Cũng Đành Gió Lạc Mùi Hương
Trần Vấn Lệ

internet
(TVL)
Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc
Tập hợp các bài viết của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc
Cũng Đành Gió Lạc Mùi Hương
Trần Vấn Lệ
internet
(TVL)
Nguyên Giác
(xin đọc đầy đủ trên https://tranthinguyetmai.wordpress.com/2021/09/16/voi-nang-vang-va-am-nhac-ra-mat-tuyen-tap-tieng-hat-thu-vang/)
Cuốn tuyển tập nhiều tác giả viết về Tiếng Hát Thu Vàng dày gần 250 trang bìa màu và bên trong có nhiều tranh phụ bản màu và trắng đen của các họa sĩ Bé Ký, Cao Bá Minh, Duyên, Lê Ký Thương, Nguyên Khai, Nguyễn Đình Thuần, Nguyễn Thiên Chương, Trương Đình Uyên, Trương Vũ. Họa sĩ Khánh Trường thiết kế bìa, ảnh bìa của nhà văn nhà báo Phan Tấn Hải, với lời giới thiệu của nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh và lời bạt của Trần Thị Nguyệt Mai.
Trong bài phỏng vấn ca sĩ Thu Vàng do nhà văn Trần Doãn Nho thực hiện, ca sĩ Thu Vàng đã kể về cơ duyên đến với âm nhạc của chị:
“Tôi còn nhớ những năm đầu Trung Học Đệ Nhất Cấp, tôi thích nghe nhạc của chương trình thương mại, thích thú hát theo những bản Bolero. Sau đó ba tôi hướng tôi nghe những bản nhạc xưa do những ca sĩ Thái Thanh, Kim Tước, Mai Hương, Anh Ngọc, Duy Trác… hát, nghe quen rồi dần dần yêu thích. Thời điểm này, tôi được sinh hoạt trong ban nhạc “Tuổi Thơ” ở Hội An do anh Thái Tú Hòa thành lập.
“Anh Hòa và thầy Lê Khuê, hiệu trưởng trường Nam Tiểu Học, cùng một số anh văn nghệ trong phố đã tập cho bản “Tuổi Thơ” hát những trường ca quan trọng như “Mẹ Việt Nam,” “Con Đường Cái Quan” của Phạm Duy, những bản hùng ca, nhạc thiếu nhi của Hùng Lân, Lê Thương, Phạm Duy… và nhiều tác phẩm giá trị khác. Giai đoạn này thực sự định hình thể loại nhạc tôi theo đuổi đến giờ. Tôi có may mắn được học rất nhiều từ những người thầy rất có tâm này.”
Và chính nhờ được hun đúc bởi những “người thầy có tâm” mà ca sĩ Thu Vàng đã hát bằng cái tâm của chị để được nhiều người yêu thích như chị đã nói trong cuộc phỏng vấn của nhà văn Trần Doãn Nho:
“Nghĩ cho cùng, mọi việc đều đến từ cái duyên cả anh ạ. Cuộc đời đã cho tôi nhiều đau khổ, mất mát nhưng tôi nghĩ, có thật sự kinh qua những đau khổ, mất mát, thiếu thốn thì mới khao khát thương yêu, yêu hết thảy: quê hương, thiên nhiên, con người… Và tôi tin, cái gì xuất phát từ tâm thì sẽ đi vào lòng người.”
Trong bài “Lấp Lánh Sao Mai” là Lời Giới Thiệu CD Dạ Khúc do ca sĩ Thu Vàng hát, nhà thơ Đặng Tiến thì cho rằng tiếng hát của nữ sĩ Thu Vàng là “tiếng hát hồn nhiên, óng ả”:
“Khi xuất thần, những trắc ẩn bỗng thăng hoa thành tiếng hát. Tiếng hát hồn nhiên, óng ả đầy xúc cảm và truyền cảm.”
Trong bài “Thu Vàng – Một Tiếng Hát, Một Tài Hoa, Một Nhân Cách,” nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo đã viết về giọng ca Thu Vàng như là “tiếng hát đặc thù”:
“Nhưng điều hạnh hữu hôm nay, lại xuất hiện một tiếng hát Thu Vàng, tiếp nối được các đàn chị. Lắng nghe, ta sẽ thấy, 90% nghệ thuật của Mai Hương, Quỳnh Giao và Thái Thanh như đang ẩn hiện. Một tài hoa kết tinh tự nhiên có một không hai, đến lạ kỳ. Như thu nhiếp cái chung để làm nên cái riêng, làm nên tiếng hát đặc thù cho chính mình.”
Nhà văn và nhà báo Phan Tấn Hải trong bài viết “Những Đêm Nhạc Thu Vàng” đã nói lên cảm nghĩ thích thú của anh khi nghe nữ ca sĩ Thu Vàng hát:
“Trong chương trình đêm nhạc khoảng hai giờ đồng hồ, tôi ngồi nghe, như quên hết tháng ngày đang trôi. Có phải đây là đêm, sao giọng ca chị Thu Vàng như dường chói ngời ánh sáng của một chiều xuân? Có phải đây là ca khúc Bến Xuân của Văn Cao, sao nghe như nửa đêm có tiếng chim hót lảnh lót trong giọng ca của chị Thu Vàng?”
Nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh trong bài “Thu Vàng – Đêm Nay” đã mô tả tiếng hát của Thu Vàng có sức mạnh “đặt người ta vào nơi chốn vừa thực vừa mơ”:
“Tôi biết Thu Vàng có không ít tri kỷ, dù chị ít xuất hiện, chỉ thu đĩa rồi tặng bạn hữu, hoặc hát mê say ở nơi chỉ có bạn thân. Và những người nghe như tôi, một căn phòng vắng, một đêm rất đầy, một nỗi sầu chưa vơi, đó là những hòa âm chuẩn nhất với thánh thót buồn của tiếng hát Thu Vàng. Một âm giọng đẩy đưa người nghe lên nhiều cung bậc cảm xúc, đặt người ta vào nơi chốn vừa thực vừa mơ, và xóa thời gian dưới tiếng rót trong trẻo của âm thanh.”
Nhà văn Văn Công Tuấn đã nghe ca sĩ Thu Vàng hát bài “Chiều Về Trên Sông” của nhạc sĩ Phạm Duy mà ngộ ra một điều mà từ 40 năm ông chưa hiểu: “Hơn 40 năm lưu lạc xa xứ, phải chờ đến khi nghe Thu Vàng hát câu nhạc cuối của bản Chiều Về Trên Sông tôi mới hiểu được tại sao nhạc sĩ Phạm Duy viết như vậy: Bể sầu không nhiều, nhưng cũng đủ yêu!”.
(…)
Sự thành công của người ca sĩ đến từ giọng thiên phú, có kỹ thuật điêu luyện và biết chọn nhạc phẩm thích hợp cho mình. Qua khoảng 40 tác giả viết trong tuyển tập Tiếng Hát Thu Vàng, cho tôi thấy nữ ca sĩ Thu Vàng đã có đủ ba yếu tố trên. Ngoài ra, chị còn có tấm lòng không những với nghệ thuật mà còn với bạn bè và người nghe. Bởi thế, chị đã thành công và đã được nhiều người yêu thích là điều dễ hiểu.
Mong rằng chị sẽ tiếp tục góp tiếng hát truyền cảm của chị để làm cho cuộc đời lắng bớt những đau thương và khổ lụy.
Nguyên Giác Phan Tấn Hải
(Thứ bảy 11.9.2021)
……………………………………………………………
Vài hình ảnh Thu Vàng hát ở Hội An (2017)
Thu Vàng hát trong buổi Trò chuyện thân mật của Đỗ Hồng Ngọc với nhóm bạn bè ở Hội An (2017) về đề tài Nếp sống An lạc. Từ trái: Đỗ Hồng Ngọc, Khiếu Thị Hoài, Thu Vàng
Nguyễn Quang Chơn và Tâm ngồi bên cửa sổ… lắng nghe Thu Vàng…
Buổi tối, cùng nhóm nhỏ bạn bè bên bờ sông Hoài, Thu Vàng đã hát… “Chiều Về Trên Sông”: của Phạm Duy: Bể sầu không nhiều nhưng cũng đủ yêu…
(https://vanvn.vn/do-hong-ngoc-bac-si-viet-tu-trai-tim/)
CẬP NHẬT NGÀY: 9 THÁNG TÁM, 2021 LÚC 16:43
Vanvn- Đỗ Hồng Ngọc tâm sự: “Tôi tự nhiên mà khoái Tâm Kinh. Có thể là có duyên sao đó. Sau cơn mê, mổ xong tôi tỉnh dậy. Cười một mình. Ngu ơi là ngu. Đáng đời ơi là đáng đời. Rồi tôi lạ lẫm nhìn nắng chiếu qua khung cửa. Lạ lẫm nghe tiếng chim hót. Lạ lẫm thấy lá thông lắc lư trong gió…”.
Mười năm qua, sách của Đỗ Hồng Ngọc luôn nằm trong danh mục bán chạy nhất, được tái bản nhiều lần, được trưng bày trên các kệ trang trọng nhất trong các nhà sách. Đúng là một hiện tượng.
Sách của Đỗ Hồng Ngọc không phải là những tiểu thuyết diễm tình, éo le, gay cấn, cũng chẳng phải là sách nhất thời “ăn theo” một sự kiện nào đó, hay những sách dạy làm giàu thời thượng… Đó là những tập tản văn về một nếp sống an lạc, về thiền như Nghĩ từ trái tim, Như thị, Cõi Phật đâu xa, Cành mai sân trước… Các tập tùy bút về sức khỏe viết cho người cao tuổi như Gió heo may đã về, Già ơi chào bạn, Thiền và sức khỏe, Nếp sống an lạc… Và cả những ký sự nhân vật như Những người trẻ lạ lùng, Nhớ đến một người, Một hôm gặp lại... viết về những người quen thân với tác giả, trong đó có nhiều trí thức, văn nghệ sĩ nổi tiếng.
Cõi thơ của Đỗ Hồng Ngọc
Nhiều người nghĩ Đỗ Hồng Ngọc là một bác sĩ làm thơ, viết văn và gọi anh là bác sĩ – nhà văn. Nhưng tôi vẫn thích gọi anh là thi sĩ – bác sĩ bởi Đỗ Hồng Ngọc có cốt cách thi sĩ trong con người bác sĩ. Anh làm thơ và có thơ in từ thời sinh viên – tập Tình người (năm 1967), ký bút hiệu Đỗ Nghê. Mấy năm sau khi ra trường là Thơ Đỗ Nghê (năm 1973). Tập thơ đã gây được tiếng vang trong văn đàn bấy giờ. Sau này anh trích một số bài trong hai tập thơ trên rồi in lại trong các tập thơ Giữa hoàng hôn xưa (năm 1993) và Thư cho bé sơ sinh và những bài thơ khác (năm 2010).
Bài thơ làm tựa chính Thư cho bé sơ sinh… Đỗ Hồng Ngọc viết năm 1965, khi còn là sinh viên y thực tập tại BV Từ Dũ: Khi em cất tiếng khóc chào đời/ Anh đại diện đời chào em bằng nụ cười/ Lớn lên nhớ đừng hỏi tại sao kẻ cười người khóc/ Trong cùng một cảnh ngộ nghe em…/ Khi anh cắt rún cho em/Anh đã xin lỗi chân thành rồi đó nhé/ Vì từ nay em đã phải cô đơn/ Em đã phải xa địa đàng lòng mẹ… Thôi trân trọng chào em/ Mời em nhập cuộc/ Chúng mình cùng chung/ Số phận con người.
Tôi nhớ hình như khoảng sau ngày ký Hiệp định Paris (năm 1973) ít lâu, anh gửi tặng tôi tập Thơ Đỗ Nghê mới xuất bản. Tập thơ in ronéo nhưng trình bày khátrang nhã. Thơ Đỗ Nghê bàng bạc khát vọng hòa bình và cả nỗi ám ảnh của chiến tranh, đã gây được tiếng vang trong văn đàn bấy giờ. Anh ru con: Ngủ đi con ngủ đi con/ Rồi ngày mai khôn lớn/ Cầm súng với cầm gươm. Và anh ru vợ (hay người yêu?): Ngủ đi cưng, ngủ đi cưng/ Kề tai đây anh bảo/ Coi như mình chẳng có quê hương.
Năm 1997 Đỗ Hồng Ngọc ra mắt tập thơ Vòng quanh, một “bút ký thơ” kèm những ký họa rất thú vị của chính tác giả vẽ lại những nơi chốn anh đã đi qua: Huế, Hà Nội, Boston, Montreal, Bắc Kinh… nhưng có lẽ ấn tượng nhất với thi sĩ là Paris. Một tâm hồn thi sĩ như Đỗ Hồng Ngọc mà lạc lối tới Paris giống như anh “trở về”. Vòng quanh ra đời sau chuyến đi Paris năm 1997. Thơ viết về Paris lan man gần phân nửa tập thơ: Paris với anh lạ mà không lạ/ Có cái gì đó rất thân quen/ Như sáng nay thăm lại tháp Eiffel… (Paris tháng Sáu). Hoặc: Ở Paris có thể/ Vào một quán cà phê quen/ Từ ba trăm năm cũ/ Làm một ly đen/ Với Voltaire, Bonapartre/ Hoặc Benjamin Franklin/ Khề khà cùng Jean Paul Sartre… (Café).
Và cõi người của một bác sĩ
Tác phẩm đầu tay viết về y học Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò anh ký tên thật bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, xuất bản năm 1972. Tôi nhớ lần đầu gặp Đỗ Hồng Ngọc khi anh mang tặng tôi cuốn sách này, nhờ tôi giới thiệu trên tuần báo Tuổi Ngọc (bấy giờ tôi là thư ký tòa soạn). Tuổi Ngọc là “tuần báo của tuổi mới lớn”, độc giả của báo cũng là đối tượng độc giả của cuốn sách. Tòa soạn là căn gác xép chật chội của nhà in nên anh và tôi ngồi ở quán cà phê trong con hẻm bên cạnh. Đỗ Hồng Ngọc là một người lịch thiệp, cử chỉ từ tốn, nói năng nhẹ nhàng, dễ gây cảm tình với người đối thoại.
Hai năm sau Đỗ Hồng Ngọc viết cuốn y học thứ hai Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng. Cả hai cuốn sách viết về y học thường thức nói trên tái bản không biết bao nhiêu lần bởi cứ lứa tuổi học trò này lớn lên lại có lứa khác tìm đọc. Những bà mẹ này sinh con đầu lòng rồi lại có những bà mẹ sinh con đầu lòng khác. Những lời khuyên nhẹ nhàng cho lứa tuổi học trò hay các bà mẹ trẻ lần đầu sinh con với văn phong dí dỏm của Đỗ Hồng Ngọc rất hấp dẫn người đọc. Kể cả đến nay, sau 45 năm, hai tập sách y học thường thức ấy vẫn tiếp tục tái bản. Thế mới thấy cái duyên của BS Đỗ Hồng Ngọc. Học giả Nguyễn Hiến Lê khi viết tựa cho cuốn Những tật bệnh thông thường… đã viết: “Một bác sĩ mà là một thi sĩ luôn làm cho chúng ta ngạc nhiên một cách thú vị”.
Năm 1997, Đỗ Hồng Ngọc cho ra đời một tập sách y học thường thức nhẹ nhàng Gió heo may đã về. Tác giả mượn một câu trong ca khúc Nhìn những mùa thu đi của Trịnh Công Sơn: “Gió heo may đã về/ Chiều tím loang vỉa hè/ Rồi mùa thu bay đi…” làm tựa tập tản văn viết cho lứa tuổi chớm già. Chỉ trong năm 1997 Gió heo may đã về đã tái bản đến ba lần, đủthấy sức hút của tác phẩm. Mặc dù đề tài viết về sức khỏe của tuổi già đã có nhiều bác sĩ tên tuổi viết như BS Nguyễn Ý Đức, một chuyên gia về lão khoa nổi tiếng ở Mỹ, hoặc GS Ngô Gia Hy đã viết nhiều cuốn về tuổi già. Thế nhưng Gió heo may đã về được viết dưới dạng tùy bút nhẹ nhàng như những lời tâm sự, người đọc dù khó tính mấy cũng sẽ mỉm cười thích thú khi đọc. Tác giả cũng khá bất ngờ khi tập tản văn nhận được sự đón nhận nhiệt tình của đông đảo bạn đọc – có lẽ hầu hết ở lứa tuổi chớm già như anh.
Các tập ký sự nhân vật: Những người trẻ lạ lùng, Nhớ đến một người… Đỗ Hồng Ngọc viết về những cuộc gặp gỡ, những cuộc chia tay, những cuộc hạnh ngộ diệu kỳ. Anh nhớ những gương mặt, những cá tính, những tài năng không thể nào quên, như học giả Nguyễn Hiến Lê, một tấm gương kiên nhẫn, có ảnh hưởng không nhỏ trong cuộc đời anh. Hay bác sĩ – họa sĩ Dương Cẩm Chương, một bậc trưởng thượng cả trong y khoa và hội họa Việt Nam, hoặc nhạc sĩ Trần Văn Khê, nhà văn Võ Hồng, nhà văn Võ Phiến, bác sĩ – nhà văn hóa Nguyễn Khắc Viện…
“Trái tim có cách nghĩ riêng của mình”
Từ những tập sách viết về y học với một giọng văn nhẹ nhàng, các ký sự nhân vật như những lời tình tự đến những bài thơ trăn trở một thời tuổi trẻ hay những câu thơ lãng mạn ở tuổi chớm già, hình như Đỗ Hồng Ngọc không viết từ những nghĩ suy bình thường mà viết từ trái tim, dù trái tim không phải để suy nghĩ mà để yêu thương. Như trong tập Nghĩ từ trái tim (viết về Tâm Kinh Bát Nhã), Đỗ Hồng Ngọc đã viết “trái tim có cách nghĩ riêng của mình mà nhiều khi khối óc không sao hiểu được”.
Đỗ Hồng Ngọc kể lúc anh dưỡng bệnh ở BV An Bình cuối năm 1997 sau khi mổ sọnão ở BV 115, anh đọc được Trái tim hiểu biết của thiền sư Nhất Hạnh viết về Bát Nhã ba-la-mật-đa Tâm Kinh do một người bạn cho mượn. Anh đọc và nghiền ngẫm. Trong lời dẫn nhập sách, Đỗ Hồng Ngọc viết: “Nghiền ngẫm rồi ngập ngừng. Rồi bức xúc, phải viết ra cho khỏi quên, để lâu lâu còn coi lại một mình. Ba năm nghiền ngẫm, sáu tháng viết và hơn hai năm ngại ngần, thỉnh thoảng đọc và sửa, nhờ vài bạn thâm giao chỉ thêm cho, rồi tìm tòi, tham khảo, loay hoay…”. Mãi đến sáu năm sau, cuối năm 2003, tập Nghĩ từ trái tim mới được ấn hành. Anh giới thiệu và giảng giải Tâm Kinh theo cách của anh, một bác sĩ, không ẩn dụ mà là những ví dụ, những từ ngữ dễ hiểu, dễ đi vào tâm thức người đọc.
Nghiền ngẫm Tâm Kinh để chữa bệnh cho chính mình
Đỗ Hồng Ngọc tâm sự: “Tôi tự nhiên mà khoái Tâm Kinh. Có thể là có duyên sao đó. Sau cơn mê, mổ xong tôi tỉnh dậy. Cười một mình. Ngu ơi là ngu. Đáng đời ơi là đáng đời. Rồi tôi lạ lẫm nhìn nắng chiếu qua khung cửa. Lạ lẫm nghe tiếng chim hót. Lạ lẫm thấy lá thông lắc lư trong gió…”.
Đỗ Hồng Ngọc bảo anh viết những cảm nghĩ trong khi nghiền ngẫm Tâm Kinh cũng là để làm một phương thuốc chữa bệnh cho chính mình và chia sẻ cùng vài bạn bè thân hữu “đồng bệnh tương lân”. Và kể từ sau Nghĩ từ trái tim, những tập tản văn y học, tùy bút thiền, bút ký thơ, ký sự nhân vật của Đỗ Hồng Ngọc với văn phong thanh thoát, đầy chất thơ, nhẹ nhàng như gió thoảng liên tiếp được ấn hành rồi tái bản, tái bản.
PHẠM CHU SA
Thư gởi bạn xa xôi
Gặp gỡ với Nhà thơ Huyền Chi của “Thuyền viễn xứ”
Bạn còn nhớ tiệm sách Bút Hoa trên đường Trần Hưng Đạo, đối diện trường Phan Bội Châu (cũ) của bọn mình ở Phan Thiết không? Chủ tiệm là cô Ngọc Bút, Hồ thị Ngọc Bút, thường gọi cô Ngọc, vợ thầy Trần Phụng Tường dạy Pháp văn lớp đệ thất 1954 (65 năm trước) của bọn mình nhớ không? Ai dè cô là nhà thơ Huyền Chi, nổi tiếng với bài thơ Thuyền Viễn Xứ do Phạm Duy phổ nhạc đó nhớ không?
Gốc Bắc Ninh, nhưng sanh đẻ tại Gia Định (Saigon) và có thời cô phụ mẹ bán hàng vải ở chợ Bến Thành. Trong nhiều năm, cô im hơi lặng tiếng, đến nỗi nhạc sĩ Phạm Duy chỉ một lần gặp cô, được cô tặng tập thơ Cởi Mở tại chơ Bến Thành năm đó, chọn được một bài là Thuyền viễn xứ để phổ nhạc thành một ca khúc tuyệt vời đã cất công tìm kiếm cô mãi không được, nhắn tin cả trên bản nhạc: Huyền Chi, cô ở đâu? Tiếng kêu lọt tõm trong sa mạc. Và người ta cứ nghĩ thêm một hiện tượng TTKH nữa rồi! Nhưng không. Cô không lên tiếng với PD vì nhiều lý do nhưng lý do chính là thầy đang bị tai biến, té gãy xương đùi, phải nằm một chỗ suốt mười năm, một tay cô chăm sóc. Nhà văn Nguyễn Đông Thức trong một bài viết đã quả quyết đó là vì “ông chồng quá ghen”, và cô đã xác nhận anh chẩn bệnh chính xác trăm phần trăm!
Lúc mình học với thầy Tường thì thầy chưa có vợ! Mình chỉ học PBC được mấy tháng thì gia đình dời về tỉnh mới Bình Tuy (LaGi), nên không còn được theo học nữa. Dù sao, Cô Ngọc Bút, nhà thơ Huyền Chi, cũng là cô mình mà, nên hôm nay mình đã cùng với TP, NTC… những học trò cũ thân thiết cùng hẹn đến thăm cô, thắp nén nhang cho thầy, cũng là dịp cho mình được gặp gỡ nhà thơ HC đã 83 tuổi, im hơi lặng tiếng quá lâu, giờ lại “bùng nổ” trên Facebook với nhiều bài viết rất hay và sắp ra mắt tập “Huyền Chi, Thuyền Viễn Xứ” nữa!
Mình thưa sao cô lấy tên Khánh Ngọc trên Fb vậy cô? Có phải vì… nghĩ đến Phạm Duy? Cô nói không. Tôi tên Ngọc (Ngọc Bút) và Khánh là tên người anh trai của tôi mà tôi rất quý mến đang ở nước ngoài. Anh có người con là họa sĩ đã trình bày bìa cho cuốn sách Huyền Chi, Thuyền Viễn Xứ này đó. Cái lý do “lẫn trốn” PD vì sau khi bài Thuyền viễn xứ nổi đình nổi đám, thì tôi sợ, nhất là ở một thành phố nhỏ như Phan Thiết này thì khó mà tránh phiền phức, vả thầy cũng đang nằm bệnh đó…
Cô nói từ ngày thầy mất, suốt nhiều năm cô lặng lẽ âm thầm, ra vào một mình, con cháu mới bày cô làm Facebook cho vui, để trong gia đình, người trong nước kẻ ngoài nước, thư từ, trao đổi, trò chuyện cho thuận tiện hơn. Cô học rất nhanh, vì cô vốn là cô giáo dạy tiếng Anh, xưa đã quen với máy chữ mười ngón các thứ… Vậy là Fb Khánh Ngọc ra đời. Bạn bè tìm lại nhau sau 65 năm trời xa cách. Rồi học trò, rồi độc giả khắp nơi khuyến khích nên cô viết nhiều, viết nhanh, rồi nay còn in ra sách nữa… Văn cô mượt mà, chuyện kể chân thành, đằm thắm được chia sẻ nhanh chóng trên mạng. Những hình ảnh xưa cô post lại, khiến nhiều người giật mình. Cô đẹp quá. Sao thời đó, một người phụ nữ 7 con, 35 tuổi mà dịu dàng, đoan trang, tươi mát đến vậy, khiến ngay cả nhà văn Nguyễn Đông Thức cũng kêu lên… giá mà hồi đó, sanh sớm nửa thế kỷ được gặp cô cũng không thể không mê!
Mình có “lợi thế” là học trò của thầy Tường, 65 năm về trước, và cũng lại là người mà cô bảo cô là “fan” từ lâu, nên dù mới gặp lần đầu vẫn không hề xa lạ. Mình bèn lựa lời… hỏi những chuyện tình mà cô chưa từng nói với ai cũng không viết hết được trong sách.
Chuyện đầu tiên, dĩ nhiên là chuyện tình của thầy-cô. Mình không lạ gì “tiếng tăm” của thầy-cô ở Phan Thiết một thời… Mấy bạn học kể hôm nào thầy vào lớp… chửi học trò, nhăn nhó với học trò là có chuyện ở nhà. Thầy “ghen” khủng khiếp. Có lần thầy bảo: tôi mê vợ tôi có sao không? Khi hai ông bà dắt tay nhau dung dăng dung dẻ ngoài phố, lũ trẻ con chạy theo kêu: Ông tây bà đầm, ông tây bà đầm… Bởi thời đó, vợ chồng thường đi cách nhau mấy bước! Có ai dám nắm tay ôm eo như vậy đâu!…
Rằng cô không hề để ý đến thầy. Lúc 15 tuổi cô đã có nhiều bài thơ. Và còn làm “biên tập thơ”cho một tờ báo Phụ Nữ thời đó. Lúc 17 tuổi, ông J, một người Pháp… mê cô. Xin cưới. Cô từ chối. Vậy mà đến năm cô 76 tuổi, khi thầy mất, vợ ông J cũng đã mất, ông còn quay lại xin… cưới. Cô lại từ chối.
Mới lớn, mẹ cô bắt cô phải lấy một “đại gia” giàu có, làm xuất nhập cảng. Ông này đi hỏi cô 8 lần. Cô cương quyết từ chối. Mình mới lớn, biết làm thơ, ít ra cũng có chút “lãng mạn” gì chứ lẽ nào lại lấy một ông nhà giàu chỉ biết làm xuất nhập cảng! Rồi cô tình cờ đến học thêm ở lớp tiểu học thầy Tường đang dạy, nhưng thầy đã vừa xin nghỉ để về Saigon tiếp tục học lên. Vậy mà sau này, thiên hạ còn kêu: học trò lấy thầy giáo! Thực tế, cô có học ngày nào với thầy đâu!
Lúc giúp mẹ bán hàng vải ở chợ Bến Thành Sàigon, có một ông nào đó mê cô…, lẽo đẽo làm thơ cả tập để tặng cô, ngày nào cũng có thơ mà cô chưa bao giờ biết mặt. Một lần, cô đi cắt tóc về, ông làm thơ than khóc cho mái tóc từ nay đã bỏ vào mỹ viện (tiệm cắt tóc)! Cô vẫn không biết ông là ai, nhưng khi cô lấy chồng, cô gởi ổng bài thơ “Bài thơ cuối cùng” để kỷ niệm. Từ đó, bặt tin.
Một người khác nữa, ở Huế. Cũng chỉ quen nhau qua văn thơ, cũng chưa hề biết mặt, nhưng chính ông này đã in cho cô tập thơ đầu tay, tập “Cởi Mở”. Đến lúc cô lập gia đình, ông gởi cô “Bài thơ cuối cùng”. Và rồi, cô cũng gởi ông “Bài thơ cuối cùng”, 16 khổ. Ai ngờ ông còn giữ đến bây giờ! Năm trước, có người thanh niên chừng 45-50 ở nước ngoài về đến tìm cô, dọ hỏi đủ thứ. Sau mới nói là con của ông TT, nay đã gần 90, nhờ anh gởi lại cô “Bài thơ cuối cùng” cô đã viết tặng ông 65 năm trước. Dặn về VN phải bằng mọi cách tìm cho được cô để trao lại bài thơ này. Bây giờ các con cô hay hỏi sao mẹ đi lấy chồng cứ làm hết “Bài thơ cuối cùng” cho người này rồi lại “Bài thơ cuối cùng” cho người khác vậy?…
Ở Phan Thiết, còn có ông L, ở dãy phố lầu 30 căn, ngày nào cũng ở trên lan can nhìn cô đi học qua lại. Ông L là bạn của thầy Tường. Thầy kêu ông viết thư cho cô đi, rồi thầy sẽ trao giùm cho, nhưng ông không dám viết. Sau ông lên khu, được tin cô lấy chồng, ông có viết mấy dòng chúc đôi uyên ương hạnh phúc!
Thầy Tường thì bà mẹ cô cương quyết không cho gặp, không cho cưới hỏi gì cả. Lý do: nghèo quá! Một lần thầy viết thư cho cô, cô cảm động, gởi thầy bài thơ lục bát. Từ đó thân nhau. Khi đã thắm thiết, mỗi lần thư cho thầy cô viết cuối thư: “Hôn anh thật kêu!”. Thư lọt vào tay ông bố thầy, ông nói: “Hôn anh” được rồi, còn “thật kêu” nữa! Từ đó, thầy dặn Bưu điện Phan Thiết đừng đưa thư về nhà, để thầy ra bưu điện nhận trực tiếp. Thầy mang thư ra vườn hoa, chỗ Château d’eau (lầu nước) mà đọc. Thầy nói đó là những giây phút hạnh phúc nhất đời của thầy.
Có lần thầy mang tặng cô bó hoa, cô trang trọng cắm vào độc bình đặt lên bàn, lúc học về, thấy bó hoa đã bị ném vào sọt rác! Thì ra, bà mẹ rất bực mình…
Thế rồi, làm sao thầy cô đến với nhau được? Lúc đó thầy đang học Dược thì bỏ, nộp đơn xin đi dạy học ở Phan Rang. Có Baccalaureat Pháp (Tú tài) thời đó dễ được các trường nhận cho dạy. Thầy viết một bức thư…. rủ cô đi với thầy. Bức thư cô để quên trên bàn học, bị bà mẹ bắt được. Đành phải cho thầy cưới cô, vì nếu không, “nó bỏ nhà trốn đi thì mang tiếng”!
Nghe nói thầy “ghen” lắm có đúng không? Phải, thầy “ghen” nổi tiếng. Thầy phải “tả xung hữu đột” “đánh nam dẹp bắc” nhiều phen. Nhiều lần đột xuất kiểm tra giám sát cô khi cô đi làm. Lúc nào thầy cũng đích thân chở cô đi. Thiên hạ thấy thầy già mà cô trẻ, có lúc tưởng thầy có “bồ nhí”! Thiệt ra thầy với cô đã có 5 đứa con rồi chứ, nhưng cô càng đẻ càng khỏe càng trẻ ra. Thầy chỉ hơn cô 6 tuổi. Khi thầy bị động viện, thầy còn kêu “ráng” đẻ thêm một đứa đủ 6 để được miễn. Sau cùng thầy cô có 7… em. Cô cười.
Mình hỏi bài thơ Thuyền viễn xứ… cô làm có phải định theo ông Tây sang Pháp không (có thuyền viễn xứ nhổ neo lên đường)? Không. Thời cuộc lúc đó. Kẻ Nam người Bắc. Chiến tranh căng thẳng, đất nước phân ly… Còn Đà giang? Chỉ là tưởng tượng thôi!
Rồi cô cười. Tôi bắt chước anh khuyên trong sách: luôn giữ nụ cười, yêu thương người ta, luôn biết ơn… vì thế mà trẻ lâu, trí óc sáng suốt.
Vì sao Thầy “ghen” dữ vậy?
Cô trả lời ngay: Vì đẹp. Vì khéo léo, dịu ngọt, hiền lành… Mấy đứa con nói Má phải dữ lên chớ, sao để Ba ăn hiếp hoài vậy. Má phải ghen ngược cho ba sợ. Mà có gì đâu để ghen…
Dịp cô gặp Phạm Duy cũng rất nhanh thôi. Tại nhà sách Sống Chung của cô Đào, cô Đào giới thiệu PD, cô gởi tặng tập thơ, PD xin lời đề tặng và nói sẽ chọn một bài vừa ý để phổ nhạc. Rồi cô xem đồng hồ, cáo từ… rút lui nhanh nói cho kịp giờ đi học. Có lẽ ấn tượng đó theo Phạm Duy nhiều năm, cất công tìm kiếm, thậm chí kêu trên bản nhạc: Huyền Chi, cô ở đâu?
Năm Phạm Duy về nước, cũng nhờ người quen là bạn Huyền Chi đi tìm, nhưng cô lánh mặt, lúc đó thầy đang bệnh nặng, mà cô quá biết tánh thầy! Từ xưa đã dặn không tham gia các sinh hoạt văn nghệ thơ ca gì cả nhé. Có lần cô gặp ông Nguyễn Vỹ, chủ báo Dân Ta ở ngoài đường, ông Nguyễn Vỹ chặn hỏi cô có phải Huyền Chi không? Ông nói lúc đầu thấy nữ giới mà ra tập thơ tựa “Cởi Mở” cũng khó chịu, nhưng tình cờ đọc tập thơ ở nhà sách Diễm Diễm Thư Trang của bà Mộng Tuyết thì ông mến phục. Nguyễn Vỹ khuyến khích cô nên tiếp tục vì thường nhà thơ chỉ nổi một thời gian ngắn. Thế rồi ông làm 2 bài thơ rất ướt át tặng bà. Thơ khá hay. Ông anh bà đã xé bỏ vì nói ông Nguyễn Vỹ có tuổi nhiều rồi… Một lần, thầy Tường đi với cô đến gặp ông, từ đó Nguyễn Vỹ mặt giận rồi không quen tiếp nữa! Tô Kiều Ngân, Thanh Nam cũng thường mời cô đi dự họp mặt văn nghệ, thầy Tường tuyệt đối không cho.
………..
Đã khá trưa rồi. Bọn mình đứng lên chào cô về. Cô ký tên tặng sách còn nhắc: Tôi là fan của anh lâu rồi! Nhất là khi thầy nằm bệnh, tôi đọc sách anh nhiều lắm đó.
Saigon 4.4.2019.
Đỗ Hồng Ngọc
(Nguồn: Trần Hoài Thư: Thư Quán Bản Thảo, số 92, tháng 3/2021)
Thư gởi bạn (5.6.2020)
“ĐỂ LÀM GÌ”
Để Làm Gì không phải là để làm gì mà là để làm gì.
Chẳng phải là một câu hỏi. Cũng chẳng là một thở dài, một cảm thán… Không. Nó chỉ Để Làm Gì vậy thôi.
Sách về đã ba bốn hôm, mình cứ băn khoăn có nên viết đôi dòng về cuốn “Tạp văn” mới mà không mới này gởi đến bạn bè thân thiết không? Nhớ ông cậu Nguiễn Ngu Í của mình ngày xưa, có ý định in một cuốn sách có tựa là Tạb Nhạb (theo kiểu viết của ông) mà đến cuối đời, ý nguyện vẫn chưa thành: “bao nhiêu chí trẻ rồi tro bụi/ một thoáng tình xa cũng ngậm ngùi” (thơ Ngu Í).
Mình đang buổi “về thu xếp lại” mà, nên cứ loay hoay thu thu xếp xếp, khiến người bạn trẻ mới tuổi năm mươi nơi xa kia trách sao anh nói thu xếp gì đâu mà cứ thấy bày biện ra thêm… Ơ hay. Thì cũng phải bày biện ra rồi mới gom góp, chọn lọc, chắt mót, lượm nhặt, thu thu xếp xếp được chứ!
Như trong “lời ngỏ” tập này, mình đã viết:
…………
Rồi một hôm, trong buổi “về thu xếp lại”, tôi gom góp một số bài tùy duyên, tùy hứng, tùy nghi, tùy hỷ … bấy lâu mình thích mà làm thành một “Tập”, mà tôi gọi là Tạp bút như một món quà lưu niệm dành riêng đọc vui một mình, rồi biết đâu cũng có người “đồng điệu”, cũng “nòi tình” mà cùng sẻ chia trong chốn thân quen…
Không ngờ mà khi thu xếp, gom góp lai rai như vậy, tôi đã không cầm được nước mắt khi đọc lại “nỗi cô đơn uy nghi” của Võ Hồng, “người ta ở bển” của Trần Vấn Lệ, “gọi chiều nước lên” của Trần Hoài Thư, và “lắm nỗi không đành” của Võ Tấn Khanh…
Rồi cũng không thể không cười một mình với “làm mới thơ”, với “vơ vẩn cùng Mây” với “hỏi không đáp, bèn…”
Rồi lại cũng không thể không trầm ngâm ngẫm ngợi với “để làm gì”, với “sáng, trưa, chiều, tối”…
Mít ướt. Nó vậy đó. Biết sao.
Người đầu tiên tận tụy giúp tôi “thu xếp” là bạn 5 Hiền, tức Nguyễn Hiền-Đức đã viết mấy dòng thiệt dễ thương như vầy:
Đọc kỹ Để Làm Gì, Hiền thấy nó rất “mới”, rất “lạ”. Lâu nay bạn đọc vẫn quen với mảng sách y học, rồi Phật học, chứ chưa đọc được thể loại tạp bút Đỗ Hồng Ngọc. Tập tạp bút này sẽ khiến người đọc tò mò, thú vị hơn “Nhớ Đến Một Người”, lại sâu lắng, chắt lọc hơn “Ghi Chép Lang Thang” lại vừa bàng bạc những nỗi niềm của “Thư Gửi Bạn Xa Xôi”. Vì thế Hiền rất muốn, sau khi sửa chữa, bổ sung Thầy nên, rất nên cho xuất bản tạp bút này nhe.
Rồi anh Hai Trầu Lương Thư Trung cũng khuyến khích:
Xin đa tạ Bác sĩ đã gởi cho đọc tạp bút này; mà thực sự đây là những bài “tùy bút” rất hấp dẫn, chẳng những bác sĩ nắm tay dẫn người đọc đi thăm khắp các miền với cảnh với người xưa cùng thăm luôn đời sống của cư dân xưa qua mỗi bước chân đời của bác sĩ nữa nên đọc hoài hổng biết ngán!
Làm sao mà không mê những dòng cảm xúc khi tác giả nhớ đến những chuyến phà Vàm Cống, An Hòa của cả vùng sông nước quen thân mà tôi biết bao lần chờ Bắc chờ đò để qua sông qua biết bao mùa mưa nắng ấy!
Làm sao mà không mê những cảm xúc khi một bác sĩ với kiến thức uyên bác cùng kinh nghiệm già giặn mấy chục năm vậy mà khi bắt gặp “những mùa màng ngày cũ” như bắt gặp lại chính mình ở vùng quê Phong Điền ngày nào của tuổi ấu thơ qua bài “Còn thương rau đắng”?
Làm sao mà không nôn nao trong lòng đôi lúc muốn rụng rời khi nghe câu hỏi “Năm nay người có về ăn Tết?”
Còn nhiều và nhiều lắm những trang sách rất chân tình và đầy cảm xúc như thế, nhiều lắm không làm sao kể cho hết qua vài hàng xúc cảm bồi hồi khi mở ra đọc liền lúc vừa nhận được sách còn nóng hổi này vậy!
Tôi có một điều ước là “phải chi sắp tới có sách in trên giấy thiệt” thì chắc đọc còn mê hơn nữa!
Nhà văn Nguyễn Lệ Uyên gởi mấy dòng:
“…Đọc hết rồi, đọc trên máy. Mở chữ lớn ra mà đọc muốn bay 2 tròng kính!
Đọc xong thấy cái đầu nhẹ, như thể chữ nghĩa trong tạp bút Đỗ Hồng Ngọc là bàn tay em Cô-Vy 19 mát xa!
Có điều anh hơi “thiên vị” khi “dồn lại” những gì gọi là tinh túy cho xứ Phan Thiết tài hoa của anh thì phải?
Vui nghen.
NLU
… Vậy đó, cho nên mình đánh bạo đưa cho Nhà xuất bản Tổng hợp xem sao.
Một người bạn trẻ của Nhà xuất bản đọc bản thảo, viết môt cảm nhận bất ngờ:
Lững thững, dễ thương, hóm hỉnh. Mỗi bài viết mỗi góc cạnh mới.
Vừa đọc vừa hồi hộp, vừa vui sướng kiểu như đợi từng con chữ hiện ra.
Không biết tác giả đang đưa mình đi đâu đây. Nên cứ thế mà trôi. Trôi rồi cũng có lúc neo mình lại để suy nghĩ, để ngẫm ngợi.
Và thấy hình như mình có thấy mình trong đó. Nhận ra mình cần chậm lại, để nghe trái tim lên tiếng, để cảm nhận những chuyển biến, dù là nhỏ nhất xung quanh mình, trong bản thân mình.
Rồi những bùi ngùi, hụt hẫng khi có những chuyện xưa. Một thời ta sống cùng nó, nay đã không còn như vậy nữa…
Đọc “Để làm gì” không phải để tìm thấy câu trả lời mà rốt cuộc chỉ để nhận ra mình cần sống tỉnh thức trong hiện tại, với những cảm xúc thực của mình: vui, buồn, thương, nhớ, thảng thốt, mến yêu… Biết để sống, biết để thương, với tấm lòng nhạy cảm, rưng rưng với mỗi sự thay đổi quanh mình.
Với những ai đã ở cái tuổi trải nghiệm nhiều, “bùi nhùi” đã sẵn, thì nên cẩn thận, bởi từng trang sách như từng hơi thở, sẽ sẵn sàng làm bùng lên những cảm xúc sâu thẳm nhất của con người: tình bạn, tình quê, tình đời, tình người… tình nhân gian…
***
Hôm qua, bèn mời hai người bạn già thân thiết gần 60 năm qua – mà người trẻ nhất nay đã 75, ra nhâm nhi cà-phê Đường Sách làm cái gọi là “ra mắt” Để Làm Gì vậy:
Từ trái: Đỗ Hồng Ngọc, Thân Trọng Minh, Lê Ký Thương (Đường Sách Saigon, 5.6.2020).
Mấy ngày trước đó, Lê Ký Thương cũng vừa in tập Dịu Ngọt Lời Quê, gom góp một số bài viết ngắn “dịu ngọt” của mình làm kỷ niệm. Khuất Đẩu còn in hẳn một tập hoành tráng: Tám Mươi Năm Soi Bóng Mình, trong khi Thân Trọng Minh tự ‘xuất bản” cuốn Lữ Kiều Thân Trọng Minh và Những người bạn, do Nguyễn Hiền Đức thực hiện… Lại nghe Nguyên Minh sắp in một tập 800 trang khổ 16 x 24cm! Thiệt vui.
Từ trái : Thân Trọng Minh, Lê Ký Thương, Khuất Đẩu, Nguyễn Lệ Uyên, Đỗ Hồng Ngọc…
Thì ra, mình chẳng đơn độc tí nào!
“Vui thôi mà”, Bùi Giáng nói vậy phải không?
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc.
(Saigon, ngày 06.6.2020)
Fan “Thầm Lặng”
My Ngoc Vota
Tôi đọc văn của BS Ðỗ Hồng ngọc lâu lắm rồi, sau đó thì subscribed từ internet để mỗi khi có bài mới, sẽ được đọc ngay
Tôi thích lối viết của BS DHN, như đọc những truyện của thời trước 1975, dạo sau này đọc văn theo lối viết mới, dùng các i ngắn thay Y, nghe thật khó nuốt!
Và cũng may mắn có được gần như hầu hết các sách của BS DHN, dù ở xa cũng ráng nhờ cô cháu hay bạn bè bên VN mua rồi ai sang Mỹ lại nhờ mang qua dùm.
Nghe cô bạn sắp về công tác ở VN, tôi “text” dặn nhờ mua dùm sách mới ra ” Về Thu Xếp Lại”, nếu tôi viết hoa đóng ngoặc đàng hoàng thì làm gì có chuyện nhầm lẫn!
Cô bé về VN, ra nhà sách mua dùm tôi, khi trở lại Mỹ, chụp hình cả chục cuốn sách, không có cuốn mới ra lò mà tôi nhờ, lại còn chụp hình bày sách ra cho tôi xem nữa chớ, cô nàng bảo :” em về bển, nhớ tên BS DHN nhưng không nhớ chị dặn tên sách gì nên em hốt hết, tôi mới lập lại tên cuốn sách mới, cô bé tỉnh queo: ” Em tưởng chị dặn em về thu xếp lại”!!!!!
Rồi xong!
Sau đó tôi phải nhờ cô Cháu chạy ra nhà sách mua, sẵn mang đến nhà xin chữ ký tác giả và chờ người qua Mỹ mang sang dùm, đấy có được cuốn sách thật nhiêu khê không các bạn?
Như đã nói, tôi thích lối văn của tác giả, thích luôn cả cách đặt các tựa đề của mỗi cuốn sách, thí dụ như “Gió Heo May Đã Về” đế chỉ cho cái tuổi Già đang đến mà theo ý tôi là tuổi Già “lù lù” đến viếng thăm mà đuổi không đi nhất định ở lại với mình, ha ha!!!
Cuốn sách mới nhất tôi có là “Về Thu Xếp Lại” khi Tác Giả bước vào tuổi 80
mà tôi đang nghiên cứu đây
Các bạn có thể vào trang nhà của BS Đỗ Hồng Ngọc tìm đọc nhé (nếu thích… như tôi).
Tính chấm dứt vài chục dòng suy nghĩ của tôi mà còn quên 1 chuyện, ngoài những Truyện viết, Tác Giả còn có những bài thơ hay mà ông Anh tôi đã phổ nhạc, nghe đi nghe lại không chán, à không phải mèo khen mèo dài đuôi đâu nghe bạn, nói thiệt đó 🙂
xin mời nghe:
Bông Hồng Cho Mẹ
youtu.be/CBk4jUw1IKs
Mới Hôm Qua Thôi
www.youtube.com/watch?v=I8CXZSy2Omg
Thư Cho Bé Sơ Sinh
www.youtube.com/watch?v=AFcTNEGe9n0
(Mỹ Ngoc Vota 7/1/19)
…………………………………………………………………………………………
Ghi chú: Bài này thấy trên Flickr, ghi An album by My Ngoc Vota. Và một người bạn xa xôi đã chuyển cho tôi. Xin cảm ơn My Ngoc Vota, cảm ơn DH.
“Vota” là “Võ Tá”. Mỹ Ngọc là em ruột của nhạc sĩ Võ Tá Hân đó bạn ạ, nên cô mới nói “không phải mèo khen mèo dài đuôi đâu nghe” khi khen nhạc của ông anh mình!
Lang thang cuối năm…
Nguyễn Quang Chơn
Cuối năm. Sắp Noel rồi. Trời cứ rả rích buồn. Thôi vác ba-lô đi đâu đó cho vui…. Tâm chọn Nha Trang và Đà Lạt. Nha Trang mưa lai rai, vẫn ồn ào với bọn khách tàu khách nga…, thôi thì đi Ninh Hòa thăm anh chị Khuất Đẩu – Huyền Chiêu, rồi đi Dốc Lết thăm người cháu kêu bằng cậu, nay đã là sư cô, sư bà, trụ trì một chùa to đùng ở đây!…
Tìm nhà “song kiếm hợp bích” Đẩu Chiêu là một kỳ công. Đã ghé anh chị một lần nhưng không còn lưu đường, lưu số. Vội nhắn tin, rồi phone cho anh Đỗ Hồng Ngọc hỏi thăm. Sư thầy cũng không nhớ, chỉ bảo gần một cây cầu. Thôi anh, “một cây cầu!” như một “thiền án”, làm sao em “ngộ” được, lỡ cứ đi tìm, gặp cây cầu sông Hàn thì chết! Rồi không biết ảnh lục đâu ra một số điện thoại bàn và email ngay thông tin (rất là 4.0)…. mà gọi hoài chẳng ai bắt máy. Thôi thì cứ đi….
Nửa đường, vận dụng trí nhớ, nhớ ra đường Trần Quý Cáp. Rồi nhớ lần lần đến số 181, không phải, hỏi dần. “Qui langue a, à Rome va”. Rồi cũng tìm đến đúng nhà. Ok, chắc chắn vĩnh viễn không bao giờ quên nữa!…
Anh chị đang ở nhà. Khỏe, vui. Anh Khuất Đẩu thần sắc tốt hơn nhiều so với lần gặp hai năm về trước. Hàn huyên một chút rồi cùng nhau đi Dốc Lết. Chùa của cô tên là Huệ Hà. Tên cũng đẹp mà chùa cũng đẹp. Cô thật giỏi, một mình vừa tìm ngân sách, vừa thiết kế, chỉ đạo thi công. Vừa đi chọn từng nghệ nhân, tạc tượng, đúc chuông, trong 3 năm đã xong chùa…
Đại hồng chung của chùa tiếng ngân diệu vợi. Âm thanh tuyệt vời. Vang xa và ngân dài, u u như tiếng sóng, gần hai phút mới ngưng. Đặc biệt, trên chuông có khắc đúc một bài ký của thầy Tuệ Sỹ, và trong chánh điện, cũng có hai dòng lạc khoản chữ Hán của thầy khắc trên hai câu đối trang trọng. Chúng tôi thắp hương đảnh lễ, tiếng chuông chùa ngân nga, nghe hồn mang mang, thanh thoát…
Cô mời một bữa cơm trưa. Đạm bạc mà ngon lạ lùng. Chén trà đậm, ly cà phê thơm. Một chiếc ghế ngả lưng. Anh Khuất Đẩu lim dim khói thuốc. Chị Huyền Chiêu nghe cô kể chuyện đạo tràng, chuyện xây chùa, cũng lắm nhiêu khê. Tu, cũng phải lắm thiện duyên và một tâm thức vững vàng…
A Di Đà Phật. Chúng tôi ra về trong quyến luyến. Anh chị Khuất Đẩu hẹn một ngày sẽ trở lại với chùa. Đưa anh chị vô nhà và chúng tôi trở lại cõi đời thường. Nhưng thấy tâm nhẹ hơn, lòng vui hơn. Nắng hửng lên một chút rồi lại nặng hạt mưa cuối mùa đông, se se lạnh…
Mai, tạm biệt Nha Trang, chúng tôi đi Đà Lạt. Xin cám ơn anh ĐHN, anh chị KĐ, HC và sư cô Minh Lạc!…
(NQC, Đà Nẵng)
Nhặt Nắng
Sau một đêm mưa, nắng trở mình, cảm ơn lắm nhé Nắng Bình Minh! Kìa ai nhặt nắng trong vườn đó / có thấy trong vườn bướm lượn quanh?
Có thấy lòng ai như cũng nắng, choàng vai em ấm được không em…Mình đi đi tới Bồng Lai nhé, chỗ nhạc thơ reo rất não nùng…
Là bởi đêm qua buồn quá buồn, nhạc từ thiên cổ nối mưa tuôn, thơ từ thiên cổ ngâm chưa mục…Sông suối vừa vang tiếng của nguồn!
Em nhặt nắng đi. Anh cũng nhặt. Hạt nào là ngọc của riêng em…Hạt nào là bụi mưa còn ướt / mình nhặt hong chờ nắng rực lên…
Mình sẽ đi về Thế Kỷ Mơ…Mình sẽ đi về Xưa Rất Xưa…Áo em gió động màu trăng nhạt / óng ánh tình yêu mỗi sợi tơ…
Và em bung lụa cho anh ngắm / cả dải giang sơn nắng dịu dàng…Một buổi bình minh vào kỷ niệm…ngàn năm ghi ở sách muôn trang!
Sau một đêm mưa, nắng trở mình, bàn tay em hứng cả âm thanh – tiếng con chim hót trên nhành liễu, tiếng của hoa vàng, của bướm xanh…
Nhặt nắng đi em, mình nhặt nắng! Bà ba mấy túi áo đầy chưa? Anh yêu Đất Nước mình chi lạ…mà một em thôi! Thật bất ngờ…
Trần Vấn Lệ
Thư gởi bạn xa xôi: Vài hình ảnh chuyến “Về Miền Tây” (tt)
Đỗ Hồng Ngọc
Đến Châu Đốc thì đã quá tối. Mình và Châu Văn Thuận, Lê Ký Thương ở chung một phòng khá tệ, đầy mùi thuốc lá… Hai bạn mình cũng nòi tình hay nhớ nhà, cứ lúc lúc lại ra ngồi chỗ vắng. Làm gì vậy? Nhớ nhà! Thì ra “nhớ nhà châm điếu thuốc”… mà còn chịu không nổi mùi thuốc lá trong phòng do khách trước để dành lại.
Dầu vậy, sáng sớm, mình và LKT ra ngồi cafe ngoài đường với nhà thơ Vũ Trọng Quang. Có một chiếc xe vua trờ đến. Thì đi.
Lụm cụm cả rồi! Vũ Trọng Quang trẻ nhất, tự xưng mình tuy là Vũ Trọng Quang mà “không quan trọng” đỡ giùm hai bạn già lên xe…
Xe vua dư sức chở 4 người, nên khi 3 anh em ổn định xong, người bạn đạp xe một vòng Châu Đốc… ra tận công viên, phố chợ… cho Quang mua được tờ báo sáng theo thói quen của chàng!
Nắng lên, buổi ăn sáng ở bờ sông Hậu êm ả, nước về mênh mông, cả đoàn ghé vào thắp nhang đền Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh rồi qua Châu Giang, thăm vùng người Chăm …
Trong lúc mọi người mua sắm quà lưu niệm thì mình tìm chụp vài hình ảnh đời sống, con người…
Châu Giang, Châu Đốc 18.10.2018 (photo: Do Hong Ngoc)
Đoàn bắt đầu đi thăm Trà Sư, rừng tràm nổi tiếng mùa nước nổi, trên đường đi Tịnh Biên.
“mệnh mông rừng tràm” (LNV), và lục bình cám cũng mênh mông không kém ở Trà Sư (photo Do Hong Ngoc).
Chiều tối đó, đoàn quay về Cần Thơ. Đã hẹn các bạn Cần Thơ lúc 17g mà đến 19g30 mới đến nơi! Đường xa vời vợi. Mưa mênh mông.
LKT bỗng lên cơn đau, xe dằn xóc chịu hổng nổi, lạnh toát, nôn mửa… làm mình và TTM một phen vất vả, đành phải ngủ lại Cần Thơ đêm đó, trong khi đoàn Quán Văn giao lưu với Hội văn nghệ Cần Thơ xong thì về thẳng Trà Vinh lúc nửa đêm. Sáng hôm sau nghe nói đoàn đã đi thăm Ao Bà Om, chùa Âng, chùa Hang.
Sau một đêm ‘thuốc thang” với sự trợ giúp của vợ chồng Bác sĩ Trần Văn Tốt – bạn cùng khóa với mình và TTM sống ở Cần Thơ – LKT ngủ thẳng một giấc sâu, sáng khỏe hẳn. Anh em lại ra bến Ninh Kiều chụp tấm hình kỷ niệm, nhắc chuyện xưa của chàng thiệt vui.
Bến Ninh Kiều sau cơn mưa đêm. Bên kia là Cồn Ấu. Trần Hoài Thư có nhớ gì không bạn ơi? Khi thương trái ấu cũng tròn…
Nhóm mình bắt kịp đoàn ở Trà Vinh rồi cùng về Bến Tre. Chương trình sẽ viếng mộ cụ Nguyễn Đình Chiểu, Phan Thanh Giản và Võ Trường Toản nhưng rốt cuộc chỉ thăm được mộ Nguyễn Đình Chiểu vì xe không vào được đường cấm tải trọng. Tuy vậy, TTM cũng hướng dẫn Ban Mai và Tịnh Thy, Thanh Hằng đi xe ôm vào tận nơi. Một kỷ niệm đáng nhớ ở Bến Tre là người học trò cũ của Ngọc Anh (vợ nhà văn Nguyên Cẩn) nay là một người “ăn nên làm ra” ở Bến Tre nhớ ơn thầy cô đã làm một bữa tiệc khoản đãi cả đoàn chu đáo. Lại có buổi giao lưu văn nghệ thân tình, ấm áp. Thời buổi này có một trường hợp học trò xưa còn nhớ ơn thầy cô cũng đã là quý hiếm, cảm động.
Rồi hôm sau, đoàn tham quan các khu thủ công làm kẹo dừa Bến Tre, nghe đàn ca Tài Tử rồi đi thuyền nhỏ trên rạch dừa nước để ra thuyền lớn, đưa mọi người đi thăm cả 4 cù lao Long, Lân, Quy, Phụng, chỗ của ông Đạo Dừa.
Trên đường về, qua cầu Rạch Miễu, ghé thăm nhà lưu niệm Sơn Nam.
Một chuyến đi đọng nhiều kỷ niệm đẹp. Anh chị em Quán Văn ngày càng hiểu nhau, thương quý nhau, gắn bó nhau hơn. Phải nói cảm ơn BTC, cảm ơn Mỹ Lệ, Nguyễn Đình An, Đoàn Văn Khánh cùng “già làng” Nguyên Minh đã tổ chức rất thành công.
Buổi sáng hôm sau (22.10.2018) mọi người chia tay nhau tại Đường Sách cũng là một kỷ niệm khó quên.
Với chúng tôi, những người bạn thiết của một thời Ý Thức, nay đều đã U80 cũng thấy mình trẻ lại qua chuyến đi này. Chỉ tiếc đoàn không ghé thăm nhà cũ vườn xưa của nhà văn Trang thế Hy.
Buổi chia tay bùi ngui ở Đường Sách Tp HCM sáng sớm ngày 22.10.2018 để rồi người về Huế, người về Đà Nẵng, Quy Nhơn… Hình như họ đều hẹn nhau tái ngộ một ngày nào đó không xa.
Đỗ Hồng Ngọc.
Thư gởi bạn xa xôi: Vài hình ảnh chuyến “về miền Tây”
Đỗ Hồng Ngọc
Buổi họp mặt bạn bè kỷ niệm Sinh nhật Quán Văn lên 7 (ngày 16.10.2018), đồng thời cũng là Sinh nhật của bán nguyệt san văn học nghệ thuật Ý Thức, ra đời cách đây 47 năm. Số Quán Văn 59 này giới thiệu một khuôn mặt văn học miền Tây là Trịnh Bửu Hoài ở Châu Đốc, vì thế ngày hôm sau, 17.10. 2018 bạn bè đã làm một chuyến Tây du, “về Long Xuyên Châu Đốc…” cùng Trịnh Bửu Hoài, không chỉ thăm bạn bè văn nghệ mà còn thăm vùng đất phương Nam mùa nước nổi xứ của Núi Sam, của rừng tràm Trà Sư, của Bà Chúa Xứ rồi còn ghé qua Cần Thơ, Trà Vinh, Bến Tre…
Không chỉ anh chị em Quán Văn mà còn có cả anh em Ý Thức, chuyến này chỉ có 5 bạn già có mặt, vắng những Lữ Quỳnh, Trần Hoài Thư… Dù sao thì cũng có Nguyên Minh, người chèo đò cho cả hai tờ báo văn nghệ này, có Thân Trọng Minh (Lữ Kiều), Đỗ Hồng Ngọc (Đỗ Nghê), Châu Văn Thuận, Lê Ký Thương, năm anh em của “mùa thu cũ”, của “gió heo may”…
từ trái: Châu Văn Thuận, Nguyên Minh, Đỗ Hồng Ngọc (Đỗ Nghê), Thân Trọng Minh (Lữ Kiều), Lê Ký Thương (cafe Vườn Hồng, Bến Tre 20.10.2018)
Chuyến đi khá đông, gần 50 người, toàn là những bạn bè và cộng tác viên thân thiết của Quán Văn, từ Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Phan Thiết, Vũng Tàu… và Saigon. Đa số là những người “bạn trẻ”, những cây viết sung sức, rất hòa đồng, dễ thương. Phải nói thêm có “lạc” một người từ phương xa là Nguyễn Minh Nữu, từ Mỹ về, rất vui nhộn, hoạt bát, một MC bất ngờ!
Ghé qua Sadec cho mọi người thăm nhà “Người Tình” Huỳnh Thủy Lê một chút. Mình và mấy người bạn tạt qua thăm Kiến An Cung, ngôi chùa cổ gần đó. Không có nhiều thì giờ nên không ghé thăm chùa Kim Huê và thăm nhà ông Tư Khánh, nhân vật gắn bó với “Bột Bích Chi” nổi tiếng một thời, vừa qua đời.
Qua phà Vàm Cống thì đã vào Long Xuyên. Tưởng kỳ này được đi cầu mới bắc ngang sông Hậu, nhưng nghe nói cầu đang sửa, đành chờ kẹt phà cả tiếng đồng hồ! Đến Long Xuyên rồi đây. Mới mấy năm mà xa lạ quá. Đường phố rộng rải, sầm uất, nhộn nhịp rồi. Mọi người ăn bún mắm đặc sản. Mình chỉ ăn cơm với cá linh rang mùa nước nổi… và dự định làm một chuyện riêng: thăm ngôi nhà cũ Nguyễn Hiến Lê. Cả đoàn chuẩn bị buổi giao lưu giữa anh chị em Quán Văn và bạn bè văn nghê An Giang Châu Đốc, còn nhóm mình tách riêng một lúc. Không ngờ mới nêu ý kiến đi thăm nhà cũ NHL với TTM, LKT, CVT (nhóm Ý Thức) thì đã được sự đồng tình của Hoàng Kim Oanh (Đại học Saigon); Nguyễn Thị Tịnh Thy (Đại học Sư phạm Huế); Ban Mai (Đại học Quy Nhơn) và cả nhà văn Hiếu Tân (Vũng Tàu), họa sĩ Thanh Hằng, và Pham Thành Hiền (An Giang)…
Đỗ Hồng Ngọc thắp nén nhang và đặt cuốn sách vừa tái bản “Nguyễn Hiến Lê, con người và tác phẩm” của một nhóm tác giả gồm Trần văn Chánh, Đỗ Hồng Ngọc, Lê Anh Dũng, Nguyễn Duy Chính, Nguyễn Chấn Hùng… lên bàn thờ ông.
Các bạn dành một phút tưởng niệm NHL. Các cô giáo Kim Oanh, Tịnh Thy, Ban Mai… đều nói từ tuổi thơ đã đọc, đã học nhiều từ NHL nên hôm nay như được đến thăm người thầy cũ của mình, với nếp sống giản đơn, thanh bạch, để lại đời nhiều bài học đáng quý trọng.(hình TTM).
Sau đó nhóm bạn kịp thời về dự buổi giao lưu tại một quán cafe sân vườn rất đẹp ở Long Xuyên. Cảm động vì các bạn trẻ trong Hội văn học nghệ thuật An Giang nói về người đàn anh, người thầy đi trước của mình: nhà văn Trịnh Bửu Hoài. Dịp này nhiều bài thơ, bài hát, vọng cổ đã được trình bày rất hay. Trong đoàn Quán Văn có Elena, người Ý, vợ nhà văn Trương Văn Dân tiếng Việt chưa rành mà điệu ca cổ nào cũng thuộc! Đáng khen TVD!
Kim Oanh nói đôi lời về việc vừa ghé thăm nhà cũ NHL. Phạm Thành Hiền cho biết ở Long Xuyên cũng đã có con đường mang tên Nguyễn Hiến Lê. (còn tiếp).
Giấc mơ
“Đố ai nằm ngủ không mơ, biết em nằm ngủ hay mơ, …, nửa đêm anh đến, đứng chờ ngoài hiên…” (PD). Đúng vậy, ai ngủ mà chẳng có mơ. Nhiều người bảo rằng, ngủ không mơ là ngủ sâu, ngủ khoẻ. Ngủ hay mơ là ngủ chập chờn, ngủ yếu!… Riêng tôi, bây giờ, tôi thích những cơn mơ trong giấc ngủ…
Hồi nhỏ tôi hay gặp ác mộng. Khi thì bị bóng đè thở không nỗi, nhìn thấy ba mẹ ngồi bên cạnh, nói cười đó, mà không kêu cứu được, sợ lắm! Khi thì thấy bị kẻ xấu rượt đuổi chạy thất kinh!… làm giấc ngủ chập chờn, sợ hãi…
Bây giờ thì ngược lại, trong giấc ngủ tôi hay thường thấy những người thân, những chuyện lành. Vì vậy, khi ngủ có mơ làm tôi vui và ngủ sâu. Có thức giấc nửa chừng cũng ngủ lại được ngay để chờ giấc mơ khác đến!…
Tuần trước tôi mơ thấy gặp mấy người anh tôi kính trọng, Bửu Ý, Đỗ Hồng Ngọc, Nguyễn Đức Sơn…Sáng ra nhớ lại giấc mơ, cũng một chút tâm linh, gọi anh Bửu Ý. Anh bắt máy với giọng sang sảng vui. Hỏi anh khoẻ không? Hỏi anh còn uống được không? Anh bảo khoẻ. Trưa ăn cơm uống một chai bia. Chiều một ly rượu vang. Tôi mừng và hẹn anh một hôm nào đó chạy ra Huế thăm và…nhậu…
Gọi anh Ngọc, anh bảo sức khoẻ tàm tạm. Lâu quá không gặp nhau. Anh vẫn nhớ Đà nẵng. Tôi bảo vậy sẽ mời anh ra Đà nẵng một chuyến chơi!…
Mời anh một chuyến chơi. Một ý nghĩ cũng hay bất chợt. Nhưng nghĩ cho cùng, một mình anh đi cũng buồn. Tôi gởi một text message, nói mời luôn mấy anh chị bạn khác như LKT, KQ, TTM, KĐ, HC…
Vài ngày sau thấy anh nhắn tin, mọi người hỏi lý do vì sao Chơn mời vậy, anh đã nói bừa, chắc kỷ niệm ngày cưới đó. Tôi trả lời anh, tại vì em thích. Muốn anh chị em mình cùng du hí một chuyến. Sau, anh nhắn tin xin lỗi, mọi người bận, không đi được! Vậy đó, ở cái tuổi này, dễ gì tụ họp, đi xa. Vả lại, những bậc thức giả, họ hay thắc mắc, cái gì cũng phải có nguyên nhân, giải thích không rõ ràng, thuyết phục, dễ gì họ chịu nghe, chịu làm!…
Gọi anh Sơn Núi không được, tôi làm một bài thơ nhỏ tặng anh đưa lên face book. Hai ngày sau nhận tin anh Võ Chân Cửu với bức hình mới nhất của anh Sơn. Kèm tin: “rất yếu, không đi lại được, chân phù, bác sĩ bảo “đi” bất cứ lúc nào. Ch. sắp xếp lên thăm, biết đâu lần cuối!…”
Vậy đó, những giấc mơ, có cái hay của nó!
Tôi thường hay mơ mình đi học. Lúc thì đến lớp muộn, lúc thì đang trong nội trú, lúc thì ngồi trong lớp thật đông, thầy giảng chẳng hiểu gì. Thức giấc, ngờ ngợ là những giảng đường Đại học Khoa học Sài gòn ngày xưa đông đúc, với bạn bè lạ hoắc…
Tôi cũng hay thấy mình đi học ngang qua một lạch nước, có cái nhà thờ nho nhỏ…. Mới nghiệm rằng, đó là con đường từ nhà đến trường tiểu học Tam Kỳ, nơi tôi đã đi mỗi ngày mưa nắng suốt năm năm…
Tôi cũng hay gặp “con người” trong giấc mơ. Cái kỳ lạ là tôi không hay gặp những người tôi thường chơi hằng ngày, mà gặp những người tôi không hề nghĩ đến, hay những kẻ mà chúng tôi đã tan đàn, xẻ nghé từ lâu, cả những người ganh ghét, thị phi với tôi trong cuộc sống. Nhưng trong giấc mơ, tôi gặp họ vui vẻ, hoà hợp, tự nhiên. Thức giấc tự nghĩ tại sao vậy? Có lẽ trong thực tế hiện hữu, vì cái này cái nọ, khoảng cách “người-người” bị đào sâu. Nhưng tận đáy lòng mình, tôi vẫn yêu thương họ, nên giấc mơ đưa họ đến với tôi cùng nỗi thiện lương!..
Giấc mơ đến rồi đi. Không đọng lại. Có khi sáng ngày cố nhớ nhưng không nhớ được, cũng như những áng mây trên trời. Thuở nhỏ tôi thường thích ngắm mây trời và tưởng tượng, hình dung đủ thứ. Nào ông Phật, nào bà Tiên, nào con cọp, con rồng, và thậm chí dệt nên những câu chuyện trên mây. Rồi mây bay, rồi tan biến…
Bây giờ đêm nào ngủ không có giấc mơ là tôi buồn. Vì bây giờ nhìn trời, nhìn mây, tôi không còn thấy câu chuyện cổ tích nữa, bởi ý thức tôi đã khác, đã dày dạn. Chỉ trong giấc mơ, tôi không làm chủ được ý thức của mình, mà cứ để cho lòng mình thả lỏng dệt giấc mơ, những giấc mơ hiền!…
NQC
20.8.18
……………………………………………………………………………………..
Thư Cao Kim Quy:
Thân gởi Chơn,
Nhân đọc bài viết này, cũng muốn trước hết cảm ơn nhã ý của Chơn định cho bọn này (Q/T) “ăn theo” anh Đỗ Hồng Ngọc mà…chưa thành!
Phàm người ham…”học” hay hỏi những câu như vì sao, như thế nào… anh Ngoc nhắn tin đột ngột quá nên mình cũng thắc mắc “nguyên nhân” bởi vì mình hiều chuyện gì cũng phai có nguyên nhân. Tuy nhiên mình không ngạc nhiên vì câu trả lời của Chơn “chẳng lý do gì, chỉ là….em thích!”
Bài viet của Chơn khiến mình hieu ngay. Ly do rất rõ ràng đó chứ! Đó là cảm giác có thể mất nhau bất cứ lúc nào, vậy sao không lập tức nghĩ ngay đến chuyện cận kề nhau khi có thể. Giây trước và giây sau mọi chuyện đã có thể vụt thay đổi, và ta chỉ có thể nắm lấy ngay giây phút hiện tại mà thôi! Có ai níu được quá khứ và có ai sở hữu được tương lai. Cái “em thich” của Chơn là một trải nghiệm trong tich tắc khi vừa rời giấc mơ đêm mà cũng là giọt nước tóe ra từ ly nước đầy sau cả một đời suy nghiệm. Mình hiểu và mình hoàn toàn đồng ý những kiểu “em thích” nghe tưởng như bốc đồng của tuổi… trẻ mà thiệt ra là của một con người trầm tĩnh thủng thẳng đi qua hết những buồn vui của đời người.
hãy mừng rằng mình có thể rủ được mà người khác không thể (chưa thể) đáp ứng lời rủ rê đó. Vậy là dù sao minh cũng đã may mắn hơn họ rồi.
Vì bọn mình vẫn còn là “người phàm” nên buồn buồn là đúng rồi, Chơn hỉ. chỉ có anh Ngoc quá siêu nên đã vượt qua được buồn vui đời thường. Bọn mình ráng học theo “thầy” 🙂
…………………………………………………………………………..
Thư Đỗ Hồng Ngọc gởi Nguyễn Quang Chơn,
Không phải một mình Cao Kim “thắc mắc” đâu! Cả TTM cũng “ngạc nhiên” nữa. Sao bỗng dưng NQC… nổi hứng mời cả bọn ra chơi Đà Nẵng một chuyến vậy nhỉ? Riêng anh Ngọc thì hiểu NQC quá nên không “suy tư” tí nào. Ở tuổi Chơn mà còn cao hứng vậy là mừng rồi! Thì ra là từ một Giấc mơ. “Giữa đêm thức dậy/ Ngồi ôm tóc dài/ Giật mình lau trắng trong tay” (TCS)…
Hơn ai hết, NQC trải nghiệm mấy phút bên bờ tử sinh khi kịp đặt cái stent dạo nọ rồi đó Cao Kim ạ. Anh Ngọc còn hơn thế, nên hiểu và thương Chơn nhiều. Chơn phone anh Ngọc, gọi Bửu Ý, gọi Sơn Núi… gọi quanh mình… khi vừa ra khỏi cơn mơ.
Rồi Chơn than… thở. Gặp nhau thôi mà đã khó, huống chi “vân tập” đường xa. Làm sao gọi được NXT, TYT, VHT… rồi Thu Vàng, rồi Khánh Minh, rồi Nguyệt Mai…?
Anh Ngọc mới bèn an ủi Chơn: Buồn chi… em ơi! Nó vậy là Nó vậy (Như thị!). Phải có “duyên” mới xong (nghe nói Duyên-Tùng sắp về đó nhe Chơn).
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên (Trần Nhân Tông) nhớ không?
ĐHN
(21.8.2018)
Từ trái: Đỗ Hồng Ngọc, Cao Kim Quy, Thân Trọng Minh, Lê Ký Thương, Phạm Văn Hạng
(Đường Sách 18.8.2018)
Thư gởi bạn xa xôi
Về chuyến đi Tây Nguyên
Gần mười ngày về đến nhà rồi mà mình vẫn còn chưa “nguôi ngoai” nỗi nhớ Tây Nguyên đó bạn ơi. Người bạn cùng đi chung đoàn, Nguyễn Thiên Công, dù nay đã về đến Đức quốc xa xôi buốt lạnh kia rồi nhưng chắc cũng còn ”thao thức” mãi, không thể ngủ được! Bạn biết không, mình đi đâu bây giờ cũng thành… niên trưởng. Già khú đế rồi. Nhưng đi chuyến Tây Nguyên này về thấy mình bỗng trẻ lại. Phải cảm ơn ông bà Thức-Lý, người ”tổ chức” mát tay, luôn căn dặn ”không được cảm ơn tụi tui nghe”. Thôi thì cảm ơn cháu Huệ, phụ tá của hai ông bà vậy.
Đoàn đăng ký đi 18 người, giờ chót… Nh và B phải ở lại vì Nh bệnh nặng bất ngờ. Chuyến đi này thiếu Bách-Vinh, Thủy-Cung… bù lại có Công-Châu, Cường-Hiền, Triệu Minh, Thu Việt, Thức, Hậu… và nhóm bạn mình Thân Trọng Minh-Thanh Hằng, Lê Ký Thuơng. Dĩ nhiên đoàn luôn có Phan Chánh Dưỡng rất dễ thương và uyên bác.
Bạn hỏi chuyến đi Tây Nguyên này có gì gây ấn tượng nhất cho mình ư? Nhiều đó. Ấn tượng nhất là MăngĐen, Hồ Lak, Bảo tàng văn hóa các dân tôc Tây Nguyên, Thác DrayNur và… Café Arul culture house.
Quốc lộ 14 bây giờ đẹp lắm rồi. Nhớ xưa, đi BMT đường sá vất vả cỡ nào! Xe mới đến Bình Phước, sóc Bam Bo thì đã có bạn hát ‘cắc cum cùm cum” rồi, tiếp đó là Bóng cây Kơnia… Ủa, ‘bóng ngã che ngực em/ về nhớ anh không ngủ’ là sao? Ai đó bèn giải đáp, có gì đâu, vì ‘anh’ cũng hay che ngực em hoài như vậy! Nhưng ‘bóng tròn che lưng mẹ/ về nhớ anh mẹ khóc’ là sao, thì có gì đâu, hồi nhỏ, mẹ vẫn cõng anh lên nương lên rẫy đó thôi.
Đến Đak Nông rồi!
Dọc đường, đã thấy rất nhiều khu thị tứ sầm uất. Ghé cafe võng. Mọi người nhắc Bách, Vinh, Nhân, Bình… và ‘bình luận’ sôi nổi còn hơn cả Kim Dung và Kim Thánh Thán!
Có con đường tránh Dak Lak, đi thẳng lên Pleiku (Gia Lai). Ai đó nhắc câu thơ Bút Tre: “Anh đi chiến dịch Plây/ Ku dài dằng dặc biết ngày nào ra?”… ôi thơ đầy sáng tạo!
Trên xe có Phan Chánh Dưỡng thì không sợ đường dài. Anh kể cho nghe những thời kỳ khó khăn, những bài học kinh nghiệm thật sống động phong phú. Lại có nhà báo Nguyễn Trọng Chức, đẹp trai, thông thái, có bộ râu mới tỉa tót, hãy còn trẻ măng, chưa tới 70. Có Vũ Thế Cường, nhiếp ảnh gia, hào hoa phong nhã; lại có nhà khảo cổ học Nguyễn Thị Hậu xinh đẹp, sắc sảo, biết chuyện ngàn năm trước ngàn năm sau… Cô bảo hồi nhỏ đi học, bạn trai cứ ghẹo: Hậu ơi, Trẫm nè. Hậu hỏi Trẫm nào thế? Sao nhiều Trẫm quá vậy?
Còn Triệu Minh là một bạn trẻ có nụ cười thật xinh, ở Đức về, giống hệt Triệu Minh trong Cô gái Đồ Long, người mà NTB có lời gởi gấm cho cả đoàn; Thu Việt cây ngâm thơ thứ thiệt, hóa ra là ”em kết nghĩa” của Thái Kim Lan.(Xin nói rõ, với mình, gần 80 tuổi đầu, thì những ai 60-70 đều là trẻ măng cả!). Trên xe, các bạn ca hát, ngâm thơ, kể chuyện tếu nên chẳng thấy đường xa chi mấy!
Xe đi một mạch đến Kontum. Nhớ năm nào ghé thăm nhà văn Trần Duy Phiên. Nay anh đã về ở luôn Saigon. Buổi sáng, nhìn dòng sông Dak Bla mùa nước cạn, lững lờ trôi. Có quán café Gió và Nước bên cạnh. Đẹp. Café ngon. Thứ thiệt. Tuy nhiên, mình vẫn thích Gió và Nước ở Bình Dương hơn. Nó thiên nhiên hơn, gần gũi hơn, thanh thoát hơn.
Sớm mai, lên đường đi Măng Đen, cách Kontum 50km, ở độ cao 1200m. Ở đây là vùng 3 biên giới mà một con gà gáy thì 3 nước Việt-Lào-Kamp đều nghe. MangDen nay là khu du lịch sinh thái, rừng thông bạt ngàn, hoa sim tím rực, khí hậu tuyệt vời. Thác Pa Sỹ, có 186 bậc xuống. Nhóm trẻ (<70) thì đi, nhóm U80 thì ngồi nghe thác đổ… sau hè và café với núi rừng. À không, khám phá vườn tượng Măng Đen. Tuyệt vời. Những đất nước gió lửa. Những sinh trụ dị diệt… Phải nói thêm, cung đường đèo đi Mang Den quả thật tuyệt vời!
Rồi đoàn ghé thăm chùa Khánh Lâm. Mình gặp thầy Nhuận Bảo trò chuyện cũng vui.
Buổi trưa về lại Kontum, thăm nhà Rông và Nhà thờ gỗ 100 năm nổi tiếng nơi này. Nhóm mình ghé thăm Viện mồ côi sau nhà thờ gỗ. Viện đang nuôi 200 em từ 2 tháng đến tuổi thành niên.
Đoàn ghé thăm Nhà Rong bên chiếc cầu treo bắt qua sông Dak Bla rất đẹp. “Cả nhà” cùng chụp chung tấm hình kỷ niệm (thiếu TTThức và cháu Huệ).
Tối về lại Pleiku nghỉ đêm. Ghé tham quan Biển Hồ. Mình rất muốn thăm thầy Giác Tâm chùa Bửu Minh nhưng không còn thì giờ. Nhớ hôm nào thầy Giác Tâm về Saigon gặp mình, mang cho rất nhiều cafe. Thầy có blog đăng khá nhiều bài viết của ĐHN!
Sáng sớm hôm sau, khởi hành về Dak Lak (BMT).
Dak Lak bây giờ khác xưa nhiều. Hôm đoàn đi Buôn Đôn thì nhóm nhỏ mình ở lại vì đã biết Buôn Đôn. Mình và LKT ghé thăm Bảo Tàng văn hóa các dân tộc tỉnh Đắk Lắk nằm ngay trong khuôn viên Biệt điện Bảo Đại.
Bảo tàng nằm trong một dự án do Pháp hỗ trợ kỹ thuật nên khá bắt mắt và hoạt động rất tốt. Nhiều đoàn học sinh được nhà trường đưa đến tham quan, học tập.
Nhờ một người bạn giới thiệu cho một quán cafe ”đặc sệt Tây Nguyên”, không phải kiểu Saigon máy lạnh, nhạc ầm ỉ… Và người bạn dẫn tới Arul! Thôi đúng rồi. Buổi trò chuyện với Len chủ quán thật tuyệt vời. Không chỉ xinh đẹp, cô còn có cá tánh mạnh mẽ, đáng phục. Cô giải bày cách nào đã thoát ra khỏi những hủ tục, đã sưu tập tất cả những thứ ‘’mọi người vứt đi’’ để có một quán không chỉ bán cafe mà là một địa điểm văn hóa thực sự. Cô cho biết đã trải qua nhiều năm bị trầm cảm nặng và rồi cương quyết chọn lấy cho mình một con đường đi riêng, chỉ làm theo sở thích mình, thực hiện ý chí mình. Cô bảo làm việc thì có hai mục tiêu: một là mưu sinh và hai là hạnh phúc. Cô chọn hạnh phúc. Nên công việc dù vất vả đến đâu cô vẫn rất vui. Cô ngạc nhiên thấy nhiều người làm việc với nỗi khổ đau. Khi nói về người cha đã mất, cô nói gọn: “bạn về trước, bạn về sau thế thôi’’. Cô dạy con cũng một cách mạnh mẽ như thế, coi con là bạn, xưng hô với con là cậu với tớ, bình đẳng, không bao giờ coi điểm học tập của con mà chỉ hỏi con học môn này có thích không, khuyến khích tinh thần tự học, tự khám phá… Mình còn trở lại Arul hôm sau cùng nhà báo NTC, nhà khảo cổ NTH, Minh, Hằng. Len dành thì giờ cho nhóm mình, trò chuyện thật vui. Bên ngoài, có chút mưa đầu mùa
Tây Nguyên.
NTH có vẻ phục lắm. Nói cách Len sống, làm việc, dạy con rất phù hợp thời đại mới. Thanh Hằng, cô họa sĩ cũng nói mình mến phục cách sống, cách dạy con của Len.
Buổi tối, ‘’cả nhà’’ tụ tập ở phòng Thức-Lý, để nghe các ‘’diễn giả’’ nói chuyện (giống như lần trước đi với Bách nghe Bách nói về Phật pháp). Mình ”già làng” cho nói trước. Rồi đến NTH, sau cùng mới tới hành giả PCD. Thời gian ít nên mình đọc đôi bài thơ cho cả nhà nghe. May có mang theo 3 cuốn Thơ Ngắn Đỗ Nghê tặng cho Công, Thu Việt, Triệu Minh… những người yêu thơ. NTHậu nói về các vấn đề Khảo cổ và PCD nói về Triết lý Giáo dục. Rất hay.
Hôm sau, sau buổi cafe Trung Nguyên, xe đưa đoàn đi Hồ Lak, cách BMT 60km, về hướng Dalat.
Hồ Lak là hồ nước ngọt lớn thứ hai ở Việt Nam (sau Hồ Ba Bể), bao bọc bởi khu rừng nguyên sinh và núi non trùng điệp. Hồ Lak nối với sông Krông Ana, rộng 6km2, ở độ cao 500m, một điểm du lịch tuyệt vời của BMT. Mình đến BMT mấy lần mà chưa có dịp đi Hồ Lak nên lần này háo hức.
Chỉ có 4 người trong nhóm ‘’bạn trẻ’’ dám cưỡi voi… xông nước. Mình chỉ đứng nhìn. Tính chèo thuyền độc mộc chơi mà nắng gắt quá.
Rồi về ghé chùa Khải Đoan.
Chùa Sắc tứ Khải Đoan là ngôi chùa lớn nhất BMT, có tên gọi Khải Đoan là do ghép từ tên vua Khải Định và Đoan Huy hoàng thái hậu. Chùa vừa được xây dựng lại hoành tráng, có phần hào nhoáng nhưng thiếu đi chút trầm mặc ”hương xưa”, trừ tượng Phật dưới cội Bồ đề. Khải Đoan là ngôi chùa, nơi Đại đức Narada, năm 1962 đã hiến tặng Xá Lợi Phật, cùng với chùa Xá Lợi ở Saigon.
Trên đường về Saigon, đoàn ghé tham quan thác Dray Nur cách quốc lộ không xa. Mình chưa đến Dray Nur lần nào. Trước đây chỉ ghé Trinh Nữ, Dray Sap. Thác Dray Nur rất đẹp, cao 30m và rộng hơn 200m. Dray Nur có nghĩa là thác cái hay thác vợ. Hèn chi mà nó “yểu điệu thục nữ” chi lạ! .
Về đến Bình Dương còn có bữa cháo tạm biệt.
Hẹn thư sau,
Đỗ Hồng Ngọc.
Dĩ nhiên là có. Phải thơ thẩn cho vui chớ phải không. Mình hay làm thơ kiểu ”trời ơi” như vậy mà. “Tháng” Sinh nhật này của mình, ngoài những buổi cà phê, cà pháo trò chuyện ”tào lao” với bạn bè, mình cũng có cao hứng viết một… bài thơ dài… vài câu! Chia sẻ liền với bạn… xa xôi chứ. Chẳng ngờ được đáp ứng mau lẹ, gọi là ”cảm tác” gì đó. Cũng vui quá. Đọc nhé.
Sinh nhật
anh không có ngày sinh nhật
nên mỗi ngày
là sinh nhật của anh
cảm ơn em
nhớ đến anh
ngày sinh nhật!
Đỗ Nghê
Ngay tức khắc có một bài cảm tác của Nguyệt Mai:
Mỗi ngày mỗi mới
(Kính tặng anh DHN)
Nếu mỗi ngày
đều là sinh nhật của anh
thì niềm vui không bao giờ tắt
để em bắt gặp
mỗi ngày
mỗi điều mới nơi anh
vẫn là anh
rất mới
nguyệt mai
Rồi một bài của duyên:
mừng “sinh nhật”
mỗi ngày tôi chọn một niềm vui (*)
nên anh chọn mỗi ngày là “sinh nhật”.
nhớ anh ngày sinh nhật
là nhớ anh cả đời…
duyên
……………………………………………………..
(*) TCS
Và khánh minh viết mấy dòng lúc còn đang dưỡng bệnh:
Niềm vui
(Mừng sinh nhật anh Ngọc)
Vì mỗi ngày anh chia sẻ
Quà vui cho mọi người
Nên mỗi ngày đều là
Sinh nhật của anh
Nên mỗi ngày
Ai cũng nhớ
Sinh nhật của niềm vui…
khánh minh
Không ngờ lại có một bài đầy thiền vị của Vũ Hoàng Thư:
sinh nhật
gửi bác sĩ ĐHN
anh vốn
không
có ngày sinh?
tự vòng tròn
một chỗ thình lình ra
tìm điểm mốc
em khéo đùa
sinh là khởi
cơn gió lùa về không
Vũ Hoàng Thư
Dĩ nhiên không thể thiếu thơ… thấm thía của ”bạn già” (vieux ami) TVL:
Mừng Tháng “Sinh nhật” bạn mình
Bạn sinh vào tháng Tám mà…chẳng có Ngày Sinh. Hồi đó, hồi chiến tranh, làm khai sinh…khai vậy!
Cho nên bạn nói đúng: Mình Chỉ Có Tháng Sinh! Tháng hay ngày, long lanh của đôi vầng Nhật Nguyệt…
Dòng thời gian mải miết, coi như chẳng có ngày, chẳng có phút, có giây, chẳng có gì bận trí!
(…)
Hôm nay, cuối tháng Tám, gửi bạn một lời Mừng. Tôi không thể dửng dưng…vì tôi yêu quý Bạn!
Trần Vấn Lệ
Nhóm bạn cũ Trung tâm Truyền thông & Giáo dục sức khỏe (T4G)… đang xẻ bánh…
Từ trái: Hòa Bình, Thục Đoan, Kim Phượng, Hoàng, Huệ Trinh, và Bích Thủy (chụp hình)
Chuyến về Lai Vung
Nói đến Lai Vung người ta nghĩ ngay đến Nem! Dĩ nhiên rồi. Nhưng Lai Vung còn có quýt. Quýt hồng nổi tiếng. Đặc biệt vào mùa Tết. Mùa này chưa Tết nhưng chỉ cần coi cái vườn quýt xanh ngút ngàn đủ sướng. Rồi tự hứa trong lòng: Mùa Tết lại về Lai Vung…
Lần này đi là đi theo Thân Trọng Minh, người bạn đồng môn từ hơn nửa thế kỷ trước. Anh nói mình đến Sadec, về Lai Vung, rồi đi sâu vào xã Long Hậu thì có anh chị bạn rất thân là Nguyễn Đồng Quan và vợ là Hồ Thị Bạch Nhạn đón tiếp… Anh là một thầy giáo, gốc Lai Vung còn chị không ai xa lạ, là chị của Hồ Thanh Ngạn, người bạn văn chung của chúng tôi đã mất, gốc Huế. Lần này Ngọc sẽ là ”khách quý” của anh chị Quan – Nhạn đó nhé. Minh căn dặn. Sẽ ở khách sạn ngàn sao, đi thuyền trên rạch và được ăn đủ thứ đặc sản miệt vườn. Nghe mê quá. Chuyến đi ngoài Minh/Hằng còn có cặp Lê Ký Thương/Kim Quy, những người bạn thân thiết của ”gánh hát” mình. Thu Vàng đang ở Đà Nẵng nghe tiếc hùi hụi. Các bạn Duyên/Tùng, Nguyệt Mai, Khánh MInh… thì đặt hàng, bận gì thì bận, phải viết ngay Thư gởi bạn xa xôi đó nha.
Sadec thì mình đi lại đã nhiều lần. Cũng có đi ngang Lai Vung, nhưng chỉ dừng mua Nem chớ chưa lần nào vào sâu trong vườn quýt. Ngoài ”phần cứng” do TTM ”thiết kế”, mình đóng góp thêm “phần mềm” cho chuyến đi, cà rịch cà tang, ghé nơi này nơi khác theo…truyền thống giang hồ vặt. Đầu tiên đề nghị các bạn ghé Mỹ Tho, ra tận bờ sông Tiền (Mekong) ăn hủ tiếu Mỹ Tho có tiếng từ xưa. Nhớ Trang Thế Hy, xưa ở bên kia cầu Rạch Miễu, từng có một truyện ngắn đặc sắc : Mỹ Thơ!
Sau đó đề nghị các bạn ghé thăm khu Di tích Rạch Gầm – Xoài Mút, nơi Quang Trung đại phá quân Xiêm! Các bạn lâu nay chỉ đi quốc lộ 1, chưa từng ghé nơi này. Ai cũng ngạc nhiên sao có một khu Di tích hùng vĩ mà thanh nhã đến thế, lại ít người biết. Chụp vài tấm hình lưu niệm.
Sau khi tham quan khu Di tích, đoàn tiếp tục đi dọc tả ngạn sông Tiền về phương Nam, giữa những khu vườn cây trái xum xuê của Vĩnh Kim, hướng về Cai Lậy, Cái Bè.
Dọc đường nhiều quán xá đơn sơ bày bán trái cây các loại. Mùa này chưa có vú sữa, xoài, măng cụt… nhưng nhiều sa-pô-chê, sầu riêng cũng rất ngon.
Rời Mỹ Tho, đoàn đi qua cầu Mỹ Thuận. Mọi người nhắc thuở đi phà. Sao quên được! “Em đi mau kẽo trễ chuyến phà đêm…”
Qua cầu Mỹ Thuận quẹo phải thì về Sadec. Đi ngang qua Nha Mân, vùng nổi tiếng nhiều gái đẹp. Mà theo truyền thuyết thì vua Gia Long lúc còn bôn ba vùng này đã ”bỏ” lại nhiều mỹ nữ (lúc đó chưa gọi là phi tần!).
Xe chạy ngang Nha Mân, mình hỏi, ủa sao chẳng thấy cô nào đẹp hết trơn vậy? Mấy người đẹp ở trong vườn chớ ai đứng đây cho ông thấy!
Từ thành phố Sadec về Lai Vung khoảng hơn mười cây số, từ đó đi sâu vào xã Long Hậu, ngang chợ Long Thành, dọc theo những dòng kênh chẳng chịt. Vùng này Long nhiều quá. Địa danh toàn Long. Thì ra nói vua Gia Long từng bôn ba ở đây khá lâu, cho nên vùng này bây giờ con gái cũng rất đẹp! Xe quanh co qua mấy cây cầu ngang nhỏ xíu. Lỡ xe lên cầu mà bên kia cũng có xe đang lên thì chịu, phải lùi xuống chờ, không khéo lọt tõm xuống dòng kênh. Con kênh chính ở Long Hậu đây rồi. Kênh Cán Cờ. Sao lại cán cờ? Anh Quan cho biết, theo Sơn Nam (?) thì lúc chạy đến đây, vua Gia Long bị gãy cán cờ, phải thay cán mới.
Xe phải đậu ở nhà cô Út 12. Căn nhà rộng, có dàn hoa vàng tuyệt đẹp. Hai ông bà có con là bác sĩ, rể bác sĩ nhưng quan trọng nhất là một vườn quýt mênh mông sau nhà!
Buổi cơm trưa… linh đình đã được dọn sẵn. Ôi thôi, ê hề! Mình còn đang “Gút” nên có kiêng dè một chút. Chị Nhạn nói tôi có dự buổi nói chuyện của anh Đến để mà thấy tại chùa Hoằng Pháp ở Hốc Môn năm 2013 đó nhé. Thì ra thế. Tứ hải giai huynh đệ là vậy. Chị nay đã 75, đi chùa, tụng kinh, niệm Phật chăm chỉ. Anh tuổi thìn, 78 (tuổi Ta) bằng với mình. Con cháu đề huề. TTM bảo chị Nhạn… là một trong những người đẹp nhất ở Huế thời đó. Bọn Minh có Hồ Thanh Ngạn, Phan Ngô (Lữ Quỳnh), Châu Văn Thuận, Nguyễn Mậu Hưng… thường đến rủ chị đi uống bia! Thì ra, chị đi theo để trả tiền bia cho các cậu! Chị kể anh chị người Huế người Sadec có duyên tiền định thế nào mà lại gặp nhau ở Saigon trên một chuyến xe buýt! Ở đây người ta gọi chị là Cô hai Sadec!
Cơm nước xong, anh hai Quan đưa bọn này ra thăm ”tịnh cốc” của anh ở sau vườn. Tịnh cốc nằm trên một cái ao anh gọi là ao “Dao Trì”. Cốc chủ trang trọng giới thiệu tịnh cốc của mình. Trời ơi, có cả một tủ sách! Đủ thứ. Cả kiếm hiệp, cả văn thơ, cả Phật học, cả Hồng lâu mộng…!
Bất ngờ cốc chủ với tay lấy một cuốn sách đưa cho mình xem. Ối trời, cuốn Gươm Báu Trao Tay của Đỗ Hồng Ngọc. Bất ngờ ở chỗ trên bìa sách, ai đó đã cắt cái hình mình trên báo dán vào. Hình trên báo Tuổi Trẻ năm đó, trả lời phỏng vấn, mình nói tôi học bác sĩ vì ”ghiền mùi nhà thương”!
Một trận mưa như trút nước. May quá. Tạnh sớm. Thân Trọng Minh đã đặt hàng từ trước: một chiếc thuyền sẽ đến chở mọi người đi dạo trên kênh Cán Cờ ra đến sông Hậu (Mékong). Mưa còn lâm râm. Lạnh. Có áp thấp nhiệt đới sắp thành bão. Mọi người xuống thuyền nhưng mình không đi. Nhớ năm xưa đi thuyền trên sông Hương, nửa chừng thuyền lủng lổ, nước vào ào ào. May ghé kịp vào gần bờ phía Kim Long. Lội lóp ngóp. Lần đó có Thái Kim Lan, Tôn Nữ Hỷ Khương, Tường Vân, Như Mai, Như Ngân, Lê Gia Phàm… Ôi, nhớ đời. Mình ở nhà, đi loanh quanh ”thăm dân cho biết sự tình”… Rồi thuyền cũng chỉ đi một quãng, ra đến sông Hậu, sóng to gió lớn bèn phải quay về ngay!
Bữa cháo gà chiều cũng rất ngon. Có Tâm, con trai lớn anh hai Quan cùng dự, cụng ly liên tục với cậu Minh. Trước đó, ba ông bạn mình nói ”nhớ nhà” quá, bèn xách ghế ra sân… hút thuốc! Thì ra ”nhớ nhà châm điếu thuốc”… là vậy!
Tối, anh Quân chủ nhà thu xếp cho mình cùng TTM ra ngủ ngoài cốc với anh, khách sạn ngàn sao như TTM giới thiệu, nhưng một lần nữa mình từ chối, xin được ngủ một mình trên cái divan! Lý do: sợ ”ếch kêu” um sùm! (*). Ao Dao Trì dĩ nhiên là có cá quẫy, ếch kêu ỏm tỏi thiệt, nhưng không phải vậy. Chỉ có LKT biết chuyện, tủm tỉm cười một mình.
Sáng sớm, cà phê cà pháo xong, đi dạo vườn một vòng. Ôi bao nhiêu là cây trái!
Đã đến giờ phải lên đường vì còn ghé thăm mấy nơi ở Sadec.
Chủ khách tạm biệt và hẹn ngày tái ngộ. Lần tới, hy vọng có cả ”gánh hát” cùng đi.
Về Sadec, ghé qua chùa Kim Huê, nơi cách đây vài năm, mình đã có dịp đến Trò chuyện cùng quý vị Phật tử. Các thầy gặp lại rất vui. Thầy Thiện Ân, 91 tuổi còn khỏe lắm. Thầy Thiện Lâm trụ trì và thầy Nguyên Thiện đang du học Mã Lai cũng vừa về nghỉ hè. Đang có lớp tu tập ngắn ngày cho học sinh, các thầy mời đoàn ghé thăm và đề nghị phát biểu mấy câu khuyến khích các em tu học!
Trên đường về tạt qua Vĩnh Long. Mưa lại ào ào. Ghé Xẻo Mây ở Cái Bè cà phê mà không có, chỉ có món… nhậu! Đây là một điểm khá đẹp. Nhiều du khách từ bên Vĩnh Long băng thuyền qua sông Tiền ghé chơi.
Đầu óc mình ngày càng tệ, không nhớ chính xác địa điểm bắt xe phải chạy vòng vòng. Tệ nhất là tên gọi Xẻo Mây cũng không nhớ, chỉ nhớ cái gì Xẻo, Xẻo… Ở vùng này, ”xẻo” là chỗ sông ăn sâu vào trong đất liền thành một cái vũng (mà ở ngoài bờ biển thì gọi là vịnh?). Cái Bè có Xẻo Mây, Đồng Tháp có Xẻo Quít…
Bạn thấy đó. Lúc này mình làm biếng viết thấy rõ.
Hẹn thư sau vậy nhé.
Đỗ Hồng Ngọc.
……………………………………………………………………………………………………………………………..
(*) Ở vùng mình, không biết tự bao giờ có câu chuyện kể: Đứa cháu nghe ông mình ”đánh rắm” một tiếng rõ to giật mình hỏi – Cái gì vậy ông? – Ếch kêu! – Ếch kêu sao thúi? Ông lúng túng: – Ếch chết – Ếch chết sao kêu? Ông càng lúng túng: – Hai con!…
Chuyện vậy. Nhảm nhí. Không nên đọc.
Đó là câu thơ của Hoàng Xuân Sơn (HXS). Tôi đọc được trong thơ Quỳnh. Tập thơ mới mà rất cũ của anh.
“Trong trùng trùng duyên khởi cuộc nhân sinh, những hạt mầm vay mượn có hạt chắc và lép…”. HXS viết. Chắc gì đã chắc. Chắc gì đã lép. Tôi nghĩ. Thơ là tấc lòng. Thốn tâm thiên cổ.
Rồi anh nhắc người bạn Phạm Nhuận: Có hề chi vàng một chút rong rêu.
Phải có hề chi. Vàng, tái, hay xanh thì ‘’cũng đã chín tới’’ (HXS).
Bỗng nhớ Trịnh: Nhìn lại mình đời đã xanh rêu…
mày râu nam tử sao bàng nhược?
sậy yếu lau mềm có thế thôi!
già trơ một chỏm đầu mốc thếch
tóc bạc kể hoài mây vẫn trôi
“bạch vân thiên tải không du du” là vậy. Nó cứ trôi và chẳng cần biết đã vẽ nên những gì trên khoảng không mênh mông kia.
có. không. ừ nhỉ hơi đâu luận
phù vân rồi cũng trắng ngang đầu
Có lần tôi gởi một bài thơ Đường luật cho Ni sư Trí Hải với hai câu mở:
“có có không không có có không?/ không không có có có không không?”. Và Ni sư họa ngay tức khắc: “có cũng không mà không cũng không…”
May thay HXS cũng vừa tìm thấy:
một buổi mai tịnh độ
vân yên hà đương say
mộng đời không ai giữ
thức dưới tạng hoa gầy
Phải rồi. thức dưới tạng hoa gầy chính là trở về với Như Lai rồi đó. Như Quách Thoại sụp lạy cúi đầu khi nghe cái bông bụp hiền lành trước cửa hàng ngày bỗng cất lên tiếng hát…
Khi nghe được “cát bụi mệt nhoài’’ cũng là lúc thấy biết ‘’cát bụi tuyệt vời’’ (TCS) ra sao.
hạt bụi bay qua nóc nhà thờ
núp vào thánh giá nép vào thơ
trời cao xanh quá lòng vô nhiễm
một phút an nhiên thổi tới bờ
thổi tới bờ là ‘’đáo bỉ ngạn’’. Yết đế yết đế… rồi đó vậy.
Trong “Thả lỏng toàn thân thả lỏng chưa?’’ trên www.dohongngoc.com/web/ tôi viết: “(…) hạt bụi lang thang/ dính vào hơi thở/ duyên sinh vô ngã/ ngũ uẩn giai không/ từ đó thong dong/ thõng tay vào chợ” (ĐHN). trời cao xanh quá lòng vô nhiễm/ một phút an nhiên thổi tới bờ thì thõng tay vào chợ được rồi phải không?
Trong bài mười năm, thơ , HXS đề từ ‘’kỷ niệm 10 năm thế vì an sinh’’ khiến tôi ngạc nhiên. Thế vì an sinh ư? Chỉ “thế vì” thôi ư? Có lẽ người thơ đã mỏi mắt đi tìm,
lúc mở lòng ra hứng một mình
bên trời thu tịnh nở huyền kinh
là lúc chín cả mầu oan trái
mười năm. thơ ở lẫn cùng tình
thơ đau nào phải người mông muội
ngôn cú bày ra một cuộc sầu
khí hào dễ có bùng lên. chốc
khuấy bọt bèo tan sóng rượu trào
để rồi thấy “thơ ở đâu xa” kia thôi! Vậy là đã đủ cho thơ Quỳnh. Tôi nghĩ.
Và bỗng muốn nói nhỏ với nhà thơ:
đừng mở miệng. đừng. tơ trời đương xuống
rụng trên đồi và tiếng hát bao la
đừng vội vã hôn sâu vào mật đắng
hồn lưu cư còn thuở trái cây nhà
Nhưng nỗi đau hình như vẫn còn đó. Khôn nguôi.
lũ lượt người về như ong vỡ
một ngày tan biến giữa thinh không
đạp xe trong quãng bình yên ấy
chợt thấy lòng vui một chút buồn
Chợt thấy lòng vui một chút buồn! Phải rồi đó. ‘’một chút buồn’’ để thấy một trời vui. Bởi vui, ấy là nỗi buồn của “yên ba giang thượng sử nhân sầu”!
Cũng làm nhớ Trịnh “Ta mang cho em một chút buồn’’
Chỉ để rồi: “Trong vườn trăng/ Vừa khép những đóa mong manh ” (TCS)…
Khép, cũng chính là mở thôi vậy!
Đỗ Hồng Ngọc.
(Saigon 6.7.2017)
…………………………………………………………………………
· Italic: thơ Quỳnh, Hoàng Xuân Sơn, 2017