Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Tập hợp các bài viết của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Ghi chép lang thang
  • Nhận bài mới qua email

Và, một cuốn tái bản: Chẳng Cũng Khoái Ru?

21/04/2018 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Chẳng Cũng Khoái Ru?

 

 

Tựa:  Chẳng cũng khoái ru?

Mười năm trước, gần tuồi 70, tôi gom góp một số bài viết rải rác đây đó để đọc lại cho vui, những chuyện rất đỗi “đời thường’’, chuyện ăn chuyện ngủ, chuyện hít thở, chuyện vệ sinh, ốm đau bệnh hoạn như Ai biểu già chi, Thở không chỉ là thở, Ăn không chỉ là ăn, Càng già càng dẻo, Bác sĩ nhà quê…v.v. và in chung trong một tập với tựa là Chẳng Cũng Khoái Ru?

Không ngờ sách bán chạy, gần như tôm khô, in nối mấy lượt, tái bản mấy lần. Có ông bạn già ở Hà Nội gọi phone hỏi nghe nói mới có cuốn Khoái cũng chẳng ru hay Ru cũng chẳng khoái gì đó phải không, gởi gấp cho một cuốn. Ông bạn khác ở miền Tây bảo ở đâu bán Chẳng khoái cũng ru. Chẳng ru cũng khoái gì đó để… sưu tầm!

“Chẳng cũng khoái ru?” là một câu trong Luận Ngữ “bất diệc lạc hồ” nói về học với hành, về gặp lại người bạn xưa… Sau này Kim Thánh  Thán (Thế kỷ 17) viết 33 nỗi vui đơn sơ của ông như trời đang nóng bức mà ập tới cơn mưa rào, như mở cửa sổ cho con ong bị kẹt bay ra, như đốt bỏ đống giấy nợ cũ…và chuyện nào cũng kết: chẳng cũng khoái ru? Nghĩ lại, mình cũng có nhiều thứ ‘’khoái ru’’ lắm chứ mà sao chẳng hay chẳng biết?…

Hầu như chúng ta chẳng bao giờ thực sống. Lúc còn trẻ, ta mơ ước tương lai, sống cho tương lai. Nghĩ rằng phải đạt cái này cái nọ, có được cái kia cái khác mới là sống. Khi có tuổi, khi đã có được cái này cái nọ, cái kia cái khác thì ta lại sống cho quá khứ! Nên chẳng có lúc nào ta khám phá được những ‘’khoái ru’’ ở đây và bây giờ. Anh ngữ có một từ hay: Present, vừa có nghĩa là hiện tại, vừa là sự có mặt, vừa là món quà tặng. Nói khác đi, “sự có mặt trong hiện tại chính là một món quà tặng” của cuộc sống. Khi ta chợt thấy ra và reo lên trong lòng: Chẳng cũng khoái ru? ấy là lúc ta sống với hiện tại, sống trong hiện tại. Và ‘’phép lạ’’ quả thật đầy dẫy quanh ta, trong từng phút giây mà ta không “thấy biết”.

Chẳng cũng khoái ru? tái bản lần này có “cập nhật” và bổ sung thêm ít bài mới. Tuy nhiên, khi đọc mà bắt gặp một vài bài nghe quen quen, hình như đã đọc đâu đó rồi, thì cũng hãy mỉm cười rằng: “chẳng cũng khoái ru?” nhé!

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc

(Saigon 1, 2018)

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Ghi chép lang thang, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Có một cuốn sách mới: Thoảng Hương Sen

21/04/2018 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Thoảng Hương Sen

 

Tập hợp đa số các bài viết từ suy gẫm về Phật học & Đời sống trên Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo để chia sẻ cùng bè bạn thân quý gần xa.

Ngắn gọn. Chữ to. Dễ đọc cho người có tuổi.

Và dĩ nhiên, dành cho cả các bạn trẻ quan tâm đến một nếp sống an lạc, hạnh phúc…

Đỗ Hồng Ngọc.

 

T h a y l ờ i t ự a

Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
(Ca dao/ Quốc văn Giáo khoa thư)

Từ những ngày còn thơ dại ai mà chẳng nghêu ngao

Trong đầm gì đẹp bằng sen/

Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng…

Thế rồi khi dấn bước vào đời người ta đã quên bài học
ngày xưa đó. Mải mê tìm kiếm một búp sen vàng sen bạc
rực rỡ hào quang ở tận chân trời. Cho đến một hôm giật
mình ngó lại: thì ra cái Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
kia rốt cuộc cũng chỉ là Nhị vàng bông trắng lá xanh đó thôi.
Chẳng thêm chẳng bớt.

Nó vậy đó. Nó như thị. Nó Như Lai.
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng coi lăng xăng, chen
chúc, quần quật, xanh đỏ tím vàng vậy cũng chỉ để rồi rốt
cuộc Nhị vàng bông trắng lá xanh…

Đừng tìm đâu nữa cho mất công.

Gia trung hữu bảo hưu tầm mích (Trần Nhân Tông).

Của báu trong nhà sẵn đó rồi! Viên ngọc trong chéo áo

người cùng tử sẵn đó rồi. Chẳng qua vì không thấy biết.

Cái đóa sen đó cứ xòe ra rồi khép lại. Khép lại rồi xòe ra.
Từ nghìn xưa cũ. Đóa sen của thiên thu vẫn lung linh giữa
gió và nước, như tủm tỉm cười, thoảng ngát hương thơm…

Mà chợt ngộ một điều cốt lõi: Gần bùn mà chẳng hôi
tanh mùi bùn!

Nó tuyệt vời bởi nó giản đơn. Nó chung thủy. Nó chẳng
vì ai để tỏa hương. Nhưng cũng đủ làm cho cái mùi bùn kia
trở nên nhu mì, yểu điệu…

Khai thị là để ngộ nhập. Nhập về đâu? Về Như Lai tạng.
Về bào thai Như Lai. Về Chơn tâm thường trú. Về Thể tánh
tịnh minh.
Nhưng, không chỉ vậy. Nhập còn là nhập thế. Đóa sen
không chỉ nhập vào cõi Phật mà còn nhập vào cõi bùn nhơ
giữa chốn Ta-bà.
Sen vậy đó. Tìm kiếm đâu xa.

 

Đỗ Hồng Ngọc

(Saigon, 3.2018)

Filed Under: Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định, Gươm báu trao tay, Nghĩ từ trái tim

Kỳ 20: Phật học & Đời sống: Từ Bi Với Mình

19/04/2018 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Kỳ 20:              PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG

Ngày 14.4.2018 tại chùa Xá Lợi , Saigon (Tp.HCM)

TỪ, BI, HỶ, XẢ (tiếp theo)

                             Từ Bi Với Mình

 

Cảm ơn nvquyen.

ĐHN

……………………………………………………………………………………

Thông báo:

Thứ bảy 21.4.2018 sinh hoạt bình thường từ 15-16h30 tại Chùa Xá Lợi 89 Bà Huyện Thanh Quan, Quận 3, Tp.HCM.

Thân mời các bạn tham dự.

Lớp nghỉ 2 buổi Thứ bảy 28.4 và 5.5.2018.

Sẽ tiếp tục sinh hoạt lại vào ngày Thứ bảy 12.5.2018.

Trân trọng,

Đỗ Hồng Ngọc.

 

 

Filed Under: Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

Nghĩ quanh khi đọc “cao huy thuần người khuân đá”

18/04/2018 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Nghĩ quanh khi đọc “cao huy thuần người khuân đá”

Đỗ Hồng Ngọc

Cao Huy Thuần, vẽ bởi Đỗ Hồng Ngọc, 2014, tại tòa soạn báo Giác Ngộ, Saigon.

Có khi nào nâng một bình trà uống đến giọt cuối cùng tưởng đã cạn sach rồi nhưng đợi một lúc thì trà lại như tự chắt ra thêm mấy giọt rồi lại tươm thêm vài giọt nữa, càng lúc càng đậm đặc càng ngất ngây không?

Đọc Cao Huy Thuần cũng vậy đó. Cứ tưởng anh nói lung tung đầu ngô mình sở đến lúc nghĩ lại mới giật mình. Cho nên đọc Cao Huy Thuần phải chậm rải, phải ‘cảnh giác’ coi anh có giấu giếm cái gì trong mỗi chữ mỗi câu đó không?

Tôi đọc Người Khuân Đá của anh với một thứ cảnh giác cao độ như thế. Cái ông Giáo sư đại học kiêm ‘’thầy giáo làng’’ này tính cái gì đây với Người Khuân Đá nhỉ? Ai khuân, khuân đi đâu, khuân để làm gì? Dã tràng xe cát biển đông/ Nhọc lòng mà chẳng nên công cán gì ư? Sao biết? Chỉ có dã tràng mới biết. Cũng như chỉ có Phật với Phật mới biết nhau, không cần phải nói ra lời. Ông Bồ-tát Duy Ma Cật làm thinh, tưởng bí, mà Văn Thù vỗ tay ca ngợi hết lời. Cái sự làm thinh đó mới đáng sợ. Dã tràng có nói gì đâu. Thiên  hà ngôn tai. Ai biết Dã tràng kia đã làm cái trò gì, xe cát hẳn phải có lý do gì chớ, cũng như con bọ hung kia hùng hục chui vào đống phân trâu bò vo tròn từng cục lớn cục nhỏ, hì hục lăn về ổ là để chuẩn bị thức ăn cho vợ đẻ con đó thôi. Nó vậy là nó vậy. Cứ hỏi Như Lai thì biết.

Tự dưng một ông giáo hơn 80 tuổi đầu, bỗng cao hứng nói về tình yêu, về hạnh phúc, về cái chết về lẽ sống… và về Phật pháp chẳng đáng đọc sao?

Và ông ‘’nói’’ gì về Tình yêu? Ông khẳng định tình yêu là tương quan: cái này sinh thì cái kia sinh. ‘’Đó là bước đầu. Bước thứ hai: hãy mất cái ‘’tôi’’ đi, vì ‘’tôi’’ đã nằm trong tương quan’’ (tr 48). Ý ông muốn nói duyên sinh, nói vô ngã đó thôi. Dĩ nhiên rồi. Tình yêu mà đến cao trào thì đâu còn cái ngã nào nữa! Thây kệ thiên đường và địa ngục/ Không hề mặc cả họ yêu nhau. Ghê chưa? Ấy là Cao Huy Thuần trích Huy Cận.

‘’Ôi vui! Ôi hạnh phúc! Ôi ngất ngây! Trong một phút, trong một giây, ta quên ta, tôi quên tôi, tôi ra khỏi tôi, tôi mất tôi…”. Ai vậy? Cao Huy Thuần đó. Nhưng, nói vậy mà không phải vậy. Ông đang nói về trạng thái vô ngã, niết bàn tịch diệt.

Tỉnh lại, ông can: Đâu hề có một tình yêu sung sướng!

Có tình yêu nào mà không đau khổ

Có tình yêu nào mà chẳng xót xa

Thì ra vậy. Ông dẫn bằng một bài thơ của Aragon. ’’Il n’y a pas d’amour heureux’’  (tr 49)

Rồi ông mượn cả Platon, Aristote, Spinoza… Rồi kết: tình yêu cần phải ‘’thiếu’’ mới hạnh phúc. Hèn chi mà Mỹ nói: I miss you nghĩa là I love you! ‘’Phải nhìn thấy cái khổ của thiếu để biết hạnh phúc của cái đủ (tr 54). Thì ra ‘’khổ, tập, diệt, đạo’’ đó mà!

Ông nói về cái chết. Khi chết đến (tr 70): “… chỉ ở đây thôi. Sẵn sàng gặp bất cứ cái gì kế tiếp, không mong chờ, không thiên kiến, không định kiến. Chỉ hỏi: cái gì đây? Cái gì đây? Kỳ lạ thế?’’ “Tôi nhìn mọi vật và thời gian chẳng qua chỉ là một ý nghĩ’’. Phải, một Niệm.

Cao Huy Thuần đọc thơ cả với Freud (tr 76 ). Hình như ông ráng moi bên dưới tiềm thức của Freud còn có cái gì khác nữa không? Có đó. A-lại-gia-thức hay Tàng thức đó. Chỉ cần A-lại-gia thức chuyển thành Đại viên cảnh trí hay Nhất thiết chủng trí thì xong… Mạt-na thức lúc đó đã chuyển thành Bình đẳng tánh trí, không cần phải đắn đo, toan tính, phân biệt chi nữa!

Nhưng trước hết, có lẽ nên nghiền ngẫm thử cái bìa sách. Ông vẽ một con bướm phấp phớp cánh bay, và viết cùng một font, một size: cao huy thuần người khuân đá. Rõ ràng ông cố ý nói Cao Huy Thuần vốn là một người khuân đá… suốt cả đời! Khuân để làm gì vậy anh Cao? Thì ra để tìm hạnh phúc. Như Sisyphe hạnh phúc (tr 342), từ Le mythe de Sisyphe của Camus.

 

 

Không phải bỗng dưng ông nhớ Camus đâu. Câu hỏi đó ông hỏi hồi còn trẻ, còn say sưa với ‘’hiện sinh’’ của Sartre, của Camus lận. Nhưng bây giờ ’’lúc xế chiều, câu hỏi về ý nghĩa của cuộc đời thường lảng vảng trong đầu’’. Khuân đá lên rồi khuân đá xuống, cứ mãi vậy cho đến chết, có phi lý không cơ chứ? Rồi Camus nói ‘’phải tưởng tượng Sisyphe sung sướng’’ (tr 343). Tại sao lại phải tưởng tượng? Chắc chắn là sung sướng quá rồi đó chớ, chẳng qua vì không ‘’thấy biết’’ (tri kiến) đó thôi: ‘’Thanh tịnh bản nhiên/ Tùy chúng sanh tâm/ Chu biến pháp giới/ Tùng nghiệp phát hiện’’ mà. Mắc mớ gì ông Camus phải thắc mắc nọ kia.

“Sisyphe là thân phận của chúng ta: Chính chúng ta vác trên vai gánh nặng của cuộc đời, lên núi, xuống núi, lặp đi lặp lại ngày này qua ngày khác, xuân nọ đến xuân kia, rồi chết’’ (tr 345). Camus viết: “Cứ khinh bỉ nó, số phận nào cũng thua’’. Sisyphe khinh bỉ cái số phận của anh ta. Và chiến thắng. Nếu anh ta biết nghiệp báo, luân hồi, duyên khởi, vô thường, vô ngã… thì mọi chuyện đã khác mà không cần phải ‘’khinh bỉ cái số phận’’ để thấy mình ‘’chiến thắng’’ kiểu AQ.

Nhưng bởi Cao Huy Thuần không phải là Camus. Anh là một người học Phật, một người hành thiền. Anh biết Vô minh, anh biết Ái, Thủ, Hữu… tại sao, thế nào, nên anh… thoát: “Tôi không đối kháng tôi với cuộc đời. Tôi không vướng bận gì với Thượng đế như Camus” ông nói. ‘’Không còn ý thức về vô lý nữa mà ý thức về vô thường’’(tr 355). Và ý thức về vô thường cũng có nghĩa là ý thức về vô ngã. Niết bàn ở đó. Sisyphe cứ khuân đá, vừa đi vừa thở vào thì biết mình thở vào, thở ra thì biết mình thở ra. Một người thiền hành. Một khi ’’Sisyphe cứ bước như một người thiền hành’’ (tr 355) thì Sisyphe hết càu nhàu, Sisyphe trở nên tếu. Cười chứ. ‘’Để lại thiên thu hình dáng nụ cười’’ (Trịnh Công Sơn) mà! Nụ cười này không phải giả bộ cười, ráng cười, gượng cười, mà là cái cười từ trong từng tế bào cơ thể! Bây giờ nhiều tượng Phật ráng cười, toe toét cười đầy giả tạo… Không phải vậy đâu. Cái cười đó phải từ bên trong. Từ trong Từ bi hỷ xả. Từ trong ở đây và bây giờ. Từ trong hạnh phúc, an lạc.

Và đến một lúc, con nhộng hóa bướm. Lúc nhộng nằm trong kén, thì cứ nhả tơ đi. Rồi khi nhộng hóa bướm thì cứ nhởn nhơ bay lượn cùng trời xanh nắng ấm đi.

Cho nên ‘’cao huy thuần người khuân đá’’ bỗng bay lượn như cánh bướm. Ấy là lý do cái bìa  bí hiểm của anh.

Trong “Khoảnh khắc và vô tận” (tr 117) ông dẫn Nietzsche: “Tình yêu không muốn một quãng thời gian, nó muốn khoảnh khắc và vô tận’’. Và đây là một câu rất hay của Cao Huy Thuần, một câu như thơ: “Tôi thấy vô tận trong khoảnh khắc muốn khóc ấy”. Có không một khoảnh khắc muốn khóc ấy? Có đó. Nó chính là một sát-na của Phật. Nơi không có thời gian lẫn không gian. Một sát-na là một khoảnh khắc? Hay là vô tận? Hay vừa khoảnh khắc vừa vô tận. Phải ‘sống’ trong sát-na đó thì mới biết.

Như đã nói, tôi rất  “cảnh giác” khi đọc Cao Huy Thuần. Chắc chắn không phải tình cờ mà anh đưa bài Bếp xưa (tr 14) làm bài mở đầu cho tập sách này và để kết thúc với bài “Sisyphe hạnh phúc” (tr 342) sau khi vác đá lên đồi xuống đèo suốt cả một đời người. Hóa ra có một đường dây. Đường dây nối từ quá khứ đến hiện tại đến tương lai của một kiếp người.

ĐHN.

(Saigon 4.2018)

Filed Under: Các bài trả lời phỏng vấn, Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định, Vài đoạn hồi ký

Vài hình ảnh buổi gặp gỡ anh em bè bạn ở Lagi

16/04/2018 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Vài hình ảnh về buổi gặp gỡ anh em bè bạn ở Lagi

(Ngày 3.4.2018)

Về Lagi nhiều lần nhưng ít có dịp họp mặt với anh em ”văn nghệ sĩ Lagi” đông vui như lần này. Cũng là dịp ”ra mắt bỏ túi” tập Thơ Ngắn Đỗ Nghê ở một quán cà-phê trên đường ra Đồi Dương quen thuộc.

Đỗ Ái Liên (nhà thơ Đỗ Quyên) chịu trách nhiêm… tổ chức buổi họp mặt thân tình và.. thân tộc này!

Ái Liên là em, con Chú Chín, chú ruột của Đỗ Hồng Ngọc. Em làm thơ khá nhiều và cũng vừa mới in tập thơ mới: Chạm Cõi Mênh Mông.

 

Hai anh em trao đổi thơ cho nhau đó mà! Hàng ngồi bên trái là Nguyễn Ngọc Mỹ, người viết nhạc và bên phải là Trần Kim Trung, nhà thơ.

 

 

Gần hai mươi anh chị em ”văn nghệ sĩ” có mặt trong buổi gặp gỡ này. Từ trái: Minh Trinh, Hồ Minh Tuấn, Ái Liên, Trần Kim Trung,  Lê Ngọc Trác, Cao Hoàng Trầm, Đỗ Hồng Sa, Đỗ Hồng Ngọc, Nguyễn Huỳnh Sa, Nguyễn Đình Nghĩa.

 

 

Và… mỗi người phát biểu đôi lời bên cạnh lời ca tiếng đàn, giọng ngâm thơ của các ”nghệ sĩ”: Mỹ Duyên, Kim Phụng, Anh Thư, Dũng Nguyên, Ngọc Mỹ…

Nguyễn Huỳnh Sa nói về Thơ Đỗ Nghê…

Kim Phụng ngâm một vài bài thơ của Đỗ Nghê…

 

Nhà giáo, nhà thơ La Thụy

 

 

 

Tiếng đàn giọng ca của Nguyên Lực và Mỹ Duyên

 

 

 

 

 

Nhà thơ Trần Kim Trung, người cao niên nhất, nay đã 89 tuổi, nói về bài thơ Bông hồng cho Mẹ của Đỗ Hồng Ngọc. ”Theo tôi đây là một bài tứ tuyệt hay nhứt bây giờ, chịu hổng nổi, hết chỗ nói nữa rồi…”, anh bày tỏ.

Dũng Nguyên, ngâm bài thơ ”Trên sông khói sóng” của ĐHN…

 

Nguyễn Ngọc Mỹ, hát một bài do anh phổ nhạc bài thơ Một ngày ở Huế của Đỗ Nghê. Mỹ là người bạn cùng thời, hồi lên mười, cùng học ở trường Nam Bình, Gò Ông Nồm… Tân Thuận (1951).

Và không thể không nhắc Anh Thư hát bài Đêm trên biển Lagi, nhạc sĩ Bùi Tuấn Anh phổ thơ Đỗ Hồng Ngọc.

Đây là bài thơ ”thất ngôn bát cú” viết năm 1990, tặng cậu Nguiễn Ngu Í, nhạc sĩ Bùi Tuấn Anh phổ nhạc nguyên lời và Anh Thư hát rất hay.

 


 

Buổi họp mặt vào ngày Thứ hai (3.4.2018), nên nhiều anh em bạn bè còn bận không đến được. Tiếc không có Phan Chính, Ngô Văn Tuấn, Lương Bút, Thái Anh, Lương Minh Vũ, Đại đức Thích Tấn Tuệ tức nhà thơ Đinh Hồi Tưởng, Linh mục Nguyễn Kim Anh…

Hẹn một dịp khác nhé,

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc (Đỗ Nghê)

 

Viết thêm: La Thụy vừa gởi thêm bài ”phát biểu” của nhà thơ Trần Kim Trung trong buổi họp mặt anh em bè bạn tại Lagi của Đỗ Hồng Ngọc. Anh Trần Kim Trung nay đã 89 tuổi, vậy mà giọng nói vẫn sang sảng, trí nhớ vẫn tuyệt vời… ấy có lẽ nhờ khi hậu vùng biển êm đẹp của Lagi và nhất là nhờ tâm hồn thơ nhẹ nhàng thanh thản của chính anh. Xin được chia sẻ cùng bè bạn.

Cảm ơn anh Trần Kim Trung và cảm ơn La Thụy.

ĐHN

 

https://www.dohongngoc.com/web/wp-content/uploads/2018/04/Trần-Kim-Trung.wav

 

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Ghi chép lang thang, Già ơi....chào bạn, Vài đoạn hồi ký

Thư gởi bạn xa xôi: Còn Bấc

16/04/2018 By Bac Si Do Hong Ngoc 2 Comments

 

Thư gởi bạn xa xôi,

Còn Bấc…

(Photo by Đỗ Hồng Ngọc)

Bạn thấy đó. Mình ngày càng lười biếng kinh khủng. Hứa rồi… quên. Phải chờ bạn nhắc đôi lần. Già nó vậy. Thôi kệ nghen!

Giữa tháng 2 âm lịch rồi mà còn Bấc bạn ạ. Còn bấc nghĩa là còn Tết phải không? Hồi nhỏ bọn mình ở Phan Thiết cứ nghe gió bấc hiu hiu về và mùi cốm thoang thoảng là biết ngay Tết đến. Được mặc bộ pyjama mới với đôi guốc xuồng mộc, lốp cốp nện trên đường Gia Long Đồng Khánh phố chợ và Trưng Nhị Trưng Trắc bờ sông đó nhớ không. Có một thứ mùi thơm đặc trưng suốt dọc con sông Cà Ty: nước mắm Phan Thiết.

Cái thứ gió bấc se se lạnh sượt qua da, mang theo cái mùi nước mắm  thoang thoảng và mùi cốm gừng đường tán nồng nàn đó đủ nghe Tết tràn đầy khắp ngã. Qua trường thấy cả bầy bướm tung bay phất phới áo dài trắng đến nỗi mình kêu lên “bấc ơi bấc thổi/ làm xuân tràn đầy” nhớ không?

Với mình, cái thứ gió bấc miền biển vùng mình nó như đánh bật khứu giác, xúc giác, thính giác, vị giác… nói chung là lục căn không sao còn thanh tịnh được nữa dù mình đang ở trong một ngôi chùa nhỏ cạnh bờ sông. Ở Saigon hơn nửa thế kỷ, vậy mà lúc nào mình cũng thấy ” đi giữa Saigon/ phố nhà cao ngất/ hoa nở rực vàng/ mà không thấy Tết” để rồi chỉ “một sáng về quê/ chợt nghe gió bấc/ ơ hay xuân về/ vỡ òa ngực biếc!” (ĐHN)…

Lần này về Mũi Né giữa tháng hai âm lịch tưởng đã hết Tết, vậy mà còn bấc. Mình vẫn thấy lâng lâng, ngơ ngác, bâng khuâng, một thứ “mùa ơi gió bấc nhớ không ngờ” nào đó đã vời vợi xa (Mũi Né, ĐHN).

Gió quần quật trên những ngọn dừa. Gió mặn. Gió rải muối trên thảm cỏ trên thềm nhà ẩm ướt không khô.

 

 

Biển vắng. Sóng lớn. Buốt lạnh dù giữa trưa nắng gắt. Thuyền bè né núp đâu hết, để lại một cái biển hoang ầm ầm sóng giận. Thỉnh thoảng mới thấy một bóng người lang thang hay túm tụm thì thầm đâu đó.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Và đó là lúc ngư dân vá lại tấm lưới để sẵn sàng cho một ngày tới khi trời yên bể lặng.

 

 

 

 

 

 

 

Có vẻ như mấy cây bàng dọc biển cũng chịu không nổi gió bấc. Chúng đành khoét lỗ chỗ trong lá cho gió xuyên qua… Nhà thơ Khánh Minh bảo đó là lá bàng “rỗ hoa bóng nắng”…

 

 

 

Ơ mà đừng quên món bánh xèo bánh căn bên lò than hồng giữa mùa bấc lạnh nhé…

 

 

Đường về quê bây giờ cũng đã thoáng, đẹp, nhất là đường dọc biển.

 

Rồi lạ thay. Sáng hôm sau trời lại im phăng phắc. Bình minh lại rạng ngời. Biển lại mời gọi. Như không hề có một chút bấc nào cả đêm qua!

(Photo by Do Hong Ngoc)

 

Kể lung tung cho bạn nghe vui thôi nhé.

Hẹn một hôm nào,

Đỗ Hồng Ngọc.

(Mũi Né 2.4.2018) 

 

Filed Under: Ghi chép lang thang, Già ơi....chào bạn, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Kỳ 19: PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG (Chùa Xá Lợi, Saigon)

13/04/2018 By Bac Si Do Hong Ngoc 2 Comments

 

Kỳ 19:      PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG

Ngày 7-4-2018, tại Chùa Xá Lợi, Saigon (Tp.HCM)

                         TỪ, BI, HỶ, XẢ (tiếp theo)

Thân mời các anh chị, các bạn xem video clip do nvquyen vừa gởi đến.

***

Ngày mai, Thứ bảy 14.4.2018, tiếp tục Kỳ 20: Phật Học & Đời Sống, lúc 15-16h30 tại Phòng học Chùa Xá Lợi, 89 Bà Huyện Thanh Quan, Quận 3.

Chủ đề: Từ Bi với mình!

Thân mời các anh chị, các bạn tham dự,

Cảm ơn quyen,

Đỗ Hồng Ngọc.

 

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Gươm báu trao tay, Nghĩ từ trái tim

Lại Đính Chính: Một bài viết của ông Đỗ Hồng bị sửa thành của Đỗ Hồng Ngọc!

12/04/2018 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Lại Đính Chính: Một bài viết của ông Đỗ Hồng bị sửa thành của Đỗ Hồng Ngọc!

Ghi chú: Trang Quán Ven Đường của anh Huỳnh Chiếu Đẳng rất nổi tiếng, chuyên ‘’bắt vịt cồ”, rất được bà con tín nhiệm. Sáng nay, 12/4/2018, mở ‘’meo’’ thấy cái thư này của anh:

HuynhChieuDang
7:41 AM (1 hour ago)

to hoanvu88, me

Xin Bs và cô Bé Mytho xem coi đúng không.

Hcd

———- Forwarded message ———
From: Mr. Money Nguyen <timothy_nguyen@outlook.com>
Date: Wed, Apr 11, 2018, 4:06 PM
Subject: Fw: DO HONG NGOC :Những mũi giáo đâm sau lưng hay những kẻ nối giáo cho giặc
To:

…………………………………………………..

Và trả lời của Đỗ Hồng Ngọc gởi anh Huỳnh Chiếu Đẳng:

Ngọc Đỗ <dohongngocbs@gmail.com>
8:35 AM (15 minutes ago)

to HuynhChieuDang

Thưa anh HuynhChieuDang,

Cảm ơn anh nhiều lắm. Đọc qua cái Tựa chắc anh đã biết ngay không phải của tôi rồi phải không?

Bài gốc ở đây anh ạ:

http://danlambaovn.blogspot.com/2018/03/nhung-mui-giao-am-sau-lung.html

Tác giả là ông Đỗ Hồng.

Có lẽ một số bạn quý tôi, thương tôi nên thêm vào chữ NGỌC. thành tác giả là Đỗ Hồng NGỌC và tung lên mạng. Lan truyền như chong chóng.

Hôm trước, có bài Toàn Láo Cả của ông Đỗ Duy Ngọc thì họ sửa chữ DUY thành chữ HỒNG. Đỗ Duy Ngọc thành Đỗ Hồng Ngọc. Cả tôi và ông Đỗ Duy Ngọc đều lên tiếng đính chính thì có một số trang mạng đã chỉnh sửa và xin lỗi ngay khi biết mình nhầm lẫn, nhưng một số trang mạng khác vẫn… giữ nguyên!

Trước nữa, có ông Bs ký tắt là BSngoc (không ghi rõ họ tên), thì họ sửa thành Bs Đỗ Hồng Ngọc.

Tôi thực tình không hiểu tại sao. Có lẽ chỉ vì họ quý mến mình mà làm vậy. Nếu các bạn này chịu khó vào www.dohongngoc.com đọc thì họ biết ngay cái “AIR” của tôi rồi anh ạ.

Hy vọng ông Đỗ Hồng, tác giả bài ‘’ Những mũi giáo…’’ cũng sẽ lên tiếng để tránh vụ việc ‘’thay tên đổi họ’’ không hay thế này cứ tiếp diễn.

Một lần nữa, nếu có thể lại nhờ anh HCĐ đính chính giùm trên Quán Ven Đường, vì bà con đọc anh rất nhiều và rất tin tưởng anh.

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc.

 

Filed Under: Các bài trả lời phỏng vấn, Góc nhìn - nhận định, Thư đi tin lại, Vài đoạn hồi ký

Đôi dòng về ”ĐƯỜNG VỀ NHÀ” của Thái Kim Lan

10/04/2018 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

“chẳng có nơi đâu là chốn xa nhà…” (*)

Đỗ Hồng Ngọc

Cứ tưởng tượng một phụ nữ Huế nhẹ như cây sậy mặc áo dài phất phơ như cánh bướm đứng ở giảng đường một trường Đại học nào đó ở Đức dạy triết học cho… người Đức, thì chắc là hết sức thú vị. Thái Kim Lan đó!

Hãy nghe Thái Kim Lan nói về Hegel và Thiền: ‘’Thiền dừng lại nơi cánh cửa “mở ngõ” ấy, không khép kín và dặn đừng khép kín, nên dừng lại nơi TÍNH KHÔNG như khả thể hội nhập thể tính đồng nhất (unite) giữa vô thường và tuyệt đối, như một khả năng TỰ DO sáng tạo tính nhất thể “núi nhìn ta, ta nhìn núi” nơi một chân trời đã gột rửa hết những đám mây vô minh chấp trước vào một cái ngã ảo tưởng… nơi chân trời tuôn trào sáng tạo của “vô danh thiên địa chi thủy”.

Hegel thì không! Hegel khép cánh cửa hiện tượng luận, khép tròn biện chứng thành một hệ thống khoa học khởi từ một chủ thể tuyệt đối rỗng không đã được đổ đầy nội dung khách thể, một chủ thể tuyệt đối với tính khách quan phổ quát làm nền tảng cho khoa học. Hegel chìm đắm trong tuyệt đối của duy tâm. Có phải Hegel là một Huệ Khả chưa giác ngộ?

Nhưng Hegel có thể trở về để gặp Thiền nơi một chung trà nhỏ’’

Nghe lùng bùng chưa. Nhưng triết học thì phải vậy. Điều gì đơn giản phải làm ra phức tạp… . Vì thế mà Hegel chỉ cần một chung trà nhỏ. Nếu không thì Hegel vẫn cứ là một Huệ Khả chưa giác ngộ.

Cái may lớn nhất tôi nghĩ của Thái Kim Lan là đã lớn lên ở Huế, đã thấm đẫm Phật giáo từ ngày còn thơ nên giữa một rừng triết học mênh mông, giữa một thứ ‘tánh Đức’ kỳ đặc… thì cũng không ra khỏi bàn tay Như Lai với Nhất thiết chủng trí…

Nhưng bất ngờ với tôi khi đọc Thái Kim Lan là điều quan trọng lại không phải chuyện triết học, không phải chuyện ‘’cây sậy biết suy nghĩ’’, chuyện ‘’tôi tư duy vậy có tôi’’, chuyện phi lý, duy tâm duy vật chi đâu, bởi những chuyện đó chẳng qua cũng chỉ để cãi nhau chí chóe, không ai chịu ai, không ai biết im lặng như Duy Ma Cật khi nói về Bất Nhị. Điều quan trọng ở đây lại là chiếc áo dài phất phơ như cánh bướm kia và ‘’văn phong thi vị và trong sáng’’ nọ mà Trần Văn Khê đã tấm tắc ngợi khen:

“…người phụ nữ Huế ấy vừa tài giỏi trong nghiên cứu giảng dạy triết học, vừa có cách viết  về Phật giáo giản dị và đầy thiền vị, lại có một văn phong thi vị và trong sáng’’ (Trần Văn Khê).

Hãy nghe Thái Kim Lan kể về áo dài:

‘’Năm 1965, khi tôi sang Ðức du học, “gia tài” tôi mang theo là sáu bộ áo dài bằng lụa nội hóa. Ngày khai giảng đầu tiên, tôi cùng năm nữ giáo viên khác cùng du học đến trình diện ở trường trong những chiếc áo dài. Những đồng nghiệp ngoại quốc dự khai giảng ngỡ ngàng khi thấy trang phục của chúng tôi. Họ trầm trồ trước vẻ uyển chuyển thướt tha và ngợi khen đây là một trang phục rất lạ, đẹp, lịch sự và thích hợp với dáng dấp mảnh khảnh của phụ nữ Á Ðông”.

Thì ra ‘’áo dài Việt Nam’’ đã chinh phục được xứ sở ‘’triết học’’ mà không cần phải ‘’thiệt chiến quần nho’’ chi cả, để rồi từ đó

“…ÁO DÀI giúp tôi đắc lực nhất, thể hiện sức mạnh chinh phục của nó đối với những người khách chung quanh bằng sự vững chãi và tự tin, tự chủ là người Việt giữa muôn người.”

Khi TKL gởi tôi tập sách Đường Về Nhà này kêu tôi ‘’noái’’ đôi lời, tôi bất ngờ thấy có Đường sương, Đường mưa, và cả ‘’Đường phượng bay mù không lối vào’’ (TCS) mà Đường Về Nhà thì không thấy đâu cả! Sao vậy? Vì sao mà TKL cứ loay hoay tìm kiếm đường về nhà  mà vẫn không thấy đâu? Có phải từ cái lúc bứng mình ra khỏi Huế ? hay từ cái lúc cấy mình vào một thứ thổ ngơi xa lạ kia?

Chắc không ít lần nàng kêu lên Đi về sao chẳng về đi/ Ruộng hoang vườn rậm còn chi không về? (Đào Tiềm), nhưng rồi cũng không ít lần giật mình: ‘’chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà’’ (TCS). Cho nên Ôn Từ Đàm đã nói chính xác:

“Ừ răng nghe lạ! Xác bên nớ mà hồn thì ở bên ni, nói nghe như người nằm ngủ nói mê!”.

Ðôi khi… giữa hai điểm hẹn căng thẳng trong cái lưới nhện của đèn xanh đèn đỏ xứ người, trong sự hối hả quay cuồng của thời gian ngộp thở trong hệ thống máy móc công việc của Âu châu, trong sức căng thẳng trí óc với chiếc xe hơi nhấn hết ga trong thành phố viễn xứ, bỗng dưng – vâng bỗng dưng! – vì không có một định luật liên tưởng hoài niệm nào đang vận hành trong giây phút ấy – bỗng dưng vọng lại bên tai mấy câu Kiều …”

Nàng cứ loay hoay giữa đi và ở. Cứ dùng dằng như con Sông Hương không chảy trong thơ Thu Bồn.

Thì mới đó, mấy ngày trước tôi nhất quyết năm ni sẽ ăn Tết ở Muenchen, bộ tịch của tôi chắc mẩm, tỉnh bơ, lạnh lùng, khi rời Huế. Ấy thế mà…

Thì đi, không nên dây dưa như những lần trước, dứt khoát mà đi, đừng có nhớ nhung lôi thôi kiểu Huế, nhớ này nhớ nọ mất công, lòng dặn lòng như thế, nằm nghiêng cánh gối, như chuẩn bị một thế hờ hững với mọi ngổn ngang có thể có vài giờ sau…

Cái gì đã giữ cô lại. Thì ra mưa. Mưa Huế. Rồi nắng. Nắng Huế. Rồi thu vàng rồi lá đỏ rồi rêu xanh…’’ cái gì cũng làm cho tôi quyến luyến khác thường’’ (Quốc văn giáo khoa thư).

Rồi Mạ, rồi Bà, rồi em, rồi chị… rồi Phật Đản, rồi Vu Lan, và Tết… Ăn Tết nơi mô? Ăn Tết ở nhà,  Nơi tôi ăn Tết, Tết xưa… bao nhiêu là tết  trong Đường Về Nhà này đó vậy.

Cho nên đã mấy mươi năm ăn Tết ở Muenchen, thật ra không phải “ăn” mà hoá ra “nhớ”. Nhưng về Huế, ăn Tết thì quả có ăn Tết thiệt, ấy thế mà lại thiếu chút chi cái “nhớ Tết Huế” ở nơi Muenchen, tuồng như cái nhớ đã mắc vào người, khó gỡ… Rứa là Huế – Muenchen cứ như tơ vò.

Còn cái ‘’văn phong thi vị và trong sáng’’ thì sao?

Thì, này là phượng huế: ‘’Sáng, trưa, chiều, màu hoa đỏ như môi son thiếu nữ nhoẻn nụ cười tươi nhất trên khắp các nẻo đường xứ Huế, khiến cho người Huế ở kiếp nào cũng sẵn lòng đổ mồ hôi hột, nhễ nhại trần thân chịu cơn nắng suốt cả đời người, để được một sáng ra đường gặp hoa, buổi trưa tình cờ thấy hoa và buổi chiều đi về với hoa trong những ngày hè thét lửa’’.

Thì, này là thu huế:

Huế đang vào thu! Những bước đi vào mùa của Huế thật là lạ lùng, bất chợt, làm cho mỗi giác quan của con người cứ bối rối ngẩn ngơ, không biết đón nhận buổi giao mùa bằng một thứ tình chi cho vừa lòng kẻ đến…”

Và cứ thế, cho những mai sau dù có bao giờ…

‘’Và cứ thế những ngày qua đi, không vội mà như có tiếng giục giã của thời gian đang nhuộm lần sắc nhớ… Có những khi… trong cuộc sống dồn dập ở xứ người, khoảng ngăn cách vời vợi giữa Huế và Muenchen, khoảng thời gian mấy mươi năm hun hút chia xa tuổi học trò với tuổi mai sau…

Để rồi,một mai hễ  vương gió bên này thì lại nhớ mưa bên nớ, thấy nắng bên kia mà nhớ tuyết bên này. 

Hạnh phúc ấy từ đó đọng sâu trong tiềm thức, qua năm tháng đã trở nên những xao xuyến vô hình thôi thúc trở về trong nỗi nhớ, lắm khi chẳng biết vì sao”.

 

Đọc Đường Về Nhà mà thương cho một Thái Kim Lan bơ vơ, trăn trở, mà nghe như có tiếng thời gian chạm vào ‘’đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà’’ (Nguyễn Xuân Sanh)…

 

(ĐHN)

Saigon, 8.4.2018

……………………………………………….

(*) Thái Kim Lan (Đường Về Nhà)

 

 

 

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Ghi chép lang thang, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Lê Ký Thương: ”Hành trình nghiệp Thơ”

09/04/2018 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Lê Ký Thương: ”Hành trình nghiệp Thơ”

 Ghi chú: Lê Ký Thương làm thơ trước khi làm họa sĩ, dịch giả… Năm 1974, anh ra mắt tập thơ: Bếp lửa còn thơm mùi bả mía ở Phan Rang và từ đó đăng nhiều thơ văn trên các báo ở Saigon. Anh cũng là người làm maquette đầu tiên cho tờ Ý Thức, tạp chí Văn học nghệ thuật những năm 70 của nhóm anh em Nguyên Minh, Lữ Kiều, Châu Văn Thuận, Lữ Quỳnh, Trần Hoài Thư, Nguyễn Mộng Giác, Đỗ Nghê, Lê Ký Thương…

Mấy năm trước, anh bị một cơn stroke, liệt nửa người phải, nhờ tích cực tập luyện với một ý chí cao nên phục hồi khá tốt. Thế rồi, một hôm đạp xe đi bơi, anh bị té gây chấn thương sọ não… Anh nói bây giờ chỉ với một tay, anh dư sức lo cả… gia đình!

Đi lại, nói năng hơi khó, nhưng lạ, trí nhớ tuyệt vời. Như một cuốn tự điển bách khoa về ”văn học nghệ thuật”. Anh nhớ vanh vách ai, làm gì, ở đâu… đời sống riêng tư ra sao! Thiệt lạ.

Mới đây, Quán Văn số 53 giới thiệu ”Lê Ký Thương”, anh được mời lên sân khấu ngồi nghe và cười… trong im lặng.

Anh vừa in một tập thơ dày đến 250 trang: Trò chơi trời cho. Hành trình nghiệp Thơ. Tự design, tự layout… còn sửa morasse đã có Kim Quy phu nhân lo (nhưng nghe nói giờ chót chàng không cho sửa…!), và in ấn thì đã có Nguyên Minh.

Xin giới thiệu với bạn bè.

(Lê Ký Thương, nói chung, là một người hiền lành, còn nói riêng thì hổng biết…!).

Đỗ Hồng Ngọc.

 

Thơ LKT: 

LAI RAI BA ĐIỆU

 

Mai kia ta cháy trên đồi

Lửa siêu độ đốt sạch lời ba hoa

E rằng cô quán phải lo

Thiếu người tâm sự ngồi co một mình

Hôm nay ta nói hết mình

Rượu bao nhiêu độ say tình bấy nhiêu

Thân nhau nói ít hiểu nhiều

Khi mà thương thiệt mấy đèo cũng băng

Tình tang ứ hự tình tang

Cho thêm xị nữa cô hàng chịu chơi!

Phan Rang,1969

 

SAO CHIM CHƯA VỀ CHIM ƠI!

 

Đôi mắt tôi buồn cháy hai ngọn nến

những giọt lệ nồng không đủ ấm mùa đông

con chim Thúy Vũ chưa về

vườn mai trong hồn tôi xơ xác quá!

 

Thôi – tôi biết rồi

vừa qua có cơn bão lớn

gió thổi chim bay lạc hướng

mùa xuân này chắc không vui

cho dù vườn tôi mai tốt lá

 

Chim bay xa rồi

làm sao mai ra hoa?

Phan Rang, 1970

 

THƠ THẢ TRÊN SÔNG HƯƠNG

 

Anh xé lòng khơi nguồn sông Hương chảy

Dòng tình yêu cuồn cuộn bóng hình em

Trong tích tắc giao thừa anh bỗng thấy

Con ong ruồi chết ngộp giữa đài sen

Dẫu có buồn anh vẫn yêu em.

Huế, 1976

 

VIỆT VỊ

 

Trung thực tình em

giữa đường đua – anh

việt vị.

Không gian bốn chiều – anh

trượt lối

ngã lăn

quay.

Xương đá xanh rêu

tìm không thấy dấu trâu về…

Tiếng nói tình yêu

không đồng bộ.

Dẫu ngàn năm vẫn trắng xương

khô!

 Huế, 1979

 

XUỐNG NÚI

 

Củi khô một bó

Lan rừng một đóa

Thênh thang đường về

Nước run đầu cỏ.

Nha Trang,1976

 

TẬP HÍT VÀ THỞ

 

Thoang thoảng mùi hương nghe lạ quá

Hít một hơi và thở một hơi

Hít và thở nghe quen mà rất lạ

Tập tập hoài – đâu có dễ như chơi!

Nha Trang, 1976

 

NẰM BỆNH I

 

Cõi người ta lạ quá!

Trắng – đen cứ nhập nhòa

Không rạch ròi thực – giả

Đành buông một tiếng: a!

Sài Gòn, 2011

 

TRA VẤN

 

Cái não sao mày cứ chọc tao.

Mới đầu gặp nạn tưởng không sao

Phim chụp 7 lần nay mới biết

Máu còn đọng lại, ít tiêu hao!

 

Mày nghĩ mày ngon nên quá lì.

Phần tao nhất quyết vẫn cười khì.

Vẫn sống phây phây và tự tại.

Coi mày như bạn – biết không mi?

Sài Gòn, bị stroke lần 2,

        10 -2016

* Tập: Trò chơi trời cho – Hành trình nghiệp Thơ (gồm 321 bài, hầu hết chưa phổ biến). Nội dung chia làm 5 phần: 1.- Lạy tạ tình, 2.- Lạy tạ thơ, 3.- Thơ cà khịa, 4.- Thơ tai biến, 5.- Lướt gió xem mây, 6.- Tạm kết.

 

từ trái: Đỗ Hồng Ngọc,Thu Vàng, Kim Quy, Lê Ký Thương.
(Đường Sách Saigon, 5.4.2018)

 

Filed Under: Ghi chép lang thang, Già ơi....chào bạn, Vài đoạn hồi ký

Kỳ 18: Phật Học & Đời Sống (Chùa Xá Lợi)

07/04/2018 By Bac Si Do Hong Ngoc 2 Comments

 

Kỳ 18: PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG

               Tứ Vô Lượng Tâm

              Từ Bi Hỷ Xả (phần 2)

tại Chùa Xá Lợi (Saigon, Tp HCM) ngày 31.3.2018

Thứ bảy 7.4.2018 từ 15-16.30h tiếp tục

”Ứng dụng Từ, Bi, Hỷ, Xả vào Đời Sống hằng ngày”.

Trân trọng mời các bạn tham dự,

 

Cảm ơn nvquyen,

Bs Đỗ Hồng Ngọc.

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Lõm bõm học Phật

Linh Thoại với THƠ NGẮN ĐỖ NGHÊ

04/04/2018 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Linh Thoại (Tuổi Trẻ) có một status trên facebook, viết mấy dòng cảm nghĩ về Thơ Ngắn Đỗ Nghê vừa gởi tôi để chia sẻ cùng ”Chú Ngọc”. Cô khoe viết linh tinh vậy mà đã có hơn 100 bạn ”like”… rồi đó chú!

Dưới đây là status của Linh Thoại về Thơ Ngắn Đỗ Nghê:

 

Con cài bông hoa trắng
Dành cho mẹ đóa hồng
Mẹ nhớ gài lên ngực
Ngoại chờ bên kia sông

(Bông hồng cho mẹ, Đỗ Hồng Ngọc, 2012)

Bài thơ này nhỏ mình biết đến lần đầu khi phỏng vấn tác giả – bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc trong một quán café ở Quận 3, Sài Gòn. Chú và mình trò chuyện quanh quyển Thấp thoáng lời kinh, loanh quanh thế nào mà nói sang thơ ca, mình không còn nhớ rõ. Chú đọc cho mình nghe 4 câu đó, mình ấn tượng ngay. Những câu thơ nằm ngoài chủ đề câu chuyện nhưng mình vẫn tìm cách đưa vào bài viết. Trí nhớ mình đúng là thiên vị thơ, nhớ mãi 4 câu thơ từ hôm đó…

Với mình, ẩn sau “Bông hồng cho mẹ” là một ngày lễ dễ thương của văn hóa Phật giáo, văn hóa Việt: Lễ Vu Lan. Ẩn sau bài thơ giản dị đó là cả cái nhìn của phương Đông về hai cõi âm – dương. Mà thật ra, chẳng âm dương cách biệt gì cả, “ngoại”, “mẹ” và “con” đều ở đây, trong bài thơ nhỏ này, trong tâm tưởng của “con” – “con” nay đã nhìn về Còn – Mất trong cõi Ta-bà một cách nhẹ nhàng, an nhiên, dù đã bao mùa Vu Lan “con” cài hoa trắng, đóa hồng kia “con” “nhường” cho mẹ, mẹ ơi…

20 chữ thôi, mà khiến người đọc thấy cả ba “nhân vật” đều gần gũi, thấy yêu văn hóa Việt, yêu cuộc sống quá nhiều yêu thương và quá đỗi vô thường này…

Bẵng qua 5, 6 mùa Vu Lan, mình gặp lại bài thơ, lần này được in trong tập Thơ Ngắn Đỗ Nghê (Đỗ Nghê là một bút danh khác của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc), không khỏi thấy vui, không khỏi muốn nghe chính lời tác giả vang lên, như buổi chiều năm nao…

Mình mang tập thơ về, để ở đầu giường, một hôm thức dậy, trí não còn ngái ngủ, quơ tay lên mở sách, đọc đúng một bài rồi gấp sách lại vì nước mắt chảy:

Ba dạy con
Mỗi ngày
Một chút

Không bài học nào
Như ba đã học
Từ con

Nỗi mất!
(La Ngà 5, 1990)

Mình may mắn chưa có trải nghiệm đau đớn như vậy về nỗi mất, vậy mà 19 chữ kia cứ như một vết cắt bất thần vào con tim nhỏ…Lại một câu chuyện của sống chết vô thường, của có – không – còn – mất, của cõi đời mong manh cõi lòng mong manh…

Đâu cần dông dài, đâu cần khoác áo gấm áo lụa cho ngôn từ, đâu cần chiều kích suy tưởng, thơ, đôi khi chỉ cần là tiếng nói chân thật giản dị của khoảnh – khắc – trái – tim – cất – lời – như – không – khác – đi – được, vậy mà cứa đau, vậy mà xoa dịu…Mối tương giao và tri âm giữa người thơ với người đọc, đôi khi cũng lạ lùng như thơ vậy.

Nãy giờ mình nhắc hai lần chữ “vô thường”, với cả tập thơ, đúng là lẽ vô thường, “bài học” có – không bàng bạc khắp trong cái nhìn về đất, nước, sóng, hơi thở, tình yêu, tuổi già, về buổi ngày, buổi đêm, về sợi tóc bạc, về tấm thân tứ đại này….

Tình thương ư? Có một nỗi nhớ rất “y học” thế này:

Thôi hết cồn cào
Thôi không quặn thắt

Chỉ còn âm ỉ
Chỉ còn triền miên

Thì thôi cấp tính
Thì đành kinh niên
(Nỗi nhớ, 1995)

Vô thường ư? Cái thấy của y học đi cùng với cái thấy của thiền học:

Ta bay vù vù trong không gian
Mà cứ tưởng nằm im
Trên gối

Mỗi ngày ta rơi rụng
Mỗi ngày ta phục sinh
Mà cứ tưởng không hề thay đổi…
(Vô thường)

Có một bài mang tên “Về Thiền tập” tác giả để cuối tập thơ, mình không chép lại ở đây, thay vì vậy, mình chép “bài thơ 2 chữ” tác giả nhắn cho mình, sau khi nhìn thấy cái tựa “giựt gân” không đúng tinh thần bài điểm sách trên 1 tờ báo mạng:

Thôi kệ!

(“Thôi kệ!”, hai chữ đó, với con là “thơ ngắn Đỗ Nghê”, là “thơ Trịnh Công Sơn”, là “thơ thiền’ đó chú Ngọc ơi!  🙂 )

Trong lời đề tựa cho tập “Kinh thi” từ ngàn năm trước (mà Đỗ Hồng Ngọc có dẫn lại), Chu Hy viết rằng thơ là giọng điệu cung bực “như không thôi đi được” của “những cái ý nhị không thể nói hết ra được mà hình hiện ở trong lúc ngậm ngùi ngợi than”. Nghĩ về thơ như thế, cảm thơ ai, cảm thế nào ắt phải tùy tạng người, tùy khoảnh khắc, tùy không gian, tâm thế…, thật không dễ luận bàn, có phải?. Như dễ gì lại có một sớm mai, 1 bài thơ nhỏ đánh thức một đứa người lớn đang ham ngủ vùi.

(Linh Thoại)

 

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

ĐHN: Phật dạy con (Nguyên Giác dịch Anh ngữ)

04/04/2018 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

Ghi chú: Nguyên Giác Phan Tấn Hải, tác giả của nhiều cuốn sách về Thiền học có giá trị, thực hiện một Blog Phật học song ngữ Việt Anh, VietRahula nhằm giúp giới trẻ ở hải ngoại có cơ hội tiếp cận Phật học.

Anh vừa gởi tôi bản dịch bài PHẬT DẠY CON. Xin trân trọng giới thiệu đến các bạn.

Viet Rahula, A Bilingual English-Vietnamese Blog — Trang Song Ngữ Anh-Việt — Webmaster: NguyenGiac@gmail.com

 

Tuesday, April 3, 2018
Phật dạy con

By Đỗ Hồng Ngọc

Phật tử thì ai chẳng là con Phật. Thế nhưng, La Hầu La là… con Phật lúc Phật còn là Thái tử. Một người con huyết thống. Trong cái đêm rời bỏ cung điện, “quyết tìm đạo sáng cứu chúng sanh” đó, Thái tử Tất-Đạt-Đa hẳn đã ít nhiều quyến luyến. Khi Phật thành đạo, có dịp về thăm Vua cha thì La-hầu- La đã lên bảy tuổi. Và ngay dịp đó, La Hầu La cũng xin theo Phật, xuất gia.
Tò mò coi Phật đã dạy La Hầu La những gì… để học lóm cũng hay!

Trước hết, Phật giao La Hầu La cho… ông “thầy dạy kèm” là Xá Lợi Phất. Sao lại Xá Lợi Phất mà không phải ai khác như Mục Kiền Liên chẳng hạn? Xá Lợi Phất thì mới đúng là một ông giáo, kiến thức uyên bác, đệ tử trí tuệ bậc nhất của Phật mà. Phật giao cậu bé La Hầu La cho Xá Lợi Phất dạy dỗ là muốn La Hầu La đi vào con đường tu tập bằng trí tuệ trước hết. Nếu Mục Kiền Liên mà làm thầy có khi La Hầu La mê… thần thông mất! Phật không trực tiếp dạy La Hầu La vì cha mà dạy con không dễ, nhứt là ông con có máu làm vua!

Và bài học đầu tiên Xá Lợi Phất dạy La Hầu La là thở. Tức là dạy kỹ năng đầu tiên của thiền định. Bởi đây cũng chính là con đường khai mở trí huệ. Có chánh định rồi mới mong có chánh kiến, chánh tư duy… chớ phải không? Thở là nhu cầu thiết yếu của cuộc sống. Ngay từ lúc sinh ra thì đã phải thiết lập ngay hơi thở đầu tiên – tiếng khóc “chào đời”- nếu không thì không có sự sống.

Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra
(Nguyễn Gia Thiều).

Mới sinh ra thì đà khóc chóe

 Trần có vui sao chẳng cười khì
(Nguyễn Công Trứ).
“Chào đời” bằng một tiếng khóc nên mới có “Khổ, Tập, Diệt, Đạo”!
Cuộc sống càng căng thẳng, càng đam mê, càng nhiều tham sân si nghi mạn tà kiến… thì người ta càng dễ quên thở. Người ta chỉ thoi thóp thở, khò khè thở, hời hợt thở, cà giựt thở, cà hước thở cho qua ngày đoạn tháng! Cho nên phải dạy thở trước hết cho La Hầu La là đúng.
Nhưng thở không chỉ là thở. Thở để thấy một kiếp người. Thở để thấy vô thường, vô ngã. Thở để thấy duyên sinh, thấy thực tướng vô tướng. Dĩ nhiên, Xá Lợi Phật sẽ dạy La Hầu La một cách đúng sư phạm, không sợ “tẩu hỏa nhập ma”!
Phật… vẫn phải theo dõi sát chuyện học hành của cậu bé La Hầu La. Khi thấy cậu đã biết thở, có chánh niệm, tỉnh giác, tinh cần rồi thì Phật mới bắt đầu dạy… đạo đức, lối sống. Nào không được nói dối – nào phải nghĩ kỹ trước mỗi ý tưởng, cử chỉ, lời nói… xem điều nào nên hay không nên làm, điều nào có hại, xấu ác thì không được làm, điều nào hay phải,  lợi mình, lợi người thì làm.
Chư ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý

Trong khi chuẩn bị làm điều chi bằng thân, khẩu, ý, con phải quán chiếu: hành động này có gây tổn hại cho mình hoặc cho kẻ khác không. Nếu, sau khi suy xét, con thấy rằng hành động đó sẽ có hại, thì con hãy đừng làm. Còn nếu con thấy rằng hành động đó có ích lợi cho con và cho kẻ khác, thì con hãy làm.”
Trong các yếu tố thân khẩu ý thì “khẩu” có lẽ là quan trọng nhất để tạo nghiệp mặc dù nó được dẫn dắt bởi ý (ý dẫn các pháp) nhưng ý không bộc lộ ra để dễ nhận biết, chỉ có khẩu mới ầm ỉ, náo nhiệt, là đầu mối sinh sự, gây chiến!  “Khẩu” chính là kẻ tạo nghiệp số một vậy. Ngày nay “khẩu” không chỉ là lời nói trực tiếp mà còn là cả hệ truyền thông, cả những “status” trên mạng internet, lan truyền khắp thế giới trong nháy mắt.  Cho nên Phật dạy La Hầu La rất kỹ về “khẩu nghiệp”, bắt đầu bằng sự không nói dối. “Thập thiện” dành tới 4 món  cho riêng khẩu: Không nói dối, không nói thêu dệt, không nói hai lưỡi, không nói lời hung ác…

Ở tuổi mới lớn, biết mình là con Phật, được mọi người vì nể, quý trọng, chắc không khỏi có lúc La Hầu La làm phiền nhiễu, buồn lòng người khác. Thậm chí, thỉnh thoảng có thể còn chạy vào méc (mách) Phật điều này điều khác… Phật sẽ mỉm cười xoa đầu dạy hạnh Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn…

khi La Hầu La lớn dần lên, Phật  dạy những bước tiếp theo.
Hãy học hạnh của Đất. Hãy như đất. Đất ở khắp nơi. Đất trong ta. Đất trong vũ trụ. Không có đất, ta không nên hình nên dạng. Không có đất, nhựa nguyên không thành nhựa luyện. Điều quan trọng: đất không hề phân biệt. Ném một thỏi vàng hay một đống rác xuống đất, đất vẫn « như như bất động »…Chẳng mừng chẳng giận.
Hãy học hạnh của Nước. Hãy như nước. Nước ở khắp nơi. Nước ở trong ta chiếm đến ba phần tư thể trọng. Cũng như biển cả sông ngòi chiếm ba phần tư mặt địa cầu. « Nước trôi ra biển lại tuôn về nguồn » (Tản Đà). Chẳng thêm chẳng bớt…
Hãy học hạnh của Gió. Hãy như gió. Gió ở khắp nơi. Gió trong ta.  Trong bầu khí quyển. « Gió không có nhà/ Gió đi muôn phương… ». Đâu cũng là nhà của gió. « Sống trong đời sống cần có một tấm lòng. Để làm gì em biết không ? Để gió cuốn đi ! » (TCS).
Hãy học hạnh của Lửa. Hãy như lửa. Lửa ở khắp nơi. Lửa trong ta. Lửa trong vũ trụ. Lửa ở mặt trời. Lửa giữa lòng đất. Lửa ở trong cây. Không có lửa sao cọ xát thì cây bốc lửa ? Lửa đốt cháy hết tham sân si. Lửa tam muội ngùn ngụt trong chánh định…
Tứ đại « đất, nước, gió, lửa », chính là những yếu tố cơ bản, Nitrogen (đất) Hydrogen (nước) Oxygen (gió), Carbon (lửa), những nguyên tố C, H, O, N tạo nên protein, chất liệu cuộc sống. Từ đó mà có vạn vật, từ đó mà có ngũ uẩn : sắc, thọ, tưởng, hành, thức…

Và dĩ nhiên Phật đã không quên nhắc đi nhắc lại với La hầu La: « không phải của ta, không phải là ta, không phải là tự ngã của ta ».

Không phải của ta thì việc gì phải tham !
Không phải là ta thì việc gì phải sân !
Không phải là tự ngã của ta việc gì phải… si !

Vậy là đã đủ.

.
How the Buddha taught his son
By Đỗ Hồng Ngọc

Translated into English by Nguyên Giác

We are Buddhists and behave ourselves as children of the Buddha; however, Rahula had been already the son of the crown prince who later became Buddha. A biological son. In the night Prince Siddhartha left the royal palace to find the path of liberation, he somehow would have thoughts of attaching feelings. After becoming a Buddha, when he had a chance to visit his father king, his son, Rahula, was seven years old.
I am just curious to see what the Buddha taught his son. Curious to pick up something.
First, the Buddha assigned Sariputra as the tutor for Rahula. Why Sariputra? Why not somebody else? How about Mahamoggallana? Actually, Sariputra would work best as a teacher; he had vast knowledge and was foremost in wisdom among the disciples of the Buddha.
The Buddha wanted Rahula to follow his tutor Sariputra to train in wisdom first. If Rahula was a student of Mahamoggallana, he would be impassioned in psychic powers. The Buddha did not directly teach Rahula, because it was hard to teach a son, especially the one who would have wanted to become a king.
The first lesson Sariputra gave to Rahula was how to breathe. That was the first skill to practice meditation, and a way to attain wisdom. If he attain the Right Concentration first, he would easily attain later the Right View, Right Thought. Breath is life. When you were born, you started breathing – with a cry to say “Hello life”; thus, you could stay alive.

I’ve carried the first cry since the moment I was born.
(Poetry by Nguyễn Gia Thiều)

We cried when we were born! If life was joyful, why we did not laugh then?
(Poetry by Nguyễn Công Trứ)

Saying hello to life with a cry, we might feel the Four Noble Truths — suffering, the arising of suffering, the cessation of suffering, and the path leading to the cessation of suffering.
The more stress and passion we have, the more we get lost in the forest of greed, aversion, ignorance, conceit, doubt and wrong views, and the more we easily forget to breathe. People just breathe flickeringly, breathe waveringly, breathe shallowly, breathe sputteringly… and let the days and months passing by. Hence, it was right to teach Rahula first on how to breathe.
Breathing is not just for breathing. You breathe to see a life. You breathe to see the characteristics of impermanence and non-self. You breathe to see the dependent arising, the signless of the True Reality.  Sariputra, of course, would teach Rahula correctly — no reason to worry about mental disorder.
The Buddha watched closely to see how the young Rahula studied. When seeing the youth knew how to breathe and live with mindfulness, alertness and diligence, the Buddha started teaching Rahula about morality – just tell the truth, not a lie; think deeply on any idea, any gesture, and word to choose to do good over evil, to do things helpful for us and others.
Not to do evil, 
to cultivate merit, 
to purify one’s mind…

“Whenever you want to do a bodily action, you should reflect on it: ‘This bodily action I want to do — would it lead to self-affliction, to the affliction of others, or to both? Would it be an unskillful bodily action, with painful consequences, painful results?’ If, on reflection, you know that it would lead to self-affliction, to the affliction of others, or to both; it would be an unskillful bodily action with painful consequences, painful results, then any bodily action of that sort is absolutely unfit for you to do. But if on reflection you know that it would not cause affliction… it would be a skillful bodily action with pleasant consequences, pleasant results, then any bodily action of that sort is fit for you to do….(and with verbal action, and mental action…) (link: Access To Insight)
Among all the actions, the verbal actions may be the most important to create karma; even the thoughts lead them all, it is very hard to see the thoughts. The vocal spoken words start all quarrels and wars. The verbal action is the one that creates the most karma. Not online the words you speak directly, but also the words you write on the Internet and spread out globally. Thus, the Buddha taught Rahula about the karma of verbal actions, starting with not telling a lie. Thus, there are four parts for the precept on verbal action: refrain from lying, from gossip, from harsh words, and from malicious words.

As a youth, respected by everyone for being the son of Buddha, Rahula might sometimes bother somebody. Rahula might come to see the Buddha and say things behind somebody’s back. The Buddha would smile, rub Rahula’s head and tell the youth to keep the precepts, be patient and learn diligently.

When Rahula grew up gradually, the Buddha taught the next steps.
Develop the meditation in tune with Earth. Earth appears everywhere. Earth appears in you. Earth appears in the universe. Without earth, you have no shape. Without earth, the tree sap cannot transform into other useful material. The important factor: earth discriminates nothing. Throwing a gold bar or a trash stuff onto the surface of the earth, you see the earth stay in the thusness nature – e.g., motionless… Neither happy nor angry.
Develop the meditation in tune with Water. Just be like water. Water appears everywhere. Water appears in you, keeping ¾ of your weight; also, the surface of seas and rivers cover ¾ of the surface of the earth. “All streams run to the sea and return to the source.” (Poetry by Tản Đà). Neither increasing nor decreasing.
Develop the meditation in tune with Wind. Just be like wind. Wind appears everywhere. Wind appears in you, and in the sky. “The wind has no home/ the wind flies in all directions…” Everywhere is home for the wind.  “Living in life, we need a heart. For what, do you know? To let the wind float away.” (Lyrics by Trịnh Công Sơn)
Develop the meditation in tune with Fire. Just be like fire. The fire appears everywhere. The fire appears in you, in the universe, in the sun, deep inside the earth, and in the trees. Rubbing wood, you will have the fire. The fire burns all three poisons — greed, aversion, and ignorance. The fire of Samadhi starts the Right Dhyana.
The four basic elements — earth, water, fire, and wind– are the basic factors (for the forms of any existence), from which all things are built, and from which we have the five aggregates (the form, feeling, perception, volition, consciousness)…
And the Buddha, of course, always reminded Rahula that all things should be seen as, “That is not mine. That is not what I am. That is not my self.”

That is not mine; thus, why do we have greed.

That is not what I am; thus, why do we have the aversion.

That is not my self; thus, why do we have ignorance.

That’s good enough.

THE END

Image already added

Filed Under: Nghĩ từ trái tim, Thiền và Sức khỏe, Viết cho tuổi mới lớn

Kỳ 17: ”Phật học & Đời sống” Chùa Xá Lợi

30/03/2018 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Kỳ 17: “Phật học & Đời sống”

Ngày 24.3.2018 tại Chùa Xá Lợi Tp.HCM (Saigon)

Chủ đề: Tứ vô lượng Tâm: TỪ, BI, HỶ, XẢ (1)

 

Cảm ơn nvquyen,

………………………………………………………………………………

Thư Mời

”Phật học & Đời sống” kỳ 18:

Thân mời các bạn

Thứ bảy 31.3.2018 lúc 15-16.30h tại Chùa Xá Lợi,

89 Bà Huyện Thanh Quan, Quận 3, Tp HCM.

tiếp tục chủ đề ”Từ Bi Hỷ Xả” (Ứng dụng thực tế).

Mời các bạn ”Tùy hỷ” tham dự,

Trân trọng,

Đỗ Hồng Ngọc.

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Gươm báu trao tay, Nghĩ từ trái tim

Thư gởi bạn xa xôi: Về chuyến đi Tây Nguyên

26/03/2018 By Bac Si Do Hong Ngoc 3 Comments

 

Thư gởi bạn xa xôi

Về chuyến đi Tây Nguyên

Gần mười ngày về đến nhà rồi mà mình vẫn còn chưa “nguôi ngoai” nỗi nhớ Tây Nguyên đó bạn ơi. Người bạn cùng đi chung đoàn, Nguyễn Thiên Công, dù nay đã về đến Đức quốc xa xôi buốt lạnh kia rồi nhưng chắc cũng còn ”thao thức” mãi, không thể ngủ được! Bạn biết không, mình đi đâu bây giờ cũng thành… niên trưởng. Già khú đế rồi. Nhưng đi chuyến Tây Nguyên này về thấy mình bỗng trẻ lại. Phải cảm ơn ông bà Thức-Lý, người ”tổ chức” mát tay, luôn căn dặn ”không được cảm ơn tụi tui nghe”. Thôi thì cảm ơn cháu Huệ, phụ tá của hai ông bà vậy.

Đoàn đăng ký đi 18 người, giờ chót… Nh và B phải ở lại vì Nh bệnh nặng bất ngờ. Chuyến đi này thiếu Bách-Vinh, Thủy-Cung… bù lại có Công-Châu, Cường-Hiền, Triệu Minh, Thu Việt, Thức, Hậu… và nhóm bạn mình Thân Trọng Minh-Thanh Hằng, Lê Ký Thuơng. Dĩ nhiên đoàn luôn có Phan Chánh Dưỡng rất dễ thương và uyên bác.

Bạn hỏi chuyến đi Tây Nguyên này có gì gây ấn tượng nhất cho mình ư? Nhiều đó. Ấn tượng nhất là MăngĐen, Hồ Lak, Bảo tàng văn hóa các dân tôc Tây Nguyên, Thác DrayNur và… Café Arul culture house.

Quốc lộ 14 bây giờ đẹp lắm rồi. Nhớ xưa, đi BMT đường sá vất vả cỡ nào! Xe mới đến Bình Phước, sóc Bam Bo thì đã có bạn hát ‘cắc cum cùm cum” rồi, tiếp đó là Bóng cây Kơnia… Ủa, ‘bóng ngã che ngực em/ về nhớ anh không ngủ’ là sao? Ai đó bèn giải đáp, có gì đâu, vì ‘anh’ cũng hay che ngực em hoài như vậy! Nhưng ‘bóng tròn che lưng mẹ/ về nhớ anh mẹ khóc’ là sao, thì có gì đâu, hồi nhỏ, mẹ vẫn cõng anh lên nương lên rẫy đó thôi.

Đến Đak Nông rồi!

Dak Nông

Dọc đường, đã thấy rất nhiều khu thị tứ sầm uất. Ghé cafe võng. Mọi người  nhắc Bách, Vinh, Nhân, Bình… và ‘bình luận’ sôi nổi còn hơn cả Kim Dung và Kim Thánh Thán!   

Có con đường tránh Dak Lak, đi thẳng lên Pleiku (Gia Lai). Ai đó nhắc câu thơ Bút Tre: “Anh đi chiến dịch Plây/ Ku dài dằng dặc biết ngày nào ra?”… ôi thơ đầy sáng tạo!

Trên xe có Phan Chánh Dưỡng thì không sợ đường dài. Anh kể cho nghe những thời kỳ khó khăn, những bài học kinh nghiệm thật sống động phong phú. Lại có nhà báo Nguyễn Trọng Chức, đẹp trai, thông thái, có bộ râu mới tỉa tót, hãy còn trẻ măng, chưa tới 70. Có Vũ Thế Cường, nhiếp ảnh gia, hào hoa phong nhã; lại có nhà khảo cổ học Nguyễn Thị Hậu xinh đẹp, sắc sảo, biết chuyện ngàn năm trước ngàn năm sau… Cô bảo hồi nhỏ đi học, bạn trai cứ ghẹo: Hậu ơi, Trẫm nè. Hậu hỏi Trẫm nào thế? Sao nhiều Trẫm quá vậy?

Còn Triệu Minh là một bạn trẻ có nụ cười thật xinh, ở Đức về, giống hệt Triệu Minh trong Cô gái Đồ Long, người mà NTB có lời gởi gấm cho cả đoàn; Thu Việt cây ngâm thơ thứ thiệt, hóa ra là ”em kết nghĩa” của Thái Kim Lan.(Xin nói rõ, với mình, gần 80 tuổi đầu, thì những ai 60-70 đều là trẻ măng cả!). Trên xe, các bạn ca hát, ngâm thơ, kể chuyện tếu nên chẳng thấy đường xa chi mấy!

 

”cả nhà” Tây Nguyên

Xe đi một mạch đến Kontum. Nhớ năm nào ghé thăm nhà văn Trần Duy Phiên. Nay anh đã về ở luôn Saigon. Buổi sáng, nhìn dòng sông Dak Bla mùa nước cạn, lững lờ trôi. Có quán café Gió và Nước bên cạnh.  Đẹp. Café ngon. Thứ thiệt. Tuy nhiên, mình vẫn thích Gió và Nước ở Bình Dương hơn. Nó thiên nhiên hơn, gần gũi hơn, thanh thoát hơn.

Cafe Gió và Nước, Kontum
Lê Ký Thương – Đỗ Hồng Ngọc (14.3.2018)

Sớm mai, lên đường đi Măng Đen, cách Kontum 50km, ở độ cao 1200m. Ở đây là vùng 3 biên giới mà một con gà gáy thì 3 nước Việt-Lào-Kamp đều nghe. MangDen nay là khu du lịch sinh thái, rừng thông bạt ngàn, hoa sim tím rực, khí hậu tuyệt vời. Thác Pa Sỹ, có 186 bậc xuống. Nhóm trẻ (<70) thì đi,  nhóm U80 thì ngồi nghe thác đổ… sau hè và café với núi rừng. À không,  khám phá vườn tượng Măng Đen. Tuyệt vời. Những đất nước gió lửa. Những sinh trụ dị diệt…  Phải nói thêm, cung đường đèo đi Mang Den quả thật tuyệt vời!

 

Vườn tượng
(photo: Cường)

Rồi đoàn ghé thăm chùa Khánh Lâm. Mình gặp thầy Nhuận Bảo trò chuyện cũng vui.

Đường xuống thác Pa Sỹ

 

Một nhóm thanh niên sinh hoạt

Buổi trưa về lại Kontum, thăm nhà Rông và Nhà thờ gỗ 100 năm nổi tiếng nơi này. Nhóm mình ghé thăm Viện mồ côi sau nhà thờ gỗ. Viện đang nuôi 200 em từ 2 tháng đến tuổi thành niên.

Đoàn ghé thăm Nhà Rong bên chiếc cầu treo bắt qua sông Dak Bla rất đẹp. “Cả nhà” cùng chụp chung tấm hình kỷ niệm (thiếu TTThức và cháu Huệ).

 

 

Tối về lại Pleiku nghỉ đêm. Ghé tham quan Biển Hồ. Mình rất muốn thăm thầy Giác Tâm chùa Bửu Minh nhưng không còn thì giờ. Nhớ hôm nào thầy Giác Tâm về Saigon gặp mình, mang cho rất nhiều cafe. Thầy có blog đăng khá nhiều bài viết của ĐHN!

Sáng sớm hôm sau, khởi hành về Dak Lak (BMT).

pho to: DHN

Dak Lak bây giờ khác xưa nhiều. Hôm đoàn đi Buôn Đôn thì nhóm nhỏ mình ở lại vì đã biết Buôn Đôn. Mình và LKT ghé thăm Bảo Tàng văn hóa các dân tộc tỉnh Đắk Lắk nằm ngay trong khuôn viên Biệt điện Bảo Đại.

Bảo tàng nằm trong một dự án do Pháp hỗ trợ kỹ thuật nên khá bắt mắt và hoạt động rất tốt. Nhiều đoàn học sinh được nhà trường đưa đến tham quan, học tập.

Bảo tàng văn hóa các dân tôc Tây Nguyên (Internet)

Nhờ một người bạn giới thiệu cho một quán cafe ”đặc sệt Tây Nguyên”, không phải kiểu Saigon máy lạnh, nhạc ầm ỉ… Và người bạn dẫn tới Arul! Thôi đúng rồi. Buổi trò chuyện với Len chủ quán thật tuyệt vời. Không chỉ xinh đẹp, cô còn có cá tánh mạnh mẽ, đáng phục. Cô giải bày cách nào đã thoát ra khỏi những hủ tục, đã sưu tập tất cả những thứ ‘’mọi người vứt đi’’ để có một quán không chỉ bán cafe mà là một địa điểm văn hóa thực sự. Cô cho biết đã trải qua nhiều năm bị trầm cảm nặng và rồi cương quyết chọn lấy cho mình một con đường đi riêng, chỉ làm theo sở thích mình, thực hiện ý chí mình. Cô bảo làm việc thì có hai mục tiêu: một là mưu sinh và hai là hạnh phúc. Cô chọn hạnh phúc. Nên công việc dù vất vả đến đâu cô vẫn rất vui. Cô ngạc nhiên thấy nhiều người làm việc với nỗi khổ đau. Khi nói về người cha đã mất, cô nói gọn: “bạn về trước, bạn về sau thế thôi’’. Cô dạy con cũng một cách mạnh mẽ như thế, coi con là bạn, xưng hô với con là cậu với tớ, bình đẳng, không bao giờ coi điểm học tập của con mà chỉ hỏi con học môn này có thích không, khuyến khích tinh thần tự học, tự khám phá… Mình còn trở lại Arul hôm sau cùng nhà báo NTC, nhà khảo cổ NTH, Minh, Hằng. Len dành thì giờ cho nhóm mình, trò chuyện thật vui. Bên ngoài, có chút mưa đầu mùa

Arul culture house

Tây Nguyên.

 

NTH có vẻ phục lắm. Nói cách Len sống, làm việc, dạy con rất phù hợp thời đại mới. Thanh Hằng, cô họa sĩ cũng nói mình mến phục cách sống, cách dạy con của Len.

TTMinh, DHNgoc, Len (Arul), LKThuong
(BMT 15.3.2018)

 

Cafe ở Arul culture house
Từ trái: Hằng, Chức, Thương, Ngọc, Len, Hậu, Minh (16.3.2018)

Buổi tối, ‘’cả nhà’’ tụ tập ở phòng Thức-Lý, để nghe các ‘’diễn giả’’ nói chuyện (giống như lần trước đi với Bách nghe Bách nói về Phật pháp). Mình ”già làng” cho nói trước. Rồi đến NTH, sau cùng mới tới hành giả PCD. Thời gian ít nên mình đọc đôi bài thơ cho cả nhà nghe. May có mang theo 3 cuốn Thơ Ngắn Đỗ Nghê tặng cho Công, Thu Việt, Triệu Minh… những người yêu thơ. NTHậu nói về các vấn đề Khảo cổ và PCD nói về Triết lý Giáo dục. Rất hay.

Hôm sau, sau buổi cafe Trung Nguyên, xe đưa đoàn đi Hồ Lak, cách BMT 60km, về hướng Dalat.

Hồ Lak là hồ nước ngọt lớn thứ hai ở Việt Nam (sau Hồ Ba Bể), bao bọc bởi khu rừng nguyên sinh và núi non trùng điệp. Hồ Lak nối với sông Krông Ana, rộng 6km2, ở độ cao 500m,  một điểm du lịch tuyệt vời của BMT. Mình đến BMT mấy lần mà chưa có dịp đi Hồ Lak nên lần này háo hức.

Chùa Khải Đoan Dak Lak (BMT)

Chỉ có 4 người trong nhóm ‘’bạn trẻ’’ dám cưỡi voi… xông nước. Mình chỉ đứng nhìn. Tính chèo thuyền độc mộc chơi mà nắng gắt quá.

Rồi về ghé chùa Khải Đoan.

Chùa Sắc tứ Khải Đoan là ngôi chùa lớn nhất BMT, có tên gọi Khải Đoan là do ghép từ tên vua Khải Định và Đoan Huy hoàng thái hậu. Chùa vừa được xây dựng lại hoành tráng, có phần hào nhoáng nhưng thiếu đi chút trầm mặc ”hương xưa”, trừ tượng Phật dưới cội Bồ đề. Khải Đoan là ngôi chùa, nơi Đại đức Narada, năm 1962 đã hiến tặng Xá Lợi Phật, cùng với chùa Xá Lợi ở Saigon.

Thác Dray Nur

Trên đường về Saigon, đoàn ghé tham quan thác Dray Nur cách quốc lộ không xa. Mình chưa đến Dray Nur lần nào. Trước đây chỉ ghé Trinh Nữ, Dray Sap. Thác Dray Nur rất đẹp, cao 30m và rộng hơn 200m. Dray Nur có nghĩa là thác cái hay thác vợ. Hèn chi mà nó “yểu điệu thục nữ” chi lạ! .

Bờ thác DrayNur

Dưới chân thác Dray Nur

Về đến Bình Dương còn có bữa cháo tạm biệt.

 

Hẹn thư sau,

Đỗ Hồng Ngọc.

Filed Under: Ghi chép lang thang, Nghĩ từ trái tim, Những người trẻ lạ lùng, Vài đoạn hồi ký

  • 1
  • 2
  • 3
  • …
  • 80
  • Next Page »

Thư đi Tin lại

  • Lịch “Trò chuyện, giao lưu…”
  • Lại đính chính: “SAIGON BÂY GIỜ”
  • ĐÍNH CHÍNH: BSNGOC không phải là BS ĐỖ HỒNG NGỌC
  • Đính chính: BS NGỌC không phải là Bs Đỗ Hồng Ngọc
  • bsngoc đã lên tiếng đính chính
  • Thư cảm ơn và Đính chính về FACEBOOK Bác sĩ NGỌC
  • ĐÍNH CHÍNH: Bài viết "TÀN NHẪN" không phải của Bs Đỗ Hồng Ngọc

Chuyên mục

  • Một chút tôi
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy

Bài viết mới nhất!

  • Và, một cuốn tái bản: Chẳng Cũng Khoái Ru?
  • Có một cuốn sách mới: Thoảng Hương Sen
  • Kỳ 20: Phật học & Đời sống: Từ Bi Với Mình
  • Nghĩ quanh khi đọc “cao huy thuần người khuân đá”
  • Vài hình ảnh buổi gặp gỡ anh em bè bạn ở Lagi

Bài viết theo tháng

Ý kiến bạn đọc!

  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Thư gởi bạn xa xôi: Về chuyến đi Tây Nguyên
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong “Núi vẫn cứ là núi…”
  • Đỗ Thành Đạt trong “Núi vẫn cứ là núi…”
  • tai trong Thư gởi bạn xa xôi: Về chuyến đi Tây Nguyên
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Thư gởi bạn xa xôi: Còn Bấc
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Kỳ 19: PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG (Chùa Xá Lợi, Saigon)
  • Minh Nguyen trong Thư gởi bạn xa xôi: Còn Bấc
  • Nguyễn Minh Hiếu trong Kỳ 19: PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG (Chùa Xá Lợi, Saigon)
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Kỳ 18: Phật Học & Đời Sống (Chùa Xá Lợi)
  • Phung my Clark trong Kỳ 18: Phật Học & Đời Sống (Chùa Xá Lợi)

Cùng một tác giả

  • 0
  • 1
  • 1
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6

Thống kê

Nhà tài trợ

biệt thự vũng tàu
© 2009 - 2016 Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Phát triển & Hỗ trợ kỹ thuật bởi SGC.
Trích dịch nội dung để dùng trong nghiên cứu, học tập hay dùng cho cá nhân đều được tự do nhưng cần phải chú thích rõ nguồn tài liệu và đối với các trích dịch với mục đích khác, cần phải liên lạc với tác giả.
  • Một chút tôi
    ▼
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    ▼
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    ▼
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    ▼
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    ▼
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy
  • Nhận bài mới qua email