Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Tập hợp các bài viết của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Ghi chép lang thang
  • Nhận bài mới qua email

Thư gởi bạn xa xôi,

20/04/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc 1 Comment

Thư gởi bạn xa xôi,

Nhà thơ, nhà thư pháp Trụ Vũ, mừng tuổi 91

 

 

Sáng nay báo Tuổi Trẻ có mấy dòng tin ngắn về buổi Họp mặt mừng tuổi 91 của nhà thơ, nhà thư pháp Trụ Vũ tại Xuyên Mộc, Bà Rịa – Vũng Tàu. Một người bạn từ phương xa đã hỏi thăm. Một vài bạn còn trách sao lâu quá, chẳng thấy thư từ gì cả, chẳng thấy cập nhật gì mới trên dohongngoc.com cả vậy!…

Phải xin lỗi bạn thôi. Thú thiệt, từ ngày bước vào tuổi 80, mình ngày càng biếng nhác  thấy rõ từng ngày, từng ngày. Khớp bắt đầu đau, không còn lên xuống cầu thang dễ dàng như trước, mà phải chân này giúp chân kia… T, một người bạn thân hẹn đi cà phê, phone xin lỗi, “mặc quần không được” vì co chân khó qúa. M, kêu tay trái giơ lên mặc áo cũng khó. Bạn nữa quên ngày giờ hẹn… Còn mình, từ ngày viết Để Làm Gì thì cứ luẩn quẩn mấy chữ “để làm gì” trong đầu đó vậy!

Cái gì vậy? Thì ra, chuyện bình thường của lứa bọn mình đó thôi. Cho nên nghe 5 Hiền bớt đau lưng đã ngồi được vào máy để gõ. Mừng. Thấy Hai Trầu loanh quanh  săm soi mấy trái bưởi trái khế trong vườn. Mừng. Phạm Văn Nhàn viết meo cho hay vừa nghe đọc trên đài Long An một truyện ngắn đặc sắc của anh… Mừng.

Anh Trụ Vũ kêu con gái Út, Linh Thoại gọi điện cho chú Ngọc để rủ đi Xuyên Mộc chơi với Ba một chuyến, nhân các bạn “văn nghệ” học trò anh tổ chức một đêm ca nhạc mừng tuổi 91 của anh, có Bs Võ Văn Thành, có nhà giáo Đoàn Văn Điện, có nhà thơ Hạnh Phương từ Long Khánh, nhà phê bình văn học Đăng Lan từ Saigon, Ni cô Trung Hiếu từ Bình Long… Vậy thì đi chớ, sao không!

Phải nói buổi Họp mặt mừng tuổi Trụ Vũ thiệt vui và thiệt cảm động. Anh Trụ Vũ hơn mình có 9 tuổi, Đoàn Văn Điện hơn mình 4 tuổi (anh xưng tên là “Điên nặng”, dân gốc Tuy Hòa, bạn của Trần Huiền Ân và thế nào cũng họ hàng với Đoàn Hùng- nhà văn Nguyễn Lê Uyên). Bs Võ Văn Thành thì tuổi Sửu, nhỏ hơn mình… 9 tuổi, Hạnh Phương tuổi Tí… Khi người ta già thì người ta hay hỏi tuổi của nhau như vậy. Với mình, hỏi còn là để học tập kinh nghiệm sống, kinh nghiệm giữ gìn sức khỏe, chia sẻ về cái ăn, cái ngủ, cái tập rèn thể lực, tu tâm dưỡng tánh… Bs Thành thì thở bụng, Gs Điện thì ngàn cái phất tay dịch cân kinh… Đại khái vậy.

Anh Trụ Vũ, bị tai biến 3 năm trước mà nay đã đi lại được, nói năng hơi khó, nghe càng khó. Thiên Anh con gái, kề tai anh… phiên dịch những gì cần thiết cho nghe. Vậy mà trên chuyến xe, anh còn viết thơ Nhất Hạnh tặng Bs Thành, bàn về thơ Phạm Thiên Thư, đọc cuốn sách mình mới tặng Như không thôi đi được (Những bài viết về thơ Đỗ Hồng Ngọc)… Anh mở đọc ngay bài Nguyễn Thị Khánh Minh, bài Nguyễn Thị Tịnh Thy v.v… Thiệt không ngờ một ông lão trên 90! Hình như nhờ có thơ có văn mà người ta hạnh phúc vậy. Những lúc yên lặng, thấy ông quơ quơ tay lên không thì Linh Thoại giải thích Ba đang làm thơ hoặc viết thư pháp gì đó chú Ngọc ạ.

Thôi, mình sẽ gởi theo đây ít hình ảnh (và chú thích) để bạn xem vui thôi nhe.

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc

(20.4.2021)

 

 

 

 

 

 

 

Ông già 91 tuổi ngồi trên xe hơi đang chạy mà vừa viết vừa đọc ngon lành, thiệt là đáng nể phục.

 

Hội trường khá đông, có trên 60 người đến từ nhiều nơi vì yêu mến nhà thơ, nhà thư pháp Trụ Vũ, tối 17.4.2021 tại Xã Phước Tân, Xuyên Mộc, Bà Rịa-Vũng Tàu.

Hàng đầu từ trái: Hạnh Phương, Đoàn Văn Điện, Võ Văn Thành, Trụ Vũ (ảnh ĐHN)

 

Xuân Thế, người “ca thơ” Trụ Vũ (ảnh ĐHN)

 

 

 

Rất nhiều ca khúc đã được trình bày đêm đó, ngoài những bài hát phổ thơ Trụ Vũ,  còn có Tình Hoài Hương, Gửi gió cho mây ngàn bay, Ô mê ly, Nguyệt Cầm… Từ 8h đến hơn 11 giờ đêm mới vãn!

 

Ca sĩ Bảo Thuyên (ảnh ĐHN).

 

 

Nhà phê bình văn học Đăng Lan nói về thơ Trụ Vũ.

ĐHN tặng “quà” cho Trụ Vũ. Mấy dòng chữ viết vẽ về Trụ Vũ 20 năm trước không ngờ được Thiên Anh còn giữ kỹ đến hôm nay.

 

Các bạn trẻ yêu thơ, thư pháp Trụ Vũ đã không quên “Mừng Tuổi” ông hôm nay.

Một bài thơ của ĐHN do Trụ Vũ viết thư pháp (2005): Hôi An sớm/ Hôi An còn ngái ngủ/ Mái chùa ôm vầng trăng/ Giật mình nghe tiếng chổi/ Gà gáy vàng trong sương (ĐHN)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Viết thêm:

Lâu lâu mới có dịp về Phước Bửu, Xuyên Mộc nên mình đã không quên đưa mấy người bạn ra hồ Bà Tô uống cà phê và nước dừa tuyệt ngon (trước khi vào buổi Giao lưu mừng tuổi anh Trụ Vũ).

Hình từ trái: Đoàn Văn Điện, Hạnh Phương, Đỗ Hồng Ngọc, Võ Văn Thành.

Gởi hình cho nhớ nhe.

 

Filed Under: Ghi chép lang thang, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Gặp gỡ với Nhà thơ Huyền Chi của “Thuyền viễn xứ”

11/03/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Thư gởi bạn xa xôi

Gặp gỡ với Nhà thơ Huyền Chi của “Thuyền viễn xứ”

 

Bạn còn nhớ tiệm sách Bút Hoa trên đường Trần Hưng Đạo, đối diện trường Phan Bội Châu (cũ) của bọn mình ở Phan Thiết không? Chủ tiệm là cô Ngọc Bút, Hồ thị Ngọc Bút, thường gọi cô Ngọc, vợ thầy Trần Phụng Tường dạy Pháp văn lớp đệ thất 1954 (65 năm trước) của bọn mình nhớ không? Ai dè cô là nhà thơ Huyền Chi, nổi tiếng với bài thơ Thuyền Viễn Xứ do Phạm Duy phổ nhạc đó nhớ không?

Gốc Bắc Ninh, nhưng sanh đẻ tại Gia Định (Saigon) và có thời cô phụ mẹ bán hàng vải ở chợ Bến Thành. Trong nhiều năm, cô im hơi lặng tiếng, đến nỗi nhạc sĩ Phạm Duy chỉ một lần gặp cô, được cô tặng tập thơ Cởi Mở tại chơ Bến Thành năm đó, chọn được một bài là Thuyền viễn xứ để phổ nhạc thành một ca khúc tuyệt vời đã cất công tìm kiếm cô mãi không được, nhắn tin cả trên bản nhạc: Huyền Chi, cô ở đâu? Tiếng kêu lọt tõm trong sa mạc. Và người ta cứ nghĩ thêm một hiện tượng TTKH nữa rồi! Nhưng không. Cô không lên tiếng với PD vì nhiều lý do nhưng lý do chính là thầy đang bị tai biến, té gãy xương đùi, phải nằm một chỗ suốt mười năm, một tay cô chăm sóc. Nhà văn Nguyễn Đông Thức trong một bài viết đã quả quyết đó là vì “ông chồng quá ghen”, và cô đã xác nhận anh chẩn bệnh chính xác trăm phần trăm!

Lúc mình học với thầy Tường thì thầy chưa có vợ! Mình chỉ học PBC được mấy tháng thì gia đình dời về tỉnh mới Bình Tuy (LaGi), nên không còn được theo học nữa. Dù sao, Cô Ngọc Bút, nhà thơ Huyền Chi, cũng là cô mình mà, nên hôm nay mình đã cùng với TP, NTC… những học trò cũ thân thiết cùng hẹn đến thăm cô, thắp nén nhang cho thầy, cũng là dịp cho mình được gặp gỡ nhà thơ HC đã 83 tuổi, im hơi lặng tiếng quá lâu, giờ lại “bùng nổ” trên Facebook với nhiều bài viết rất hay và sắp ra mắt tập “Huyền Chi, Thuyền Viễn Xứ” nữa!

Mình thưa sao cô lấy tên Khánh Ngọc trên Fb vậy cô? Có phải vì… nghĩ đến Phạm Duy? Cô nói không. Tôi tên Ngọc (Ngọc Bút) và Khánh là tên người anh trai của tôi mà tôi rất quý mến đang ở nước ngoài. Anh có người con là họa sĩ đã trình bày bìa cho cuốn sách Huyền Chi, Thuyền Viễn Xứ này đó. Cái lý do “lẫn trốn” PD vì sau khi bài Thuyền viễn xứ nổi đình nổi đám, thì tôi sợ, nhất là ở một thành phố nhỏ như Phan Thiết này thì khó mà tránh phiền phức, vả thầy cũng đang nằm bệnh đó…

Cô nói từ ngày thầy mất, suốt nhiều năm cô lặng lẽ âm thầm, ra vào một mình,  con cháu mới bày cô làm Facebook cho vui, để trong gia đình, người trong nước kẻ ngoài nước, thư từ, trao đổi, trò chuyện cho thuận tiện hơn. Cô học rất nhanh, vì cô vốn là cô giáo dạy tiếng Anh, xưa đã quen với máy chữ mười ngón các thứ… Vậy là Fb Khánh Ngọc ra đời. Bạn bè tìm lại nhau sau 65 năm trời xa cách. Rồi học trò, rồi độc giả khắp nơi khuyến khích nên cô viết nhiều, viết nhanh, rồi nay còn in ra sách nữa… Văn cô mượt mà, chuyện kể chân thành, đằm thắm được chia sẻ nhanh chóng trên mạng. Những hình ảnh xưa cô post lại, khiến nhiều người giật mình. Cô đẹp quá. Sao thời đó, một người phụ nữ 7 con, 35 tuổi mà dịu dàng, đoan trang, tươi mát đến vậy, khiến ngay cả nhà văn Nguyễn Đông Thức cũng kêu lên… giá mà hồi đó, sanh sớm nửa thế kỷ được gặp cô cũng không thể không mê!

Mình có “lợi thế” là học trò của thầy Tường, 65 năm về trước, và cũng lại là người mà cô bảo cô là “fan” từ lâu, nên dù mới gặp lần đầu vẫn không hề xa lạ. Mình bèn lựa lời… hỏi những chuyện tình mà cô chưa từng nói với ai cũng không viết hết được trong sách.

Chuyện đầu tiên, dĩ nhiên là chuyện tình của thầy-cô. Mình không lạ gì “tiếng tăm” của thầy-cô ở Phan Thiết một thời… Mấy bạn học kể hôm nào thầy vào lớp… chửi học trò, nhăn nhó với học trò là có chuyện ở nhà. Thầy “ghen” khủng khiếp. Có lần thầy bảo: tôi mê vợ tôi có sao không? Khi hai ông bà dắt tay nhau dung dăng dung dẻ ngoài phố, lũ trẻ con chạy theo kêu: Ông tây bà đầm, ông tây bà đầm… Bởi thời đó, vợ chồng thường đi cách nhau mấy bước! Có ai dám nắm tay ôm eo như vậy đâu!…

Rằng cô không hề để ý đến thầy. Lúc 15 tuổi cô đã có nhiều bài thơ. Và còn làm “biên tập thơ”cho một tờ báo Phụ Nữ thời đó. Lúc 17 tuổi, ông J, một người Pháp… mê cô. Xin cưới. Cô từ chối. Vậy mà đến năm cô 76 tuổi, khi thầy mất, vợ ông J cũng đã mất, ông còn quay lại xin… cưới. Cô lại từ chối.

Mới lớn, mẹ cô bắt cô phải lấy một “đại gia” giàu có, làm xuất nhập cảng. Ông này đi hỏi cô 8 lần. Cô cương quyết từ chối. Mình mới lớn, biết làm thơ, ít ra cũng có chút “lãng mạn” gì chứ lẽ nào lại lấy một ông nhà giàu chỉ biết làm xuất nhập cảng! Rồi cô tình cờ đến học thêm ở lớp tiểu học thầy Tường đang dạy, nhưng thầy đã vừa xin nghỉ để về Saigon tiếp tục học lên. Vậy mà sau này, thiên hạ còn kêu: học trò lấy thầy giáo! Thực tế, cô có học ngày nào với thầy đâu!

Lúc giúp mẹ bán hàng vải ở chợ Bến Thành Sàigon, có một ông nào đó mê cô…, lẽo đẽo làm thơ cả tập để tặng cô, ngày nào cũng có thơ mà cô chưa bao giờ biết mặt. Một lần, cô đi cắt tóc về, ông làm thơ than khóc cho mái tóc từ nay đã bỏ vào mỹ viện (tiệm cắt tóc)! Cô vẫn không biết ông là ai, nhưng khi cô lấy chồng, cô gởi ổng bài thơ “Bài thơ cuối cùng” để kỷ niệm. Từ đó, bặt tin.

Một người khác nữa, ở Huế. Cũng chỉ quen nhau qua văn thơ, cũng chưa hề biết mặt, nhưng chính ông này đã in cho cô tập thơ đầu tay, tập “Cởi Mở”. Đến lúc cô lập gia đình, ông gởi cô “Bài thơ cuối cùng”. Và rồi, cô cũng gởi ông “Bài thơ cuối cùng”, 16 khổ. Ai ngờ ông còn giữ đến bây giờ! Năm trước, có người thanh niên chừng 45-50 ở nước ngoài về đến tìm cô, dọ hỏi đủ thứ. Sau mới nói là con của ông TT, nay đã gần 90, nhờ anh gởi lại cô “Bài thơ cuối cùng” cô đã viết tặng ông 65 năm trước. Dặn về VN phải bằng mọi cách tìm cho được cô để trao lại bài thơ này. Bây giờ các con cô hay hỏi sao mẹ đi lấy chồng cứ làm hết “Bài thơ cuối cùng” cho người này rồi lại “Bài thơ cuối cùng” cho người khác vậy?…

Ở Phan Thiết, còn có ông L, ở dãy phố lầu 30 căn, ngày nào cũng ở trên lan can nhìn cô đi học qua lại. Ông L là bạn của thầy Tường. Thầy kêu ông viết thư cho cô đi, rồi thầy sẽ trao giùm cho, nhưng ông không dám viết. Sau ông lên khu, được tin cô lấy chồng, ông có viết mấy dòng chúc đôi uyên ương hạnh phúc!

Thầy Tường thì bà mẹ cô cương quyết không cho gặp, không cho cưới hỏi gì cả. Lý do: nghèo quá! Một lần thầy viết thư cho cô, cô cảm động, gởi thầy bài thơ lục bát. Từ đó thân nhau. Khi đã thắm thiết, mỗi lần thư cho thầy cô viết cuối thư: “Hôn anh thật kêu!”. Thư lọt vào tay ông bố thầy, ông nói: “Hôn anh” được rồi, còn “thật kêu” nữa! Từ đó, thầy dặn Bưu điện Phan Thiết đừng đưa thư về nhà, để thầy ra bưu điện nhận trực tiếp. Thầy mang thư ra vườn hoa, chỗ Château d’eau (lầu nước) mà đọc. Thầy nói đó là những giây phút hạnh phúc nhất đời của thầy.

Có lần thầy mang tặng cô bó hoa, cô trang trọng cắm vào độc bình đặt lên bàn, lúc học về, thấy bó hoa đã bị ném vào sọt rác! Thì ra, bà mẹ rất bực mình…

Thế rồi, làm sao thầy cô đến với nhau được? Lúc đó thầy đang học Dược thì bỏ, nộp đơn xin đi dạy học ở Phan Rang. Có Baccalaureat Pháp (Tú tài) thời đó dễ được các trường nhận cho dạy. Thầy viết một bức thư…. rủ cô đi với thầy. Bức thư cô để quên trên bàn học, bị bà mẹ bắt được. Đành phải cho thầy cưới cô, vì nếu không, “nó bỏ nhà trốn đi thì mang tiếng”!

Nghe nói thầy “ghen” lắm có đúng không? Phải, thầy “ghen” nổi tiếng. Thầy phải “tả xung hữu đột” “đánh nam dẹp bắc” nhiều phen. Nhiều lần đột xuất kiểm tra giám sát cô khi cô đi làm. Lúc nào thầy cũng đích thân chở cô đi. Thiên hạ thấy thầy già mà cô trẻ, có lúc tưởng thầy có “bồ nhí”! Thiệt ra thầy với cô đã có 5 đứa con rồi chứ, nhưng cô càng đẻ càng khỏe càng trẻ ra. Thầy chỉ hơn cô 6 tuổi. Khi thầy bị động viện, thầy còn kêu “ráng” đẻ thêm một đứa đủ 6 để được miễn. Sau cùng thầy cô có 7… em. Cô cười.

Rồi cô cười… lỏn lẻn. Có chuyện này cô không thể kể trong sách. Lúc thầy học thi Tú tài 2, trên bàn để một cái hình cô và một câu thề quyết tâm thi đậu Bac (Baccalaureat). Rồi còn nài nỉ cô cho xin cái áo… lót! Ôi trời ơi. Cô ngượng quá, không chịu, nhưng bị nài nỉ hoài, tội nghiệp cũng đành gởi tặng. Vậy là thầy cứ đặt lên ngực ngủ… cho đến khi phải nhờ cô em giặt cho thì chuyện mới vỡ lở!…

Mình hỏi bài thơ Thuyền viễn xứ… cô làm có phải định theo ông Tây sang Pháp không (có thuyền viễn xứ nhổ neo lên đường)?  Không. Thời cuộc lúc đó. Kẻ Nam người Bắc. Chiến tranh căng thẳng, đất nước phân ly… Còn Đà giang? Chỉ là tưởng tượng thôi!

Rồi cô cười. Tôi bắt chước anh khuyên trong sách: luôn giữ nụ cười, yêu thương người ta, luôn biết ơn… vì thế mà trẻ lâu, trí óc sáng suốt.

Vì sao Thầy “ghen” dữ vậy?

Cô trả lời ngay: Vì đẹp. Vì khéo léo, dịu ngọt, hiền lành… Mấy đứa con nói Má phải dữ lên chớ, sao để Ba ăn hiếp hoài vậy. Má phải ghen ngược cho ba sợ. Mà có gì đâu để ghen…

Dịp cô gặp Phạm Duy cũng rất nhanh thôi. Tại nhà sách Sống Chung của cô Đào, cô Đào giới thiệu PD, cô gởi tặng tập thơ, PD xin lời đề tặng và nói sẽ chọn một bài vừa ý để phổ nhạc. Rồi cô xem đồng hồ, cáo từ… rút lui nhanh nói cho kịp giờ đi học. Có lẽ ấn tượng đó theo Phạm Duy nhiều năm, cất công tìm kiếm, thậm chí kêu trên bản nhạc: Huyền Chi, cô ở đâu?
Năm Phạm Duy về nước, cũng nhờ người quen là bạn Huyền Chi đi tìm, nhưng cô lánh mặt, lúc đó thầy đang bệnh nặng, mà cô quá biết tánh thầy! Từ xưa đã dặn không tham gia các sinh hoạt văn nghệ thơ ca gì cả nhé. Có lần cô gặp ông Nguyễn Vỹ, chủ báo Dân Ta ở ngoài đường, ông Nguyễn Vỹ chặn hỏi cô có phải Huyền Chi không? Ông nói lúc đầu thấy nữ giới mà ra tập thơ tựa “Cởi Mở” cũng khó chịu, nhưng tình cờ đọc tập thơ ở nhà sách Diễm Diễm Thư Trang của bà Mộng Tuyết thì ông mến phục. Nguyễn Vỹ khuyến khích cô nên tiếp tục vì thường nhà thơ chỉ nổi một thời gian ngắn. Thế rồi ông làm 2 bài thơ rất ướt át tặng bà. Thơ khá hay. Ông anh bà đã xé bỏ vì nói ông Nguyễn Vỹ có tuổi nhiều rồi… Một lần, thầy Tường đi với cô đến gặp ông, từ đó Nguyễn Vỹ mặt giận rồi không quen tiếp nữa! Tô Kiều Ngân, Thanh Nam cũng thường mời cô đi dự họp mặt văn nghệ, thầy Tường tuyệt đối không cho.

………..

Đã khá trưa rồi. Bọn mình đứng lên chào cô về. Cô ký tên tặng sách còn nhắc: Tôi là fan của anh lâu rồi! Nhất là khi thầy nằm bệnh, tôi đọc sách anh nhiều lắm đó.

Saigon 4.4.2019.

Đỗ Hồng Ngọc

(Nguồn: Trần Hoài Thư: Thư Quán Bản Thảo, số 92, tháng 3/2021)

 

 

 

 

 

Filed Under: Nghĩ từ trái tim, Những người trẻ lạ lùng, Vài đoạn hồi ký

Phan Chính: NGUIỄN NGU Í giai thoại từ những cơn điên

07/03/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Nhà văn NGUIỄN NGU Í

giai thoại từ những cơn điên

 

*PHAN CHÍNH

 

Vậy là ông đã rời cõi trần và trang văn từ 42 năm ở tuổi vừa kịp đến 60… Nguyễn Hữu Ngư sinh năm 1921 tại làng Tam Tân, huyện Hàm Tân (Bình Thuận). Thân sinh ông là Nguyễn Hữu Hoàn (tên thật Nguyễn Hữu Sanh, còn gọi là Giáo Hoàn), một nhân vật lịch sử của địa phương, được nhắc đến là một nhà Nho uyên thâm và cũng là một nhà cách mạng từ quê Hà Tĩnh vào ẩn dật ở làng biển Tam Tân sống nghề dạy quốc ngữ và bốc thuốc bắc. Thân mẫu Nguyễn Hữu Ngư là bà Nghê Thị Mỹ quê làng Phong Điền (xã Tân Thuận, huyện Hàm Thuận Nam). Năm 1927, ông Giáo Hoàn bị Pháp kết án 3 năm tù và lưu đày tận Lao Bảo do đứng ra che chở vụ 6 người tù Côn Đảo vượt ngục sau một tuần lênh đênh trên biển, tắp vào ngảnh Tam Tân. Trong số này có nhà cách mạng Hy Cao Nguyễn Đình Kiên (Tú Kiên), hoạt động trong phong trào Đông Du, sau này là Bí thư Kỳ bộ Tân Việt Nam kỳ, có những hoạt động tích cực đến phong trào cách mạng Bình Thuận.

Nguyễn Hữu Ngư nằm trong số hiếm hoi được coi là người có ý chí, thông minh, học hành sáng dạ nhất ở vùng đất quê Hàm Tân- La Gi lúc bấy giờ. Nhờ học giỏi, được học bổng trường Pétrus Ký cùng thời với Trần Văn Khê, Huỳnh Văn Tiểng học ban Tú tài, rồi thi đỗ vào trường Cao đẳng Sư phạm Sài Gòn. Có năng khiếu và đam mê văn học từ trẻ. Năm 1942- 1944, ông bắt đầu vào nghiệp văn, cộng tác với Nam Kỳ tuần báo của Hồ Biểu Chánh, rồi làm phụ tá thư ký tòa soạn tuần báo Thanh Niên do Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát làm chủ nhiệm. Nhưng do căn bệnh rối loạn tâm thần đành phải dang dở hoài bảo, quay về quê nhà chữa bệnh. Ngay từ ngày đầu khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám 1945, ông là Tổng thư ký Ủy ban hành chính xã Tam Tân thuộc huyện Hàm Tân (Bình Thuận).

Nguyễn Hữu Ngư rời quê tham gia cao trào kháng chiến chống Pháp, theo đoàn kịch Liên khu V, rồi Đài tiếng nói Nam bộ. Cũng từ đây mới có cơ hội gặp cô y tá Nguyễn Thoại Dung đang làm tại bệnh viện Phước Lộc (Quảng Ngãi). Qua mai mối từ vợ chồng nhà văn Tùng Long mà nên duyên chồng vợ đến cuối đời. Không bao lâu ông Ngư lại trở bệnh cũ ngày càng nặng hơn, cho nên năm 1952, hai vợ chồng xin tổ chức về Sài Gòn. May sao được bà Bút Trà chủ nhiệm nhật báo Sài Gòn Mới giúp đỡ… Ông Ngư tìm lại các bạn học chí thân ở trường Pétrus Ký ngày xưa, giới thiệu xin dạy giờ các trường tư thục Lê Bá Cang, Tân Thanh…và viết báo, còn vợ ông chuyển qua nghề dạy học. Cuộc sống tuy tạm ổn nhưng lại phải đối mặt với những cơn điên bất chợt đến với ông. Dưỡng trí viện Biên Hòa (thường gọi Nhà Thương Điên) quen dần với nhà văn Ngu Í trong sự yêu mến của bác sĩ Nguyễn Tuấn Anh và bác sĩ Tô Dương Hiệp (con trai của nhà văn Bình Nguyên Lộc) coi đây là chứng “Văn chương tâm bệnh” nên rất nuông chiều tính khí của ông.

Đây cũng là những tháng ngày ông thật sự sống với nghề dạy học, làm báo, viết văn…đang có tên tuổi ở đất Sài Gòn. Bút danh Nguiễn Ngu Í, người đọc thấy lạ về cách viết và hiểu nghĩa của từ Ngu Í khác nhau. Ngu Í ở đây là sự khiêm nhường về ý kiến của mình và cũng từ đây ông khởi xướng cách viết quốc ngữ dựa trên phát âm, “mỗi dấu hiệu cho một âm, mỗi âm có một dấu hiệu”, Chẳng hạn chữ i/y ở đầu (y sĩ/i sĩ, yêu/iêu, khuya/khuia, nguyệt/nguiệt…), với phụ âm g (đọc gơ) ráp với cả nguyên âm như ghe/ge, ghê/gê.v.v…Tên vợ ông là Nguyễn Thoại Dung, ông viết Nguiễn Thoại Yung… Nhiều từ trùng hợp với cách viết mà Giáo sư Bùi Hiền ở Hà Nội mấy năm trước đây gây bão trong giới học thuật. Nhưng với chữ viết mới do Ngu Í công bố chỉ riêng cho trang viết của mình. Khổ nỗi nhiều báo cứ nhầm tưởng tác giả viết sai chính tả, nên tự tiện sửa lại không phải là ý của ông đã viết.

(Nguồn: Đỗ Hồng Ngọc, thư viện gia đình)

Nhà văn Võ Đắc Danh có bài viết về Nhà thương điên Biên Hòa với hai nhân vật nổi tiếng (Thế giới Người điên) là Nguyễn Ngu Í và Bùi Giáng…Thật thú vị với tôi, khi trong tủ sách còn lưu giữ tập Thơ Điên (…Thứ Thiệt) đã cũ kỹ, do giám đốc Dưỡng trí viện Biên Hòa (nay là Bệnh Viện Tâm thần Trung ương 2) -Bác sĩ Nguyễn Văn Hoài và Bác sĩ Tô Dương Hiệp, tập họp thơ của những bệnh nhân có duyên nợ với thơ ca, xuất bản năm 1970. Những trang thơ có hai hình thức chữ viết với chữ in quốc ngữ hiện hành và theo chữ mới của Ngu I nhóm “Thái Bình Điên Quấc”. Đặc biệt với Bùi Giáng và Nguiễn Ngu Í thì chất điên trong thơ đậm nét hơn, làm cho người đọc phải xúc động và giật mình tỉnh táo…Trong tập “Ngu Í- Nguyễn Hữu Ngư, qua ký ức người thân” do bà Nguyễn Thoại Dung sưu tập năm 1997, gồm nhiều bài viết của những người gần gũi, thân thiết với Ngu Í như Huỳnh Văn Tiểng, nhà văn Tùng Long, Nhạc sư Trần Văn Khê, nhà báo Lê Ngộ Châu (tạp chí Bách Khoa), nhà văn Trần Huiền Ân, nữ sĩ Hoàng Hương Trang, nhà văn Hồ Trường An… Trong đó còn có bài của những người viết văn, làm báo là đồng hương với Ngu Í là Lê Phương Chi, Đỗ Đơn Chiếu, Đỗ Nghê, Đông Thùy… Cái còn lại của ông chỉ gói ghém những tác phẩm đáng nhớ là bộ sách Việt sử, Hồ Thơm Nguyễn Huệ, Hồ Quí Li, Suối Bùn Reo, Khi người chết có mặt, Có những bài thơ, Hạnh phúc chính nơi bạn… và loạt bài phỏng vấn “Sống và Viết” rất hấp dẫn trên tạp chí Bách Khoa, với nghệ thuật khai thác cái riêng, cá biệt của nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng ở miền Nam trước 1975. Ngu Í viết rất nhiều thể loại dưới các bút danh Ngê Bá Lí, Tân Fong Hiệb… Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc gọi Ngu Í là cậu, bởi mẹ của anh là bà Nghê Thị Như gọi bà Nghê Thị Mỹ (mẹ của Ngu Í) là cô ruột. Cũng từ mối quan hệ này mà từ sau tập thơ đầu tay Tình Người (xuất bản 1967), ký Đỗ Nghê (ghép họ Cha và Mẹ) khi đang là sinh viên Y khoa Sài Gòn. Nhưng sau này, với khoảng trên 52 đầu sách về Y học, Tản văn, Thơ, Thiền học, Phật học…đều ký tên Đỗ Hồng Ngọc, nên nhiều người tưởng “bác sĩ làm thơ” như Đỗ Trung Quân đã viết.

Cái khác biệt giữa hai nhà thơ Bùi Giáng với Ngu Í ở chỗ, nói theo Vũ Đức Sao Biển thì Bùi Giáng đặc trưng của “Cuộc đùa với ngôn ngữ”, còn với Ngu Í- theo Trần Văn Khê kể lại khi thăm ông “bị nhốt” ở Dưỡng trí viện thường phá phách, vô tư tiểu vào song sắt, được ông nhắc chuyện Le Comte de Monte Cristo của Alexandre Duma, dùng nước tiểu làm mục song sắt cửa sổ là kế giả dại qua ải. Thế rồi tuần sau, Ngu Í tỉnh táo khoe mấy câu thơ: “Bên ngoài chim hót vang cây/ Mà trong cửa sắt Ngư này lặng thinh/ Trách ai hay lại trách mình?”. Với Ngu Í, thật khó biết thế nào giữa điên và tỉnh…Như ở những câu thơ mang nỗi bất bình về thời cuộc, về khói lửa chiến tranh hay bày tỏ tấm lòng trước sự tận tụy của hiền thê: “Ai người yểu điệu dám theo Ngu ?/Ai người thục nữ dám nâng…”. Thật hết biết, nhưng với những câu thơ như thế này ai nói Ngu Í là nhà thơ điên sao?: “Bão dông sắp sửa hãi hùng/ Con ra đời lúc chập chùng âu lo/ Má con phiền sự ấm no/ Ba con thì một chuyến đò dở dang” (Ngày con ra đời- 1963). Trong thơ thì không thể đem ra so sánh nhau sẽ dễ thành khập khễnh. Nhưng từ thơ qua hình ảnh quen thuộc của Bùi Giáng xuống phố Sài Gòn múa may và những bóng hồng thường gặp trong thơ ông nào Hà Thanh, Kim Cương, mẫu thân Phùng Khánh và cả Brigitte Bordot ở trời Tây… để có những câu thơ bất hủ “Bây giờ riêng đối diện tôi/ Còn hai con mắt khóc người một con” (Mắt buồn). Với Ngu Í thì mối tình si trong cơn điên- tỉnh, những bóng dáng nhà văn nữ như Nguyễn Thị Hoàng, Thụy Vũ, Nguyễn Thị Vinh, Trùng Dương, Vân Trang, Túy Hồng… lại nức nở hết lời khen chưa ai đẹp bằng! Nghe vậy, mà không có ai trách Ngu Í cả vì đó là trạng thái yêu lung tung, những đắm đuối đơn phương…Theo lời kể của nhà báo Lê Ngộ Châu, anh Ngư có tài văn thơ, viết báo nhanh nên trong giới ai cũng quý trọng, nhưng khi nổi bệnh thường hay nghịch phá bạn bè. Nhà thơ Nguyên Sa có viết trên Bách Khoa, anh Ngư có lần “nhất bộ nhất bái” trước cổng nhà mình khiến nhà thơ phải quỳ xuống đất bùn mà vái đáp lễ mới thôi. Nhà văn Nguyễn Thị Vinh có một kỷ niệm, Ngu Í cũng mỗi bước mỗi bái bất kể đường đất lầy lội, với mỗi yêu cầu chị phải “xưng em” buộc chị phải làm theo mới dừng. Theo Hồ Trường An kể, có một thời gian Ngu Í si mê nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ (chị của Hồ Trường An) chỉ qua hình ảnh, thư từ nhưng khi diện kiến đang trong tình trạng ốm o bệnh tật, vừa mổ xương hốc mũi, Ngu Í hoảng hốt tháo lui, miệng hét “Anh chúc em chóng bình phục”. Vậy mà Thụy Vũ không giận và cười khi đọc câu thơ ông viết tặng “Ai thương giùm tôi cô giáo nhỏ/ Mà phấn son chưa đày đọa mặt nghiêng nghiêng”…

Sẽ kể không hết những câu chuyện điên của Ngu Í trong giới nhà văn, nhà báo và kể cả náo loạn ở đường phố, công sở Sài Gòn. Bao lượt bị đẩy vào đồn Cảnh sát, không ai nghĩ ông là người điên vì đáp trả tỉnh bơ, chửi bới bất cứ ai dù cấp nào…Người chịu đựng, đau khổ nhất vẫn là vợ ông, bà Nguyễn Thoại Dung. Những mối tình trong cơn điên tỉnh của ông, bà Dung biết đó chỉ là tình ảo mộng, tình điên của nghệ sĩ để rồi thành những giai thoại vui và thương cảm. Ngu Í lúc tỉnh cũng nhận ra lòng bao dung của vợ, đã thốt:” Làm vợ Tú Xương dễ, làm vợ Sào Nam cũng dễ, làm vợ Ngu Í mới thật khó…”. Dường như câu thơ “Nằm đây mà ngó lên trời/ Lá cây dứa đã mấy đời đong đưa” của Ngu Í, mãi lãng đãng bên ngôi mộ cải táng của ông trong khu mộ cha mẹ và đứa em gái, trên ngọn đồi ở ngảnh Tam Tân hiện giờ.

 

La Gi, 1/2021   

(Báo Văn Nghệ Bình Thuận, 3.2021)

 

 

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Vài đoạn hồi ký

Trần Hoài Thư: Thư Tết gửi bạn thơ Đỗ Nghê ở SG.

25/02/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Trần Hoài Thư

Thư Tết gửi bạn thơ Đỗ Nghê ở SG.

(https://tranhoaithu42.com/2021/02/23/thu-tet-ve-nha-tho-do-nghe-o-sg/)

Tôi gặp trở ngại khi nói chuyện. Mỗi lần nói là mỗi lần thở dốc. Vì vậy tôi mượn blog này để gởi về bạn những lời chúc Tết, dù muộn màng, của một người bạn cũ xa quê nhà gần cả nửa thế kỷ. Trước hết cám ơn bạn hiền đã có lòng lo lắng cho kẻ này. Bạn bè nhìn tấm hình của tôi  mới chụp mà nhỏ nước mắt. Tôi cảm ân mà chẳng buồn. Bởi ít ra bạn bè còn thương, chứ ghét thì  làm gì mà động lòng tri âm tri kỷ. Tôi muốn để bạn đừng lo, chứng tỏ là tôi vẫn còn khỏe mạnh bằng cách post cả chồng Thư Quán Bản Thảo mà  tôi vừa in xong, để các bạn thấy rằng hai cánh tay tôi vẫn còn đủ sức để cắt những chồng giấy mấy trăm tờ hay những cuốn sách dày cộm.

Chính nhờ cái máy cắt bằng tay này mà tôi biết mình vẫn còn mạnh. Như sáng sớm này, muốn tập thể thao, tôi chạy từ dưới basement lên nhà trên ít nhất là mười lần.

Quên nói là phần thể thao của tôi sáng nay là mấy cuốn sách của Đặng Tiến: Vũ trụ Thơ I và II. Đừng hỏi tôi in làm gì cho phí công phí sức phí cả tiền bạc, lúc mà tôi muốn tẩy trần tất cả. Nhưng họ làm sao biết là tôi đi tìm niềm vui. Mà niềm vui đâu phải nằm ngửa để có kẻ mang khay tới hầu. Niềm vui là do mình tạo nên, do mồ hôi mình đổ xuống. Dù nhọc nhằn nhưng mồ hôi kia vẫn lóng lánh vàng.
Tôi vẫn đủ khả năng để kéo trì cán dao nặng trĩu. Tôi còn đủ kiên nhẫn để bỏ từng cuốn báo vào phong bì, và dán tem, rồi mang đi gởi ở bưu điện.

Sáng nay chàng đẩy chiếc xe chở báo TQBT gởi đến mười phương
Nàng bưu điện chào chàng bằng nụ cười hết xẩy
Bà khách hàng đứng bên hỏi chàng ông gởi gì nhiều vậy
Chàng hãnh diện trả lời, tôi  gởi sách của tôi
Vâng thưa bà, tôi là một nhà văn !!!
Xem bà ta rất cảm phục vô ngần !

2.

Thứ hai là cám ơn bạn về bài thơ Dán tặng tôi:

Dán

              tặng THT

Không dán etiquette

Cho một bé sơ sinh

Mà dán cả đất, trời (*)

Nối liền tình bè bạn

Nối liền những tấm lòng

Yêu đất nước quê hương

Dán tương lai dĩ vãng

Cho lành bao vết thương…!

Đỗ Nghê

 

Nhưng Dán so với bạn, tôi đâu có thấm tháp gì. Tôi dán cho tuổi già. Càng ngày bạn bè càng rơi rụng dần. TQBT in ra, gởi đi, bị trả lại nhiều. Buồn lắm bạn ơi…

Còn với bạn thì khác. Bạn dán cho tương lai. Những bé sơ sinh của một thời mà bạn buộc vào etiquette: Anh đã không quên buộc etiquette vào tay em/  Em được dán nhãn hiệu từ giây phút ấy ( trich  Thư cho  bé sơ sinh ) hoặc những đứa bé mà bạn đã cứu chữa, giờ đã thành người lớn, đang dâng tràn sức sống.

Một trong những đứa bé ấy là cháu TQT.  Năm 1978 cháu mới 5 tuổi. Một hôm được mẹ chở đi bằng xe đạp. Vô ý cả bàn chân của cháu bị  kẹt vào chân căm bánh xe, khiến cả bàn chân bị thương tích nặng. Y. hối hả mang con vào phòng cấp cứu tại bệnh viện Nhi đồng SG. Thời bao cấp, bênh nhân la liệt, tìm một bác sĩ đâu phải là dễ. Y. nói với cô y tá: Xin cho tôi gặp BS Đỗ Hồng Ngọc – trưởng phòng cấp cứu – Chị là ai ? – Tôi là vợ của Trần Hoài Thư. Chị cứ nói là Trần Hoài Thư bác  sĩ sẽ biết ngay. Cô y tá vào trong. Một lát, bạn ra và  tận tình cứu chữa cháu trong khi không có tôi bên cạnh.

Bây giờ cháu TQT  cũng noi theo bác Đỗ Hồng Ngọc:  Vừa là Y sỹ, vừa  nhà thơ. Và họa sĩ. Bức tranh sau đây là một chứng minh:  Một cây con sắp nhú mầm. Chung quanh là những bánh xe luân hồi ngày đêm chuyển vận. Và cây mẹ cây cha thì đầy quả trái , lá bông sum suê.

Sự hình thành của một con người có khác chi. Chỉ khác là nguồn lộc ấy chỉ đến từ những tâm hồn biết yêu cái đẹp chứ không đến từ cõi ô trọc này. Đó là từ người thi sĩ phải không ?

 

Tranh TQT

………………………………………

(*) báo giấy và báo online

 

Filed Under: Nghĩ từ trái tim, Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác, Vài đoạn hồi ký

Trần Doãn Nho: Lạnh lùng Texas!

25/02/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Lạnh lùng Texas!

Trần Doãn Nho

 

Ghi chú: Sáng nay tôi nhận được email của anh Trần Doãn Nho, kèm bài viết rất cảm động này của anh về những ngày “Lạnh lùng Texas” nên đã xin phép anh post lại, chia sẻ cùng bạn bè.

Anh Trần Doãn Nho ơi,

“Thật không tưởng tượng nổi. Còn nhiều gia đình chắc khốn khó hơn! Đọc mà cứ sợ tuyết làm kẹt xe anh đang chạy ngoài đường lúc tìm xăng, đọc mà thấy anh đã gần “ngộ” như một tu sĩ khi chẽ tượng Phật bằng gỗ đang thờ trong chùa để đốt sưởi ấm… 

Và đặc biệt đoạn này:

Khung cảnh nhỏ bé này đẩy tôi lùi về hàng chục thập niên trước, bắt gặp lại hình ảnh tưởng như đã đi vào quên lãng: bếp lửa gia đình. Chao ôi, cái thời xa xưa ấy! Không bếp điện, bếp ga, không nồi cơm điện, không soong, không chảo. Thế giới kỹ nghệ chưa có mặt trong bếp lửa. Tất cả dụng cụ và đồ đạc nấu nướng đều toàn bằng đất sét: ba cục gạch nung châu vào nhau, nồi đất, siêu đất, trách đất. Ngay phía trên bếp là một cái giàn treo chất những cành, nhánh phơi khô để dành từ mùa nắng. Chung quanh bếp, tro than vương vãi. Khói bốc lên làm đen cả phần vách đất che tạm tránh gió, đen hết trần nhà, đen cả cái cụi (tủ) gỗ đựng thức ăn. Sờ tay vào đâu cũng dính phải bồ hóng đen nhẻm. 

Anh nhớ “… ơi bếp hồng sưởi ấm, bếp hồng tươi…” không? (Về dưới mái nhà).

Anh làm tôi nhớ thời trên giàn bếp luôn treo tòng teng bao nhiêu là bó bắp khô, và cả các thứ khác để hong khói… với một bồ lúa bên cạnh để tránh mối mọt của nhà bà Ngoại tôi hồi đó…

(ĐHN)

………………………………………………………..

 

Lạnh lùng Texas

Trần Doãn Nho

Cứ hễ đến cuối năm, mỗi người lại thắp lên niềm hy vọng khi nhìn về những tháng ngày trước mặt: Năm Mới. “Mới” là an khang thịnh vượng, là phát tài phát lộc, là vạn sự như ý, là hạnh phúc, là bình an. Giữa tang thương đại dịch, “Mới” còn là một ước mơ “cháy bỏng”: được sống lại cái “bình thường” của ngày tháng cũ, lúc mà chuyện giãn cách xã hội hay khẩu trang hay vân vân không hề có chỗ đứng trong cuộc sống hàng ngày. Mới mà cũ!

Ấy thế mà, vừa bước ra khỏi năm Canh Tý có ba ngày thì toàn tiểu bang Texas lần này được “thưởng thức” một cái “Mới” rất cũ và tràn đầy tai ương: bão mùa đông (winter storm). Có nơi thì là “bão tuyết” (snow storm), có nơi thì là “bão đá” (ice storm). Gần như suốt ba, bốn ngày, từ đêm Chúa Nhật (14/2) đến thứ Tư (17/2), Texas trở thành Bắc Cực. Bão tuyết, vốn đã là điều hiếm hoi ở tiểu bang thuộc vùng nhiệt đới này (nơi mà mùa hè, nhiệt độ lên đến 110 độ F/43 độ C) mà bão đá (ice storm) lại càng lạ hơn. Bão đá, hay đúng hơn “bão nước đá”, là một tiến trình thời tiết đặc biệt diễn ra khi những bông tuyết từ trên cao rơi qua một vùng ấm, biến thành mưa; những hạt mưa này gặp phải lớp không khí “supercooling” (siêu lạnh, nhiệt độ dưới 32 độ F) ở gần mặt đất, chuyển thành “freezing rain” (mưa đông đá). Đó là những hạt mưa bị đông lại nhưng vẫn còn dưới dạng lỏng và khi những hạt mưa này đột ngột va chạm mạnh vào các bề mặt (surfaces), chúng liền chuyển biến ngay thành nước đá  tạo nên một lớp vỏ càng lúc càng dày thêm bọc quanh các vật thể như thân cây, cành nhánh, dây điện, cột điện, hàng rào kim loại. Theo ước tính của những nhà khí tượng học, đường kính của những dây cáp điện bọc nước đá có thể dày đến 5 cen-ti-mét. Như thế, chúng nhận thêm khoảng từ 15 đến 30 kilogram trên một mét chiều dài. Sức nặng đó cộng thêm với gió và cây ngã đè thêm lên, khiến chúng không chịu đựng nổi, đứt ngang, làm xáo trộn hoặc cắt đứt toàn bộ hệ thống cung cấp điện.

Tôi cư ngụ ở một thành phố nhỏ thuộc quần thể đô thị Dallas-Fort Worth, miền Bắc-Texas. Vùng này, may mắn, không có bão đá, chỉ có bão tuyết. Nhưng lạnh là lạnh. Quá lạnh. Gần một tuần lễ, nhiệt độ chỉ quanh quẩn từ 25 độ F (âm 4 độ C) trở xuống, nằm dưới mức đông đá. Và trong vòng mấy ngày từ Chúa Nhật (14/2) đến thứ Ba và thứ Tư (17/2), nhiệt độ ban đêm và sáng sớm tụt xuống từ 1 đến 5 độ, có lúc chỉ còn 0 độ F (-18 độ C). Tất cả cuộc sống hoàn toàn bị đông cứng.

Sáng thứ Hai, đang còn ngái ngủ, thì điện phụt tắt. Qua trang mạng của thành phố, thì được biết, công ty điện lực quyết định thi hành biện pháp “rolling blackouts” (cắt điện luân phiên) để tiết kiệm năng lượng nhằm đối phó với đợt giá lạnh kéo dài nhiều ngày. Mỗi khu vực sẽ lần lượt bị cắt điện từ 30 phút đến một giờ. Tôi yên tâm, lần lượt làm một số công việc cần thiết để giữ hơi ấm trong nhà: chèn các khe hở ở các cửa lớn, cửa sổ, đóng hết các phòng không sử dụng, đốt đèn cầy để ở nhiều nơi, nấu nhiều nồi nước sôi…Nhưng rồi một giờ trôi qua, hai giờ trôi qua, điện vẫn chưa trở lại. Gọi điện thoại qua đường dây khẩn cấp của thành phố, đường dây liên tục bận.  Ba giờ rồi bốn giờ, vẫn không có gì. Không điện, không vào được Internet. Lại gọi điện thoại, nhưng lần này điện thoại hết pin. Làm sao giờ đây? Sực nhớ điện xe hơi, liền vội vàng mặc ba, bốn lớp áo lạnh, bươn bả lội tuyết ra xe. Cắm dây, bật máy. Chao ơi, xe cạn xăng. Không cần suy nghĩ, vội vàng lái xe đi. Tuyết rơi càng lúc càng nhiều. Đường lầy lội, trơn trợt. Đèn giao thông ngừng hoạt động. Không điện, các trạm xăng đóng cửa. Đành phải chạy tiếp đến khu thương mại khác, vừa chạy vừa lo xe hết xăng dọc đường. Thấy có trạm xăng lớn mở, mừng quá, chạy vào, nối đuôi, chờ. Nhưng khi đến phiên mình, trạm hết xăng. Lại chạy tiếp. May làm sao, rốt cuộc, cũng tìm ra một trạm xăng nhỏ, đổ đầy bình.

Trở lại nhà, điện vẫn còn cúp. Đã sáu tiếng đồng hồ rồi. Không khí lạnh tràn đầy căn nhà, thấm dần vào cơ thể. Mất điện, tất cả trở thành vô ích và vô dụng. Mất điện, con người hoàn toàn bị cô lập. Tôi ngao ngán nhìn không gian rộng rãi của căn nhà. Về mùa hè, cái rộng, cái thoáng chia đi cái nóng. Bây giờ, cái rộng cái thoáng cướp mất cái ấm. Đành phải đốt lò sưởi lên thôi. Cũng may, đây là lò sưởi dùng gas, và hệ thống cung cấp gas vẫn còn hoạt động. Từ ngày chuyển về ở căn nhà này, thấy lò sưởi lớn nằm ngay giữa phòng khách, đôi lúc tôi tự hỏi chẳng biết ở xứ nhiệt đới như thế này, xây thêm lò sưởi để làm gì, vừa choán chỗ vừa mất thẩm mỹ. Nhưng lúc này đây, nó là cứu tinh. Cái vô dụng trở thành hữu dụng.

Châm lửa. Ba ngọn lửa cháy phừng phực, hòa cùng ánh sáng mấy cây đèn pin cắm trại (camping lanterns), sáng cả một góc nhà. Cả nhà quây quần trước lò, chia nhau hơi ấm. Nhưng sau những phút sung sức lúc đầu, ba ngọn lửa dịu lại, yếu dần đi. Hơi nóng tỏa ra chỉ đủ ấm khi ngồi gần. Xa một chút, lạnh vẫn hoàn lạnh. Thế là, phải chạy ra vườn sau, vườn trước bắt đầu vơ vét hết tất cả những cành, nhánh, gốc cây nằm vương vãi suốt mùa hè, mang vào. Ba đứa cháu giành nhau ném từng khúc củi vào lò. Củi ướt quằn quại bắt lửa, kêu lách tách. Được tiếp sức, lửa bừng bừng reo vui. Lửa nhuộm hồng da thịt. Lửa tỏa hơi ngào ngạt ấm. Bọn trẻ vừa chơi bài, vừa đọc, vừa ăn uống, cùng nhau thưởng thức cái ấm cúng rất gia đình hiếm khi có được. Tôi cảm động nhìn lò sưởi, như được gặp lại cố nhân. Chả là, mười ba năm trước đây, khi còn ở xứ lạnh Boston, gia đình chúng tôi cũng đã từng quấn quýt nhau ba ngày ba đêm trước lò sưởi như thế này, khi cơn bão đá dữ dội trút xuống tiểu bang Massachusetts vào năm 2008. Khung cảnh nhỏ bé này đẩy tôi lùi về hàng chục thập niên trước, bắt gặp lại hình ảnh tưởng như đã đi vào quên lãng: bếp lửa gia đình. Chao ôi, cái thời xa xưa ấy! Không bếp điện, bếp ga, không nồi cơm điện, không soong, không chảo. Thế giới kỹ nghệ chưa có mặt trong bếp lửa. Tất cả dụng cụ và đồ đạc nấu nướng đều toàn bằng đất sét: ba cục gạch nung châu vào nhau, nồi đất, siêu đất, trách đất. Ngay phía trên bếp là một cái giàn treo chất những cành, nhánh phơi khô để dành từ mùa nắng. Chung quanh bếp, tro than vương vãi. Khói bốc lên làm đen cả phần vách đất che tạm tránh gió, đen hết trần nhà, đen cả cái cụi (tủ) gỗ đựng thức ăn. Sờ tay vào đâu cũng dính phải bồ hóng đen nhẻm.

Hết củi, lò lửa yếu dần. Giật mình, trở lại với hiện thực. Đã gần một ngày trôi qua, điện vẫn bặt vô âm tín. Căn nhà mỗi lúc một lạnh hơn. Tuyết vẫn rơi. Thời tiết càng lúc càng lạnh, từ 0 (không) độ vào buổi sáng nhích lên bảy, tám độ. Đốt lò sưởi lên, cũng chỉ là để chờ đợi điện. Điện không có, đành phải sống với lò sưởi thôi, không còn chọn lựa nào khác. Tôi cùng đứa con lại chạy quanh kiếm củi. Không còn gì ngoài vườn, chúng tôi phải lục trong kho. Nhặt nhạnh bất cứ cái gì có thể đốt được, từ những thanh gỗ nằm lăn lóc đâu đó cho đến mấy tấm pallet, ghế cũ, bàn cũ, rồi cả giường cũ. Rút kinh nghiệm, chúng tôi tằn tiện từng khúc, từng miếng. Suốt đêm, cả nhà nằm quanh lò sưởi, ai nấy quấn chặt vào người năm, bảy lớp vừa chăn, mền vừa áo quần và túi ngủ. Đêm dài trôi qua lạnh lẽo, căng thẳng. Nhìn ánh lửa bập bùng trong lò sưởi như nhìn hơi thở của chính mình. Củi, điện, điện, củi. Điện, củi là năng lượng, là cuộc sống.

Hôm sau, vừa thấy trời hửng sáng là vội vã đi kiếm củi. Lái xe chạy loanh quanh, hết cửa tiệm này đến cửa tiệm khác, từ siêu thị cho đến Home Depot, Lowe’s. Chẳng còn gì. Tuyệt vọng, trở về nhà. Nhìn quanh nhìn quất, chỉ còn một cái nhà chơi trẻ con khá lớn dựng sau vườn. Thế là, khỏi cần suy nghĩ, chúng tôi tháo, chặt ngay ra từng khúc mang vào đốt. Nhà chơi rồi cũng biến thành tro bụi! Buổi trưa, lại lái xe chạy quanh; lần này đi xa hơn, đến các nông trại ngoài thành phố. Không kiếm được gì. Hết đường, chúng tôi trở lại Home Depot chọn giải pháp cuối cùng: mua hàng chục thanh gỗ làm nhà (lumber), yêu cầu họ cưa ra từng khúc ngắn. Trong tình thế này, gỗ nào cũng là gỗ. Gỗ nào đốt cũng cháy. “Lumber” là “firewood”. Gỗ là củi. Lửa, lửa là tất cả! Chỉ có lửa mới chống được lạnh.

Lò sưởi lại được dịp cháy phừng phực. Đốt gỗ mà như đốt tiền.

Mãi đến tối, sau hai ngày và một đêm căng thẳng, điện mới trở về. Có điện, có sự sống.

Hỡi điện thân thương, ta yêu mi biết chừng nào!

 

TDN

(Đầu năm Tân Sửu, 2021)

 

Filed Under: Ghi chép lang thang, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

Thư gởi bạn xa xôi (Tân Sửu, 2021)

12/02/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Năm mới, tháng Giêng, Mùng một Tết

Còn nguyên vẹn cả một mùa Xuân…

(Nguyễn Bính)

Ghi chú: Nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp ở bển (chữ TVL) có nhã ý mời ĐHN viết một bài cho báo TRẺ, Xuân Tân Sửu 2021. Loay hoay mãi, không biết viết gì đây, thời gian lại gấp rút, lòng cũng muốn góp một chút gì đó cho vui với bạn bè, bèn thôi, trích đoạn những ghi chép lang thang đây đó gởi làm quà, như nhắc nơi xa một chút tình quê…

ĐHN.

 

Thư gởi bạn xa xôi

Lang thang mấy ngày Tết

 

Bạn nhớ đúng rồi đó. Đó là mấy câu trong bài thơ Mũi Né của mình viết năm 1970, đã đăng trên báo Bách Khoa thời đó, tính ra cũng đã nửa thế kỷ rồi chớ ít gì! Mới thôi.

Em có về thăm Mũi Né không?

Hình như trời đã sắp vào xuân

Hình như gió bấc lùa trong Tết

Những chuyến xe đò giục bước chân…

(…)

Mũi Né ơi người xưa đã xa

Mùa ơi gió bấc nhớ không ngờ

Năm nay người có về ăn Tết

Có ngậm ngùi nghe chút ấu thơ…

(ĐHN, 1970) 

Gió bấc. Nhớ không? Thứ gió rất lạ, thốc qua người, dán sát vào da người như có chút hỗn xược ớn lạnh làm nhớ cơn sốt rét rừng thường thổi mạnh trong Tết, quyện với hương cốm hộc, mứt gừng, mứt bí… rồi bánh căn, bánh xèo, bánh kẹp, cơm gà, bánh canh chả cá… của một vùng biển mang mang mùi nước mắm, những ai nghe quen thì đâm ghiền nặng… rồi sông Cà Ty, ga Mường Mán, con đường Gia Long đi mãi không cùng, và Trưng Trắc Trưng Nhị ôm sát dòng sông. Nhớ không?

Cho nên với mình, gió bấc là gió Tết, là tuổi thơ, là Phan Thiết, là Mũi Né, là Rạng, là Lagi, là Kê Gà, là Tà Cú…

Mùa xuân mừng tuổi thơm tho áo

Nắng cũng vàng phai ngày cũng xa

Anh thương nhớ quá làm sao nói

Gọi tên em vang động gốc cây già

Hái đóa hoa màu biển biếc

Chợt thương khung trời xa

Núi mờ trong mây trắng

Em mờ trong dáng hoa

Gió bấc mùa thơm ngát

Bâng khuâng một mái nhà

Biển xanh lùa sóng bạc

Cát vàng hoàng hôn xưa…

(…)

(Quê Nhà, Đỗ Hồng Ngọc)

Vậy đó. Cho nên về Phan Thiết, Mũi Né, La Gi… mấy ngày chẳng qua để tìm thứ gió quen mà lạ đó. Và để nghe cái Tết tuổi thơ thấm vào trong da thịt, trong nhớ nhung…

Phải khởi hành sớm. Lang thang mà. Đi quốc lộ 51 về hướng Bà Rịa, Vũng Tàu, đến xã Tóc Tiên thì quẹo trái vào thăm Thiền viện Viên Không núp sau một hòn núi nhỏ. Con đường quanh co len chân núi Dinh, lát đá thô rất đẹp, thỉnh thoảng có ao bông súng nhô ra. Những ngôi tịnh xá mọc rải rác, len lỏi giữa rừng cây thưa.

Rời thiền viện, xe qua cánh đồng cỏ mượt có những bầy cừu trắng rất dễ thương, .  cùng mấy con ngựa nhởn nhơ làm nhớ quá cảnh “thả ngựa chăn dê” thuở nào xa trên thảo nguyên… của Kiều Phong với A Châu!

Qua Bưng Riềng, vượt khu rừng Nguyên sinh từng có nhiều voi, cọp… ngày xưa. Ghé ăn sáng, cafe ở quán Vên Vên nhiều cây cao bóng cả, suối róc rách, gặp vị chủ nhân ngồi thiền mòn tảng đá bên bờ suối…

Rồi theo đường biển Hồ Tràm, Suối Nước Nóng, Láng Găng, Rừng Khỉ, qua Phò Trì ghé bãi Cam Bình, ở đó, nếu có thì giờ, làm một chuyến xe bò dạo biển cũng hay!

Đến La Gi (Bình Tuy xưa) thì phải tạt qua Đập Đá Dựng để biết tại sao đá lại dựng đứng như vậy. Ngồi đó, nhấm nháp cafe bên dòng sông Dinh tung tóe nước và nghe mình kể chuyện hồi nhỏ tắm truồng cùng bè bạn trên dòng sông này.

Từ đó, đi ngang Bàu Giòi về Dinh Thầy Thím hoặc đi dọc biển, ngang khu vực Nước Nhỉ, nơi có Giếng Nguồn Chung xưa của nhóm hướng đạo La Gi (giờ chẳng còn dấu vết!). Ghé Dốc Trâu ăn trưa. Ôi vô số là thuyền thúng. Xa xa là Hòn Bà.

Về Tam Tân, ghé thăm mộ Nguiễn Ngu Í. Đã thấy núi Tà Cú xa xa với Linh Sơn Trường Thọ Tự, nổi tiếng với tượng Phật nằm dài 49m được đặt từ năm 1960.

Từ đó, đi về hướng Kê Gà, có Hải đăng xưa nhất, cao nhất vùng nam Trung bộ này. Đường dọc biển qua vùng Đá Nhảy. Đá cứ nhảy chồm chồm lên mới lạ chứ! Đá “nhảy” thế nào mà cũng sinh nhiều đá con bò lổm ngổm?

Đến Phan Thiết rồi đó. Đừng quên bánh căn. Đừng quên chè Mộng Cầm. Đừng quên dốc đá có “Lầu Ông Hoàng đó…” (Trần Thiện Thanh) nhe.

Từ Phan Thiết, theo quốc lộ 28, qua Ma Lâm, leo đèo lên Đà Lạt chỉ hơn trăm cây số. Đà Lạt giờ lạ lắm “phố phường chật hẹp người đông đúc”. Hết rồi cái thuở “… thành phố nào vừa đi đã mỏi/ đường quanh co quyện gốc thông già…” (Lam Phương). Nhưng rốt cuộc mình cũng tìm được một nơi hẻo lánh. Suối Vàng có làng Cù Lần cũng ngộ.

Lúc mẹ mình còn sinh tiền, bà hay nói mình cù lần, “ngu nhất thiên hạ”, mình cãi, con chỉ dám “ngu hạng nhì” thôi! Rồi hai mẹ con “tranh luận” sôi nổi. Mình làm vậy thực ra là để cho bà có dịp luyện tập não bộ, đừng để sớm bị Alzheimer. Ái ố hỷ nộ… quý biết mấy bạn ơi!

Chiều lang thang ra bờ hồ Xuân Hương. Chút lòe loẹt. Chút diêm dúa. Thời thượng. Thôi kệ.

Một gánh hàng rong bán đủ thứ từ khoai nướng, bắp nướng… đến các thứ lai rai trên đời… Một con ngựa lơ ngơ. Anh xà ích hít thở. Mình mua mấy củ khoai nướng. Chị hàng rong dễ thương, gói cho mấy củ… Mở ra thấy toàn cháy đen cháy khét. Thì ra từ sáng giờ không bán được cho ai. Mình vừa đi vừa nhai vừa cười tủm tỉm. Chắc chị đang vui vì gặp ông cù lần. Mình vui vì chị vui. Thú vị bất ngờ là mình cũng đang cần một chút charcoal cho ấm bụng. Tối qua bị… Tào Tháo rượt. Ở đời, vậy đó bạn ơi!

Rời Đà Lạt, mình “xuống núi”. Về Miền Tây. “…Có ai về miền tây/ lúa mùa thơm, thơm mãi/ dừa xanh nghiêng chênh chếch/ cá ngược dòng sông đầy…/ Có ai về miền tây/ mái nghèo nhưng mà đẹp/ má gầy nhưng mà xinh… (Y Vân). Nhớ không?  .

Lần này đi Lai Vung. Lai Vung không chỉ có nem nổi tiếng mà còn có quít hồng rất đẹp. Đặc biệt vào mùa Tết.

Sadec thì mình đi lại đã nhiều lần, qua Lai Vung chỉ dừng ăn Nem chớ chưa lần nào vào sâu trong vườn quít.

Ghé Mỹ Tho trước. Ra tận bờ sông Tiền ăn hủ tiếu Mỹ Tho thứ thiệt vừa ngắm dòng sông Cửu Long. Nhớ Trang Thế Hy, xưa ở bên kia cầu Rạch Miễu, từng có một truyện ngắn Mỹ Thơ rất hay và bài thơ Quán Bên Đường độc đáo (Phạm Duy phổ nhạc) !

Rồi ghé thăm khu Di tích Rạch Gầm – Xoài Mút, nơi Quang Trung đại phá quân Xiêm. Dọc theo tả ngạn sông Tiền về phương Nam, hướng Cai Lậy, Cái Bè, giữa những khu vườn cây trái xum xuê Vĩnh Kim, với nhiều quán lá đơn sơ bày bán trái cây các loại. Chưa có vú sữa, xoài, măng cụt… nhưng nhiều sa-pô-chê, sầu riêng cũng rất ngon.

Qua cầu Mỹ Thuận quẹo phải thì về Sadec. Đi ngang Nha Mân, vùng nổi tiếng con gái rất đẹp. Theo truyền thuyết thì vua Gia Long lúc còn bôn ba vùng này đã “bỏ” lại nhiều mỹ nữ (lúc đó chưa gọi là phi tần!).

Ủa mà sao chẳng thấy người nào đẹp nào hết trơn vậy? Mình hỏi. Mấy người đẹp ở trong vườn chớ ai đứng đây cho ông thấy! Ai đó lên tiếng.

Từ Sadec về Lai Vung khoảng mười cây số, từ đó đi sâu vào tận xã Long Hậu, ngang chợ Long Thành, dọc theo những dòng kênh chằng chịt. Vùng này Long nhiều quá. Địa danh toàn Long. Thì ra vì vua Gia Long từng bôn ba ở đây khá lâu, cho nên vùng này bây giờ con gái… cũng rất đẹp! Xe quanh co qua mấy cây cầu ngang hẹp lé, một loại cầu khi… mở rộng, vừa đủ cho một chiếc xe lắc lư. Con kênh chính Long Hậu đây rồi. Kênh Cán Cờ. Sao lại cán cờ? theo Sơn Nam (?) thì lúc chạy đến đây, vua Gia Long bị gãy cán cờ, phải thay cán mới!

Anh Hai Quan, chị Bạch Huệ, là những người bạn thân thiết của Thân Trọng Minh. Sau bữa cơm… thịnh soạn, mọi người mời nhau xuống thuyền dạo chơi. Một trận mưa như trút nước. Có áp thấp nhiệt đới sắp thành bão. Mình không dám đi. Thuyền đi được một lúc rồi cũng phải vội quay về. Nhớ năm xưa, mình từng đi thuyền trên sông Hương, nửa chừng thuyền lủng lổ, nước vào ào ào. May kịp lội lóp ngóp vào bờ phía Kim Long. Lần đó có Thái Kim Lan, Tôn Nữ Hỷ Khương, Tường Vân, Như Mai, Như Ngân, Lê Gia Phàm… Ôi, nhớ đời.

Bữa cháo gà chiều rất ngon. Mấy ông bạn mình nói “nhớ nhà” quá, bèn xách ghế ra sân… hút thuốc! Thì ra “Nhớ nhà châm điếu thuốc”… là vậy!

Hôm sau đến giờ phải lên đường vì còn ghé thăm mấy nơi ở Sadec. Thăm chùa Kim Huê, xưa thầy Thích Trí Tịnh từng trú ngụ mấy năm, thăm ngôi nhà “Người Tình” của  Huỳnh Thủy Lê bên bờ Sa giang.

Trên đường về ghé Xẻo Mây ở Cái Bè. Một điểm khá đẹp. Ở vùng này, nhiều “Xẻo”, chỗ sông ăn sâu vào trong đất liền thành một cái vũng (mà ở biển thì gọi là vịnh?). Cái Bè có Xẻo Mây, Đồng Tháp có Xẻo Quít…

Mua mấy trái sầu riêng bán ven đường rồi ghé vào một quán nhỏ ở ngã ba sông mà nhìn dòng nước chảy… Một người đàn ông đứng tuổi trên chiếc ghe thương hồ đậu gần đó cỡi trần nhảy ùm tắm táp, xong leo lên thuyền mở bánh tét ra ăn bên cạnh chai rượu đế và một bình hoa vạn thọ…

Về Saigon lại nhớ gió bấc: Đi giữa sài gòn/ Phố nhà cao ngất/ Hoa nở rực vàng/ Mà không thấy tết/ Một sáng về quê/ Chợt nghe gió bấc/ Ơ hay xuân về/ Vỡ òa ngực biếc…(ĐHN). Lại chuẩn bị một chuyến về Mũi Né, La Gi…

Vậy đó bạn ơi.

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc

(TRẺ, Xuân Tân Sửu 2021)

 

 

 

Filed Under: Chẳng cũng khoái ru?, Ghi chép lang thang, Vài đoạn hồi ký

LaGi, chốn xưa

07/02/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

 

LaGi, chốn xưa

Đỗ Hồng Ngọc

Từ Saigòn, theo quốc lộ 1 về Phan Thiết, cách Phan Thiết khoảng 50 cây số, rẽ phải, về phía biển Đông là thị xã Lagi (trước thuộc huyện Hàm Tân), tỉnh Bình Thuận. Như một cái túi treo tòng teng trên quốc lộ 1, không để ý thì khó mà nhận ra, Lagi – Hàm Tân dựa lưng vào núi, hướng mặt ra biển, gắn Bình Thuận với Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu, nối liền núi đèo cheo leo hùng vĩ của miền Trung với đồng bằng cây ngọt trái lành của miền Nam nên Lagi vừa có núi cao, có biển rộng, lại có ruộng đồng xanh mướt, sông Dinh ngoằn ngoèo lững lờ theo con nước đầy vơi bên những động cát trùng điệp, những truông đèo hoang sơ huyền bí…Xa xa là Hòn Bà, một cù lao nhỏ chơ vơ bơi lạc giữa biển khơi, như còn đang vẫy tay về phía Núi Ông lạnh lẽo phía dãy Trường Sơn xa tít: Chuyện xưa rằng phút yếu lòng/Tách mình đứng giữa mênh mông đất trời/ Để nghe gió lộng trùng khơi/ Và nghe sóng mãi hát lời thiên thu (Thanh Trúc)

Nhiều người vẫn bỡ ngỡ sao lại Lagi? Có người cho là Phân Ly- do sự tích Hòn Bà chia tay cùng Núi Ông, một mình trôi dạt về biển – mà thời Tây người ta đã đọc trại đi thành địa danh Lagi bây giờ? Hỡi em Lagi là gì? Là thiên di thuở hàn vi đất trời? (Phạm Tường Đại). Tôi thì không nghĩ vậy. Hẳn Lagi phải có họ hàng gì đó với dòng họ La, nào La Ngà, La Ngâu, La Gàn… của vùng miền này, nối liền Đồng Nai, Lâm Đồng, Bình Thuận, cùng một giuộc đất từ thuở cha ông đi mở nước còn lưu dấu. Nhưng dù có “La” gì đi nữa thì Lagi – một vùng đất nghèo nàn hẻo lánh đó vẫn như một “vương quốc” cho những hồn thơ với núi non hùng vĩ, ruộng đồng bát ngát, sông nước lững lờ, Đá Dựng nên thơ, Đồi dương vi vút với bãi cát mênh mông đầy rau muống biển và lông chông vèo vèo giữa mùa gió lộng dưới nắng vàng rực rỡ, mặn nồng. Đêm đêm, những chiếc thuyền thúng câu mực lập loè như những thiên hà xa xôi … Một miền quê nghèo mà tươi ngon ai đến cũng gần, ai đi cũng nhớ : Là muôn chim đến hội bày/ Xây thành tổ ấm từ ngày hoang sơ/ Là con thuyền chở ước mơ/ Vượt phong ba đến bến bờ vinh quang (Phạm Tường Đại). Lagi còn có những đình miếu, cổ tự quằn theo tháng năm, những nóc giáo đường cao vút giữa hoàng hôn và những chốn linh thiêng như Dinh Thầy Thím nườm nựơp kẻ đi về, trên đường lên Tà Cú, Kê Gà. Cho nên không thể không thành thơ. Cho nên không thể không thành nhạc. Có lẽ là từ thuở cha ông khai sơn phá thạch, Lagi đã là một nơi sớm hình thành những nhóm thi ca tài tử, và một thi xã, Lagi Thi xã, đã ra đời gần trăm năm trước bây giờ vẫn còn đọng lại những vần thơ tao nhã của người xưa. Cho nên không lấy làm lạ là hôm nay được tiếp nối với Câu lạc bộ thơ ca Lagi hoạt động khá sôi nổi, không chỉ khu trú mà còn mở rộng giao lưu với các Câu lạc bộ thơ ca của Vũng Tàu, của Thành phố Hồ Chí Minh tạo thành một không khí đầm ấm của một vùng đất cổ xưa mà luôn mới mẻ…

Tôi sinh ra và lớn lên ở Lagi, tuổi thơ thả diều đá đế, tắm sông trần truồng cùng bè bạn, đen đẻm vì ngâm nước biển mặn, đuổi bắt còng gió bỡ hơi tai, nửa đêm chờ cá lưới sẩm, ruốc tươi xào xúc bánh tráng rau sống, rồi cá nục hấp, cá mòi nướng, cá ngoéo luộc với thứ ớt cay xé họng, thơm lừng… Rồi là những năm tháng lao đao tản cư trong rừng sâu nước độc, sốt rét triền miên, hết Phò Trì, đến Giếng Ngự, Láng Hàng, Bưng Riềng, Rừng Khỉ, rồi Hồ Tôm, Bàu Lời, Nước Ngọt, Ba Hòn, Bưng Cò Ke… Cho nên làm sao mà không rưng rứt với những câu thơ của một Trần Yên Thảo: Thương ai từ dạo tản cư/ Mắt nhìn đắm đuối mà như hửng hờ/ Thuỷ chung còn tới bây giờ… hay một Cao Hoàng Trầm: Những ngày Phước Lộc Hàm Tân/ Bom thù dội nát bao lần hoang sơ/ Đình chùa giặt đốt chơ vơ/ Tuổi xanh mang cả ước mơ lên đường…

Rời quê hương gần nửa thế kỷ, Lagi vẫn là nơi tôi thường tìm về vì ở đó còn là mồ mả ông bà và người cha thân yêu, ở đó còn có những thân quyến và bè bạn từ ngày thơ dại. Lagi, nơi tôi biết dõi mắt nhìn theo những tà áo mà bâng khuâng, để rồi như một Hứa Minh Tánh: Hình như trong biển có em/ Cho nên giọt mặn giọt mềm môi anh… để rồi Hình như chỉ hình như thôi/ Cớ sao cuối đất cùng trời xôn xao… Bỗng dưng hôm nay đựơc bạn bè ở quê hương gởi cho tập bản thảo thơ, Biển Hát, mà bảo viết đôi lời. Tôi đọc thơ mà như không đọc. Tôi thả lòng mình trôi giạt vào thơ. Bởi chỉ mới nghe những địa danh thôi mà lòng đã rưng rưng, tôi làm sao còn có đủ sáng suốt để đọc thơ của bạn bè, cha chú, lớp trước lớp sau, người quen kẻ lạ. Cứ mỗi một dòng chữ viết tay nắn nót (bản thảo chép tay) lại hiện lên trong tôi sông ngòi biển cả, rừng núi ao hồ, trưa hè nắng cháy nhảy ùm xuống sông Dinh, đập Đá Dựng, những ngày mưa lũ, nước cuốn trôi phăng cả nhà cửa trâu bò. Tôi cứ để lòng mình nhảy ùm như thế, cuốn trôi như thế khi đọc Biển Hát. Cả một dĩ vãng ùa sống lại. Rồi Lagi của bây giờ tôi mỏi gót qua cũng lạ như một Trần Kim Trung: Xóm nhỏ ngày nào tôi vẫn quen/ Hôm nay rực rỡ dưới hoa đèn/ Phố chiều mỏi gót qua cũng lạ/ Đường mới rộng dài xe bước chen hay như lời thì thầm của nhà thơ Hoàng Hương Trang, người khách “viễn phương” mới đặt chân tới Lagi đôi lần cũng đã kịp nhận ra: Biết bao điều muốn nói/ Vỏ ốc giữ trong lòng/ Biết bao điều thì thầm/ Vỏ ốc ơi giữ lấy!

Saigon có xa cách gì với Lagi đâu, vậy mà những người Lagi sống ở Saigon vẫn canh cánh bên lòng nỗi nhớ quê: Đêm đêm vỗ mộng về quê mẹ/ Nhặt nắng chiều hoang tắm biển xuân (Châu Anh). Lạ lùng biển mặn trời xanh có cái gì đó da diết, ray rứt, cứ như chất muối ngấm dần trên sớ thịt lằn da, và gió bấc nữa, gió bấc lạ kỳ chỉ nghe thôi đã thấy mùi cốm Tết, nhất là khi gió bấc thổi qua những cánh bướm tan trường. Nhớ nghĩ về Lagi, tôi bàng hoàng đọc Trần Yên Thảo: Hãy còn dáng đứng kiêu sa/ Đường truông thăm thẳm về qua Đá Hàng/ Trăm năm đâu đã muộn màng/ Ta còn ôn lại chuyện ngàn năm xưa.

Đỗ Hồng Ngọc

………………………………………………………………….

 

 

 

 

 

 

 

Filed Under: Ghi chép lang thang, Già ơi....chào bạn, Vài đoạn hồi ký

“Album THU VÀNG hát Thơ Đỗ Hồng Ngọc”

26/01/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Giới thiệu “Album Thu Vàng hát Thơ Đỗ Hồng Ngọc”

Ghi chú:

Có nhiều bài thơ của Đỗ Hồng Ngọc (Đỗ Nghê) từng được phổ nhạc bởi các nhạc sĩ Miên Đức Thắng (Lời Ru, 1967); Phạm Trọng Cầu (Thư cho bé sơ sinh, 1973); Trương Thìn (Mai sau dù có bao giờ, 1978); Hoàng Hiệp (Viết tên lên cát, 1978); Khúc Dương Đặng Ngọc Phú Hòa (Nước- Kể chuyện trăng tàn,1998); Vĩnh Điện (Mới hôm qua thôi, 2014); Hoàng Quốc Bảo (Mũi Né,  Có Không); Võ Tá Hân (Bông Hồng Cho Mẹ, Thư cho bé sơ sinh, Mới hôm qua thôi, Đồng hương); Thuần Nhiên Nguyễn Đức Vinh (Sông Ơi Cứ Chảy); Nguyễn Thanh Cảnh (Phan Thiết-Trên sông khói sóng); v.v…

Riêng giọng ca Thu Vàng đã thể hiện 4 nhạc bản phổ thơ Đỗ Hồng Ngọc dưới đây, xin trân trọng giới thiệu cùng bè bạn thân quen… (nhân dịp Sinh nhật Thu Vàng –  tranthinguyetmai.wordpress.com).

Mũi Né, nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo;

Bông hồng cho Mẹ, nhạc sĩ Võ Tá Hân;

Sông ơi cứ chảy, nhạc sĩ Thuần Nhiên Nguyễn Đức Vinh;

Có Không, nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo.

Album “Thu Vàng hát thơ Đỗ Hồng Ngọc” được thực hiện bởi Nguyễn Văn Quyền, 1.2021

Do Hong Ngoc.

 

Tu viện Khánh An (ảnh ĐHN 1.2021)

 

 

 

Filed Under: Gì đẹp bằng sen?, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Thư gởi bạn xa xôi (1.2021)

25/01/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Thư gởi bạn xa xôi 

Những ngày gần Tết

Bạn biết đó, gần Tết thì mình cũng thường lu bu. Thứ tư 20.1.2021 thay vì Nhóm Học Phật của bọn mình có buổi học kinh Lăng Già như thường lệ thì mình đề nghị đi thăm Tu viện Khánh An của Thầy Trí Chơn ở quận 12. Các bạn “OK” ngay.

Xin gởi vài hình ảnh như thường lệ thôi nhe.

Tu viện Khánh An, Quận 12. (ảnh Internet)

 

Đây là ngôi chùa mình đã có dịp đến trò chuyện với quý vị Phật tử vài lần. Một lần về Thiền và Thở dưới góc độ khoa học, một lần về Ăn và Chay trong “Một ngày sống tỉnh thức” được tổ chức hàng tháng tại Tu viện. Các đề tài này đã được quay video clip đưa lên youtube để chia sẻ rộng rãi đến bà con.

 

Thầy Trí Chơn tiếp mọi người ở nhà Thanh Lương, và mọi người đã có một buổi trà đàm thân mật nhân có thầy Mãn Pháp từ Hà Nội vào.

 

Ngoài Nhóm Học Phật còn có các bạn trẻ của Lớp Phật học & Đời sống cùng nhóm của Phật tử Lệ Mai (đệ tử thầy Trí Chơn) tham dự.

 

Mình đưa các bạn đi thăm Ao sen rất đẹp của Tu viện. Đã có lần Thầy Trí Chơn đích thân chèo thuyền cho mình đi dạo trên hồ sen…

 

…Và một cung đường thiền hành quanh hồ ngập hoa vàng… mùa Tết.

 

Một tấm hình kỷ niệm chuyến về Khánh An  (20.1.2021).

 

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc.

(25.1.2021)

 

 

Filed Under: Ghi chép lang thang, Gì đẹp bằng sen?

Thư gởi bạn xa xôi (1.2021)

23/01/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Thư gởi bạn xa xôi (1.1.2021)

Năm nào cũng vậy, Tết (tây) là mình đi một vòng, lang thang đây đó một chút để “thay đổi không khí”, mặc dù bây giờ ở cái tuổi này thì… ngày nào cũng là Tết.

Như bạn đã căn dặn, làm biếng viết thì cũng nên chia sẻ mấy tấm hình coi cho vui. Vậy nha.

Trưa 1.1.2021 về đến Lagi. Cafe với các bạn văn thân thiết quê nhà…

 

Nhà thơ Trần Kim Trung, 91 tuổi, vài ba năm gần đây, năm nào cũng in vài tập thơ. Anh nói, nhờ có thơ mà anh sống… dai và vui khỏe vầy!

 

 

 

 

Rồi ký tặng sách cho nhà thơ Cao Hoàng Trầm…

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Và Thái Anh, Dũng Nguyên, Đỗ Ái Liên…

Gặp Huỳnh Thục Oanh, tác giả bài “Thăm Nước Nhỉ, nhớ Nguien Ngu I, một cây viết trẻ đầy tiềm năng của quê nhà.

Phan Chính đang ở Nha Trang. Lê Ngọc Trác bận đi đâu đó… Cùng nhắc La Thụy, Ngô Văn Tuấn, Nguyễn Huỳnh Sa, Đỗ Hồng Sa, Nguyễn Văn Mỹ v.v…  Từ xa xưa, xứ Lagi vốn đã có Lagi thi xã tiếng tăm với nhiều nhà thơ lớp trước.

Đi đường dọc biển để ghé thăm khu vực Nước Nhỉ có giếng Nguồn Chung ngày xưa (1944).

Nơi đây, xưa um tùm dứa dại. Nước ngọt nhỉ từ trong động cát ứa ra. Khách bộ hành đi giữa bãi biển trưa gắt nắng mà có ngụm nước mát dưới mấy bụi dứa chẳng khác đi trong sa mạc gặp ốc đảo. Người đi đường thường lấy mấy mảnh vỏ sò to hoặc gáo dừa làm muỗng múc nước uống. Một nhóm thanh niên Lagi, Tam Tân, Hiệp Nghĩa… đã chung tay xây một cái giếng gạch, đặt tên là giếng Nguồn Chung, theo gợi ý của Nguien Ngu Í. (Năm 1960, Cậu Ngu Í và Mợ Thoại Dung cùng ĐHN ghé thăm thì chỉ còn là đống gạch vụn…)

 

Hóa ra nước dã nhỉ từ những hồ nước sau đồi cát. Tưởng gần, ai dè đến vài ba trăm mét qua đụn cát trắng mênh mông này… 

 

Buổi tối, không gì ngon hơn ngồi lề đường ăn bánh xèo làng quê… để nhớ những ngày thơ ấu!

 

 

Và sáng sớm thì lang thang bên bờ biển vắng Mũi Né…

bãi Mũi Né… và những bé thơ (ảnh Do Hong Ngoc, Mũi Né 2.1.2021)

 

Chúc vui, và An lành luôn nhé!

Hẹn thư sau,

Do Hong Ngoc.

Filed Under: Ghi chép lang thang, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Thăm Nước Nhỉ, nhớ Nguiễn Ngu Í

23/01/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Thăm Nước Nhỉ, nhớ Nguiễn Ngu Í

Huỳnh Thục Oanh

 

Khi tôi nói, La Gi có địa điểm mang tên Nước Nhỉ, cô dạy cùng trường lắc đầu, nói: “Làm gì? Nhà chị ở đây bao năm có nghe ai nói tới Nước Nhỉ đâu!”. Còn ông giáo dạy ở một trường miền núi, lâu nay cứ hay chọn giờ khuya gọi tôi, cá biệt có  hôm, sau khi uống thuốc liều còn hẹn gặp hàn huyên tâm sự, à ôm: “ Nước Nhỉ, anh biết ở dưới chân núi Nhọn quê em. Chỉ gần núi, có nước mới nhỉ ra gọi là Nước Nhỉ. Đường đến đó thế nào cũng cúc dại ( sơn cúc, cúc núi) mọc dày hai bên đường, rất đẹp để làm mấy Pô ảnh. Anh tình nguyện chở em đi”.

Anh ta còn bảo thêm sẳn sàng phi đến chỗ tôi ngay lập tức.Tôi cười he he trong điện thoại rồi thêm: “Có ma le mới đi với ông” và cúp máy.

 

Sau những câu chuyện ấy, tôi vẫn không mảy may thay đổi ý định đi tìm Nước Nhỉ vì ba tôi, một người bảy mươi tuổi, siêng đọc sách hay nói: “ Nước Nhỉ,cái tên hay hay. Ba chưa đến, nhưng biết nó nằm trên cung đường biển La Gi đi Ngãnh Tam Tân. Thử đến đó một lần đi con. Một khi cố gắng tìm, con lại thêm hiểu biết”.  Ba tôi đọc sách tìm niềm vui, nhưng khi phát hiện điều gì cần thiết cho con, cho cháu, ông đều mong bọn trẻ thực hiện,  bởi ông nói:  “Cái sàn khôn mỗi con người có nhiều con đường tích luỹ… Đi cũng là một phương cách!”

Tôi đã nhiều ngày tìm hiểu Nước Nhỉ cho đến khi tôi gặp vợ chồng chú Hai Nhàn, sống trong căn nhà có phần biệt lập, cách nơi tôi dạy học không xa.

Vợ chồng ngoài 60,nom khoẻ mạnh. Riêng chú Hai tựa cây lim già tuổi, rắn rỏi, không  hề có bụng, đi lại  nhanh nhẹn.

Chú Hai Nhàn chỉ nơi Nước Nhỉ, giếng Nguồn Chung ngày xưa (ảnh HTO)

Chú Hai Nhàn nói: “Thời trẻ vợ chồng tui  sống bằng nghề kéo lưới rùng. Biển La Gi này đoạn nào vợ chồng tui không tới. Nước Nhỉ cách đây vài cây số.Có thể tới đó bằng hai con đường. Một, từ bãi biển Bàu Dòi (Hiệp An) đi ngược về Nam. Hai, từ chỗ công ty du lịch mới mở, có con đường chạy thẳng ra biển, từ đó đi ngược lên”.

Khi tôi nói  đã xác định được Nước Nhỉ, ba rất vui. Hai cha con  hẹn với chú Hai Nhàn sang nhà, nhờ dẫn đường.

Chúng tôi khởi hành từ chỗ con đường chạy ra biển của công ty du lịch, rồi men theo bãi đi lên, cho tới khi một triền đất lài lài hiện  ra. Chú Hai bảo đó là Nước Nhỉ. Điểm nhận biết  là  cái triền đất chạy lan ra sát bãi biển.

Chú Hai Nhàn kể: “Nước Nhỉ ngày trước um tùm cây bụi. Sau dứa dại là dương già. Trên dương là cát trắng, còn có tên gọi là Động Trâu. Ở về phía bên kia động, hướng ra đường cái có bàu sen rộng, cá nhiều. Ngày trước,  nơi này, quanh năm nước ngọt từ trong động cát nhỉ ra. Chỉ cần dùng tay đào một hố rộng, chờvài phút, nước đã đầy.

Từ lúc chú Hai xác định đến Nước Nhỉ, ba tôi như người đang phiêu du với điều riêng tư nào đó. Hết quay mặt ra biển, lại nhìn vào triền cát. Triền cát vào tháng năm này, sau khi rừng bị phá, chỉ còn mấy cây dương nhỏ, xơ xác gió biển ngày đêm thổi…

Không hề có dấu tích nước ngầm trong cát, thay vào đó đầy rác biển.

Nếu không có người dẫn đường, bạn sẽ không  hình dung  nơi nầy những người kéo lưới rùng từng lấy nước ngọt nấu cơm ăn, nước uống, trong thời gian hành nghề. Tôi đang định nói: “ ba lên chỗ cây dương cho đỡ nắng” thì ba bất ngờ ngồi bệt xuống cát.

Tôi nói sẽ rất nắng nhưng ông chẳng hề để ý điều đó. Ông nói: “Khi Ba theo bà nội con vào La Gi, đất này lắm rừng.  Cọp beo có đủ. Có con đường chạy xuyên qua rừng đến tận Núi Cú, nhưng không mấy người đi lại. Nếu đi, phải đông người. Trước 1945, người ở  làng Tam Tân(nay thuộc xã Tân Tiến),  và Hiệp Nghĩa (nay thuộc Hàm Thuận Nam), đi La Gi thường chọn đường biển. Hôm nay cha con mình biết: Nước Nhỉ chỉ cách bãi biển Đồi Dương,Tân Bình khoảng 6 km, nhưng với người đi giữa nắng trời, tay xách, nách mang, gánh nặng, mũi bàn chân cứ phải lao về phía trước nhằm lấy đà thì quả là xa, cần giải lao dưỡng sức. Đường dài, bên biển, bên đồi cát, tìm thấy một nơi có nước ngọt quả là tuyệt vời.

Năm 1944, một nhóm thanh niên Lagi, Tam Tân, mang vật liệu tới Nước Nhỉ, xây cái giếng gạch đặt tên là Nguồn Chung dành cho người đi đường. Giếng sau này đi vào thơ ca và một trong số người  có công ấy là ông Nguyễn Hữu Ngư, nhà văn, nhà báo, nhà thơ  với bút danh: Nguiễn Ngu Í. Ngoài bút danh ấy, ông còn ký: Trinh Nguiên, Tân Fong Hiêb, Phạm Hoàng Mĩ, Nghê Bá Lí, Lưu Nguiễn …”(1)

Mấy năm trước ba tôi có đọc lại cuốn sách cũ cho biết: thân sinh nhà văn là cụ Nguyễn Hữu Hoàn, còn có tên Nguyễn Hữu Sanh, Nguyễn Văn Hợi, sinh năm 1887 ở xã Phụng Hoàng (Hà Tĩnh), thi Hương một kỳ rồi bỏ hẳn khoa cử. Cụ Hoàn tham dự phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, và Duy Tân. Trên đường vào Nam , cụ dừng bước ở làng Tam Tân khi ấy thuộc tổng Phong Điền (Bình Thuận). Thân mẫu nhà văn là cụ bà : Nghê Thị Mĩ, người Tam Tân. Nhà văn sinh năm 1921 và như ông  kể trong bài viết trên tạp chí Bách khoa số xuân năm 1965: Năm 7 tuổi phải rời  thầy mẹ đi học xa. Từ đó đến năm 24 tuổi, mỗi năm về thăm cha mẹ một tháng.

Nguyễn Hữu Ngư có tài thơ văn. Bắt đầu tham gia làng văn năm 1939 trong loại sách Ngày Xanh dành cho thiếu nhi miền Nam Việt Nam . Nhà văn có một số năm tham gia cách mạng tại quê hương và cả khi ra Bắc, vô Trung. Từng làm thư ký đầu tiên UBND  cách mạng xã  nhà năm 1945.

Những năm sau này, do thần kinh không ổn định, có lúc ông phải dưỡng bệnh… nhưng  vì là người của công việc, tạm hết bệnh, ông lại lao vào viết, dạy học. Trong hầu hết  tác phẩm của nhà văn như: “Lịch sử Việt Nam”, “Hồ Thơm- Nguyễn Huệ- Quang Trung”, “Sống và viết với…”, “Suối bùn reo”, “Qê hương”… Tình yêu đất nước, tinh thần sống có trách nhiệm với quốc gia dân tộc, thương yêu đồng bào ruột thịt, yêu thương người thân… hiện ra  một cách đằm thắm trong nhiều trang sách.

Đúng vào lúc  ba kể chuyện, chú Hai Nhàn cũng ngồi xuống bên cạnh. Họ nói với nhau về con đường rừng La Gi- Tam Tân, và nhân đó ba đọc bài thơ “Về quê ai tết đầu sau khi ngưng chiến (1955)”của Nguiễn Ngu Í cũng in trong số xuân  Bách khoa.

 

“Gần đến nơi rồi em thấy chưa?

Đường đi lúc lắc, nắng lưa thưa

Có gì man rợ trong cây, đá

Em sợ  giờ đây, ngĩ cũng vừa….( 2)”

 

Ba nói với chú Hai: “Trong bài thơ này tác giả đi đường rừng. Song cũng có lúc tác giả đi đường biển. Trong một bài viết của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, cháu gọi nhà văn bằng cậu, cho hay: Năm 1960, nhà văn và vợ cùng ông đi đường biển về quê. Đến Nước Nhỉ, ông dừng lại.  Sau một lúc trầm tư, ông cảm tác bài thơ có những câu:

 

“Nằm đây mà ngó lên trời

Lá cây dứa đã mấy đời đong đưa

Nằm đây mà nhớ mơ hồ

Những xanh tóc ấy bây giờ về đâu?”…

 

Giọng thơ buồn man mác, nỗi buồn của nhớ nhung, luyến tiếc và có phần bất lực. Đây là đoạn thơ nhiều người nhớ.

Ba  tôi lại quay sang chú Hai Nhàn : Anh à, cuộc đời này, mọi cái đều không đứng yên, bất dịch. Con đường biển ngày xưa, giờ mình đang ngồi nhìn ra đây, nói với chúng ta về một thời gian khổ đã qua. Và nhờ đó mà nhiều người trưởng thành.Con đường này và  Nước Nhỉ gắn với tên tuổi Nguiễn Ngu Í vì ông từng tham gia xây giếng Nguồn Chung, cũng như đi lại trên đường. Thời gian sẽ phủ mờ tất cả. Thế hệ tương lai có dịp đi lại trên con đường ven biển La Gi- Tam Tân, nếu không ai nhắc, chắc gì biết đến Nước Nhỉ ? … Vì vậy, nếu dựng một tấm  bia ghi: “Nơi đây-  Nước Nhỉ, giếng Nguồn Chung- một thờï là điểm cung cấp nước ngọt cho người đi lại ven biển và tàu thuyền…” chắc chắn  sẽ có người tìm hiểu, trở thành câu chuyện về tình người.

Không dừng đó, Ba tôi đọc hai câu mà ông bảo mang nhiều tâm sự của nhà văn, nhà thơ, nhà báo quê La Gi:

“Bao nhiêu chí trẻ rồi tro bụi

Một thoáng tình xa cũng ngậm ngùi”. 

Chuyện của hai người lớn làm tôi thầm nhủ :Nước Nhỉ là câu chuyện sinh động về lịch sử, địa lý quê hương. Một hôm nào đó có thể đưa học trò mình đến Nước Nhỉ trong giờ lịch sử văn hóa địa phương?

(HTO)

 

—————————————————————————

Ghi chú: ( 1, 2): Trong bài có một số chữ giữ nguyên cách viết của nhà văn.

…………………………………………

Đọc thêm:

Đỗ Hồng Ngọc trả lời câu hỏi của một độc giả trên dutule.com (2013)

(nguồn www.dohongngoc.com)

Mẹ tôi và ông Nguyễn Hữu Ngư (Nguiễn Ngu Í, 1921-1979) là chị em Cô cậu ruột. Mẹ ông họ Nghê nên ông còn có bút hiệu là Ngê Bá Lí, với cách viết “đặc biệt” của ông. Tôi gọi ông bằng cậu, gần gũi và thân thiết. (…)

Ông viết văn, làm báo, có nhiều bút hiệu: Trinh Nguiên, Tân Fong Hiệb ( ghép điạ danh quê nhà Tam Tân, Phong Điền, Hiệp Nghĩa), Ngê Bá Lí, Trần Hồng Hừng, Ki Gob Jó Cì, Fạm Hoàn Mĩ… Bút danh Nguiễn Ngu Í được nhiều người biết đến, nổi tiếng là một ký giả chuyên phỏng vấn các vấn đề văn học nghệ thuật cho tạp chí Bách Khoa thập niên 60 tại Sài gòn.

Ông có lối viết tiếng Việt rất đặc biệt, rất riêng, gây ít nhiều tranh cãi, ít nhiều khó chịu cho người đọc, nhưng vẫn có cái lý riêng của ông. Thí dụ ông thấy không hợp lý khi ta viết NGA, nhưng lại NGHE (ông sửa lại NGE), GA nhưng GHE (ông sửa lại GE…).

Ông có một vài tác phẩm về sử, đặc biệt về Quang Trung và về Hồ Quý Ly trong thời gian dạy sử ở vài trường trung học, ký Fạm Hoàn Mĩ; ông cũng có vài cuốn tiểu thuyết như “Suối Bùn Reo”, “Khi người chết có mặt” v.v… Nhưng tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là “Sống và Viết với …”, do Ngèi xanh xuất bản (1966), tập hợp các bài phỏng vấn trên báo Bách Khoa với các nhà văn nổi tiếng đương thời Nhất Linh, Đông Hồ, Bình Nguyên Lộc, Nguyễn Hiến Lê, Hồ Hữu Tường, Sơn Nam, Doãn Quốc Sĩ….(sau này Xuân Thu in lại ở nước ngoài). Ông cũng chuẩn bị ra mắt các cuốn “Sống và Vẽ với…” phỏng vấn các hoạ sĩ, và “Sống và Đàn với…” phỏng vấn các nhạc sĩ. Tiếc thay ý nguyện chưa tròn. Ngoài ra ông còn có một tập thơ “Có những bài thơ”, do Trí Đăng xuất bản, 1973.

Trong thời gian nằm ở Dưỡng trí viện Biên Hòa vì bệnh thần kinh, ông cùng các “bạn điên” có ra một tập thơ, lấy tên là “Thơ điên thứ thiệt” rất thú vị, do ông làm chủ biên. (có mấy bài của Bùi Giáng). Thời đó, ngoài thuốc men, các bác sĩ ở Dưỡng trí viện Biên Hòa còn khuyến khích bệnh nhân làm thơ, vẽ tranh, đánh cờ, lao động tay chân v.v… như một liệu pháp chữa trị tâm bệnh. Khi được hỏi vì sao gọi là “Thơ điên thứ thiệt”, thì ông cười bảo vì lúc này có nhiều người làm thơ giả điên quá!

Ông thường xuyên ra vào các nhà thương điên Biên Hòa và Chợ Quán:

Cũng tưởng một đi không trở lại

Nào ngờ duyên nợ lại dằng dai

Bỗng nhiên sực tỉnh nằm trong “khám”

Khám của lòng ai, ai của ai…

(Bài thơ tái ngộ Dưỡng trí viện, 1966)

 

Trong một bài thơ khác, ông viết:

 

Ta đi lang thang

Ta nói tàng tàng

Ta cười nghinh ngang

Ta chửi đàng hoàng

…

(Bài thơ tự giết, 1966)

”Chửi đàng hoàng” quả không phải là chuyện dễ, nhưng với ông thì ông làm được. Hỏi chửi ai? Ông nói: ”Chửi cả và thiên hạ, trong đó có mình”!

 

Ông có nhiều bài thơ hay. Bài thơ viết cho Mẹ rất cảm động:
“Má ơi con má điên rồi
Má còn trông đứng đợi ngồi mà chi…”

Năm 1960, tôi có dịp đi với ông trên bãi biển từ Lagi về Ngãnh Tam Tân (Bình Thuận) đến Nước Nhỉ, ông dừng chân nghỉ và nằm lim dim trên đống cát gạch vụn, dưới bóng mát của các bụi dứa gai um tùm nhìn lên trời mây… Một lúc ông gọi tôi đến và đọc cho nghe bài thơ vừa làm xong. Tôi còn nhớ mấy câu:

Nằm đây mà ngó lên trời

Lá cây dứa đã mấy đời đong đưa

Nằm đây mà nhớ mơ hồ

Những xanh tóc ấy bây giờ về đâu…

 

Thì ra ông nhớ mấy người bạn cũ, trong đó có Ba tôi (Đỗ Đơn Trì, các cậu tôi là Nghê Nhã Ý, Nghê Cộng Hòa, Trần Minh Di…) đã cùng nhau xây cái giếng Nguồn Chung ở Nước Nhỉ này cho khách bộ hành qua đường nghỉ ngơi, uống bụm nước ngọt, nhỉ ra từ động cát, giữa trưa nắng gắt trên đường dọc biển mênh mông đầy nắng và gió.

Cuộc đời ông nhiều truân chuyên, tài hoa nhưng mắc bệnh không thể chữa được. Tuổi lớn, cơn điên ngày càng nhặt. Có lần ông nằm giữa xa lộ Biên Hòa cho xe Mỹ cán, nhưng họ kịp dừng, chở thẳng vào nhà thương điên. Có lần ông trốn viện, bắt đom đóm làm đèn đi trong giờ giới nghiêm cũng bị bắt lại…

Trước đó, hình như ông biết trước cái chết của mình, viết một bức thư như là một di chúc cho bà. Ông ước ao được thả trôi trên một chiếc thuyền nhỏ, đục thủng đáy, nhét nút lại, rồi để thuyền trôi lênh đênh trên biển Thái Bình Dương, để được nhìn trời mây nước cho thoả thích, rồi rút nút cho thuyền chìm dần và chết trong bụng cá, cho “Ngư về với Cá”. Thế nhưng ông chết với lửa. Ông được hoả táng ở An dưỡng địa Phú Lâm và đưa về đặt kề ông bà và dì Nga ở Ngãnh Tam Tân.

Tôi vẫn nhớ hai câu thơ từ lâu của ông:

Bao nhiêu chí trẻ rồi tro bụi
Một thoáng tình xa cũng ngậm ngùi.

Ông là bạn cùng lớp, cùng trường Pétrus Ký với Trần văn Khê, Lưu Hữu Phước… Gia đình có làm một tập tư liệu về ông: Ngu Í Nguyễn Hữu Ngư, qua ký ức người thân, do mợ tôi, bà Nguyễn Thị Thoại Dung thực hiện (1996), gồm các bài viết của Bà Tùng Long, Trần Văn Khê, Lê Ngộ Châu, Lê Phương Chi, Phan Chính, Hoàng Hương Trang, Hồ Trường An, Trần Huiền Ân, Tô Dương Hiệp, Đỗ Đơn Chiếu, Phan Khắc Khoan, Đỗ Hồng Ngọc…

Sau này (1990), khi về Lagi-Tam Tân, tôi có một bài thơ viết cho ông:

Đêm trên biển Lagi

( tặng cậu tôi, Nguiễn Ngu Í )

Sóng cuốn từng luồng trăng lại trăng
Đêm Hòn Bà dỗ giấc ai nồng
Phẳng lì bãi cát buồn hiu ngóng
Cao vút hàng dương quạnh quẽ trông
Đá cũ mòn rêu hoài đá Ngãnh
Nguồn xưa cạn nước vẫn Nguồn Chung
Về đâu mái tóc xanh ngày ấy
Câu hỏi ngàn năm có chạnh lòng…

                                   Đỗ Hồng Ngọc

                                                 (1990)

……………………

Dưới đây là nguyên văn bài thơ Nguiễn-Ngu-Í (NGÊ-BÁ-LÍ) viết về “giếng Nguồn Chung” với chú thích về “sự tích” hình thành giếng Nguồn chung năm 1944 ở Nước Nhỉ, Lagi. (Bài thơ viết năm 1960, in trong cuốn …”QÊ HƯƠNG”…, 1969 – chữ QÊ, kiểu viết NNI) với Lời giới thiệu của Nguyễn Hiến Lê. Trong cuốn sách mà Nguyễn Hiến Lê gọi là “kỳ thư” này, tôi viết bài “dẫn nhập” tựa Viết về Bình Tuy, với bút hiệu Giang Hồng Vân.

Đỗ Hồng Ngọc.

(Saigon, 24.1.2021)

(Nguồn: …”Qê Hương”… Nguiễn-Ngu-Í, Saigon 1969)

 

 

 

 

 

Filed Under: Ghi chép lang thang, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

“Trò chuyện” với Cao Huy Thuần vài điều về cuốn SEN THƠM…

17/01/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

“Trò chuyện” với Cao Huy Thuần vài điều về cuốn SEN THƠM…

Anh Cao ơi,
Tôi đang đọc “mê man” cuốn sách mới của anh đây. Người đưa đò quá hay. Nhất là “mong manh” “tro bụi” và phần ngoại truyện. Tôi có hơi tiếc một chút: giá mà anh dịch theo giọng xưa của 20 thế kỷ trước thì càng thấm thía. Anh nói anh cố dịch sát, nhưng giọng mới quá, thành tưởng… của anh viết? Hay ông Lucien de Samosate… là Cao Huy Thuần giả bộ gạt độc giả là tui? Hy vọng Sharon sẽ được chở nhẹ một phen!

Lúc này đọc anh không biết đâu mà rờ, y như hai Tôn hành giả đánh nhau giữa thời buổi “Tin giả này mới là tin giả thật”.

DHN

(14.01.2021)

–…………………………………………………………………………..

Anh Đỗ ơi,

Ôi, vui biết bao khi đọc thư anh, biết anh “mê man” bài “Người đưa đò”. Đó là bài mà tôi lo nhất, sợ độc giả không theo dõi được một (bi) hài kịch.

Đi vào chi tiết một chút để trả lời thư anh:

– Tôi dịch rất sát nguyên văn. Khó nhất là phải lột cho được cái giọng tếu thú vị, nếu không thì chẳng còn gì hấp dẫn.

– Nhưng khó hơn nữa là phải sát, phải tếu, nhưng phải là giọng văn của thời đại này, chớ nếu cổ lổ sĩ thì khó mà lôi kéo độc giả đi theo. Rất may là giọng văn của nguyên văn rất hợp với giọng văn (tếu) của CHT. Anh nói không biết thật giả là CHT rất khoái.  Rất thật đấy nhưng cũng rất CHT.

– Nguyên văn của câu chuyện là dựa trên thơ của Homère, do đó trong nguyên văn không cần phải giải thích bao nhiêu là chi tiết thần thoại. Tôi phải giải thích như thử là tác giả viết. Do đó, phần giải thích ấy là phần thêm của tôi, nhưng thêm mà không phản với nội dung và văn khí. Thêm thế nào cho trơn tru như nước chảy xuôi dòng, không vướng ngại.

– Nói tóm lại, anh không phân biệt thật giả là tôi mừng. Rất thật vì tôi không phóng tác. Nhưng rất “tôi”.

– Cho nên “tôi” là “tôi” trong ngoại truyện. Thật chăm phần chăm.

Cám ơn ĐHN.

CHT.

(14 Jan 2021)

………………………………………………………………………………..

Anh Cao ơi,

Tôi thấy cần nói rõ với anh thêm: thí dụ Nguyễn Du mà “dịch” theo văn bây giờ sẽ hết hay! Kim Dung mà dịch huynh với muội thành anh với em cũng hết hay. Cho nên trừ phi anh cố tình “lộng giả thành chơn” thì dịch một tác già 20 thế kỷ trươc băng văn phong hiện đại cái đau mới quá, chưa mưng mủ, chưa thấm thía, giá mà cái đau đó nó đã 2000 năm thì thú vị hơn, đau hơn cho kiếp người…!  —

À anh đã đọc “Sách ở trên đường” viết về Đường Sách của tôi chưa?

ĐHN

(15.01.2021)

………………………………………………………………………………..

Anh Đỗ ơi,

Tất nhiên là tôi đã đọc “Sách ở trên đường” viết về Đường Sách của ĐHN rồi chớ! Tuy rằng mắt đã dở lắm rồi. Đánh máy mail cho bạn phải đọc lui đọc tới mỗi câu kẻo sai bét.

“Đường sách” còn thiếu nét họa của ĐHN tuy rằng nhìn photo vẫn mê quá. Có lẽ cũng thiếu một bài thơ. Nó nằm nhớ thơ ĐHN đó.

CHT

(15 Jan 2021)

……………………………………………………………………………………

 

Anh Cao ơi,

Đọc bài Thì thầm của anh, tôi phục lắm. Nói chuyên “Bát Nhã”, chuyện “Bát bất”, chuyện “Có Không” như vậy là… rạch ròi và thuyết phục. Lăng Già chỉ gút một câu:

Trí bất đắc Hữu Vô

Nhi hưng đại bi tâm. 

Tôi nhớ Vũ Khắc Khoan trong cuốn Đọc Kinh có nhắc một bài thơ cổ, không biết ai là tác giả:

Chàng như mây mùa thu

Thiếp như khói trong lò

Cao thấp tuy có khác

Một thả cũng tuyệt mù…

Dĩ nhiên anh và tôi không phải “chàng” với “thiếp”, nhưng một thả là vậy!

Vì anh nhắc thơ ĐHN, nên gởi anh bài này nghe chơi (mắt kém thì tai thính?):

CÓ KHÔNG, thơ Do Hong Ngoc, nhạc Hoàng Quốc Bảo, tiếng ca Thu Vàng.

Những hình minh họa là do tôi chụp trong chuyến đi Nepal 2018:  Hy-Mã-Lạp-Sơn, Lâm-Tì-Ni và Ca-Tỳ-La-Vệ…

 https://www.youtube.com/watch?v=I–qslaDEUM&feature=youtu.be

ĐHN

(SG 17.01.2021)

………………………………………………………………………………….

Reply của CHT

Tôi không biết câu trong Lăng Già, như vậy là học được từ anh, anh trích là đúng quá, tất cả nằm trong đó.

Mấy câu thơ, tôi cũng đã đọc, không biết từ đâu, vẫn tưởng là thơ cổ vì có “chàng” và “thiếp”, và vẫn tưởng là thơ Đường dịch ra. vì có chữ “thả” hơi ép, nhưng “một thả” thì lại mới và hay.

Thơ của ĐHN rất hay, giọng hát của Thu Vàng hợp quá, vì hay và vì chắc là thấm bài thơ. Ít khi tôi nghe phổ nhạc 4 câu mà đạt như vậy. Mà lại là nhạc đạo – vừa đạo vừa mới. Giọng hát bay lên, đúng là “một thả cũng tuyệt mù”.

Viết mà có “nữ thần Tiếng Dội” vọng lại từ ĐHN, hạnh phúc quá.

CHT

(17 Jan 2021)

 

 

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Lõm bõm học Phật, Vài đoạn hồi ký

Thơ Nguyễn Thị Khánh Minh: NHỚ ĐINH CƯỜNG

12/01/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Thơ Nguyễn Thị Khánh Minh

NHỚ ĐINH CƯỜNG

tranh Đinh Cường

 

 

NHỚ XANH TRONG TRANH NGƯỜI

Những đàn cây gầy ốm
Đang rủ nhau đi
Cùng ánh mắt chiều muộn
Như mùa đông vừa phết lên giấc mơ
Người thiếu nữ cổ cao. Áo dài đen. Thánh thiện*
Nóc nhà thờ ứa lệ
Rơi xuống tiếng chuông xanh
Mùa của tình yêu

Nhà thờ như cây nến cô đơn. Lung linh dãy phố
Nửa vầng trăng kéo đêm xanh
Chia cô đơn cùng ánh đèn khuya dưới mái nhà im lặng**
Thời của bạn hữu
Thơ Prévert. Cà phê nhòa nâu. Bức tranh buồn
Người phết mạnh bạo một vệt dài màu đỏ
Những đốm đỏ khắc khoải suốt thời binh lửa
Tiếng bom nào rơi trong hồn tôi
đêm nay
đêm hãi hùng như loài thú dữ
 (Đinh Cường)
Một thời người đã đi qua…

Nỗi hoài hương rưng rức xanh
Người và những hàng cây hồi ức
Soi mình dòng Potomac
Lạc lâm. Mùa xanh xưa***
Một thời người đã xa
Một tiếng thở dài
Một ngụm khói tan…

Như tôi vừa nghe. Giấc mơ nào thời trẻ
Đêm nay khóc cùng vệt mầu dở dang nơi phòng tối
Có tiếng gào
Ưng ức bầy tranh
Khóc nhớ…

Ngày 7.1.2021
(Nhớ Họa Sĩ Đinh Cường, ra đi ngày 7 tháng 1, 2016)

*tranh: Chân Dung T.NH. Để Nhớ Đà Lạt
**tranh: Phố Đêm
*** Những bức tranh: Lạc Lâm- Nhà Bên Sông Potomac- Đà Lạt Nostalgia


MỘT LINH HỒN TRONG SUỐT ĐANG BAY*

– Tưởng niệm họa sĩ Đinh Cường, ra đi ngày 7.1.2016

Thử gạch một đường xem tới đâu**
Xa như cuối trời vừa đóng lại
Vắng như đêm vừa mở giấc mơ bay

Bay cuối dòng gặp bạn ngồi trông
Tiếng đàn rung gợn lòng chín suối
Những mảng mầu thơ dại trổ bông

Bông vỡ tiếng cười rền rền sương khói
Người nghe chút nhớ tuyết mùa xưa
Con đường ấy đã một lần đứng lại

Cột dây giày, ngó mông trời ly viễn
Thở hơi ra ngụm khói tàn mau**
Con chim hót giọng khan ngày nhuốm bệnh

Ngó lên trời hạt nước mắt ai bay
Hương cố xứ thơm mùi cọ mới
Có mùa đông khóc tiễn trong mây

Ngó xuống ngày vàng xao xác lạnh
Mơ ai cào lá ngoài sân đêm**
Bay bay lên những linh hồn lá mỏng

Con chim đỏ hót mầu tuyết bỏng
Tôi bưng mặt. Mùa đông qua lồng lộng
Nghe đất trời vừa gần lại, hôm nay…

9.1.2016

* Linh hồn trong suốt, chữ của nhà văn Khuất Đẩu.
** Thơ Đinh Cường. Cào Lá Ngoài Sân Đêm, tên một thi họa phẩm của họa sĩ Đinh Cường.

 

Filed Under: Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Sách Ở Trên Đường

08/01/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc 2 Comments

 

9.1. 2021

Kỷ Niệm 5 Năm Đường Sách Sài Gòn

 

(“Nhà Dài”, Đường Sách Saigon, ảnh ĐHN 2021)

 

Sách ở trên Đường

tặng Mây Hồng

 

Tôi mê Sách ở trên Đường nên sau này mê cả Đường Sách.

Tuần nào gần như tôi cũng có mặt ở Đường Sách.

Làm gì ư? Không làm gì cả. Chỉ để dòm, để ngửi, để nghe, để ngóng…

Và… để nhớ. Nhớ gì? Nhớ những ngày mới lên mười, sống trong một ngôi chùa nhỏ với Cô tôi ở Phan Thiết. Cô tôi bị thương tật gãy cả hai chân vì tai nạn xe lửa trong thời chiến tranh. Hàng ngày tôi có nhiệm vụ đi qua đò mượn sách bên kia sông Cà Ty hoặc đến một nhà cho mướn sách nào đó ngoài phố. Cô cấm tôi đọc sách vì con nít mê sách sẽ làm biếng học. Tôi đành vừa đi vừa đọc trên đường, hoặc ngồi dưới bóng me, góc chùa, đọc hết cả cuốn mới về đến nhà…

Tôi lại nợ Sách trên Đường. Một lần về Saigon, lang thang trên đường Trần Hưng Đạo, trước rạp hát Eden, ai đó bày ra cả một… đường sách mênh mông, tôi vớ phải cuốn  Kim Chỉ Nam Của Học Sinh (Nguyễn Hiến Lê, 1956), để rồi từ một cậu bé thất học, tôi… bơi vào bể học.

Tôi biết ơn sách và đặc biệt biết ơn Sách ở trên Đường. Tôi quen Quách Tĩnh với Hoàng Dung, Vô Kỵ Triệu Minh… trên đường Cao Thắng, Lê Văn Duyệt… Tôi biết Cửu âm bạch cốt trảo với Giáng long thập bát chưởng, Lăng ba vi bộ, Vô chiêu thắng hữu chiêu… từ ngày còn là một sinh viên trường thuốc.

Rồi sau 1975, đường sách cũ Đặng Thị Nhu là nơi tôi loanh quanh không mỏi mỗi chiều, vì nơi đó, ngoài sách, tôi còn được gặp biết bao bạn bè thân thiết, nào họa sĩ Cù Nguyễn, nào nhà thơ Trần Yên Thảo, nào… nào…

Khi viết sách lai rai, tôi nghiệm rằng sách vốn là… thuốc, viết sách là bào chế thuốc, bán sách là bán thuốc, đọc sách là uống thuốc, không phải  chuyện chơi nhưng vẫn nhớ mãi sách trên đường…

Nên không thể không mê Đường Sách.

Năm năm nay có một cái Đường Sách rất dễ thương ở Sai Gòn. Nó dễ thương vì nó nhỏ xíu, nó làm cho mọi thứ trở nên thân mật và ấm cúng. Tôi luôn coi nó là một cái Nhà Dài nơi xứ Thượng, lợp bằng lá me, gia đình  toàn là những người kỳ cục, nam phụ lão ấu đều như bị một thứ bùa mê… qua lại có khi va vào nhau, không cần xin lỗi vì mắt mũi cứ dòm ngó đâu đâu!

Thỉnh thoảng có những dây con nít được mấy cô mẫu giáo xinh đẹp dẫn đi cho ngửi mùi sách làm quen, có những bà đầm hở rún dắt ông tây bụng bự, có những  người đẹp trình diễn xuyên thấu…, có cụ già trên chín chục, xách laptop ra gõ những dòng thơ tình đắm đuối, có những bạn bè phương xa, vừa xuống máy bay đã kéo lê cả vali túi xách chạy về Nhà Dài cho đúng hẹn…

Còn có những buổi trò chuyện ngoài trời ở Nhà Dài cho ông đi qua bà đi lại lõm bõm nghe. Có nhà văn trẻ ký tên tặng sách mỏi cả tay, năn nỉ xin nghỉ vài phút để vào restroom…!

Nhà Dài theo tôi còn có vẻ nghiêm trang quá, bày biện trang trí kiểu cọ quá, thiếu chút bừa bãi dễ thương như Sách ở trên Đường ngày xưa, hay như dãy nhà dài dọc sông Seine ở Paris. Đặc biệt Nhà Dài thiếu các tủ kính bày chân dung cùng trang sách viết tay, bản sửa morasse ngoằn ngoèo… của những nhà văn, nhà thơ, triết gia, thi sĩ… Và còn thiếu những giỏ cần-xé to đùng đựng đầy sách… biếu tặng, mặc ai muốn lấy cuốn nào thì lấy…

Nhắp một ly capuchino ở một quán café Book quen thuộc nơi Nhà Dài, lặng nhìn từng cánh lá me bay bay và ngó những người bị “quỷ ám” lang thang, khệ nệ ôm một túi sách trên tay đủ để hạnh phúc cho một ngày ở Đường Sách hôm nay đó vậy.

Đỗ Hồng Ngọc.

 

Sách cũ bên bờ sông Seine, Pháp (ảnh Internet)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Hàng sách cũ Đặng Thị Nhu, Saigon (ảnh Internet)

 

 

 

 

Sách Đỗ Hồng Ngọc cũng có mặt ở quày sách cũ trên Đường Sách… hôm nay.

……………………………………………………………………..

Đọc bài “Sách Ở Trên Đường” của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Hai Trầu Lương Thư Trung (Houston, 8 Jan 2021)

Không biết sao, khi tôi đọc “Tôi mê Sách ở trên Đường nên sau này mê cả Đường Sách.”, tôi nghe như đó là điệp khúc của một bản nhạc, “sách ở trên đường” rồi “đường sách” nó hòa vào nhau thành một, rồi nó trườn lên nhau như đợt sóng này trườn mình lên đợt sóng khác nơi bãi biển Nha Trang cách nay hơn nửa thế kỷ mà có lần tôi đã ngồi bên hàng dương với cát trắng mịn dưới chân, nhìn biển chập chùng…

Rồi tác giả lại viết: “Tôi lại nợ Sách trên Đường. Một lần về Saigon, lang thang trên đường Trần Hưng Đạo, trước rạp hát Eden, ai đó bày ra cả một… đường sách mênh mông, tôi vớ phải cuốn  Kim Chỉ Nam Của Học Sinh (Nguyễn Hiến Lê, 1956), để rồi từ một cậu bé thất học, tôi… bơi vào bể học.”

(…)

Đặc biệt khi tác giả viết:

“Tôi biết ơn sách và đặc biệt biết ơn Sách ở trên Đường.”

Cảm động quá! Là một người nhà quê già và cũng có chút chút mê sách trên đường vì hồi đó sách bán trên đường gọi là sách bán “son” (solde) giá rất rẻ nên hợp túi tiền con nhà nghèo, nên tôi cũng lang thang qua những đường sách và cũng để dòm dòm ngó ngó coi chơi cho vui chớ đâu có tiền để mua dù sách giá rất rẻ ấy.

Với tác giả, một người già giặn, lão luyện trường đời đã nhận ra sách không chỉ là sách trong các nhà sách lớn khang trang trùng trùng điệp điệp như nhà sách Khai Trí, nhà sách Tự Lực trên đại lộ Lê Lợi, hay nhà sách Xuân Thu trong thương xá Eden (Sài Gòn) …, mà còn là sách trên đường với giá rẻ mà vẫn quý và từ đó, tác giả nghiệm ra rằng:

“Khi viết sách lai rai, tôi nghiệm rằng sách vốn là… thuốc, viết sách là bào chế thuốc, bán sách là bán thuốc, đọc sách là uống thuốc, không phải chuyện chơi nhưng vẫn nhớ mãi sách trên đường…

Nên không thể không mê Đường Sách.”

Với đường sách Sài Gòn, tác giả dí dỏm ví nó như nhà Dài của người Thượng vùng cao nguyên dù nó đang nằm giữa chốn đô thành:

“Tôi luôn coi nó là một cái Nhà Dài nơi xứ Thượng, lợp bằng lá me, gia đình  toàn là những người kỳ cục, nam phụ lão ấu đều như bị một thứ bùa mê… qua lại có khi va vào nhau, không cần xin lỗi vì mắt mũi cứ dòm ngó đâu đâu!”

Tâm trạng này thì tôi có cái cảm được qua hai lần ghé ngang qua đường sách Sài Gòn mà anh gọi là Nhà Dài lợp bằng lá me nhỏ xíu ấy, nó rất đẹp và lãng mạn…

Lần đầu, vợ chồng tôi ghé ngang đường sách này với mục đích duy nhứt là để hy vọng tìm lại được chút gì về cái chất Sài Gòn xưa nó nằm trên những quầy “sách cũ”, ở đó có tuổi trẻ của tụi tôi hồi mới quen nhau rồi mãi tới những ngày dạo phố Sài Gòn vào những ngày cuối tuần hoặc chợ hoa giáp Tết cách nay hơn năm chục năm! Lần thứ hai, tôi trở lại đường Sách Sài Gòn qua hẹn gặp tác giả để ngồi nhăm nhi ly cà phê, như anh đã viết:

“Nhắp một ly capuchino ở một quán café Book quen thuộc nơi Nhà Dài, lặng nhìn từng cánh lá me bay bay và ngó những người bị “quỷ ám” lang thang, khệ nệ ôm một túi sách trên tay đủ để hạnh phúc cho một ngày ở Đường Sách hôm nay đó vậy.”

Vâng, đọc bài “Sách ở trên đường” của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc hôm nay (Saigon, 9.01.2021), tôi đã thấy được cái vui trong đôi mắt của tác giả mà cũng là dịp mình bắt gặp lại chính mình có một thời cũng mê tìm sách cũ, sách xưa và “sách ở trên đường” để biết mình cũng có một thời biết mê những con đường bán sách “son” (solde) ngày cũ nữa!

 

Hai Trầu Lương Thư Trung

Houston, ngày 08.1.2021

…………………………………………………………………

Cảm “Sách ở trên đường”

Minh Lê (Suối Tiên, Nha Trang)

10.1.2021

Đọc bài “Sách ở trên đường” của Anh Đỗ Hồng Ngọc, rồi bài cảm nghĩ của Anh Hai Trầu Lương Thư Trung, tôi thấy tôi bị “cảm” mất rồi. Ấy, “cảm” đây không phải cảm cúm của Covid-19, mà là đồng cảm và cảm kích.

Anh Ngọc mê Sách, nợ Sách, biết ơn Sách và trân trọng Sách, rõ ràng Anh coi Sách là người tri kỷ. Mỗi cảm xúc sâu nặng với Sách còn được “chứng minh” ngắn, rõ, sinh động, tiết tấu nhịp nhàng như một bài thơ. Anh còn nhấn mạnh “Sách ở trên đường”, vậy Sách-ở-trên-đường khác Sách-ở-trong-tiệm chỗ nào? Tôi cảm thấy sách ở trên đường gần gũi hơn, tự do hơn, lại thêm cái cảm giác “đãi cát tìm vàng”. Ai mê sách mà không từng có một thời hàn vi “vẫy vùng” trong những chồng sách cũ, kiếm ra được một cuốn mình thích thì mừng tới mức…khỏi ăn cơm? Nên dù kỷ niệm khác nhau, cảm nhận với Sách vẫn tương đồng.

Anh Ngọc mê “Sách ở trên đường”, nên mê luôn… “Đường Sách”. Tới đây phải cảm ơn Anh Hai Trầu Lương Thư Trung, hình dung của Anh về sự hòa lẫn của hai cụm từ này “như đợt sóng này trườn mình lên đợt sóng khác nơi bãi biển Nha Trang” rất sinh động và chính xác. Cũng bởi tôi là dân Nha Trang nên càng “cảm nặng” hơn một chút. Và vì Anh Ngọc mê Đường Sách, nên mới có mấy góp ý thiệt đáng giá cho Đường Sách. Tôi không ở Sài Gòn nên chỉ được ghé qua Đường Sách vài lần, vẫn thấy thiếu thiếu chút gì, giờ đọc xong liền thấy trúng ý quá. Nhứt là cái đề nghị “bày chân dung cùng trang sách viết tay, bản sửa morasse ngoằn ngoèo… của những nhà văn, nhà thơ, triết gia, thi sĩ…” và “chút bừa bãi dễ thương” trong việc trang trí và sắp xếp. Hai việc này, một gợi cho người ta nhớ tới người “mang nặng đẻ đau” ra Sách, một giúp tạo không khí thân mật và thoải mái trong Đường Sách để người ta càng lưu luyến. Nếu Sách là tri kỷ, thì Anh Ngọc ước mong Đường Sách sẽ thành chốn tri âm cho những người yêu sách.

Cuối cùng, ngoài bài viết rất “Đỗ Hồng Ngọc”, tôi còn khoái mấy bức hình minh họa, nhứt là hình chụp bộ sách của Anh Ngọc ở quầy sách cũ, mà bên dưới là cuốn sách lộ ra hai chữ “bụi đời”. “Cảm” thêm lần nữa! Giữa cõi trần ai mịt mù, mỗi lần đọc sách Anh Ngọc là một lần thấy lòng nhẹ nhàng, “bụi đời” dường như rơi xuống, lắng lại, để tâm thanh tịnh hơn. Hèn chi, Sách là thuốc, mà cái bịnh từ “bụi đời” mà ra này, chắc cũng chỉ có thuốc là Sách thôi.

Cám ơn Anh Đỗ Hồng Ngọc và Anh Hai Trầu Lương Thư Trung! Trời Suối Tiên (Khánh Hòa) giờ đang rất lạnh, nhưng có hề gì, bởi đã có nắng ấm từ lòng người “thiên lý hữu duyên”.

(ML)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Filed Under: Ghi chép lang thang, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

Chuyến về Đà Lạt cùng Quán Văn

14/12/2020 By Bac Si Do Hong Ngoc 2 Comments

 

Thư gởi bạn xa xôi (12.2020)

Chuyến về Đà Lạt cùng Quán Văn

 

Bạn biết rồi đó. Bậy giờ sao làm biếng tổ rồi. Ngay cả chỉ muốn chuyển hình cho bạn coi chơi cũng làm biếng.

Giờ thì chọn ít hình ảnh coi vui thôi nhe.

Tạp chí Quán Văn của Nguyên Minh thường tổ chức hằng năm vài chuyến đi tỉnh này tỉnh nọ, giới thiệu sách, báo hoặc một “chân dung văn học” tại địa phương cho vui. Lần này chọn Đa Lạt, mùa lạnh.

Mình thì nhiều lần ngại không đi. Tuổi già sức yếu sợ làm phiền “Ban tổ chức”, mặc dù Mỹ Lệ và Đình An rất giỏi, rất chu đáo. Dù sao mình vẫn là người… già nhứt. Sau đó là Nguyên Minh, “chủ xị”, nhỏ hơn một tuổi. Lần này còn có Thân Trọng Minh, Lê Ký Thương, Lê Triều Điển… cũng già bộn rồi. Lại có Hiếu Tân , Nguyên Cẩn… những người từng trải qua những cuộc mổ tim khá … kinh khủng nên chắc đồng bệnh tương lân cả thôi!

Thú vị, lượt đi thì mình được An Bình chuyển cuốn Cảm tạ Văn Chương rất cảm động của Trần Hoài Thư gởi về ĐHN; lượt về thì được Tịnh Thy gởi cuốn Đối thoại giữa Mật giáo và Hiển giáo  do Nguyễn Phố dịch. Dọc đường có sách đọc quên cả đường dài phải không?

À này, bạn nhớ không, cái hình bìa 4 cuốn Cảm tạ văn chương của Trần Hoài Thư là cuộc gặp gỡ giữa “Ngưu Lang Chức Nữ” thời Covid mà mình đã viết mấy câu Cảm đề tặng Thư và Yến từ hôm nọ:

Người đi marchette

Người ngồi xe lăn

Gần nhau gang tấc

Mà như ngàn trùng

Lời lời khấn nghẹn

Sương nhòe mù tăm…

(ĐHN)

 

Phải nói, chuyến về Đalạt lần này (7-10/12/2020) thiệt vui. Có đến gần 50 người chớ ít đâu. Văn nghệ sĩ, cộng tác viên và cả gia đình nên Nguyên Minh gọi là “Gia đình Quán Văn” cũng phải. Có người từ Vũng Tàu, có người từ Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Tiền Giang…

Đến Đalạt chiều 7.12, mưa ào ào. Bỏ chuyến tham quan Cầu Đất Farm, cả nhóm vào Cafe Tùng cho đỡ nhớ.

Nhà trọ Sơn Cước nhìn xuống hồ Xuân Hương.

 

 

Nhiếp ảnh gia MPK nổi tiếng của Dalat… nay mới được người ta chụp ảnh cho vui lắm (ảnh ĐHN)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Ra mắt Quán Văn: Duyên nợ Đà Lạt khá đông.

 

 

 

 

 

 

 

 

Bất ngờ cả bọn nhận được cú phone từ nơi xa xôi gọi về của Lữ Quỳnh. Cảm ơn Internet. Từ trái: Đỗ Nghê, Lê Ký Thương, Lữ Kiều, Nguyên Minh, Ban Mai, Kim Quy (đứng).

 

Buổi tối, chương trình “văn nghệ” rất vui: Lần đầu tiên, Nguyên Minh “xuất tướng” hát “Anh còn nợ em” mà… không khóc! Từ trái: Vân thị Dung, Hiếu Tân, Nguyên Minh, Nghĩa (đứng sau), Quách Mạnh Kha, Đình An (nhạc sĩ) và Ban Mai…

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Tuy chuong trình dày đặc, mình cũng “tranh thủ” đến Trà đàm một chút với Nhóm Thiền ca Hoa sen Dalat (nhạc sĩ Thuần Nhiên Nguyễn Đưc Vinh, người đã phỏ nhạc bài thơ Sông Ơi Cứ Chảy mình viết cho La Ngà dạo nọ).

 

Chịu khó đi xa xa một chút, Đa Lạt vẫn còn đó những nét quyến rũ riêng.

 

Đập Suối Vàng ANKROET. Nhiều bạn trẻ lang thang dưới chân đập, chắc là có một lời nguyền nào chăng?

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Từ trái: Trúc Hạ, Tịnh Thy, Đỗ Hồng Ngọc, Nguyên Cẩn… cafe Hòa Bình trước khi rời Đà Lạt để người về Huế, người về Đà Nẵng, người về Saigon… Hẹn tái ngộ.

 

Bữa cơm chiều với Thân Trọng Minh, Thanh Hằng, Kim Kê, Hiếu Tân, Lê Ký Thương, Kim Quy, Nguyên Minh, Đỗ Hồng Ngọc… Hai bạn già ngồi hong lửa… Tối còn ghé qua Palace nghe Võ Chí Hiền đàn và Thân Trọng Minh thổi Harmonica!

 

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc

(14.12.2020)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Filed Under: Ghi chép lang thang, Vài đoạn hồi ký

  • Go to page 1
  • Go to page 2
  • Go to page 3
  • Interim pages omitted …
  • Go to page 51
  • Go to Next Page »

Thư đi Tin lại

  • Lịch “Trò chuyện, giao lưu…”
  • Lại đính chính: “SAIGON BÂY GIỜ”
  • ĐÍNH CHÍNH: BSNGOC không phải là BS ĐỖ HỒNG NGỌC
  • Đính chính: BS NGỌC không phải là Bs Đỗ Hồng Ngọc
  • bsngoc đã lên tiếng đính chính
  • Thư cảm ơn và Đính chính về FACEBOOK Bác sĩ NGỌC
  • ĐÍNH CHÍNH: Bài viết "TÀN NHẪN" không phải của Bs Đỗ Hồng Ngọc

PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG

TẠP GHI (Lõm bõm… Kỳ 4b)

Tạp Ghi (lõm bõm… kỳ 4): Mười Hạnh Phổ Hiền

TẠP GHI (Lõm bõm…) kỳ 3

Tạp Ghi (Lõm bõm kỳ 2)

TẠP GHI (Lõm Bõm)

Nguyễn Xuân Thiệp: VỴ ƠI…

Truyện Phan Tấn Hải: QUÊN NHAU LÀ CHUYỆN KHÓ

Thêm một Tuổi Mới

PHĐS: Buổi học cuối năm (16.1.2021).

Biết rồi còn hỏi

Xem thêm >>

Chuyên mục

  • Một chút tôi
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy

Bài viết mới nhất!

  • Thư gởi bạn xa xôi (tiếp)
  • Thư gởi bạn xa xôi,
  • Có Một Con Mọt Sách
  • TẠP GHI (Lõm bõm… Kỳ 4b)
  • Tạp Ghi (lõm bõm… kỳ 4): Mười Hạnh Phổ Hiền

Bài viết theo tháng

Ý kiến bạn đọc!

  • Nhã Trang trong Thư gởi bạn xa xôi,
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Giới thiệu
  • Duy Thao trong Giới thiệu
  • Đào Duy An trong Vài câu hỏi đáp về Y khoa ngày trước
  • Ngọc Điệp trong TẠP GHI (Lõm Bõm)
  • Diêu Trong trong TẠP GHI (Lõm bõm…) kỳ 3
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong CHÚC MỪNG NĂM MỚI
  • Diêu Trong trong CHÚC MỪNG NĂM MỚI
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Sách Ở Trên Đường
  • Su Su Do trong Sách Ở Trên Đường

Cùng một tác giả

  • 0
  • 1
  • 1
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6

Thống kê

Nhà tài trợ

biệt thự vũng tàu
biệt thự vũng tàu cho thuê | biệt thự vũng tàu cho thuê theo ngày giá rẻ | cho thuê biệt thự vũng tàu có hồ bơi
© 2009 - 2016 Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Phát triển & Hỗ trợ kỹ thuật bởi SGC.
Trích dịch nội dung để dùng trong nghiên cứu, học tập hay dùng cho cá nhân đều được tự do nhưng cần phải chú thích rõ nguồn tài liệu và đối với các trích dịch với mục đích khác, cần phải liên lạc với tác giả.
  • Một chút tôi
    ?
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    ?
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    ?
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    ?
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    ?
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy
  • Nhận bài mới qua email