Nguyễn Thị Tịnh Thy: BÙI GIÁNG – HƠN MỘT ĐỜI THƠ
Nguyễn Thị Tịnh Thy:
Giai phẩm THƯ QUÁN BẢN THẢO: Những Nhà Văn Nhà Thơ Sống và Viết ở Phan Thiết, Bình Thuận
Giai phẩm THƯ QUÁN BẢN THẢO
Những Nhà Văn Nhà Thơ Sống và Viết
ở Phan Thiết, Bình Thuận
Sưu tập & biên soạn: Phạm Văn Nhàn
Kỹ thuật, trình bày: Trần Hoài Thư
Sửa lỗi: Ngọc Bút
Sách dày 352 trang
Thư Ấn Quán xuất bản 2022
Địa chỉ liên lạc: tranhoaithu16@gmail.com
Danh sách:
1) Vũ Anh Khanh 2) Bích Khê 3) Nguiễn Ngu Í 4) Hoài Khanh 5) Huyền Chi
6) Đỗ Nghê (Đỗ Hồng Ngọc) 7) Phạm Văn Nhàn 8) Từ Thế Mộng 9) Nguyễn Lệ Tuân
10) Huỳnh Hữu Võ 11) Tô Duy Thạch 12) Nguyễn Thị Minh Ngọc 13) Phạm Cao Hoàng
14) Nguyễn Thị Liên Tâm 15) Lê Nguyên Ngữ 16) Y Uyên 17) Nguyễn Như Mây
18) Nguyễn Dương Quang 19) Nguyễn Bắc Sơn 20) Lê Trọng Nghĩa (Đinh Quý Nhưỡng)
21) Nguyễn Nghiệp Nhượng 22) Phan Bá Thụy Dương 23) Trần Vấn Lệ
24) Chu Trầm Nguyên Minh 25) Cái Trọng Ty 26) Thiếu Khanh
27) Trần Văn Sơn 28) Đoàn Thạch Biền 29) Đài Nguyên Vu (Tôn Thất Trâm)
Chân thành cảm ơn anh Trần Hoài Thư và trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Nguồn: https://tranthinguyetmai.wordpress.com/page/3/
Mùa Vu Lan: “Bông Hồng Cho Mẹ & Những cảm nhận học Phật”
“Bông Hồng Cho Mẹ & Những cảm nhận học Phật”
Đỗ Hồng Ngọc
Duyên khởi
Cơ duyên đưa đẩy, tôi được gặp rồi quen thân với Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc hơn chục năm nay. Khi Tạp chí Phật học Từ Quang tục bản (số 1, 2012), đến nay tròn 10 năm, số nào cũng có bài viết của anh. Tôi mời anh và anh cũng hoan hỉ tham gia Ban Phật Học (Cố vấn), phụ trách Nhóm Học Phật và là người đồng hình thành lớp “Phật học & Đời sống”, đến nay vẫn hoạt động tốt.
Mấy năm gần đây, anh là một trong số cư sĩ được mời tham gia hướng dẫn lớp An cư kiết hạ truyền thống hằng năm dành cho các tu sĩ tại Chùa Phật học Xá Lợi Tp. Hồ Chí Minh.
Từ những bài viết của anh đăng trên Phật học Từ Quang được tập hợp để có cuốn sách “Bông hồng cho Mẹ & Những cảm nhận học Phật” này, tôi tin người đọc dễ thấy Đỗ Hồng Ngọc học Phật qua lăng kính của nhà thơ, nhà khoa học, của người thầy thuốc tận tâm.
(…)
Khi được hỏi “kinh nghiệm” về học Phật, anh nghĩ “Trước hết cần nắm được các thuật ngữ, sau đó là hiểu được các ẩn dụ, ẩn nghĩa, hàm chứa trong lời Kinh và quan trọng nhất là thực hành, ứng dụng vào đời sống, ở đây và bây giờ…”.
Với tôi, đây là kinh nghiệm quý cho những người muốn học Phật. Nhân mùa Vu lan này (2022, PL 2566), Quỹ Ấn tống Hoa Sen (Chùa Phật học Xá Lợi) cùng với Nhà xuất bản Hồng Đức ấn hành cuốn sách “Bông hồng cho Mẹ & Những cảm nhận học Phật” của nhà thơ Đỗ Nghê – bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc trên tinh thần bố thí pháp của nhà Phật. Trong Kinh Tap A Hàm (số 299), đức Phật trả lời cho một vị Tỳ kheo hỏi về pháp Duyên khởi, Ngài có nói: “Cái này có nên cái kia có, cái này khởi nên cái kia khởi”, nên “Bông hồng cho Mẹ & Những cảm nhận học Phật” của Đỗ Hồng Ngọc đến với bạn đọc chính là như thế.
(Thay lời tựa)
HT-TS THÍCH ĐỒNG BỔN
Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam.
Nguyên Cẩn: DỰNG LẠI CON NGƯỜI
DỰNG LẠI CON NGƯỜI
LỜI CỦA KẺ SĨ
NGUYÊN CẨN
TỰA
Kính thưa độc giả!
Bạn đang cầm trên tay cuốn sách DỰNG LẠI CON NGƯỜI. Và bây giờ, bạn đang lướt đến những dòng giới thiệu sách. Tôi đang được hân hạnh trò chuyện với bạn – một người yêu sách. Tôi muốn nói với bạn rằng, đừng đặt cuốn sách này xuống, đừng bỏ qua nó. Bởi vì, nếu làm vậy, bạn đã “phụ một tấm lòng trong thiên hạ”– tấm lòng trăn trở với quốc gia, với thời cuộc, với con người (dĩ nhiên là trong đó có bạn, và có tôi) của một kẻ sĩ.
Nếu được phép đặt tên cho cuốn sách này, tôi sẽ gọi nó là LỜI CỦA KẺ SĨ. Bởi vì, 28 bài viết của cuốn sách là tiếng nói của một trí thức đầy mẫn tuệ, tâm huyết và khát khao cống hiến – cống hiến bằng chữ nghĩa từ những gì mình lĩnh hội được qua thực tế, qua sách vở và qua sự nhạy cảm trước những biến động của đời sống.
DỰNG LẠI CON NGƯỜI nghĩa là tìm lại giá trị người đã từng có, nhưng bị đánh mất qua bao biến cố, bão giông của lịch sử; tìm lại quốc pháp, gia quy từng rất nghiêm cẩn đã bị lơi lỏng, biến dạng dưới bàn tay của những người chấp pháp vô trách nhiệm; tìm lại vị thế của nước Việt đã từng vượt xa các nước trong khu vực nay lại bị các nước ấy vượt xa. Đi tìm những giá trị đã mất, xác lập giá trị mới cho quốc gia cường thịnh, chính trị minh bạch, kinh tế phồn vinh, văn hoá phát triển và con người hạnh phúc chính là khát khao cháy bỏng của Nguyên Cẩnqua từng trang viết. Tác giả để tâm đến tất cả mọi lĩnh vực của đời sống: kinh tế, chính trị, giáo dục, văn hoá, nhân sinh, nhân tính, nhân tình, nhân tâm… Có cảm giác như trái tim mẫn cảm và trí tuệ nhạy bén của ông luôn quặn thắt khi nhìn thấy, nghe thấy, cảm thấy những điều không vui vừa mới xảy ra. Sau mỗi quặn thắt là sự điềm tĩnh cần có của một trí thức, Nguyên Cẩn suy ngẫm, phân tích nguyên nhân, hệ quả, và đi tìm giải pháp.
Trong mỗi bài viết mang tính xã luận hoặc tính đối thoại, Nguyên Cẩn luôn dẫn dắt vấn đề một cách lớp lang, diễn giải từ tốn, đi từ việc nhỏ đến việc lớn, dung hoà giữa lý trí và cảm xúc, lý thuyết và thực tiễn khiến người đọc rấtdễ nắm bắt vấn đề. Ông thường lập luận chặt chẽ, xác định luận điểm rõ ràng, xây dựng luận cứ chắn chắc và đưa ra nhiều luận chứng xác đáng. Từ đó, đi vào bình luận một cách có lý có tình với những kiến giải sắc sảo đầy thuyết phục. Và cuối cùng, những giải pháp mà ông đưa ra rất thiết thực, có tính khả thi cao.
Đặc biệt, điều làm nên nét đặc sắc của cây bút xã luận Nguyên Cẩn chính là những tầng văn hóa. Tầng văn hóa đó được sắp xếp nên bởi các lớp tri thức về văn hóa, chính trị, pháp luật, kinh tế, triết học, nghệ thuật… mà người viết có được. Những bài học thực tế đông tây kim cổ, ý kiến của các danh nhân, đạo đức của các tôn giáo được trích dẫn và lồng ghép một cách phù hợp với liều lượng vừa phải. Vì thế, đọc bài của Nguyên Cẩn -đọc lời của kẻ sĩ, ta tiếp nhận được rất nhiều kiến thức bổ ích, lại có thêm cái thú “qua núi còn thấy núi”, và rồi ta không khỏi tự vấn mình về trách nhiệm của một kẻ sĩ, một công dân.
DỰNG LẠI CON NGƯỜI khiến tôi nhớ đến một câu danh ngôn: Cách hay nhất để làm giàu tri thức mình là đọc một cuốn sách hay hoặc trò chuyện với người thông thái. Bạn sẽ gặp được cả hai điều đó khi đọc cuốn sách này. Tôi tin nhưvậy!
Nguyễn Thị Tịnh Thy (*)
………………………………………………….
(*) Tiến sĩ , Đại học Sư Phạm Huế
“Đêm thơm như một dòng sữa…”
“Đêm thơm như một dòng sữa…”
(ĐÊM, thi tập Khánh Minh, tháng 11, 2021)
Đỗ Hồng Ngọc
Bỗng dưng nhớ Đêm thơm như một dòng sữa của Phạm Duy (Dạ lai hương) khi nhận được Thi tập ĐÊM của Nguyễn Thị Khánh Minh.
Hiu hiu hương tự ngàn xa
Bỗng quay về dạt dào trên hè ngoài trời khuya…
Đêm đâu là chốn quê nhà
Trăng ngõ nhà ta xưa
Gần hơn trăng nơi này
Mộng hơn trăng nơi này
Nên trăng vàng khắp ngõ
Hỏi trăng gần, trăng xa
Đâu là chốn quê nhà…
Tìm trong đêm, mây trắng
Hỏi xem nhà ta đâu
Đêm cúi nhìn im lặng
Đêm guốc mùa đi tất tả
Năm tháng năm buồn thủ thỉ
Hằn vai quang gánh nỗi niềm
Tiếng guốc vẹt mòn kiệt phố
Lắng vào đêm tiếng chân quen
Năm tháng năm buồn lựng chín
Lời ru hồn phố chắt chiu
Tiếng guốc mùa đi tất tả
Hội An thức ngủ về theo
… lục tàu xá… lục tàu xá…
Bỗng nhớ “Hội An đêm” của Đỗ Nghê:
Hội An đêm
Bập bềnh cơn sóng dợn
Nghìn lồng mắt chao nghiêng
Những linh hồn thức dậy
Thở cùng Hội An đêm
(ĐN)
Đêm hai nửa điệu cong
Trăng trên kia
Một đường cong sáng
Nếu xóa đi không gian
Sẽ có được một vòng tròn đâu lại
Tôi và trăng
Hai nửa điệu cong
Mềm mại.
Thân đêm nồng nắng ủ
Mật ngọt. Lừ chiêm bao
Một giây bừng vĩnh cửu
Thầm thì, tan trong nhau…
Gợn lên từ hơi ấm
Tận cùng. Dâng hiến đất
Cúi xuống. Bao la trời
Trao nhau. Đêm diệu mật..
Chàng mở mắt
Và trái đất có bình minh
Nàng hỏi bằng ánh mắt thơ ngây nhất
Và đêm có đêm rằm
Trong phút giây hạnh phúc
Nàng nhắm mắt
Và. Đêm. Trăng mật
Đêm tiếng bước thời gian
Đêm qua anh cùng em
Dặm đường nghe gió biếc
Đêm nay em nhìn lên
Thấy một vầng trăng khuyết
Nhớ chuyện kể hình như của Tagore: người chồng có chuyến buôn xa, từ biệt vợ, nàng âu yếm đôi lần bảy lượt dặn đừng quên lúc về mua cho nàng một tấm gương tròn sáng như vầng trăng vành vạnh kia. Ngày về, chàng nhìn lên trăng, thấy một vầng trăng lưỡi liềm cong vút, vội vã mua một chiếc lược ngà…
Lại nhớ Trịnh: “Em đi qua chuyến đò, ối a con trăng còn trẻ/ Con sông đâu có ngờ, ngày kia trăng sẽ già” (Biết đâu nguồn cội).
Một nhà thơ nữ lẽ nào “đâu có ngờ” như con sông kia nhỉ?
Đêm rộn lòng dâu bể
Không rộn lòng dâu bể
Tỉnh thủy vô ba đào
Nếu mà không hạt lệ
Thử tâm chung bất dao…*
Nếu mà không trăng sáng
Làm sao nối xưa sau…
Cho nên Đêm Nguyễn Thị Khánh Minh đầy “rộn lòng dâu bể”, đầy hạt lệ yêu thương, cha mẹ, vợ chồng, bè bạn… quê hương xứ sở, dịch bệnh, phân ly, kỳ thị, ngăn cách, xót xa, giấc mơ em nhỏ châu Phi, giấc mơ em nhỏ Việt…
Ở Khánh Minh, thơ không chỉ là thơ mà còn là tiếng nói, còn là hạt lệ… còn là vòng tay, còn là hơi ấm từ trái tim biết đau xót nỗi đau chung:
Người đem theo nụ cười
Đi vào những biên giới
Những biên giới đôi co
Những biên giới gào thét
Bỗng nhận ra mình
Những phân chia hổ thẹn
Để rồi:
Nhìn trời. Thấy cái đồng không
Hét to. Lại thấy nỗi mông quạnh ngày
Sao tự nhiên đứng ở đây?
Một nơi rất lạ, cõi không nụ cười
Ngây ngô họ xúm gần tôi
Chỉ trỏ vào nụ tôi cười, ngạc nhiên
Quệt vào tôi những ánh nhìn
Hỏi tôi hạt nước mắt tìm ở đâu
Thưa, tôi nhặt ở tim đau..
Rồi quay về chính mình:
Soi gương thảng thốt mặt mày
Mở hai con mắt không đầy được tôi
Thốt lên ngọng nghịu những lời
Bóng trong gương hỏi, tiếng người đó chăng?
Đêm trái tim diệu mật
Nghe gió thỉnh hồi chuông
Từ trái tim diệu mật
Chắt chiu tâm Phật
Chuông giờ lành
Trái đất đầu thai
Trong thơ Khánh Minh, ngọn cỏ với Ta là một, cùng uống ánh mặt trời, cùng tỏa ngát hương thơm, cùng rúng động vì tiếng chuông chùa trên núi xa kia để hòa vào vũ trụ mênh mông không còn phân biệt bởi căn-trần-thức nữa!
Cỏ nhé. Ta nằm xuống
Cỏ nhé. Ta cùng uống
Vô lượng ánh mặt trời
Cỏ nhé. Ta đầy hương
Của nồng nàn thơm giấc
Đưa nhau đến ngọn nguồn…
Không thể không nhớ lữ khách nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San làm xao động giấc mơ…
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
[Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San]
(Phong Kiều Dạ bạc, Trương Kế)
***
Đêm thơm không phải từ hoa
Lung linh trăng lại về nữa
Cánh gió đưa hương ngả đầu mây phất phơ…
Đêm thơm không phải từ hoa
Mà bởi vì ta thiết tha tình yêu Thái Hoà…
(Dạ lai hương, Phạm Duy)
Phải, “mà bởi vì ta thiết tha tình yêu Thái Hoà…” đó vậy./.
ĐHN,
Saigon 24.11.2021)
……………………………………………….
(*) Ý đạo, Nguyễn Du
Tập Thơ ĐÊM. 2021 NGUYEN THI KHANH MINH
Nguyễn Xuân Thiệp
… Đến với Đêm để được thiền sư Muju tặng cho vầng trăng. Đêm cũng là thời khắc để Khánh Minh gần với Nguyễn Du, Tagore và Gibran. Với Nguyễn Du thì có ‘Minh nguyệt chiếu cổ tỉnh, Tỉnh thủy vô ba đào’. Trăng sáng lòng giếng xưa / Nước giếng không xao động. Ôi, thật là tĩnh lặng như lòng ai tới với thơ trong đêm trăng chiếu.
(…)
Đêm đưa Khánh Minh về gặp vầng trăng xưa để thấy: Trăng ngõ nhà ta xưa / Gần hơn trăng nơi này / Mộng hơn trăng nơi này /… Nên trăng vàng khắp ngõ / Xe về ấm lối quen / Ai chờ bên thềm gió… Hình ảnh cuối cùng trong mấy câu thơ trích dẫn trên là cô bé Khánh Minh chờ cha về trước thềm nhà xưa.
Trang thơ của Khánh Minh đầy thi ảnh và cảm xúc, vừa siêu thực vừa hiện thực, khiến nước mắt rơi… Đúng vậy. Đọc ĐÊM của Nguyễn Thị Khánh Minh ta gặp những ánh mắt nhìn trong sáng đầy ý thơ, với những cảm xúc nhân bản. Ở đó, nắng và hương cỏ và đêm tan vào mộng mị chiêm bao, tạo thành một thực tại huyền ảo. Đọc Đêm của Nguyễn Thị Khánh Minh để cảm nhận ngôn ngữ thơ tinh tuyền của tác giả và những hình ảnh sáng tạo như dưới cái nhìn của tuổi thơ. Ôi, xin cất giữ làm của cải cho đời sau.
Tô Thẩm Huy
(…) Và hỡi những họa sĩ thân yêu trên trần gian này, tôi xin được làm cậu Hoàng Tử Bé của St Exupery, yêu cầu quý vị vui lòng vẽ hộ tôi – không phải con cừu đang gặm cỏ trên tinh cầu xa xôi – mà làm ơn vẽ hộ tôi bức tranh của bóng khuya – không phải là bóng khuya lúc đang ngồi tỉ tê cạnh bóng đêm, mà là lúc đang lững thững đi dạo dưới trăng – để tôi có dịp được ngắm bức tranh vẽ lúc “bóng về” của họa sĩ Khánh Minh:
Ai vẽ được bóng khuya đi
Cho tôi đọ với bóng về. Của tôi
Lời của thơ trong “Đêm” là tiếng nói của con người nguyên sơ mà chúng ta đã lâu ít còn được nghe thấy ai nói, đến gần như đã quên mất. Xin mời nghe lại mấy lời:
Gió vườn nhà êm ả
Ai nói gì qua lá
Mà khuya đầy trăng thơm
Đêm ngó trời. Cao quá
Hỏi trăng gần, trăng xa
Đâu là chốn quê nhà…
Tô Đăng Khoa
Sự hội ngộ “Mặt mừng tay bắt gọi tên” giữa “ta-và-ta” không phải xảy ra giữa thanh thiên bạch nhật mà xảy ra trong bối cảnh của “Ánh đêm sắc lẻm” của sự nội quán: Trong đó lằn ranh giữa “Nhớ” và “Quên” quyết định sự “chia lìa” hay “không chia lìa”! Hay là nói cách khác: Chính “Nhớ” và “Quên” quyết định cái gì “Có” cái gì “Không”, cái gì “Hữu” cái gì “Vô”.
Đối với riêng tôi, bốn câu thơ cuối của bài “Phía Bên Kia” là bốn câu thơ xuất thần của sự “phản quan tự kỷ”, và có giá trị rất lớn trên cả hai lĩnh vực Thi Ca và Tư Tưởng. Hơn thế nữa, nó còn có thể được chiêm nghiệm thậm sâu để ứng dụng vào đời sống hàng ngày.
Thi Tập Đêm là cuộc hành trình tiếp nối của Ánh Sáng và của Bóng sau bao nhiêu phản xạ, khúc xạ khắp chốn nhân gian nay trở Về Quê của Màn Đêm Tịch Tịnh. Rồi thì sao?
Thì rồi mai nọ mốt kia
Đem hình vá bóng sợ gì một-hai.
Phan Tấn Hải
Có những buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều và buổi tối. Khi tôi ngồi tịch lặng ngoài hiên. Đôi khi có chút gió, có khi trăng rất mờ vào đêm, hay sương còn lạnh vào ban mai. Có khi buổi trưa trong xóm vắng không người, thoang thoảng tiếng xe chạy ngoài phố xa vọng tới. Có khi chiều nắng rất nhạt, như tới từ một ký ức thời thơ dại. Tôi lặng lẽ ngồi,hông nghĩ ngợi gì, chỉ cảm nhận những làn gió nhẹ thoảng qua. Không một ý nghĩ nào khởi lên trong tâm, không một chữ nào hiện ra trong tâm. Cả thế giới chung quanh chỉ là những cái được thấy, được nghe, được cảm thọ, và không có một cái gì khác khuấy động. Tỉnh thức, cảm nhận trên thân tâm một nỗi tịch lặng không lời. Nơi đó, vắng bặt tất cả những gì có thể so đo thành chữ. Những khi như thế, tôi không muốn cử động mạnh, chỉ vì sợ làm tan vỡ những vạt nắng ban chiều, hay là sẽ làm rơi mất ánh trăng.
Có đôi khi, tôi nghe nhạc. Thường là nghe các bản hòa âm ngắn, không lời của piano, ngắn thôi, cỡ vài phút. Không hơn 4 hay 5 phút. Tôi không muốn nghe ca khúc nào dài. Cuộc đời mình có dài đâu. Thêm nữa, vì cần chiêm nghiệm về những âm vang tập khởi, và rồi những âm vang biến diệt. Sinh và diệt. Hạnh phúc và đau đớn. Nghe nhạc, có những ca khúc như thế, cho mình ý thức thêm về những hư vỡ của cõi này. Chỉ lặng lẽ ngồi nghe. Có khi không dám cử động mạnh, chỉ lắng nghe thôi, lặng lẽ, để từng âm vang ngấm vào thân tâm. Tôi cũng từng kinh ngạc, tại sao khi người ta nghe nhạc hay lại vỗ tay lớn tiếng. Lẽ ra, sau mỗi ca khúc hay mỗi bản trình tấu hay, người nghe chỉ nên ngồi lặng lẽ thêm vài phút. Vì bất kỳ những cử động nào lúc đó sẽ có thể làm rơi các nốt nhạc còn bay lơ lửng quanh mình.
Khi đọc thơ Nguyễn Thị Khánh Minh, tôi cũng cảm nhận cũng thế.
(…)
trần thị nguyệt mai
Trăng thơm
Gửi chị Khánh Minh
Ai nói gì qua lá
Mà khuya đầy trăng thơm
(trăng gần trăng xa – thơ nt khánh minh)
Lá thở từ muôn kiếp
Đếm sao trời ngàn năm
Cho đêm hoài thơm trăng
Trăng thơm trong giấc ngủ
Cứ như gần như xa
Em bềnh bồng mộng ảo
Đẹp tuyệt vời là đêm
Trăng óng ả ướp mật
Như câu chuyện thần tiên
Và ước mơ bình yên
Người thương người vô biên
Thôi chiến tranh, muộn phiền
Đêm thơm cùng với trăng
Nguyện cầu cho thế giới
Vằng vặc một tâm rằm…
29.8.2021
Nghĩ về “Tập sách Cái cười & Sự lãng quên”
Nghĩ về “Tập sách Cái cười & Sự lãng quên”
(Tiểu thuyết Milan Kundera, Trịnh Y Thư dịch)
Đỗ Hồng Ngọc
Đó là cuộc truy tìm bản ngã con người để từ đó rất có thể lóe lên luồng sáng mới mẻ cho ta thấy rõ hơn cái ẩn mật của hiện tồn. (Kundera)
Je pense donc je suis… (Descartes). Mà vì hình như, suy nghĩ một mình không thể tìm ra bản ngã, tác giả phải tạo ra nhiều mình khác qua nhân vật, gọi là tiểu thuyết để cùng đi tìm: tìm trong cái phông nền lịch sử, trong tình dục, trong tình yêu, hạnh phúc, đớn đau…
Nhân vật trong tiểu thuyết tôi là những khả thể vô thức của chính tôi (Kundera). Bởi cuối cùng là để vượt ra, vượt qua: một cái đường biên mong manh mà mênh mông đó. Ở đó, Bên kia đường biên “bản ngã” của riêng tôi chấm dứt (trang 19). Nghĩa là đạt đến vô ngã / non-self (không phải no-self).
Cái đường biên đó do chính tác giả tạo ra cho mình và loay hoay tìm lối thoát, càng tìm lối thoát càng bị quấn chặt. Chỉ vượt ra, vượt qua (Gaté, gaté…paragaté…) đường biên khi có được trí Bát nhã (Prajna) thấy được ngũ uẩn giai Không, mới “độ nhất thiết khổ ách”.
Diễn viên, kịch sĩ cũng sắm nhiều “bản ngã” cho mình, như lúc sắm vai vua, lúc sắm vai ăn mày… nếu “thức tỉnh” cũng dễ vượt thoát. Nhà viết tiểu thuyết còn có ưu thế hơn: tiểu thuyết nói được những điều mà chỉ tiểu thuyết mới nói được (Kundera). Hài hước, châm biếm, ẩn dụ, châm ngôn, giả định, khoa đại, bông lơn, gây hấn, huyễn hoặc,… và dĩ nhiên cũng không tách khỏi cái “vòng tròn ảo diệu bao quanh đời sống” dù giãy nảy: Tiểu thuyết gia không phải là kẻ hầu của sử gia (Kundera). Cái “vòng tròn ảo diệu bao quanh đời sống” đó dù làm người ta nôn ói, người ta bị điều khiển ngay cả cách làm tình thì cũng đã tạo cái cớ cho tiểu thuyết gia vung chiêu. Dĩ nhiên lịch sử chỉ là… những lời nói dối (thơ ĐN).
Chỉ có một cách thoát, như Vạn Hạnh thiền sư dạy đệ tử hơn ngàn năm trước:
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô
(Vạn Hạnh thiền sư)
Lịch sử thịnh suy cuồn cuộn những kiếp người… Cho nên vấn đề không phải là Ra đi mà Trở lại. Trở lại Địa đàng. Ở trong Ta thôi. Quay về nguyên thủy loài người, nguyên thủy đời sống, nguyên thủy tình yêu (trang 328).
Cái cười là một khám phá. Sự lãng quên là một khám phá. Khi bạn vượt ra qua biên thùy, cái cười phải tuôn ra. Nhưng nếu bạn tiếp tục đi dấn, vượt qua cả cái cười, thì sao? (trang 315).
Trí bất đắc hữu vô
Nhi hưng đại bi tâm…
(Kinh Lăng Già)
Nghĩ về “dịch vật” của Trịnh Y Thư:
Dịch Kundera rõ ràng không dễ toát được Kundera. Nhưng Trịnh Y Thư mong có thêm 7 “biến tấu” nữa của tác giả để được dịch tiếp.
TYT thố lộ: “Dịch Cái cười & Sự lãng quên là việc làm thú vị tuyệt vời đối với tôi”. Kundera có cái mỉa mai, chua chát, thậm chí thâm độc nhiều tầng, mà TYT gọi là cái phần hồn phách, cái Thần của tác phẩm, “bất khả tư nghị”, chỉ có thể đạt đến bằng trực giác, Dionysian… Dịch thuật văn học là sự tái tạo, hoặc sáng tác lại, một tác phẩm văn học để cho nó một đời sống mới… và tôi sẵn sàng hi sinh cái chân lí tuyệt đối (đôi khi rất vô tích sự) để đổi lấy dăm ba nét linh diệu phù ảo của cái bất toàn. (TYT)
Tôi tò mò muốn biết giá TYT cho vài thí dụ… về dăm ba nét linh diệu phù ảo thì hay quá! Tôi vốn đã phục cách dịch “linh diệu phù ảo” của TYT qua các tựa sách: Đời nhẹ khôn kham, “Cái” cười và “Sự” lãng quên…
Khôn kham là chịu hổng nổi, chịu hết nổi!
Còn ở đây “Cái” có vẻ như để khinh miệt, còn “Sự” là cái còn được… tôn trọng phần nào. Tôi nghĩ ở đây có thể dùng cả “Cái” cho Cái cười và Cái lãng quên. Song hành Cái, Cái cũng hay chứ!
Cũng đã có những dịch giả ở Việt Nam dịch hay không kém (về Tựa): Cõi người ta (Bùi Giáng dịch St. Ex.): Cõi, như Cõi Ta bà, Cõi Bồ-tát… với pháp giới thể tánh riêng của nó. Hay Chuông gọi hồn ai (For Whom the Bell Tolls) của Huỳnh Phan Anh (dịch E. Hemingway).
Nhớ có lần TYT viết đâu đó: Những cái vi tế trong mỗi từ tiếng Anh, liệu tôi có thể tìm thấy nét tương đương trong tiếng Việt không? Câu trả lời là không (TYT).
Tôi không tin vậy. Mỗi ngôn ngữ có một sắc thái riêng, có thể đạt đến cái “thần” bằng trực giác. Cái đó gọi là “đi guốc trong bụng” tác giả.
Khái Hưng dịch Tình tuyệt vọng với hai chữ “thui thủi” trong 2 câu này của Sonnet d’Arvers chẳng đạt cái “thần” sao?
Hélas! j’aurai passé près d’elle inaperçu,
Toujours à ses côtés, et pourtant solitaire,
Hỡi ơi! Người đó ta đây
Sao ta thui thủi đêm ngày chiếc thân…
Hay Mùa thu chết (Apollinaire) của Bùi Giáng:
J’ai cueilli ce brin de bruyère
L’automne est morte souviens-t’en
Ta ngắt đi một cành hoa thạch thảo
Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi
với những chữ “ngắt đi”, “nhớ cho”… chẳng đạt đến cái “thần” sao? Nếu không, sao có Mùa thu chết của Phạm Duy với tiếng hát Julie Quang: “Em nhớ cho, em nhớ cho, đôi chúng ta sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa…trên cõi đời này…?”
Nhưng tôi đồng ý với TYT việc khó dịch thơ. Bởi tôi không tin thơ chỉ là ngôn ngữ, phối từ… Có dịp sẽ trở lại đề tài này.
Tôi nhớ Nguyễn Hiến Lê nói: dịch hay là dịch sao cho người đọc không nhận ra vết dịch.
Quả thật, đọc bản dịch của TYT không thấy có vết dịch.
(ĐHN)
Saigon, 02.11.2021
Tập Thơ “Đêm” Của Nguyễn Thị Khánh Minh
Tập Thơ “Đêm” Của Nguyễn Thị Khánh Minh
ĐÊM
tập thơ NGUYỄN THỊ KHÁNH MINH
VĂN HỌC PRESS xuất bản, 2021
Tựa: Tô Thẩm Huy
Tranh bìa: Phạm Cung
Ký họa chân dung Nguyễn Thị Khánh Minh:
Đinh Cường – Trương Thìn – Lê Thánh Thư –
Bảo Huân – Trương Đình Uyên – Phan Tấn Hải
Viết về Nguyễn Thị Khánh Minh:
Phan Tấn Hải – Nguyễn Xuân Thiệp – Trần Thị Nguyệt Mai –
Lê Lạc Giao – Hoàng Xuân Sơn – Hồ Đình Nghiêm – Trịnh Y Thư –
Lê Giang Trần – Tô Đăng Khoa – Nguyễn Lương Vỵ
@@@
Lời của Thơ
Tựa: Tô Thẩm Huy
–––––––––––––––––––––
Nguyễn thị Khánh Minh và thi tập
Đêm
Bóng Sáng – Bóng Tối
Night, the shadow of light,
and life, the shadow of death.
A.C. Swinburne
– Sao gọi là lời?
– Thưa: logos
– Là?
– Là ẩn ngữ ân điển từ cõi trời Hy La uyên nguyên vọng về.
– Vọng về điều gì?
– Thưa: Có một lỗ thủng màu trắng trên nền trời đen tối.
Trăng buồn
Lỗ thủng trắng
Trời đêm
– Thật vậy sao? Làm sao nghe ra tiếng vọng ấy?
– Thưa ấy là từ thuở con người vẫn hiểu tiếng nói của chim muông, cây cỏ, biết nghe tiếng đêm, biết tan vào bóng tối mà ẵm bóng sáng vào lòng.
Dằng dặc đêm. Trăng hoài không rơi
Vắng trong tôi. Tôi hoài không lời
Chịu không nổi. Một cành cây đập gió
Nghe thấy không? Trong đêm dằng dặc, một cành cây đang đập gió. Mà trăng hoài vẫn cứ không rơi. Làm sao chịu nổi! Cây ơi, ngừng lại, đừng đập gió nữa.
Tôi không nói
Chỉ có hàng cây gió thổi
Và bóng. Tối
Tôi không ngủ
Chỉ có đêm đang trôi
Có lẽ sẽ một lời
Để đừng tan vào bóng tối
Thi sĩ là ai trong đêm đang trôi? Thưa là bức tường xôn xao ở lại cùng bóng sáng sau khi cửa sổ đã bay đi:
Bóng trôi ra ngoài cửa sổ
Như với theo
Cái gì đó vụt bay
Gió bay đi
Đêm bay đi
Giấc mơ bay đi
Chiếc cửa sổ bay đi
Nỗi chờ đợi cũng bay đi
Và:
Rưng trên tay
Bóng sáng
Người để lại
Thi tập “Đêm” gom lại những bài thơ tác giả viết đây đó những 20 năm thao thức, sắp xếp theo những chủ đề xoay quanh hai dòng ý tưởng: Bóng Sáng và Bóng Tối.
Sao gọi là bóng sáng? Đã bóng sao lại sáng?
Thưa nếu không thế thì làm sao có thể làm đầy những lỗ hổng của giấc mơ:
Bầu trời sâu
Kéo đêm lên là những chấm sao
Bóng tối sâu
Đang vực tôi lên là đường tròn
Một đường tròn
Chở bóng sáng trong
Một đường tròn
Đang dịu dàng tròn mãi
Dựa vào nó
Tôi đi trên con đường khúc khuỷu của mộng
Dựa vào nó
Tôi làm đầy những lỗ hổng của giấc mơ trong cuộc sống.
Sao là những lỗ hổng của giấc mơ? Từ nay liệu chúng ta có thể yên tâm để mơ về những giấc mộng không còn lỗ hổng chăng?
Thế bóng tối là sao? Đã bóng thì hẳn phải tối chứ?
Thưa chuyện ấy cũng còn tùy. Phải bật lên đã, thì đêm mới tối:
Bật đêm lên
Một điểm bất ngờ
Vành trăng úp mặt hổ ngươi
Rồi phải với lấy vầng trăng đang trôi nổi trong đêm:
Sợ xa thêm ánh sáng vì sao
Sợ chìm xuống trong khuya sâu
Tôi với lên một vừng trăng đang nổi
Sau đó phải đi vời áng mây trắng:
Tìm trong đêm, mây trắng
Hỏi xem nhà ta đâu
Đêm cúi nhìn im lặng
Cả ba buồn như nhau
Đã có ai trò chuyện với mây, lặng lẽ nhìn đêm, mà ngậm ngùi thương nhớ người thân?
Nếu cho ba điều ước
Tôi xin đừng nhìn ngược
Tôi xin đừng nghe xuôi
Và ước mơ lúc nào cũng chờ tôi phía trước
Ước chi ai ai lúc nào cũng nhớ ba điều ước ấy.
Khi tôi nắm vào trong tay
Ít nắng
Thì cùng lúc tôi nắm vào chút nhỏ nhoi của bóng tối
Khi tôi ôm vào lòng
Ít gió
Cũng là lúc tôi đầy trống không, im lặng
Khi tôi bắt đầu một giấc mơ
Cũng là lúc tôi đã chìm sâu
Giấc ngủ
Và để biết có giữ được gì không
Tôi bắt đầu hy vọng
Và từ niềm hy vọng ấy:
Tôi nhóm lên một ngọn lửa
Gió thổi tắt đi
Tôi nhóm lên một ngọn lửa nữa
Gió lại thổi tắt đi
Khi tôi không còn hy vọng
Thì gió
Lại làm những que tàn kia bắt lửa…
Và niềm hy vọng từ đấy sẽ mãi mãi phục sinh trên thân phận chúng ta:
Tôi hút vào bóng tối
Đôi mắt mù không hay
Ánh sáng trong tôi nói
Cái sáng từ tôi đây
Hãy dùng nó làm khiên
Hãy dùng nó làm đèn
Hãy dùng nó để tỏ
Với lòng ngươi đêm đen
– Sao gọi là Minh?
– Thưa Minh có thể là nhật giao thoa với nguyệt mà chan hòa ánh sáng:
Mặt trời
Trong phút giây thức dậy đẹp đẽ nhất
Chàng mở mắt
Và trái đất có bình minh
Trăng
Nơi cao lồng lộng
Nàng hỏi bằng ánh mắt thơ ngây nhất
Và đêm có đêm rằm
Từ đó, khi nghe gọi tên:
Ánh sáng chọn
Ngày
Để tan ra
Ánh sáng chọn
Đêm
Để lấp lánh
Tôi chọn ánh sáng
Để tự vệ với bóng tối
Nơi mình
Đó cũng là tên
Khi người ấy gọi tôi
Âu yếm
(Gọi Tên)
Mà Minh cũng có thể là tiếng hót đến từ chiếc lưỡi của cánh chim đang chao lượn trong gió mà nếu không có vầng trăng trầm mình dưới mặt giếng tĩnh lặng thì làm sao nó có thể hân hoan xao xuyến với về tấm lòng trong thanh tơ trắng của Tố Như Tử: Trạm trạm nhất phiến tâm, Minh nguyệt cổ tỉnh thủy.
Không rộn lòng dâu bể
Tỉnh thủy vô ba đào
Nếu mà không hạt lệ
Thử tâm chung bất dao…
Nếu mà không trăng sáng
Làm sao nối xưa sau…
Và nếu không có bóng trăng lặng trên mặt giếng thì làm sao đêm có thể mọc lên từ bức tranh?
Đêm mọc lên từ bức tranh
Ứ đầy tĩnh lặng…
…Trên con đường ánh mắt đang đi
Đêm thiếu nữ. Òa vỡ…
Từ đấy, logos trong “Đêm” trở thành bức tranh chan hòa mầu sắc của lời thơ Khánh Minh:
Nếu bảo tôi vẽ bóng tối. Tôi sẽ vẽ
Những đôi cánh của chiêm bao mọc ra từ trái tim trong suốt. Vầng trăng trên gối ngủ bài thơ. Ngọn đèn cô đơn bên trang bản thảo.
Tôi sẽ vẽ cả tôi đang vượt qua đêm dài. Tôi sẽ vẽ làm sao để người xem tranh thấy được. Bóng tối chỉ là ảo ảnh…
Phải chăng vì đời sống chỉ là bóng hình của cái chết?
Và hỡi những họa sĩ thân yêu trên trần gian này, tôi xin được làm cậu Hoàng Tử Bé của St Exupery, yêu cầu quý vị vui lòng vẽ hộ tôi – không phải con cừu đang gặm cỏ trên tinh cầu xa xôi – mà làm ơn vẽ hộ tôi bức tranh của bóng khuya – không phải là bóng khuya lúc đang ngồi tỉ tê cạnh bóng đêm, mà là lúc đang lững thững đi dạo dưới trăng – để tôi có dịp được ngắm bức tranh vẽ lúc “bóng về” của họa sĩ Khánh Minh:
Ai vẽ được bóng khuya đi
Cho tôi đọ với bóng về. Của tôi
Lời của thơ trong “Đêm” là tiếng nói của con người nguyên sơ mà chúng ta đã lâu ít còn được nghe thấy ai nói, đến gần như đã quên mất. Xin mời nghe lại mấy lời:
Gió vườn nhà êm ả
Ai nói gì qua lá
Mà khuya đầy trăng thơm
Đêm ngó trời. Cao quá
Hỏi trăng gần, trăng xa
Đâu là chốn quê nhà…
Sáu câu thơ tuyền những lời giản dị mà vang vọng một trời âm nhạc, êm đềm mà man mác thớ vị chua xót, ngân nga trong đêm u hoài tiếng ai thầm thì qua lá. Và chao ôi, sao hai chữ “cao quá” trong lời thơ ấy nghe thất thanh, lặng ngắt một nỗi sợ hãi bâng quơ, đơn côi, nhỏ bé!
Thế giới của “Đêm” trong thơ Khánh Minh trừu tượng những hình ảnh tươi mát ban đầu, chan chứa những ý tưởng tinh khôi, ẩn hiện những tâm tình thanh cao, diệu vợi. Thế giới ấy trước khi bước vào thật nên làm theo lời khuyên của Tagore mà tắm gội, tẩm mình bằng hương trầm, để đón vọng:
Một mảnh trăng vắt cong ngoài cửa sổ
Yên bình đến nỗi
Để thưởng thức nó
Tôi có cảm giác như mình đang phạm lỗi…
Tôi cũng thế. Tôi cũng nhiều khi có cảm giác như mình đang phạm lỗi – những lúc đọc thơ Nguyễn Thị Khánh Minh.
Bốn câu thơ trên là những lời sau cuối của “Đêm”. Những câu thơ “sau dấm chấm hết”. Vậy nên tôi xin được có thêm lời ước thứ tư: Rằng chúng ta sẽ còn được thêm nữa nhiều đêm hạnh phúc nghe lời Khánh Minh trò chuyện.
Thật may mắn những ai thường được gặp gỡ, gần kề với cái thế giới tinh khôi ấy.
– Tô Thẩm Huy
Houston, Tiết Đại Thử, tháng 7, 2021
Ebook “TÔI HỌC PHẬT”
Mời các anh chị và các bạn đọc Ebook
- bấm vào chữ: “TÔI HỌC PHẬT” để đọc, sẽ tự động lật trang như trang sách;
2. hoặc tải file ebook thì bấm vào chữ: tại đây
(PMB)
Thân gởi các Anh chị, các bạn,
Suốt hơn 3 tháng nằm chèo queo ở nhà vì lệnh phong tỏa do dịch bệnh Covid tại Tp.HCM, tôi đã “biên tập” lại toàn bộ và bổ sung thêm khá đầy đủ cho Bản thảo Tuyển tâp Tôi Học Phật do anh 5 Hiền, Nguyễn Hiền-Đức sưu tập trước đây (2019), để có Phiên bản 2 này (2021) gởi đến các “bạn đạo” trong Nhóm Học Phật cùng Lớp Phật Học & Đời Sống tại Chùa Phật học Xá Lợi Tp.HCM rỗi rảnh đọc vui.
Bìa do tôi tự dàn dựng lấy, cảm hứng từ mấy trang báo Liễu Quán (Huế), mang nét “lõm bõm” “thấp thoáng” với cách học Phật của mình. Chân thành cảm ơn các bạn Nguyễn Thành, Nguyễn Văn Quyền, Tú Quyên đã hỗ trợ trong thời buổi đầy căng thẳng vì dịch bệnh.
Đỗ Hồng Ngọc
(Saigon 25.9.2021)
Một chút tâm tình
Hai năm trước, năm 2019, một người bạn từ bên kia nửa vòng trái đất cho tôi biết vừa thấy “tuyển tập” Thấp thoáng Lời Kinh, tập hợp một số sách viết về Kinh Phật của tôi xuất hiện trên Thư Viện Hoa Sen và một số trang mạng khác.
Tôi hơi ngạc nhiên nhưng nghĩ có thể là do anh 5 Hiền, Nguyễn Hiền-Đức đây rồi chớ không phải ai khác. Bởi vì người bạn 5 Hiền rất dễ thương này mấy năm trước đã mang đến tặng tôi nhiều “tuyển tập” của tôi do anh có nhã hứng thực hiện mà không “trao đổi” trước chút nào cả, khiến tôi không khỏi giật mình.
Quả đúng vậy. Anh 5 Hiền cho biết đã “gò lưng” cặm cụi tự đánh máy các cuốn viết về kinh Phật này của tôi, từ Nghĩ từ trái tim (Tâm Kinh) đến Gươm báu trao tay (Kim Cang) và Ngàn cánh sen xanh biếc (Pháp Hoa), Thấp thoáng lời kinh… suốt từ 2010 đến 2018! (Sau này thì anh đã biết sưu tầm trên mạng bằng cách copy và paste, bởi đánh máy mất nhiều công sức mà khó tránh sai sót). Anh nói nah làm “tệp” bản thảo này gởi bạn bè giữ coi lai rai, không dè người bạn thiết là Văn Công Tuấn “tung” lên mạng. Sau đó, tôi đề nghị anh cho tôi đổi tựa là Tôi học Phật và sắp xếp lại một chút theo một trình tự nào đó nhưng thật ra không dễ. Anh 5 Hiền đã làm với tất cả cảm hứng riêng anh mà tôi luôn trân trọng và biết ơn.
Hai năm đã trôi qua, năm nay 2021, tôi đã “già thiệt” rồi vì đã 82 tuổi ta, bắt đầu nhớ nhớ quên quên nên nghĩ cần chỉnh đốn lại bản thảo Tôi Học Phật cho tương đối một chút, cắt bỏ đi một số bài viết và bổ sung thêm một số bài khác cho phù hợp. Mặt khác, vài năm gần đây, tôi cũng tập trung viết những ghi nhận lõm bõm của mình từ những điều đã học đã hành trong đời sống thường ngày, thành những Tạp Ghi, Lõm bõm, Y vương, Nói không được, Sống với Như Lai… Những Tạp ghi này chỉ là tạp ghi, chưa hoàn chỉnh, tuy vậy cũng có bài được các Cư sĩ Phù Vân, Văn Công Tuấn, Nguyễn Minh Tiến chọn đăng trên Đặc san Văn Hóa Phật Giáo (Đức) của HT Thích Như Điển, và Ban biên tập Tạp chí Từ Quang của HT Thích Đồng Bổn chùa Xá Lơi, Tp.HCM.…
Tôi muốn dịp này được cảm tạ anh 5 Hiền, Nguyễn Hiền-Đức, các Bs Nguyễn Kim Hưng, Bs Hồ Đắc Đằng, Nnc Huỳnh Ngọc Chiến, Nnc Lê Anh Dũng…, quý Thầy Tuệ Sỹ, Thầy Đồng Bổn… Gs Cao Huy Thuần, Gs Trần Tuấn Mẫn, dịch giả Diệu Hạnh Giao Trinh… và các bạn trong Ban Phật học, Nhóm học Phật, Lớp Phật học và Đời sống của chùa Xá Lợi Tp.HCM, cùng Nxb Tổng hợp, Cty Văn hóa Phương Nam…
Tôi người thầy thuốc, tìm học Phật- bậc Y vương- là để tự chữa bệnh thân-tâm cho chính mình và chia sẻ cho những ai đồng bệnh tương lân. Tôi chỉ lõm bõm tự học, tự hành, tự lần mò tìm kiếm trong khu rừng bí mật – “con người, kẻ xa lạ” chính mình đây, một con đường tu tâm dưỡng tánh theo lời bậc “Đạo sư” chỉ dạy và thấy có nhiều phúc lạc.
“Tuyển tập” Tôi Học Phật (phiên bản 2) này cũng chỉ là một bản sơ thảo, nhiều sai sót, rất mong bạn đọc tủm tỉm nụ cười lượng thứ và đóng góp cho nhiều ý kiến…
Trân trọng,
Đỗ Hồng Ngọc.
(Saigon, 7.2021)
…………………………………………..
Lời trần tình… của Nguyễn Hiền-Đức (5 Hiền)
Ngay trong bước đầu “tập tễnh học Phật”, “lõm bõm học Phật”, tôi đã chọn cách học hợp với sở thích của mình. Đó là chọn bài, chọn sách rồi… rị mọ. cặm cụi, kiên trì “gõ” vào máy. Cách làm này giúp tôi đọc chậm, đọc kỹ từng đoạn, từng trang, từng bài, rồi chú tâm sửa lỗi. Tôi đọc ít nhất 5 lần cho mỗi trang với lòng thanh thản, thư thái. Tôi không “ép” mình phải ghi, phải nhớ một điều gì cứ để nó trôi chảy như một dòng sông. Rồi biết đâu mười năm sau, hay hơn nữa những gì tôi đã đọc, đã “gõ” sẽ giúp tôi nhiều hơn, tốt hơn trên con đường học Phật. Tôi chỉ đặt ra một thứ kỷ luật tự giác mà tôi phải tuân thủ, đó là mỗi ngày “gõ” ít nhất 5 trang, mỗi tháng tối thiểu 120 trang học Phật.
Xin thưa thêm rằng, mãi đến cách nay 4, 5 năm, theo lời chỉ dẫn của một người bạn, tôi mới biết cách lên mạng mà “cắt”, “dán” bài để “làm” các tuyển tập đủ loại. Việc “cắt”, “dán” này giúp tôi tiết kiệm được nhiều thời gian, tránh được rất nhiều sai, sót đúng như lời khuyên của BS Đỗ Hồng Ngọc, rằng tuổi già sức yếu rồi… dễ “nhớ nhớ quên quên lắm. Phải hết sức cẩn thận!”
Tôi bắt đầu “gõ” và “gõ”… mải mê “gõ” làm cuốn “tuyển tập” Thấp thoáng lời Kinh này từ năm 2010 và kết thúc năm 2018. Tôi rất thích từ “thấp thoáng” vì nó thể hiện rất rõ, rất đúng cái chất “thấp thoáng”, “lõm bõm” của tôi khi học Phật. Tôi rất thích Tuyển tập này và thấy cần phải gởi để anh Văn Công Tuấn (Đức quốc) – tác giả 2 cuốn sách đã xuất bản mà tôi rất thích: Cổ Thụ Lặng Bóng Soi và Hạt Nắng Bồ Đề – với mong muốn Văn Công Tuấn có thêm những tác phẩm Phật học có giá trị để tham khảo, trích dẫn cho những bài viết về Phật học tiếp theo của anh ấy. Văn Công Tuấn cũng rất thích, rất quý Tuyển tập này nên đã đưa lên Trang nhà Quê Nhà (Home) của anh, rồi anh lại gởi cho Thư Viện Hoa Sen. Và mới đây, BS Đỗ Hồng Ngọc cũng đã giới thiệu Tuyển tập này trên Trang Nhà Đỗ Hồng Ngọc…
(…)
Tôi chân thành biết ơn BS Đỗ Hồng Ngọc và cũng “biết ơn mình” khi “làm” Tuyển Tập Tôi Học Phật này.
Nguyễn Hiền-Đức
Cẩn bút
Santa Ana, CA tháng 12/2019 – PL 2563.
…………………………………………………………………………………………………………….
Hướng dẫn sử dụng:
- bấm vào chữ: “TÔI HỌC PHẬT” để đọc, sẽ tự động lật trang như trang sách;
2. hoặc tải file ebook thì bấm vào chữ: tại đây
Kịch LỮ KIỀU: KẺ PHÁ CẦU
Tranh bìa: Lữ Kiều
Thiết kế bìa: Lê Giang Trần
Tựa: Khuất Đẩu
Bạt: Trần Hoài Thư – Nguyên Minh – Huyền Chiêu – Sâm Thương –
Nguyễn Lệ Uyên – Mang Viên Long – Trần Lê Sơn Ý – Nguyễn Thị Tịnh Thy
VĂN HỌC PRESS xuất bản, 2021
TỰA
Khuất Đẩu
Kịch là một từ Hán Việt. Theo định nghĩa của Đào Duy Anh, là rất mạnh. Như một cơn địa chấn tạo nên những đứt gãy, những hố sâu. Từ đó, Kịch được dùng để gọi những tuồng hát, những tuồng đời.
Trái đất là một tinh cầu. Mỗi vở kịch là mỗi tiểu tinh cầu. Và tác giả chính là mỗi tiểu thượng đế. Như trong kinh thánh, tác giả tạo ra ánh sáng và bóng tối, tạo ra gió và mưa, tạo ra không khí và sau cùng tạo ra nhân vật. Nhân vật được tác giả cài đặt định mệnh. Những định mệnh nâng đỡ nhau, va đập vào nhau tạo nên những số phận. Tất cả những chuyển động âm thầm ấy làm nên kịch.
Vở kịch được coi là thành công khi tạo được những dư chấn trong hồn người xem sau khi đã cho họ thấy những đứt gãy, những hố thẳm. Nhưng nếu vở kịch được viết mà chưa lên sân khấu, thì vẫn chỉ là một tinh cầu chưa chuyển động. Chúng nằm im trên giấy như cô công chúa ngủ trong rừng chờ hoàng tử đến thức dậy. Hoàng tử ấy là đạo diễn. Anh ta dùng bàn tay kỳ ảo của mình như phù thủy hô phong hoán vũ kêu gọi âm binh, làm chuyển động ánh sáng, bóng tối, gió mưa và những nhân vật. Vở kịch có da có thịt trở nên sống động là nhờ anh. Hiểu như thế để thấy rằng từ tim óc người viết cho dù là tiểu thượng đế cũng phải cần có nhiều cơ may mới có thể đến được với người xem.
Trên các sân khấu Việt Nam, có rất ít cơ may như thế. Thì đành phải “đọc” vậy. Đọc như thế nào? Đọc một cách ơ hờ như đọc một thông báo? Hỏng! Đọc như một chút tình bè bạn, cũng hỏng! Phải đọc như một đạo diễn có tài đang dựng kịch. Tức là phải làm cho vở kịch chuyển động, phải đánh thức những con chữ để nó phát ra tiếng nói. Và phải nghe bằng sáu giác quan, trong đó giác quan thứ sáu là vô cùng cần thiết. Như Kim Thánh Thán “nghe” Tây Sương Ký. Như Bùi Giáng “nghe” Malentendu, kịch của Albert Camus.
Tôi cũng tin là mình đang “nghe” như thế trước những tiểu tinh cầu của Lữ Kiều.
(KĐ)
…………………………………………..
Viết thêm: Lữ Kiều là bút hiệu của Bác sĩ Thân Trọng Minh, bạn cùng khóa Y Khoa Đại học đường Saigon (1962-1969) với tôi. Anh là một nhà văn, nhà thơ, họa sĩ và kịch tác gia có tiếng… đến nỗi người ta quên mất cái gốc… bác sĩ tim mạch của anh, đã nhiều lần triễn lãm tranh cùng Đinh Cường, Trương Thìn, Hồ Thanh, Lê Ký Thương, Lê Triều Điển… tại Đalat, Saigon, Tp HCM…
Anh cũng chính là người đã trình bày bìa tập thơ đầu tay của tôi, tập Tình Người, năm 1967 và cùng Trần Hữu Lục, Nguyễn Sông Ba… thực hiện tập Thơ Đỗ Nghê năm 1973 tại Đà Lạt rồi nhờ Hoàng Khởi Phong mang về Saigon cho Đỗ Nghê…
(ĐHN)
Có Một Con Mọt Sách
Có Một Con Mọt Sách
(Nxb Tp.HCM và First News tái bản lần thứ tư, 3.2021)
Với những dòng bình luận thấy trên:
http://reviewsach.club/review-co-mot-con-mot-sach/
Độc giả Ngọc Ánh nhận xét về tác phẩm Có Một Con Mọt Sách
Các câu chuyện cổ tích được BS Đỗ Hồng Ngọc – “bác sĩ của bà mẹ và trẻ con” – viết lại một cách sáng tạo và độc đáo. Cũng không phải dạng vừa đâu! Lồng vào những câu chuyện ngộ nghĩnh là lời khuyên vui nhộn, nhẹ nhàng nhắc bé biết giữ mắt khỏe để không cận thị, biết giữ gìn vệ sinh và sức khỏe cơ thể, tránh nhiễm giun sán và phòng tránh những tai nạn thường gặp. Cũng không phải dạng vừa đâu! Cũng không phải dạng vừa đâu!
Sách siêu dễ thương ạ.
Màu sắc đẹp. Hình minh họa đẹp. Nhiều thông tin cực dễ thương, và bổ ích vớii bé.
Tặng cho cháu mình, bé rất thích.
Độc giả Trân Thuy nhận xét về tác phẩm Có Một Con Mọt Sách
Đây là cuốn truyện rất tốt để đọc hàng ngày . Những câu chuyện sẽ giúp các bạn học sinh và phụ huynh hiểu rõ hơn về những căn bệnh thường gặp từ đó có kiến thức để phòng ngừa tránh xa . Mình thường đọc đi đọc lại cho bé nhà mình mà bé vẫn rất thích nghe . Những câu truyện như vậy rất bổ ích và giúp thêm cho các bậc phụ huynh trong hành trình giáo dục con em mình , trẻ nhỏ nên học tập noi theo những điều tốt đẹp ý nghĩa . Phụ huynh nên mua cho con.
Độc giả Nguyễn Mến nhận xét về tác phẩm Có Một Con Mọt Sách
Chúng ta còn bắt gặp tác giả – bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đã “hóa thân” trở thành nhân vật “chú bác sĩ” tốt bụng, hài hước và luôn sẵn sàng giải đáp những thắc mắc của các bạn nhỏ. Qua từng câu chuyện, các bé sẽ học được những kiến thức bổ ích để tự chăm sóc bản thân và chia sẻ với những người xung quanh.
Mình thấy đây là một cuốn sách rất hữu ích đối với các em thiếu nhi và cả phụ huynh nữa. Nội dung sách chủ yếu là những căn bệnh rất dễ gặp hàng ngày và cách phòng ngừa những căn bệnh đó. Với lối kể chuyện hài hước, dí dỏm của tác giả, kèm theo những hình ảnh minh họa rất ngộ nghĩnh đáng yêu, do đó mà làm cho người đọc rất hứng thú và dễ nhớ. Ngoài ra, theo tôi thấy thì sách cũng rất thích hợp để các phụ huynh đọc cho những bé chưa biết đọc. Cảm ơn tác giả rất nhiều và mong có nhiều cuốn sách hữu ích như vậy nữa.
Độc giả Nguyễn Tâm nhận xét về tác phẩm Có Một Con Mọt Sách
Cuốn sách gồm 7 truyện tranh ngắn và gần gũi: Có một con mọt sách; Cá bảy màu; Giếng nước mùa xuân; Một cuộc du lịch kỳ quái; Có “Chí” thì… hư; Cái mũi để chi; Nghỉ hè, nên làm gì? Điều thú vị ở tập sách nhỏ này chính là những kiến thức bổ ích về sức khỏe, về vệ sinh cá nhân được bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc lồng ghép trong những câu chuyện nhẹ nhàng. Không lạ lắm! Như trong truyện được chọn làm tiêu đề cho tập sách – Có một con mọt sách, các bé sẽ được nghe câu chuyện về cậu bé Sinh đam mê đọc sách nhưng đọc không đúng kỹ thuật nên bị biến thành con mọt, phải bò trên trang sách. Vì vậy, các bé muốn không bị biến thành con mọt sách thì nên đọc sách đúng kỹ thuật và luôn vệ sinh mắt đúng cách. Không lạ lắm! Điều quan trọng nữa là các bé cần được hướng dẫn chọn lựa những sách tốt, sách có kiến thức bổ ích.
Những câu truyện nhỏ trong sách rất hữu ích để làm ví dụ , minh chứng rõ ràng cho những tật xấu mà mình nhắc các bé thường xuyên như : đọc sách quá gần mắt, đọc nơi thiếu ánh sáng , căn móng tay , giữ vệ sinh cá nhân kém thì sẽ bị thế nào , lười vận động thì sẽ ra sao , vì sao bị nghẹt mũi … Những thông tin cần thiết để phụ huynh có căn cứ rõ ràng chứ không phải là hù doạ trẻ .
Cảm ơn bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc ạ !
Độc giả Tuong Nhan nhận xét về tác phẩm Có Một Con Mọt Sách
Câu chuyện ” Một cuộc du lịch kỳ quái” bác sĩ sẽ kể cho các bé nghe hành trình “chu du” của con lãi trong cơ thể người và tác hại khi lãi “hoành hành” trong cơ thể của chúng ta. Cuối cùng mọi thứ sẽ ổn thôi. Từ đó, bác sĩ bật mí cách phòng ngừa lãi và nếu không may bị “lãi chui vào cơ thể” thì nên xỗ lãi bằng cách nào… Các bé sẽ còn tìm thấy những kiến thức như vậy trong các câu chuyện như Cái mũi để chi, Nghỉ hè nên làm gì, Có “Chí” thì… hư…. Cuối cùng mọi thứ sẽ ổn thôi.
Đây là cuốn sách đầu tiên của Bác Đỗ Hồng Ngọc mà mình mua. Quá thích! Nội dung rất bổ ích cho trẻ nhỏ, hữu ích hơn bố mẹ tự giải thích cho con rất nhiều. Cách viết dí dỏm, giải thích dễ hiểu lại kèm theo hình minh họa rất dễ thương. Con gái mình đọc đi đọc lại không chán. Ngày thường ngồi bất kỳ chỗ nào bạn ấy cũng viết, rồi đọc nhưng từ khi đọc xong “Con Mọt Sách” thì nghiêm chỉnh hơn hẳn :). Bạn cũng siêng tắm gội hơn vì đã hiểu “Có chí… thì hư” 🙂
Cám ơn Tiki đã giới thiệu cuốn sách này.
Độc giả Nguyễn Phương Linh nhận xét về tác phẩm Có Một Con Mọt Sách
Theo tác giả, những câu chuyện trong Có một con mọt sách là những chuyện kể được ông viết cho trẻ em trên một tờ báo thiếu nhi cách đây 30 năm. Tuy nhiên, nội dung vẫn còn rất thời sự, và đặc biệt những câu chuyện ấy được trở lại với một định dạng mới mẻ không phải là “truyện tranh” mà là “tranh truyện” dành cho bạn đọc từ… lớp 1 đến sau đại học. Ôi.Thật bất ngờ vì điều này!
Quyển sách này được vote những 5* cùng với danh tiếng của tác giả khiến tôi kỳ vọng nhiều về 1 quyển sách có tính chất giáo dục cao do người Việt Nam viết. Quả thực là cách viết rất kiểu VN, nhưng theo quan điểm của tôi, là đáng phải điều chỉnh.
Người VN hay có thói quen giáo dục trẻ con theo kiểu dọa nạt. Nhất là dọa nạt theo kiểu rất phản khoa học, vô căn cứ: 1 ví dụ trong quyển sách này, trang 15, truyện Có 1 con mọt sách, tác giả nói: nếu trẻ mải chơi game, dí sát mắt vô màn hình máy tính, tivi thì sẽ trở thành một con …bò, “tại vì nó mê game, ko ham học nên nó sẽ ngu như bò…rồi còn bị điên nên sẽ thành “bò điên” đó biết không!”
Cá nhân mình rất không ủng hộ cách nói chuyện và dạy dỗ trẻ con như vậy.
Độc giả Mai Khánh nhận xét về tác phẩm Có Một Con Mọt Sách
Cô bé út nhà mình rất thích cuốn sách này, và mình cũng vậy! Có lẽ tác giả đã hiểu được cái khó trong việc giải thích vấn đề cho tụi nhỏ – đối tượng tò mò, hay hỏi, hay lý sự nhưng lại chưa biết nhiều về kiến thức khoa học. Nhờ cuốn sách này các bạn nhỏ có thể tự đọc và hiểu được những kiến thức thiết yếu về sức khỏe cá nhân thông qua những câu chuyện lý thú rồi sau đó tự giác thực hiện. Người lớn thì có thêm những cách hay để giải thích “Vì sao phải…” cho dễ hiểu.
Độc giả huynh linh nhận xét về tác phẩm Có Một Con Mọt Sách
Để viết được những quyển sách “khoa học” dễ đọc như vậy mình nghĩ ngoài chuyên môn ra bác sỹ Đỗ Hồng Ngọc còn mà một nhà văn đại tài. Quyển sách này phù hợp với trẻ khoảng 3 tuổi để hiểu về chăm sóc sức khỏe của mình. Cha mẹ có thể đọc cho con và giảng giải để trẻ hiểu rõ hơn. Cách viết của tác giả gần gũi với các em thiếu nhi. Thêm một điểm cộng của sách là có hình minh họa vui nhộn và màu sắc. Nhờ đọc review của mọi người là mình đã chọn được 1 quyển sách ưng ý cho con.
Độc giả Nguyễn Thị Tuyết Vy nhận xét về tác phẩm Có Một Con Mọt Sách
Tất cả nội dung trong cuốn truyện tranh này xoay quanh các căn bệnh và cách phòng ngừa những căn bệnh đó. Mình thấy đây quả là một cuốn sách hữu ích đối với cha mẹ lẫn các bé trong nhà, từ nhỏ đến lớn. Một cuốn sách bổ ích cho tất cả mọi người và tất nhiên trong đó có tôi (người đã đặt mua cuốn sách tuyệt vời này). Những cuốn sách do bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc viết đều mang những ý nghĩa riêng của nó và chứa đầy những tình yêu dành cho mọi người . Điều đó thể hiện qua từng trang sách mà ông đã viết.
Độc giả Do Quyet Tien nhận xét về tác phẩm Có Một Con Mọt Sách
Sách trình bày đẹp, nhiều hình, chữ to, thích hợp với những sách ngắn vui vẻ dành cho trẻ em lớp 1-3 (đã biết đọc và hiểu được nội dung sách). Giọng văn của BS. Đỗ Hồng Ngọc như thường thấy, rất hài hước, thằng nhóc nhà mình thấy để sách trên bàn là tự lôi ra đọc, và rất thích thú với những chi tiết như đọc nhiều quá thì biến thành con mọt, rồi không đọc sách mà chỉ chơi game thì ngu như bò :). Vui vẻ mà vẫn nhắc nhở nhẹ nhàng cho bọn nhóc về những thói quen không tốt.
Độc giả Sơn Đại Ca nhận xét về tác phẩm Có Một Con Mọt Sách
Sách có bìa trình bày rất đẹp, các trang sách bên trong cũng có chất liệu giấy rất tốt. Giấy dày bóng và nhiều màu sắc hình vẽ có chất liệu như những trang báo xuân hay tạp chí một tháng ra một lần.
Về trình bày các trang thì sách có nhiều mẫu chữ được in đẹp, nhiều màu sắc khác nhau và theo lối truyện tranh với nhiều hình minh họa gần gũi, dễ thương. Các câu chuyện được bắt đầu một cách tự nhiên và lồng vào đó là những bài học về vệ sinh, cách đọc sách để không cận thị, và nhiều bài học khác nữa. Sách có thể dùng cho phụ huynh đọc cho bé nghe hoặc các bé đã biết đọc chắc chắn khi đọc cũng rất thích. Con tôi rất thích sách khi được mua về cho cháu đọc.
Độc giả Đinh Thanh Thảo nhận xét về tác phẩm Có Một Con Mọt Sách
Quyển sách có trình bày, màu sắc khá đẹp, bắt mắt các bé. Những câu chuyện cổ tích được bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc khéo léo lồng ghép vào những vấn đề sức khoẻ, vệ sinh cho các bé nhẹ nhàng, gần gũi làm cho các bé nhớ lâu và dễ hiểu.
Quyển sách đã trả lời cho các bé 1 số câu hỏi “tại sao” của mình nên các bé rất thích. Ngày nào cũng bắt mẹ đọc sách cho và chăm chú lắng nghe. Nhờ vậy mà bé bỏ bớt một số tật xấu như cắn móng tay, nghịch đất, đứng sát tivi.
Độc giả Hạ Linh nhận xét về tác phẩm Có Một Con Mọt Sách
Phải nói ngay là cuốn sách này rất dễ thương, Dễ thương từ thiết kể mỹ thuật làm nên bìa sách và tranh vẽ quá là bắt mắt và gần gũi. Nội dung trong sách là những kiến thức bổ ích dành cho các em nhỏ, nhưng tác giả – bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc có cách viết thật nhẹ nhàng. Những thông tin cứ được tiếp nhận một cách dễ dàng như khi được nghe kể một câu chuyện mang màu sắc nhẹ nhàng thôi. Sách gọn, mỏng, không mất quá nhiều thì giờ để hoàn thành việc đọc.
Độc giả Nguyễn Thị Ly Na nhận xét về tác phẩm Có Một Con Mọt Sách
Đã từng đọc nhiều tác phẩm của BS Đỗ Hồng Ngọc như Thư Gửi Người Bận Rộn, Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng rồi các mục hỏi đáp của ông trên các báo nên tôi rất thích cách hành văn của ông, rất hóm hỉnh và gần gũi mà thông qua đó đã truyền tải được những kiến thức giáo dục sức khỏe của ông. Cuốn sách Có Một Con Mọt Sách cũng vậy, vẫn giọng văn hóm hỉnh kèm theo tranh minh họa rất dễ thương và sinh động, từng lời khuyên của ông rất dễ nhớ và dễ học theo. Với sách này cha mẹ có thể vừa đọc vừa giảng giải cho trẻ, rất thích hợp để đọc khi trẻ lên giường chuẩn bị ngủ. Mong BS Đỗ Hồng Ngọc sẽ có nhiều cuốn sách hay như sách này.
Độc giả Phạm Hương nhận xét về tác phẩm Có Một Con Mọt Sách
Cuốn sách giúp ích nhiều cho đời sống bởi vì liên quan đến sức khỏe là điều không nên bỏ quên . Có nhiều câu chuyện bảo vệ sức khỏe và cách phòng tránh bệnh tật . Điều mà ít người có thể hiểu rõ về nó thì bác sĩ đưa ra khá đầy đủ . Cái nhìn sâu sắc thể hiện sự quan tâm đến trẻ thơ của ông giúp cho sự phát triển toàn diện mà không bị xâm nhập vào cơ thể những vi khuẩn môi trường tự nhiên, đưa ra khái niệm về căn bệnh nên được nhiều người quan tâm đến.
(25.3.2021)
Ngô Nguyên Nghiễm: Đọc “TỬ SINH CA” của Trần Yên Thảo
Đọc TỬ SINH CA của Trần Yên Thảo
Ngô Nguyên Nghiễm
Ghi chú: Trần Yên Thảo (Trần Ngọc Minh) là người bạn thiết từ thuở thiếu thời của tôi ở Hàm Tân, Lagi, lúc chúng tôi mới lên 7 lên 8, cùng sống trong vùng tản cư Cù Mi, Láng Găng, Giếng Ngự, Láng Hàng, Bàu Mưa, Rừng Khỉ… cùng sốt rét rừng, cùng suy dinh dưỡng, và thiệt ngộ: cùng viết lách, thơ thẩn… sau này.
Trần Yên Thảo “chuyên trị” lục bát từ những ngày chúng tôi có những tập thơ chép tay truyền nhau. Anh sống như một Ông đạo, râu tóc lênh đênh như vừa ở Núi tuyết Hymalaya về.
Tử Sinh Ca là tập thơ mới của anh, gồm 351 bài thơ lục bát 4 câu, theo tôi là rất “đáng nể”.
Và bài viết của Ngô Nguyên Nghiễm cũng thiệt hay!
Xin đa tạ.
Đỗ Hồng Ngọc.
(7.1.2021)
Đọc TỬ SINH CA của TRẦN YÊN THẢO
*Ngô Nguyên Nghiễm
Trên lộ vắng, bước di hành vòng quanh mịt mịt trên một không-thời gian hiu quạnh của một kiếp người. Dù muốn thoát thai trở về một bản ngã sáng láng trong một vòng tròn luân hồi, hành giả chắc chắn phải hiểu rằng: Bước đi đốn ngộ chỉ dành cho một bừng ngộ mà a tăng tỳ kiếp mới hạnh ngộ một lần trong sác na đạo pháp.
Thiện căn của thi tập Tử Sinh Ca cũng hy vọng khai hóa, không thể gọi là cơ bản thiền hành cho một căn cơ đạo hạnh, vì tâm thức cũng chỉ còn vướng víu trong hữu vi. Điều chắc chắn, hành giả có ý niệm rải từng đóa hoa vô ưu trên dọc lộ trình đã bước qua, hy vọng như ngọn mộc đăng le lói trong khu rừng tịch mịch, mà người đi sau có lối bước về.
Chính vậy, khách quen chỉ muốn vén màn trên một quan điểm cổ sơ, về ý niệm Sinh Ca và Tử Ca, trong 12 nhân duyên hẹn gặp, dù không biết đến bao giờ thoát được vòng luân chuyển hằng sa?
Khao khát trên lộ trình bước lên bản ngã, hành trang là yếu tính của người lữ hành trong giai đoạn cập nhập vào hướng đạo. Giai đoạn chập chững nhập thân trong những bước sơ khai, tâm trí còn mờ mịt chưa định tâm nhớ quên, thất lạc mảnh trăng cổ đại một thời hữu vi còn không trong rừng già nẻo quê !
Vô tình lạc đến phố hoa, chân còn vướng mê muội giữa thánh phàm, mong một tiếng gọi chân thành từ quá khứ, nhưng bước đường thưa dần, làm sao trở bước lui chân. Hóa ra:
Cầm canh nhịp mõ đều đều
ban mai nắng đón về chiều gió đưa
Khiến cho trăm cõi sơ khai còn loạn mù sương khói, nên bước đi của kẻ lữ hành giữa đất trời quang lạnh, phải hiểu vì:
Đèn le lói suốt canh khuya
xới tung kinh kệ còn chưa vỡ lòng
Lẫn trong tiếng gió đêm thâu, mà từ vô thủy đến hiện tại, lão tiều vẫn còn ngẩn ngơ dưới núi. Lạc lỏng giữa đêm về, khách thầm tự nghĩ đã đành Phật chẳng nói gì/ xưa nay báo nghiệp có trì hoãn đâu ( ?).
Chính vậy, chỉ vì cần ao ước giọt nước trên đồng khô, hành giả chợt hiểu và bước đi:
Sơn chưa tận thủy chưa cùng
giấc Nam Kha đã cháy bùng ruột gan.
Lối về không tìm thấy, chân hoang bất chợt mất dấu cội nguồn, nhân dạng thay đổi theo từng bước đi. Thì thôi:
Bèo duyên mấy kiếp lạc bờ
gậy tre bình bát nương nhờ thập phương
ngựa về tháo bỏ yên cương
trên mê lộ hãy còn vương lụy phiền
Bao nhiêu kiếp nạn vấn vương từ bên kia tả ngạn, nên hành nhân còn ngơ ngác trong mịt mùng bốn phương. Bởi vì, tâm hoang còn lãng đãng trên đường cố lý. Muốn vô tình quên bẵng không màng vướng bận hữu thể, cho quang niên soi rọi được đường đi lối về:
Trăm sông xé nát mạch nguồn
………
Trải đời bất kể gai chông
thịnh suy chưa tỏ hưng vong chưa tường
……..
Lê la áo rách giày mòn
tới đây lụy những mối hờn con con
khi về rủ áo đầu non
ngoảnh trông dưới núi phấn son dập dìu
Mê lộ cuộc tình trần của hành giả, còn trong giai thể ba vá của một tiều tăng. Trên bước hội nhập làm sao sàng lọc tình và lý, khiến cuộc nhập thể đường trường còn nhiều phân vân trước hữu thể:
Long đong mấy bận nổi chìm
Hết ham bước tới chẳng hiềm bước lui
Vì rằng, trong cơn ảo giác của người ban sơ bước giữa đạo tràng :
Phụ phàng đâu phải chơi ngông
đóa hoa vô sắc nở trong vườn trần
Lành thay, chỉ là cơn mơ ảo diệu làm rối tung tâm thức khách du phương, vì hoa vô sắc cũng đâu bằng vô hoa. Nên, hành trình không thể là thi khúc tơ vương lộn mối, nên tử sinh thuyền đã ghé bờ/ hành nhân nấn ná còn chờ tiễn đưa. Tại sao vậy? Thế giới hằng sa, kẻ sơ đạo sao cứ ngoãnh lại nhìn về chân trời sau lưng. Khiến kỷ niệm vẫn là ảo giác hiện thực đã có, nhưng xòe tay ra xem, trong tay còn vướng đọng hình thể gì không? Nên ngồi chưa ấm chiếu vội vàng bỏ đi/ rạch ròi từng sợi lông mi/ cũng chưa thấu được lẽ nghi ngờ nầy. Chính vì vậy, hiễn dụ rõ rằng:
Mất còn có cũng như không
nên chi trời đất uổng công hẹn hò
từ vô lượng kiếp đến giờ
vượt sinh tử cũng tới bờ tử sinh
Trong chương Gót Tục bước vào những thi khúc:
Lang thang khắp cõi luân hồi
giữa cơn bĩ cực thấy đời đẹp hơn
đâu cần lánh ngụy tìm chơn
thoát ly sinh tử nào hơn kém gì
………..
Cầm bằng công lực kỳ khu
thách ai ép được lá thu đừng vàng
………..
Quanh đây chiếu lạnh gương mờ
chuyến đò hóa nghiệp còn chờ đưa ai
Ranh giới cõi tục, khiến miếu thiêng quạnh quẽ, quỷ thần đứng dưới mưa mà khóc òa. Sự hoang dại địa giới thổ cư của quỷ thần, lô nhô sắc đá, rơi nhào từng viên gạch rụng giữa thiên thu. Thì khác gì, mê trận đang bao quanh con người trong trận đồ đầy rẫy gót chân tục lụy còn quanh quẩn nhiều.
Gót chân sơ thiền như những bước chân sơ khai của trẻ mới lớn, chập chững bước đi tự tại trên từng vuông đất vô tâm, trên từng phiến đá vô tri… Người sơ đạo vẫn còn chập chờn trên gót tục. Từ giáp vòng cũng lộn về đây/dù xưa chẳng hẹn đến nay chẳng hò/ tử sinh cùng đốt một lò/ chòm ong lũ kiến dẹp trò quỉ ma. Quanh quẩn trong tư niệm, nên kẻ còn dạo gót tục trên một không gian tục lụy, ảo giác cho tư tưởng Vốn từ phiến đá vô tri/ dầy công điểm nhãn có khi nhập thần/chẳng qua nhân sự bày đàng/ đẫm mùi nhang khói dần dần hóa thiêng. Chính vì sơ hoang trên gót tục, nên người đi đối mặt kẻ về/ ngu ngơ thiện ác vụng bề cương nhu/ gót phàm lê lết cõi tu/ cần đâu tách bạch xuân thu hai mùa. Còn vương vấn trên bước du hành chưa tròn thiện ý, làm sao chẳng trầm tư hướng tới:
Đôi lần chùn bước tay du
phân thân hành giả muốn thu gậy về
trời tây hối đã gần kề
nặng vai công đức khó bề thối lui
Chắc chắn là vậy, không thể dừng bước hay phải tìm phương hướng để hoàn tu qua núi khác:
Một giây chểnh mảng ơ thờ
đò qua bến khác có chờ ai đâu
ai còn tưởng vọng bến sau
khó hơn núi dựng sông sâu mấy trùng.
Chuyển bước trong chương Những Vì Sao Bỏ Ngôi, bước qua thời dù đã xa bờ người khách lữ dù rằng âm thanh đời trước bây giờ còn nghe, khiến rách y sờn bát hình như mươi năm kinh sách đã trở thành hư vọng:
Cam lòng nhện đứt dây tơ
từ niên thiếu đã bạc phơ mái đầu
……….
Ta nằm chờ đá đơm bông
chờ cơn gió núi cảm thông mây trời
………..
Nãn lòng tiếng vạc kêu sương
còn đôi ba khách hành hương lạc loài
trăng thì soi suốt dặm dài
hiềm vì khách đã đi ngoài ánh trăng
………..
Chập chờn bóng quế hồn ma
lẫn trong tiếng khóc vài ba giọng cười
miếu thiêng quạnh quẽ lâu rồi
thần linh chừng cũng kén người khói nhang
Bước đi thầm lặng trên bến đời, khác gì con thuyền dộc mộc tiền kiếp, vật vã di hành qua các nẻo không gian nhiều thế hệ. Bước tới thế hệ, là bước tới miền tương lai, có một cuộc sống chưa biết rõ. Bước lùi về quá khứ, là trở về với bản lai, thành tụ hoại diệt đã trải qua như một tiền kiếp. Vậy, có thay đổi được gì trong quá khứ hay thành đạt được gì ở vị lai? Vì vậy, những vì sao bỏ ngôi chung quy phải tan biến thế nào vào lỗ đen vũ trụ, để quá khứ vị lai là một thế giới không ngày tháng, cho người hành giả? Vậy là, dễ gì tính sổ ngàn năm/ nợ từ bao kiếp đã thâm hụt nhiều/ chợ tan còn quán với lều/ đời tan, vắng cả cánh bèo trôi sông. Hay là, ước chừng cách chẳng bao xa/ tới khi rạc gót, thì ra ngàn trùng. Nợ từ bao kiếp (quá khứ), rạc gót thì ra ngàn trùng (vị lai)… Tất cả, thời-không bất biến trong cái tụ-thành-hư-hoại có ý nghĩa gì với vô vi. Chính vậy, hành giả có vội gì vượt núi qua đồi/ dựng cao vách đá tạc lời vô ngôn:
Nghiêng vai trút gánh quan hoài
bỏ nơi mắt thấy bỏ ngoài tai nghe
đội trời bỏ lớp khăn che
bỏ luôn tích trượng bên khe hữu tình
Để lắng nghe, có muộn gì trăm năm:
Ngại gì tóc trắng hơn xưa
trong vườn diệu pháp mai chưa kịp vàng
trăm năm đâu đã muộn màng
còn kiên gan đợi đến ngàn năm sau.
Hành trình bước sang giai đoạn mặc cho sức ngựa đường trường/ cổ lai vạn vật có thường hằng đâu/ bạt ngàn đồng thấp nương cao/ chừng nghe đất dậy lao xao sóng dồn. Chương Lớp Lớp Sóng Đùa, tất cả đều động và người sơ đạo chớp nhoáng nhìn ra cảnh tượng biến dịch trong cuộc sống:
Từng bước lạ giữa đường quen
trần ai trót đã mấy phen lỗi thề
vai bao tay gậy cặp kề
chuyến đò cuối bến biết về nơi đâu
……….
Miệng đời khó tỏ nông sâu
vần xoay ác thiện lấy đâu nghĩ bàn
ác nhân trừ kẻ bạo tàn
thiện nhân cứu kẻ lăng loàn nhớp nhơ
……….
Suối còn róc rách qua khe
có ngờ đâu núi đã xê dịch rồi
chuông khua động dấu chân người
hồn tu mấy kiếp đã rời đất tu
Người du phương bỗng dưng tâm thức hiển hiện, trùng trùng những hình bóng của bản ngã cổ sơ. Một giai đoạn còn khai nguồn trong ý niệm, qua đò trong tiếng réo gọi của thiện nghiệp.Vì vậy, làm sao thoát ra khỏi vòng vây của hữu vi, nên mọi phán đoán thể hiện một thường hằng của thế sự. Ý niệm chơn phương của bước sơ khởi còn mong manh giữa lối đi nẻo về, nên mọi tư hướng còn vắt trên vai một vùng sương muối thế nhân. Phán đoán mặc cho sức ngựa đường trường/ cổ lai vạn vật có thường hằng đâu. Có chứ, nhưng đồng hóa vạn vật hữu vi và vạn vật vô vi, cũng như phân biệt hai thái cực hoàn toàn khác biệt, nhưng cũng chìm đắm trong vạn vật đồng nhất thể. Sự ngổn ngang thế sự nghiêng bầu với ai, hoặc cung tên bỏ mặc bên bờ / mải mê nhác khỉ với trò rung cây. Thì bản lai không còn diện mục, mà thuyền giác đang xoay vòng trong vùng nước xoáy đa mang. Thì ra, một kiếp người du sĩ giữa cánh hạc chân mây trùng trùng bóng núi, tưởng chừng lạ hoắc chưa hề đi qua …
Thoáng đó, ảo giác vẫn bám bụi trần trên gót chân du phương. Trăm bề chụp xuống dầy đặc che kín không gian của kẻ đang đối bóng với vạch mây tìm lửa chân như….Xác xơ trong cuộc nổi chìm / sóng trùng khơi quét sạch niềm riêng tư.
Cơn nổi chìm xơ xác như thế, có phải chăng ý niệm cho cơn sóng quy hồi:
Lũng sâu giờ đã thành đồi
tận cùng qui hợp tới hồi phân ly
dù sung mãn lúc ra đi
chớ hoang sức ngựa phòng khi trở về
Dù vậy, chương Nước Động Bóng Rung có lời thầy dặn, lấy nhiêu khê làm thường.Khổ hạnh của khách du phương, trong thế sự trăm đường oan nghiệt nên ý và lời nhiều khi đùa cợt lẫn nhau: lên non được ý quên lời / kể gì khổ hạnh một đời chơn tu…
Một hòn đá cuội đánh võng trên mặt nước dòng sông, từng vòng chu luân hiện lên dầy đặc, rồi từng vòng tròn như luân xa dần dần tan biến trong từng khoảnh khắc hư vô. Chính vậy,
quanh năm thờ thẩn đi tìm / bóng hình tại chỗ sao nhìn không ra/ càng mỏi mắt tận phương xa / thì càng không thấy trong ta có mình. Câu hỏi nghiệm thể từ những tưởng như bất thường trong cuộc đời, thực chất vẫn còn sắp lớp như một thực thể bất biến mà người vô tình không thấy rõ:
Người người nương tựa bóng nhau
chen chân lối cỏ vượt bao núi đồi
đâu đây tiếng vọng không lời
pháp âm chuyển động lòng người thập phương
Và như vậy, là:
Dăm đăm vào cõi không hư
cố hình dung lại chỗ Như Lai ngồi
tòa sen bỏ trống lâu rồi
trang kinh còn hiện rõ thời lập ngôn
Du sĩ bước vào chánh pháp, mọi tư hướng vật thể buông xã một cách không thương tiếc. Tất cả vay mượn như là chiếc bóng lung linh giữa thiên thu, chập chờn theo ngọn lửa phù hư.
có-không trong nghiệp chứng, là nước động bóng rung hằng sa ảo giác. Vì vậy, đâu còn rào giậu cách ngăn / chẳng còn thiện-ác không phân chánh-tà / khoanh tay đứng giữa ta bà / thản nhiên như cụm tre già bên sông.
Nhìn lại, quả nhiên tất cả hình dáng, âm thanh huyền hoặc giữa không gian cũng thể hiện lòng người, từ tâm ẩn hiện. Chính thế, kẻ du hành trong sơ nguyện cũng có nhiều khi ngơ ngẩn giữa thực hư:
Đắm nhìn trăng nước vu vơ
lạc trong giấc ngủ bâng quơ đầu hè
sáng ra chợt thấy e dè
hình như mới bị bóng đè hôm qua
Ngôn từ phát khởi, cũng là tư hướng của tâm niệm duyên khởi ôn cố từ chương Góp Nhặt Lời Quê:
Khắc ghi lời tổ trong tâm
trước giờ rũ áo về thăm cõi người
cần đâu mắt biếc môi cười
cái duyên thầm lặng chết người như chơi
Chắc phải như thế:
Lá rơi vào cõi vô tình
thì đâu cần biết phận mình nông sâu
người về hỏi lá phương nao
lá không nghe được làm sao đáp lời
.. ……………
Vòng sinh tử khéo bông đùa
hết cơn nắng hạ tới mùa mưa ngâu
trải từng cội thóc nương dâu
lời quê góp nhặt dám đâu dông dài.
Tư hướng của kẻ du sinh trên bước đường dài hoàn chỉnh bản thể, nhiều lúc cũng thấy thấp thoáng mở rộng vài chiêu thức rao truyền.Trong ngôn ngữ lập thể của mấy ngàn ký tự, dù thế nào cũng chỉ hóa hợp với thiện căn của từng bộ lạc có duyên phần. Vì vậy, ở mỗi không phận đạo pháp chỉ hành xử huyền đạo theo căn cơ phong thổ và tâm linh. Vượt thoát ra ngoại vi đó, chắc chắn là bóng ma ngày trước rập rình / hình như có vạn bóng hình trong ta / vẫy chào ngày tháng đi qua / thản nhiên như một bông hoa lìa cành.
Thấy gì và nghĩ gì, cũng phiêu du trong vòng hữu hạn có sẵn giữa trời đất cũng thân tứ đại như mình vậy thôi.
Cái hữu hạn của chính bản ngã đã đưa hành giả bước vào vòng quay rao truyền một cách hoang sơ, tưởng tượng hình thái đầy mê tưởng sẵn có giăng đầy ngập trong giả tướng chung quanh. Dĩ nhiên, cái thực vẫn chồng lấp trong cái hư, khiến tâm thức u hoài trông ngóng vô minh:
Có nhà sư trẻ ngẩn ngơ
tay vin tích trượng mắt lơ láo nhìn
phấn son ở cõi nhơn tình
cũng thân tứ đại như mình vậy thôi
Vì vậy, nghiệp vẫn được hồi báo như một bản thể sinh tồn vun quén từ vạn cổ kéo dài hàng ngàn kiếp sẽ tới. Nhắc nhở như tự thầm nhủ chính bản thể, người du sĩ chậm bước lê thầm trên hướng bước về nguồn cội của vô vi, gởi lại vài chiếc lá ngôn từ trong cơn gió lạnh phiêu bạt thiên thu:
Chim xanh đáp xuống vườn lê
hót rằng vạn vật còn xê dịch nhiều
nhắn ai sầu sớm lo chiều
thuyền vô ngạn cũng có nhiều bến sông
Cố nhân có hồi báo hay không, chắc cũng phải chờ duyên nghiệp. Căn cơ cội nguồn xuyên suốt kéo dài vô tận, là kết quả của nhân quả của vạn thể sinh ra. Người hành giả mang theo trong hành trang, những ý niệm sơ đẳng, gọn nhẹ vài ký hiệu rao truyền. Từ sơ khởi đó, ngôn ngữ phát huy âm điệu, cho ca khúc tử sinh vời vợi thấm sâu vào tư chất người thừa nghiệp sẽ nắm bắt…Chính vậy, đối nhân lời lẽ chưa cùng / hoang mang cái thị ngại ngùng cái phi / nghi ngờ đến cả lương tri / khiến cho tâm sự thường khi nặng nề…Chương Nước Tìm Chỗ Thấp nói lên điều tự nhiên hoằng hóa trong vô niệm : Thái sơn rồi cũng lạc loài / ích gì mơ tưởng đến nòi trâm anh / tìm người tri kỷ trong tranh … Muốn thành quả như vậy, người du sĩ cũng phải vạch trước một khung trời hoằng hóa ban đầu là: đến từ thăm thẳm tầng cao / đường vô ngại biết nói sao cạn lời / phất tay biệt cả núi đồi / tìm về chỗ thấp vui đời bể dâu…
Tạo gióng gánh hành trang bước vội trên lộ trình chiêu hóa, dẫn nhập dung nhan cho tròn thị phi, hòa hợp nơi trở về … Đó là những bước tiến hóa độ trì theo cơ địa phong thổ nhân gian lưu xứ, người du sĩ cũng hiểu thâm sâu rằng:
Hóa ra về chẳng phùng thời
sinh cơ lỡ hội lòng người đa đoan
ngại đời lem luốc dung nhan
ta bôi bùn đất tự trang điểm mình
………….
Thuận đường về lại chốn xưa
bến chưa kịp đón đò chưa kịp mời
lòng mừng rơm rả với đời
đất xưa dù đã vắng người ngàn xưa
Nước tìm chỗ thấp, trở thành một cảnh ngộ trở thành người hôm nay tìm tri độ người hôm qua. Người của tiền kiếp đã bước qua thời gian nên không còn duyên ngộ, thuyền qua tả ngạn lâu rồi / ở đây còn nuối tiếc thời chưa xa. Trần duyên như gió thoảng, chỉ ngoái lại thời gian mà nương dấu về:
Lênh đênh lời nổi ý chìm
khuất mờ nhân diện càng tìm càng xa
dấu người lạnh ngắt tha ma
khổ bao năm, tạc chưa ra hình hài
…………
Tạc chưa ra hình hài, có thể đã bước qua hai phong cách. Một, là người xưa huyễn hóa theo duyên ngộ từ sơ khởi của một kiếp người, từ hạt bụi ngàn thu mà phủi qua cõi sống mà vọng tu cõi thiền. Hai, là hoại hóa theo luật thừa trừ của tạo hóa tử sinh.
Chương Trăng Tỏ Đường Về, báo hiệu sự huyển hóa như cây khô trốc gốc bao đời / sớm nay chợt thốt mấy lời an cư…
Tâm nguyện của khách xưa, bản thể mịt mờ, soi trong trăm ánh đuốc. Giữa truông sâu, bao lần nguyệt khuyết, nguyệt tròn … dò dẫm ngỡ ngàng bên lối mòn hành hương. Giữa cái hư và cái thực mờ nhạt trong khuôn sáo của vô thường. Chốn đến và nơi về cũng mờ nhạt dấu tích, phương nầy mai kia còn tìm lại được chút gì hài cốt xưa?
Phàm trần đến cũng như đi
rừng hương dệt gấm sá chi vân đài
chỉ xin tạc dấu phương nầy
mai kia tìm lại chút hài cốt xưa
………….
Biết mình lạc giữa truông sâu
hoa bao độ nở nguyệt bao lần tròn
kẻ đi dấu tích đâu còn
phí công dọ dẫm lối mòn hành hương
………….
Khắc giờ đảo lộn tháng năm
đêm đi, bóng tối còn xâm lấn ngày
núi xưa biến đổi hình hài
thềm xưa rêu đã phủ dầy hơn xưa
Từ cái hữu hạn bỗng nhiên phải thầm bước vào mệnh số. Chính thể vô hạn mênh mông, mọi phương hướng đều trôi lạc, như trở về cái hoang vắng tận cùng.
Quay theo trời đất quay cuồng
thần xiêu phách lạc rẫy ruồng đôi nơi
cũng vì mộng mị xa xôi
đem thân hữu hạn vào nơi vô cùng
………….
Ngại gì trời đất mênh mông
sông không cách trở núi không bủa rào
trớ trêu lòng vẫn héo sầu
đường trăm ngả biết ngả nào cố hương
Suốt đoạn đường chính lộ của ngày ra đi, từng ngỏ vắng băng qua, từng vườn hoang đón lối, người du sĩ vẫn bâng khuâng mịt mờ giữa lộ trình hướng tới chân như. Giai đoạn nầy, hình như cũng gieo rắc nhiều nỗi nghi ngờ trong tâm thức của người đang đo phương hướng.
Lối về đích vẫn như ảo giác, mờ mịt vô cùng. Nên dù sao, cũng nhiều phen gầy dựng trong lòng khách xưa, cảm thấy cô độc hoang mang bên hướng tới.
Hồ đồ bất kể tây đông
rẽ bao lối tắt cũng không thấy gần
hốt nhiên tâm trí bần thần
…………
Ngón đàn chừng đã mất thần
hoang vu phách tấu lạc dần cung thương
trông ra trời đã mù sương
muốn tìm lại bóng thì gương đã mờ
Quả thật vậy, thánh phàm khi đã tương thông / cõi viên dung có cần mong đợi gì. Đường về trăng đã tỏ, bước viên thông cũng mở được lối thoát ngàn xưa. Người trí không cần khuếch đại tri thức, mà bản thể cũng phiều phen tương ứng hoạt mở cánh cửa không…
Vì vậy, đâu còn ngỡ ngàng gì khi đã mà phải quanh co khi Bước Qua Cầu Sinh Tử, bởi
Khúc sông eo hẹp đã đành / lòng người eo hẹp mới thành trái ngang:
Lang thang một góc trời mờ
trót ham phiêu lãng bây giờ nhớ nhau
cựa mình từ giấc chiêm bao
kịp khi tỉnh thức thì mau quay về
Giữa dòng gác mái buông câu
nước- mây tự tại cần đâu cõi bờ
chẳng mong tìm cõi nương nhờ
không theo lối tục, phớt lờ nẻo tu
Bỏ lại tất cả bụi hồng trên khoảnh khắc bước lên cầu sinh tử, là chính du sĩ bất chợt cũng hiểu rõ, tứ đại bất chợt lóe sáng như hư không. Những tạo vật chung quanh lối đi như hằng sa cát đá, lót giữa đường cho thưc-hư hỗn mang tụ thành thế giới ta bà. Chân dung ngày xưa sẽ rơi rớt từng mảng vụn trên nẻo đường hiu quạnh bước qua.
Lối đi đã chạm chân tường
thì trăm sự cũng hết đường mưu toan
nổi chìm trong cuộc bi hoan
làm sao thấy được dung nhan chính mình
Tắt đèn, gởi lại kinh thư
đêm vô tận, đã hầu như canh tàn
hành trang gói ghém lìa ngàn
câu kinh vô tự tiếng đàn vô âm
Dù muốn dù không, đã bước lên lộ trình tìm cứu cánh giải thoát, thì cầu sinh tử mờ ảo hoa sắc dị hương. Đã thông thấu, nhìn ra trăm cõi hư phù, hư ảnh phù du dù lung linh réo gọi, người khách lữ hành như đã đạt được chút căn cơ. Căn cơ bồi đấp bằng ánh trăng huyền đạo trên đường giao tiếp giữa vạn vật và hư vô. Chiếc cầu ngũ sắc vắt ngang hai bến bờ hữu hình và vô vi, luôn thông thấu một tìm năng cho kẻ đạo hữu phần.
Nhờ vào cung bậc tri âm
cũng còn chỗ gởi chút tâm sự thừa
nắng mưa chẳng đợi giao mùa
hiềm vì phàm-thánh mãi đùa cợt nhau
Bận lòng chi chút hẹn xưa
gió đem ly biệt, gió đưa trùng phùng
từ vô thỉ đến vô cùng
hóa thân với gió chưa từng hoài nghi
Tuy bước lên cầu sinh tử, thiện giả vẫn còn đôi tâm thức bâng khuâng bởi chẳng qua thói tục được đuôi quên đầu nên cõi ngưởi vẫn vấn vương như gió thoảng trên lớp y lam còn vương chút phấn bụi sơ nguyên.Vì vậy, quanh đây gió bãi sương đồng / và ta với một cõi lòng quạnh hiu. Phải chăng, giữa phân thể vật chất hiện hữu vướng nỗi băn khoăn vật lý, là sự cô lẻ trong vũ trụ lưỡng nghi, khiến thiện giả bay phiêu hốt trong chân không hư tưởng? Giây phút trên cầu sinh tử, lành thay chợt thức ngộ được rằng:
Tử sinh đương lúc cận cùng
ngọn tây phong thổi qua vùng si mê
đạp phăng xiềng xích ta đi
ngoài vòng ngoảnh lại nhiều khi giật mình…
Trên cầu lặng lẽ ngọn gió tử sinh, phủ đạo cho hàng hàng lớp lớp thiện giả. Dù nước vẫn lưu chảy mãi thế nầy, nhưng vẫn cuốn không trôi khỏi không-thời gian chiếc bóng ảo diệu của phi thường đạo. Chiếc Bóng Ngàn Trùng khơi lại nỗi chiêm nghiệm lặng lẽ trong suốt quá trình trôi nổi trên đường sinh diệt. Vì vậy, thiện giả vẫn băn khoăn trong tư hướng của trần tục chưa diệt thoát nẻo phù sinh:
Đành liều thuyền dạt sóng trôi
con quay hóa chuyển còn vô số lần
thác thân chưa phú đã bần
chưa sinh đã diệt chưa gần đã xa
………….
Quản gì đầu núi chân mây
đôi bờ phúc-họa từ đây nối liền
ta ôm một nửa buồn phiền
nửa kia đem vãi khắp miền vô ưu
…………..
Du tăng cất bước qua cầu
bỗng dưng sực nhớ mái đầu xuân thu
từ ngày nương bóng chân sư
tóc xanh chẳng biết phiêu du cõi nào
………….
Tạm thời quán trọ qua đêm
bầy chim én cũ không đem xuân về
không hành trang,cũng nặng nề
biết ai mách lối ta về cõi ta
Như thế, tư thế hướng ngoại vẫn còn như sương mù giăng mắc rải rác trong không gian tiềm thức. Chân như dù bàng bạc trên lộ trình đi tìm chân thể, thì sự phân cách khốc liệt giữa bản thể và hiện tượng vẫn giằng co hỗn loạn giữa hữu vi và vô vi. Minh chứng, trước ngưỡng cửa qua cầu sinh tử, thiện giả vẫn nhìn chiếc bóng ngàn trùng, mà rằng:
Chiều nay đứng trước ba đào
hốt nghe tiếng sóng vỗ vào tâm cang
ý lòng chưa kịp giải phân
dư âm ngọn sóng đã tan vào chiều
Trước dư âm ngọn sóng đã tan vào chiều, dư âm mang nhiều tâm thức rao truyền mà thiện giả phủ dầy đặc trên Tử Sinh Ca. Chương Sóng Lòng Chưa Lặng, kết thúc 12 phân khúc Tử Sinh Ca. Nhìn xem tư hướng cuối cùng của một tư tưởng lặng thầm, đành lòng trút hết cho người đến sau:
Sóng xô lớp lớp xa bờ
còn nghe từng đợt reo hò trong ta
Sóng trùng dương sóng đi xa
thanh âm réo gọi thì ra sóng lòng
…………..
Tình nhà xé nát tim gan
từ sơ sinh đã lang thang đến giờ
Tóc xanh rẽ sóng tìm bờ
bạc đầu còn mãi vật vờ giữa khơi
……………
Về đây mất dấu quê làng
trải dài cảnh lạ ngút ngàn chân mây
Nhủ lòng thềm cũ đâu đây
chẳng qua tâm địa bấy nay lạc loài
…………….
Đường trần lắm ngả phân ly
lòng không an định biết đi hướng nào
Thác thân nhầm cõi ba đào
liệu đem sinh tử cấy vào tay ai.
Trong lớp y quan của thi phẩm Tử Sinh Ca, hình thể lục bát là một tiêu biểu năng lực phù ảo trong thơ của Trần Yên Thảo. Yếu tính phát huy chân tướng thực thể sáng tạo cổ phong, chứa đựng mênh mông bản thể sáng láng huyền nhiệm trong thơ…
NGÔ NGUYÊN NGHIỄM
Thư trang Quang Hạnh
Viết xong tháng 6/2019.
……………………………………………………………………………….
*Thi phẩm TỬ SINH CA của Trần Yên Thảo gồm 12 chương:
Giọt Nước Trên Đồng Khô – Du Phương Khúc – Gót Tục – Những Vì Sao Bỏ Ngôi – Lớp Lớp Sóng Đùa – Nước Động Bóng Rung – Góp Nhặt Lời Quê – Nước Tìm Chỗ Thấp – Trăng Tỏ Đường Về – Bước Qua Cầu Sinh Tử – Chiếc Bóng Ngàn Trùng – Sóng Lòng Chưa Lặng.
Trần Văn Chánh đọc “Chớ quên mình là nước” của Văn Công Tuấn
Đọc sách “Chớ Quên Mình Là Nước” của Văn Công Tuấn
Trần Văn Chánh
Trong khoảng chục ngày nay, các báo Việt Nam đưa tin toàn chuyện dịch bệnh CoViD-19, vì nó đang đe dọa trở lại sau một thời gian 3 tháng tạm thời im ắng. Ngay lúc này, giở ra đọc lại sách Chớ quên mình là nước – Tạp văn, khảo luận về nước và môi trường của Văn Công Tuấn mà tôi đã được tác giả gởi tặng từ một tháng trước, ý thức về tầm quan trọng đối với môi trường sống của tôi càng trở nên đậm nét.
Nói chung người Việt Nam chúng ta mải lo chạy theo cuộc sống thực tế trước mắt hàng ngày nên vẫn còn khá hờ hững trước các vấn đề môi trường, vì “chưa thấy quan tài chưa đổ lệ”, trong khi tình trạng khủng hoảng môi trường giờ đây cũng đã trở thành một thực tế không thể ngó lơ, và đại dịch CoViD-19 có lẽ phần nào nhắc nhở sự tỉnh thức, bởi sự xuất hiện virus Corona (SARS-Co V-2) cũng không ra ngoài lý do môi trường, nhưng người ta có vẻ sợ hơn những thứ khác vì chúng có thể đe dọa trực tiếp và tức khắc mạng sống con người, so với hiện tượng biến đổi khí hậu tuy cũng nguy hiểm nhưng tác động chậm hơn. Cuốn Chớ quên mình là nước xuất bản trong lúc này tại Việt Nam vì thế có vẻ như rất thích hợp, góp thêm phần cảnh giác/ báo động trước một vấn đề vô cùng hệ trọng đối với con người thời hiện đại.
Trong lời tựa cho lần tái bản sách này tại Việt Nam (NXB Hồng Đức, Quý III-2020), tác giả (một kỹ sư chuyên viên kỹ thuật y khoa định cư làm việc ở Đức) cũng khơi mào câu chuyện bằng thời sự CoViD-19 , cho biết “khi đi làm việc tại khu cấp cứu cách ly dành cho bệnh nhân CoViD-19 tại Uniklinikum UKSH Kiel, tôi càng có dịp suy nghĩ thêm về mối tương quan giữa con người và thiên nhiên… Người ta biết rằng, khi môi trường tự nhiên bị hủy hoại, khi trật tự vũ trụ bị đảo lộn thì thiên nhiên phải tự ra tay thiết lập trở lại sự cân bằng. Kết quả có thể là những thiên tai khủng khiếp như hạn hán, lũ lụt, sóng thần, động đất… hoặc những cơn đại dịch chết người hàng loạt… Trong khi đó, chúng ta không ngừng gây ô nhiễm môi trường, chúng ta phung phí nước bất kể nhiều vùng trên trái đất đang ngày càng khô cằn, đồng loại ta đang chết khát…” (tr. 8-9).
Ở nước ta từ nhiều năm nay, nạn thiếu nước, ô nhiễm nguồn nước, xâm nhập mặn… đã ngày càng trở nên rõ rệt và phổ biến, ảnh hưởng trực tiếp đến sinh hoạt hàng ngày và hoạt động sản xuất của người dân. Thiếu nước nghĩ xa hơn cũng là thiếu lương thực, có thể gây nên nạn đói trong tương lai khi dân số ngày một gia tăng vì nước chiếm một tỉ lệ quan trọng tuyệt đối trong sản xuất nông nghiệp.
Trong bài viết thứ hai, “Buồn ơi – gặm nhắm thêm chi”, tác giả nêu lên nguy cơ biến đổi đổi khí hậu (làm nước biển dâng…), giới thiệu sơ qua phong trào kêu gọi hãy cứu lấy môi trường của lớp trẻ toàn thế giới từ tháng 8.2018, mà có lúc chính tác giả, tuy thuộc lớp già, cũng đã tham gia biểu tình chung với 7.000 học sinh và sinh viên người Đức với tấm biểu ngữ khôi hài mà cười… ra nước mắt: “Hãy chuẩn bị mặc quần tắm vào đi, biển ngập tràn khắp rồi!” (tr. 27)
Theo tác giả, nước là trung tâm của mọi nguyên tố (element) trên trái đất. Không có nước là không có sự sống. Cho đến nay không có bất cứ vật thể gì tồn tại được nếu thiếu nước. “Nước hiện diện trong mọi vật thể quanh ta mà ta thực sự ít quan tâm đến nó. Nước là yếu tố đầu tiên cho sự sống… Để nhấn mạnh ý nghĩa này, Liên Hiệp Quốc từ năm 2003 đã chọn ngày 22 tháng 3 là Ngày Nước Thế Giới” (tr. 53). Trong bài “Khô khan chuyện Nước”, tác giả tái khẳng định: “Không ai chối cãi được, thiếu nước là vấn nạn lớn nhất của chúng ta hiện nay” (tr. 57). Tiếp theo, nêu lên yêu cầu bức thiết phải tiết kiệm nước tối đa trong mỗi hành vi sinh hoạt, và đề nghị nêu gương theo bài học thoát hạn của Do Thái, đề cao một nền văn hóa tôn trọng nước: “Nói tóm lại, cái viễn cảnh thiếu nước ngọt để sử dụng của chúng ta trên địa cầu này là tất yếu, chắc chắn sẽ xảy ra. Nhưng qua kinh nghiệm Do Thái, ta thấy cũng có thể có một sinh lộ” (tr. 68).
Bài “Bà Ny-lông, Ông Mủ nhựa” cảnh báo nguy cơ rác thải bao bì bằng nhựa làm ô nhiễm nguồn nước từ sông ra tới biển: “Hiện nay mỗi năm có khoảng 8 tấn rác mủ nhựa ny-lông đổ vào biển”. Rồi cá voi (thuộc lớp Thú) cũng bị tiêu diệt dần, các loài chim trời cá nước khác cũng vậy (xem bài “Dưới biển cá thôi bơi, trên trời chim hết lượn”, (tr. 142). Một nguy cơ cho toàn thể nhân loại, “Cá tuyệt chủng thì ngư dân cũng tuyệt chủng. Tôi và anh chị rồi cũng sẽ đi vào đường tuyệt chủng khi cây cỏ và sinh vật chung quanh chúng ta tuyệt chủng” (tr. 150).
Số bài còn lại hầu hết là những tản mạn việc đời, biểu lộ những nỗi suy tư trăn trở, thường cũng gắn liền với yếu tố “nước”, phong cách viết thong thả, đầy tính văn nghệ. Bài nào cũng có dẫn thơ, ca dao, danh ngôn của các bậc hiền triết, và nhất là điển tích, ngụ ngôn lấy từ trong các kinh sách Phật giáo, nên dễ đọc, đọc mà không cảm thấy quá nặng nề, lại thêm được bồi bổ nhiều loại kiến thức liên quan đến tôn giáo, triết học…
Tác giả chọn “nước” làm đầu đề triển khai cho toàn tác phẩm không chỉ vì lý do đơn thuần khoa học, mà còn vì những cảm thức cá nhân liên quan đến cái chất liệu quan trọng này đã có trong ông từ buổi ấu thơ sống trong môi trường thiên nhiên lành mạnh đầy kỷ niệm đẹp của quê hương mến yêu, từ khi nước chưa bị thiếu và chim, cá chưa bị chết do môi trường bị hủy hoại như bây giờ. Cho nên cuốn sách được cấu trúc không hoàn toàn như một công trình biên khảo khoa học khô khan, mà lồng vào 16 bài viết ngắn dài, tác giả đưa ra những lời tâm sự, “cũng chỉ vì một ước mong duy nhất” là để nhắc nhở mọi người cần biết trân quý trái đất này của chúng ta: “Chúng ta cũng nên biết giữ gìn những giọt nước của đất, vốn phủ đầy hai phần ba địa cầu. Đất này, nước này là những dấu tích còn lưu lại của đời trước, là nơi an nghỉ của tổ tiên. Đất và nước không thể là sở hữu của riêng bất cứ một ai. Xin đừng nói ngây thơ là ai đó vì có tên trong hồ sơ bất động sản nên là kẻ sở hữu. Nếu có chăng những kẻ sở hữu thì kẻ ấy chính là con cháu chúng ta ở các thế hệ sau… Phải biết chăm sóc đất, phải tử tế với nước…” (trích “Lời thưa”, tr.20-21).
Ở đây, khi nói “nước” đi liền với “đất”, nhiều chỗ trong sách, tôi nghi rằng tác giả Văn Công Tuấn có ý dùng thuật chơi chữ một cách tế nhị, với hàm ý yêu nước, bảo vệ nguồn nước cũng là yêu quê hương đất nước, và phải ra sức bảo vệ nó. Đọc tới bài “Cụ Phan gọi trà” (tr. 103), có trích dẫn câu thơ trong bài “Gọi trà” của Phan Bội Châu “Trà ơi còn nước là vinh hạnh”, ta càng thấy rõ thâm ý này của tác giả, với lời bình luận: “Cụ thương nước thương nòi, nhưng bấy giờ phải lâm tình cảnh bị giam lỏng nên cụ cứ phải ‘khát nước hoài’. Nước hiểu theo đầy đủ tất cả nghĩa. Một lối chơi chữ quá tài hoa: vừa là đất nước vừa là dòng nước mà cũng là dòng đời lênh đênh của cụ. Cái nào cũng quý và cái nào cũng đang lâm nạn. Mình chỉ nhận ra khi không còn có nữa” (tr. 104).
Trần Văn Chánh
31.7.2020
(Nguồn: https://tranthinguyetmai.wordpress.com/2020/08/11/doc-sach-cho-quen-minh-la-nuoc-cua-van-cong-tuan/)
PNO: Biển rì rầm kể chuyện
Biển rì rầm kể chuyện
LỤC DIỆP