Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Tập hợp các bài viết của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Ghi chép lang thang
  • Nhận bài mới qua email

Nguyễn Hiền-Đức: Tập tuyển CÀNH MAI SÂN TRƯỚC

31/01/2022 By admin Leave a Comment

 

Thư ngỏ:

Năm 2006, cách đây 16 năm, Nhà xuất bản Văn Hóa Sài Gòn đã in của tôi cuốn Tuyển tập CÀNH MAI SÂN TRƯỚC, Dành Cho Người Có Tuổi. Cuốn sách được tái bản khá nhiều lần, và không ngờ đã “lọt” vào mắt xanh của một người “bạn trẻ” là Nguyễn Hiền-Đức. Anh đã từ 7 năm trước “gò lưng rị mọ” gõ lại từng trang, từng dòng… rồi còn góp nhặt, gom góp nơi này nơi khác những bài viết của tôi cũng như của các tác giả khác trong “khuôn khổ” Dành Cho Người Có Tuổi. Lúc đầu, chắc là anh có ý để dành, lâu lâu đọc lại cho bớt… già, rồi không biết sao hôm nay anh “bung ra” một Tập tuyển (tôi tạm gọi vậy) là cuốn Ebook bạn sắp đọc dưới đây, cũng ngộ, rất đáng quý một tấm lòng.

Năm nay, người “bạn trẻ” Nguyễn Hiền-Đức cũng hãy còn trẻ, mới lên 77 tuổi, bỗng nhiên cảm thấy mình cần chia sẻ với những bạn già chung quanh, ai nấy đều trên dưới 80 đôi điều cảm nhận, gom góp bấy nay của mình… để đọc trong buổi Xuân về, biết đâu có những niềm vui.   

Hãy đọc lời “Tường trình” dưới đây của Nguyễn Hiền-Đức vậy nhé:

(Cảm ơn Phùng Minh Bảo đã giúp chú Ngọc post lên ebook này).

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc.

(Saigon, 29 Tết, sắp đến Giao Thừa Nhâm Dần, 2022)

*   *   *

Nguyễn Hiền-Đức: 

Theo tôi, Cành Mai Sân Trước là một tuyển tập “hoành tráng” và “bề thế” của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Gọi vậy vì cuốn sách bìa cứng, giấy trắng loại tốt, được trình bày khá đẹp với rất nhiều hình minh họa của chính tác giả và thân hữu, gần 650 trang khổ 14,5 x 20,5cm.

Sau Lời Ngỏ, tác giả chia thành các tập:

Tập 1: Gió Heo May Đã Về,

Tập 2: Già Ơi… Chào Bạn!,

Tập 3: Nghĩ Từ Trái Tim,

Tập 4: Những Người Trẻ Lạ Lùng,

Tập 5: Thầy Thuốc Và Bệnh Nhân;

Tập 6: Như Ngàn Thang Thuốc Bổ (Chuyện cười sưu tập).

Tôi rất thích tuyển tập này, nên cách đây hơn 7 năm, sau khi chọn lọc được nhiều bài từ các cuốn sách/bài của ông như: Cành Mai Sân Trước, Gió Heo May Đã Về, Gìa Ơi… Chào Bạn!, Những Người Trẻ Lạ Lùng, Thư Gởi Người Bận Rộn, Nghĩ Từ Trài Tim, Gươm Báu Trao Tay, Ghi Chép Lang Thang, Nhớ Đến Một Người, Như Thị, Ăn Vóc Học Hay, Thư Cho Bé Sơ Sinh Và Những Bài Thơ Khác… tôi sắp xếp theo ý thích của mình để hình thành Tập tuyển Cành Mai Sân Trước này.

Tập tuyển có 2 phần chính:

Phần I: NHỮNG BÀI CỦA BÁC SĨ ĐỖ HỒNG NGỌC

+ Tôi đưa vào tập tuyển những bài đã in trong sách của BS Đỗ Hồng Ngọc, đó là

13 bài trong Gió Heo May Đã Về,

10 bài trong Già Ơi… Chào Bạn!

6 bài trong Nghĩ Từ Trái Tim

và nhiều bài trong Nhớ Đến Một Người, Ghi Chép Lang Thang và Thư Cho Bé Sơ Sinh & Những Bài Thơ Khác.

+ Chỉ đưa Lời Ngỏ Những Người Trẻ Lạ Lùng vì những bài trong cuốn này tôi đã đưa rải rác ở các Tuyển tập Đỗ Hồng Ngọc.

+ Tôi không đưa một số bài trong Thầy Thuốc và Bệnh Nhân vì đã có ở Tuyển tập Câu Chuyện Sức Khỏe. Tôi cũng không đưa những chuyện cười trong Như Ngàn Thang Thuốc Bổ vì tôi đã có trong các tuyển tập trước.

Ngoài ra, tôi cũng đưa thêm bài liên quan đến nội dung cuốn sách và những cảm nhận ngắn của một số tác giả về BS Đỗ Hồng Ngọc.

Phần II. NHỮNG BÀI LIÊN QUAN CỦA NHIỀU TÁC GIẢ

Theo bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, Cành Mai Sân Trước là một tuyển tập dành cho người có tuổi. Vì vậy, ở phần này tôi đưa nhiều bài viết, bài dịch mà tôi đã cố gắng chọn lọc. Những bài viết này của những danh sĩ, học giả, những văn nghệ sĩ nổi tiếng như Dale Carnegie, Dorothy Carnegie, André Maurois, Lâm Ngữ Đường, David Niven, học giả Nguyễn Hiến Lê, bác sĩ Nguyễn Ý Đức, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn và các nhà thơ Bùi Giáng, Tôn Nữ Hỷ Khương, Đỗ Trung Quân. Riêng Thầy Nguyễn Hiến Lê tôi chọn đến 11 bài mà vẫn còn muốn lấy thêm.

Kết hợp với những bài viết dung dị mà sâu sắc, nhỏ nhẹ mà tâm tình, dí dỏm mà từ bi của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc với những bài viết ở phần II Tập tuyển này mong là sẽ mang đến cho những người có tuổi nhiều niềm vui mới, nhiều bông hoa đẹp và những nụ cười tươi.

Tôi xin mượn lời của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc và mấy câu thơ của Bùi Giáng, Tôn Nữ Hỷ Khương để cung kính chúc những người gọi là có tuổi:

– “Thật vậy. Vẫn còn đó, nơi sân trước kia, đêm qua, một cành mai vàng rực rỡ đã nở, báo hiệu một sức sống mãnh liệt vẫn dâng trào… Vậy đó, mùa xuân dù đã phai, cành mai sân trước vẫn nở tươi thắm. Nụ cười vẫn lạc quan, cuộc sống vẫn tích cực, chủ động, và sáng tạo không ngừng nếu những người có tuổi được chuẩn bị trước để hiểu rõ sự đổi thay, để chấp nhận, để điều chỉnh, tưới tẩm những niềm vui cho chính bản thân mình, cùng với sự ý thức giúp đỡ của gia đình và xã hội thì sẽ giúp họ có một cuộc sống đầy chất lượng, nhiều hạnh phúc” (Đỗ Hồng Ngọc).

Xuân khứ bách hoa lạc

Xuân đáo bách hoa khai

Sự trục nhãn tiền quá

Lão tùng đầu thượng lai

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai…

(Mãn Giác thiền sư 1052-1096)

 

Xuân ruỗi trăm hoa rụng

Xuân tới trăm hoa cười

Trước mắt việc đi mãi

Trên đầu già tới rồi

Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết

Đêm qua sân trước một cành mai…

(Ngô Tất Tố dịch)

Mong rằng, nếu tôi lạc đường, thì cung kính mong BS Đỗ Hồng Ngọc “cười trừ” với tấm lòng rộng mở: “Tứ Vô Lượng Tâm” vậy.

…………………………………………………………………………………

Ghi chú: Tập tuyển này tôi đọc, gõ và dàn trang đã lâu lắm rồi. Nay đọc lại thấy cần phải chỉnh sửa nhiều; nhưng thôi hãy cứ giữ nguyên như vậy; xem như kỷ niệm của “Hồi Đó”. Kính mong Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc cười vui và lượng thứ cho những sai sót.

Santa Ana, California

(4 ngày nữa là đến Tết Nguyên Đán, Nhâm Dần rồi).

Kính trình,

Nguyễn Hiền-Đức

 

“CÀNH MAI SÂN TRƯỚC”

TUYỂN TẬP

ĐỖ HỒNG NGỌC

DÀNH CHO NGƯỜI CÓ TUỔI

Do Nguyễn Hiền-Đức sưu tập và trình bày.

Please wait while flipbook is loading. For more related info, FAQs and issues please refer to DearFlip WordPress Flipbook Plugin Help documentation.

Download tại đây

Filed Under: Ghi chép lang thang, Già ơi....chào bạn, Góc nhìn - nhận định, Lõm bõm học Phật, Phật học & Đời sống, Thiền và Sức khỏe

Minh Lê: Học Phật qua thơ Đỗ Hồng Ngọc

01/08/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Học Phật qua thơ Đỗ Hồng Ngọc

Từ trước tới giờ, tôi ít đọc thơ vì tự thấy mình có chút thiếu “hồn thơ lãng mạn”. Dù vậy, tôi là người hâm mộ âm thầm nhiều năm của Bác sỹ Đỗ Hồng Ngọc, không chỉ với sách của Anh mà cả với các bài thơ Anh viết. Anh làm thơ cũng như viết văn, nghiêm túc mà dí dỏm, nhẹ nhàng mà sâu sắc, ngắn gọn mà vô số “ý ở ngoài lời”. Anh còn giảng và viết nhiều bài về Phật pháp rất hay, nhưng tôi thích học Phật qua thơ của Anh hơn.

Như bài “Nỗi nhớ” in trong tập Vòng quanh (NXB Trẻ 1997 tr. 38) chỉ có 6 câu:

“Thôi hết cồn cào

Thôi không quặn thắt

Chỉ còn âm ỉ

Chỉ còn triền miên

Thì thôi cấp tính

Thì đành kinh niên.”

Lần đầu đọc khi còn trẻ, tôi bật cười, nghĩ tác giả chắc “méo mó nghề nghiệp”, tả nỗi nhớ mà cứ như tả cơn đau thể chất vậy, nhưng tác giả cũng thật tài tình, chọn từ và vần điệu làm sao mà người đọc cảm nhận được từ cơn đau ít tới cơn đau nhiều, từ “bệnh” nhẹ tới “bệnh” nặng. Lần thứ hai đọc ở tuổi trung niên, tôi cảm thán tác giả “hiểu đời” ghê, bởi từng trải rồi mới biết “nhớ” cũng đau  “quặn thắt ruột gan” chớ không vừa. Lần thứ ba đọc, tôi liên tưởng tới bài hát “Đưa em tìm động hoa vàng” (nhạc Phạm Duy, lời Phạm Thiên Thư):

“Rằng xưa có gã từ quan,

Lên non tìm động hoa vàng ngủ say

Thôi thì thôi để mặc mây trôi

Ôm trăng đánh giấc bên đồi dạ lan

Thôi thì thôi chỉ là phù vân

Thôi thì thôi nhé có ngần ấy thôi.”

Nỗi nhớ của Phạm Thiên Thư dù nói “chỉ là phù vân, có ngần ấy thôi” sao vẫn có cảm giác day dứt luyến tiếc không đành lòng, dù lặp đi lặp lại “thôi” rất nhiều lần mà vẫn chưa “thôi” thật sự. Đúng là nghệ sỹ mà, cho nên mới… khổ! Ngược lại nỗi nhớ của Đỗ Hồng Ngọc rất tỉnh táo “rằng đau thì biết là đau”, chuyện xác nhận “thì thôi cấp tính thì đành kinh niên” cũng mang vẻ an nhiên. Chính nhờ chấp nhận nỗi đau đó sẽ ở với mình vĩnh viễn mà lòng mình trở nên bình tĩnh hơn để chuyển hóa “rác thành hoa, đau khổ thành an lạc”. Đây chẳng phải “chiếu kiến ngũ uẩn giai không” trong Tâm Kinh đó sao?

Anh Ngọc quê La Gi, còn tôi sinh Phan Thiết, lớn lên ở Nha Trang nên khi tình cờ đọc bài “Giả sử” của Anh, tôi sém chút la lên “ôi bài thơ của đời tôi”:

“Giả sử sóng thần ập vào Nha Trang
Ập vào Mũi Né
Anh chỉ kịp quẳng em lên một chiếc thuyền thúng
Vút qua những ngọn dừa
Những đồi cát trắng

Em nhớ mang theo đôi quả trứng
Vài nắm cơm
Vài hạt giống
Đừng quên mấy trái ớt xanh…

Biết đâu mai này
Ta làm An Tiêm
Trở về làng cũ
Nơi này ta sẽ gọi là Nha Trang
Nơi kia gọi là Mũi Né…

Cho nên
Sao chẳng sớm mà thương nhau hơn?”

                                                  (4/2011, đăng 13/9/2020 dohongngoc.com)

Hồi nhỏ nhà tôi ở sát biển nên tôi rất sợ sóng thần. Lâu lâu tôi lại nằm mơ thấy sóng thần ập vô cuốn trôi mọi thứ, nghĩ mà rùng mình. Sau khi đọc bài “Giả sử”, tôi viết email cám ơn Anh Ngọc đã giúp tôi hết sợ sóng thần. Anh đùa: “Hết sợ sóng thần vì đã sẵn thuyền thúng ở trong nhà và đã cụ bị sẵn các thứ, nhất là ớt xanh rồi phải không? Dân Phan Thiết có khác!” Trời, sao Anh đi guốc trong bụng tôi vậy? Thì Anh đã chọn mọi thứ chu đáo quá mà: đôi quả trứng đặng sau này còn nở ra gà con nè, vài nắm cơm vắt ăn đỡ đói lòng những ngày “lênh đênh” nè, rồi hạt giống để trồng lại vườn cây nè, có cả mấy trái ớt xiêm xanh – món “tủ” của dân Phan Thiết và Khánh Hòa nữa.

Nói nhỏ nghen, thiệt ra tôi tâm đắc nhứt câu cuối cùng “sao chẳng sớm mà thương nhau hơn?”. Lúc đó, tôi viết cho Anh cách hiểu của tôi như vầy: “Sóng thần, hay sóng cuộc đời có dữ dội cách mấy, mà có một người nắm tay đi với mình, thì có gì phải sợ phải không Anh?” Anh cười không trả lời. Giờ tôi mới nhận ra, cái “thương” mà Anh nói không chỉ là tình yêu trong gia đình mà chính là “tình thương của Bụt” – từ của thiền sư Nhất Hạnh. Đó là “từ bi hỷ xả”, gồm khả năng hiến tặng niềm vui, làm vơi nỗi khổ, tình thương mang lại hạnh phúc và tự do. Vậy sao không “sớm mà thương nhau hơn” thì đời sẽ thêm nhiều an lạc, đợi chi tới sóng thần?

Tháng 12/2020, Anh Ngọc viết bài “Biết rồi còn hỏi!”:

“Tôi ngồi trước tượng Phật

Viết lăng nhăng mỗi ngày

Để khi nào bí thì hỏi

Phật tủm tỉm cười

“Biết rồi còn hỏi!”

 

Sáng ra đường phố

Từng bước như đi dạo

Không thấy nở hoa sen

Ngước mắt nhìn lên

Một tấm biển to chữ đỏ

“Đồ ngu cao cấp”

Cửa hàng Fashion

Rơi dấu hỏi…

 

Đâu cần trốn ra khỏi cổng thành

Xóm nghèo nơi tôi ở

Bên phải là nhà bảo sanh

Bên trái là bệnh viện

Đằng kia lớp dưỡng sinh

Đằng nọ nhà quàn vô lượng thọ…

 

Hằng ngày nghe tiếng khóc trẻ con

Nghe tiếng rên người lớn

Tôi nhắc Phật đừng buồn

Không được quạu quọ, không được cau có

Không được nhăn nhó…

Phật cười

“Phải! Nó vậy đó”.”

(dohongngoc.com 4/12/2020)

Bài này dễ hiểu, nhưng hiểu hết lại không dễ. Mấy chỗ “bí thì hỏi”, mà Phật chỉ tủm tỉm “biết rồi còn hỏi!” nghe đơn giản chớ đúng phóc nha. Càng sống lâu càng có nhiều chuyện tưởng “bí”, thiệt ra mình đã “biết” rồi, chẳng qua tâm không đủ tịnh để “hiểu” thôi. Khổ thơ thứ hai chắc tác giả vừa viết vừa cười mím chi, té ra “thiếu dấu hỏi” thì thành “ngu”, mà đời này, thiếu gì chuyện thắc mắc mà không dám hỏi, nên mình chắc “ngu trường kỳ”. Khổ thứ ba tả “sinh, lão, bệnh, tử” – những cảnh ngay trước mắt ta đó thôi. Rồi khổ thơ cuối cùng, giữa “sinh, lão, bệnh, tử” vẫn giữ được tâm an, không “buồn, quạu quọ, cau có, nhăn nhó” thì thành “bụt” rồi, “bụt” là vậy đó! Từ ngữ bình dị, nhịp thơ thong thả, tự nhiên không gò bó nhưng âm điệu bằng trắc nhịp nhàng, láy vần rất duyên dáng. Đây là một trong những bài tôi thích nhứt trong thơ Anh Ngọc bởi nó đại diện cho sự đặc biệt hiếm thấy trong thơ: nội dung dí dỏm mà thâm thúy, từ ngữ, tiết tấu, âm vần đều được chọn rất nghệ thuật mà vẫn trôi chảy tự nhiên mới hay.

Người ta hay nói “thơ là tiếng lòng”. Đã là âm thanh thì phải có tần số, và cái radio trong mỗi chúng ta tùy theo tuổi tác, kinh nghiệm sống và tính cách mà “bắt” được những tần số khác nhau. May mắn thay, cái radio cọc cạch của tôi lại bắt được chút xíu “tần số” trong thơ Đỗ Hồng Ngọc, và từ đó học được chút xíu “suy nghĩ của Bụt” từ thơ Anh.

Mong Anh luôn khỏe, an lạc và tiếp tục sáng tác thêm nhiều “tiếng lòng” truyền cảm!

 

Minh Lê (Suối Tiên, 7/2021)

 

Filed Under: Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống, Vài đoạn hồi ký

TẠP GHI (Lõm bõm… Kỳ 4b)

22/03/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

TẠP GHI (Lõm bõm… Kỳ 4b)

Mười Hạnh Phổ Hiền

(tiếp theo)

 

6. Thỉnh Phật chuyển pháp luân (To request the Buddhas to continue teaching).

Pháp luân là “Bánh xe pháp”. Bánh xe pháp vẫn phải luôn chuyển không ngừng bởi đời sống như dòng sông vẫn trôi chảy. Cũng vẫn Tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến đó thôi, cũng vẫn thất tình lục dục đó thôi, nhưng đã mỗi thời mỗi khác. Xưa cung tên giáo mác nay hỏa tiễn hạt nhân… Xưa bệnh tật khu trú từng vùng, nay lan tràn trong nháy mắt… Thế giới trong lòng bàn tay. Trái đất nóng lên. Môi trường chết ngạt. Thức ăn đầy độc chất. Tin tức đầy fake news, deepfake… Xưa, lên núi cao tìm thầy, vào hang sâu tìm kinh sách, chỉ một câu một chữ thôi đủ ngộ. Nay bấm cái nút, thiên kinh vạn quyển, tẩu hỏa nhập ma. Sinh học tạo  con người từ ADN, công nghệ gắn thêm AI (trí thông mình nhân tạo), robot điều khiển con người từ xa…

Duy-ma-cật nói: Phải nắm bắt thật đúng đối tượng thì “thuyết pháp” mới có hiệu quả. Phật dạy “Ta chẳng có pháp gì để thuyết cả!”.  Vì “Pháp thuận với không, tùy theo vô tướng, ứng với vô tác. Pháp lìa khỏi tốt và xấu, thêm và bớt, sinh và diệt… há thuyết diễn được sao?”.

Lục tổ Huệ Năng nói: “Thiện tri thức, đạo cần phải linh động, chớ nên làm cho ngăn trệ. Tâm chẳng trụ pháp thì đạo được linh động, tâm nếu trụ pháp, gọi là tự trói”.

Cho nên vẫn phải Thỉnh Phật chuyển pháp luân thôi.

7. Thỉnh Phật trụ thế (To request the Buddhas to remain in the world).

Người có “chứng ngộ” thường dễ thấy “phạm hạnh đã tròn đầy”, muốn “đặt gánh nặng xuống, bước vào cõi vô sanh, niết bàn tịch diệt…”. Nhưng, thế thì còn ai để lặn lội trong cõi Ta-bà đầy ô trược này mà “hóa độ” chúng sanh? Cho nên phải thỉnh Phật trụ thế.

Bồ-tát thì phải “bất tận hữu vi, bất trụ vô vi”. Hữu vi thì vô thường, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ như điện, giả tạm, hư vọng, dẫn đến nhàm chán, buông bỏ. Nhưng Bồ-tát thì không. Phải chịu khó ở lại giúp đời giúp người “hộ trì chánh pháp”. “Vào sinh tử luân hồi như vào vườn cảnh, đức tánh vô niệm, trí huệ thực tướng, nhưng chẳng bỏ pháp thế gian. Từ bi hỷ xả mà không phóng dật, tu học lẽ Không mà không chấp không, quán vô thường mà không chán cội lành, quán  phiền não mà không đoạn phiền não”.

Trí bất đắc hữu vô/ Nhi hưng đại bi tâm.    

8. Thường tùy Phật học (To follow the teachings of the Buddhas at all times).

Phật không dạy nhiều và thậm chí còn nói “Ta chẳng có pháp gì để thuyết cả”! Nhưng chư Phật đều nhắc nhở Chư ác mạc tác/ Chúng thiện phụng hành/ Tự tịnh kỳ ý (thị chư Phật giáo).  Nghĩa là việc ác đừng làm, việc thiện thì làm. Quan trọng nhất là phải “tự tịnh kỳ ý”. Cái mới khó! Thanh tịnh bổn nhiên/ Tùy chúng sanh tâm/ Chu biến pháp giới, ấy chẳng qua vì nghiệp mà thấy vậy, ra vậy. Phải làm cho tâm được trở về với cái “thanh tịnh bổn nhiên” ấy của mình vốn sẵn. Cái khó ở chỗ phải tự mình làm, tự mình “tịnh cái ý” của mình chớ không thể nhờ ai giúp được. Chỉ có thể quay về nương tựa chính mình thôi. Tuệ giác, Insight, là cái thấy bên trong. Tìm kiếm đâu xa.  Gia trung hữu bảo hưu tầm mích. Tóm lại, thường tùy Phật học là học chính mình, quay về bên trong mình. Luôn tự hỏi mình đang tham đó ư? đang sân (giận) rồi sao? mê muội đến vậy hả? Thôi nhé.

“Có bốn thứ ma, tám vạn bốn ngàn thứ phiền não làm cho chúng sanh nhọc nhằn, mỏi mệt, chư Phật dùng chính những thứ ấy mà làm Phật sự” (kinh Duy-ma-cật).

Học Phật được vậy thì “sự sự vô ngại”.

Thiện Tài đồng tử trải qua 53 “cửa ải”, ở đâu cũng học, cũng hành đúng pháp, sau cùng thì mới “thõng tay vào chợ” được vậy!

9. Hằng thuận chúng sanh (To accommodate and benefit all living beings).

Chúng sanh bệnh thì mình cũng bệnh như Duy-ma-cật. Đồng bệnh tương lân, mới thấu cảm nhau. Bồ-đề-đạt-ma đã vội xua đuổi, bỏ rơi Lương Võ Đế cũng đáng tiếc.

Huệ Năng khi đã giác ngộ: “Bổn lai vô nhất vật” rồi, đã thấy pháp thân rồi mà cũng mất 15 năm theo cùng nhóm thợ săn, săn thú, uống rượu, bán buôn… Hay là … ông cố tình xâm nhập để quan sát, học hỏi, tu tập? Nghe nói tuy sống chung với nhóm thợ săn 15 năm như vậy, ông chưa từng săn thú, ăn thịt, uống rượu?  Biết đâu ông cũng đã “độ” được năm ba. Huệ Năng nói: “Ngoài không dính mắc là thiền, trong không lay động là định…”.

Chúng sanh nào thì Bồ tát đó. Chúng sanh ở trong Bồ tát, Bồ tát ở trong chúng sanh. “Đồng nhi bất hòa”. Quán Thế Âm có 32 ứng hóa thân để biến hiện tùy cơ. Gặp vua quan thì vua quan. Gặp ốm đau bệnh hoạn thì ốm đau bệnh hoạn…  Mà bên trong vẫn là Bồ-tát Quán Thế Âm như như bất động, với bình cam lồ, với nhành dương liễu, với “vô úy thí”…

Tham vấn viên trong công tác xã hội ngày nay đóng vai kẻ mại dâm, người nghiện ma túy để hòa nhập với đối tượng, giúp họ giải thoát, bằng kỹ năng tham vấn với  tôn trọng, chân thành, thấu cảm, lắng nghe…

10. Phổ giai hồi hướng (To transfer all merits and virtues to benefit all beings).

“Hồi hướng” là chia sẻ. “Phổ” là cùng khắp, rộng lớn . Chia sẻ cái gì? Cái công đức. Phước đức cũng chia sẻ được, nhưng phước đức thì hữu lậu, như Lương Võ Đế đúc chuông lớn, xây chùa to, nuôi tăng đoàn… cũng chẳng có tí “công đức” nào bị Bồ-đề-đạt-ma quở. Có thể ông vua còn vênh váo, tự mãn, với cái ngã to đùng của mình thì càng đáng trách, trong khi công đức là cái tu bên trong, để có tuệ giác và vô ngã.  “Tu tánh” là công. “Tu thân” là đức.  Huệ Năng nói “chánh niệm không gián đoạn là công, tâm bình đẳng, chánh trực là đức”.

Có người hỏi Phật vậy chia sẻ cái phước có làm giảm bớt phước của mình đi không? Phật nói không. Phước như ngọn đuốc, càng “mồi” cho trăm ngàn ngọn đuốc khác để cùng sáng lên vẫn không làm tổn hao ngọn lửa của đuốc.

Công đức cũng vậy. Càng hồi hướng càng thêm công đức.

(Internet)

“Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử và chúng sanh

Đều trọn thành Phật đạo”.

 

Đỗ Hồng Ngọc

(21.03.2021)

 

………………………………………..

Ghi chú: Lời dịch “10 Hạnh nguyện Phổ Hiền” tiếng Anh dựa theo en.wikipedia.org/wiki/Samantabhadra

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Lõm bõm học Phật, Phật học & Đời sống

Tạp Ghi (lõm bõm… kỳ 4): Mười Hạnh Phổ Hiền

15/03/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc 2 Comments

 

TẠP GHI (Lõm bõm… kỳ 4a)

Mười hạnh Phổ Hiền

“Bốn lời nguyện rộng lớn” với vô biên, vô tận, vô lượng… gì gì đó chẳng qua cũng chỉ là nguyện, là ước, là mong… Nói khác đi, nó chỉ mới dừng lại ở “thái độ”, phải chuyển thành “hành vi” (hành động) mới có thể thành… chánh quả được (Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành)!

Con đường “thay đổi hành vi” từ Biết đến Muốn, rồi từ Muốn đến Làm không dễ chút nào (KAP = Knowledge/ Attitude/ Practice), rồi từ Làm đến… Duy trì… quả là gian khó. Mà Tu thì phải Hành, chớ không thì chỉ là cái “đãy sách”.

Nhưng, hành cách nào?

Phần lớn các chùa hiện nay thường thấy nơi chánh điện có tượng Phật Thích-ca đặt ở giữa, bên trái có Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, cưỡi sư tử, tay cầm kiếm; bên trái có Bồ-tát Phổ Hiền, cưỡi voi sáu ngà, tay cầm đóa hoa sen.

Ai nghĩ ra các hình tượng tượng trưng này thật là hay để nhắc học Phật là con đường của Từ-bi và Trí-tuệ. Văn-thù (Manjusri) là Bồ-tát của Trí-tuệ, tay cầm kiếm chặt đứt phiền não, tiếng rống sư tử làm tắt ngấm vô minh. Phổ Hiền (Samantabhadra) là Bồ-tát của Từ-bi, cưỡi voi sáu ngà, chở bao nặng nhọc của bước đường thực hành và hoằng pháp. Tại sao voi 6 ngà? Tượng trưng cho Lục Ba-la-mật: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí huệ.  Thú vị là tượng Văn-thù luôn ở bên trái còn Phổ Hiền thì luôn ở bên phải Phật Thích-ca. Khoa học bây giờ cũng thấy não trái là não của Trí tuệ, não phải là não của Từ Bi. Hồi xa xưa đó không ngờ đã phát triển nền Khoa học não bộ (Neurosciences) đến vậy!

(Internet)

Phổ là rộng, phổ quát (Universal) còn Hiền là Đức hạnh (Great conduct, Virtue, Goodness). Bồ tát Phổ Hiền đã làm một bảng Hướng dẫn thưc hành (Guideline in Practising Buddhism) gọi là Mười Hạnh Phổ Hiền rất cụ thể. Học 10 hạnh này, mỗi ngày một chút thôi cũng đủ rồi vậy.

 

  1. Lễ kính Chư Phật.(To pay homage and respect to all Buddhas).

« Chư » Phật, chớ chẳng phải chỉ có một vị Phật duy nhất. Phật nhiều vô kể. Phật khắp mười phương. Khắp tam thiên đại thiên thế giới, cả 3 thời quá khứ hiện tại vị lai, thời nào cũng có Phật, ở đâu cũng có Phật. Bởi ở đâu cũng có kẻ giác ngộ, lúc nào cũng có kẻ giác ngộ. Nhưng Phật Thích-ca vẫn là vị Phật lịch sử, vị đạo sư, kẻ dẫn đường, « bổn sư » của ta… Phật Thích-ca chẳng từng nói Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành đó sao ? Phật Thích-ca cũng đã… không quên giới thiệu cho chúng ta các vị Phật khác ở khắp Đông Tây Nam Bắc để ta lễ kính.

Kinh Pháp Hoa có Bồ-tát Thường Bất Khinh là vị Bồ-tát rất dễ thương, ông luôn vái lạy mọi người và nói với họ rằng: « Xin kính lễ Ngài, vị Phật tương lai ». Mặc cho người ta đánh mắng xua đuổi, ông cũng cứ lễ kính trân trọng chân thành như vậy, cho đến một hôm người ta giật mình nhìn lại, ừ đúng, sao không nhỉ ? Nếu ta tu tập đúng con đường Phật dạy, ta cũng có thể trở thành Phật lắm chứ ? Bài học: Đừng coi khinh mình, đừng coi thường mình, miễn là …

  1. Xưng tán Như Lai (To praise the Thus Come One- Tathagata).

Rất thú vị ở đây là không có chuyện « lễ kính » Như Lai mà chỉ là « xưng tán » (ca ngợi) Như Lai mà thôi. Nói khác đi, Như Lai không việc gì phải lễ kính ! Phật thì « lễ kính » còn Như Lai chỉ « xưng tán ». Lý do ? Như Lai là Như Lai, không phải Phật. Như Lai « vô sở tùng lai diệc vô sở khứ » (chẳng từ đâu đến, chẳng đi về đâu !): Thus come one- Tathagata. Nó vậy là nó vậy. Nhiều khi ta lầm tưởng Phật với Như lai. Nhìn con chim đầy màu sắc kia xem. Nhìn thiên nga và bầy vịt kia xem. Nhìn mây trôi nước chảy kia xem. Như Lai đó. Con ong cái kiến là Như Lai. Đóa hoa muôn màu muôn sắc là Như Lai. Và Phật cũng là… Như Lai khi đã giác ngộ, đã « thấy biết » và từ đó sống trong Như Lai, sống cùng Như Lai, sống với Như Lai. Ta vẫn gọi Phật bằng nhiều danh xưng với lòng tôn kính: Như Lai, Bậc Ứng cúng, Thế gian giải, Thiên Nhân sư…

Kinh nói «vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai » chớ không nói « Vào nhà Phật, mặc áo Phật… », cũng nói « Như Lai thọ lượng » chớ không nói « Phật thọ lượng » (Pháp Hoa).

Nhớ lễ kính chư Phật mà xưng tán Như Lai vậy.

  1. Quảng tu cúng dường (To make abundant offerings. (e.g. give generously)

Quảng tu là rộng tu. Tu mà bó hẹp, bịt mắt chỉ thấy một góc, một phía thì uổng lắm. Phật dạy lúc trước, lúc sau hay lúc giữa cũng chỉ có một, nhưng tùy theo « căn cơ » của đối tượng mà ứng biến, gia giảm cho phù hợp, nên đôi khi dễ tưởng là khác, là « mâu thuẫn ». Có lần trong một buổi thuyết giảng của Phật cả mấy ngàn người đã bỏ đi. Trước khi nhập Niết bàn, Phật còn dặn dò xưa nay Ta chưa hề giảng dạy điều gì cả, chưa hề giảng dạy cho ai cả. Hình như Phật biết trước, thời đại Internet, đầy những fake news. Cái thấy biết của Phật thì như cánh rừng Simsapa kia mà điều nói ra chỉ là nhúm lá trong tay. Phần không nói ra, rồi sẽ tự biết. Phật gợi ý để rồi tự ta phát hiện, tự chứng, tự nội.

« Nhất thiết chủng trí » rồi thì đã có Bình đẳng tánh trí, Diệu quan sát trí. Cúng dường là bố thí. Quảng tu cúng dường là bố thí rộng lớn. Bố thí là hàng đầu trong Lục độ (Bố thí, Trì giới…). Bố thí có tài thí, pháp thí và vô úy thí. Bố thí thân mạng mỗi ngày nhiều  như cát sông Hằng… là tốt nhất (Thiền). Dược Vương Bồ-tát tự đốt cả thân mình, đốt cả hai cánh tay (đốt ở đây là dập tắt tham sân si, mạn, nghi, kiến… để có thân vô ngã, pháp vô ngã) được các vị Phật khen là « món thí hạng nhứt ! »

  1. Sám hối nghiệp chướng (To repent misdeeds and evil karmas).

Chướng là trở ngại, gây phiền phức, gây rắc rối, không trơn tru. Cái gì gây trở ngại, gây chướng vậy ? Nghiệp!

Nghiệp là gì? Phật dạy nghiệp là tài sản của ta. Ta là kẻ thừa tự của nghiệp. Nói khác đi, ta “lãnh đủ” nếu ta tạo nghiệp. Dĩ nhiên đó là ác nghiệp. Thiện nghiệp thì sao? Thì ta không bị chướng, gì cũng thành tựu, tốt đẹp. Nhìn hôm nay biết nghiệp ngày xưa. Nhân hôm nay biết quả ngày sau. Nói khác đi, nó là kết quả, là nguyên nhân của đời sống ta, là hạnh phúc, là khổ đau của kiếp sống ta. Cải nghiệp được không? Được.  Nghiệp do thân khẩu ý mà sinh. Hành vi chỉ là thân và khẩu. Có Thân nghiệp, Khẩu nghiệp, nguồn gốc của sanh sự. Nhưng Ý nghiệp mới thật là ghê gớm. Ý dẫn đầu các pháp. Nhưng Ý thường làm bộ vô can. “Tác ý” là yếu tố chính xác định nghiệp. Người ta có thể tha thứ cho một sự vô tình, nhưng cố ý thì rắc rối to. “Như lý tác ý”, nghĩa là theo “lý” mà làm. Lý đây là cái thấy biết như thực, cái chánh kiến, chánh tư duy, từ đó mà có chánh ngữ, chánh nghiệp. Còn sám hối là hối lỗi, thấy biết chỗ sai quấy mà “từ nay xin chừa”. Ta là chủ nhân của nghiệp. Sám hối cái sai quấy thì không đi vào ác nghiệp và từ đó, nghiệp hết… chướng!

  1. Tùy hỷ công đức (To rejoice in others’ merits and virtues).

Là công đức do tùy hỷ mà có. Tùy hỷ là cái vui theo người. Người có chuyện vui thì mình vui theo. Dĩ nhiên chuyện vui đó phải là chuyện thiện. Nếu là chuyện xấu ác mà vui theo thì nguy. Tùy hỷ thực chất là để chữa trị bệnh đố kỵ, ghen ghét, là một trong những “bản năng” gốc của con người. Đố kỵ ghen ghét cũng vì tham, vì thấy thua sút người ta. Khi không còn tham sân si, khi vô ngã rồi thì không còn ganh ghét đố kỵ nữa. Tùy hỷ mà giả đò, tùy hỷ mà không thực lòng, tùy hỷ mà hùa theo thì không phải là tùy hỷ. Sẽ chẳng có “công đức” gì ở đây! Thứ tùy hỷ giả, nói theo, làm vui lòng người, khen bừa cho người vui thì chưa gọi là tùy hỷ. Nịnh càng không phải là tùy hỷ. Cho nên phải coi chừng tùy hỷ. Coi chừng lời tùy hỷ, kẻ tùy hỷ. Ái ngữ không phải là tùy hỷ. Chánh ngữ mới đúng. Có chánh kiến chánh tư duy thì mới có chánh ngữ. Quả là không dễ.

Đỗ Hồng Ngọc

(còn tiếp)

Filed Under: Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định, Phật học & Đời sống

TẠP GHI (Lõm bõm…) kỳ 3

01/03/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc 1 Comment

 

TẠP GHI  kỳ 3

(Lõm bõm…)

 “4 lời nguyện rộng lớn”

 

Không biết ai là người đã viết nên “4 lời nguyện rộng lớn” (tứ hoằng thệ nguyện) này nhưng từ thời Lục tổ Huệ Năng (thế kỷ VII) đã thấy đề cập và cho đến nay hằng ngày các tu sĩ cũng như cư sĩ theo con đường của Phật đều tụng niệm như một lời nhắc nhở để… đừng bao giờ quên:

 

Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ

Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn

Pháp môn vô lượng thệ nguyện học

Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành

Chúng sanh thì “vô biên”, phiền não thì “vô tận”, pháp môn thì “vô lượng” còn Phật đạo thì “vô thượng”…

Chuyện kể có vị thiền sinh được thầy cho có một chữ làm “công án” để mà nghiền ngẫm suốt mấy năm trời: “Vô”! Đọc Bát-nhã Tâm Kinh thấy toàn… vô: “Vô sắc, vô thọ… vô nhãn nhĩ… vô vô minh, vô khổ tập diệt đạo, vô trí diệc vô đắc…”.

………………………………………….

Nhưng, tại sao chúng sanh thì vô biên?

Vô biên bởi vì không thể đếm, không thể đo được.

Sợi tóc trên đầu cũng đếm được, các ngôi sao trong vũ trụ cách xa hàng triệu năm ánh sáng cũng đo được… Còn chúng sanh thì chịu!

Bởi “chúng” “sanh” ở trong tâm. Mà tâm ở đâu thì không biết. Không ngằn mé. Không biên giới. Ngồi đây mà tức khắc đã có thể có mặt ở chân trời góc biển, ở bên kia nửa địa cầu, ở cả bên kia thế giới, với “những người muôn năm cũ”…

Vậy làm sao “độ” được? Dễ thôi. Trong kinh Kim Cang, Phật nói: “chúng sanh tức phi chúng sanh thị danh chúng sanh” (chúng sanh tức không phải chúng sanh, chỉ tạm gọi là chúng sanh). Và Bồ-tát thì phải “… diệt độ tất cả các loại chúng sanh, đưa vào vô dư Niết bàn” “mà thiệt ra không có chúng sanh nào được diệt độ cả”.

Nghĩa là chỉ cần làm “tắt ngấm” tham sân si (Niết bàn) thì chúng sanh đã được… diệt độ! Mà, lúc đó đâu còn “chúng” nào “sanh” ra nữa đâu, nên nói không có chúng sanh nào được diệt độ. Tóm lại, chúng sanh do ta bày ra, do ta vẽ ra… để tự làm khổ ta thì ta “tự diệt độ” lấy. Chả ai giúp mình đâu!

Lục tổ Huệ Năng nói gọn: “Tự tâm chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”.

…………………………………………..

Tại sao phiền não lại vô tận?

Vô tận nghĩa là không… dứt được, không hết được. Nó cứ liên miên… bất tận.  Thiệt ra phiền não cũng là một “pháp”, nó cũng “sanh trụ dị diệt”, nhưng nó liên miên là vì nó “phan duyên”, dắt díu nhau. Không ư? Khi xảy ra một chuyện phiền não nào đó thì nó dắt dây dắt nhợ, chuyện xưa chuyện sau… lải nhải hoài không dứt!

Nhưng phiền não… cũng rất cần thiết đó chớ! Phiền não là Bồ đề mà! Không có phiền não thì ta không nhận ra Bồ đề, ta cứ để mình “trôi lăn” mãi trong khổ đau thôi. Cũng như nhờ có đau bụng mà ta biết bị “viêm ruột thừa” để kịp thời đi mổ!

Có thể “đoạn” được không? Được. Cái khó là thấy biết nguyên nhân của phiền não. Thường thì do tham, sân, si… mà ra. “Đoạn” (cắt đứt) được không là tùy tâm ta mà thôi.

Lục tổ Huệ Năng bảo: Tự tâm phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.

…………………………………

Tại sao Pháp môn thì vô lượng?

Vô lượng nghĩa là vô số, nhiều đếm không xuể! Chi nhiều vậy? Là bởi vì mỗi pháp môn “trị” một thứ phiền não. Mà phiền não thì vô tận nên pháp môn cũng phải… vô tận. Có người chịu khó… đếm thử, thấy có tám vạn bốn ngàn pháp môn! Thế mà “thệ nguyện” học cho hết. Tẩu hỏa nhập ma là phải thôi! Tham quá mà. Thiệt ra, tùy theo căn cơ mỗi người mà chọn pháp môn cho phù hợp. Nói khác đi, tùy bệnh mà bốc thuốc. Cần thầy giỏi, chẩn đoán chính xác, chớ không phải thầy hù dọa làm cho người ta sợ hãi, lệ thuộc. Một “chứng” đau bụng có hàng trăm thứ bệnh,  một chứng nóng sốt có hàng trăm thứ bệnh… Vì thế mà có tám vạn bốn ngàn thứ thuốc… ở trong Pharmacy. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) phải đề ra một danh mục “Thuốc thiết yếu” chừng vài trăm món để hướng dẫn sử dụng… Một “hoạt chất” (principe actif) của thuốc gốc có thể có hàng chục loại tên thương mại khác nhau dễ làm quáng mắt. Thầy  thuốc có thể tùy tâm lý người bệnh mà ‘bào chế” sao cho phù hợp.

“Thuốc thiết yếu” ở đây là Tứ diệu đế, Bát chánh đạo, Thập nhị nhân duyên, Bát nhã, Lục Ba-la-mật… vậy.

Và nhớ, “Pháp môn” là cửa đi vào Pháp, để thấy Tánh.

Cho nên Lục tổ Huệ Năng dạy:

Tự tánh Pháp môn vô lượng thệ nguyện học.

……………………………………………

Tại sao Phật đạo lại vô thượng?

Phật chưa bao giờ nói đạo ta vô thượng, ta là giáo chủ… Chỉ nói ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành… Và dạy: Đừng vội tin ta, đừng vội tin ai cả. Hãy đến thử đi rồi biết.

Phật đạo vô thượng ở đây không có nghĩa là… cao nhất mà chỉ có nghĩa là “khó nhất”! Thật vậy. Kinh Duy Ma Cật có một câu hỏi hay? Thế nào là Phật đạo? Trả lời: Phật đạo là phi đạo! “Phi đạo” có nghĩa là ngược chiều, ngược lại con đường bình thường của nhân sinh. Giàu sang phú quý, vợ đẹp con khôn, công danh vinh hiển… chẳng phải là “con đường” của kiếp nhân sinh ư? Vậy mà Thái tử Tất-đạt-đa bỏ hết, đang đêm trốn ra khỏi cổng thành, lên rừng, sống đời khổ hạnh, nhịn đói, nhịn khát, nhịn thở, ngủ trong nghĩa địa… Tóm lại là lội dòng nước ngược. Người theo Phật đạo chấp nhận gian khổ, từ bỏ tham ái, chấp thủ… để giải thoát “luân hồi sanh tử”. Không dễ chút nào là vậy!

Phật đạo cũng là con đường để thành Phật.

Cho nên Lục tổ Huệ Năng nói:

Tự tánh Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

 

Đỗ Hồng Ngọc

28.2.2021

(còn tiếp)

……………………………………………………………………………..

Nguyên Giác (Phan Tấn Hải) góp ý thêm:

Hải góp ý thêm về chữ “pháp môn” — tức là “cửa pháp [để bước vào giải thoát]”. Bên cạnh nghĩa “phương pháp” thường hiểu, trong Thiền Tông còn có nghĩa của chữ “pháp” là “đối tượng của tâm” — tức là, “cửa vào từ đối tượng của tâm” — mà “đối tượng của tâm” thì là vô lượng vô biên, gọi tắt là “84.000 pháp môn”. 

Như thế, pháp môn (cửa pháp) có nghĩa là, “tất cả những gì được thấy, được nghe, được nếm…. được cảm thọ, được tư lường” và tất cả đều là cửa giải thoát. 
Kính chúc anh Ngọc sức khỏe an lành. Thân kính. Hải

 

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Lõm bõm học Phật, Phật học & Đời sống

Tạp Ghi (Lõm bõm kỳ 2)

23/02/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

TẠP GHI (kỳ 2)

(Lõm bõm)

 

Hơi thở

Tại sao phải thở? Thở ở đâu ra? Của ta chăng? Là ta chăng? Không. Nó ở ngoài ta. Nó tự động. Không khí, thứ ta hít thở đó ở đâu không biết, không thấy. Ngoài không gian, bao quanh Trái đất, gồm oxygen, nitrogen và một số khí hiếm. Nó tự động ùa vào phổi ta. Lý do: khi áp suất phổi âm (-) nó ùa vào, lấp đầy, rồi khi phổi đầy, áp suất dương (+) nó lại ùa ra. Nó cóc cần ta. Ta muốn hay không muốn thở nó cũng kệ. Nó cứ phình ra xẹp vào tự động vậy. Chỉ khi nào “lập trình” đã được thực hiện xong, nó… bèn từ giã, cuốn gói lên đường. Nhưng ta cần nó để sống. Thiếu nó, không có nó, chừng 4-5 phút ta chết ngắt. Nhưng hồi ở trong bụng mẹ, ta sống mà chẳng cần nó. Mẹ cho ta dưỡng chất sẵn để lớn nhanh như thổi. Vậy phải chăng có thể sống mà không cần hơi thở như ở trong “bào thai Như Lai”? Có loại sinh vật (vi khuẩn kỵ khí, yếm khí chẳng hạn) sống không cần O2. Cây cỏ (thực vật) cũng không cần oxy mà cần CO2. Có loài như vi khuẩn clostridium khi môi trường thiếu oxy thì nó gom tụ lại, vỏ bọc dày lên… “chịu đựng”, chờ khi có đủ oxy lại sống lại như xưa! Cái đó gọi là “bào tử” (spore). Phải chăng các thiền sư vào Samadhi thì “sống” với trạng thái bào tử, thân thể họ không bị hủy diệt, không bị oxyt hóa? Người ta có thể sống như… đang ở trong bụng mẹ không? Không bị oxyt hóa thì không bị hủy hoại?

Có hai điều chú ý về sinh học: 1. Cơ hoành là cơ chính của hô hấp. Hít thở bằng cơ hoành là thở bụng, một phương pháp rất tốt để chữa lành thân và tâm. 2. Trung khu hô hấp nằm ở hành tủy, bên dưới vỏ não. Phật dạy Anapanasati (Quán niệm hơi thở, An-ban thủ ý, Nhập tức xuất tức niệm) chính là một cách giải phóng vỏ não.

 

Thấy “như thật”

Thấy như thật là thấy cái ly là cái ly, cái chén là cái chén… Nhưng “thấy như thật” cũng lại là thấy cái ly không phải là cái ly, cái chén không phải là cái chén. “Tức phi/ thị danh” thôi – vậy mà không phải vậy, chỉ là “giả danh”. Vì cái tướng, cái danh là giả, cho nên phải thấy được “thực tướng” (vô tướng). Thực tướng là Không, là duyên sinh, là không có tự tánh riêng biệt. Chẳng qua do cái tâm ta gán cho nó, vẽ vời cho nó. “Biến kế sở chấp” là sự tưởng tượng của ta vốn vô cùng phong phú, dẫn tới cái tưởng sai lầm. “Y tha khởi” dẫn tới cái ý sai lầm vì cái danh, cái tên gọi nào đó, khiến ta tưởng thiệt, bị dụ, lầm chết. Cho nên “thấy như thực” phải có Chánh trí. Vượt ra. Vượt lên. Có chánh trí thì thấy Như như, thấy như thực. Nhưng như thực không phải chỉ là không, không gì hết. Thấy như thật là thấy nó là nó, không bị thành kiến ngăn che, không bị cái ngã của ta can thiệp, “phân biệt” nọ kia để rồi đấu đá, tranh giành. Thấy như thực còn có nghĩa là thấy trong một tiến trình sinh-trụ-dị-diệt, thành-trụ-hoại-không, cái “giả/tạm”.

Nhưng, Chân Không mà Diệu Hữu.

Đừng quên.

 

Cái thấy cái nghe

Cái thấy chỉ là … cái thấy.

Cái nghe chỉ là… cái nghe.

Trơ trụi vậy thôi. Không cần gì khác nữa.

Nghĩa là không có “cái ta” trong đó. Khi có cái ta (ngã) trong đó thì tức khắc mọi sự sẽ sinh chuyện. “Ta” thấy, ta nghe thì… khác với “nó” thấy nó nghe…! Mười người trăm ý. Bắt đầu chí chóe. Thượng cẳng tay hạ cẳng chân. Cung tên, giáo mác, hỏa tiễn… hạt nhân từ đó.

Trả cái thấy cái nghe về chính nó, cái sự thấy sự nghe trung tính đó.

Khi cái thấy cái nghe, sự thấy sự nghe trần trụi, được lột hết các lớp vỏ ý niệm khái niệm bọc nhiều tầng lớp quanh nó, nó sẽ tự sáng lên.

Bắt đầu thấy tánh. Tánh nghe. Tánh thấy. Phật đánh một tiếng chuông, hỏi nghe không? Dạ có nghe. Lúc sau, chuông im tiếng. Hỏi nghe không? Dạ không nghe. Lại đánh tiếng chuông lần nữa. Nghe không? Dạ có nghe. Phật cười: Tôi hỏi quý vị có “nghe” không chớ đâu hỏi “có nghe tiếng chuông” không? Lúc không có tiếng chuông các vị vẫn nghe “cái không nghe” đó chớ.

Nói khác đi, cái “tánh nghe” vẫn không… sanh không diệt, không nhơ không sạch, không thêm không bớt. Còn nếu chỉ chăm chăm lo nghe tiếng chuông thì sẽ khen hay quá, tuyệt quá, linh thiêng quá… (và ngược lại). Ý nghĩ trong đầu mỗi người mà được phát ra tiếng thì… sẽ có một cuộc đấu đá tưng bừng!

Vô ngã là Niết bàn ư? Thực ra cái thấy vẫn là cái ta thấy. Cái nghe vẫn là cái ta nghe. Vấn đề là ta không còn dính mắc, không còn tham ái, chấp thủ. Núi vẫn là núi, sông vẫn là sông đó thôi, dù sau 30 năm tu tập!

Khi Phật giơ cành hoa sen lên, mọi người sẽ phân tích tìm hiểu ý nghĩa của cành hoa sen và của sự giơ lên đó của Phật với bao nhiêu là “biến kế sở chấp” bao nhiêu là “y tha khởi”… trong khi chỉ có một mình Ngài Ca-diếp tủm tỉm cười. Thấy rồi. Nó vậy đó. Phật trao ngay “y bát” cho Ca-diếp.

 

Đỗ Hồng Ngọc

23.2.2021

(còn tiếp)

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Lõm bõm học Phật, Phật học & Đời sống

TẠP GHI (Lõm Bõm)

21/02/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc 1 Comment

 

Tạp Ghi

(Lõm bõm)

Tới tuổi 80 tôi mới thấy mình già thiệt. Trước đó chỉ là già giả. Giả bộ già.

Dấu hiệu đầu tiên (triệu chứng) của già thiệt là Quên. Quên khủng khiếp. Quên kỳ cục.

Dấu hiệu đầu tiên của Già thiệt là Nhớ. Nhớ khủng khiếp. Nhớ kỳ cục.

Cho nên, tôi nghĩ phải ghi chép lõm bõm, lai rai một chút những bấy nay ngẫm nghĩ, học hành về Phật pháp cho chính mình, và nếu có thể thì chia sẻ cùng bè bạn thân thiết.

Vậy nha,

Đỗ Hồng Ngọc.

 

Chúng sanh

Một vị Bồ Tát có lời nguyện: “Ngày nào còn một chúng sanh tôi nguyện không thành Phật?”

Vậy chẳng lẽ ông chế bom khinh khí, bom nguyên tử, bom vi trùng… tiêu diệt hết mọi loài để chỉ còn một mình mình trên thế gian này ư?

Vấn đề do đó phải hiểu “chúng sanh” là gì? “Chúng” là nhiều, “sanh” là sanh ra.

Cái gì do nhiều yếu tố (chúng) duyên hợp với nhau mà thành (sanh) thì gọi là… “chúng sanh”. Bản thân ta do ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) thì đó là một… chúng sanh.

Nhưng những ý tưởng trong đầu não ta cũng là những chúng sanh. Một niệm khởi lên là một chúng sanh. Ta bị cuốn hút vào đó, “phan duyên” mải miết không dừng được, không thoát được. Cho nên “diệt độ chúng sanh” là khi không còn khởi niệm. “Vô niệm”.

Ta mất ngủ, ta lo lắng, ta âu sầu, dằn vặt… khổ đau vì trăm mối tơ vò, là bởi “chúng” “sanh” ra nhiều quá đó!

Phải chăng thực hiện được lời nguyện dễ thương này của vị Bồ Tát thì sẽ được ngủ yên, bớt lo lắng, trầm cảm… vì không còn “chúng sanh” nào cựa quậy trong tâm ta nữa. Chẳng cũng khoái ru?

 

Bố thí thân mạng

“Bố thí thân mạng mỗi ngày nhiều như cát sông Hằng” được không?

Được. Nhưng thân mạng đâu mà nhiều thế?

Bố thí là xả, buông. Mỗi hơi thở vào ra của ta là một kiếp sống. Một “thân mạng”.

Mà ta có cả 3 “thân”: Báo thân, Ứng thân và Pháp thân.

Báo thân là cái thân xác của ta, hình thành từ muôn ngàn tỷ tế bào. Mỗi tế bào vốn là một sinh vật, cũng ăn cũng thở, cũng tạo năng lượng để sinh tồn, hoạt động, cũng tự hủy diệt và thay mới. Ta không muốn thay cũng không được. Nó quá date, nó hết xài, nó tự thay.

Ứng thân thì tùy cơ ứng biến, như Tôn Hành Giả nhổ sợi lông thổi phù một cái ra trăm ngàn Tôn Hành Giả múa may quay cuồng.

Pháp thân thì… thực chất là năng lượng, không chỉ là sóng là hạt…, mà phải vượt qua bờ bên kia (gate, gate, paragate…) để thấy “bổn lai vô nhất vật”…

Chừng ấy “thân mạng” không nhiều như cát sông Hằng ư?

Chỉ trong chánh định (samadhi) mới thấy cái sự bố thí, buông xả mênh mông đó.

 

Diệt tận định

“Diệt thọ tưởng định” còn gọi là “Diệt tận định” (cửu thiền, thiền thứ 9) là một thứ định có thể “diệt tận” cái thọ và cái tưởng. Sao phải vậy? Vì cái thọ, cái tưởng làm ta khổ. Muốn “diệt khổ”  thì phải diệt cho hết cái thọ cái tưởng đó.

Thọ và tưởng là hai yếu tố của ngũ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức hợp lại thành thân và tâm ta.

Không còn thọ tưởng thì cũng không còn hành thức.

Chỉ còn sắc, Vairocana (Đại Nhật Như Lai).

Trong “Tứ niệm xứ”: Thân thọ tâm pháp thì Thân sinh thọ mà Tâm sinh pháp (tưởng).

Diệt thọ tưởng định là thiền thứ chín (cửu thiền), vượt qua tám thứ thiền sắc và  vô sắc giới.

Từ tứ thiền “xả niệm thanh tịnh” thì có thể đi thẳng vào Diệt tận định. Vì “phi tưởng phi phi tưởng” vẫn còn có tưởng. Diệt thọ tưởng định coi như “đã hết”, chỉ còn hơi thở như sợi chỉ mong manh hoặc gần như ngưng hẳn. Cơ thể quen dần sống trong tình trạng yếm khí (thiếu oxygen), trở thành một “bào tử”.

 

Phật pháp

Pháp không phải do Phật làm ra, dù gọi là Phật pháp, hay như thường nói “Nhất thiết pháp giai thị Phật pháp” (Tất cả các pháp đều là pháp Phật).

Pháp có sẵn đó. Không có Phật thì cũng có pháp. Nó vậy đó. Nhưng ta mờ mịt không nhận ra.  Phật nhờ có cái “thấy biết” (tri kiến Phật) nên được giải thoát, không còn khổ đau và Phật chỉ dạy lại ta con đường (Đạo) giải thoát đó!

Là sao? Là Phật thấy mọi sự vật hiện tượng không phải như cái trình hiện của nó vậy. Cái trình hiện kia chỉ là “giả tạm”. Giả và tạm. Nó không thiệt. Bởi nó do nhiều thứ hợp lại mà thành. Nó có đó mà không phải có đó. Nói khác đi, nó chỉ là cái “tướng” giả (giả tướng)- chớ không phải thực tướng. Thực tướng thì… “vô tướng”.

Vì biết là giả nên nó ra sao kệ nó. Việc gì ta phải buồn lo, sợ hãi. Chẳng những giả, nó còn là “tạm”, nó thay đổi không ngừng. Sanh trụ dị diệt. Không có lúc nào đứng yên. Hãy đợi đấy. Nó sẽ diễn biến, sẽ tiêu vong, như đã lập trình sẵn. Thấy như vậy, Biết như vậy mới gọi là cái thấy biết “như thật” thấy biết chân chánh. Mọi thứ do duyên khởi, duyên sinh.

Chẳng phải lỗi ta, chẳng phải vì ta, cớ sao còn vật vã khổ đau?

Đỗ Hồng Ngọc

21.2.2021

(còn tiếp)

Filed Under: Gì đẹp bằng sen?, Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống

Nguyễn Xuân Thiệp: VỴ ƠI…

19/02/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Thursday, February 18, 2021

VỴ ƠI…

nguyễnxuânthiệp
vỵ ơi
đã nhận được quán văn tôi gởi
tới đâu rồi
hãy là cánh bướm
bay trên đóa tường vy
tôi tặng bạn đó
bông tường vy mà tôi yêu quý
thôi gặp đức bồ đề đạt ma nhé
và nhìn chiếc hài cỏ
treo trên vầng trăng
tôi khóc bạn
như ngày nào tôi khóc đinh cường
NXT
Ngày bạn bè thăm Vỵ ở nursing home

Nguyễn Xuân Thiệp: Phovanblog.blogspot

……………………………………………………………………………….

 

Tiễn Bạn Hiền Nguyễn Lương Vỵ

Nguyễn Thị Khánh Minh

 

Nhạc trầm âm thấm buốt xương da
Không một ai thấy ta vừa chết…*

Anh nói
Tui một đời chỉ học tu thơ
Tim ban sơ nuôi hoài ánh lửa
Soi đêm đài. Điểm mặt ngu ngơ

Một bóng anh đi. Dặm trường con chữ
Từ hòn đất nâu. Bụi ớt quê nhà
Cánh chuồn mỏng kêu mưa. Trời cố xứ

Nơi khấp khểnh chân ra vào của mẹ
Chiều bên thềm. Xiên nắng quái trên vai
Hỏi, thằng Vỵ sao lâu rồi không thấy…

Anh hẹn
Nhất định tui phải về bên mẹ
Áo sờn vai hai bóng một vuông chiều
Như chưa từng, thưa mẹ! Biết bao nhiêu

Biết bao nhiêu! Trả lại đời hư ảo
Chiều mênh mông nghe sương khói mênh mông
Anh bay bổng. Con lần theo nếp áo…

Biết bao nhiêu! Hạt sương rung đầu cỏ
Một chấm ngàn thu. Người đi kẻ ở
Vô tận xa. Ơi vô tận hẹn về

Buổi tàn đông trời cuồng gió nổi
Lạnh nhân gian tung bao nhịp nối
Thôi xưa sau. Quên nhớ. Bước qua cầu

Thẫn thờ đêm sâu. Cong dấu hỏi
Ngẩn ngơ hạt lệ. Dấu than gầy!
Ly biệt ly tan đùa nhau vậy

Ngàn sương dấu hỏi dấu than bay…

Nguyễn thị khánh minh
Santa Ana, 18.2.2021

* Những chữ xiên là thơ Nguyễn Lương Vỵ

…………………………………………………………………………

 

GƯƠM BÁU

Nguyễn Lương Vỵ

 

Đỗ Hồng Ngọc & Nguyễn Lương Vỵ


Nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ coi ngầu vậy mà rất dễ thương, nhỏ hơn mình cả một con… giáp. Hẹn gặp để tặng mình tập thơ dày cộp 700 trang mới in của anh: Tuyển tập THƠ bốn mươi lăm năm (1969-2014). Thơ anh nhiều nét mới, đượm thiền. Tập thơ có nhiều nhận định của những người quen: Bùi Giáng, Cung Tích Biền, Du Tử Lê, Nguyễn Tôn Nhan, Nguyễn Thị Khánh Minh, Trịnh Y Thư, Võ Chân Cửu, Hồ Ngạc Ngữ…
Mình lại đưa Vỵ đến cái quán quen, từng ngồi cafe với Tùng Duyên, Nguyệt Mai dạo nào.

 

(https://www.dohongngoc.com/web/lom-bom-hoc-phat/guom-bau-trao-tay-viet-ve-kim-cang/tho-nguyen-luong-vy-guom-bau/)

GƯƠM BÁU

Nguyễn Lương Vỵ

Tặng Bs Đỗ Hồng Ngọc
Nhân đọc “Gươm Báu Trao Tay”

A! Gươm báu Kim Cang
Bát Nhã Ba La Mật
Tâm kinh hiện tánh Phật
Thấu Ngũ Uẩn Giai Không
Sương trong vắt mênh mông
Tuyết đỏ ngời diệu nghĩa
Hạt bụi trùm thiên địa
Giây phút hóa thiên thu

A! Ưng Vô Sở Trụ… (*)
Vạn pháp nụ sen cười
Phương Ý vẹn mười mươi
Tròn vành trăng thinh lặng
Chớp âm trên đỉnh nắng
Rền vang trong tịch liêu
Chiếc lá rụng trong chiều
Núi ngồi nghe đá hát

A! Quay về chơn tâm
Chuông đưa xanh linh ngữ
Bái vọng mây thiền tự
Tri ân tuệ nhãn kinh
Vượt lên bóng với hình
Như nhiên liền sáng tỏ
Đất trời trong lá cỏ
Đáy hồ reo thiên cao…

NLV
05.2015
(*)Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm (Ở cái nơi chẳng trụ vào đâu cả mà sanh tâm).
Trích từ kinh Kim Cang.

Filed Under: Gì đẹp bằng sen?, Phật học & Đời sống

Truyện Phan Tấn Hải: QUÊN NHAU LÀ CHUYỆN KHÓ

12/02/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Quên nhau là chuyện khó

Truyện ngắn Phan Tấn Hải

 

Lần đó gặp lại cũng lạ. Có vẻ như những gì gặp gỡ và chia tay đều là tiền định. Lúc đó là khoảng năm 1999, hay 2000; nhiều người lên cơn sốt thiên niên kỷ gì đó, kiểu như sắp tận thế hay trời long đất lở gì đó. Tôi dự buổi thuyết pháp của Đức Đạt Lai Lạt Ma ở thành phố Pasadena, thuộc quận Los Angeles, và gặp lại cô nàng.
Nói cho đúng, chính cô nàng gặp lại tôi, vì trong đám đông nhiều ngàn người lúc rời hội trường, Mai đã gọi tên tôi và đưa tay lên thật cao để vẫy, ra dấu. Cũng lạ, làm thế nào sau nhiều thập niên xa nhau, tưởng như biệt tăm và cách mấy bờ đại dương, người ta lại có thể nhận ra nhau trong một đám đông nhiều ngàn người.
Tôi không nghĩ ra nổi; sau đó, tôi thú thật với cô nàng rằng tôi không thể nhận ra nàng trong đám đông như thế, tuy rằng nàng rất là độc đáo. Lúc đó, tôi nói với Mai, độc đáo nghĩa là em đẹp tuyệt vời, chỉ nhìn em thế này, anh quên hết những lời dạy của Đức Đạt Lai Lạt Ma mới nói hai tiếng đồng hồ vừa qua.
Từ Pháp hội Pasadena tới khi tôi viết những dòng này cũng đã mười mấy năm rồi, nhưng hình ảnh nàng vẫn đôi khi thoang thoảng hiện trong mơ, trong trí nhớ tôi mơ hồ như khói, phả lên một cặp môi son không đầy đặn, và đôi mắt nàng đầy các nỗi xao xuyến về cuộc đời. Cặp môi son và đôi mắt. Vâng, đúng vậy. Sau này tôi nghĩ, trong phim cũng không thể đẹp như hình ảnh tôi nhìn nàng sau Pháp hội đó.
Tôi lúc đó nói, có lẽ vì hôm đó tôi mặc một chiếc áo cũ kỹ, như dường sờn vai và khuỷu tay, nên dễ được nhận ra giữa những người chung quanh hầu hết mặc thứ trang phục để chụp hình – cần nói rằng, thời điểm đó, không có nhiều buổi thuyết pháp của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Những năm đó, Internet còn thô sơ, chậm rì, không nhiều trang mạng, cho nên tới dự thuyết pháp của Ngài cũng là cơ hội để viết những bản tin riêng.
Mai nhìn vào mắt tôi. Lúc đó, hai đứa rủ nhau vào một tiệm kem nơi lối ra phố chính Pasadena. Tôi nhận ra những nếp nhăn bên viền mắt nàng. Mai nói, trời ạ, anh phải biết rằng Mai ngó anh là nhận ra liền chứ, cho dù có đứng thật xa, có đứng nhìn anh xuyên qua trăm sông nghìn núi. Sau này, tôi chôm bốn chữ này của nàng, đưa vào thơ, chỉ làm cho khác một chút. Nhưng tôi biết, không thể đưa đôi mắt và cặp môi son này vào thơ nổi; có lần tôi nói, nếu đưa hình ảnh của em vào thơ được, chữ tới một lúc nào đó sẽ ngún lửa và thiêu rụi các tiệm sách. Xong rồi, tôi nói, giỡn mà.
Tôi thích kiểu nói “trăm sông nghìn núi” của nàng, kiểu chữ “nghìn” thay vì chữ “ngàn,” cho dù hai đứa đều sinh ra ở Sài Gòn. Giọng Bắc của cô nàng không đổi, nhưng tôi biết, giọng Sài Gòn của tôi là pha đủ thứ rồi.
Từ lâu rồi, tôi không thể nhìn xa, đúng ra là đã tập thói quen là không bao giờ bận tâm tới những chuyện chung quanh ở ngoài sự chú tâm của mình. Gọi đó là thiền cũng được; hay chỉ nên gọi đơn giản là thấy nghe hay biết cái quanh mình, và chỉ để ý trong một tầm nhìn rất ngắn thôi, và chỉ nghe cái gì cần nghe thôi. Ngoài ra là chẳng bận tâm làm chi, vì cuộc đời có đủ thứ chuyện, hơi đâu mà nghĩ ngợi, dòm ngó, nghe ngóng chuyện khác cho mệt.

*

Đó cũng là lần đầu tiên tôi lên Pasadena, cách nơi tôi ở khoảng một giờ đồng hồ lái xe. Nhưng chuyện phải đi thì đi; thêm nữa, có tấm vé tham dự đặc biệt từ một người đàn chị trong nghề báo tặng, bảo phải tham dự rồi về viết bài tường thuật buổi thuyết pháp của vị lãnh đạo Phật giáo Tây Tạng. Có vẻ như ai cũng mong đợi rằng tôi phải viết cái gì cho tử tế.
Tôi kể cho Mai nghe chuyện tôi có tấm vé mời đặc biệt, từ người đàn chị cũng là một học trò siêng năng của ngôi chùa Phật giáo Tây Tạng ở Long Beach. Thế là có cơ duyên gặp lại Mai. Cô nàng mặc váy xanh, phủ dài tới qua đầu gối. Tôi nghĩ thầm, thế là già hết rồi; hình ảnh của tôi về Mai trước đó là áo dài trắng học trò, đi xe đạp.
Tôi nói trong khi chồm người qua nửa cái bàn mặt kính của tiệm Dairy Queen, trên đó có sơn đủ thứ hình gì đó để hấp dẫn bọn con nít, như dường nói thầm với nàng rằng người ta mong đợi anh phải viết cái gì cho tử tế đấy, hay là anh làm thơ tặng Mai nhé.
Cô nàng cười, lộ một chút răng khểnh ra, nói lái xe từ San Diego lên Pasadena, nghe anh nói một câu như thế là bay biến hết mệt nhọc rồi.
Tôi nói, Mai đã phạm một điều không nên trong Pháp hội này của ngài Đạt Lai Lạt Ma.
Cô nàng chau môi lại, như dường suy nghĩ, và nói là dự Pháp hội với tâm mình thành kính là tốt rồi, mà có gì là không nên đâu.
Tôi nói, có chớ. Đi dự Pháp hội, mà tô môi son là không nên nhé. Nói xong, tôi nghiêng người ra khỏi bàn, ngó cặp chân của nàng rồi nói thêm, để xem Mai mang giày cao gót cỡ nào, xin nhớ rằng ngày xưa Đức Phật cấm ngồi, cấm nằm giường cao, nghĩa bây giờ là cấm mang giày cao gót nhé. Thực ra, hễ nghĩ tới Mai, tôi vẫn tự nhiên nhớ mơ hồ rằng hồi nhỏ, từ khi còn rất nhỏ, nàng đã ưa đi chân trần. Ngó bàn chân trần của cô bé nhảy cò cò ngoài sân cát là hay chớ. Sau này, tôi cứ lo mãi, hình ảnh đẹp của đời này tràn ngập trong trí nhớ của mình, làm sao tu giải thoát nổi.
Nàng cười. Như dường chưa có ai nói chuyện Đức Phật cấm các cô mang giày cao gót.
Tôi nói thêm, bước ra Pháp hội, không chịu suy nghĩ về lời dạy của Ngài, lại cứ ngó chung quanh để thấy là có một người bạn xưa này. Cũng hỏng nhé.
Nàng nói, Mai biết chắc là anh sẽ tới đây.
Lòng tôi vui kể gì. Thực ra, lúc mới đầu tới là thấy trở ngại rồi. Khi xếp hàng tới lúc vào cổng vào hội trường, nhân viên nơi đây bắt phải gửi máy ảnh, vì không cho ai mang máy ảnh vào hội trường. Hẳn là cảnh sát Mỹ sợ mấy anh gián điệp Hoa Lục ám sát ngài Đạt Lai Lạt Ma, tôi đoán thế. Tôi gửi máy ảnh vào một phòng đặc biệt ngoài hội trường. Sau Pháp hội, mới được lấy máy ảnh ra.
Thời đó, cũng cần nói rằng, chưa hề có smartphone gì cả, cho nên mọi thứ bấy giờ đều đơn giản như cổ tích. Đúng vậy, chuyện y hệt như cổ tích: hình ảnh cô nàng ngồi với tôi trong một tiệm kem ở Pasadena, vào buổi chiều vừa nghe Pháp từ ngài Đạt Lai Lạt Ma. Tôi nghĩ, chỉ thiếu lá vàng rơi thôi, là thành một cuốn phim lãng mạn.
Tôi hỏi chuyện đời riêng. Mai nói rằng nàng bây giờ độc thân, vì cuộc hôn nhân đầu tiên đã tan vỡ, khi chưa kịp có con, vì tính tình dị biệt quá.
Tôi nói, tôi là một nhà báo độc thân, vì tính cũng dị thường, chẳng gần ai được. Tuy nói thế, nhưng trong đầu tôi mơ hồ nghĩ là, phải chi nàng về với tôi cho tới ngày cùng nhau rời cõi trần gian này. Nhung rồi tôi tự cười mình, sao nghĩ mãi linh tinh.
Tôi chợt thấy một sợi tóc bạc bên viền tai bên trái của nàng. Tóc nàng cắt ngắn, nên đâu có giấu nổi. Hóa ra, hai đứa đều vào tuổi ngũ thập cả rồi. Tôi thảng thốt muốn nói lên, rằng ngũ thập tri thiên mệnh rồi đấy, nhưng lại thôi.

*

Vâng, phải kể cho câu chuyện có đầu đuôi một chút.
Mai kém tôi một tuổi. Hai đứa ở cùng xóm, nơi đầu cổng đề-pô đường Nguyễn Thông. Ba tôi và ba của nàng cùng làm cho Sở Hỏa Xa. Ba tôi là trưởng tàu, nên đi theo xe lửa gần như hàng ngày. Còn ba của Mai làm gì đó ở ngay nơi ga Hòa Hưng, nơi có nhiều đầu máy xe lửa đậu lại, có lẽ để sửa chữa hay nghỉ ngơi, nhiều bãi đất trống với cỏ tranh mọc lưa thưa.
Trong trí nhớ ngổn ngang của tôi, vẫn là hình ảnh những cột gỗ dài và những đà sắt nằm nhiều nơi trong khu đất rộng thênh thang, từ cổng đề-pô Nguyễn Thông chạy suốt tới ga Hòa Hưng, rồi tới khu để đầu máy xe lửa bên kia lối ra đường Lê Văn Duyệt, đường này bây giờ đổi tên rồi.
Bình thường đi học về, bọn nhóc cả xóm chúng tôi đi bộ từ ga Hòa Hưng băng đi xuyên qua các ngõ hẻm trong xóm để tới rạp hát Thanh Vân, rồi từ đây băng qua đường là tới trường tiểu học Chí Hòa. Bọn con gái ưa đi riêng với nhau, con trai cũng thế. Đó là một thời đi bộ mệt nghỉ, mang cặp, chứ chưa có kiểu ba-lô như bọn trẻ bây giờ.
Nhà tôi kế bên nhà Mai. Ba của Mai lần đó vắng mặt nhiều ngày, và trông Mai và mẹ rất là lo lắng. Ba tôi nói nhỏ với má tôi, tình cờ tôi nghe được, rằng cảnh sát bắt ông Côn, ba của Mai, vì nghi ngờ là ông rời bỏ Việt Minh nhưng vẫn bí mật hoạt động cho miền Bắc, nên giữ để điều tra. Đó là thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Vài tháng sau, ba của Mai được cho về đời thường, nhưng không làm việc ở ngành xe lửa nữa.
Mỗi buổi trưa đi học về, tôi đi ngang nhà Mai, lại thấy bác Côn ngồi nơi chiếc ghế, loại ghế lắc lư, chờ Mai. Lần nào cũng thế, tôi khoanh tay chào bác Côn, rồi mới băng qua để về nhà. Bác chỉ gật đầu trầm ngâm, tay lúc nào cũng không rời điếu thuốc lá Jade, phà khói liên tục; nhả khói ra cả mũi và miệng. Tóc bác hớt ngắn, hoa râm rồi. Tay bác gân guốc, trong khi điếu thuốc cầm ngắn ngủn làm lộ hẳn bàn tay quá khổ.
Phải nói rằng tôi lúc nào từ trường về nhà cũng đi nhanh, không có chuyện đi về tà tà như Mai và bọn con gái, cũng không kiểu la cà qua các xóm như bọn con trai khác. Bởi vì, tôi mê đọc kinh khủng, và má tôi tôi một tủ sách đủ thứ, từ Phong Thần, Tam Quốc Chí… cho tới Tự Lực Văn Đoàn. Lại nữa, vì ba tôi thường đi theo xe lửa, nên má tôi không muốn tôi đi học về trễ, cứ cho tôi đọc sách thoải mái; thường là má nói, có bài gì ở trường thì làm trước đi, rồi sau đó là bỏ mặc cho tôi ngồi với những cuốn sách trên gác. Do vậy, ngay từ thời lớp ba, lớp tư… tôi đã mang tiếng là khù khờ, vì không ưa la cà, hễ rời trường là thẳng một mạch về nhà.

*

Tôi cũng có một bí mật, nhưng không kể cho Mai biết làm chi. Những ngày cuối tuần, cô bé phải ra sân xi-măng phía sau nhà để giặt đồ, nấu cơm… Thời đó, con gái đã phải làm chuyện nhà đủ thứ, từ tuổi rất nhỏ. Tôi ngồi đọc sách từ trên căn gác, thỉnh thoảng ngó nghiêng xuống sân sau nhà nàng. Chẳng để làm gì cả, tôi cũng chẳng hiểu sao. Thực ra, lúc đó, tôi chỉ là tên nhóc tỳ, ưa ngồi đọc sách, ngó sang sau nhà một nhỏ bạn chỉ là vì cầm lòng chẳng đặng, nên phải ngó thôi.
Cũng trên căn gác gỗ này, một lần tôi bắt gặp ba tôi khóc. Đúng ra, chỉ là ứa nước mắt thôi. Trong những ngày nghỉ, không theo xe lửa, ba ưa ngồi trên căn gác này, vặn tới vặn lui chiếc radio hiệu Philips để nghe các đài BBC, VOA. Giờ phát thanh của các đài này thường là rạng sáng hay chập tối. Những lúc đó, ba ngồi nghiêng tai nghe chiếc radio đặt trên bàn, vặn âm thanh nho nhỏ thôi. Lúc đó tôi nghĩ, có lẽ chính phủ không cấm nghe đài nước ngoài, nhưng hẳn là ba không muốn bị hiểu nhầm như bác Côn hàng xóm. Đất nước chia đôi, nhiều chuyện cho người lớn bận tâm.
Ba tôi gốc người Hà Tĩnh, làm việc trên xe lửa, tới Nha Trang, gặp má tôi, cưới xong là đưa vào Sài Gòn ở. Đó là nhân duyên tôi sinh ra ở Sài Gòn. Thời đó, thỉnh thoảng tôi lại thấy ba nhận các tấm bưu thiếp. Đôi khi ba ứa nước mắt khi đọc bưu thiếp, và đôi khi ngồi nghe radio lại cảm động, nói tôi làm giùm ba ly nước trà; rồi ba chỉnh lại đôi mắt kính, ngó vào mặt số máy radio, dò tìm các làn sóng quốc tế. Có khi thời tiết khí hậu làm khó bắt sóng sao đó, ba lại đẩy chiếc radio hiệu Philips vào góc bàn, rồi lấy chiếc radio hiệu Sony ra dò làn sóng. Tôi chỉ cần nghe giọng ba bùi ngùi là biết đất nước đang có chuyển động gì đó.
Nhiều thập niên sau, sang Hoa Kỳ, tôi mới thấy mình cũng lây tính ưa cảm động đó. Tuy nhiên, chẳng có ai bắt gặp tôi trong các giây phút cảm động tương tự cả, phần vì tôi có mặt ngoài tỉnh táo trong mọi hoàn cảnh – nhà báo là phải thế; có lẽ, chỉ trừ khi đọc tin về Biển Đông mới lộ ra bực mình thôi.
Suýt nữa là quên nói bí mật này: tôi thích nhất là nhìn thấy hình ảnh “con bé Mai” khi làm xong các thứ, là đứng dậy nơi sàn xi-măng, nghiêng người, một tay túm nơi đầu gối hai ống quần, và tay kia cầm chiếc thau nhỏ múc nước tưới vào hai bàn chân rồi chà hai bàn chân vào nhau cho sạch cát đất.
Tôi không hiểu tại sao tôi ưa thích nhìn hình ảnh này. Không phải chuyện hư hỏng tầm bậy gì đâu. Tôi chỉ mơ hồ thấy rằng hình ảnh đó rất đẹp, mà không hiểu tại sao. Không phải vì hai bàn chân xương xẩu của nhỏ Mai; đứng từ gác cao nhìn xuống, làm gì thấy bàn chân xương xẩu được nhỉ. Cũng không phải vì nhỏ Mai nghiêng người để lộ ra cái gì đâu; trời ạ, đã nói là không có chuyện hư hỏng gì mà.
Về sau, nhìn tranh các danh họa thế giới, tôi nhận ra nhiều họa sĩ thích vẽ người phụ nữ đứng nghiêng người. Dĩ nhiên, một vài họa sĩ vẽ người phụ nữ khỏa thân nghiêng người, nhưng đó là chuyện khác. Tôi nghĩ, phải chăng mình cũng có khiếu về hội họa và ưa thích cái bố cục như thế. Chẳng biết.
Sau này đọc Kinh Phật, tôi nghĩ ra rằng chuyện mình ưa ngó hình ảnh nhỏ Mai nghiêng người rửa chân được sách gọi là “tùy phiền não” – nghĩa là, niệm cứ khởi đi, khởi lại về một thứ gì đó. Những khi nhớ ra như thế, tôi lại như mỉm cười, khi nghĩ rằng, có thể, và có lẽ, nếu một hôm nào đó, tôi đưa tay nắm lấy bàn chân của nàng, và khi tay nhận ra bàn chân nàng đầy xương xẩu gầy gò, hẳn là sẽ không bao giờ khởi lên các thứ hình ảnh như thế nữa. Cũng chẳng biết nữa.
Thế rồi bác Côn chết. Lúc đó, Mai học lớp tư, tôi học lớp năm, nghĩa là đều còn nhỏ, chẳng hiểu gì về tử vong ly biệt.
Ba tôi nói là bác Côn chết vì lao phổi, hút thuốc nhiều quá mà. Má tôi nói với ba, không phải đâu, bác Côn hồi ở tù bị đánh dữ quá, chắc mang bệnh hậu. Má của Mai thỉnh một vị sư từ ngôi chùa trong xóm tới làm tang lễ. Ai hỏi, bác gái cũng chỉ bùi ngùi nói là bệnh rồi chết. Câu nói này hẳn là đúng muôn đời cho hầu hết các trường hợp, bệnh thì chết chớ.
Điều tôi nhớ nhất những ngày đó là hình ảnh nhỏ Mai mang khăn tang, tự nhiên đẹp ra hẳn, tự nhiên như thành người lớn, trang nghiêm. Mai không khóc nhiều, nhưng khi nói gì, tự nhiên giọng nghẹn ngào. Cũng lạ, có lúc trên đường đi học, tôi hỏi sao Mai không khóc sụt sùi khi đưa tang ba nhỉ? Mai nói, chỉ vì thấy mọi chuyện như không có thật, giống như mọi chuyện chỉ là giả bộ thôi, giống như trong phim, hay như trong truyện.
Mai cũng kể, tự nhiên rồi thuộc câu thần chú vãng sanh để cầu nguyện cho ba Mai. Cái gì như “Nam mô a di đa bà dạ…”
Tôi nói như an ủi cô bé, nhìn Mai mặc áo tang, mang khăn tang thấy tức cười quá. Tôi ngu dễ sợ, sao lại nói chuyện gì như thế. Đúng ra, tôi không dám nói rằng, cô bé trong bộ tang phục trông đẹp tuyệt vời. Nhưng xin nhớ, chúng tôi lúc đó chỉ là nhóc tỳ, mà thời đó trai gái còn xa nhau kinh khủng: tôi và Mai hệt như các nhân vật trong cuốn truyện cổ tích nằm ở các trang cách biệt, khi trang sách này mở ra, là trang sách kia khép lại. Vậy đó, chúng tôi là hàng xóm, là bạn cùng trường, là bạn ngó xuống từ gác gỗ vườn sau… nhưng vẫn là “bạn trăm sông nghìn núi” – đúng chữ cô nàng ưa nói.
Trời Pasadena sẫm tối. Hai đứa chúng tôi rủ nhau đi bộ, lấy cớ ngồi nghe pháp xong, lại ngồi ăn kem, nên cần đi bộ. Tôi không nhớ là ai rủ ai đi bộ, nhưng dặn nhau là chớ đi xa, chỉ đi vài phút thôi, vì quay lại tìm xe sẽ mệt. Chúng tôi đi dọc trên đường E. Colorado Blvd. về hướng đường Wilson Ave. Cũng chẳng hiểu tại sao lại phải đi trên hướng này. Tôi vẫn nhớ tên đường, vì lúc đó chỉ sợ khi quay lại để lấy xe, mà quên tên đường là hỏng.
Tôi đi bên nàng, bóng ngả dài trên các vuông gạch hè phố. Gió hơi lạnh lạnh. Bất giác, tôi nghĩ, tại sao mình không ôm nàng nhỉ. Có lúc vai tôi chạm vào vai nàng. Tôi nghĩ, phải chi đứng dưới đèn đường, ôm hôn nàng là tuyệt vời nhỉ. Nhiều kiếp sau cũng không quên nổi. Tôi nghĩ, có lẽ vị hộ pháp hộ giới ngăn trở, vì lý do gì đó. Tôi nắm tay nàng, kéo vào nhà sách Barnes & Noble, nói để mua tặng Mai một cuốn sách nhé.
Giữa những hàng kệ sách, Mai nhìn lên các bìa sách. Có khi cầm ra một cuốn, lật vài trang nhìn.
Tôi nói với Mai, tôi muốn tìm tập thơ “Twenty Poems of Love and a Song of Despair” của Pablo Neruda để tặng nàng. Thơ Neruda hay, và bản dịch Anh ngữ của W.S. Merwin đẹp tuyệt vời.
Tôi nhìn vào mắt nàng, nói như thì thầm rằng đây là thơ Neruda nhé, “Tình yêu thì quá ngắn, quên nhau lại quá dài… Love is so short, forgetting is so long.”
Mai nói, anh nhìn thẳng vào mắt Mai nhé, chúng mình chưa từng yêu nhau thì phải.
Tôi lại thấy vài sợi tóc bạc trên đầu Mai. Tôi tự thắc mắc, không lẽ chỉ trong vài phút, tóc bạc mọc nhanh như thế; hay hồi nãy, mình nhìn nàng không kỹ…

*

Mai bước tới khu để thiệp của nhà sách, nhấc lên một tấm thiệp từ ngăn kệ.
Tấm thiệp chỉ có hình một dòng sông, và chiếc ghe không người đang neo nơi bờ.
Tôi nói, thiệp này không có chữ, sao Mai không tìm thiệp có chữ để đỡ mất công viết, mà tặng ai đấy.
Mai nói, thiệp này để tặng anh đấy.
Tôi nhìn dòng sông mở ra trên tay nàng.
Mai đưa tấm thiệp lên môi nàng, in làn son trên môi vào trang trắng trong thiệp, rồi đưa cho tôi.
Tôi cầm thiệp, chưa kịp nhìn kỹ, đã thấy nàng quay lưng, bước vội ra ngoài cửa tiệm sách. Tôi nói vói theo, để anh tìm tập thơ cho Mai đã… nhưng nàng đã mất hút ngoài cửa.
Tôi cầm tấm thiệp có vết môi son, tới xếp hàng nơi quầy, chờ trả tiền. Khi bước ra, nàng đã như biến vào hư vô.
Tôi lái xe từ Pasadena về nhà. Căn phòng đã vắng, như dường vắng thêm. Sách để đầy các góc nhà, đầu tủ, đầu giường, xếp cả bên giường tựa vào vách, nhưng như dường tất cả các cuốn sách đang thì thầm chế giễu tôi, một tên khù khờ, không nắm tay được cô nào trong đời quá một phút đồng hồ. Vào nhà xong, tôi mới nhớ ra là quên máy ảnh nơi tiệm Dairy Queen rồi.
Tôi đặt tấm thiệp môi son, dựng đứng trên bàn, nhìn thấy vết môi son mở ra. Gió từ phố Bolsa tạt từ cửa sổ vào. Người tôi run rẩy, cái lạnh này còn hơn là cái lạnh trăm sông nghìn núi, tôi nghĩ.
Bệnh rồi, tôi nằm trùm mền, ngủ vùi, ngập trong hình ảnh của nàng, mái tóc ngắn với vài sợi bạc, tay xương xẩu, bờ vai nhỏ, tà áo xanh, và vết môi son trên tấm thiệp. Tôi tự nhủ, trước khi thiếp vào giấc ngủ, hóa ra đời mình chưa từng ôm hôn một ai.

*

Hai hôm sau, một bình hoa giao tới tòa soạn, đề tên tôi. Người gửi là Mai, từ San Diego.
Kẹp giữa mấy cành hoa hồng vàng là tấm thiệp nhỏ, với dòng chữ viết tay:
“Cảm ơn anh. Ngày mai em về Việt Nam, xuất gia. Mai.”
Không có địa chỉ nào để tôi trả lời hay tìm tới. Tự nhiên, hình ảnh cô bé năm xưa mang khăn tang hiện ra trong trí nhớ tôi, rồi âm vang tiếng mõ, tiếng kinh tụng, rồi âm đọc giọng Miền Trung của vị sư già, “Nam mô a di đa bà dạ…”
Hình ảnh cô bé chân trần nhảy cò cò ngoài sân cũng hiện lên trong đầu tôi. Tôi tự nhủ, có lẽ, người ta không cần tới thuyền để qua dòng sông sinh tử đâu, cứ mãi nhảy cò cò trong chiếc sân cát tuổi thơ cũng sẽ qua bờ. Tôi nghĩ thế, nhưng không chắc là Phật pháp có ý nào như thế. Chỉ có điều khó hiểu, vì sao những bước nhảy cò cò cứ mãi in sâu trong hồn mình như thế.
Tôi hiểu điều này, và có lẽ kinh cũng nói nơi nào đó: khi đi bộ với nàng trên phố Pasadena, tôi không ôm nàng, không hôn nàng vì ngờ ngợ như có ai ngăn cản, hẳn đó là vị hộ pháp hộ giới. Vì với người phát tâm xuất gia như nàng, có khi chỉ một nụ hôn cũng có thể kéo nàng đi chệch thêm nhiều kiếp sau. Tôi chỉ đoán thôi, về giáo lý thì tôi mù mờ. Ánh đèn trên phố Pasadena vẫn hắt mãi trên trí nhớ của tôi, sau pháp hội của ngài Đạt Lai Lạt Ma.
Nhiều năm sau, khi làm một bài thơ Thiền Ca cho anh bạn Trần Chí Phúc phổ nhạc, tôi có viết câu:
… chờ em, chờ em son nhạt môi, ta lạnh buốt bên sông…
Hình ảnh nàng hiện lên trong dòng chữ đó. Hiện lên trên vết son môi nàng để lại trên tấm thiệp, trên đó chiếc thuyền không người lặng lẽ bên sông. Và để lại trong hồn tôi. Ngày và đêm.
Tôi không nhận được tin gì về nàng nữa, từ đó. Tôi vẫn cầu nguyện cho nàng khi bắt đầu các buổi thiền tập hàng ngày. Và biết rằng, sẽ rất lâu, sẽ còn rất lâu, hình ảnh nàng mới nhạt đi trong tâm mình. Kể cả vết son.

Phan Tấn Hải

(trích từ tập truyện Thiếu nữ trong ngôi nhà bệnh)

(Nguồn: tranthinguyetmai.wordpress.com)

 

Filed Under: Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống

Thêm một Tuổi Mới

30/01/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Thêm một tuổi mới

Đỗ Hồng Ngọc

Có người hỏi vì sao tôi không phải là bác sĩ lão khoa mà lại dám viết về… người già, nào Gió heo may đã về, nào Già ơi chào bạn, nào Già sao cho sướng…? Đúng vậy, tôi là một bác sĩ nhi khoa, bác sĩ của trẻ con, nhưng sở dĩ viết về người già là bởi vì  trước sau gì mấy nhóc nhỏ mà tôi đã và đang khám chữa bệnh cũng sẽ trở thành một người già, một ngày nào đó! Hơn năm mươi năm trước khi tôi thực tập ở bệnh viện Từ Dũ, đã có dịp đỡ đẻ cho một số trẻ sơ sinh, bây giờ nhớ lại, các nhóc đó  tuổi cũng đã “gió heo may” rồi còn gì! Còn mấy bệnh nhi tôi có dịp chữa trị ở Bệnh viện Nhi đồng Saigon và tại phòng mạch hằng mấy chục năm qua thì bây giờ cũng đã lại thấy mang con và cả cháu nữa đến khám bệnh. Cho nên làm gì có chuyện cách ngăn tuổi này tuổi nọ tuổi kia. Cuộc sống như một dòng sông đó thôi.

Lão khoa, nhi khoa…chẳng qua là một cách nói! Có người chưa hai mươi mà đã già…khú đế, có người tám mươi còn phơi phới tuổi xuân. Một thầy thuốc đàn anh của tôi thường nói : “Hãy chăm sóc các cụ từ trong bụng mẹ”! Đúng vậy, đợi các cụ ngáp ngáp rồi mới “tận tình chăm sóc” thì e rằng quá trễ, chẳng giúp ích được gì cho cuộc sống của họ, chẳng giúp các cụ  thêm vui, thêm khoẻ, thêm hạnh phúc…

Tổ chức Sức khoẻ Thế giới  (WHO) khi đưa ra những hướng dẫn cụ thể cho Năm quốc tế người cao tuổi, (1999) cũng đã khuyến cáo muốn cho các cụ được khoẻ mạnh thì phải cho Mẹ…các cụ được dinh dưỡng tốt trong lúc mang thai, trong lúc cho các cụ… bú mớm;  phải chích ngừa đầy đủ các bệnh nguy hiểm ngay từ nhỏ để các cụ không phải chịu cảnh tật nguyền bệnh hoạn sau này; phải dạy dỗ các cụ từ tuổi thiếu niên như không uống rượu, không hút thuốc lá… để các cụ sau này khỏi bị ung thư phổi, viêm phổi tắt nghẽn mạn tính,  xơ gan cổ trướng; giúp các cụ có thói quen tập thể dục, chơi thể thao, ăn uống đúng cách để sau này khỏi bị xơ vữa động mạch, cao huyết áp, tiểu đường v.v…Rồi khi lớn lên thì  tránh các nguy cơ bệnh lây truyền qua đường tình dục, tránh béo phì, loãng xương, thấp khớp…Và dĩ nhiên đảm bảo cho các cụ có một thu nhập hợp lý để không bị lệ thuộc, để sống có phẩm giá, tiếp tục hoạt động theo năng lực, đóng góp kinh nghiệm của mình cho con cháu,  được sự tôn trọng của xã hội, được thấy con thuận cháu hoà, gia đình hạnh phúc. Dĩ nhiên là bản thân các cụ  phải hiểu rõ những chuyển biến tâm sinh lý của mình qua từng lứa tuổi, nhờ đó mà thích nghi, mà điều chỉnh thái độ và hành vi của mình sao cho phù hợp với hoàn cảnh mới, với môi trường mới. Tóm lại, chăm sóc các cụ, nói cách nào đó, thực chất là công tác của … Nhi khoa. Hoặc cũng có thể nói nhi khoa chính là lão khoa, và lão khoa cũng chính là nhi khoa đó vậy! Ngành lão khoa ngày càng phát triển vì tuổi thọ con người ngày càng được nâng cao, không chỉ ở các nước giàu có mà ngay ở cả các nước nghčo cũng vậy là nhờ những tiến bộ của khoa học, của y học, của kiến thức vệ sinh phòng bệnh, chăm sóc sức khoẻ cũng như hiệu quả của sự cải thiện môi trường sống, của chế độ dinh dưỡng hợp lý…Thế nhưng, khi nói đến lão khoa, hình như người ta quá nặng về bệnh hoạn, về tàn phế hơn là đến sự sảng khoái toàn diện về thể chất, tâm thần và xã hội  phù hợp với tình trạng tuổi tác, giới tính, chất lượng cuộc sống của họ. Các thầy thuốc lão khoa  cũng thường lại là những thấy thuốc  trẻ, họ tuy có chuyên môn sâu trong chữa trị bệnh tật cho người cao tuổi nhưng chưa từng được trải nghiệm tuổi già, chưa được thưởng thức…cái già, chưa được hưởng thụ …cảnh già! Khi tôi viết cuốn “Gió heo may đã về” thì đó là lúc tôi đang thực sự nghe gió heo may, tôi đang sống với nó, sửng sốt và sảng khoái vì nó, âu lo và hồi hộp vì nó. Tôi  hiểu được nỗi khắc khoải “tôi ơi đừng tuyệt vọng”, nỗi bâng khuâng “tôi đang lắng nghe, tôi đang lắng nghe im lặng của tôi…” của Trịnh Công Sơn, và những bạn bč trang lứa. Nhưng phải đợi đến tuổi 60,  tôi mới dám viết  “Già ơi…chào bạn” – “Bonjour Vieillesse!”- như một tiếng reo vui, chào mừng nó, cái sự già đó! Đâu dễ mà già phải không?  Đến tuổi 75, tôi mới dám viết “Già sao cho sướng?”…

Cho mãi đến cuối thế kỷ 20, năm 1999, Liên Hợp Quốc mới có một “Năm” dành cho người cao tuổi, người già  trên toàn thế giới, gọi là “Năm quốc tế người cao tuổi” với khẩu hiệu là “Hãy sống một tuổi già tích cực” , bởi vì trước đó  người ta chỉ nghĩ tuổi già là tuổi của tàn phai, héo úa,  ăn hại, là gánh nặng xã hội…cho đến khi giật mình thấy không phải vậy! Con người ở tuổi nào cũng sẽ là gánh nặng cho xã hội, cũng ăn hại, cũng tàn phai… nếu sống không ra sống, sống mà như đã chết, sống mà không hạnh phúc, không có chất lượng cuộc sống, sống mà lệ thuộc, mà khổ đau triền miên…

Ngàn năm trước, ở nước ta, vào thời nhà Lý, Mãn Giác thiền sư đã có những câu thơ còn lưu truyền mãi đến nay với một cái nhìn tích cực về tuổi già:

Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai…
( Mãn Giác, 1052-1096)

Xuân ruỗi trăm hoa rụng
Xuân tới trăm hoa cười
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già tới rồi
Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai…

(Ngô Tất Tố dịch)

Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết! Thật vậy. Vẫn còn đó, nơi sân trước kia, đêm qua, một cành mai vàng rực rỡ đã nở, báo hiệu một sức sống mãnh liệt vẫn dâng tràn… Vậy đó, můa xuân dů đã phai, cành mai sân trước vẫn nở tươi thắm. Nụ cười vẫn lạc quan, cuộc sống vẫn tích cực, chủ động và sáng tạo không ngừng nếu những  người có tuổi được chuẩn bị trước để hiểu rõ sự đổi thay , để chấp nhận, để điều chỉnh, tưới tẩm những niềm vui cho chính bản thân mình, cùng với sự ý thức giúp đỡ của gia đình và xã hội thì sẽ giúp họ có một cuộc sống đầy chất lượng, nhiều hạnh phúc.

Theo WHO : “Sức khỏe của người già là phát triển và duy trì được sự sảng khoái và hoạt động chức năng tốt nhất về tâm thần (mental), xã hội (social) và thể chất (physical)”.
Phát triển và duy trì được sự sảng khoái (well-being) và hoạt động chức năng (function) , bởi đa số các hoạt động chức năng xài lâu quá đều rệu rả, phần lớn đã “quá date”, dễ cảm thấy chán nản, tuyệt vọng, lo âu, trầm cảm… nói khác đi là khó mà… hạnh phúc. Thể chất thì “ba cao một thấp” (ba cao là cao máu (HA); cao đường (Tiểu đường); cao mỡ (Cholesterol xấu); còn một thấp là… Thấp khớp) đã đành mà tâm thần thì tám vạn bốn ngàn phiền não! Cho nên đưa vấn đề “tâm thần” lên hàng đầu là hoàn toàn hợp lý so với định nghĩa về sức khỏe ở người trẻ.
“Khổ” thì dĩ nhiên không thể có hạnh phúc. Con đường của Phật là con đường “Diệt Khổ”, con đường dẫn đến giải thoát.

Ở góc độ y sinh học, tâm lý xã hội học, thì những điều kiện để có một tuổi già hạnh phúc gồm:

Có sức khỏe tương đối ;
Tài chánh tự chủ;
Nhà ở an toàn; an ninh, môi trường thuận lợi;
Tự tại: chủ động sắp xếp cuộc sống riêng của mình,
Duy trì các mối quan hệ gia đình/ bè bạn;
Có ký ức tốt về tuổi thơ và tuổi thanh niên,
Hoạt động phù hợp để thấy luôn sống hữu ích;
Gần gũi với thiên nhiên;
Hiểu luật vô thường và biết “Từ bi hỷ xả” với chính mình!

Cũng có thể nhìn theo Tháp MASLOW:

a) Nhu cầu sinh học: gồm những vấn đề cơ bản của tồn tại như : Ăn, Ngủ, Thở, Tình dục… (physical well-being).
b) Nhu cầu an toàn: nhà ở an toàn, môi trường xã hội tốt đẹp, an ninh, bảo đảm về kinh tế, đời sống quân bình…
c) Nhu cầu xã hội (social well-being): các mối quan hệ xã hội trong gia đình, hàng xóm, cộng đồng tốt đẹp…
d) Nhu cầu tự khẳng định: để luôn có được tôn trọng, đóng góp theo công sức cho xã hội, thấy mình sống có ích…
e) Nhu cầu tâm thần, tâm linh (mental well-being): hướng thượng, có một tôn giáo lành mạnh, tin tưởng ở sự sống thiện, nhân quả, nghiệp báo…

Có thể nhìn ở góc độ “Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức” ta cũng có thể hình dung gần giống với Tháp Nhu cầu của Maslow, và nếu có Chánh kiến để thấy Vô Thường/ Khổ/ Vô ngã/ Không/ Duyên sinh… thì đã có thể “độ nhất thiết khổ ách” rồi vậy!

(ĐHN)

Từ Quang, tập 35, Xuân Tân Sửu 2021

Filed Under: Già ơi....chào bạn, Góc nhìn - nhận định, Phật học & Đời sống

PHĐS: Buổi học cuối năm (16.1.2021).

25/01/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc 2 Comments

 

Lớp Phật Học và Đời Sống chùa Xá Lợi, 

Buổi học cuối năm, ngày 16.1.2021.

Buổi học cuối năm dành để trao đổi, rút kinh nghiệm những được, chưa được trong năm học vừa qua. Đây đã là năm thứ 3 của lớp Phật học và Đời sống tại chùa Phật học Xá Lợi này.

Năm thứ nhất đã có được 51 video clips, do Nguyễn Văn Quyền thực hiện và đã đưa lên youtube, được bạn bè khắp nơi theo dõi. Cuối năm đầu đã có một buổi “tổng kết” rất thú vị ở An Lạc Trang, Củ Chi. Năm thứ hai cũng có một buổi họp mặt thân mật ở Hồ Kỳ Hòa quận 10. Năm nay, do dịch Covid đã phải nghỉ vài tháng nhưng sau đó, lớp vẫn duy trì đều đặn nhờ anh Tô Văn Thiện “chủ xị”, anh Minh Ngọc thì bận với các lớp Hán văn Phật học, vì thế cũng thường vắng, tôi thì “già cả ốm yếu” vài ba tuần mới đến lớp một buổi. Lớp học do đó cũng “lõng lẽo” dần, nhưng các anh chị em vẫn tham dự tương đối đều đặn. Năm nay, phần “Phật học”, chủ yếu dựa vào cuốn Phật học phổ thông của thầy Thích Thiện Hoa (rất căn bản, nhưng đã viết từ 60 năm trước!) với một ít kinh sách khác (Tâm kinh, Pháp hoa…), nhưng  phần “Đời sống” quả là không dễ! Có những trao đổi khá “căng thẳng”, nhưng đó là phương cách của lớp đã đề ra từ đầu, với thảo luận, tranh luận, phản biện… để thấy phải “tùy duyên” “thuận pháp” thế nào cho đúng…

Mong rằng sắp tới, Năm Mới (vào năm thứ tư) các buổi học tập, chia sẻ sẽ mang nhiều hiệu quả thiết thực hơn.

Đỗ Hồng Ngọc.

 

Lớp Phật học và Đời sống, Buổi học cuối năm (ngày 16.1.2021)

 

 

từ trái: anh Tô Văn Thiện, anh Sơn, Thanh (Đào), Ngô, Thanh, Trí… hàng sau: Quyên, sau đó thêm Trung, Thủy, Trúc

 

 

từ trái: chị Ngọc, Loan, Hà, anh Vinh, Quyền, Thân, Linh…

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

………………………………………………………………………………………………………

 

Minh Trí, lớp PHĐS gởi một câu hỏi:

Tu là gì?

Trả lời: Tu là “sửa”. Sửa cái gì? Cái gì hư thì sửa. Sửa mình gọi là “tu thân” nhớ không? Tu thân, tề gia, trị quốc… người xưa nói vậy. Xe mà hỏng quá thì ta “đại tu”… hoặc quăng đi, mua xe mới!

Tu theo Phật là “chuyển đổi”. Khổ đau thành an lạc. Phiền não thành Bồ đề. Dĩ nhiên muốn vậy cũng phải quăng bỏ mấy thứ lăng nhăng nó quấy ta. Cho nên trong “lục độ” (sáu cách tu tập) thì Bố thí dẫn đầu. Bố thí là quăng đi, bỏ đi. Thôi kệ đi!

Nguyên nhân của hư là do Tham Sân và Si. Tham là muốn. Muốn đủ thứ. “… lòng muốn còn nhiều đập gương xưa tìm bóng” (Đoàn Chuẩn). Muốn không được thì nổi điên lên, đó là sân, sân hận, tức tối, đỏ mặt tía tai, bầm gan tím ruột, nuôi hận trong lòng “quân tử trả thù mười năm chưa muộn”, “thù trả chưa xong đầu đã bạc”… Tất cả chỉ vì cái gốc là vô minh, là Si, là ngu muội, không thấy biết cái sự thật sờ sờ ra đó.

Cái sự thật sờ sờ ra đó là cái “vô thường”. Trăng rồi khuyết, hoa rồi tàn. Bóng câu qua cửa sổ. Đời người chỉ là một hơi thở, một nhúm bụi tro…

Nhưng Tu với ai? Tu ở đâu? Tu cách nào…?

Có gì đâu. Bệnh thì có thuôc chữa. Có thầy giỏi thì tốt. Nhưng “bác sĩ tốt nhất là chính mình”. Cho nên Phật dạy “hãy quay về nương tựa chính mình”. Kêu “quay về” là vì lâu nay ta có khuynh hướng “quay ra” tìm kiếm bên ngoài đâu đâu. Nhớ rằng Bác sĩ cũng không thể thở giùm ta, ho giùm ta, đau bụng giùm ta được.

Để chữa Tham thì dùng “Giới” (ngũ giới). Chữa Sân thì dùng “Định”, chữa Si thì dùng Huệ (Trí huệ, trí tuệ). Ba thứ thuốc đó có khi trộn lẫn nhau, có khi dùng riêng tùy triệu chứng biểu hiện của mỗi “bệnh nhân”.

Cho nên có khi phải nhờ đến thầy. Thầy giỏi mới được, chớ gặp “lang băm” thì tiêu.

Tu ở đâu? Ở đâu cũng được. Có người tu ở chùa. Có người tu ở nhà. Có người tu ngoài chợ. “Thứ nhứt là tu tại gia. Thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa”. Ý nói tu tại gia là khó nhứt vì bao thứ chằng chịt quấn quít chung quanh.

Phật dạy “Văn, Tư, Tu”. Phải học, phải nghe, phải gần gũi Thiện tri thức. Rồi phải ngẫm ngợi, suy tư, tìm hiểu cho thấu đáo, chớ vội tin, chớ vội nghe, dễ bị “tẩu hỏa nhập ma”. Sau cùng là phải Tu, nghĩa là thực hành. Tu luôn đi với Hành (tu hành) là vậy! Nhớ câu này không? “Tu mà không học là Tu mù. Học mà không tu là cái đãy sách”.

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc.

 

 

 

 

 

Filed Under: Gì đẹp bằng sen?, Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống

Biết rồi còn hỏi

11/12/2020 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Biết rồi còn hỏi!

 

Tôi ngồi trước tượng Phật

Viết lăng nhăng mỗi ngày

Để khi nào bí thì hỏi

Phật tủm tỉm cười

“Biết rồi còn hỏi!”

 

Sáng ra đường phố

Từng bước như đi dạo

Không thấy nở hoa sen (*)

Ngước mắt nhìn lên

Một tấm biển to chữ đỏ

“Đồ ngu cao cấp”

Cửa hàng Fashion

Rơi dấu hỏi…

 

Đâu cần trốn ra khỏi cổng thành

Xóm nghèo nơi tôi ở

Bên phải là nhà bảo sanh

Bên trái là bệnh viện

Đằng kia lớp dưỡng sinh

Đằng nọ nhà quàn vô lượng thọ…

 

Hằng ngày nghe tiếng khóc trẻ con

Nghe tiếng rên người lớn

Tôi nhắc Phật đừng buồn

Không được quạu quọ, không được cau có

Không được nhăn nhó…

Phật cười

“Phải! Nó vậy đó”

 

Đỗ Hồng Ngọc

(4.12.2020)

 

(Nursing House Q7)

Ghi chú: “Nursing House” (không phải Nursing Home) do tôi tự đặt ra để gọi căn nhà nhỏ… dành riêng để chăm sóc cho người già trong gia đình khi ốm đau cần tĩnh dưỡng…

……………………………….

(*) Từng bước nở hoa sen, Nhất Hạnh

Filed Under: Lõm bõm học Phật, Phật học & Đời sống, Vài đoạn hồi ký

Ba tầng của tâm thức – Vô Kỵ ở tầng nào?

04/10/2020 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Ba tầng của tâm thức – Vô Kỵ ở tầng nào?

Hồ Đắc Đằng

 

Ghi chú: Bác sĩ Hồ Đắc Đằng tác giả “tập truyện Phật giáo” Vô Kỵ Học Võ đã post trên trang này (https://www.dohongngoc.com/web/goc-nhin-nhan-dinh/ho-dac-dang-vo-ky-hoc-vo/) rất được bạn đọc ưa thích và đề nghị… viết tiếp. Hồ Đắc Đằng hứa sẽ cố gắng viết dài dài cho đến khi Vô Kỵ gặp được Triệu Minh mới buông viết… để Vô Kỵ về vẽ lông mày cho hiền thê! Mời bạn xem nhe.

Rất cám ơn Đèn Biển (Võ Quang) đã trợn trừng đèn pha thâu đêm để gõ bài này từ thứ chữ viết tay trời ơi của Bs Hồ Đắc Đằng!

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc

………………………………………………………………………..

 

Vốn là Vô Kỵ có 2 thằng bạn: một thằng ở gần nó và thằng kia thì ở xa lắm, nửa vòng trái đất. Thằng ở gần đâm ra ngã bệnh. Bệnh ung thư mới ghê chứ. Bữa nọ, nó gọi Vô Kỵ:

– Mới đi Chemo về như cái mền rách, cơm canh chẳng còn mùi vị gì cả, tóc thì rụng trụi lủi, chưa đi tu mà đã thành sư.

Rồi nó cười ha hả.

– Còn mấy cái muối vừng, muối mè thì sao?

– Được đáo để, chỉ còn mấy cái đó là còn nuốt được. Ngủ thì tốt lắm. Chẳng cần thuốc ngủ, thuốc an thần gì ráo. Có mấy thằng nó cứ lo mình depressed. Mình chẳng có depressed cái con m… gì cả. Cái ung thư để cho tụi oncologist nó lo. Mình lo chuyện mình. Quán vô thường, quán về Lão Bệnh Tử là đã nhất. Hết lo sợ chết, cụ ạ.

Đúng vậy, nhận xét mấy cái tiến bộ trong công việc tu tập tâm linh của hắn từ 6 tháng qua, Vô Kỵ nhận ra rõ rệt là cái thằng bạn gần này đã đạt được cái vô úy của Phật dạy: Hết sợ chết.

Nó bèn viết một cái thư cho thằng bạn ung thư Chemo, rụng tóc nầy:

– Nầy bạn, con người ta ai ai cũng biết là tất cả chúng ta đều phải chết một ngày nào đó. Con nít 10 tuổi là đã có cái kiến thức này. Cái kiến thức về Chết này là mình ở tầng thứ nhất của tâm thức đấy: tầng não.

Xuống một tầng là đến tầng tim. Ở tầng nầy, chẳng những mình biết là ai cũng sẽ chết, mình hiểu tận tâm can là nó như vậy: gọi là chết ở tầng tim.

Tự tại, ung dung, hết sợ chỉ còn bị Chemo giày vò xác thân mà tâm thì an bình. Hai anh em cười ha hả, đồng ý dời nhà từ tầng trên xuống tầng dưới cho nó sướng và để mấy cha oncologist muốn làm gì thì làm. Mình làm theo rơm rớp cho mấy ổng vui mà vợ con mình cũng vui luôn, buồn nôn, mất khẩu vị cũng chịu được.

Vô Kỵ nó mới gửi cái thư đó cho thằng bạn xa nửa vòng trái đất. Thằng nầy cũng cười ha hả lại chêm một câu:

– Khá lắm. Chết trên não đã dời đô xuống chết trong tim là khá lắm, nhưng chưa siêu! Dời đô xuống rốn thì mới siêu đấy!

Vô Kỵ nghe, nó ngẫm nghĩ khá lâu. Xuống rốn, xuống umbilicus có nghĩa gì nhỉ, mà thằng bạn xa này muốn chỉ? Nó lựa một lúc thầy nó rảnh rỗi, không ngồi thiền mà cũng không quét sân, nhổ cỏ, nó mang vấn đề ra hỏi thầy nó:

– Thưa thầy, thằng bạn kia muốn nói cái gì vậy? Dời nhà xuống ở cái rốn?

Thầy nó mỉm cười:

– Này Vô Kỵ, thầy không chắc là bạn con muốn nói gì. Nhưng thầy có vài cảm nghĩ về cái rốn nầy.

– Thưa thầy con biết rồi. Cái rốn là trọng tâm của cơ thể con người?

– Bậy bạ! Con chẳng biết giải phẫu học (Anatomy) của con người gì hết. Trọng tâm (Center of gravity) của con người không phải cái rún mà là cái nhiếp hộ tuyến (prostate)!

Vô Kỵ cụt hứng.

– Chắc con có nghe nói là trong võ thuật có nói đến chữ đan điền. Đó là chỗ cái rốn. Đem khí lực vào đan điền và xuất phát khí lực từ đan điền. Thầy không có hành pháp nầy nên thầy không chỉ dạy cho con được. Khí lực từ tâm. Muôn sự tại tâm mà tâm ở đâu thì không ai biết. Chỉ biết là khi con có tâm tại thân thì con tỉnh mà khi con tâm bất tại thân thì con ngủ mà Phật gọi là sleep walker. Thở vô, biết thở vô, thở ra, biết thở ra là tỉnh đấy. Tâm bay nhảy là tâm ngủ ngày. Thở là hiện tại, tại đây và bây giờ.

Cái rốn, cuống rốn và cái nhau (placenta)

Vô Kỵ con, con có biết cây trái nó cũng có nhau không? Cái hạt ở chính giữa là cái thai nhi. Cái gì nuôi cái hạt ở giữa sống được nhiều ngày nhiều tháng trước khi cái hột kia đụng mặt đất và đâm rễ ra để hấp thụ chất bổ dưỡng, nước từ đất? Chính là cái trái đó.

Cái trái của cái hột là cái nhau của thai nhi.

Này Vô Kỵ. Cả nhiều tuần sau khi trứng được thụ thai, thử máu, thử nước tiểu dương tính mà làm siêu âm chẳng thấy gì cả vì cái nhau còn nhỏ quá. Bao nhiêu phân bào là để tạo một cái cơ quan căn bản để tiếp tế, hậu cần cho thai nhi nầy: Cái nhau.

Kế đó, cái cuống rốn như sợi dây liên hệ của phi hành gia rời khỏi phi thuyền, chỉ còn sống được qua sợi dây cuống rún này.

Nhân loại mà sống được trong giai đoạn này là nhờ tiếp xúc hết sức chặt chẽ với mẹ. Quả địa cầu là mẹ của muôn loài, là lẽ sống của muôn loài, là nhân chứng của hiện hữu.

Con nhớ khi Đức Phật mới đắc đạo dưới cội Bồ đề, Ma Vương hiện lên cám dỗ. Ngài chỉ mỉm cười “Ta biết nhà ngươi rồi” và dùng bàn tay trái của Ngài chạm mặt đất như một nhân chứng: “My family is all humanity ; My home is Earth”. Chạm đất là về nhà. Nhà là vững vàng tám gió không động.

Ai ai cũng có một cái nhà mà mấy ai tìm trâu, thấy trâu và dắt trâu trở về nhà được!

Rốn là nhà mà từ đó con bám lúc con ra đời. Rốn cũng là đất mẹ, là nhà để con trở về lúc con tắt hơi.

Cắt cuống rốn, bơ vơ trong đời. Khi cái dây loằng ngoằng nhơn nhớt bị kẹp giữa 2 cái kềm nhỏ và cây dao của bà mụ cắt ra làm hai, con phải tự thở lấy, khóc oe oe và tự ăn lấy, nút chụt chụt. Con khóc là vì cái phòng sanh ồn ào quá, sáng chói quá, ai cười, ai khen con cóc cần. Con chỉ tiếc cái thiên đường êm ái, yên lặng, để con ngủ ngon mà không cần làm gì cả, cả ăn lẫn thở. Ôi, thời kỳ huyền diệu này không còn nữa khi bà mụ cắt cái cuống rốn này.

– Thưa thầy, tại sao khi tâm thức xuống đến rốn thì còn hơn là ở tầng tim nữa?

– Tầng tim là con hết sợ chết. Tầng rốn thì con đã về đến nhà rồi. Nếu sánh trong thập mục ngưu đồ (tranh chăn trâu), tầng tim là mục đồng ngồi mình trâu, thổi sáo, về nhà, tầng rốn là về đến nhà, tấm tranh thứ 10, không còn mục đồng cũng không còn trâu.

Vô Kỵ trầm ngâm, ngẫm nghĩ, lâu nay nó cứ muốn hỏi về tranh chăn trâu này mà nay có dịp thầy giảng luôn cũng được.

– Thưa thầy, khi người ta chết, có nhiều người muốn được về chết ở nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Cái nhau của mẹ đã được hỏa thiêu từ ngày mình sanh.

– Vô Kỵ, con không có biết y khoa gì ráo. Con nói cái nhau của mẹ. Thật ra cái nhau là của con đấy. Cái trứng vừa được thụ tinh chính là con. Dĩ nhiên, từ mẹ cha cung cấp vật liệu cho con cất nhà. Cái nhau nầy là của con đấy. Nhà thương đốt cái bộ phận này của con như đốt một cái cơ quan mà con không còn cần dùng nữa. Con tự ăn, tự thở được rồi. Nhau rốn trở về đất mẹ, chờ con đến lúc con cũng trở về đất mẹ, đoàn tụ lại. Trở về nhà là vậy.

Nơi chôn nhau, cắt rốn này không tùy thuộc địa dư, vì tất cả nhân loại chưa có người nào mà nhau, rốn của họ được chôn trên thiên hà Andromeda. Vì vậy thái tử Sĩ Đạt Đa mới tuyên bố nhà của người là địa cầu. Đâu đâu cũng là nơi chôn nhau cắt rốn của mình hết. Con học được gì, Vô Kỵ?

– Thưa thầy, nhau rốn là nhà của mình, cả nghĩa bóng lẫn nghĩa y khoa. Mới sanh ra thì một phần căn bản nhất đã chết rồi, sau 100 năm chết một lần nữa, lại quay về nhà cũ cũng được thôi. Không gì ung dung tự tại bằng về đến nhà, thưa thầy.

Thầy nó mỉm cười, vui thấy Vô Kỵ đã hiểu.

 

HĐĐ.

 

Filed Under: Già ơi....chào bạn, Lõm bõm học Phật, Phật học & Đời sống

“An cư kiết hạ” trong mùa Covi

18/08/2020 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

“An cư kiết hạ” trong mùa Covi

Tạp Chí Từ Quang tập 33 Mừng Đại Lễ Vu Lan 2020 của Chùa Phật học Xá Lợi Tp.HCM, có Tin ngắn về Chương trình  “Chia sẻ kiến thức Phật pháp với Trường Hạ Chùa Phật học Xá Lợi”. Chương trình vừa kết thúc ngày 14.8.2020 với buổi nói chuyện của PGS TS Phạm Anh Dũng (Cư sĩ, Kiến trúc sư) với các tu sĩ mà ai nấy đều phải mang khẩu trang và ngồi giãn cách theo quy định phòng dịch Covid-19.

Hơn 2 tháng qua, từ 10/6 đến 14/8, hơn 20 vị tu sĩ từ các nơi đã tập trung về chùa dự “An cư Kiết hạ” (Trường Hạ) mỗi tuần có 2 buổi trao đổi với các Cư sĩ trong Ban Phật học: Nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn về Lịch sử Phật giáo; Cư sĩ Minh Ngọc về Qui Sơn Cảnh Sách, và Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc về Phật giáo với Sức khỏe. Các Tu sĩ đã tích cực tham gia trao đổi cùng các vị Cư sĩ để có cái nhìn rộng từ góc độ Đạo và Đời, “đến để mà thấy” như lời Phật dạy.

 

 

Thực ra thì từ năm 2017 đến nay, Chùa Phật học Xá Lợi Tp.HCM đã có “Chương trình đặc biệt” này dành cho các Tu sĩ “giao lưu” với Cư sĩ, bên cạnh việc Tu tập quy củ thường lệ trong mùa Trường hạ.

 

Một buổi “thảo luận nhóm” và giải đáp thắc mắc… (2017)

Buổi “bế giảng” thân mật (2017).

 

 

 

 

 

 

 

 

Năm ngoái (2019), được sự cho phép của Thầy Đồng Bổn, Trụ trì chùa Xá Lợi, em NVQuyền đã ghi hình các buổi trao đổi của tôi về Phật giáo với vấn đề Sức khỏe trong mùa Trường Hạ để làm tư liệu cho Chùa. Từ năm nay, với tình hình dịch bệnh Covid-19 đang phát triển, việc tập trung về chùa học như trước đây rồi sẽ không còn dễ dàng nên Thầy Đồng Bổn đồng ý cho phổ biến phần Y học để các Thầy có thể tham khảo dù ở nơi xa.

Các Video clip này cũng đã được đưa lên trang Web chùa Phật học Xá Lợi TpHCM.

http://chuaxaloi.vn/tin-tuc/nhung-chia-se-kien-thuc-phat-phap/3264.html

Cảm ơn Cư sĩ Trí Bá, cư sĩ Trí Tâm và em NVQuyền.

Bs Đỗ Hồng Ngọc

(Saigon, 18.8.2020)

………………………………………………………………………………

 

Bài 1:

 

Bài 2:

 

Bài 3

 

Bài 4:

 

Bài 5:

 

 

 

Filed Under: Gì đẹp bằng sen?, Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống

Thư gởi bạn (2.4.2020)

02/04/2020 By Bac Si Do Hong Ngoc 3 Comments

 

Thư gởi bạn (2.4.2020)

Về “Độc cư, Thiền định, Kham nhẫn, Tri túc” trong mùa “Cô-Vi 19”

Cảm ơn bạn đã hỏi thêm câu mình nói hôm trước: Thời buổi “Cô-Vi 19” hoành hành khắp thế giới này, thì với những người đã có “tuổi hơi cứng” như tụi mình nên thực hành các hạnh Độc Cư, Thiền Định, Kham Nhẫn, Tri Túc mà Phật đã dạy từ hơn hai ngàn sáu trăm năm trước để có một nếp sống An Lạc và Hạnh Phúc. Thực ra không chỉ với bọn mình mà cả những người bạn trẻ cũng nên học để có một cuốc sống an vui, mạnh khỏe, không mắc phải những thứ bệnh “thời đại” là những bệnh như S.A.D (Stress: căng thẳng; Anxiety: Lo âu, sợ hãi; Depression: Trầm cảm), hay “3 cao 1 thấp” (Cao đường, Cao mỡ, Cao máu và… Thấp khớp) cùng rất nhiều các thứ bệnh khác do hành vi lối sống gây ra…

 

Độc Cư

là “Ở một mình” “sống một mình”. Lúc dịch bệnh tràn lan như vầy thì lời khuyên tốt nhất là nên “ở nhà một mình” (Home Alone, nhớ không?). Mọi người nên Stayhome trong “Homestay” của mình. Bất đắc dĩ mới phải ra đường khi cần thiết, và phải luôn đeo khẩu trang để tránh lây bệnh cho người khác và cũng để nhắc nhở mình đang mùa có dịch. Độc cư nhiều khi dễ căng thẳng, buồn chán, dễ gây lộn, dễ “phá thành sầu” bằng chai alcool (không phải để sát khuẩn) mà để sinh sự cho sự sinh.

Phật giảng một bài rất hay trong kinh “Người biết sống một mình”nhớ không? Đó là người sống với cái Tâm tĩnh lặng, trong sáng, không bị “trôi lăn” (cuốn) vào dĩ vãng hay tương lai bởi “dĩ vãng đã qua rồi/ tương lai thì chưa tới”. Họ an nhiên tự tại với “ở đây và bây giờ” (here and now).

Một người chui vào phòng kín, nhập thất, hoặc lên núi cao cất cái chòi nhỏ… để sống mười năm chưa chắc đã là “độc cư” bởi trong lòng còn mang mang : quân tử trả thù mười năm chưa muộn… nhớ không?

 

Thiền định 

một người bạn phương xa vừa gởi mình tấm hình này, rất dễ thương. Tự nó đã nói lên nhiều điều. Xin được chia sẻ:

 

Internet

“Nếu anh không thể đi ra ngoài được thì hãy đi… vào trong”

Dĩ nhiên đây là nói về thời “Cô-Vi 19” với lời khuyên phải “cách ly”, người cách ly người, nhà cách ly nhà, phố cách ly phố…

Chớ còn hồi xưa, thời Xuân Diệu:

Có một bận em ngồi xa anh quá,
Anh bảo em ngồi xích lại gần hơn.
Em xích gần thêm một chút: anh hờn.
Em ngoan ngoãn xích gần thêm chút nữa.

Còn Trịnh Công Sơn thì khéo hơn:

Ru em ngồi yên đấy

Tôi tìm cuộc tình cho…

Ngồi yên, đi vào trong (go inside)… dĩ nhiên không phải là Thiền định rồi.

Lục tổ Huệ Năng bảo: Ngoài không dính mắc là Thiền/ Trong không lay động là Định.

Vậy thì đi đứng nằm ngồi gì cũng thiền cũng định. Đi ra ngoài đi vào trong gì cũng thiền cũng định.

Còn Trần Nhân Tông thì bảo:

Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền

Trước cảnh mà tâm vẫn an, vẫn tịnh, thì chẳng cần hỏi tới Thiền làm chi!

Chẳng qua vì tâm ta như khỉ như vượn (tâm viên ý mã), dính mắc tùm lum nên mới vất vả lao đao bao điều.

Cho nên để có thể có tâm an tịnh, thiền là một cách thế trong rất nhiều cách thế. Tụng kinh niệm Phật mà đạt đến “nhất tâm bất loạn” thì cũng là Thiền. Tĩnh tâm cầu nguyện với lòng từ bi rộng mở thì cũng là thiền. Và tinh cần, chánh niệm, tỉnh giác, cũng là thiền, một cách căn cơ nhất. Chánh niệm (Mindfulness) dẫn đến chánh định (Samadhi), từ đó mà có Chánh kiến, chánh Tư duy… trong Bát chánh đạo vậy.

Ngày nay, y học và tâm lý trị liệu, phân tâm học, cũng nghiên cứu ứng dụng Thiền để chữa trị những thứ bệnh thời đại. S.A.D, nghiện ngập, rối loạn chuyển hóa, rối loạn thần kinh thực vật, rối loạn hành vi… đã mang lại nhiều kết quả khả quan. Dĩ nhiên, đó chỉ mới là phần ứng dụng của Thiền, chưa phải là thiền Phật giáo, được hướng dẫn kỹ trong Tứ niệm xứ (Satipatthana).

MBSR (Mindfulness-Based Stress Reduction) và MBCT (Mindfulness-Based Cognitive Therapy) là những ứng dụng thiền học tốt.

Dù sao, thiền cũng là cách giúp mình được an nhiên, tự tại… ít nhiều trong tình hình đầy hoang mang căng thẳng lúc dịch bệnh đang hoành hành.

Thiền còn giúp ta “quay về nương tựa chính mình”, nhìn lại mình xem đã bao lâu rồi tất tả ngược xuôi, rượt đuổi với bao “tham lam, sân hận, si mê, tà kiến, kiêu mạn…”

Cho nên “If you can’t go outside, go inside”, cũng là một nhắc nhở tốt phải không?

 

Kham nhẫn 

Kham là chịu, nhẫn là nhịn.

Tục ngữ ta có câu: một sự nhịn chín sự lành.

Trong các yếu tố khiến “kham không nổi” thì “khẩu” (Lời nói) là yếu tố quan trọng nhất. Đã đành “ý dẫn các pháp”, nhưng ý chưa thể hiện thành hành vi. Khẩu mới ầm ỉ, náo nhiệt, là đầu mối sinh sự, gây chiến! Cho nên Phật dạy con mình là La Hầu La rất kỹ về “khẩu nghiệp”: Không nói dối, không nói thêu dệt, không nói hai lưỡi, không nói lời hung ác… Rồi dạy con phải học hạnh của Đất để “nhẫn”: ném một thỏi vàng hay một đống rác xuống đất, đất vẫn « như như bất động »…

Nhưng nhẫn đến như Phật đối với Đề Bà Đạt Đa thì quá khó! Đề Bà Đạt Đa là em chú bác của Phật, cũng tu hành đàng hoàng nhưng lòng tham quá lớn, muốn thay Phật lãnh đạo tăng đoàn, từng ném đá giết Phật, từng khiến voi giày Phật, còn xúi giục con vua giết vua, chiếm ngôi v.v…

Vậy mà Đề Bà Đạt Đa được Phật ca ngợi hết lời. Hãy nghe Phật kể « công đức » của Đề Bà Đạt Đa : « Do nhờ ông Thiện tri thức Đề Bà Đạt Đa này làm cho ta đầy đủ sáu pháp ba-la-mật, từ bi hỷ xả, mười trí lực, bốn món vô sở úy, bốn món nhiếp pháp, mười tám món bất cộng… và nhờ đó mà ta thành bực Chánh đẳng Chánh giác… ».  Nói khác đi, nhờ có sự “đối nghịch” như vậy mà Phật mới nhẫn nhục, tinh tấn, để trở thành vị Chánh đẳng Chánh giác. Đề Bà Đạt Đa xứng đáng là một Thiện tri thức, một vị Bồ tát “nghịch” bên cạnh Phật đó chứ! Và ngày nay ta cũng cần những vị Bồ-tát “nghịch” như thế.

Nhưng “kham nhẫn” trong lời khuyên của Phật thì không chỉ là sự chịu đựng, “nhịn nhục” với cái đáng giận, đáng ghét mà còn phải “kham nhẫn” cả với những đường mật, mê say vì dễ dẫn ta tới tham ái, chấp thủ.

“Kham nhẫn” với giận với hờn còn dễ hơn kham nhẫn với nhớ, với thương, phải không?

 

Tri túc

Tri túc là Biết đủ. Nhưng thế nào là đủ? Làm sao để biết đủ?

Lòng tham vốn không đáy. Lúc nào cũng muốn muốn muốn. Nào vạn tuế vạn vạn tuế, nào muôn năm trường trị, nhất thống giang hồ, trường sanh bất tử…

Mà càng tham thì càng thấy thiếu. Người đẹp muốn đẹp hơn. Người giàu muốn giàu nữa. Người quyền chức thì muốn càng cao thêm mãi.

Nguyễn Công Trứ bảo: Tri túc tiện túc, đãi túc hà thời túc? Biết đủ thì đủ! Đợi đủ bao giờ mới đủ? Bao giờ nghĩa là… còn lâu!

Ưng Bình Thúc Giạ Thị thì bảo trên con đường hoạn lộ:

Biết đủ dầu không chi cũng đủ

Nên lui đã có dịp thì lui… 

Cho nên Tri túc luôn đi đôi với Thiểu dục. Thiểu dục Tri túc. Bởi người it ham muốn thì may ra mới thấy là đã đủ, nghĩa là thôi, đủ rồi đó!

Có một cách “tri túc” hay là đừng bao giờ so sánh. Đã có so sánh thì có hơn thua. Hơn cũng khổ mà thua cũng khổ. Ngang bằng càng… khổ!

Thiểu dục Tri túc không có nghĩa ngăn cản sự tiến bộ của xã hội, của con người. Dĩ nhiên là tiến bộ theo hướng thiện, không làm khổ mình, khổ người, mà chỉ là để ngăn ngừa lòng tham không đáy, “ích kỷ hại nhân”, để có được một đời sống an lạc, hạnh phúc.

 

Nhưng, nói thì dễ, mà làm thì không dễ chút nào bạn ơi!

 

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc.

2.4.2020

 

 

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống

  • Go to page 1
  • Go to page 2
  • Go to page 3
  • Interim pages omitted …
  • Go to page 7
  • Go to Next Page »

Thư đi Tin lại

  • Lịch “Trò chuyện, giao lưu…”
  • Lại đính chính: “SAIGON BÂY GIỜ”
  • ĐÍNH CHÍNH: BSNGOC không phải là BS ĐỖ HỒNG NGỌC
  • Đính chính: BS NGỌC không phải là Bs Đỗ Hồng Ngọc
  • bsngoc đã lên tiếng đính chính
  • Thư cảm ơn và Đính chính về FACEBOOK Bác sĩ NGỌC
  • ĐÍNH CHÍNH: Bài viết "TÀN NHẪN" không phải của Bs Đỗ Hồng Ngọc

PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG

Nguyễn Hiền-Đức: Tập tuyển CÀNH MAI SÂN TRƯỚC

Minh Lê: Học Phật qua thơ Đỗ Hồng Ngọc

TẠP GHI (Lõm bõm… Kỳ 4b)

Tạp Ghi (lõm bõm… kỳ 4): Mười Hạnh Phổ Hiền

TẠP GHI (Lõm bõm…) kỳ 3

Tạp Ghi (Lõm bõm kỳ 2)

TẠP GHI (Lõm Bõm)

Nguyễn Xuân Thiệp: VỴ ƠI…

Truyện Phan Tấn Hải: QUÊN NHAU LÀ CHUYỆN KHÓ

Thêm một Tuổi Mới

Xem thêm >>

Chuyên mục

  • Một chút tôi
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy

Bài viết mới nhất!

  • Mười Hạnh Bồ-Tát PHỔ HIỀN
  • Trần Thị Trúc Hạ: TÌNH BẠN
  • Nhớ Nhà Văn VÕ HỒNG với nỗi… “Cô Đơn Uy Nghi”
  • Quán Văn: NHỚ VÕ HỒNG
  • LÊ KÝ THƯƠNG VÀ NHỮNG NGƯỜI BẠN VĂN CHƯƠNG

Bài viết theo tháng

Ý kiến bạn đọc!

  • Bac Si Do Hong Ngoc trong “Xả”… stress !
  • “Xả”… stress ! | suonglamportland trong “Xả”… stress !
  • Phan Công Khương trong Nguyễn Mậu Pháp: CẢM NHẬN  “VỀ THU XẾP LẠI…”
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Có một “nghệ thuật”… ngủ!
  • Ngọc Trâm trong Có một “nghệ thuật”… ngủ!
  • Sách mẹ đọc - Thư gởi người bận rộn - Bs. Đỗ Hồng Ngọc - Blog Nuôi Dạy Con trong Chữ “NHÀN”
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Thư gởi bạn xa xôi (4): LỤC BÁT
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Hãy vui với tuổi vàng của mình
  • Nguyễn thế Pháp trong Lịch “Trò chuyện, giao lưu…”
  • Nhuận trong Hãy vui với tuổi vàng của mình

Cùng một tác giả

  • 0
  • 1
  • 1
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6

Thống kê

Nhà tài trợ

biệt thự vũng tàu
biệt thự vũng tàu cho thuê | biệt thự vũng tàu cho thuê theo ngày giá rẻ | cho thuê biệt thự vũng tàu có hồ bơi
© 2009 - 2016 Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Phát triển & Hỗ trợ kỹ thuật bởi SGC.
Trích dịch nội dung để dùng trong nghiên cứu, học tập hay dùng cho cá nhân đều được tự do nhưng cần phải chú thích rõ nguồn tài liệu và đối với các trích dịch với mục đích khác, cần phải liên lạc với tác giả.
  • Một chút tôi
    ?
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    ?
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    ?
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    ?
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    ?
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy
  • Nhận bài mới qua email