Trần Vấn Lệ: Bây Giờ Ngày Nửa Ngày Thôi
Bây Giờ Ngày Nửa Ngày Thôi
Trần Vấn Lệ
Từ góc nhìn “Phê bình sinh thái” về bài thơ “Rùng mình” của Đỗ Hồng Ngọc
Từ góc nhìn “Phê bình sinh thái”
về bài thơ “Rùng mình” của Đỗ Hồng Ngọc
Đỗ Thị Thanh Nga
(Học viên Cao học K31. Trường ĐH Sư Phạm Huế)
Rùng mình…
Tùng địa dũng xuất (Kinh Pháp Hoa)
Người rùng mình hỏi vì sao động đất sóng thần
cứ triền miên hết ngày này sang ngày khác?
Vì sao núi lửa cứ phun trào?
Vì sao băng tan vì sao bão táp…?
Vì sao trẻ con người già bị cuốn trôi bị thiêu đốt
thành phố tan hoang cửa nhà đổ nát
như món đồ chơi của một đứa trẻ đang giận dữ
Vì sao và vì sao?
Nhưng hãy lắng nghe
Dù trong giây lát
Trái đất cũng đang rùng mình tự hỏi
vì sao những ngọn núi cứ triền miên đổ sập?
vì sao những dòng sông nghẽn tắt?
vì sao những mủi đao cứ ngày đêm xoáy sâu vào lòng đất?
Vì sao chim rừng cá biển không chốn nương thân
Vì sao cổ thụ mầm xanh bị tận diệt
Vì sao lúa bắp phải cấy ghép gen người?…
Vì sao và vì sao?
Ta nương tựa vào nhau.
Nay có vẻ đã không còn cần nhau nữa!
Đất rùng mình phận đất…
Người rùng mình phận người…
(Tạp chí sông Hương, 4/6/2018)
Đỗ Hồng Ngọc (bút danh Đỗ Nghê) là một bác sĩ, thi sĩ, một nhà văn tận tụy với
nghề và tận tâm với đời. Nói như Nguyễn Hiến Lê: “…Một bác sĩ mà lại là một
thi sĩ thì luôn luôn làm cho chúng ta ngạc nhiên một cách thú vị…”. Thơ của ông
vừa hồn nhiên, mộc mạc, pha chút lãng tử hiện đại; lời thơ ngẫu nhiên không theo
một khuôn khổ, nhưng người đọc lại tìm được một khoảng không bình yên. Ông
từng chia sẻ: “Tôi viết sách là những thể hiện riêng tư và chiêm nghiệm của tôi.
Khi mới ra trường, tôi viết cho học trò như người bạn, người anh viết cho bạn
mình, em mình. Khi tôi có con, tôi viết cho những bà mẹ sinh con đầu lòng. Đến
50 tuổi, tôi cảm thấy chút heo may và tôi viết “Gió heo may đã về”. 60 tuổi về
hưu, tôi viết “Già ơi chào bạn”…
Thơ tại sao mà làm ra? Là bởi “như không thôi đi được” (Chu Hy). Những người
làm thơ trên cõi nhân gian đều “không thôi đi được”. Không thể thôi đi tiếng nói
trước cuộc sống. Đó là tiếng nói được bật lên khi tâm hồn va chạm với những vấn
đề đau đớn của cuộc đời, những trằn trọc suy tư về phận mình, phận người và thế
giới xung quanh. Thế giới vốn bình yên bỗng dưng bị sụp đổ, môi trường bị tàn
phá, thiên tai dữ dội hơn… Bức xúc và đau đớn, lo âu và bất bình, mẫn cảm với
vấn đề môi trường có ý nghĩa toàn cầu, cũng có nghĩa là tính mệnh con người bị
đe dọa, những tiếng nói tự phát bằng văn nghệ đã cất lên. Trong dòng văn học
sinh thái của nước ta phải kể đến những tác giả như: Nguyễn Huy Thiệp, Lê Văn
Thảo, Nguyễn Ngọc Tư, Võ Diệu Thanh, Trương Gia Hòa, Mai Văn Phấn, Đặng
Bá Tiến, Trần Anh Thái…. Thơ “sinh thái” của Đỗ Hồng Ngọc viết chưa nhiều
nhưng đã góp tiếng nói riêng trong dòng văn học sinh thái. Một số bài thơ “sinh
thái” của ông như: Nước, Giỗ một dòng sông… Nhưng hay hơn cả có lẻ là bài thơ
“Rùng mình”. (In trên Tạp chí Sông Hương ngày 4 tháng 6 năm 2018).
Thiên nhiên trong thơ ông vốn giản dị, trong sáng, bình thản như hơi thở, như khí
trời. Nước, gió, trăng, sao, sông, sóng…vô thủy, vô chung, an nhiên tồn tại từ
ngàn năm trước đến ngàn năm sau:
Nước từ đâu đến
Nước trôi về đâu
Từ con suối nhỏ
Từ dòng sông sâu
Từ khe núi lở
Từ dưới nhịp cầu
Từ cơn thác lũ
Từ giọt mưa rơi…
Nước vẫn muôn đời
Không đi chẳng đến
Ai người nỡ hỏi
Nước đến từ đâu
Ai người nỡ hỏi
Nước trôi về đâu…
(Nước, Vòng Quanh, NXB Trẻ 1997)
Sông ơi cứ chảy
Cứ chảy về trời
Cứ về biển khơi
Cứ làm suối ngọt
Cứ làm thác cao
Cứ đổ ầm ào
Cứ làm gió nổi
Cứ làm mây trôi…
(Giỗ một dòng sông, Thơ Ngắn Đỗ Nghê, NXB Văn hoá – Văn nghệ, Tp.HCM 2017)
Vạn vật bình đẳng, sự hòa điệu giữa con người và vũ trụ mang lại cho người đọc
cảm nghiệm mới về thời gian, về sự sống trong guồng quay của tạo hóa. “Nó
thôi thúc con người ý thức về mối quan hệ của cá nhân và vũ trụ, để kết nối, để
sống hết mình trong sự sống chứ không phải để thở than nhân sinh như mộng”
(Tịnh Thy) Nhưng đến với bài thơ “Rùng mình” mối quan hệ giữa vạn vật và con
người không còn là mối quan hệ tương hổ, hài hòa mà là mối quan hệ đổ vỡ:
Người rùng mình hỏi vì sao động đất sóng thần cứ triền miên hết ngày này sang
ngày khác? Vì sao núi lửa cứ phun trào? Vì sao băng tan vì sao bão táp…? Vì sao
trẻ con người già bị cuốn trôi bị thiêu đốt thành phố tan hoang cửa nhà đổ nát
như món đồ chơi của một đứa trẻ đang giận dữ Vì sao và vì sao?…
Những hình tượng sinh thái chỉnh thể bị phá vỡ cấu trúc nên nảy ra bao tai họa:
động đất sóng thần, núi lửa, băng tan, trẻ con người già bị cuốn trôi bị thiêu đốt
thành phố tan hoang cửa nhà đổ nát như món đồ chơi…Con người “rùng mình”
hỏi – hỏi trái đất, hỏi vạn vật, hỏi thế giới xung quanh nhưng lại không tự hỏi
chính mình. Hướng ra bên ngoài với hàng loạt câu hỏi không có câu trả lời, con
người giận dữ như một đứa trẻ giận dữ? Những câu hỏi dồn dập như là một sự
thắc mắc, oán thán, hờn trách, đau đớn và bất lực trước những tai họa mà thiên
nhiên đã và đang mang đến. Nhưng có lẽ con người vẫn cứ vô tâm, vô tình, vô ơn
đến mức không nhận ra chính mình đang hủy hoại chính ngôi nhà của mình. Khi
mà những câu hỏi ai oán, đau đớn, dằn vặt, buồn thương và cả xót xa bật lên
nhưng không một lời đáp trả thì nhà thơ như một nhà khoa học, nhà sinh học, nhà
địa lí, nhà xã hội học đã yêu cầu ta hãy lắng nghe- lắng nghe tiếng nói của trái đất:
Nhưng hãy lắng nghe
Dù trong giây lát
Lắng nghe để thấy không chỉ con người kêu gào, đau đớn và tuyệt vọng mà cả trái
đất cũng đang “đau” đang “sợ”, đang “rùng mình” “tự hỏi”:
Trái đất cũng đang rùng mình tự hỏi vì sao những ngọn núi cứ triền miên đổ sập?
vì sao những dòng sông nghẽn tắt? vì sao những mũi đao cứ ngày đêm xoáy sâu
vào lòng đất? Vì sao chim rừng cá biển không chốn nương thân Vì sao cổ thụ
mầm xanh bị tận diệt Vì sao lúa bắp phải cấy ghép gen người?… Vì sao và vì
sao?
Ngay từ khi sinh ra, con người đã có tương quan mật thiết với môi trường sống.
Nhưng họ được dựng nên, được đặt vào trong thế giới với lời nhắn nhủ đong đầy
thương yêu: “Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời và mọi giống vật bò trên mặt
đất”. Thời gian thấm thoát trôi nhanh, con người ít nghĩ tới, và chẳng mấy quan
tâm về mối tương quan với sinh thái. Nguy hại hơn, chính những hành động “bá
chủ” quá mức và thiếu ý thức của con người khiến cho Trái đất phải gánh gồng
nỗi đau, phải lâm cảnh hiểm nguy đến độ đang kêu gào than khóc.
Khi sáng tạo trời đất, Thiên Chúa chúc phúc và làm cho mọi sự đều tốt đẹp. Vẻ
đẹp tuyệt mỹ của của Ngôi nhà chung khiến thánh Phanxicô thành Assisi không
thể kìm lòng mà hát lên: “Con xin chúc tụng Chúa, lạy Chúa của con”. Ngôi nhà
chung ấy sẽ mãi luôn tuyệt đẹp nếu như những ngọn núi không triền miên sụp đổ,
những dòng sông không tắc nghẽn…. Nếu con người kêu gào trong đau đớn và
tuyệt vọng thì trái đất cũng kêu gào trong đau đớn và tuyệt vọng. Trái đất vốn là
nhà, con người và vạn vật nương tựa, tương giao và bình đẳng. Giờ đây, trái đất
và con người vẫn nương tựa vào nhau nhưng cứ thờ ơ, vô cảm, và bỏ mặc nhau:
Ta nương tựa vào nhau.
Nay có vẻ đã không còn cần nhau nữa!
Đất rùng mình phận đất…
Người rùng mình phận người…
Dù đau đớn thì nỗi đau ấy cũng là nỗi đau riêng. Con người không hiểu vì sao
mình gặp tai họa, và tiếng khóc của trái đất cũng không ai nghe thấu để tất cả đều
“rùng mình”, đều sợ hãi, đều đổ vỡ. Vì sao?
Phải chăng vì sự cẩu thả, vô đạo, vô ơn mà gây nên thảm họa sinh thái. Nhà thơ là
người nói hộ cho tự nhiên và thay lời cho nhà khoa học: Trái đất cũng đang rùng
mình tự hỏi vì sao những ngọn núi cứ triền miên đổ sập? Là vì mũi đao cứ xoáy
sâu vào lòng đất và tất nhiên cũng là do rừng bị phá, núi đồi bị trọc hóa.
Từ đề tài cho thấy chủ đề sinh thái của bài là thái độ quan tâm, tôn trọng môi
trường – trái đất, là phải nhận thức con người với trái đất song hành quyền lợi và
tồn tại: Ta nương tựa vào nhau
Theo Laurence Buell (Anh): Văn học sinh thái là văn học viết vì một thế giới lâm
nguy nên cảm hứng cơ bản của thơ sinh thái là cảm hứng phê phán. Phê phán thói
cẩu thả, vô đạo, vô ơn của con người gây nên những thảm họa sinh thái. Từ cảm
hứng và chủ đề, bài nói riêng và văn chương sinh thái nói chung góp tiếng nói
phản biện để lay gọi, thức tỉnh thái độ, thay đổi tư duy của con người về môi
trường.
Từ cảm hứng phê phán mà các tác phẩm đượm chất bi ca, dư âm của tác phẩm là
nỗi buồn đau khắc khoải, là niềm sám hối của lương tri con người. Chất bi ca này
biểu hiện qua những hình ảnh sống động giàu tính khái quát: động đất, sóng thần,
núi lửa, băng tan, núi sụp đổ, dòng sông tắc nghẽn, chim rừng cá biển không chốn
nương thân…. dội lên từng hình ảnh sinh thái là một niềm đau nhức nhối:
Chất bi ca còn biểu hiện qua giọng điệu. Thơ Đỗ Hồng Ngọc vốn giản dị và hồn
nhiên. Nhưng trong bài thơ này lại là giọng điệu day dứt, dằn vặt, buồn đau.
Giọng điệu buồn đau đắng đót ấy đã phản ánh thời đại bi kịch của chúng ta: khoa
học phát triển nhưng bệnh tật thì nhiều hơn. Có thể nói nội hàm văn học sinh thái
có ý nghĩa giáo dục bằng con đường phản cảm. Văn học phải cất lên tiếng nói
đánh động ý thức, thay đổi quan niệm về sinh thái để cân bằng bảo vệ môi sinh và
thời gian không chờ đợi.
Đọc “Rùng mình” ta nhận thấy có cái tôi trải ra ba chiều không gian để lắng nghe
lời than thở, đắng cay của sông, đất, nước… Tư tưởng sinh thái nâng đỡ mà cái
tôi (cũng là tiếng nói của cái ta) lớn lao mang tầm vóc thời đại.
Thơ ca sinh thái đã xuất hiện tại Việt Nam gần ba thập niên trở lại đây, đạt được
những thành tựu cơ bản về nội dung tư tưởng song về thi tứ và bút pháp thì vẫn
chưa thật rõ rệt hoặc nổi bật sắc thái. Nhưng với bài thơ “Rùng mình” của Đỗ
Hồng Ngọc nhà thơ đã góp một tiếng nói trong đấu tranh bảo vệ môi trường cũng
chính là bảo vệ ngôi nhà của chúng ta.
(ĐTTN, Trường ĐHSP Huế)
9.2023
MỘT NGÀY KIA…ĐẾN BỜ V2
Please wait while flipbook is loading. For more related info, FAQs and issues please refer to DearFlip WordPress Flipbook Plugin Help documentation.
Tải sách (file pdf) , bấm vào đây
LỜI BẠT viết cho cuốn Tuỳ bút “MỘT NGÀY KIA… ĐẾN BỜ” của Đỗ Hồng Ngọc.
LỜI BẠT viết cho cuốn Tuỳ bút “MỘT NGÀY KIA… ĐẾN BỜ” của Đỗ Hồng Ngọc.
Nguyễn Minh Tiến
Tôi nhận được bản thảo này của anh Đỗ Hồng Ngọc với lời nhắn gửi thân tình:
“Anh nhờ em ĐỌC giùm, và viết cho anh một lời Bạt.” Chữ “đọc” anh cố ý viết in
hoa làm tôi hơi… sợ. Với một bậc đàn anh đa tài mà tôi luôn kính trọng, tôi tự biết
việc đọc và viết lời Bạt cho tập sách đặc biệt này của anh quả thật không dễ. Tôi
không dám chắc rằng mình có thể đọc hiểu đúng và đủ những ý tưởng độc đáo của
anh để có thể viết ra một lời Bạt đúng nghĩa.
Nhưng rồi hôm nay vẫn phải mở sách ra đọc để cố gắng viết một lời Bạt như lời
anh dặn, cũng là lúc một trong những người đàn anh thân thiết đã vĩnh biệt chúng tôi
để ra đi “về cõi hoang sơ” như lời thơ anh ấy nói. Có vẻ như khi mái tóc đổi màu
thì chúng ta càng có nhiều cơ hội hơn để cảm nhận những bài học về vô thường.
Anh Đỗ Hồng Ngọc là người từ lâu tôi quý mến, và anh cũng xem tôi như đứa em
thân thiết, nhưng không phải vì thế mà tôi dám dễ duôi tự cho phép mình quên đi
việc anh là một “cây đại thụ” trong thế hệ những người đi trước mà tôi may mắn
được biết tên. Tôi từng đọc Nguyễn Hiến Lê viết về anh: “Một bác sĩ, lại là một thi
sĩ thì luôn làm cho chúng ta ngạc nhiên một cách thú vị…” Tôi biết, không có
nhiều nhà thơ hay nhà văn đương thời tạo được ấn tượng tốt đẹp với lời ngợi khen
như vậy từ một người uyên bác và nghiêm túc như Học giả Nguyễn Hiến Lê, và
bọn hậu sinh như chúng tôi không thể không vui mừng khi may mắn có được tấm
gương sáng như anh để noi theo, trong sự học tập cũng như khi tập tành viết lách.
Và bây giờ thì anh đã cho tôi thêm một sự ngạc nhiên thú vị nữa qua tập sách này,
khi anh còn là một tấm gương sáng trong sự tu tập Phật pháp. Tôi bỗng dưng muốn
lặp lại nhận xét của Học giả Nguyễn Hiến Lê, tất nhiên là với một chút “cải biên”
của riêng tôi: “Một nhà văn, bác sĩ, lại là một thiền sư thì luôn làm cho chúng ta
ngạc nhiên một cách thú vị…”
Tôi biết là anh không muốn và thậm chí có thể sẽ trách nhẹ tôi vì đã gọi anh là
“thiền sư”, nhưng tôi không… sợ. Vì tôi tin là tôi có thể chứng minh rằng tôi nói
đúng. Sự kết hợp những phẩm tính của nhà văn, bác sĩ và thiền sư trong anh đã hòa
quyện, biểu lộ rất rõ với tập sách này.
Ngay cái tựa đề “Một ngày kia đến bờ” mà anh mượn trong ca từ nhạc phẩm Phôi
pha của Trịnh Công Sơn cũng đã cho thấy cái tố chất mơ màng lãng mạn của một
nhà văn. Nhưng trong khi Trịnh Công Sơn gây cho chúng ta một nỗi buồn man
mác khi nhìn lại “đời người như gió qua” thì Đỗ Hồng Ngọc lại chuẩn bị cho “một
ngày kia đến bờ” với tinh thần tích cực của một người học Phật và hiểu Phật, cho
một cuộc viễn du với tấm thông hành đóng dấu “well-dying”.
Và khi nghe anh bàn về “well-being” với “well-dying” thì chúng ta không còn nghi
ngờ gì điều đó nữa. Anh nói về những chuyện này với tư cách là người trong cuộc,
không giống như bàn chuyện người khác. Những gì anh nói, ta có thể thấy rõ đều
là những cảm nhận, những trải nghiệm của riêng anh, bằng chính cuộc đời mình.
Anh đã “well-being” ngay cả trong nhiều hoàn cảnh khắc nghiệt, bệnh tật, thiếu
thốn… từ thời thơ ấu, và tiếp tục “well-being” cho đến nay vào độ tuổi U90, độ tuổi
của những chiếc lá vàng hiếm hoi cùng thời với anh còn sót lại. Vì thế, chúng ta có
đủ căn cứ để tin rằng những gì anh nói, anh làm, hoàn toàn có thể bảo đảm cho anh
một viễn cảnh “well-dying” tốt đẹp như dự tính.
Nhà Thiền có câu “sinh tử sự đại”, nay anh đã đối diện, giải tỏa và vượt qua được
cái ngưỡng “sự đại” đó thì chuyện “một ngày kia đến bờ” hẳn cũng là một lẽ
đương nhiên, và chắc chắn rồi sẽ đến trong sự thản nhiên của một “người vô sự”
theo đúng tinh thần của nhà Thiền.
Điều đáng nể phục nơi anh là ở độ tuổi vào bậc huynh trưởng của hàng “cổ lai hy”
nhưng ngòi bút của anh vẫn không mất đi nét dí dỏm, hài hước xưa nay vẫn thường
gặp ở giọng văn anh. Cái chất hài hước nhẹ nhàng ấy như bàng bạc trong mọi tác
phẩm của anh, dù là khi anh viết về chuyện sức khỏe, chuyện văn chương hay ngay
cả về Phật học. Tôi đã gặp không ít người trì tụng hoặc tìm hiểu kinh Pháp Hoa,
nhưng đọc kinh Pháp Hoa mà nhìn thấy được Phật Thích-ca bước vào bảo tháp
“tay bắt mặt mừng” với Phật Đa Bảo thì duy nhất chỉ có anh. Những vấn đề khô
khan trong y học, phức tạp và siêu hình trong Phật học, qua ngòi bút của anh đều
trở nên nhẹ nhàng, vui vui, dễ tiếp nhận.
Và lần này, giọng văn hài hước của anh không ẩn giấu nữa mà khởi đầu ngay từ
tiểu mục “Nghĩ tức cười”, ấy là anh muốn công khai nêu ra những cái “tức cười”
trong cuộc tồn sinh của vạn hữu từ muôn triệu năm nay (hay còn lâu hơn nữa?)…
mà thật ra ai cũng nhìn thấy nhưng lại chẳng biết cười như anh. Bây giờ nghe anh
nói rồi thì thấy đúng là thật “tức cười”.
Nhưng với Đỗ Hồng Ngọc thì cười không chỉ để… mà cười. Cái cười của anh thật
ra là thâm trầm, sâu lắng, khởi đi từ manh mối của sự “Nhìn lại mình”, vốn là khởi
đầu cốt yếu của mọi pháp môn tu tập trong Phật pháp. Không “nhìn lại mình” thì
có bỏ nhà lên núi tu hành miên mật năm bảy chục năm cũng không mong gì đạt
được sự giải thoát hay giác ngộ. Bởi vậy, anh cười như kiểu “vui thôi mà” nhưng
lại bật ra một câu hỏi làm nhiều người choáng váng: “Có kiếp sau không?”
Choáng váng là vì đối với những con người còn đầy tham chấp hỷ nộ ái ố, vất vả
lắm mới quên đi được câu hỏi ấy để sống vui thì bỗng dưng anh khơi lại vấn đề
khiến họ không thể nào vui sống.
Mà thật ra thì anh cũng chỉ đùa thôi. Bởi anh không hỏi để tìm câu trả lời, mà chỉ
để gợi ra những phương thức rất tuyệt vời giúp mọi người vui sống. Đó chính là rõ
biết và chấp nhận “bốn thứ ma” (bởi không nhận thì chúng cũng đang có đó) và
“bắt tay làm hòa”, vui sống với chúng. Nhưng thử nghĩ mà xem, làm được như anh
nói chẳng phải đã là một thiền sư “thõng tay vào chợ” rồi đó sao? Đâu còn bận
lòng gì với tử sinh, sinh tử?
Nhưng rồi anh quá rõ biết tâm niệm “chúng sinh” nên tuy nói vậy mà vẫn ân cần
giải thích. Hẳn anh biết là rất nhiều người trong chúng ta vẫn còn luôn ưu tư, thắc
mắc. Anh nói về “nghiệp”, về “bản ngã” và rồi cuối cùng chỉ ra một sự thật để ta
thấy rằng mỗi người chỉ có thể nỗ lực tự tu tập để cứu lấy chính mình, bởi vì “Phật
cũng già, cũng bệnh”, và tất nhiên là rồi… cũng chết.
Chỉ qua mấy đoạn văn ngắn với cách đề cập “vui vui” rất đặc thù của riêng anh,
người đọc như bừng tỉnh để nhìn lại chính mình và tự thấy ra cái “cuộc đời như
gió qua” này thật không đáng để chúng ta ôm giữ mãi quá nhiều khổ đau mà hầu
hết đều do chính mình tạo ra. Một cái nhìn nhẹ nhàng nhưng sáng rõ về cuộc đời sẽ
giúp cho cuộc sống của chúng ta cũng tự nhiên trở nên nhẹ nhàng hơn. Phải chăng
đây là định nghĩa thiết thực và dễ hiểu nhất của sự giải thoát?
Tập sách khá mỏng nhưng anh đã đề cập đến hầu hết các phần giáo lý quan trọng
từ những bộ kinh quan trọng của Phật giáo như Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Kim
Cang, Duy-ma-cật… Đây thật đúng như tinh thần mà anh tự bộc bạch: “Tôi chỉ học
lõm bõm ít kinh Phật…, và cũng chỉ học lấy cái ‘cốt lõi’”.
Thì quả đúng vậy. Những kinh anh đã đọc qua và nhắc đến, nếu so với số lượng
Kinh điển Phật giáo hiện còn trong hai tạng Nam truyền và Bắc truyền thì quả thật
là quá ít. Nhưng hai chữ “lõm bõm” của anh thì tôi thật không khỏi hoài nghi, bởi
lời anh nói là “chỉ học lấy cái cốt lõi” thì quả thật không phải ai cũng làm được.
Bởi muốn làm được cái việc “đãi cát chọn vàng”, từ vô số những ngôn từ phương
tiện Phật đã thuyết trong kinh mà trích xuất ra được “cái cốt lõi” thì phải hết sức
thông thuộc, am hiểu thấu đáo mới có thể làm được.
Tuy nhiên, cũng nên lưu ý rằng “cái cốt lõi” mà anh rút ra từ Kinh điển là “cái cốt
lõi” cho riêng anh, anh không hề có ý đưa ra để làm khuôn mẫu cho ai khác. Chính
cái tinh thần tự khai phá, tự tìm tòi trong sự tu tập của anh mới là tấm gương sáng
để chúng ta noi theo. Anh nói rõ: “Có tới 40 đề mục để thiền quán, tôi chỉ chọn
một…” Với tôi, chính sự chọn lựa này có thể đã quyết định phần lớn khả năng
thành công trong tu tập. Rất nhiều người khi mới đến với thiền phải loay hoay rất
lâu giữa các lựa chọn khác nhau, bởi không biết chắc được mình thích hợp với đề
mục nào, phương pháp nào. Khi hành giả xác định được một chọn lựa thích hợp
cho chính mình, sự tu tập sẽ dễ dàng và hiệu quả hơn rất nhiều, bởi có thể tập trung
toàn bộ tâm ý vào đề mục đó mà không bị phân tán bởi các lựa chọn khác.
Tôi cũng thực sự thán phục khi đọc qua những tiểu mục anh nêu đại lược chặng
đường anh tìm đến và đi qua nội dung những bộ kinh lớn.
Tôi có cảm giác anh như một nghệ sĩ tài hoa đang ngắm nhìn và cảm thụ một bức
tranh đẹp, không mất nhiều thời gian cho những họa tiết, phông nền… mà có thể dễ
dàng nhận biết ngay những đường nét chính yếu, những ý nghĩa ẩn tàng mà tác giả
muốn thể hiện. Bởi vậy, những bộ kinh đồ sộ đối với nhiều người trong chúng ta
thì qua mô tả của anh trở nên gần gũi, dễ tiếp nhận hơn, nhưng không vì thế mà
mất đi phần tinh túy. Tôi cũng từng đọc Pháp Hoa, Duy-macật… như anh, nhưng
tôi chưa bao giờ có được khả năng “tóm lược” một cách rõ ràng các điểm tinh yếu
của giáo pháp theo cách như anh.
Một sự “ngạc nhiên thú vị” khác cần đề cập đến ở đây là anh cũng “tóm lược” cả
cuộc đời mình từ ấu thơ cho đến… U90 một cách mạch lạc, dễ hiểu nhưng đầy đủ,
cũng như điểm qua được hầu hết những thành tựu từ ngòi bút của anh trong cả ba
lãnh vực: văn chương, y học và Phật học. Anh chỉ điểm “sơ sơ” thôi mà có đến 7
tập thơ, hơn 60 đầu sách… Những con số hẳn là phải gây ấn tượng với bất kỳ người
cầm bút nào.
Sự “đầy đủ” trong những tóm lược của anh nên được hiểu theo ý nghĩa do chính
anh nêu ra, “bởi chính đó là một trong những yếu tố của ‘chất lượng cuộc chết’”,
và nếu nói theo thuật ngữ chuyên ngành cũng do anh đề nghị thì đó là “well-
dying”. Hẳn độc giả sẽ không khỏi ngạc nhiên đầy thú vị khi thấy hành trình cả
một đời người rồi sẽ chi phối như thế nào đến “chất lượng” của chuyến đi xa cuối
đời.
Có 26 tiểu mục được anh đưa vào tập sách, với những chủ đề dàn trải hầu như đề
cập đến tất cả những vấn đề quan trọng trong sự tu tập, từ sự nhận hiểu tinh yếu
giáo pháp cho đến kinh nghiệm thực hành. Độc giả có thể từ từ, thong thả “nhâm
nhi” từng tiểu mục ngắn trong sách này, mà theo tôi rất nên đọc lại nhiều lần để
thấy hết được sự tài tình của anh khi biến mọi vấn đề khô khan hay trừu tượng,
siêu hình trở nên gần gũi, dễ hiểu, thiết thực và… hấp dẫn. Nhưng đối với riêng tôi,
những phần “hấp dẫn” nhất chính là khi anh chia sẻ “vài kinh nghiệm riêng”,
những điều không thể tìm thấy trong bất kỳ bài thuyết giảng hay luận văn Phật giáo
nào. Đó là những điều theo tôi hoàn toàn thể hiện được “dấu ấn Đỗ Hồng Ngọc”.
Chẳng hạn, anh chia sẻ một câu “thần chú” chưa từng có ai tụng đọc trong Phật
giáo, nhưng đúng là sẽ rất ư “linh nghiệm” đối với nhiều người. Câu thần chú đó là
“thả lỏng toàn thân thả lỏng chưa” mà anh thường “tụng” khi ngồi xuống bắt đầu
thiền tọa.
Thật ra, “thả lỏng” hay “buông thư” là điều mà bất cứ vị thầy nào khi hướng dẫn
thiền tập cũng đều nhắc đến, nhưng chia sẻ quan trọng của anh ở đây là sự nhấn
mạnh phải “thả lỏng toàn thân” cũng như tính chất quyết định của việc này, mà
anh cho rằng nếu không làm được thì sẽ “hỏng bét”.
Dù vậy, không phải ai cũng may mắn có được khả năng “thả lỏng toàn thân” ngay
tức khắc khi ngồi xuống bắt đầu thiền tập. Một số người, thật ra là đa số, tuy vẫn
muốn làm thế nhưng chưa thể làm được. Điều này cũng bình thường thôi, vì cần
phải có công phu luyện tập qua thời gian. Nhưng nguyên tắc chung được áp dụng
cho mọi trường hợp là thân và tâm luôn tương quan chặt chẽ với nhau. Do vậy, nếu
khi bắt đầu thiền tập mà toàn thân chưa buông thư hoàn toàn thì cũng không nên lo
lắng, chỉ cần tiếp tục giữ tâm an tĩnh, chú ý vào đề mục thiền đã chọn thì sau một
thời gian, chắc chắn mọi việc sẽ tốt hơn. Khi tâm an tĩnh thì thân cũng sẽ dần dần
đi vào trạng thái buông thư, cơ bắp giãn ra, không còn “căng cứng” nữa. Tuy nhiên,
vì điều này thực sự rất quan trọng nên việc “tụng thần chú” như anh nói để
nhắc nhở chính mình khi bắt đầu thiền tập là rất hữu ích.
Một chia sẻ quan trọng khác của anh cũng hết sức thú vị là mối tương quan giữa
tình trạng thiếu oxy kinh niên (chronic hypoxia) của não với trạng thái hỷ lạc, lâng
lâng sảng khoái của thiền giả. Anh giải thích theo cách nhìn của khoa học thì có
thể là do tình trạng thiếu oxy làm cơ thể tạo ra các hormone liên quan đến trạng
thái hạnh phúc, sảng khoái đó. Anh cũng liên kết hiện tượng này với kinh nghiệm
riêng của anh sau những cơn bệnh sốt rét và cho rằng có thể việc thiếu hồng cầu
khiến cơ thể thiếu oxy đưa đến trạng thái sảng khoái sau mỗi cơn sốt rét hồi nhỏ. Và anh
cũng đưa ra giả định rằng các thiền sư thường tìm lên núi cao để dễ tu tập vì trên
đó không khí loãng, tỷ lệ oxy thấp, như vậy tất nhiên hành giả dễ rơi vào tình trạng
thiếu oxy, từ đó có được trạng thái thiền duyệt, sảng khoái.
Tất nhiên, đây là những dữ kiện rất lý thú và chắc chắn cần được nghiên cứu thêm
trước khi có thể vận dụng vào thực tiễn. Nhưng người học thiền cũng nên dè dặt
với những mối liên kết giả định như vậy. Việc hạn chế cung cấp oxy cho cơ thể
qua việc kiểm soát hơi thở là điều mà người tập thiền hoàn toàn có thể làm được,
nhưng nếu như có ai muốn thử nghiệm dùng cách này để đạt được thiền duyệt thì
chắc chắn là không nên, thậm chí còn rất nguy hiểm. Khi thiền giả đi sâu vào định
thì hơi thở sẽ chậm dần đi cho đến lúc gần như chỉ còn duy trì ở mức tối thiểu.
Nhưng đó là một hiện tượng tự nhiên do nhu cầu oxy của cơ thể giảm mạnh chứ
không phải do thiền giả cố ý tạo ra, và tình trạng cơ thể khi đó tiêu thụ rất ít oxy
chứ không phải thiếu oxy. Đỗ Hồng Ngọc cũng nhắc trong thiền tập phải hết sức
thận trọng, không nên “nín thở” để mong được mau vào thiền vào định!
Tuy nhiên, việc đề cập đến mối tương quan “thân – tâm” này quả thật vô cùng lý
thú. Điều này cũng cho thấy rằng thiền tập chẳng những thiết yếu cho một cuộc
sống hạnh phúc mà còn luôn mang lại cho mỗi chúng ta những khám phá mới,
những điều mới mẻ và cuốn hút.
Tôi đã đọc say mê cả tập sách này không một lần dừng lại, không chỉ bởi lối văn
nhẹ nhàng mà hấp dẫn của anh, mà còn phần lớn là do cách anh trình bày những
vấn đề rất độc đáo, rất ư là… Đỗ Hồng Ngọc, nghĩa là không thể nhầm lẫn với ai
khác.
Lời cuối cùng muốn nói ở đây là tôi mong gặp lại anh biết bao! Từ lần cuối ghé
nhà thăm anh đến nay e cũng đã gần chục năm rồi chưa gặp lại, và giờ thì tôi với
anh ở hai đầu… trái đất. Mặc dù thường liên lạc với anh qua email, qua điện thoại,
nhưng tôi vẫn luôn muốn gặp lại để được ngắm nhìn khuôn mặt anh, khuôn mặt
như lúc nào cũng ẩn chứa một nụ cười hoan hỷ và sẵn sàng nở ra để lan tỏa niềm
vui sống đến với người đối diện.
Cảm ơn anh rất nhiều đã một lần nữa cho tôi “những ngạc nhiên đầy thú vị”.
Mong cho tập sách này sớm ra đời và đến tay bạn bè thân hữu, để một lần nữa “có
dịp chí chóe cho vui” như lời anh nói.
Quế Minh Đường (Westminster), California
Tháng 9 – 2023
Nguyễn Minh Tiến
………………………………………………………………………………………….
Có thể đọc Ebook “Một Ngày Kia… Đến Bờ” V2 ngày 11.9.2023 trên dohongngoc.com
Nhân mùa Vu Lan, đọc lại bài thơ Bông hồng cho mẹ của Đỗ Hồng Ngọc
Nhân mùa Vu Lan, đọc lại bài thơ Bông hồng cho mẹ của Đỗ Hồng Ngọc …
Nguyên Hậu
Năm 2013, khi đang tìm hiểu về thơ miền Nam giai đoạn 1954-1975, tôi có dịp gặp gỡ nhà thơ Đỗ Nghê (bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc) tại Sài Gòn và được ông tặng cho tập thơ đầu tay mang tên Tình người (xuất bản năm 1967). Tôi đọc tập thơ và ấn tượng nhất là bài thơ Thư cho bé sơ sinh. Khi biết ông là một bác sĩ, viết bài thơ đó khi còn là một thực tập sinh tại bệnh viện Từ Dũ sau khi hoàn thành ca hộ sinh đầu tiên trong cuộc đời y nghiệp, tôi vừa khâm phục, vừa xúc động. Khâm phục vì một bác sĩ lại có thể làm một
bài thơ với những ý tứ chân thành, sâu sắc đến thế. Còn cảm động vì những điều mà vị bác sĩ nhắn chủ đến em bé sơ sinh lúc đó. Thông điệp mà ông nhắn đến em có lẽ cũng là thông điệp ông dành cho tất cả chúng ta, vì ai cũng từng lớn lên từ một đứa trẻ, còn xúc động là khi đặt bài thơ vào bối cảnh ra đời, những thập niên 60 của thế kỷ XX tại miền Nam, khi mỗi số phận được sinh ra đều phải đối mặt với chiến tranh, chết chóc, hiện thực phi lý mỗi ngày. Cuộc gặp gỡ ngắn ngủi, trọn vẹn chỉ trong một buổi sáng, tại một quán cà phê nằm trong một con hẻm nhỏ trên đường Cao Thắng, bây giờ tôi cũng không nhớ rõ quán tên gì. Đó là lần duy nhất tôi có dịp gặp gỡ ông. Sau này, tôi được nhìn thấy ông trong một vài buổi ra mắt sách dạy về thiền, hoặc giao lưu về một chuyên đề y khoa nào đó. Vẫn là ông với phong thái nhẹ nhàng, nụ cười thường trực trên gương mặt phúc hậu, ông nhanh chóng thu hút được nhiều khán giả tham dự.
Sau khi hoàn thành đề tài nghiên cứu liên quan đến thơ miền Nam, tôi chuyển sự quan tâm sang vấn đề khác nên không còn chú ý đến những sinh hoạt văn nghệ như vậy, tôi cũng ít khi về Sài Gòn. Công việc cá nhân làm tôi xao nhãng, không thường xuyên lên đọc các bài viết trên Blog cá nhân của ông. Thế rồi một hôm, tình cờ tôi vào trang Blog cá nhân ông (https://www.dohongngoc.com/) và đọc được bài thơ Bông hồng cho Mẹ. Bài thơ này được ông sáng tác vào mùa Vu Lan năm 2012, in trong tập Thơ Đỗ Hồng Ngọc – Thư cho bé sơ sinh và những bài thơ khác (2013) nhưng phải vài năm sau tôi mới được đọc. Tôi đã không thể kiềm được nỗi xúc động, nói đúng hơn là một “chấn động” nho nhỏ trong lòng. Có lẽ đây là bài thơ thứ hai của Đỗ Hồng Ngọc đã chiếm trọn lòng tôi ngay từ khoảnh khắc đầu tiên như thế. Tôi đã gửi bài thơ cho một số người bạn cùng đọc.
Đó cũng là lúc trên trang cá nhân của ông có rất nhiều độc giả văn chương gần xa (trong nước và hải ngoại) gửi bài viết chia sẻ cảm nhận về bài thơ. Tôi cảm nhận được sức lan tỏa, lay động của bài thơ lúc bấy giờ là rất lớn. Thế nên tôi đành giữ những cảm xúc mà tôi có được sau khi đọc bài thơ cho riêng mình qua vào dòng ghi chép và lưu vào máy tính.
Cách đây vài tháng, trong quá trình dọn dẹp chiếc máy tính cũ, tôi tình cờ gặp lại những dòng cảm nhận mà tôi thảo ra từ mấy năm trước. Đọc lại bài thơ, và, vẫn vẹn nguyên cảm xúc, thậm chí lúc sau này có phần mạnh mẽ hơn, tôi bật khóc.
Có lẽ sau bao nhiêu năm, trải thêm nhiều biến cố trong cuộc đời, tôi lại càng thấm thía hơn ý tứ trong bài thơ và cả những gì bàng bạc phía sau bài thơ ấy.
Con cài bông hoa trắng
Dành cho mẹ đóa hồng
Mẹ nhớ gài lên ngực
Ngoại chờ bên kia sông
(Bông hồng cho Mẹ, 2012, Đỗ Hồng Ngọc)
Chỉ có bốn câu thôi nhưng ý tứ và thông điệp truyền tải thì mênh mông. Đã có rất nhiều người cảm nhận, phê bình bài thơ nhưng với riêng tôi, bài thơ hiện lên thật đẹp, thật bất ngờ, thật linh diệu, như một đóa hoa… Nó đã lay động, đánh thức lòng tôi thật mãnh liệt. Bốn câu thơ mà chứa trong đó cả ba thế hệ, một dòng chảy uyên nguyên, bất tận: ngoại, mẹ, con và một sự hóa thân tuyệt đẹp: từ bông hoa trắng đã hóa thành đóa hồng. Đặc biệt hơn là, phải có bông hoa trắng dành cho con thì mới có đóa hồng dành
cho mẹ; từ cảm thức đau buồn, mất mát lập tức hóa hiện thành niềm hạnh phúc, sum vầy.
Quả là một tứ thơ đẹp và lạ đến bất ngờ! Đọc xong cứ thấy lòng đau nhói, vì chưa lần nào ta đã nghĩ cho mẹ như cách nhà thơ đã làm. Với Bông hồng cho mẹ, Đỗ Hồng Ngọc đã làm cho ta ngộ ra nhiều điều…
Từ khi mẹ là mẹ của ta, ta lúc nào cũng nghĩ cho ta, chưa bao giờ ta nghĩ cho sự hoán vị và nỗi mất mát của mẹ: mẹ từ một người con trở thành một người mẹ, mẹ đã hy sinh bớt phần hạnh phúc được làm con để toàn tâm làm mẹ của ta. Vậy mà chẳng bao giờ ta nghe mẹ thổ lộ điều đó. Nước mắt chảy xuôi là vậy. Trong những lần chỉ có mẹ và con, mẹ thường nói rằng mẹ sợ một ngày mẹ ra đi, chúng tôi sẽ buồn khổ lắm. Lúc ấy tôi chưa
thể hình dung được nỗi buồn khổ mà mẹ nói là gì, vì chúng tôi vẫn đang hạnh phúc khi có mẹ cơ mà. Và lại càng không biết rằng mẹ đã lấy lòng mình để nghĩ cho các con. Mẹ đã chịu kiếp mồ côi từ khi còn rất nhỏ…
Mẹ! Một từ gọi lên nghe thật ấm ám, tự nó đã viên mãn, đong đầy yêu thương. Thế nhưng số lần mẹ được gọi từ đó ít hơn rất nhiều lần so với chúng tôi. Bây giờ tôi cũng đã làm mẹ, đã hiểu thế nào là mẫu tử thiêng liêng, đã thấu hiểu và yêu thương mẹ hơn rất nhiều lần, tình yêu thương được bồi đắp nhiều lên đến từ sự đồng cảm, thấu hiểu, không giống với tình yêu mẹ khi còn là một đứa trẻ, yêu mẹ, giữ mẹ như của báu. Và khi
càng yêu ta càng sợ mất. Hồi nhỏ, mỗi lần thấy một ai đó mất mẹ, ta chỉ hiểu đơn giản là từ đây họ mất đi tình yêu thương của mẹ, mất đi một người thân. Lớn lên, ta hiểu rằng mất mẹ là mất đi nguồn thương, mất đi cái đặc ân mà đất trời ban tặng cho ta. Nói tóm lại, quẩn quanh cũng chỉ nhìn thấy khía cạnh của sự mất mát, vẫn là nghĩ cho bản thân mình.
Từ khi đọc bài thơ của Đỗ Hồng Ngọc, tôi mới thấy thêm một chiều kích khác của sự ra đi ấy.
Con cài bông hoa trắng
Dành cho mẹ đóa hồng
Ngày mẹ rời khỏi vòng tay ta là ngày mẹ trở về làm con bên ngoại. Thấy được điều đó, tự nhiên cảm giác mất mát trong ta vơi đi phần nào. Từ nay mới đúng thật là ta thương mẹ. Và từ bây giờ, tôi đã có thể tập cách chấp nhận một cách nhẹ nhàng khi nghĩ đến một ngày mẹ rời xa chúng tôi.
Đó là phần của con. Còn phần mẹ:
Mẹ nhớ gài lên ngực
Ngoại chờ bên kia sông
Mẹ ơi, từ nay mẹ hãy nghĩ cho mẹ, mẹ đừng buồn gì khi phải xa chúng con. Mẹ rời xa chúng con cũng là lẽ tất yếu. Mẹ hãy vui lên vì ngoại đang chờ đón mẹ về, ngôi nhà của riêng ngoại và mẹ, mẹ có quyền được tận hưởng tình cảm của ngoại, tận hưởng niềm hạnh phúc vô biên của tình mẫu tử. Trần gian bao cảnh đã chia cách ngoại và mẹ, nhưng ở “bên kia sông” sẽ không còn trần ai, không còn điều gì khiến ngoại và mẹ phải
xa cách nữa. Ngoại đã chờ đợi mẹ từ rất lâu rồi. Mẹ hãy vui lên đi.
Lời thơ dung dị nhưng thật minh triết, thật dịu hiền, như lời của Bụt. Nhà thơ nhắc chúng ta về lẽ tuần hoàn của tạo hóa mà chúng ta chưa hiểu, hoặc có khi đã hiểu nhưng vì quá yêu mẹ, quá yêu mình mà quên đi mất. Lời thơ tỏa ra một năng lượng lành giúp xoa dịu nỗi đau, sưởi ấm tâm hồn cả người ra đi và người ở lại. Còn gì tuyệt vời hơn: Mẹ vui, con ấm lòng. Rồi đến một ngày, mẹ cũng sẽ chờ đón con “bên kia sông”, con sẽ không
còn lý do gì để buồn tủi nữa.
Bài thơ Bông hồng cho Mẹ của Đỗ Hồng Ngọc đã cho ta thấy được sự vi diệu, tính đa chiều kích của đời sống. Trong cùng một bối cảnh, niềm vui và nỗi đau cùng tồn tại, chuyển hóa cho nhau, cái ta nhìn thấy đều do góc nhìn của mỗi chúng ta. Cái chết, nhìn từ đứa con thì đó là nỗi mất mát, chia ly còn nhìn từ người mẹ thì đó là sự sum họp, hạnh phúc, hoặc cũng là hoa hồng, nhưng trên ngực con là hoa màu trắng, trên ngực mẹ là đóa
hồng tươi nguyên. Phải chăng mọi thứ trong cuộc sống này vốn dĩ là như vậy, có những việc tưởng như là nghịch lý nhưng nếu hiểu đến tận cùng thì không còn nghịch lý nữa vẫn là sự cân bằng, như muôn đời vẫn vậy. Nhà thơ là người đã hiểu, đã nắm bắt được chân lý ấy và truyền đến cho chúng ta. Và, ai biết được quy luật này, người ấy sẽ an nhiên…
(MH, Đh Thủ Dầu Một)
HỌC PHẬT QUA THƠ ĐỖ HỒNG NGỌC
HỌC PHẬT
QUA THƠ ĐỖ HỒNG NGỌC
(Minh Lê)
Từ trước tới giờ, tôi ít đọc thơ vì tự thấy mình có chút thiếu “hồn thơ lãng mạn”. Dù vậy, tôi là người hâm mộ âm thầm nhiều năm của Bác sỹ Đỗ Hồng Ngọc, không chỉ với sách của Anh mà cả với các bài thơ Anh viết. Anh làm thơ cũng như viết văn, nghiêm túc mà dí dỏm, nhẹ nhàng mà sâu sắc, ngắn gọn mà vô số “ý ở ngoài lời”. Anh còn giảng và viết nhiều bài về Phật pháp rất hay, nhưng tôi thích học Phật qua thơ của Anh hơn.
Như bài “Nỗi nhớ” in trong tập Vòng quanh (NXB Trẻ 1997 tr. 38) chỉ có 6 câu:
“Thôi hết cồn cào
Thôi không quặn thắt
Chỉ còn âm ỉ
Chỉ còn triền miên
Thì thôi cấp tính
Thì đành kinh niên.”
Lần đầu đọc khi còn trẻ, tôi bật cười, nghĩ tác giả chắc “méo mó nghề nghiệp”, tả nỗi nhớ mà cứ như tả cơn đau thể chất vậy, nhưng tác giả cũng thật tài tình, chọn từ và vần điệu làm sao mà người đọc cảm nhận được từ cơn đau ít tới cơn đau nhiều, từ “bệnh” nhẹ tới “bệnh” nặng. Lần thứ hai đọc ở tuổi trung niên, tôi cảm thán tác giả “hiểu đời” ghê, bởi từng trải rồi mới biết “nhớ” cũng đau “quặn thắt ruột gan” chớ không vừa. Lần thứ ba đọc, tôi liên tưởng tới bài hát “Đưa em tìm động hoa vàng” (nhạc Phạm Duy, lời Phạm Thiên Thư):
“Rằng xưa có gã từ quan,
Lên non tìm động hoa vàng ngủ say
Thôi thì thôi để mặc mây trôi
Ôm trăng đánh giấc bên đồi dạ lan
Thôi thì thôi chỉ là phù vân
Thôi thì thôi nhé có ngần ấy thôi.”
Nỗi nhớ của Phạm Thiên Thư dù nói “chỉ là phù vân, có ngần ấy thôi” sao vẫn có cảm giác day dứt luyến tiếc không đành lòng, dù lặp đi lặp lại “thôi” rất nhiều lần mà vẫn chưa “thôi” thật sự. Đúng là nghệ sỹ mà, cho nên mới… khổ! Ngược lại nỗi nhớ của Đỗ Hồng Ngọc rất tỉnh táo “rằng đau thì biết là đau”, chuyện xác nhận “thì thôi cấp tính thì đành kinh niên” cũng mang vẻ an nhiên. Chính nhờ chấp nhận nỗi đau đó sẽ ở với mình vĩnh viễn mà lòng mình trở nên bình tĩnh hơn để chuyển hóa “rác thành hoa, đau khổ thành an lạc”. Đây chẳng phải “chiếu kiến ngũ uẩn giai không” trong Tâm Kinh đó sao?
Anh Ngọc quê La Gi, còn tôi sinh Phan Thiết, lớn lên ở Nha Trang nên khi tình cờ đọc bài “Giả sử” của Anh, tôi sém chút la lên “ôi bài thơ của đời tôi”:
“Giả sử sóng thần ập vào Nha Trang
Ập vào Mũi Né
Anh chỉ kịp quẳng em lên một chiếc thuyền thúng
Vút qua những ngọn dừa
Những đồi cát trắng
Em nhớ mang theo đôi quả trứng
Vài nắm cơm
Vài hạt giống
Đừng quên mấy trái ớt xanh…
Biết đâu mai này
Ta làm An Tiêm
Trở về làng cũ
Nơi này ta sẽ gọi là Nha Trang
Nơi kia gọi là Mũi Né…
Cho nên
Sao chẳng sớm mà thương nhau hơn?”
(4/2011, đăng 13/9/2020 dohongngoc.com)
Hồi nhỏ nhà tôi ở sát biển nên tôi rất sợ sóng thần. Lâu lâu tôi lại nằm mơ thấy sóng thần ập vô cuốn trôi mọi thứ, nghĩ mà rùng mình. Sau khi đọc bài “Giả sử”, tôi viết email cám ơn Anh Ngọc đã giúp tôi hết sợ sóng thần. Anh đùa: “Hết sợ sóng thần vì đã sẵn thuyền thúng ở trong nhà và đã cụ bị sẵn các thứ, nhất là ớt xanh rồi phải không? Dân Phan Thiết có khác!” Trời, sao Anh đi guốc trong bụng tôi vậy? Thì Anh đã chọn mọi thứ chu đáo quá mà: đôi quả trứng đặng sau này còn nở ra gà con nè, vài nắm cơm vắt ăn đỡ đói lòng những ngày “lênh đênh” nè, rồi hạt giống để trồng lại vườn cây nè, có cả mấy trái ớt xiêm xanh – món “tủ” của dân Phan Thiết và Khánh Hòa nữa.
Nói nhỏ nghen, thiệt ra tôi tâm đắc nhứt câu cuối cùng “sao chẳng sớm mà thương nhau hơn?”. Lúc đó, tôi viết cho Anh cách hiểu của tôi như vầy: “Sóng thần, hay sóng cuộc đời có dữ dội cách mấy, mà có một người nắm tay đi với mình, thì có gì phải sợ phải không Anh?” Anh cười không trả lời. Giờ tôi mới nhận ra, cái “thương” mà Anh nói không chỉ là tình yêu trong gia đình mà chính là “tình thương của Bụt” – từ của thiền sư Nhất Hạnh. Đó là “từ bi hỷ xả”, gồm khả năng hiến tặng niềm vui, làm vơi nỗi khổ, tình thương mang lại hạnh phúc và tự do. Vậy sao không “sớm mà thương nhau hơn” thì đời sẽ thêm nhiều an lạc, đợi chi tới sóng thần?
Tháng 12/2020, Anh Ngọc viết bài “Biết rồi còn hỏi!”:
“Tôi ngồi trước tượng Phật
Viết lăng nhăng mỗi ngày
Để khi nào bí thì hỏi
Phật tủm tỉm cười
“Biết rồi còn hỏi!”
Sáng ra đường phố
Từng bước như đi dạo
Không thấy nở hoa sen
Ngước mắt nhìn lên
Một tấm biển to chữ đỏ
“Đồ ngu cao cấp”
Cửa hàng Fashion
Rơi dấu hỏi…
Đâu cần trốn ra khỏi cổng thành
Xóm nghèo nơi tôi ở
Bên phải là nhà bảo sanh
Bên trái là bệnh viện
Đằng kia lớp dưỡng sinh
Đằng nọ nhà quàn vô lượng thọ…
Hằng ngày nghe tiếng khóc trẻ con
Nghe tiếng rên người lớn
Tôi nhắc Phật đừng buồn
Không được quạu quọ, không được cau có
Không được nhăn nhó…
Phật cười
“Phải! Nó vậy đó”.”
(dohongngoc.com 4/12/2020)
Bài này dễ hiểu, nhưng hiểu hết lại không dễ. Mấy chỗ “bí thì hỏi”, mà Phật chỉ tủm tỉm “biết rồi còn hỏi!” nghe đơn giản chớ đúng phóc nha. Càng sống lâu càng có nhiều chuyện tưởng “bí”, thiệt ra mình đã “biết” rồi, chẳng qua tâm không đủ tịnh để “hiểu” thôi. Khổ thơ thứ hai chắc tác giả vừa viết vừa cười mím chi, té ra “thiếu dấu hỏi” thì thành “ngu”, mà đời này, thiếu gì chuyện thắc mắc mà không dám hỏi, nên mình chắc “ngu trường kỳ”. Khổ thứ ba tả “sinh, lão, bệnh, tử” – những cảnh ngay trước mắt ta đó thôi. Rồi khổ thơ cuối cùng, giữa “sinh, lão, bệnh, tử” vẫn giữ được tâm an, không “buồn, quạu quọ, cau có, nhăn nhó” thì thành “bụt” rồi, “bụt” là vậy đó! Từ ngữ bình dị, nhịp thơ thong thả, tự nhiên không gò bó nhưng âm điệu bằng trắc nhịp nhàng, láy vần rất duyên dáng. Đây là một trong những bài tôi thích nhứt trong thơ Anh Ngọc bởi nó đại diện cho sự đặc biệt hiếm thấy trong thơ: nội dung dí dỏm mà thâm thúy, từ ngữ, tiết tấu, âm vần đều được chọn rất nghệ thuật mà vẫn trôi chảy tự nhiên mới hay.
Người ta hay nói “thơ là tiếng lòng”. Đã là âm thanh thì phải có tần số, và cái radio trong mỗi chúng ta tùy theo tuổi tác, kinh nghiệm sống và tính cách mà “bắt” được những tần số khác nhau. May mắn thay, cái radio cọc cạch của tôi lại bắt được chút xíu “tần số” trong thơ Đỗ Hồng Ngọc, và từ đó học được chút xíu “suy nghĩ của Bụt” từ thơ Anh.
Mong Anh luôn khỏe, an lạc và tiếp tục sáng tác thêm nhiều “tiếng lòng” truyền cảm!
Minh Lê (Suối Tiên, 7/2021)
(Thư viện Hoa Sen)
MỘT NGÀY KIA…ĐẾN BỜ
Please wait while flipbook is loading. For more related info, FAQs and issues please refer to DearFlip WordPress Flipbook Plugin Help documentation.
The Pure Land Somewhere/Phương Nào Cõi Tịnh (Song Ngữ)
Nguồn: https://thuvienhoasen.org/a39828/the-pure-land-somewhere-phuong-nao-coi-tinh-song-ngu-vietnamese-english-
THE PURE LAND SOMEWHERE
Author: Tuệ Sỹ
Translated by Nguyên Giác
(Written from inspiration after reading “Cõi Phật Đâu Xa” by Đỗ Hồng Ngọc.)
Translator’s note: This translation was made to celebrate the 84th birthday of the writer Đỗ Hồng Ngọc. The translator could not fully translate the profound words of the author, Tuệ Sỹ, a genius bodhisattva of this realm who used non-dual principles to write about Đỗ Hồng Ngọc, a very remarkable layman. Please watch this new screenplay appearing on words: Zen Master Tuệ Sỹ and writer Đỗ Hồng Ngọc are coming out of the Vimalakirti Sutra.
Ghi chú của dịch giả: Bản dịch này được thực hiện để mừng sinh nhật thứ 84 của nhà văn Đỗ Hồng Ngọc. Người dịch không thể dịch cho trọn ý của tác giả Tuệ Sỹ, một Bồ tát thiên tài của cõi này, khi sử dụng những lý bất nhị để viết về Đỗ Hồng Ngọc, một cư sỹ rất mực dị thường. Xin mời xem vở kịch mới đang hiện ra trên những dòng chữ: Thiền Sư Tuệ Sỹ và nhà văn Đỗ Hồng Ngọc đang bước ra từ Kinh Duy-Ma-Cật Sở Thuyết.
………………………………………………………………………………………………………
….
I asked the ants if they saw where the Pure Land was
and if the sky kept the traces of birds flying.
A heart lighted up to replace the sun after hearing
a call in the depths of the night in the country of pain.
The first time I came across Venerable Huệ Hưng’s translation of the Vimalakirti Sutra, Vimalakirti’s thrilling movements and reasoning series made me read with passion, and I memorized many passages. My feelings at that time may not have been as “overwhelming” as those of Mr. Cao Huy Thuần because my cognitive level at that time was only that of a 14-year-old boy, not as profound as that of a young professor who had graduated from the Huế University of Law.
As a novice monk in a Vietnamese temple but studying Theravada scriptures with Lao monks, I have great respect for the Arahants, and so I had no feeling that Vimalakirti could have brought down the status of the Great Hearers. It was only when I was a little older and over the years of studying more and more Mahayana texts that I read more Chinese commentators who disparaged the hearers’ thinking as low-minded and narrow-minded and rather heavily condemned them as “destroyed seeds” who destroyed all the sprouts and good seeds of enlightenment.
Along with the growth of the “Zen mouth” type, who exclusively articulated Zen Buddhist principles on the tip of their lips and tongues, a class of monks went “meditatively insane,” freely wandering into the market, entering the adult bar, entering the theater, and declaring that every location is a pure temple. But with training, since I was a small child, I have never felt, in spite of his unabashedly eloquent reasoning, how Vimalakirti overcame the Great Hearers. Although many Chinese commentators have mocked Sariputra and many other Great Hearers, such as when he asked Vimalakirti where the sages would eat and where they would sit, even so, I still felt that there was a hidden meaning in it that I did not understand.
Until a while ago, when I grew up a little more in the midst of a chaotic society, the monks were like a mixed community. In this way, the Buddha, and in many other ways, the monks and their theoretical schools, suddenly appeared many great senior persons whose level of understanding of the teachings did not yield to the elders in the mountain sect.
Looking inward, they understand and practice deeply the scriptures; looking outward, they are sensitive to the crazy events of society. With their deep comprehension of the Way and broad experience of life, as well as their talents and wisdom, these lay persons have greatly contributed to the passages of reopening the proper source of thought.
Not only one Vimalakirti, but many Vimalakirtis, dressed in different behaviors in various social positions, have appeared here, living among us. They roll in the dust of life, taste all kinds of “smells of filth,” but still constantly rise to the heights of the Dharma. In an era where Vimalakirti’s image can no longer be found, the Dharma can be just like a supermarket item, sometimes just like the items on the shoulder poles of street vendors.
Who is Vimalakirti to be compared like that? A half-historical, half-legendary figure. That personality is the collection of all the qualities to be called the “lineage son,” the true son, of the Enlightened Ones. Each personality emerges in a particular historical epoch, each of which is a personality based on the quality and hierarchy of each society. That personality is hidden alone in the deep forest, or present in the bustling market of life, whose space is covered by their direct and profound minds. The direct mind, which Huyền Trang calls the joy of pure intention, is the will to go up, to see life with loving eyes, to orient one’s life, and to go up together with love and wisdom. From that direct mind, with the will to decide and to persevere in the purpose, that is called the profound mind, also said to increase the joy of pure intention. It’s a character we can meet somewhere.
From the ground of pure-intention joy, the practitioner takes seven more steps to generate bodhicitta, from a deep love for his birth mother, and for the sake of the mother’s peace, makes the vow to practice the bodhi path. Then, with the immense mother’s love, the bodhicitta aspiration also grows and expands in a straight line like an upright mind. From that ground of pure-intention joy, the practitioner generates a steadfast determination that is imprinted in the depths of his mind.
However, it is possible that we will easily be overwhelmed by philosophical words, thereby seeing Vimalakirti as a noble and distant figure. So, let’s start with the description in everyday language, as Đỗ Hồng Ngọc writes in the book “Cõi Phật Đâu Xa,” in which he writes about the Sutras with ease and with great care, just like a doctor writes a prescription:
“Righteousness, i.e., a direct mind, is equality, non-discrimination, non-disparagement… With a mind of non-discrimination and non-disparagement, a respectful mind appears and is embodied by Boddhisattva Thường Bất Khinh, a compassionate and empathetic mind appears and is embodied by Boddhisattva Avalokitesvara, and a sincere mind appears for “everyone who sees will be happy, and everyone who meets will be happy” and is embodied by Boddhisattva Medicine King. Respect, sincerity, and empathy must be based on the non-discriminatory prerequisite, that is Equality. That is Non-Dualism.”
While we try to avoid the rind of the melon, we also tend to panic when we come across a coconut shell. We come across an even more troubling philosophical term, “non-dual.” That is the guiding principle for Vimalakirti’s thoughts and actions when he said to Sariputra, “Appearing in all postures (walking, standing, lying down, sitting), but still not leaving the state of concentration on the cessation of perception and feeling; thus, it is the true state of peaceful sitting.” Or when he, as a patient, welcomed Manjushri Bodhisattva who came to visit, and there, in “Cõi Phật Đâu Xa,” we hear the patient greeting the physician with great relief: “It’s a good thing Manjushri has just arrived! The form has not yet arrived, but it has arrived. The form is not seen, but it is really seen.” The symptoms of the disease, the causes of the disease—all those forms of the disease—don’t appear but they do appear, unseen but still visible; the patient does not visit the doctor, and the doctor does not visit the patient.
In this dialogue, Vimalakirti also greets Manjushri in ordinary language: svāgatam, which literally means “has arrived skillfully, well.” Here is the exact equivalent of the English greeting: “Welcome!” This greeting word is connected to the term Tathāgata: Tathagata (Như Lai), which is defined in the Diamond Sutra as “Tathagata, the one who skillfully arrives because he neither comes from anywhere nor does he go anywhere.” It also refers to the Sanskrit words gata, āgata, anāgata (already gone, already come, not coming, not yet come), which we read every day in the Heart Sutra: gate gate paragate parasaṃgate bodhi svāha. Coming but not coming, going without going, is the nature of the Tathagata: Tathāgata: tathā gata/āgata. The enlightened saints greet each other in everyday language that still encompasses the transcendental world.
But the concept of non-dualism forms the ideological foundation of a branch of Vedānta philosophy known as advaita-vāda in Sanskrit. In the contemporary philosophical language, it is translated as the doctrine of the “Absolute One Source.” This theory states that when one attains the Absolute One Source, which represents liberation, Brahma and Self unite; the Little Self and the Great Self merge into the Absolute One. In other words, the Soul and the Creator God are the One Absolute. The Buddhist scriptures state that there is no concept of a truly existing Self, and therefore reject the theory of an Absolute One Source.
In order to avoid confusion and being overwhelmed by transcendental dialectical words and arguments, ranging from the absolute one source of the union of Brahma and Self to “The Tathagata arrives without coming, goes without leaving,” we can also begin with a simpler understanding as explained in the commentary by Đỗ Hồng Ngọc, which can be likened to how doctors diagnose diseases:
“They remain in the realms of birth and death without engaging in any unwholesome actions. They abide in Nirvana without ever ceasing to exist. They cultivate the mind of inherent emptiness and simultaneously accumulate merits. They dwell in the signless mind and yet continue to save sentient beings. They do not arise themselves, yet they inspire the arising of all virtuous actions...”
That passage summarizes Vimalakirti’s conversation with Manjushri about the Bodhisatta’s realm practice. It discusses the practice’s environment and the object of the Bodhisattva’s observations. It mentions that dwelling in emptiness (śūnyatā-gocara) and signless formations (animitta-gocara) are two of the three doors of liberation that a Hearer focuses on to attain Nibbāna. These three doors of liberation are Emptiness, Signlessness, and Nonaspirational (apraṇihita), the latter of which is also called Non-action according to the monk La-thập. If you have not seen or do not know what Nirvana is, do not rush to say that birth, death, and Nirvana are one, not two. These, however, are the words that the sick say to the visitors. Sickness or no sickness, samsara or nirvana, here and there in the three realms, the sick person embodies inherent emptiness, and the phenomenon of illness is also empty. Therefore, there is no need to discuss hope or hopelessness.
Such things are not easy to understand either; therefore we should listen to the quote from the book Cõi Phật Đâu Xa: “Bodhisattvas always stand between the two banks…”
And here he introduced the lyrics of Trịnh Công Sơn’s song: “On our shoulders, the moon and the sun both shine, illuminating a realm that returns for a hundred years.” If we examine Trịnh Công Sơn’s lyrics from a philosophical perspective, we can see that they are not related to the non-dual Dharma gate. But it also reminds us of the story of a musician who lived in the heavenly realm of the Indra Heaven Emperor and fell in love with a goddess. He went to the Buddha and sang a love song as an offering, expressing his passion with the words, “I love her as an Arahant loves the Dharma.”
Perhaps there is no description of faithful love more sincere than that. The lyrics were unfamiliar to serious Buddhist readers, but the Buddha’s response was equally perplexing: “Very well, the music complements the words, just as the words complement the music. In it, there is craving, but there is also Nirvana.” Craving refers to a strong desire, often with sexual implications, while Nirvana represents a state of seclusion or enlightenment. Does it mean that one can look through the craving to see Nirvana, or one can look through Nirvana to clearly see the nature of the craving? Is it in the stinking mud that the lotus flower is found?
After all, what is the door to this non-dualistic dharma?
The love story of the Indra Heaven Emperor’s musician is made into a script to say the unspeakable because of its villainous nature. Likewise, readers of the Vimalakirti Sutra can easily recognize that this text is structured according to the dramatic genre. In the script, the villains of the characters are used to express the content according to the intended meaning.
In the passage quoted by Đỗ Hồng Ngọc mentioned above, we see that the Bodhisattva cultivates his mind like a Hearer Saint who lives in the transcendent world but practices his way like an ordinary person in the realm of birth and death: in the mud but without the foul smell of mud. That is the basis of non-dualistic thinking. The sages live in the transcendent world, and the mortals are born and die; the sages and the mortals are in two opposite worlds but of the same nature. Readers who do not see the antagonistic pairs in this theory will surely see that Vimalakirti has “overwhelmed” and “chased” the Hearer Saints into a dead-end alley.
In the script of the Vimalakirti Sutra, one hears corresponding responses between Manjushri and Vimalakirti, but this is not a pair of villains; in the sutra, Manjushri is actually the theater conductor. Without a theater conductor, it is difficult to understand the content of the script. This is the classical structure of drama. While Manjushri spoke and asked, Vimalakirti remained silent. Without Manjushri as the theater conductor, Vimalakirti’s silence has no meaning, so this is not a pair of antagonistic reciprocals.
In fact, Vimalakirti appeared in many different roles, so he simultaneously played the villain for many saints, from arahants to bodhisattvas. When Sāriputta was sitting quietly in a deserted forest, Vimalakirti appeared with such sharp reasoning that this great hearer was speechless. It is easy for people to see only a Venerable Sariputra in a deserted forest who is absorbed in the immersion of cessation of feeling and perception, who sits in the stillness of body and mind, and who is able to keep his body from decaying through a great kalpa, through millions of years; however, he is not seen wandering around for alms with a hungry stomach.
If he wants to enjoy peace and quiet for himself for thousands of years until his body decays, then he doesn’t need to eat to be alive. So why is the monk holding his bowl for alms? Is it because hunger will torment him or to wake up the worldly beings in misery? Is the scene in which Vimalakirti goes into the world to help human beings live in joyful peace nobler than Sariputra sitting in silence? Is the statue of the Buddha sitting motionless on the table of no benefit to anyone, not equal to a monk who chants sutras to pray for the dead ancestors and for peace for the living? It is a pair of antagonists that reveal the essence of existence.
On the other hand, in the manner of the saint who had gone beyond this world, Sariputra appeared before an opposite character who was an extremely beautiful goddess. With the beauty that surpasses all the beauty of the heavens, she danced to the musical piece named “The goddess offers a rain of flowers,” which was more magical than any others and one that would make the Emperor Xuanzong of Tang lose his throne and his country.
But why did she live in an empty room with the old layman Vimalakirti and then dance and sing in front of the dignified saints, whose minds were quiet and never had sexual ripples? In what sense was she present? The exchange between the goddess and Sariputra pushed the contrast between defilement and purity to dramatic drama, causing Sariputra to transform into a beautiful goddess and the goddess to transform into the dignified Saint Sariputra.
Those who recognize the pairs of opposite characters between the main and antagonist in the Buddhist scriptures would contemplate those images to see the meaning of non-dualism and would know the door leading to the realm of non-dualism.
Moreover, we should observe carefully the villainous antagonists and the villainous scenes. The mango garden, owned by the courtesan Amrapali, became a place where the princes and rich young men let themselves drift in lust and a retreat place for the hearer monks who had gone beyond this world and lived in purity in the polluted environment. Meanwhile, Vimalakirti’s residence, where he received politicians who were rushing in the arena of power and merchants who were competing fiercely in the marketplace, was also the hangout spot for the saints, the hearer monks, and the bodhisattvas. Vimalakirti’s home and the mango garden of the courtesan Amrapali were the two opposite images of the villainous antagonists: the noise and the stillness, the polluted and the purified.
Between the Samsara world and the Fragrance Buddha Realm, between the lion throne and the city of Kapilvastu, between the infinity coming into the infinitely small and the small entering the vastness, these are pairs of antagonistic backgrounds that would reveal the core of the existence of the world and the universe. With those images, Buddhists practice how to think beyond conventional stereotypes, transcending the empirical world to rise to the transcendent and inconceivable realm.
Thus, reading the Vimalakirti Sutra is like watching a screenplay, with dramatic events and antagonistic characters and backgrounds. This is a way to train and equip yourself with a self-directed tool to rise to enlightenment heights.
While I was exploring the antagonistic and dramatic meanings in the Vimalakirti Sutras, my two lay friends, Đỗ Hồng Ngọc and Thân Trọng Minh, expressed their enthusiasm and aspiration, intentionally wanting to rewrite a screenplay and stage a theater so that the audiences could better understand what the sutra wants to point out. Because our language skills and thinking capacity are limited, it can be relatively easier to enter the righteous path through the artistic path.
I hope you lay people achieve as you wish. As for me, returning to the grass cottage to wander with poetry, I now send to my lay friends two poetic lines as follows:
Sitting in this familiar, old thatched-roof cottage,
I raised the teacup from the old Master Triệu and saw thousands of flowers blooming.
Written in Thị Ngạn am, at the beginning of spring, in the year of the Rooster.
Tuệ Sỹ
(3.2017)
(dohongngoc.com)
…. o ….
PHƯƠNG NÀO CÕI TỊNH
Tuệ Sỹ
(Viêt từ cảm hứng “Cõi Phật Đâu Xa” của Đỗ Hồng Ngọc)
Ta hỏi kiến nơi nào Cõi Tịnh,
Ngoài hư không có dấu chim bay?
Từ tiếng gọi màu đêm đất khổ,
Thắp tâm tư thay ánh mặt trời.
Lần đầu tiên tôi tình cờ gặp bản dịch Duy-ma-cật sở thuyết của ngài Huệ Hưng; hành tung ly kỳ và chuổi lý luận của Duy-ma-cật khiến đọc say mê, nhiều đoạn học thuộc lòng. Có thể không “choáng ngợp” như anh Cao Huy Thuần vì trình dộ nhận thức của tôi bấy giờ chỉ là của một cậu bé 14 tuổi, không thể sâu sắc như vị giáo sư trẻ tốt nghiệp Đại học Luật khoa Huế. Một chú tiểu tu chùa Việt nhưng học kinh điển theo hệ Theravāda với các Sư người Lào, do đó cực kỳ kính trọng các A-la-hán, và vì vậy không có cảm giác Duy-ma-cật đã có thể triệt hạ địa vị các Đại Thanh văn. Lớn lên chút nữa, qua nhiều năm học thêm nhiều kinh luận Đại thừa, đọc thêm các nhà luận giải Trung hoa chê bai tư tưởng các vị Thanh văn thấp kêm, tâm tư nhỏ hẹp, và kêt án khá nặng là “hạng tiêu nha bại chủng”, hủy diệt mọi thứ mầm non và hạt giống tốt của giác ngộ.
Cùng với sự phát triển của loại “khẩu đầu Thiền”, thuyết lý Thiền tông trên đầu môi chót lưỡi, phát sinh một lớp sư tăng “cuồng thiền”: thỏng tay vào chợ, thanh lâu, hý viện, đâu chẳng là thanh tịnh đạo tràng. Nhưng với sự huân tập từ hồi còn là tiểu nhóc, tôi chưa hề cảm thấy, mặc dầu với lý luận biện tài vô ngại, Duy-ma-cật đã lấn lướt vượt qua các vị Thanh văn như thế nào. Tuy nhiều vị luận giải Trung hoa quả có chế diễu ngài Xá-lợi-phất, và nhiều vị Đại Thanh văn khác nữa, như khi ngài hỏi Duy-ma-cật các Thánh giả sẽ ăn cơm ở đâu, sẽ ngồi chỗ nào; dù vậy, tôi vẫn cảm thấy trong đó có ẩn ngữ mình chưa hiểu.
Cho tới một lúc, lớn thêm chút nữa, giữa xã hội xô bồ đảo điên, tăng đồ như một cộng đồng ô hợp, riêng Phật riêng thầy, riêng tông môn pháp phái, bấy giờ bỗng xuất hiện những cư sỹ lão thành cự phách, mà trình độ thâm hiểu giáo lý không nhường các bậc trưởng lão trong sơn môn. Bên trong, hiểu và hành sâu xa nội điển; bên ngoài nhạy bén trước các biến cố đảo điên của xã hội; hiểu đạo sâu mà hiểu đời rộng, tài và trí ấy, hiểu và hành ấy, đã góp phần rất lớn trong những đoạn đường khơi lạc nguồn mạch tư duy.
Không chỉ một Duy-ma-cật, mà có rất nhiều Duy-ma-cật, khoác nhiều hành trạng khác nhau trong nhiều địa vị xã hội khác nhau, đã từng xuất hiện ở đây, sống giữa chúng ta. Họ lăn lóc trong bụi đời, nếm đủ thứ “mùi tục lụy” nhưng vẫn không ngừng vươn lên theo chiều cao của Đạo Pháp. Trong một thời đại mà không còn tìm thấy thấp thoáng bóng dáng của Duy-ma-cật, Phật pháp đạo lý có thể chỉ như món hàng trong siêu thị; có lúc chỉ như gánh hàng rong trên hè phố.
Duy-ma-cật là ai mà được ví von như thế? Một nhân vật nửa lịch sử, nửa huyền thoại. Nhân cách ấy là tập hợp tất cả phẩm tính để được gọi là “đích tử”, con chân thật, của các đấng Giác Ngộ. Mỗi nhân cách nổi lên trong một thời đại lịch sử riêng biệt, trong mỗi thời đại ấy là những nhân cách từ phẩm chất và phẩm trật trong từng xã hội cá biệt. Nhân cách ấy ẩn mình đơn độc trong rừng sâu, hoặc hiện diện giữa chợ đời huyên náo, mà không gian bao trùm bởi trực tâm và thâm tâm. Trực tâm, mà Huyền Trang gọi là “thuần ý lạc (āśaya)”, đó chính là ý chí hướng thượng, nhìn đời bằng con mắt yêu thương, định hướng cho cuộc đời của mình và cùng với tất cả cùng đi lên bằng tình yêu và trí tuệ. Từ trực tâm ấy, với ý chí quyết định, kiên trì mục đích, đó gọi là thâm tâm, cũng nói là tăng thượng ý lạc (adhy-āśaya). Đó là nhân vật mà ta có thể gặp đâu đó.
Bằng thuần ý lạc địa, từ cơ sở đó mà bảy bước phát khởi tâm bồ đề, khởi từ tình yêu thâm thiết đối với Mẹ thân sinh, vì sự an lạc của Mẹ mà phát nguyện hành bồ-đề. Rồi với tình Mẹ bao la mà tâm nguyện bồ-đề cũng theo đó mà rộng lớn lên, theo một đường thẳng như tấm lòng ngay thẳng. Từ tâm tư thuần ý lạc địa ấy mà kiên định chí hướng, in sâu trong tận cũng tâm khảm, trong thâm tâm.
Thế nhưng có thể chúng ta dễ bị choáng ngợp bởi những từ ngữ mang tính triết học, do đó mà thấy Duy-ma-cật là một nhân vật cao diệu, xa vời. Vậy, chúng ta bắt đầu từ diễn tả bằng ngôn ngữ đời thường, như Đỗ Hồng Ngọc viết trong Cõi Phật Đâu Xa: anh viêt Kinh dễ dàng và cũng rất thận trọng cân nhắc, y như bác sỹ viết toa thuốc:
“Lòng ngay thẳng – trực tâm – chính là sự bình đẳng, không phân biệt, không kỳ thị … Không kỳ thị, không phân biệt đối xử mới có lòng tôn trọng như Thường Bất Khinh, mới có lòng Từ bi, Thấu cảm như Quán Thế Âm, mới có lòng Chân thành để “ai thấy cũng vui, ai gặp cũng mừng” như Dược Vương. Tôn trọng, chân thành, thấu cảm phải dựa trên điều kiện tiên quyết không phân biệt, là Bình đẳng. Đó chính là Bất nhị.”
Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa cũng sợ; chúng ta lại gặp một từ ngữ triết học rắc rối hơn nữa: “bất nhị.” Đó là nguyên lý chỉ đạo cho tư duy và hành động của Duy-ma-cật, khi ông nói với ngài Xá-lợi-phất: “Hiện các oai nghi (đi, đứng, nằm, ngồi) mà vẫn không xuất tưởng thọ diệt định, đó mới chính là tĩnh tọa.” Hoặc khi ông chào đón Bồ-tát Văn-thù đến thăm bệnh, và ở đó, trong “Cõi Phật Đâu Xa”, ta cũng nghe rõ như lời bệnh nhân chào đón y sỹ: “Lành thay, Văn-thù mới đến! Tướng chẳng đến mà đến. Tướng chẳng thấy mà thấy.” Bệnh chứng, bệnh nguyên, tất cả các tướng ấy, chẳng đến mà đến, chẳng thấy mà thấy; bệnh nhân không tìm đến y sỹ, và y sỹ không đi đến bệnh nhân.
Trong đối thoại này, Duy-ma-cật cũng chào đón Văn-thù bằng ngôn ngữ thông thường: svāgatam: nghĩa đen được hiểu đã đến một cách khéo léo, tốt đẹp; đây là một từ chào hỏi tương đương chính xác với lời chào tiếng Anh: “Welcom!” Từ chào hỏi này liên hệ đến từ Tathāgata: Như Lai, mà Kinh Kim cang định nghĩa: “Như Lai, vị khéo đến, vì không từ đâu đến, cũng không đi đến đâu.” Nó cũng liên hệ các từ Phạn gata, āgata, anāgata: đã đi, đã đến, không đến, chưa đến, đó là những từ mà chúng ta đọc hằng ngày trong Tâm Kinh: gate gate paragate parasaṃgate bodhi svāha. Đến mà không đến, đi mà không đi, là thể tính Như Lai: Tathāgata: tathā gata/āgata. Các vị Thánh giả chào nhau bằng ngôn ngữ đời thường mà trong đó vẫn bao hàm thế giới siêu việt.
Nhưng, tư tưởng bất nhị là căn nguyên tư tưởng của một nhánh trong triết học Vedānta, tiếng Phạn nói là advaita-vāda, dịch theo ngôn ngữ triết học quen dùng ngày nay, đó là chủ thuyết lý “Nhất nguyên Tuyệt đối”. Đạt đến nhất nguyên tuyệt đối, là đạt đến giải thoát, bấy giờ Phạm-Ngã đồng nhất, Tiểu ngã và Đại Ngã hiệp thành nhất thể tuyệt đối. Nói cách khác, Linh hồn và Thượng đế là Nhất thể Tuyệt đối. Kinh Phật không nhận có Thật Ngã tồn tại, dó đó không thừa nhận thuyết Nhất nguyên tuyệt đối này.
Để khỏi phái bối rối, choáng ngợp trước những từ ngữ và lý luận biện chứng siêu nghiệm, từ nhất nguyên tuyệt đối của Phạm-Ngã nhất thể, cho đến “Như Lai đến mà không đến, đi mà không đi”, chúng ta cũng có thể bắt đầu với nhận thức đơn giản hơn từ dẫn giải bởi Đỗ Hồng Ngọc, hiểu theo cách y sỹ chẩn đoán bệnh:
“Ở tại nơi sanh tử mà chẳng làm việc ô trược, trụ nơi Niết-bàn mà chẳng diệt độ mãi; hành tánh không mà vẫn trồng các cội công đức; hành vô tướng mà vẫn độ chúng sanh; hành vô khởi mà khởi tất cả thiện hạnh…”
Đây là đoạn dẫn tóm tắt khi Duy-ma-cật nói với Văn-thù về sở hành cảnh giới của Bồ-tát, môi trường hành đạo và đối tượng quán sát của Bồ-tát; trong đó nói hành tánh không (śūnyatā-gocara), hành vô tướng (animitta-gocara), là hai trong ba giải thoát môn mà một vị Thanh văn lập làm đối tượng quán sát để chứng nghiệm Niết-bàn. Ba giải thoát này là Không, Vô tướng, Vô nguyện (apraṇihita), hay nói là Vô tác theo La-thập. Chưa thấy và chưa biết Niết-bàn là gì thì chớ vội nói sinh tử và Niết-bàn là một, không hai. Thế nhưng, đây là những lời người bệnh nói với người thăm bệnh. Bệnh hay vô bệnh, sinh tử hay Niết-bàn, đây và đó qua lại trong ba ngõ: người bệnh vốn không, hiện tượng bệnh cũng không, cho nên không có gì để nói hy vọng hay tuyết vọng.
Những điều như vậy cũng không phải dễ hiểu; do đó chúng ta nên nghe lời dẫn từ Cõi Phật Đâu xa:
“Bồ-tát luôn đứng giữa hai bờ…” và tại đây ông giới thiệu lời trong ca khúc của Trịnh Công Sơn: trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyêt/ Rọi suốt trăm năm một cõi đi về. Nếu đưa thẳng vào tư duy triết học thì lời nhạc của Trịnh Công Sơn không liên hệ gì đến pháp môn bất nhị. Nhưng nó cũng khiến chúng ta nhớ đến câu chuyện một nhạc công của Thiên đế Indra thất tình với một thiên nữ, bèn tìm đến đức Phât, hát lên “bản tình ca dâng Phật”, với đoạn tả tình thắm thiết: “Tôi yêu nàng như A-la-hán yêu Chánh Pháp”. Có lẽ chẳng có ca từ mô tả tình yêu chung thủy nào chân tình hơn thế. Lời nhạc đã lạ lùng với đôi tai người đọc kinh Phật nghiêm túc, mà câu trả lời của Phât cũng thất lạ lùng khó hiểu: “Hay lắm, nhạc hòa hợp với lời, lời hòa hợp với nhạc; trong đó có ái dục mà cũng có Niết-bàn,” Ái dục là tình yêu hệ lụy sắc dục, và Niết-bàn là cảnh giới ly dục. Há lại có nghĩa, từ trong ái dục mà thấy Niết-bàn, từ Niết-bàn mà thấy rõ thể tính của ái dục? Đơn giản hơn, từ bùn lầy hôi thối mà tìm thấy hoa sen?
Rốt cục, cửa dẫn vào pháp bất nhị này là đâu, là cái gì?
Chuyện tình nhạc công của Thiên đế diễn thành kịch bản để nói những điều không thể nói, vì tính chẩt phản diện được cấu trúc trong đó. Cũng thế đó, người đọc Duy-ma-cật sở thuyết có thể dễ dàng nhận ra bản văn này được cấu trúc theo thể loại kịch. Trong kịch bản, tính phản diện của các nhân vật được sử dụng để diễn tả nội dung theo ý nghĩa muốn nói.
Trong đoạn dẫn của Đỗ Hống Ngọc nêu trên, chúng ta thấy Bồ-tát tu tâm như một Thánh giả Thanh văn xuất thế, nhưng hành đạo như một phàm phu trong sinh tử: trong bùn mà chằng hôi tanh mùi bùn. Đó là căn bản của tư duy bất nhị. Thánh nhân xuất thế, và phàm phu sinh tử, hai mặt phàn diện mà lại đồng nhất thể tính. Người đọc nếu không nhìn ra những cặp phản diện trong Sở thuyết này tất sẽ thấy Duy-cật-đã đã “lấn lướt” các Thánh giả Thanh văn, đã “dồn ví” các ngài vào ngõ bí.
Trong kịch bản Duy-ma-cật sở thuyết, người ta nghe được những đối đáp tương xứng giữa Văn-thù và Duy-ma-cật, nhưng đây không phải là cặp nhân vật phản diện; mà trong đây Văn-thù chính là vai người dẫn kịch. Không có người dẫn kịch thì khó có thể hiểu nội dung của kịch bản. Đây là cấu trúc cổ điển của kịch. Như trong khi Văn-thù nói và hỏi, Duy-ma-cật im lặng; nếu không có Văn-thù như là vị dẫn kịch, thì sự im lăng của Duy-ma-cật chẳng có ý nghĩa gì; do đó đây không phải là cặp đối đáp phản diện.
Thực ra, Duy-ma-cật xuất hiện trong nhiều lớp áo khác nhau, nên đồng thời thủ vai phản diện cho nhiều vị Thánh giả, từ các A-la-hán cho đến các Bồ-tát. Khi ngài Xá-lợi-phất tĩnh tọa trong rừng vắng, Duy-ma-cật xuất hiện với lý luận sắc bén khiến cho vị Đại Thanh văn này không còn lời đối đáp. Dễ chừng người ta chỉ thấy một Tôn giả Xá-lợi-phất trong rừng vắng nhập tưởng thọ diệt tận định, thân tâm bất động, có thể lưu thọ hành để giữ cho thân thể tồn tại không mục rã qua một đại kiếp, hằng triệu năm của mặt trời; ấy thế nhưng lại không thấy ngài ôm bát lang thang trong hang cùng ngõ hẻm với cái bụng đói. Nếu để thọ hưởng an lạc tịch tĩnh chính mình qua hằng nghìn năm cho đến khi thân ấy mục rã nếu muôn, thế thì cần gì phải ăn để mà sống. Vậy ôm bát đi khất thực vì lẽ gì? Vì cơn đói sẽ hành hạ bản thân, hay vì để thức tỉnh thế gian đang trầm luân trong khổ lụy? Thế thì Duy-ma-cật đi vào đời để xây dựng cho đời an vui có cao quý hơn ngài Xá-lợi-phất ngồi trong tịch nhiên bất động? Phải chăng tượng Phật ngồi bất động trên bàn chẳng ích lợi gì cho ai, chẳng bằng sư trụ trì tụng kinh cầu siêu, cầu an cho bá tánh? Đấy là cặp phản diện làm hiện rõ bản chất của tồn tại.
Mặt khác, trong phong thái Thánh giả xuất trần Xá-lợi-phất lại xuất hiện trước một phản diện là cô thiên nữ cực kỳ diễm lệ. Với sắc đẹp vượt lên cả hàng thiên hương quốc sắc ây, với vũ điệu thiên nữ tán hoa kỳ ảo hơn cả vũ khúc nghê thường ấy, cũng rất dễ khiến cho Đường Mimh Hoàng mất ngôi mất nước. Nhưng sao nàng sống chung trong một căn phòng trống trải với lão cư sỹ Duy-ma-cật; rồi lại xuất hiện múa hát trước các Thánh nhân xuất thế, những vị mà tâm tư lắng đọng không hề gợn sóng dục tình; hiện diện với ý nghĩa gì? Đối đáp giữa thiên nữ và Xá-lợi-phất đã dẫn cặp phản diện ô nhiễm và thanh tịnh lên đến kịch tính gay cấn, khiến cho Xá-lợi-phất biến hình thành thiên nữ kiều diễm, và thiên nữ biến hình thành Thánh giả Xá-lợi-phất nghiêm trang.
Nhận diện được những cặp nhân vật phản diện trong Kinh thì cũng có thể bằng hình ảnh ấy mà chiêm nghiệm thế nào là ý nghĩa bất nhị, bằng cánh cửa nào để đi vào cảnh giới bất nhị ấy.
Thêm nữa, ngoài những nhân vật phản diện, cũng nên đi sâu vào những bối cảnh phản diện. Khu vườn xoài, sở hữu của kỹ nữ Am-la-bà-lị, nơi các vương tôn công tử buông mình thả trôi trong dục vọng, lại trở thành nơi tịnh tu của các Thanh văn xuất thế, trong ô nhiễm mà không ô nhiễm. Tư gia của Duy-ma-cật, nơi ông tiếp những chính khách đang lao mình trong đấu trường quyền lực, những thương gia đang cạnh tranh ráo riết trên thương trường, mhưng chỗ ấy lại cũng là nơi lai vãng của các Thánh giả xuất trần, Thanh văn và Bồ tát. Tư gia của trưởng giả Duy-ma-cật, khu vườn xoài của kỹ nữ Am-la-bà-lị: cặp phản diện của náo nhiệt và tịch tĩnh, của ô nhiễm và thanh tịnh.
Giữa thế giới Ta-bà và cõi Phật Chúng Hương, tòa sư tử và thành Tì-la-da, cái vô cùng lớn đến trong cái vô cùng nhỏ, và cái nhỏ đi vào trong cái lớn: đây cũng là cặp phản diện bối cảnh làm lộ rõ thể tính tồn tại của thế gian, vũ trụ. Bằng hình ảnh đó mà tập luyện cho tư duy vượt ngoài khuôn sáo ước lệ, vượt qua thế giới thường nghiệm để vươn lên cảnh giới siêu nghiệm, bất khả tư nghị.
Như thế, đọc Duy-ma-cật sở thuyết như đang xem một kịch bản, với những nhân vật và bối cảnh phản diện, với những biến cố mang đầy kịch tính, đó là cách tự huấn luyện và tự trang bị cho mình một công cụ định hướng tự duy để vươn lên chiều cao của giác ngộ.
Trong khi chúng tôi cùng tìm hiểu ý nghĩa phản diện và kịch tính trong Duy-ma-cật sở thuyết, hai ông bạn cư sỹ Đỗ Hồng Ngọc và Thân Trong Minh tỏ ra tâm đắc và cao hứng, cố ý muốn viết lại một kịch bản và dàn dựng sân khấu như thế nào đó để có thể hiểu rõ hơn điều mà Kinh muốn chỉ điểm; vì trình độ ngôn ngữ và năng lực tư duy của chúng ta vốn hữu hạn, cho nên bằng con đường nghệ thuật mà đi vào ngõ đạo có thể tương đối dễ hơn.
Hy vọng các bạn cư sỹ thành tựu như ý. Riêng tôi, trở về thảo am thơ thẩn, gởi lại hai bạn cư sỹ hai câu thơ:
Nhà tranh mái cũ quen chừng,
Chén trà lão Triệu mà chưng hoa ngàn.
Thị ngạn am, tiết Lập xuân, Đinh dậu
Tuệ Sỹ
(3.2017)
(dohongngoc.com)
Thư gởi bạn xa xôi 8.23
Thư gởi bạn xa xôi 8.23
Ôi, nhiều chuyện để nói lắm, mà sao ngày càng làm biếng.
- Chẳng hạn một hôm, có buổi Ra mắt sách “bỏ túi” tại nhà Lữ Kiều (5.8.2023) do Nguyên Minh gợi ý. Lý do: Tập san Ngôn Ngữ có số đặc biệt về nhà văn Nguyên Minh. Nguyên Minh chẳng phải ai xa lạ. Từ 1971 đã là người chủ trương Tạp chí Bán nguyệt san Văn học nghệ thuật Ý Thức khá nổi tiếng bấy giờ, và rồi sau này tiếp tục với Quán Văn cũng “sôi nổi” không kém. Hôm đó, đặc biệt có cuốn Thành Tôn, một đời thắp tình rất trang nhã, với bài viết về “Thành Tôn, một người hiền đúng nghĩa” của Phạm Phú Minh thật đúng với con người hết lòng vì mọi người đó. Mình cũng đọc Thành Tôn từ thưở Bách Khoa, hôm nọ còn có người chụp được cái hình tủ sách Thành Tôn thấy có “sưu tầm” mấy cuốn của Đỗ Hồng Ngọc, không biết Thành Tôn có biết Đỗ Nghê “cùng thời” trên BK đó không. Tập Nỗi Buồn Mây Trắng của Khuất Đẩu độc đáo, bởi như KĐ thố lộ: “xin tát cạn lòng chân thành…”, và bên cạnh đó là cuốn Góp Nắng Cho Cây, thơ thiếu nhi rất dễ thương của Lê Ký Thương…

Nhóm Ý Thức ngày xưa, từ trái: Lữ Kiều (Thân Trọng Minh); Nguyên Minh; Đỗ Nghê (Đỗ Hồng Ngọc); Châu Văn Thuận; Lê Ký Thương (Ành: Thanh Hằng, 5.8.2023, tại nhà Lữ Kiều).
2. Hôm 10.8, ghé Gò Vấp thăm vợ chồng Hoạ sĩ Lê Triều Điển, sinh nhật anh. Hai ông bà là dân Chợ Lách Bến Tre (Vĩnh Long) bên bờ sông Tiền Giang, vốn là nơi sản sinh nhiều danh hoạ như Lê Văn Đệ, Văn Đen… một thuở. Chị Hồng Lĩnh, vợ anh là nhà thơ, cũng là một điêu khắc gia đặc biệt với những tác phẩm về Thiền, Yoga… Hôm nay đến chơi còn có nhà văn Lương Minh, từ Hốc Môn mang đến nhiều bánh ít ngon tuyệt.

Hồng Lĩnh và Lê Triều Điển (ảnh ĐHN, 10.8.2023)
Mình chỉ mang tặng hai ông bà vài cuốn sách và giới thiệu vài bản thảo. Ông bà và Lương Minh đều rất vui. Dĩ nhiên, LTĐ khui… rượu, cùng Lương Minh nhâm nhi, bánh bèo, bánh hỏi, thịt quay… các thứ. Mình chỉ trái cây và bánh ít. Sau đó ôm về mấy bức tượng thiền bằng gỗ của nhà thơ Hồng Lĩnh. Hẹn hôm sau đến Nguyên Minh..
3. Ngày 11.8 lại là ngày SN của Nguyên Minh, chủ Chuồng Cu tạp chí Quán Văn. NM cũng 83 chớ ít gì, nhưng đừng nói to, người ta nghe. Ái dà, gần cuối năm mấy bô lão hào hứng làm SN dữ a! Thiệt ra chỉ là một cái cớ cho tụ tập, ăn uống, ca hát, nói chuyện tào lao, trên trời dưới đất, rồi giận hờn, trách móc nhau cho vui thôi, cho các hormones có` dịp quậy lên chút xíu. Còn mấy bạn trẻ… thì kiếm chuyện trốn sạch! Nguyên Minh dòm quanh thấy vắng hoe,vừa lên tiếng trách TTM, ĐHN… hẹn cuội thì mình xuất hiện đúng lúc, ngay cửa. Mọi người được một phen cười ồ. Rồi cũng rượu cũng trà cũng gà cũng vịt. NM tự thức suốt đêm hì hục nấu nồi súp cua để ăn cho mềm, cấm không ai được chê. Quách Mạnh Kha ca sĩ, ôm đàn hát… không ai nghe. Buồn nói tui lãnh casset rồi, không lo. Mình kêu bạn hát cho mình nghe đi. Hát bài Thoi Tơ của Đức Quỳnh phổ Nguyễn Bính nhé. Em lo gì trời gió/ em lo gì trời mưa… Rồi Tình Ca, Kỷ Niệm, Chiều về trên sông… của Phạm Duy. Bài nào cũng có Hoàng Khởi Phong hát… theo quá hay. Bạn nào cũng tự hào mình còn trí nhớ tốt cả, chỉ quên chút xíu…

Chuồng cu Toà soạn Tạp chí Quán Văn, 11.8.2023
Vậy nhé,
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc
(Saigon, 13.8.2023)
Thư gởi bạn xa xôi (7.2023)
Thư gởi bạn xa xôi
Bạn biết đó. Già đến thật nhanh. Quên đột ngột chuyện mới thì gọi là senile dementia, còn quên tuốt chuyện xa xưa thì là Alzheimer rồi. Cho nên lúc về già thì nhiều khi không muốn Giác cũng giác, không muốn Ngộ cũng ngộ là vậy.
Lúc này mình chỉ lai rai đọc tin nhắn của bạn bè trên điện thoại, trên email, thấy có nhiều bài hay, có thể chia sẻ với nhau được, coi cho vui, cũng có ích, nhưng nhiều khi không mò ra nguồn để trích dẫn cho đàng hoàng. Mình không có Facebook, và dốt đặc IT. Thỉnh thoảng thấy bài của người ta, ký tên mình, kèm cái hình mình cho chắc ăn, đành cười trừ, không biết phải làm sao! Có nhiều bài thấy đã có từ 10 năm trước, nay dựng lại như mới hôm qua. Thú vị. Nay mai AI hoạt động ầm ầm, râu ông nọ cằm bà kia, vui lắm!
Dưới đây là mấy bài gởi bạn đọc cho vui nhe.
Xin phép các tác giả, các “nguồn”, mình chưa lấy đúng và đầy đủ.
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc
(18.7.2023)
Có một kiểu người không bao giờ già đi.
Le Van Quy
(shared từ FB cô Doris Le)
Có một kiểu người cả đời chẳng hề già đi, năm tháng dường như đã lãng quên họ. Cái già đi chỉ là tuổi tác, còn khí chất và thần thái là không hề thay đổi. Tất cả là bởi họ mang trên mình những điều rất đặc biệt này.
- Một tâm hồn chất phác ngây thơ
Thật khó khi kinh qua trường đời mà vẫn giữ được một tâm hồn chất phác ngây thơ. Đó không phải là kiểu “hồn nhiên như cô tiên” mà là sau những cay đắng của cuộc đời vẫn tin tưởng vào điều tốt đẹp. Đó là một tâm hồn trong sáng, không đánh mất sự hồn nhiên hiếu kỳ đối với vạn vật. Người như vậy thường hạnh phúc và tươi trẻ.
- Coi trọng dáng vẻ hàng ngày
Ăn mặc tươm tất, chú trọng vẻ ngoài cũng là một điều quan trọng. Người già chúng ta không nên “tuổi chưa cao mà hồn đã lão”, tâm trí lúc nào cũng đặt trong cảnh tương lai mờ mịt, quá khứ u buồn, cảm thấy chăm chút bản thân là việc của giới trẻ.
Người trẻ tuổi có sự hấp dẫn tự nhiên nên không cần phải để tâm vào việc ăn mặc. Còn người có tuổi, bất luận ở nhà hay ra ngoài đều nên tùy thời phục sức, tao nhã đúng mức, mang lại niềm vui cho bản thân và mọi người. Khi bạn ăn mặc trang nhã, hiển lộ tinh thần sung mãn, thì tự nhiên cũng tự tin hơn, nhìn vào thấy trẻ ra cả chục tuổi.
- Kiên trì đọc sách học tập, du lịch
Những người nhìn vào trẻ trung phần lớn đều kiên trì với phương châm “không ngừng tinh tiến, không ngừng học hỏi”. Trong bụng đã có một bồ sách, một kho thi thư thì ắt tâm hồn phong phú, dung mạo phong lưu.
Đọc sách giúp mở rộng nhân sinh quan, thế giới quan, du lịch giúp mở mang tầm mắt. Người ham thích đọc sách và du lịch, đối với bất cứ sự việc gì đều tự có kiến giải, không phải kiểu người bảo sao hay vậy, tự nhiên thần thái ung dung, tràn đầy sức sống của tuổi thanh xuân.
- Tấm lòng lương thiện
Những người nhìn vào trẻ trung, thường là thuần phác, thiện lương. Quá trình tu tâm dưỡng tính của họ thăng hoa thể hiện thành thần thái, tướng mạo bên ngoài. Cũng bởi tướng tùy tâm sinh, nên người có tâm từ bi, có lòng nhân ái, luôn luôn phát ra một loại hào quang. Với người khoan dung, hơn nửa gương mặt là có phúc tướng. Với người mà tính tình dịu dàng thì tướng mặt đã toát lên sự thân thiện.
- Có mục tiêu theo đuổi
Người mà nhìn vào trẻ trung sẽ luôn trong trạng thái tinh thần phấn chấn và tràn trề sức sống. Dù là đã nghỉ hưu rồi, trong cuộc sống nên đặt những mục tiêu mới. Trong phạm vi mà khả năng cho phép, hãy tích cực tham gia các loại hoạt động như ca hát, chụp ảnh, khiêu vũ… Như vậy, cuộc sống bày ra trước mắt bạn sẽ có sức sống hơn, cũng sẽ khiến bạn không bao giờ thấy mình già đi vậy.
- Biết cảm mến cuộc đời
Đam mê cuộc sống vẫn chưa đủ, nếu như có thể có chút lòng cảm mến với nó thì sẽ hoàn mỹ hơn. Không hưởng thụ những ưu việt mà đồng tiền mang lại, nguyện ý bỏ tâm tư trồng mấy chậu cây cảnh hay bắt tay chế tác mấy món đồ chơi, có những đam mê sở thích khác. Người như vậy, thời gian làm sao nhẫn tâm để bạn già đi đây?
- Kiên trì vận động
Thân thể khỏe mạnh mới là nền tảng duy trì sự trẻ trung. Người mà trông không có vẻ già đi nhất định đều kiên trì vận động, khiến bản thân từ trong đến ngoài đều tỏa ra sức sống.
- Tâm thái trẻ trung
Người có tâm thái trẻ trung sẽ tích cực trải nghiệm những điều mới mẻ, luôn hiếu kỳ khám phá những điều mới lạ. Trên người họ, bạn có lẽ cũng có thể nhìn thấy nếp nhăn nơi khóe mắt chân mày. Nhưng điều khiến bạn nhìn không chớp mắt là gương mặt với thần thái ung dung và tâm trạng yêu đời của họ.
Nhà văn Murakami Haruki đã từng nói: “Con người ta không phải là dần dần trở nên già đi, mà là trở nên già đi chỉ trong nháy mắt“. Con người trở nên già đi, không phải bắt đầu từ nếp nhăn đầu tiên, hay cọng tóc bạc đầu tiên, mà là bắt đầu từ ngay cái thời khắc buông bỏ chính mình. Chỉ có những ai không từ bỏ chính mình, mới có thể sống thành người không sợ già, và cũng sẽ không thấy mình già đi.
Theo Secret
Le Van Quy
shared từ FB cô Doris Le
…………………………………………………………………..
ĐIỀU QUÝ GIÁ NHẤT CHÍNH LÀ SỨC KHỎE
Vinh Bùi, Lớp Phật Học & Đời Sống chuyển
Nguyet Nguyen sưu tầm và dịch, đăng trên trang Trần Hoài Văn,
#t230714a
Người mẫu – blogger nổi tiếng Kyrzayda Rodriguez từng nói: “Không có gì là thật, ngoài cái chết”. Dưới đây là 9 lời nhắn nhủ của cô trước khi qua đời vì bệnh ung thư dạ dày:
1. Tôi có chiếc ô tô thương hiệu đắt nhất thế giới trong gara của mình nhưng giờ tôi phải di chuyển bằng xe lăn.
2. Nhà tôi có đầy đủ các loại quần áo hàng hiệu, giày dép và đồ có giá trị. Nhưng giờ cơ thể tôi được bọc trong một tấm vải nhỏ do bệnh viện cung cấp.
3. Tôi có nhiều tiền trong ngân hàng. Nhưng giờ tôi không nhận được bất kỳ lợi ích nào từ số tiền này.
4. Ngôi nhà của tôi giống như một cung điện nhưng giờ tôi đang nằm trên chiếc giường đôi trong bệnh viện.
5. Tôi có thể đi từ khách sạn năm sao này sang khách sạn năm sao khác. Nhưng giờ tôi dành thời gian trong bệnh viện để di chuyển từ phòng xét nghiệm này sang phòng xét nghiệm khác.
6. Tôi đã tặng chữ ký cho hàng trăm người nhưng giờ đây, ghi chú của bác sĩ là chữ ký dành cho tôi.
7. Tôi có bảy người thợ làm tóc để làm đẹp cho mình nhưng bây giờ – tôi không còn một sợi tóc nào trên đầu.
8. Trên chuyên cơ riêng, tôi có thể bay đến bất cứ đâu tôi muốn. Nhưng bây giờ tôi cần sự giúp đỡ của hai người để dìu đến cổng bệnh viện.
9. Dù có nhiều thức ăn nhưng bây giờ khẩu phần ăn của tôi chỉ là ngày hai viên và tối nhỏ vài giọt nước muối.
Ngôi nhà này, chiếc xe hơi này, chiếc máy bay phản lực này, đồ đạc này, rất nhiều tài khoản ngân hàng, rất nhiều danh vọng và tiếng tăm, không có cái nào phù hợp với tôi cả. Không gì trong số này có thể giúp tôi nhẹ nhõm. “Không có gì là thật ngoài cái chết.”.
Nguồn: Nguyet Nguyen sưu tầm và dịch, đăng trên trang Trần Hoài Văn”, #t230714a
……………………………………………
#Đoàn_Thu_Thuỷ (Fb)
Tôi đọc cuốn “ viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng” của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc cách đây 24 năm, khi lần đầu làm mẹ.
Chừng 10 năm sau, tôi được tặng cuốn “ Nghĩ từ trái tim” của bác sĩ viết về Tâm Kinh Bát Nhã.
Lúc đó tôi còn u mê ngụp lặn trong tham sân si, hỷ nộ ái ố, còn đi chùa cầu xin được nhiều tiền nhiều bạc, còn tin vào bói toán, huyền thuật nên đọc rất khó hiểu, đã cố gắng đọc nhiều lần nhưng không bao giờ đọc hết được cuốn sách mỏng đó.
Mười hai năm trước, tôi gặp một biến cố đau buồn giữa sinh ly tử biệt, có vài tuần đóng cửa ngồi một mình trống trải giữa khổ đau mất mát. Tôi không biết làm gì ngoài đọc sách. Và lúc đó đọc lại “ Nghĩ từ trái tim”, bỗng nhiên thấy mọi việc sáng tỏ như tìm thấy ánh sáng ở cuối đường hầm. Tôi bừng tỉnh.
“ chiếu kiến ngũ uẩn giai không”
-Thấy rõ ngũ uẩn đều không.
Tức thì “ độ nhất thiết khổ ách”- thoát khỏi khổ đau ách nạn.
“ viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn”-vĩnh viễn cắt đứt điên đảo mộng – tưởng, đó là cứu cánh Niết bàn.
Tôi ngộ ra, Niết Bàn chẳng ở đâu xa, ở chính trong tâm của mỗi người.
Đau khổ hay hạnh phúc cũng từ tâm mình mà ra.
Đến khi đọc “ Gươm báu trao tay “ của ông nói về kinh Kim Cang tôi càng thấy thấm thía :
“ ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”- đừng trụ tâm vào đâu cả.
Đó chính là gươm báu chặt đứt mọi phiền não.
Người ta khổ vì mong cầu không được, vì mất mát cái đang có, vì cảm thấy không bằng người này người kia… tất cả từ tâm mà ra. Ít ai chịu hiểu khổ đau hay hạnh phúc là do chính tâm mình quyết định, mình cảm thấy thế nào sẽ như thế đó.
Tôi chưa từng gặp bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, nhưng chính ông đã đưa tôi thoát khỏi tâm bệnh, soi sáng những bài kinh tôi từng tụng niệm ở chùa mà không hiểu hết ý nghĩa vi diệu.
Ông viết rất nhẹ nhàng mà thâm sâu, gần gũi mà bay bổng, dí dỏm mà thực tế.
Tôi đã đọc:
Cành mai sân trước,
Những người trẻ lạ lùng,
Thư viết cho người bận rộn,
Gió heo may đã về,
Cõi Phật đâu xa, thấp thoáng lời kinh Duy Ca Mật
Ngàn cánh sen xanh biếc thấp thoáng về Diệu Pháp Liên Hoa…
Mỗi cuốn sách là một kho tàng kiến thức, giúp tôi ngộ ra nhiều điều minh triết trong đời sống.
Tôi, một người đàn bà ít học, kiến thức hạn hẹp nên ít bám chấp vào lý thuyết nào. Có lẽ vì thế tôi nên dễ thấm, dễ tin, dễ ngộ.
Với những kiến thức thâu lượm được tôi hạnh phúc trong hiện tại và an trú trong hiện tại. Không mong cầu , không đau khổ…
Vạn vật cứ đổi thay theo thời gian, theo quy luật nên con người cũng nương theo quy luật của vũ trụ. Được, mất, hơn thua cũng chỉ thoáng qua, không có gì là mãi mãi.
…Bốn mùa thay lá thay hoa thay mãi đời ta
Bên trời xanh mãi những nụ mầm mới
Để lại trong cõi thiên thu hình dáng nụ cười ( TCS)
Đoàn Thu Thuỷ (Fb).
Vài hình ảnh Buổi Chuyện Trò về Nếp sống An Lạc 9.7.2023
Vài hình ảnh: Chuyện Trò về Nếp sống An Lạc
tại Cafe An Nguyên, Quận 8, Tp HCM ngày 9.7.2023
Bản dịch Anh ngữ của Nguyên Giác: “NƯƠNG TỰA CHÍNH MÌNH” (ĐHN)
Rely on yourself / Nương Tựa Chính Mình
Ghi chú: Nguyên Giác Phan Tấn Hải vừa gởi tôi bản dịch Anh ngữ bài viết Nương Tựa Chính Mình về Thiền Anapanasati (Quán Niệm Hơi Thở) của Phật dạy từ hơn 2500 năm trước. Anh nói cần dịch để các bạn trẻ ngày nay có thể đọc và thực hành một phương pháp Thiền rất khoa học này để được “Thân tâm thường an lạc”. Bài này đã được đăng trên trang Bilingual của Thư viện Hoa Sen.
Đa tạ Nguyên Giác.
Đỗ Hồng Ngọc.
(28.6.2023)
Nương Tựa Chính Mình
Đỗ Hồng Ngọc
Có một sự nhất quán, xuyên suốt trong lời dạy hướng dẫn kỹ năng thiền định của Phật, từ Tứ niệm xứ (Satipatthàna) tới Thân hành niệm (Kàyagatàsati), rồi Nhập tức xuất tức niệm (Ànàpànasati), đó là thở: “Thở vào thì biết thở vào, thở ra thì biết thở ra. Thở vào dài thì biết thở vào dài, thở ra ngắn thì biết thở ra ngắn…” Chỉ có vậy. Mà vô vàn. Mà nói không được.
Dù gọi là Thiền (Việt) hay Chan (Hoa), Zen (Nhật)… thì cũng đều có nguồn gốc từ Dhyana (Sanskrit) hay Jhanas (Pali). Theo ngữ nguyên thì Jha là nhìn, là quan sát, là theo dõi và Ana là thở, hơi thở, là khí. Vậy, jhanas hay dhyana chính là quán sát hơi thở, nhận thức hơi thở. Đơn giản vậy mà thực ra không giản đơn chút nào. Nó như một chìa khoá căn bản. Phải mở cái cửa này đã rồi các cửa khác mới mở tiếp được. Vấn đề là tại sao và cách nào để chỉ từ một việc là quán sát hơi thở lại có thể dẫn tới tuệ giác, một sự chuyển hoá từ “khí” mà thành “trí”?
Quán sát hơi thở
Thật ra quán sát cái gì cũng được cả, bởi tất cả đều là pháp – nhứt thiết pháp giai thị Phật pháp – nhưng quán sát hơi thở thì có điều kiện để thấy “ngũ uẩn giai không” hơn, tức thấy vô ngã hơn. Vô ngã ở đây không còn là một ý niệm, một khái niệm mà là một trạng thái. Để thấy vô ngã thì tốt nhất là quán sát từ “ngã”, từ hơi thở chẳng hạn, một đối tượng sẵn có ngay trong bản thân mình. Lúc nào cũng phải thở. Ở đâu cũng phải thở. Hơi thở lại rất nhạy với cảm xúc. Trước một cảnh đẹp, ta “nín thở”. Lúc sợ hãi, hồi hộp ta thở nhiều kiểu khác nhau, muôn hình vạn trạng. Và nhờ đó mà thấy vô thường. Nhờ đó mà quán sát được cái tâm. Thở cũng gắn với các hoạt động cơ bắp, khi mệt ta “bở hơi tai”; khi khoẻ ta thở nhẹ nhàng sảng khoái, nhờ đó mà quán sát được cái thân. Không chỉ thế, thở còn vừa là ý thức, vừa là vô thức. Như không cần ta. Như ở ngoài ta. Như không có ta. Quán sát thở, ta thấy thở gắn với sự sống chết của kiếp người. Khi chào đời em bé khóc thét lên một tiếng thật to để hít mạnh không khí vào phổi, rồi khi lìa đời cụ già lại thở hắt ra một cái, trả lại cho đời tất cả những gì mình đã vay mượn. Giữa hai lần thở vào, thở ra đó là những đợt thở… lăn tăn như những làn sóng nhỏ, mà nối kết các làn sóng nhỏ đó lại ta có cuộc rong chơi trong cõi ta bà.
Thở có thể làm chuyển biến tâm trạng ta, chuyển hoá cảm xúc ta, cả hành vi ta nữa. Đang sôi giận mà kịp nhớ lại, quán sát sự thở của mình, thấy nó phập phều kỳ cục, tức cười, bèn quên giận, hơi thở được điều hoà trở lại lúc nào không hay: điểm hưng phấn trên vỏ não đã bị dịch chuyển! Giận dữ, lo âu, sợ hãi vốn tiêu tốn rất nhiều năng lượng. Vì vậy mà những lúc đó ta dễ cảm thấy kiệt sức, rã rời. Ngủ là một cách giảm tiêu hao năng lượng nhưng vẫn còn co cơ, còn chiêm bao. Thiền giúp tiết giảm tiêu thụ năng lượng một cách đáng kể, còn hơn cả giấc ngủ, nhờ đó các tế bào được nghỉ ngơi, toàn thân cảm thấy sảng khoái.
Phổi ta như một cái máy bơm, phình xẹp để đưa khí vào ra là nhờ có áp suất thay đổi. Có một thời điểm áp suất cân bằng nhau, đó chính là quãng lặng. Quãng lặng đó ở cuối thì thở ra – trước khi thở vào trở lại – thường kéo dài, thong dong, nhẹ nhàng vì không hề tốn năng lượng. Đó chính là giai đoạn “prana”. Pra có nghĩa là trước và ana là thở vào (cũng có nghĩa là sau thì thở ra). Prana đã được biết đến từ xa xưa. Trong yoga có pranayama, kiểm soát hơi thở. Trong thiền định không còn phải kiểm soát hơi thở nữa mà hơi thở tự kiểm soát. Đến một lúc nào đó hành giả không cảm nhận mình thở nữa. An tịnh. Tan biến.
Thả trôi theo dòng nước
Khi nói đến thiền, ta thường nghĩ ngay đến ngồi thiền. Rồi nào kiết già, nào bán già, hết sức phức tạp và bí hiểm như chỉ dành riêng cho một giới nào đó. Thiền thực ra không nhất thiết phải như thế. Đi đứng nằm ngồi gì cũng thiền được cả. Người Nhật, người Tây Tạng đều có cách “ngồi” thiền riêng của mình, người Tây phương còn khác hơn nữa, miễn sao có một tư thế thoải mái, dễ chịu, buông xả toàn thân là được. Thế nhưng cách ngồi tréo chân (kiết già, bán già) lại có lợi thế hơn, vì khi ta đứng, ta đi, các bắp cơ phía trước của chân phải co lại để nâng đỡ cả thân mình, trong khi các bắp cơ phía sau duỗi ra. Lúc ngồi tréo chân ta đã làm cho các bắp cơ đổi chiều. Đây là phương pháp “đối chứng trị liệu”.
Giữ lưng thẳng đứng cũng là một yêu cầu vô cùng quan trọng trong thiền. Ta dễ có khuynh hướng chiều theo độ cong tự nhiên của cột sống dưới sức nặng của thân thể do trọng lực, và nhất là tuổi tác, do đó dễ dẫn đến cong vẹo cột sống hoặc đau cột sống cổ, đau thắt lưng. Giữ lưng thẳng đứng kết hợp với tập thể dục bụng sẽ làm chậm tiến trình lão hoá. Trong thiền, một yếu tố rất quyết định nữa là sự thả lỏng toàn thân, “buông xả” toàn thân, mà có người ví như thả trôi theo dòng nước. Y học chứng minh tiêu hao năng lượng trong thiền rất thấp, dưới mức chuyển hoá cơ bản, thấp hơn cả khi ngủ, nhờ vậy mà năng lượng được tích luỹ tốt hơn. Khi cơ thể đã chùng xuống, đã giãn cơ, tức giảm tiêu hao năng lượng một cách đáng kể rồi thì cũng sẽ thấy bớt cần thiết phải cung cấp các dưỡng chất qua thức ăn như glucid, lipid, protid… vốn là nguồn tạo năng lượng. Ăn ít đi mà vẫn đáp ứng đủ nhu cầu năng lượng thì cơ thể đỡ vất vả, các tế bào đỡ hùng hục làm việc, tinh thần sẽ sảng khoái.
Đời sống tiết độ, tri túc, kham nhẫn, chánh niệm, tỉnh giác… phải chăng có thể góp phần giải quyết những vấn đề sức khoẻ thời đại và bảo vệ môi trường sống của chúng ta hôm nay? Đừng tìm đâu cho mất công. Hãy quay về nương tựa chính mình. Quả đúng như vậy. Bởi nói cho cùng, ai có thể thở giùm ai? Ai có thể thiền giùm ai?
Rely on yourself / Nương Tựa Chính Mình
Author: Đỗ Hồng Ngọc
Translated by Nguyên Giác
There is a consistent approach throughout the teaching of Buddhist meditation techniques, from the Four Foundations of Mindfulness (Satipatthana) to Mindfulness of the Body (Kayagatasati), to Mindfulness of Breathing (Anapanasati), which is breathing: “Breathing in, you know you are breathing in; breathing out, you know you are breathing out. Breathing in a long breath, you know you are breathing in a long breath; breathing out a short breath, you know that you are breathing out a short breath…” That’s all. But countless things. And nobody can say it fully.
Whether the name is Thiền (in Vietnamese), Chan (in Chinese), or Zen (in Japanese), they are all derived from Dhyana (Sanskrit) or Jhanas (Pali). In etymology, Jha is to look, to observe, and Ana is to breathe, and to be air. So, Jhanas or dhyana is the contemplation of the breath or awareness of the breath. It’s that simple, but it’s not really that simple. It’s like a basic key. This door must be opened before the other doors can be opened. The question is: why and how can the mere act of observing the breath lead to insight, a transformation from ‘qi’ to ‘wisdom’?
Observe the breath
Actually, viewing anything is fine because each of the All is a dharma – and all dharmas are Buddha dharmas – but observing the breath has the conditions for seeing more about “the five aggregates are all emptiness,” which means you perceive the non-self. Here, the non-self is a state rather than an idea or concept. To see the non-self it is best to observe the image of the “self” from the breath, for example, as an object already present within yourself. You always have to breathe. And everywhere you are, you have to breathe.
Breathing is very sensitive to emotions. Before a beautiful scene, we “hold our breath.” When we are terrified or nervous, we breathe in a variety of forms and sizes. As a result, it is sensed as impermanence; as a result, you can examine the mind. Muscle movements are also related to breathing, and when we are tired, we “breathe with the ears”; To observe the body, we breathe comfortably and gently when we are healthy. Furthermore, breathing is both conscious and unconscious: Just as breathing does not require you, neither does the outside of you, nor does any of the self.
Observing the breath, you see that breathing is associated with the life and death of human life. When a baby was born, the baby cried out with a loud scream to suck air into his or her lungs. Then, when a person died, the old person exhaled again, giving back to life all that he or she had borrowed. Between the two cycles of inhalation and exhalation, there are waves of breathing, rolling like small waves, which connect those small waves to have a human life in the realm of samsara.
Breathing can change your mood, your emotions, and your behavior. When you’re seething with anger, you can remember, watch your breath, find it weird and funny, then forget the anger, then the breath will regulate again without ever knowing it – the arousal point in the cerebral cortex is already gone. Anger, anxiety, and fear consume a lot of energy; therefore, at those times, we easily feel exhausted and tired. Sleep is a method of reducing energy expenditure while still having muscular contractions and dreaming. Meditation reduces energy use substantially more than sleep, allowing cells to relax and the entire body to feel rejuvenated.
Our lungs are like a pump, rising and falling to bring air in and out thanks to the change in pressure. There is a moment when the pressures are equal, which is the silence. That silence at the end of exhalation—before breathing in again—is usually long, leisurely, and gentle because it doesn’t use any energy. That is the “prana” stage. Pra means before, and ana means to breathe in (which also means after the exhaling). Prana has been known since ancient times. In yoga, there is pranayama, which controls the breath. In meditation, there is no longer a need to control the breath; the breath is self-controlled. There comes a time when the meditator does not feel himself breathing anymore. Peaceful. Vanishing.
Float with the water
We frequently associate seated meditation with meditation. Then there’s the full lotus stance and the half-lotus posture, which are both incredibly difficult and enigmatic as if they’re just for a certain type of humanity. Meditation really doesn’t have to be like that. You can meditate while walking, standing, lying down, or sitting. The Japanese and Tibetans each have their own method of “sitting” meditation; however, Westerners are even more diverse, as long as they have a soothing and comfortable position in which to let go of the entire body, which is great.
However, sitting cross-legged (full or half-lotus posture) has more benefits because when we stand or walk, the muscles in the front of the legs must contract to support the entire body, whereas the muscles in the front of the legs must contract to support the entire body after stretching. We cause the muscles to change direction when we sit cross-legged: this is the “therapeutic control” technique.
Keeping your spine straight is also a crucial need for meditation. We tend to follow the natural curvature of the spine under the weight of the body due to gravity, especially with age, so it is easy to lead to scoliosis, cervical spine pain, or low back pain. Keeping the back upright, combined with abdominal exercises, will slow down the aging process. In meditation, another very decisive factor is the relaxation of the whole body, the “letting go” of the whole body, which some people liken to floating with the water.
Medicine has proven that the energy consumption in meditation is very low, below the basal metabolic rate, and lower than even during sleep, so that energy is better accumulated. When the body has slacked and muscles have relaxed, resulting in greatly reduced energy consumption, it is also less essential to deliver nutrients through food such as glucose, lipids, and protein… which is a source of energy. If you eat less and still meet your energy needs, your body will be less tired, your cells will be less active, and your spirit will be refreshed.
A life of moderation, contentment, patience, mindfulness, and awareness—can it contribute to solving modern health problems and protecting our living environment today? Don’t waste your time looking anywhere. Come back and rely on yourself. That’s right. After all, who can breathe for whom? Who can meditate for whom?
Nguồn: https://thuvienhoasen.org/
Bs ĐHN: “Tôi Học Phật” để ứng dụng vào đời sống.
Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc: “Tôi học Phật” để ứng dụng vào đời sống
TTCT – Dưới góc nhìn của người thầy thuốc, học Phật để ứng dụng những gì cho sức khỏe con người?
“Rất lạ, tôi không định, nhưng rồi…”
Cuốn sách “khổng lồ”, ông viết nó thế nào ạ? Có tổng hợp từ những cuốn nhỏ trước đây, có cả phần tiếng Anh, vậy phần viết mới nhất là gì?
Đúng là từ năm 2001, cứ mỗi 5 năm tôi ra một cuốn sách, theo các vấn đề lớn đặt ra từ các kinh Phật. Từ Tâm Kinh, tôi viết cuốn Nghĩ từ trái tim để trả lời các câu hỏi đời sống (Why? Tại sao). Từ kinh Kim Cang, tôi viết cuốn Gươm báu trao tay (để trả lời câu hỏi How – Cách nào). Từ kinh Pháp Hoa, tôi viết Ngàn cánh sen xanh biếc (cho câu hỏi What – Cái gì, Who – Ai). Từ kinh Duy Ma Cật, là cuốn Cõi Phật đâu xa (cho câu hỏi Where – Ở đâu). Và từ kinh Hoa Nghiêm, tôi có nhiều bài bổ sung sau này.
Cuốn Tôi học Phật như một tổng tập được phát triển hoàn chỉnh. Và như có một sự dẫn dắt tâm linh, tôi nhận ra kinh Phật có một sự nối kết nhau liên tục. Điều đó giúp làm nên cấu trúc đường dây mạch lạc của cuốn sách, khiến nó trở nên dễ đọc. Tôi cho đó chính là đường dây “phương pháp sư phạm của Phật”.
Trong kho kinh Phật khổng lồ, có rất nhiều khái niệm và từ gốc Hán, ông học cách nào cho dễ nhất?
Tôi tự học. Người “thầy gốc” chính là Thích Ca Mâu Ni Phật. Tất nhiên có các vị thầy khác, ai tôi cũng đọc, như thầy Nhất Hạnh, Thanh Từ, Viên Minh… Tôi học từ rất nhiều thầy, kể cả… tôi. Tôi học ở chính mình, một bác sĩ, vì y khoa là khoa học thực nghiệm.
Tôi học được gì ư? Học cách tiếp cận một cách khoa học. Học được cách trở về nương tựa ở chính mình. Phải thực hành, thực nghiệm trên chính mình rồi mới thấy được điều đúng. Trong kinh Kalama, Phật có nói: “Đừng vội tin ai cả, kể cả tôi. Hãy thực hành đi”. Phương pháp của Phật dạy sinh động trực tiếp theo sự sống của người học, giống như kiểu ngày nay ta nói “Lấy người học làm trung tâm”.
Nhưng ngày nay có hiện tượng người dân kêu ca kinh sách khó hiểu, nhiều người học, giảng khác nhau nên rất khó học?
Mỗi kinh tôi đọc tìm cốt lõi, so sánh với các suy diễn của nhiều người, tìm ra những quan niệm tưởng bí ẩn nhưng mình hiểu được nó giản dị và khoa học.
Thí dụ Bát Nhã Tâm Kinh có 600 cuốn, rút gọn còn vài trăm chữ, và cuối cùng tôi chỉ còn học một chữ “Không”. Dễ hiểu lầm chữ Không này là không có gì, mà thực ra vẫn có. “Có” này không do tự tính mà là do tác động của nhiều yếu tố (duyên sinh).
Tôi được biết đến một “hiện tượng đọc hiếm hoi” với sách của ông. Họ âm thầm ghi chép lại các bài viết của ông thành một tác phẩm đồ sộ rồi… tặng ông. Chuyện đó cụ thể thế nào ạ?
Đó là bạn Nguyễn Hiền Đức sống tại Mỹ. Lúc đầu, tôi tưởng anh gom góp từ trên mạng, nhưng anh đã đánh máy lại những cuốn sách của tôi mà anh ưa thích trong suốt nhiều năm. Thời buổi này, lạ thật! Anh nói đó cũng là cách anh học tập theo cách của riêng anh. Và sơ thảo cuốn Tôi học Phật này có phần trợ giúp của anh.
Học phật để ứng dụng trong cuộc sống
Có phải ông học Phật vì đạo Phật rất gần với y khoa?
Có nhiều ngành nghề nghiên cứu ứng dụng từ đạo Phật. Vì là một thầy thuốc, tôi rất quan tâm đến ứng dụng vào đời sống: Thiền định giúp ta an lạc, trí nhớ sáng suốt, lòng rộng mở (từ bi hỉ xả) có thể chữa được nhiều bệnh thời đại như căng thẳng, lo âu, trầm cảm và nhiều bệnh khác. Tỉnh thức (Thiền) là một phương pháp đối trị hiệu quả.
Càng ngày có nhiều nhà y sinh, tâm lý học hợp tác cùng các nhà sư, dùng những kỹ thuật mới như EEG, PET, fMRI… Sau nữa, tham vấn (counselling) ta học được các đức tính tôn trọng, chân thành, thấu cảm từ Bồ Tát Thường bất khinh, Dược vương, Quán Thế Âm.
Thầy thuốc dù chữa được đau – triệu chứng bệnh – nhưng không chữa được nguyên nhân (khổ là gốc sinh ra đau). Tôi nghĩ, mình học cách Phật chữa khổ. Hiểu được nguyên do của khổ (tham sân si), từ đó biết cách sống. Vừa phải thôi. Quá thì bị.
Vậy bác sĩ học Phật rồi ứng dụng đời sống, có thể rút ra như một công thức, kê một “đơn thuốc” cho người trung bình không học nhiều mà áp dụng được không?
Phật dạy và “cho đơn” rồi đó. Phật là “Y vương” mà. Chữa tham sân si bằng “thuốc”: Giới (tránh sát sinh, trộm cắp, nói dối, tà dâm, nghiện ngập), Định (thiền an lạc, thân tâm sáng suốt) và Tuệ (hiểu biết, hết vô minh). Y khoa chữa cái đau còn đạo Phật chữa được cái khổ, cái nguyên nhân.
Trong y khoa, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) có công thức SAFE, trong đó tránh hai thứ là S (Smoking) – không hút thuốc) và A (Alcohol – rượu), làm đúng hai thứ là F (Food – ăn đúng) và E (Exercise – luyện tập).
Thực tế người bệnh chỉ được thầy thuốc “dòm vài phút” gọi là khám rồi kê đơn, vậy “học Phật” rồi nhìn nhận hiện tượng đó thế nào ạ?
Đó chính là chuyện “Tham vấn” tôi nói ở trên, rất cần cho y khoa. Bác sĩ khám kiểu vài phút làm sao tìm hiểu bệnh nhân, nên không hiểu nguồn cơn. Tôi từng biết nhiều trường hợp bà mẹ đang cho con bú tự nhiên mất sữa, đi chữa chạy khắp nơi không khỏi. Tìm hiểu mới biết do chồng đi bồ bịch mặc kệ vợ mới sinh con, bà mẹ tức giận (mà tiết sữa là do hormone trong não tạo ra và co bóp) nay bị tắt, cắt đứt. Tâm ảnh hưởng đến thân.
Trường hợp nữa trong nhi khoa: con gái 7, 8 tuổi rồi bỗng… đái dầm. Cha mẹ đánh đập sỉ vả, em càng bị nặng thêm. Bác sĩ xét nghiệm tìm không ra. Lý do chính là mẹ mới sinh em trai, mừng quá, cả nhà xúm vào phục vụ bỏ bê con chị. Nó sốc. Đái dầm là phản ứng cơ thể muốn gây sự chú ý của ba mẹ. Tham vấn là lắng nghe thấu hiểu để phát hiện nguyên nhân tâm nó ảnh hưởng tới thân bệnh thế nào.
Thiền và thở là quan trọng nhất
Với thiền, trong sách ông kể về những bài tập hay từ kinh nghiệm của riêng mình. Ông từng trải qua bệnh nặng phải mổ não, đến hôm nay trông vẫn… khá. Hằng ngày ông giữ sức khỏe thế nào?
(Cười). Có bệnh gì không, tôi cũng…không biết nữa. Mỗi ngày tôi đều uống một liều thấp ngừa huyết áp, thiền 30 phút và thể dục 30 phút với động tác…tự chế cho phù hợp với mình. Xương sống như cây tre có vai trò quyết định nên các động tác tập trung vào xương, khớp. Tôi không ăn chay nhưng ăn rau, cá và ít thịt gà. Ăn uống nhẹ nhàng, sáng cà phê, yaourt, trưa ăn cơm đơn giản, chiều ăn nhẹ.
Học thiền thấy mấy lợi ích: thấy an lạc, có sức bền tốt, ăn ngủ, trí nhớ đều tốt hơn.
Vì sao trong nhiều triết thuyết tôn giáo, ông chọn học Phật?
Ngoài những yếu tố quan trọng của đạo Phật áp dụng tốt cho cuộc sống như đã nói trên, tôi có một số lý do cá nhân. Tôi được sinh ra ở Phan Thiết, nhà dưới chân núi Tà Cú có chùa đẹp Linh Sơn Trường Thọ Tự, nơi có ông thầy giỏi chữa khỏi bệnh mắt cho mẹ vua Tự Đức. Tôi hay lên chùa chơi ngắm nhiều cảnh đẹp. Lớn vô Sài Gòn học y khoa, đọc sách nhiều nhưng cũng chỉ để hiểu biết chứ chưa chiêm nghiệm.
Năm 1997 sau một lần bị bệnh nặng, tôi hiểu ra nếu mình “tu” sớm, sống không quá căng thẳng chắc không bị. Học Phật giúp tôi hiểu ra cách khác để an trú trong cuộc đời, bớt bệnh tật phiền não. Hiểu cuộc đời tự nó hiểm nguy bất an bất tuyệt nhưng cũng là hân hoan cực lạc, cho ta tự do khám phá sáng tạo. Hiểu khoa học chuyển hóa cái tâm…
Ông hay tự gọi vui mình là “ông 3 điều 4 chuyện” để làm diễn giả chuyển tải những chuyện cốt yếu theo cách dễ hiểu dễ nhớ cho các bạn trẻ. Cụ thể là gì vậy ạ?
Đó là những điều cần nhớ và dễ nhớ. Phật không là “thần linh ban phát” cho ta lạy lục xin xỏ, không là triết gia, làm phức tạp chuyện đơn giản. Phật là đạo sư chỉ đường cho giác ngộ làm cho con người mạnh lên. Phật nói điều bình thường của con người. Phật khuyến khích đừng tìm đâu xa, hãy dựa vào chính mình, những năng lực bình đẳng. (Ta là Phật đã thành. Chúng sinh là Phật sẽ thành). Học Phật cần hiểu các thuật ngữ và các ẩn dụ, ẩn nghĩa để tránh mê tín dị đoan.
Và điều quan trọng nhất trong học Phật là phải thực hành.
Một điều dễ nhớ nữa: thở là quan trọng nhất. Gốc tu luyện là thiền và thở. Cùng sống trong vũ trụ như nhau nhưng con người thở khác nhau. Luyện thở hoàn toàn khoa học. Và ăn gì, như thế nào để có đủ năng lượng mà không bệnh tật. Vì thế, sách tôi viết dưới dạng khoa học dễ hiểu, có trải nghiệm để ngẫm ngợi khi cần và chia sẻ với mọi người.
Xin cảm ơn ông.■
(*) NXB Tổng Hợp TP.HCM 2023.
Tiến sĩ – bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc tốt nghiệp y khoa Đại học đường Sài Gòn năm 1969.
Ông tu nghiệp y tế công cộng tại ĐH Harvard (Mỹ) và CFES (Pháp) và là tác giả của hơn 40 đầu sách.
Thư gởi bạn xa xôi III
Thư gởi bạn xa xôi III
Tôi Học Phật (tiếp theo)
