách như anh.

Một sự “ngạc nhiên thú vị” khác cần đề cập đến ở đây là anh cũng “tóm lược” cả
cuộc đời mình từ ấu thơ cho đến… U90 một cách mạch lạc, dễ hiểu nhưng đầy đủ,
cũng như điểm qua được hầu hết những thành tựu từ ngòi bút của anh trong cả ba
lãnh vực: văn chương, y học và Phật học. Anh chỉ điểm “sơ sơ” thôi mà có đến 7
tập thơ, hơn 60 đầu sách… Những con số hẳn là phải gây ấn tượng với bất kỳ người
cầm bút nào.

Sự “đầy đủ” trong những tóm lược của anh nên được hiểu theo ý nghĩa do chính
anh nêu ra, “bởi chính đó là một trong những yếu tố của ‘chất lượng cuộc chết’”,
và nếu nói theo thuật ngữ chuyên ngành cũng do anh đề nghị thì đó là “well-
dying”. Hẳn độc giả sẽ không khỏi ngạc nhiên đầy thú vị khi thấy hành trình cả
một đời người rồi sẽ chi phối như thế nào đến “chất lượng” của chuyến đi xa cuối
đời.

Có 26 tiểu mục được anh đưa vào tập sách, với những chủ đề dàn trải hầu như đề
cập đến tất cả những vấn đề quan trọng trong sự tu tập, từ sự nhận hiểu tinh yếu
giáo pháp cho đến kinh nghiệm thực hành. Độc giả có thể từ từ, thong thả “nhâm
nhi” từng tiểu mục ngắn trong sách này, mà theo tôi rất nên đọc lại nhiều lần để
thấy hết được sự tài tình của anh khi biến mọi vấn đề khô khan hay trừu tượng,
siêu hình trở nên gần gũi, dễ hiểu, thiết thực và… hấp dẫn. Nhưng đối với riêng tôi,
những phần “hấp dẫn” nhất chính là khi anh chia sẻ “vài kinh nghiệm riêng”,
những điều không thể tìm thấy trong bất kỳ bài thuyết giảng hay luận văn Phật giáo
nào. Đó là những điều theo tôi hoàn toàn thể hiện được “dấu ấn Đỗ Hồng Ngọc”.

Chẳng hạn, anh chia sẻ một câu “thần chú” chưa từng có ai tụng đọc trong Phật
giáo, nhưng đúng là sẽ rất ư “linh nghiệm” đối với nhiều người. Câu thần chú đó là
“thả lỏng toàn thân thả lỏng chưa” mà anh thường “tụng” khi ngồi xuống bắt đầu
thiền tọa.
Thật ra, “thả lỏng” hay “buông thư” là điều mà bất cứ vị thầy nào khi hướng dẫn
thiền tập cũng đều nhắc đến, nhưng chia sẻ quan trọng của anh ở đây là sự nhấn
mạnh phải “thả lỏng toàn thân” cũng như tính chất quyết định của việc này, mà
anh cho rằng nếu không làm được thì sẽ “hỏng bét”.
Dù vậy, không phải ai cũng may mắn có được khả năng “thả lỏng toàn thân” ngay
tức khắc khi ngồi xuống bắt đầu thiền tập. Một số người, thật ra là đa số, tuy vẫn
muốn làm thế nhưng chưa thể làm được. Điều này cũng bình thường thôi, vì cần
phải có công phu luyện tập qua thời gian. Nhưng nguyên tắc chung được áp dụng
cho mọi trường hợp là thân và tâm luôn tương quan chặt chẽ với nhau. Do vậy, nếu
khi bắt đầu thiền tập mà toàn thân chưa buông thư hoàn toàn thì cũng không nên lo
lắng, chỉ cần tiếp tục giữ tâm an tĩnh, chú ý vào đề mục thiền đã chọn thì sau một
thời gian, chắc chắn mọi việc sẽ tốt hơn. Khi tâm an tĩnh thì thân cũng sẽ dần dần
đi vào trạng thái buông thư, cơ bắp giãn ra, không còn “căng cứng” nữa. Tuy nhiên,

vì điều này thực sự rất quan trọng nên việc “tụng thần chú” như anh nói để
nhắc nhở chính mình khi bắt đầu thiền tập là rất hữu ích.

Một chia sẻ quan trọng khác của anh cũng hết sức thú vị là mối tương quan giữa
tình trạng thiếu oxy kinh niên (chronic hypoxia) của não với trạng thái hỷ lạc, lâng
lâng sảng khoái của thiền giả. Anh giải thích theo cách nhìn của khoa học thì có
thể là do tình trạng thiếu oxy làm cơ thể tạo ra các hormone liên quan đến trạng
thái hạnh phúc, sảng khoái đó. Anh cũng liên kết hiện tượng này với kinh nghiệm
riêng của anh sau những cơn bệnh sốt rét và cho rằng có thể việc thiếu hồng cầu
khiến cơ thể thiếu oxy đưa đến trạng thái sảng khoái sau mỗi cơn sốt rét hồi nhỏ. Và anh
cũng đưa ra giả định rằng các thiền sư thường tìm lên núi cao để dễ tu tập vì trên
đó không khí loãng, tỷ lệ oxy thấp, như vậy tất nhiên hành giả dễ rơi vào tình trạng
thiếu oxy, từ đó có được trạng thái thiền duyệt, sảng khoái.

Tất nhiên, đây là những dữ kiện rất lý thú và chắc chắn cần được nghiên cứu thêm
trước khi có thể vận dụng vào thực tiễn. Nhưng người học thiền cũng nên dè dặt
với những mối liên kết giả định như vậy. Việc hạn chế cung cấp oxy cho cơ thể
qua việc kiểm soát hơi thở là điều mà người tập thiền hoàn toàn có thể làm được,
nhưng nếu như có ai muốn thử nghiệm dùng cách này để đạt được thiền duyệt thì
chắc chắn là không nên, thậm chí còn rất nguy hiểm. Khi thiền giả đi sâu vào định
thì hơi thở sẽ chậm dần đi cho đến lúc gần như chỉ còn duy trì ở mức tối thiểu.
Nhưng đó là một hiện tượng tự nhiên do nhu cầu oxy của cơ thể giảm mạnh chứ
không phải do thiền giả cố ý tạo ra, và tình trạng cơ thể khi đó tiêu thụ rất ít oxy
chứ không phải thiếu oxy. Đỗ Hồng Ngọc cũng nhắc trong thiền tập phải hết sức
thận trọng, không nên “nín thở” để mong được mau vào thiền vào định!

Tuy nhiên, việc đề cập đến mối tương quan “thân – tâm” này quả thật vô cùng lý
thú. Điều này cũng cho thấy rằng thiền tập chẳng những thiết yếu cho một cuộc
sống hạnh phúc mà còn luôn mang lại cho mỗi chúng ta những khám phá mới,
những điều mới mẻ và cuốn hút.

Tôi đã đọc say mê cả tập sách này không một lần dừng lại, không chỉ bởi lối văn
nhẹ nhàng mà hấp dẫn của anh, mà còn phần lớn là do cách anh trình bày những
vấn đề rất độc đáo, rất ư là… Đỗ Hồng Ngọc, nghĩa là không thể nhầm lẫn với ai
khác.

Lời cuối cùng muốn nói ở đây là tôi mong gặp lại anh biết bao! Từ lần cuối ghé
nhà thăm anh đến nay e cũng đã gần chục năm rồi chưa gặp lại, và giờ thì tôi với
anh ở hai đầu… trái đất. Mặc dù thường liên lạc với anh qua email, qua điện thoại,
nhưng tôi vẫn luôn muốn gặp lại để được ngắm nhìn khuôn mặt anh, khuôn mặt
như lúc nào cũng ẩn chứa một nụ cười hoan hỷ và sẵn sàng nở ra để lan tỏa niềm
vui sống đến với người đối diện.

Cảm ơn anh rất nhiều đã một lần nữa cho tôi “những ngạc nhiên đầy thú vị”.
Mong cho tập sách này sớm ra đời và đến tay bạn bè thân hữu, để một lần nữa “có
dịp chí chóe cho vui” như lời anh nói.

Quế Minh Đường (Westminster), California
Tháng 9 – 2023
Nguyễn Minh Tiến

………………………………………………………………………………………….

Có thể đọc Ebook “Một Ngày Kia… Đến Bờ” V2 ngày 11.9.2023 trên dohongngoc.com

Thuộc chủ đề:Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Ngô Tiến Nhân: “ Du học “ chùa Tây Trúc – Lộc ninh

04/03/2023 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

“ Du học “ chùa Tây Trúc – Lộc Ninh

Ngô Tiến Nhân (Fb)

Theo thông lệ Nhóm Học Phật chùa Xá lợi sau những buổi “ dùi mài kinh sử “ tại Trung tâm Phật học lại tổ chức một ngày “ đi điền dã “ , “ nhập Pháp giới “ đặng coi cái Lý cái Sự có viên thông chăng ?
Kỳ này Trưởng tràng BS ĐHN chọn Tây du – Chùa Tây trúc, một ngôl chùa lá đơn sơ ở Lộc ninh một vùng quê nghèo, đất cằn cháy nắng nằm không xa biên giới Căm pu chia !
Không ngẫu nhiên ;
Sau chặng đường dài ( khởi hành từ 5.30 ) ngôi chùa giản dị hiện ra trong khung cảnh đồng quê hiền hoà. Ân cần tiếp đón đoàn là Sư cô trụ trì Thích nữ Trung Hiếu, tốt nghiệp Học viện Phật giáo K7, quê Bình định song chọn mảnh đất khô cằn, người dân lam lũ này làm nơi hoằng Pháp .
Khoan 60m đem nước phủ màu xanh, cùng dân làm 700.000 liều thuốc điều trị Covid, phổ biến giáo lý, chép kinh Pháp hoa “ nhất Tự – nhất Bái “ ( lạy mỗi chữ – một cách hành trì riêng )…
Và tâm hồn Thi sỹ trải trong 4 tập thơ tặng Đoàn.
Không thể bỏ qua buổi đàm đạo lý thú về liễu nghĩa Kinh Pháp hoa giữa Cô và Đoàn !
Thật là Trùng trùng duyên khởi .
Giờ mới hiểu tại sao Trưởng tràng Bác sỹ – Thi sỹ ĐHN chọn Tây trúc làm điểm đến hôm nay !
Thật ấm áp khi đến đây, chợt nhớ câu :
Phụng sự Chúng sinh là cúng dường Chư Phật !

……………………………………………………………………

(Vài hình ảnh và chú thích của ĐHN)

Thăm chùa Tây Trúc, Lộc Ninh ngày 1.3.2023)

 

 

 

Nhóm Học Phật chụp chung tấm hình kỷ niệm trước phòng trưng bày thư pháp “Chuyện Đạo Chuyện Đời” của chùa Tây Trúc.

trà đàm trao đổi kinh nghiệm học Phật

thăm hỏi bệnh tình phụ thân Sư cô đang nằm chữa trị tại chùa.

Trên đường về, Nhóm Học Phật ghé thăm chùa Phật Quốc Vạn Thành, có tượng Phật cao 73 m, ở Bình Long (Bình Phước).

Thuộc chủ đề:Gì đẹp bằng sen?, Nghĩ từ trái tim

Thích Phước An: GIÓ BẤC CUỐI NĂM

19/01/2023 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

GIÓ BẤC CUỐI NĂM

Thích Phước An

(Chùa Hải Đức, Nha Trang)

 

Trong một lá thư viết cách đây hơn một năm (2021) gởi cho bác sĩ, nhà thơ

Đỗ Hồng Ngọc, GS Cao Huy Thuần đã nhắc đến Mark Epstein, là một bác sĩ

nổi tiếng của Mỹ, đã từng cộng tác trong ngành chuyên môn về phân tâm học

với Freud với Jung. Từ môi trường này, Epstein đã bắt gặp được tư tưởng Phật giáo,

ông say mê Phật giáo đến độ phải lặn lội qua Tây Tạng để học Phật. Và rồi cuối cùng

ông đã nổi tiếng cả hai, nghĩa là vừa là một bác sĩ giỏi lại vừa là một nhà Phật học uyên thâm,

và Giáo sư Cao Huy Thuần đã cho rằng, việc đó chẳng có gì lạ,

vì theo lời ông “Đức Phật của chúng ta đã chẳng phải là một thầy thuốc đó hay sao?”

Nhưng vì sao Đức Phật lại được tôn xưng là Y Vương? Và Ngài đã có

phương thuốc gì hay để chữa bệnh cho chúng sanh mà một thầy thuốc lỗi lạc như

Epstein phải rời thế giới văn minh tiến bộ của Tây Phương để lặn lội đến Tây

Tạng, một quốc gia sống biệt lập trên núi cao nhất thế giới, và gần như không bận

tậm gì mấy đến nền văn minh hiện đại của nhân loại để nghiên cứu Phật Giáo?

“Thầy thuốc chỉ chữa được cái đau mà không chữa được cái khổ, chữa được cái

bệnh mà không chữa được cái hoạn.

Phật là bậc Y Vương, giúp chúng sanh giải thoát mọi khổ đau, ách nạn.

Tại sao ta không học Phật?”

Đó là lời bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc được đặt trang trọng nơi trang đầu của tác

phẩm, có đầu đề rất khiêm tốn là Tôi Học Phật, dày khoảng 800 trang.

Chính vì thế, chúng ta thấy trong các bộ kinh Đại Thừa thì bác sĩ Đỗ Hồng

Ngọc có vẻ đã say mê nhất là Kinh Kim Cang. Vì sao? Nơi trang 211 tác phầm Tôi Học

Phật, bác sĩ đồng thời cũng là nhà nghiên cứu Phật học đã cho biết lý do vì sao ông

lại say mê Kinh Kim Cang:

“Hơn 2600 năm trước, Tu Bồ Đề – một đại đệ tử của Đức Phật , người “Giải

Không Đệ Nhất” đã đặt một câu hỏi có lẽ còn vang vọng đến ngày nay, giữa thời

đại toàn cầu hóa, thế giới phẳng này “Làm thế nào để an trụ tâm? Làm thế nào để

hàng phục tâm?” (Vân hà ưng trụ, Vân hà hàng phục kỳ tâm?) và câu trả lời của

Đức Phật hết sức giản dị “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, nghĩa là “ Đừng có trụ

vào đâu cả mà sanh cái tâm”

Trong Kinh Trung A Hàm, một bộ kinh quan trọng của Phật giáo Nguyên Thủy,

Đức Phật cũng đã giải thích rõ ràng hơn cho các các Tỳ Kheo – đệ tử của Ngài về

cách an trụ và hàng phục cái Tâm:

“Này các Tỳ Kheo, Tâm dẫn thế gian đi, Tâm bị nhiễm trước, Tâm sinh khởi mà tự

tại. Này các Tỳ Kheo, chính nó dẫn thế gian đi, chính nó làm nhiễm trước và cũng

chính nó khởi tự tại. Này các Tỳ Kheo, Đa Văn Thánh đệ tử không để Tâm dẫn đi,

không để Tâm nhiễm trước, không để Tâm tự tại. Này các Tỳ Kheo, không vâng

theo sự tự tại của Tâm mà Tâm tùy theo tự tại của Đa Văn Thánh đệ tử.”

Không còn hồ nghi gì nữa, chính cái nghề thầy thuốc đã ảnh hưởng sâu sắc

đến việc nghiên cứu Phật học của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, và chính ông cũng đã thừa

nhận như vậy, nơi trang 215 trong bài Vận Dụng Kinh Kim Cang “là một thầy

thuốc, tôi đâu dám lạm bàn những chuyện “thậm thâm vi diệu khác” – nghĩa là ông

chỉ muốn mọi người đọc ông rồi đem áp dụng vào đời sống hàng ngày, như chính

bản thân ông cũng đã làm như vậy để khởi đầu “ hàng phục” cái Tâm của mình,

như bài thơ có tên là Thiền Tập ông đã cho chúng ta biết :

Thả lòng toàn thân / Như treo móc áo / Ngồi xếp bằng tròn / Vai nghiêng lưng sổ /

Dõi theo hơi thở / Như mượn từ xa / Khi vào khi ra / Khi sâu khi cạn

Nhà thơ khuyên chúng ta cứ nỗ lực như vậy, một lúc nào đó sẽ đạt được kết quả:

Thân tâm thanh tịnh / Không còn ý tưởng / Chằng có thời gian / Hạt bụi lang

thang / Dính vào hơi thở / Duyên sinh vô ngã / Ngũ uẩn giai không / Từ đó thong dong/ Thỏng tay vào chợ.

 

Trong lời ngỏ mở đầu cho tác phẩm của mình, Đỗ Hồng Ngọc đã cho biết lý

do tại sao ông phải học Phật, và đặt biệt là vì sao ông phải bỏ thời gian, công sức

ngồi ghi lại những cảm xúc của bản thân về Phật học, vì theo tác giả “thuốc men

chỉ chữa được cái đau mà không chữa được cái khổ, chữa được “triệu chứng” bên

ngoài mà không chữa được “căn nguyên” sâu xa lớp lớp bên trong”. Trong khi đó,

theo Đỗ Hồng Ngọc “thời đại của chúng ta , con người dùng khối óc quá nhiều,

nhiều đến nỗi người ta luôn luôn ở trong tình trạng “muốn điên cái đầu”, và thực

vậy bệnh tâm thần ngày càng phát triển, tự tử , ma túy, stress,… ngày càng gia tăng

trong xã hội mà người ta luôn luôn bị quay cuồng, luôn luôn chạy đua với tốc độ,

tuổi trẻ, nhan sắc, thành đạt… Có lẽ đã đến lúc nghe lại tiếng nói của trái tim.

Tác giả Tôi Học Phật không quên nhắc lại bài thơ nổi tiếng của Quách Thoại

ở đầu thế kỷ XX, một hôm bất chợt nghe được “lời em ca thiên thu” từ một bông

hoa dại đứng bên bờ rào đã khiến cho thi nhân phải sụp lạy cúi đầu. Theo tác giả

Tôi Học Phật, lời ca đó không phải phát xuất từ bông hoa vô tri, vô giác của đóa

hoa kia, mà nó đã được phát ra từ trái tim sâu thẳm của thi nhân.

Tập sách nghiên cứu về Phật học của ông cũng như vậy, ông đơn giản chỉ muốn

giúp chúng ta nghe lại tiếng hát thiên thu từ trái tim mà từ lâu ta đã vô tình đánh

mất giữa một xã hội chỉ biết đề cao khối óc, nghĩa là chỉ biết tính toán hơn thua mà

thôi .

Từ tiếng thở dài xót xa của ông đối với thời đại ông đang sống, thời đại của

khối óc mà bỏ quên trái tim yêu thương đó, khiến tôi chợt nhớ lại những bài thơ

mà Đỗ Hồng Ngọc đã sáng tác vào khoảng thập niên 70 của thế kỷ trước, lúc ông

còn trẻ, còn hoài bão nhiều cho quê hương đất nước. Ở đây tôi chỉ đề cập đến Quê

Nhà, nơi ông đã chào đời mà thôi :

 

Anh thương nhớ quá làm sao nói

Gọi tên em vang động gốc cây già

(Quê Nhà)

 

Thi nhân ngậm ngùi nhớ lại những mùa xuân của tuổi thơ mà bây giờ đã quá xa

xôi:

 

Mùa Xuân mừng tuổi thơm tho áo 

Nắng cũng vàng phai ngày cũng xa

(Quê Nhà)

 

Khi xuân về Tết đến thì bông cúc, bông mai được trưng bày rực rỡ nơi các thành

phố giàu sang như Sài Gòn chẳng hạn, vậy mà tuyệt nhiên nhà thơ của chúng ta

không hề thấy Tết:

 

Đi giữa Sài Gòn

Phố nhà cao ngất

Hoa nở rực vàng

Mà không thấy Tết

(Gió Bấc)

 

Chỉ khi được trở lại quê nhà, nghe được gió Bấc thổi thì đối với ông mới thực sự

thấy được cái hồn của Tết :

 

Một sáng về quê

Chợt nghe gió Bấc

Ô hay Xuân về

Vỡ òa ngực biếc

(Gió Bấc)

 

Bởi vậy, cứ đến những ngày cuối tháng Chạp thì thi nhân chúng ta lại náo

nức muốn bỏ lại phố phường chật chội sau lưng lên đường trở về lại quê nhà. Nơi

đó có ngọn gió Bấc của mùa Xuân đang thổi như chờ đợi người con xa xứ:

 

Hình như gió Bấc lùa trong Tết

Những chuyến xe đò giục bước chân

 

(Mũi Né)

 

Chắc chắn có nhiều người ngạc nhiên, tại sao một bác sĩ có đời sống khuôn

thước, mẫu mực như Đỗ Hồng Ngọc mà lại có thể trở thành một nhà thơ? Điều này

đã được ông tâm sự với Ngô Nguyên Nghiễm trong tác phẩm Đồng Hành Cùng

Tôi xuất bản năm 2010. Xin được trích ra đây như lời kết cho bài viết ngắn này:

 

“Ai bảo Y khoa là cái Thực và thi ca là cái Huyễn? Y khoa vừa là khoa học vừa là

nghệ thuật! Đọc được một bài thơ hay ta chẳng phải đã rung cảm đến tận tâm cang

đó sao.”

 

(TPA)

Nha Trang, những ngày cuối năm 2022

Thuộc chủ đề:Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

Tâm Nhiên: TINH THẦN BẤT NHỊ TRONG THƠ NGẮN ĐỖ NGHÊ 

27/11/2022 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

TINH THẦN BẤT NHỊ TRONG THƠ NGẮN ĐỖ NGHÊ

Tâm Nhiên

 
Đỗ Nghê là bút hiệu của Đỗ Hồng Ngọc. Anh sinh năm 1940 tại Phan Thiết, Bình Thuận. Tốt nghiệp Tiến sỹ Y khoa Quốc gia, Sài Gòn (1969) là bác sỹ chuyên khoa Nhi.
Ngoài việc là giảng viên tại Đại học Y khoa, anh còn là nhà thơ, nhà văn nổi tiếng. Viết nhiều thể loại đa dạng, đặc biệt gần đây, anh viết chuyên sâu về Phật học, Thiền học với các tác phẩm giá trị, được rất nhiều độc giả mến mộ, ưa thích.

Bình đạm mà thiết tha với thi ca, Đỗ Nghê đã xuất bản 6 thi phẩm, tập mới nhất gần đây là Thơ ngắn Đỗ Nghê, do Văn Hóa-Văn Nghệ xuất bản 2017. Mở đầu tập thơ là bài Trái đất:

Giữa đêm
Thức giấc
Giữa ngày…

Bài thơ được viết tại Boston, Hoa Kỳ (1993). Giữa đêm bên Mỹ là đúng giữa ngày ở Việt Nam. Một cái nhìn toàn diện trái đất đang xoay quanh mặt trời. Chỗ này tối thì chỗ kia sáng, tùy theo thời tiết, nhân duyên, địa phương mỗi nơi mà thấy mỗi khác đó thôi. Thấy được như vậy là hiểu lý Bất nhị, dung thông Sóng là nước:

Sóng
Quằn quại
Thét gào
 
Không nhớ
Mình
Là nước

Nước tức là sóng, sóng tức là nước, thanh âm Tâm kinh đồng vọng đâu đây: “Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị…” 
Khi hiểu được như thế rồi thì không ai phải mất công đi hỏi nước từ đâu đến hay nước trôi về nơi đâu nữa:

Nước vẫn muôn đời
Không đi chẳng đến
Ai người nỡ hỏi
Nước đến từ đâu?
Ai người nỡ hỏi
Nước trôi về đâu?

Thi nhân bỗng nhiên thấy ra ngay cả thân xác tứ đại giả hợp của mình cũng chính là Đất:

Đất động ta cũng động
Sóng thần ta cũng sóng
Giật mình chợt nhớ ra
Vốn xưa ta là đất

Đó là cái thấy bằng con mắt Hoa Nghiêm trùng trùng duyên khởi: “Tất cả là một, một là tất cả.” Hòa trong vô thủy vô chung, vô cùng vô tận giữa thiên hà, vũ trụ càn khôn, con người là một sinh thể nhỏ bé thì bận tâm chi chuyện Có không:

Chắt ra cho hết
Giọt hơi cuối cùng
Thả mình như lá
Rơi vào hư không
 
Tràn vào khắp ngả
Đất trời mênh mông
Nhẹ như không có
Có mà như không…

Suốt mất nghìn năm qua, vô số các triết gia, đạo sỹ khắp Đông Tây kim cổ đều luận thuyết, triết lý om sòm về có không, sống chết, đến đi, được mất, chân vọng, thật giả, hơn thua, đúng sai, phải trái, tốt xấu, trí ngu, phàm thánh, tỉnh điên, thiện ác, mê ngộ…mà chẳng ai chấp nhận ai, chẳng đưa đến mọt kết luận nào cả.

Kể từ khi cư sỹ Duy Ma Cật tuyên bố lý Bất nhị thì thiên hạ ồ lên một tiếng bàng hoàng. Họ bừng sáng ra, bước đi trên con đường Trung đạo, vào ra giữa có và không một cách tự do tự tại, thong dong.

Không và có…tuy hai mà một, cùng viên dung vô ngại trong lý sự huyền đồng Chân Không Diệu Hữu. Diệu Hữu là thấy ngay trong bất cứ sự vật gì cũng đều vi diệu, như thấy hơi Thở:

Lắng nghe hơi thở của mình
Mới hay hơi thở đã nghìn năm xưa
Một hôm hơi thở tình cờ
Dính vào hạt bụi thành ra của mình
Của mình chẳng phải của mình
Thì ra hơi thở của nghìn năm sau…

Phải chăng, đó là hơi thở sát na thường trụ vĩnh hằng của một con người hoát nhiên bừng chứng Ngộ:

Tham chẳng còn
Sân cũng hết
Si đã tuyệt
 
Niết bàn
Tịch diệt
Để mà chi?

Một câu hỏi nêu ra quá bất ngờ, bức bách. Trả lời đi, trả lời đi… Vô ngôn là hồi đáp tối thượng nhất. Phủi tay, cất bước rỗng rang Thiền:

Thực chẳng dễ dàng
Sống trong cái chết
Và chết trong cái sống…

Chết trong cái sống là chết đi hết những danh từ, khái niệm mà mình thường vướng kẹt, mắc dính, chết đi cái ngã chấp thâm căn cố đế, chết đi sự nô lệ vào danh lợi, tài sắc, thần tượng, tôn giáo, tổ quốc…

Không chấp trước vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp thì thênh thang, phóng khoáng, tiêu dao du chơi giữa vô thường. Tuy giữa vô thường nhưng vẫn Chân thường, đó là niềm hân hoan sáng tạo của Đỗ Nghê, một thi nhân đã đến tận đầu nguồn nếm được giọt nước trong ngần của mạch suối Tào Khê.

Để rồi trở về nhập cuộc, hòa điệu chịu chơi với bụi cát trần gian, thõng tay vào chợ, cười vang giọng cười hào sảng như Duy Ma Cật ngay giữa cái Đang là, luôn luôn mới lạ và mới lạ…


(Thị xã La-Gi 19. 11. 2022)

Thuộc chủ đề:Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

Giao lưu với BS Đỗ Hồng Ngọc về “BÔNG HỒNG CHO MẸ & Những Cảm Nhận Học PHẬT”

12/07/2022 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

 

GIẤY MỜI

Mời các bạn đến tham dự buổi Trò Chuyện thân mật này nhé!

do Hội quán Các Bà Mẹ tổ chức, ngày CN 17.7.2022, tại số 7 Nguyễn Thị Minh Khai, từ 8:30-10:30.

Sách do Quỹ Ấn Tống Hoa Sen chùa Phật học Xá Lợi thực hiện. Mỗi bạn tham dự được tặng một cuốn sách với chữ ký của tác giả để kỷ niệm.

Thân mến,

ĐHN

 

blue white halftone modern bright art. Blurred pattern raster effect background. Abstract creative graphic template. Business style.

Thuộc chủ đề:Gì đẹp bằng sen?, Gươm báu trao tay, Nghĩ từ trái tim, Thiền và Sức khỏe

Mùa Vu Lan: “Bông Hồng Cho Mẹ & Những cảm nhận học Phật”

05/07/2022 By admin 1 Bình luận

 

“Bông Hồng Cho Mẹ & Những cảm nhận học Phật”

Đỗ Hồng Ngọc

 

 

Duyên khởi

Cơ duyên đưa đẩy, tôi được gặp rồi quen thân với Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc hơn chục năm nay. Khi Tạp chí Phật học Từ Quang tục bản (số 1, 2012), đến nay tròn 10 năm, số nào cũng có bài viết của anh. Tôi mời anh và anh cũng hoan hỉ tham gia Ban Phật Học (Cố vấn), phụ trách Nhóm Học Phật và là người đồng hình thành lớp “Phật học & Đời sống”, đến nay vẫn hoạt động tốt.

Mấy năm gần đây, anh là một trong số cư sĩ được mời tham gia hướng dẫn lớp An cư kiết hạ truyền thống hằng năm dành cho các tu sĩ tại Chùa Phật học Xá Lợi Tp. Hồ Chí Minh.

Từ những bài viết của anh đăng trên Phật học Từ Quang được tập hợp để có cuốn sách “Bông hồng cho Mẹ & Những cảm nhận học Phật” này, tôi tin người đọc dễ thấy Đỗ Hồng Ngọc học Phật qua lăng kính của nhà thơ, nhà khoa học, của người thầy thuốc tận tâm.

(…)

Khi được hỏi “kinh nghiệm” về học Phật, anh nghĩ “Trước hết cần nắm được các thuật ngữ, sau đó là hiểu được các ẩn dụ, ẩn nghĩa, hàm chứa trong lời Kinh và quan trọng nhất là thực hành, ứng dụng vào đời sống, ở đây và bây giờ…”.

Với tôi, đây là kinh nghiệm quý cho những người muốn học Phật. Nhân mùa Vu lan này (2022, PL 2566), Quỹ Ấn tống Hoa Sen (Chùa Phật học Xá Lợi) cùng với Nhà xuất bản Hồng Đức ấn hành cuốn sách “Bông hồng cho Mẹ & Những cảm nhận học Phật” của nhà thơ Đỗ Nghê – bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc trên tinh thần bố thí pháp của nhà Phật. Trong Kinh Tap A Hàm (số 299), đức Phật trả lời cho một vị Tỳ kheo hỏi về pháp Duyên khởi, Ngài có nói: “Cái này có nên cái kia có, cái này khởi nên cái kia khởi”, nên “Bông hồng cho Mẹ & Những cảm nhận học Phật” của Đỗ Hồng Ngọc đến với bạn đọc chính là như thế.

(Thay lời tựa)

HT-TS THÍCH ĐỒNG BỔN

Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam.

 

Thuộc chủ đề:Gì đẹp bằng sen?, Nghĩ từ trái tim, Đọc sách Tag với:sách điện tử

Thư gởi bạn xa xôi (Lớp An Cư, Chùa Xá Lợi 2022)

28/05/2022 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Thư gởi bạn xa xôi 

Lớp An Cư, Chùa Xá Lợi 2022

 

KÝ 1: Chiều 27.5.2022, tại Chùa Phật học Xá Lợi Tp HCM, mình có buổi giảng đầu tiên về “Sức Khỏe và Phật giáo” cho Lớp An Cư kiết hạ (Trường hạ) cho các vị tu sĩ trẻ các nơi về tu học.

Đây đã là năm thứ 6, Thầy Đồng Bổn (Trụ trì) Chùa Xa Lợi mời 3 vị trong Ban Phật học tham gia giảng dạy cho Chương trình này hàng năm, đó là Cư sĩ NNC Trần Đình Sơn với đề tài Lịch Sử, Cư sĩ  Minh Ngọc năm nay về “Khuyến phát Bồ-đề-tâm văn” và Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc về đề tài “Sức khỏe và Phật giáo”.

Năm 2019, Nguyễn Văn Quyền đã thực hiện một video-clip các buổi giảng này và vẫn còn thấy xuất hiện trên youtube. Năm ngoái, 2021, thì chương trình phải tạm ngưng vì dịch Covid.

Lớp năm nay có khoảng 20 vị tu sĩ trẻ, có vị từ ở xa về, như Cà Mau, Trà Vinh, Kiên Giang, Darlak, Bình Thuận…

Buổi học đầu tiên này, mình chỉ bàn về “Sức khỏe là gì?” đưa đến định nghĩa về Sức khỏe của WHO (1946): một tình trạng hoàn toàn sảng khoái (well being, bien être) về thể chất (physical), tâm thần (mental) và xã hội (social) chớ không phải chỉ là không có bệnh hay tật; và về mối quan hệ giữa thân và tâm, từ đó, vai trò của Y tế và… Tu sĩ. Đức Phật là một Y vương, Pháp là thuốc (Dược Vương, Dược Thượng…) và Tăng là Y sĩ của… tâm hồn. Bác sĩ chỉ chữa được cái đau, Phật mới chữa được cái khổ! Đời sống hiện nay, bệnh về tâm thần rất nhiều, do Tham Sân Si ngày càng phát triển trong một thế giới có vẻ thừa mứa vật chất mà thiếu hụt về tinh thần, sự an lạc, hạnh phúc trong đời sống. Các bệnh S.A.D là bệnh phổ biến trên toàn thế giới ngày nay. S, viết tắt cùa STRESS (căng thằng); A viết tắt cùa ANXIETY (lo âu và sợ hãi) và D viết tắt của DEPRESSION (trầm cảm), dễ dẫn tới tự tử như ta thỉnh thoảng thấy ở một doanh nhân tỷ phú, một ca sĩ, tài tử trẻ đẹp, giàu có ở Hàn quốc, ở Nhật và cả ở chúng ta gần đây. Ngày nay các bác sĩ, nhà tâm lý trị liệu, các thiền sư… đưa các phương pháp Thiền chánh niệm Midfulness (như MBSR, MBCT) vào chữa trị thấy khả quan.

Mặt khác, có 2 vị Thầy mà ngày nay không ít người dân sợ gặp là… thầy thuốc và thầy tu. Một thầy thì dễ “hù” người ta về cái thân, một thầy thì dễ “hù” người ta về cái tâm… Cho nên không lấy làm lạ khi người ta luôn phải tìm đến “vô úy thí” của Bồ-tát Quán Thế Âm. Nhưng… cẩn thận, nếu tưởng nước cuốn dâng mau mà niệm QTA thì nước sẽ cạn,  lửa cháy rần rần niệm QTA thì lửa sẽ tắt thì càng nguy, lại rơi vào dị đoan mê tin, bởi không biết “nước” trong Kinh nói đó là lòng Tham, “lửa” đó là lòng Sân…

Hiện khoa học sinh học rất tiến bộ. Người ta lấy cái gien phát sáng ở con sứa biển, cấy cho con heo thì con heo… phát sáng! Tưởng tượng hôm nào có con heo nào đó phát sáng ở đâu đó thì… phải biết chuyện gì xảy ra! Trước đây ta từng có nước cá thần, thần y, thần dược… các thứ! Gần đây người ta đã ghép một trái tim heo đã cấy gien cho một bệnh nhân…

Vài hình ảnh gởi bạn:

 

 

 

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc

(còn tiếp)

Thuộc chủ đề:Gì đẹp bằng sen?, Nghĩ từ trái tim, Thiền và Sức khỏe

Nguyên Giác: Viết Lời Như Huyễn

31/01/2022 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Viết lời như huyễn
.
Nguyên Giác

.
Em đi để lại mây ngàn
quyện vào chuông mõ, phím đàn nửa đêm
Thương anh không ngủ giấc thiền
nụ cười em gửi ngoài hiên cúng dường
.
Em đi phả lại mùi hương
ướp làn gió sớm, thơm đường mây trưa
Thương anh trăm nắng ngàn mưa
lái đò cổ độ giúp đưa qua bờ.
.
Em đi rơi lạc vào thơ
quyện vào cổ tích Âu Cơ muôn trùng
Thương anh ngồi viết không ngừng
chép câu mật hạnh cúng dường chúng sinh
.
Em đi nghiêng cả mái đình
lắng nghe sông núi tụng kinh độ người
Thương anh tịch lặng dáng ngồi
ngó câu vô tự nụ cười niêm hoa.
.
Em đi son nhạt phấn nhòa
tiễn đưa muôn kiếp lìa xa muộn phiền
Thương anh ngồi thức ngày đêm
niệm ân ba cõi, phước điền mười phương.
.
Em đi in dấu dặm trường
vầng trăng soi tỏ con đường cổ xưa
Thương anh đọc chữ rất mờ
ghi lời Phật dạy nguyên sơ Niết bàn.
.
Em là vô lượng hóa thân
không sau, không trước, không gần, không xa
Thương anh ngồi giữa Ta Bà
nhìn nghiêng nắng quái biết là Tánh Không.
.
Em là trăng lạc vào gương
không hư, không thực, không đường chim bay
Thương anh kinh sách miệt mài
tìm câu chú giải vết giày tổ sư.
.
Em là muôn triệu kỳ thư
tu xong quên hết, chữ Như duy còn
Thương anh ngộ pháp vô ngôn
không lui, không tới, tịch dương hai bờ.
.
Em là mưa bụi sương mờ
về nghe anh đọc dòng thơ vô cầu
Thương anh ngồi thức đêm thâu
viết lời như huyễn dứt sầu ngàn năm.
.
Nguyên Giác — đón giao thừa Nhâm Dần 2022
.

.

Thuộc chủ đề:Gì đẹp bằng sen?

Thư gởi bạn xa xôi “VỀ THU XẾP LẠI”

31/01/2022 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Thư gởi bạn xa xôi (3)

“Về Thu Xếp Lại”…

 

Đường hoa Nguyễn Huệ Tết Nhâm Dần 2022. (ảnh ĐHN, 30.01.2022)

 

Nhóm bạn mình cũng có buổi café “tất niên” ở Văn Thánh, để “về thu xếp lại”…

Ngô Tiến Nhân, Nguyễn Văn Thu… đã từng cùng Nguyễn Tường Bách đi Kailash (Tây Tạng); Phan Binh từng tu tập một thời ở Myanma… kẻ Đại thừa người Nguyên Thủy. Bọn mình thỉnh thoảng gặp nhau cùng chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm của nhau trong việc tu tập Phật pháp.

Nhạc sĩ Trần Văn Quang mang mấy cuốn sách Để Làm Gi, Về Thu Xếp Lại, Biết Ơn Mình… đến nhờ ký tên để kịp gởi về Đà Nẵng cho người bạn thân, không quên ôm theo cây đàn Guitar quen thuộc của anh.

Vậy là có một buổi nghe hát mộc ngoài trời, bên hồ nước, dưới bóng dừa như một chốn quê…

Bỗng nhớ Cao Lập.

Xin chia sẻ vài hình ảnh với các bạn xa xôi vậy.

Thân mến,

ĐHN

 

Từ trái: Ngô Tiến Nhân, Nguyễn Văn Thu, Đỗ Hồng Ngọc, Phan Binh, Trần Văn Quang (Văn Thánh, 25.01.2022)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

(Cảm ơn nvQuyền nhiều lắm!)

ảnh ĐHN

Thuộc chủ đề:Ghi chép lang thang, Gì đẹp bằng sen?, Già ơi....chào bạn

Thư Cao Huy Thuần gởi Đỗ Hồng Ngọc

04/11/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Thư Cao Huy Thuần gởi Đỗ Hồng Ngọc

GS Cao Huy Thuần ký tặng sách cho độc giả.

Anh Đỗ,

Thư anh đến trong lúc tôi đang đọc quyển sách của Mark Epstein, nhan đề là “Advice not given”. Đây là quyển sách thứ ba của cùng tác giả mà tôi đọc, toàn là xếp vào hạng best-sellers ở Mỹ. Epstein là bác sĩ tâm thần nổi tiếng. Nổi tiếng vì là thầy thuốc giỏi. Và nổi tiếng là nhà Phật học uyên thâm. Có gì lạ đâu, phải không anh Đỗ? Đức Phật của chúng ta đã chẳng là thầy thuốc đó sao! Lặn lội trong chuyên môn phân tâm học với Freud, với Jung, ông chợt thấy đức Phật, ông lặn lội qua Tây Tạng “học Phật”, học cả với các danh sư ở Mỹ, và ông đem đạo Phật áp dụng vào chuyên môn của ông, rốt cuộc ông nổi tiếng cả hai, cả cách trị liệu tâm thần, cả tư tưởng Phật giáo. Ông sống với đạo Phật trong chuyên môn, ông sống với đạo Phật trong đời thường, càng sống ông càng hiểu thêm đạo Phật, ông đem hiểu biết đó vun trồng trên đất Mỹ cho hợp với thủy thổ xa lạ, và đạo Phật bây giờ sáng trên thủy thổ ấy, anh Đỗ à, tôi cho rằng đích thị hai chữ “học Phật” là như vậy.

Hay thật, anh đâu có biết ông ấy, ông ấy đâu có biết anh, vậy mà tay trong tay, anh đi cùng đường và cùng “học Phật” như thế. Lý tưởng, hành động, cuộc đời, cao đẹp thay là ông thầy thuốc tương chao!

Anh Đỗ, bây giờ tôi hỏi anh câu này nhé, vì anh với tôi đều đã đọc “Tổng Quan về Nghiệp” của Thầy Tuệ Sỹ: Anh “học Phật” trước hay học Y trước? Chắc anh sẽ trả lời: hiển nhiên là học Y. Nhưng mà, nghĩ thêm chút nữa, cái gì xúi anh học Y? Cái gì xúi anh thích Y? Cái gì xúi anh thành ông bác sĩ như thế, lúi húi hành nghề rồi lúi húi dùi mài kinh kệ? “Cái đó”, tôi chắc là anh có trước khi học Y. “Cái đó”, tôi cũng chắc là ông Epstein có trước khi thành danh với bác sĩ tâm thần. “Cái đó”, chính là cái xúi anh đến với Phật mà anh không biết đó thôi, anh đến với Phật trước khi học Y. Anh “học Phật” từ lâu rồi, từ kiếp nảo kiếp nao, để bây giờ thành danh với… Đỗ Hồng Ngọc. Cho nên tôi nói: “Tiên học Phật, hậu học…”. Hậu học cái gì cũng được, cái gì cũng thành danh, ít nhất là thành danh con người.

Nhưng tôi chưa nói hết: anh đâu phải chỉ là ông thầy thuốc, cái danh của Đỗ Hồng Ngọc còn là con người thơ. Cũng vậy, tôi cũng lấy từ “Tổng Quan…” mà ra: thơ đến với anh từ trước khi anh làm thơ. Thơ là tiếng nói trong tận cùng thâm cung bí sử của tư tưởng. Cái gì mà tư tưởng không nói nên lời được thì phải diễn tả bằng thơ. Thơ đời Lý đời Trần là như vậy. Và thơ đó, chắc anh đã đọc không phải chỉ ở trong kiếp này. Cho nên bây giờ hồn anh nhập vào thơ của Thầy Tuệ Sỹ. Cho nên bây giờ anh thấy Phật trong thơ. Cho nên bây giờ một tay anh bốc thuốc, một tay anh viết thơ, thuốc thơm mùi thơ, thơ thơm mùi thuốc.

Còn có chuyện này nữa, hơi khó nói. Tôi thấy thấp thoáng có một người thứ ba nữa nấp sau hai con người kia. Thấp thoáng thôi, đây đó, kín đáo, chỉ nghe tiếng cười cười, tinh tế lắm mới nghe. Chẳng hạn khi anh nói chuyện ngồi thiền. Tất cả đều nghiêm trang, tôi chỉ trích mấy câu cuối:

Hơi thở xẹp xì

                             Thân tâm an tịnh

                             Không còn ý tưởng

                             Chẳng có thời gian

                             Hạt bụi lang thang

                             Dính vào hơi thở

                             Duyên sinh vô ngã

                             Ngủ uẩn giai không

                             Từ đó thong dong

                             Thõng tay vào chợ.

Rất nghiêm chỉnh, kể cả lúc anh vô chợ mà chẳng để mua gì, vì hai tay thõng thế kia thì làm thế nào móc túi lấy tiền? Thế rồi anh cắt nghĩa: “Mặt hồ tĩnh lặng thì không cần ghi bóng con hạc bay qua, không cần biết hạc vàng hay hạc đỏ, hạc trống hay hạc mái…” Ối giời, hạc vàng thì chỉ bay trên lầu Hoàng Hạc trong thơ Đường, đâu có bay trên mặt hồ Sài Gòn hay Phan Thiết? Bạn tôi nhầm với con vạc “như cánh vạc bay” rồi chăng? Không phải đâu. Nhà thơ nghĩ ra hai chữ “trống mái” rồi nhà thơ khoái chí vừa hạ bút vừa cười cười, hạc hay vạc thì có gì đáng quan tâm?. Ấy là bụng để ngoài da, con người thứ ba “anh linh phát tiết ra ngoài” đấy nhé. Có ai đa tài mà chẳng đa… tình?

Tôi “học Phật”, ngồi thiền với anh, thỉnh thoảng thấy tâm có hơi lộn xộn như thế, chắc anh cũng cười cười mà thông cảm nhau. Nhưng, nói nghiêm chỉnh nhé, con người thứ ba là cái duyên của anh. Chữ nghĩa mà không có duyên thì buồn lắm. Cho nên thỉnh thoảng anh cứ cho anh chàng thứ ba ấy cười cười một chút như thế, và mọi người sẽ cùng vui mà “học Phật” với anh.

Thân mến,

Cao Huy Thuần

(Oct 29, 2021)

Thuộc chủ đề:Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

  • Trang 1
  • Trang 2
  • Trang 3
  • Interim pages omitted …
  • Trang 9
  • Chuyển đến Trang sau »

Thư đi Tin lại

  • Lịch “Trò chuyện, giao lưu…”
  • Lại đính chính: “SAIGON BÂY GIỜ”
  • ĐÍNH CHÍNH: BSNGOC không phải là BS ĐỖ HỒNG NGỌC
  • Đính chính: BS NGỌC không phải là Bs Đỗ Hồng Ngọc
  • bsngoc đã lên tiếng đính chính
  • Thư cảm ơn và Đính chính về FACEBOOK Bác sĩ NGỌC
  • ĐÍNH CHÍNH: Bài viết "TÀN NHẪN" không phải của Bs Đỗ Hồng Ngọc

PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG

Minh Lê (NT): Hỏi chuyện Học Phật với Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Bản dịch tiếng Đức “Một Ngày Kia… Đến Bờ”

CON ĐƯỜNG AN LẠC Bài 6: Học cách Phật dạy con

Minh Lê: Đọc và Cảm “Một ngày kia… đến bờ”

Thăm Sư Giới Đức Triều Tâm Ảnh

Nguyên Cẩn: Đọc “Một ngày kia… đến bờ “của Đỗ Hồng Ngọc

“MỘT NGÀY KIA… ĐẾN BỜ” Tuỳ bút Đỗ Hồng Ngọc

Từ góc nhìn “Phê bình sinh thái” về bài thơ “Rùng mình” của Đỗ Hồng Ngọc

MỘT NGÀY KIA…ĐẾN BỜ V2

MỘT NGÀY KIA…ĐẾN BỜ

Xem thêm >>

Chuyên mục

  • Một chút tôi
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy

Bài viết mới nhất!

  • Vanvn: Bác sĩ – nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc bị nhầm lẫn và gán ghép trên không gian mạng
  • 10 Năm: GS Nhạc sĩ TRẦN VĂN KHÊ
  • Minh Lê (NT): Hỏi chuyện Học Phật với Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc
  • Thư gởi bạn xa xôi (5.2025)
  • Thư gởi bạn xa xôi

Bài viết theo tháng

Ý kiến bạn đọc!

  • Minh Trí trong Minh Lê (NT): Hỏi chuyện Học Phật với Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc
  • Trân Lê Bá Bát trong Bông Hồng Cho Mẹ
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Thư gởi bạn xa xôi
  • TT trong Thư gởi bạn xa xôi
  • Minh Trí trong Thư gởi bạn xa xôi
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Thư gởi bạn xa xôi
  • TTM Gốc Mai trong Minh Lê (NT) và Đỗ Hồng Ngọc: Một Chút Tôi  & “Chuyện Hồi Đó”
  • Ngân Hà trong Minh Lê (NT) và Đỗ Hồng Ngọc: Một Chút Tôi  & “Chuyện Hồi Đó”
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Minh Lê (NT) và Đỗ Hồng Ngọc: Một Chút Tôi  & “Chuyện Hồi Đó”
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Minh Lê (NT) và Đỗ Hồng Ngọc: Một Chút Tôi  & “Chuyện Hồi Đó”

Cùng một tác giả

  • 0
  • 1
  • 1
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6

Thống kê

Nhà tài trợ

biệt thự vũng tàu
biệt thự vũng tàu cho thuê | biệt thự vũng tàu cho thuê theo ngày giá rẻ | cho thuê biệt thự vũng tàu có hồ bơi
© 2009 - 2016 Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Phát triển & Hỗ trợ kỹ thuật bởi SGC.
Trích dịch nội dung để dùng trong nghiên cứu, học tập hay dùng cho cá nhân đều được tự do nhưng cần phải chú thích rõ nguồn tài liệu và đối với các trích dịch với mục đích khác, cần phải liên lạc với tác giả.
  • Một chút tôi
    ?
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    ?
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    ?
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    ?
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    ?
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy
  • Nhận bài mới qua email