Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Tập hợp các bài viết của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Ghi chép lang thang
  • Nhận bài mới qua email

Ba tầng của tâm thức – Vô Kỵ ở tầng nào?

04/10/2020 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Ba tầng của tâm thức – Vô Kỵ ở tầng nào?

Hồ Đắc Đằng

 

Ghi chú: Bác sĩ Hồ Đắc Đằng tác giả “tập truyện Phật giáo” Vô Kỵ Học Võ đã post trên trang này (https://www.dohongngoc.com/web/goc-nhin-nhan-dinh/ho-dac-dang-vo-ky-hoc-vo/) rất được bạn đọc ưa thích và đề nghị… viết tiếp. Hồ Đắc Đằng hứa sẽ cố gắng viết dài dài cho đến khi Vô Kỵ gặp được Triệu Minh mới buông viết… để Vô Kỵ về vẽ lông mày cho hiền thê! Mời bạn xem nhe.

Rất cám ơn Đèn Biển (Võ Quang) đã trợn trừng đèn pha thâu đêm để gõ bài này từ thứ chữ viết tay trời ơi của Bs Hồ Đắc Đằng!

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc

………………………………………………………………………..

 

Vốn là Vô Kỵ có 2 thằng bạn: một thằng ở gần nó và thằng kia thì ở xa lắm, nửa vòng trái đất. Thằng ở gần đâm ra ngã bệnh. Bệnh ung thư mới ghê chứ. Bữa nọ, nó gọi Vô Kỵ:

– Mới đi Chemo về như cái mền rách, cơm canh chẳng còn mùi vị gì cả, tóc thì rụng trụi lủi, chưa đi tu mà đã thành sư.

Rồi nó cười ha hả.

– Còn mấy cái muối vừng, muối mè thì sao?

– Được đáo để, chỉ còn mấy cái đó là còn nuốt được. Ngủ thì tốt lắm. Chẳng cần thuốc ngủ, thuốc an thần gì ráo. Có mấy thằng nó cứ lo mình depressed. Mình chẳng có depressed cái con m… gì cả. Cái ung thư để cho tụi oncologist nó lo. Mình lo chuyện mình. Quán vô thường, quán về Lão Bệnh Tử là đã nhất. Hết lo sợ chết, cụ ạ.

Đúng vậy, nhận xét mấy cái tiến bộ trong công việc tu tập tâm linh của hắn từ 6 tháng qua, Vô Kỵ nhận ra rõ rệt là cái thằng bạn gần này đã đạt được cái vô úy của Phật dạy: Hết sợ chết.

Nó bèn viết một cái thư cho thằng bạn ung thư Chemo, rụng tóc nầy:

– Nầy bạn, con người ta ai ai cũng biết là tất cả chúng ta đều phải chết một ngày nào đó. Con nít 10 tuổi là đã có cái kiến thức này. Cái kiến thức về Chết này là mình ở tầng thứ nhất của tâm thức đấy: tầng não.

Xuống một tầng là đến tầng tim. Ở tầng nầy, chẳng những mình biết là ai cũng sẽ chết, mình hiểu tận tâm can là nó như vậy: gọi là chết ở tầng tim.

Tự tại, ung dung, hết sợ chỉ còn bị Chemo giày vò xác thân mà tâm thì an bình. Hai anh em cười ha hả, đồng ý dời nhà từ tầng trên xuống tầng dưới cho nó sướng và để mấy cha oncologist muốn làm gì thì làm. Mình làm theo rơm rớp cho mấy ổng vui mà vợ con mình cũng vui luôn, buồn nôn, mất khẩu vị cũng chịu được.

Vô Kỵ nó mới gửi cái thư đó cho thằng bạn xa nửa vòng trái đất. Thằng nầy cũng cười ha hả lại chêm một câu:

– Khá lắm. Chết trên não đã dời đô xuống chết trong tim là khá lắm, nhưng chưa siêu! Dời đô xuống rốn thì mới siêu đấy!

Vô Kỵ nghe, nó ngẫm nghĩ khá lâu. Xuống rốn, xuống umbilicus có nghĩa gì nhỉ, mà thằng bạn xa này muốn chỉ? Nó lựa một lúc thầy nó rảnh rỗi, không ngồi thiền mà cũng không quét sân, nhổ cỏ, nó mang vấn đề ra hỏi thầy nó:

– Thưa thầy, thằng bạn kia muốn nói cái gì vậy? Dời nhà xuống ở cái rốn?

Thầy nó mỉm cười:

– Này Vô Kỵ, thầy không chắc là bạn con muốn nói gì. Nhưng thầy có vài cảm nghĩ về cái rốn nầy.

– Thưa thầy con biết rồi. Cái rốn là trọng tâm của cơ thể con người?

– Bậy bạ! Con chẳng biết giải phẫu học (Anatomy) của con người gì hết. Trọng tâm (Center of gravity) của con người không phải cái rún mà là cái nhiếp hộ tuyến (prostate)!

Vô Kỵ cụt hứng.

– Chắc con có nghe nói là trong võ thuật có nói đến chữ đan điền. Đó là chỗ cái rốn. Đem khí lực vào đan điền và xuất phát khí lực từ đan điền. Thầy không có hành pháp nầy nên thầy không chỉ dạy cho con được. Khí lực từ tâm. Muôn sự tại tâm mà tâm ở đâu thì không ai biết. Chỉ biết là khi con có tâm tại thân thì con tỉnh mà khi con tâm bất tại thân thì con ngủ mà Phật gọi là sleep walker. Thở vô, biết thở vô, thở ra, biết thở ra là tỉnh đấy. Tâm bay nhảy là tâm ngủ ngày. Thở là hiện tại, tại đây và bây giờ.

Cái rốn, cuống rốn và cái nhau (placenta)

Vô Kỵ con, con có biết cây trái nó cũng có nhau không? Cái hạt ở chính giữa là cái thai nhi. Cái gì nuôi cái hạt ở giữa sống được nhiều ngày nhiều tháng trước khi cái hột kia đụng mặt đất và đâm rễ ra để hấp thụ chất bổ dưỡng, nước từ đất? Chính là cái trái đó.

Cái trái của cái hột là cái nhau của thai nhi.

Này Vô Kỵ. Cả nhiều tuần sau khi trứng được thụ thai, thử máu, thử nước tiểu dương tính mà làm siêu âm chẳng thấy gì cả vì cái nhau còn nhỏ quá. Bao nhiêu phân bào là để tạo một cái cơ quan căn bản để tiếp tế, hậu cần cho thai nhi nầy: Cái nhau.

Kế đó, cái cuống rốn như sợi dây liên hệ của phi hành gia rời khỏi phi thuyền, chỉ còn sống được qua sợi dây cuống rún này.

Nhân loại mà sống được trong giai đoạn này là nhờ tiếp xúc hết sức chặt chẽ với mẹ. Quả địa cầu là mẹ của muôn loài, là lẽ sống của muôn loài, là nhân chứng của hiện hữu.

Con nhớ khi Đức Phật mới đắc đạo dưới cội Bồ đề, Ma Vương hiện lên cám dỗ. Ngài chỉ mỉm cười “Ta biết nhà ngươi rồi” và dùng bàn tay trái của Ngài chạm mặt đất như một nhân chứng: “My family is all humanity ; My home is Earth”. Chạm đất là về nhà. Nhà là vững vàng tám gió không động.

Ai ai cũng có một cái nhà mà mấy ai tìm trâu, thấy trâu và dắt trâu trở về nhà được!

Rốn là nhà mà từ đó con bám lúc con ra đời. Rốn cũng là đất mẹ, là nhà để con trở về lúc con tắt hơi.

Cắt cuống rốn, bơ vơ trong đời. Khi cái dây loằng ngoằng nhơn nhớt bị kẹp giữa 2 cái kềm nhỏ và cây dao của bà mụ cắt ra làm hai, con phải tự thở lấy, khóc oe oe và tự ăn lấy, nút chụt chụt. Con khóc là vì cái phòng sanh ồn ào quá, sáng chói quá, ai cười, ai khen con cóc cần. Con chỉ tiếc cái thiên đường êm ái, yên lặng, để con ngủ ngon mà không cần làm gì cả, cả ăn lẫn thở. Ôi, thời kỳ huyền diệu này không còn nữa khi bà mụ cắt cái cuống rốn này.

– Thưa thầy, tại sao khi tâm thức xuống đến rốn thì còn hơn là ở tầng tim nữa?

– Tầng tim là con hết sợ chết. Tầng rốn thì con đã về đến nhà rồi. Nếu sánh trong thập mục ngưu đồ (tranh chăn trâu), tầng tim là mục đồng ngồi mình trâu, thổi sáo, về nhà, tầng rốn là về đến nhà, tấm tranh thứ 10, không còn mục đồng cũng không còn trâu.

Vô Kỵ trầm ngâm, ngẫm nghĩ, lâu nay nó cứ muốn hỏi về tranh chăn trâu này mà nay có dịp thầy giảng luôn cũng được.

– Thưa thầy, khi người ta chết, có nhiều người muốn được về chết ở nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Cái nhau của mẹ đã được hỏa thiêu từ ngày mình sanh.

– Vô Kỵ, con không có biết y khoa gì ráo. Con nói cái nhau của mẹ. Thật ra cái nhau là của con đấy. Cái trứng vừa được thụ tinh chính là con. Dĩ nhiên, từ mẹ cha cung cấp vật liệu cho con cất nhà. Cái nhau nầy là của con đấy. Nhà thương đốt cái bộ phận này của con như đốt một cái cơ quan mà con không còn cần dùng nữa. Con tự ăn, tự thở được rồi. Nhau rốn trở về đất mẹ, chờ con đến lúc con cũng trở về đất mẹ, đoàn tụ lại. Trở về nhà là vậy.

Nơi chôn nhau, cắt rốn này không tùy thuộc địa dư, vì tất cả nhân loại chưa có người nào mà nhau, rốn của họ được chôn trên thiên hà Andromeda. Vì vậy thái tử Sĩ Đạt Đa mới tuyên bố nhà của người là địa cầu. Đâu đâu cũng là nơi chôn nhau cắt rốn của mình hết. Con học được gì, Vô Kỵ?

– Thưa thầy, nhau rốn là nhà của mình, cả nghĩa bóng lẫn nghĩa y khoa. Mới sanh ra thì một phần căn bản nhất đã chết rồi, sau 100 năm chết một lần nữa, lại quay về nhà cũ cũng được thôi. Không gì ung dung tự tại bằng về đến nhà, thưa thầy.

Thầy nó mỉm cười, vui thấy Vô Kỵ đã hiểu.

 

HĐĐ.

 

Filed Under: Già ơi....chào bạn, Lõm bõm học Phật, Phật học & Đời sống

“An cư kiết hạ” trong mùa Covi

18/08/2020 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

“An cư kiết hạ” trong mùa Covi

Tạp Chí Từ Quang tập 33 Mừng Đại Lễ Vu Lan 2020 của Chùa Phật học Xá Lợi Tp.HCM, có Tin ngắn về Chương trình  “Chia sẻ kiến thức Phật pháp với Trường Hạ Chùa Phật học Xá Lợi”. Chương trình vừa kết thúc ngày 14.8.2020 với buổi nói chuyện của PGS TS Phạm Anh Dũng (Cư sĩ, Kiến trúc sư) với các tu sĩ mà ai nấy đều phải mang khẩu trang và ngồi giãn cách theo quy định phòng dịch Covid-19.

Hơn 2 tháng qua, từ 10/6 đến 14/8, hơn 20 vị tu sĩ từ các nơi đã tập trung về chùa dự “An cư Kiết hạ” (Trường Hạ) mỗi tuần có 2 buổi trao đổi với các Cư sĩ trong Ban Phật học: Nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn về Lịch sử Phật giáo; Cư sĩ Minh Ngọc về Qui Sơn Cảnh Sách, và Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc về Phật giáo với Sức khỏe. Các Tu sĩ đã tích cực tham gia trao đổi cùng các vị Cư sĩ để có cái nhìn rộng từ góc độ Đạo và Đời, “đến để mà thấy” như lời Phật dạy.

 

 

Thực ra thì từ năm 2017 đến nay, Chùa Phật học Xá Lợi Tp.HCM đã có “Chương trình đặc biệt” này dành cho các Tu sĩ “giao lưu” với Cư sĩ, bên cạnh việc Tu tập quy củ thường lệ trong mùa Trường hạ.

 

Một buổi “thảo luận nhóm” và giải đáp thắc mắc… (2017)

Buổi “bế giảng” thân mật (2017).

 

 

 

 

 

 

 

 

Năm ngoái (2019), được sự cho phép của Thầy Đồng Bổn, Trụ trì chùa Xá Lợi, em NVQuyền đã ghi hình các buổi trao đổi của tôi về Phật giáo với vấn đề Sức khỏe trong mùa Trường Hạ để làm tư liệu cho Chùa. Từ năm nay, với tình hình dịch bệnh Covid-19 đang phát triển, việc tập trung về chùa học như trước đây rồi sẽ không còn dễ dàng nên Thầy Đồng Bổn đồng ý cho phổ biến phần Y học để các Thầy có thể tham khảo dù ở nơi xa.

Các Video clip này cũng đã được đưa lên trang Web chùa Phật học Xá Lợi TpHCM.

http://chuaxaloi.vn/tin-tuc/nhung-chia-se-kien-thuc-phat-phap/3264.html

Cảm ơn Cư sĩ Trí Bá, cư sĩ Trí Tâm và em NVQuyền.

Bs Đỗ Hồng Ngọc

(Saigon, 18.8.2020)

………………………………………………………………………………

 

Bài 1:

 

Bài 2:

 

Bài 3

 

Bài 4:

 

Bài 5:

 

 

 

Filed Under: Gì đẹp bằng sen?, Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống

Thư gởi bạn (2.4.2020)

02/04/2020 By Bac Si Do Hong Ngoc 3 Comments

 

Thư gởi bạn (2.4.2020)

Về “Độc cư, Thiền định, Kham nhẫn, Tri túc” trong mùa “Cô-Vi 19”

Cảm ơn bạn đã hỏi thêm câu mình nói hôm trước: Thời buổi “Cô-Vi 19” hoành hành khắp thế giới này, thì với những người đã có “tuổi hơi cứng” như tụi mình nên thực hành các hạnh Độc Cư, Thiền Định, Kham Nhẫn, Tri Túc mà Phật đã dạy từ hơn hai ngàn sáu trăm năm trước để có một nếp sống An Lạc và Hạnh Phúc. Thực ra không chỉ với bọn mình mà cả những người bạn trẻ cũng nên học để có một cuốc sống an vui, mạnh khỏe, không mắc phải những thứ bệnh “thời đại” là những bệnh như S.A.D (Stress: căng thẳng; Anxiety: Lo âu, sợ hãi; Depression: Trầm cảm), hay “3 cao 1 thấp” (Cao đường, Cao mỡ, Cao máu và… Thấp khớp) cùng rất nhiều các thứ bệnh khác do hành vi lối sống gây ra…

 

Độc Cư

là “Ở một mình” “sống một mình”. Lúc dịch bệnh tràn lan như vầy thì lời khuyên tốt nhất là nên “ở nhà một mình” (Home Alone, nhớ không?). Mọi người nên Stayhome trong “Homestay” của mình. Bất đắc dĩ mới phải ra đường khi cần thiết, và phải luôn đeo khẩu trang để tránh lây bệnh cho người khác và cũng để nhắc nhở mình đang mùa có dịch. Độc cư nhiều khi dễ căng thẳng, buồn chán, dễ gây lộn, dễ “phá thành sầu” bằng chai alcool (không phải để sát khuẩn) mà để sinh sự cho sự sinh.

Phật giảng một bài rất hay trong kinh “Người biết sống một mình”nhớ không? Đó là người sống với cái Tâm tĩnh lặng, trong sáng, không bị “trôi lăn” (cuốn) vào dĩ vãng hay tương lai bởi “dĩ vãng đã qua rồi/ tương lai thì chưa tới”. Họ an nhiên tự tại với “ở đây và bây giờ” (here and now).

Một người chui vào phòng kín, nhập thất, hoặc lên núi cao cất cái chòi nhỏ… để sống mười năm chưa chắc đã là “độc cư” bởi trong lòng còn mang mang : quân tử trả thù mười năm chưa muộn… nhớ không?

 

Thiền định 

một người bạn phương xa vừa gởi mình tấm hình này, rất dễ thương. Tự nó đã nói lên nhiều điều. Xin được chia sẻ:

 

Internet

“Nếu anh không thể đi ra ngoài được thì hãy đi… vào trong”

Dĩ nhiên đây là nói về thời “Cô-Vi 19” với lời khuyên phải “cách ly”, người cách ly người, nhà cách ly nhà, phố cách ly phố…

Chớ còn hồi xưa, thời Xuân Diệu:

Có một bận em ngồi xa anh quá,
Anh bảo em ngồi xích lại gần hơn.
Em xích gần thêm một chút: anh hờn.
Em ngoan ngoãn xích gần thêm chút nữa.

Còn Trịnh Công Sơn thì khéo hơn:

Ru em ngồi yên đấy

Tôi tìm cuộc tình cho…

Ngồi yên, đi vào trong (go inside)… dĩ nhiên không phải là Thiền định rồi.

Lục tổ Huệ Năng bảo: Ngoài không dính mắc là Thiền/ Trong không lay động là Định.

Vậy thì đi đứng nằm ngồi gì cũng thiền cũng định. Đi ra ngoài đi vào trong gì cũng thiền cũng định.

Còn Trần Nhân Tông thì bảo:

Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền

Trước cảnh mà tâm vẫn an, vẫn tịnh, thì chẳng cần hỏi tới Thiền làm chi!

Chẳng qua vì tâm ta như khỉ như vượn (tâm viên ý mã), dính mắc tùm lum nên mới vất vả lao đao bao điều.

Cho nên để có thể có tâm an tịnh, thiền là một cách thế trong rất nhiều cách thế. Tụng kinh niệm Phật mà đạt đến “nhất tâm bất loạn” thì cũng là Thiền. Tĩnh tâm cầu nguyện với lòng từ bi rộng mở thì cũng là thiền. Và tinh cần, chánh niệm, tỉnh giác, cũng là thiền, một cách căn cơ nhất. Chánh niệm (Mindfulness) dẫn đến chánh định (Samadhi), từ đó mà có Chánh kiến, chánh Tư duy… trong Bát chánh đạo vậy.

Ngày nay, y học và tâm lý trị liệu, phân tâm học, cũng nghiên cứu ứng dụng Thiền để chữa trị những thứ bệnh thời đại. S.A.D, nghiện ngập, rối loạn chuyển hóa, rối loạn thần kinh thực vật, rối loạn hành vi… đã mang lại nhiều kết quả khả quan. Dĩ nhiên, đó chỉ mới là phần ứng dụng của Thiền, chưa phải là thiền Phật giáo, được hướng dẫn kỹ trong Tứ niệm xứ (Satipatthana).

MBSR (Mindfulness-Based Stress Reduction) và MBCT (Mindfulness-Based Cognitive Therapy) là những ứng dụng thiền học tốt.

Dù sao, thiền cũng là cách giúp mình được an nhiên, tự tại… ít nhiều trong tình hình đầy hoang mang căng thẳng lúc dịch bệnh đang hoành hành.

Thiền còn giúp ta “quay về nương tựa chính mình”, nhìn lại mình xem đã bao lâu rồi tất tả ngược xuôi, rượt đuổi với bao “tham lam, sân hận, si mê, tà kiến, kiêu mạn…”

Cho nên “If you can’t go outside, go inside”, cũng là một nhắc nhở tốt phải không?

 

Kham nhẫn 

Kham là chịu, nhẫn là nhịn.

Tục ngữ ta có câu: một sự nhịn chín sự lành.

Trong các yếu tố khiến “kham không nổi” thì “khẩu” (Lời nói) là yếu tố quan trọng nhất. Đã đành “ý dẫn các pháp”, nhưng ý chưa thể hiện thành hành vi. Khẩu mới ầm ỉ, náo nhiệt, là đầu mối sinh sự, gây chiến! Cho nên Phật dạy con mình là La Hầu La rất kỹ về “khẩu nghiệp”: Không nói dối, không nói thêu dệt, không nói hai lưỡi, không nói lời hung ác… Rồi dạy con phải học hạnh của Đất để “nhẫn”: ném một thỏi vàng hay một đống rác xuống đất, đất vẫn « như như bất động »…

Nhưng nhẫn đến như Phật đối với Đề Bà Đạt Đa thì quá khó! Đề Bà Đạt Đa là em chú bác của Phật, cũng tu hành đàng hoàng nhưng lòng tham quá lớn, muốn thay Phật lãnh đạo tăng đoàn, từng ném đá giết Phật, từng khiến voi giày Phật, còn xúi giục con vua giết vua, chiếm ngôi v.v…

Vậy mà Đề Bà Đạt Đa được Phật ca ngợi hết lời. Hãy nghe Phật kể « công đức » của Đề Bà Đạt Đa : « Do nhờ ông Thiện tri thức Đề Bà Đạt Đa này làm cho ta đầy đủ sáu pháp ba-la-mật, từ bi hỷ xả, mười trí lực, bốn món vô sở úy, bốn món nhiếp pháp, mười tám món bất cộng… và nhờ đó mà ta thành bực Chánh đẳng Chánh giác… ».  Nói khác đi, nhờ có sự “đối nghịch” như vậy mà Phật mới nhẫn nhục, tinh tấn, để trở thành vị Chánh đẳng Chánh giác. Đề Bà Đạt Đa xứng đáng là một Thiện tri thức, một vị Bồ tát “nghịch” bên cạnh Phật đó chứ! Và ngày nay ta cũng cần những vị Bồ-tát “nghịch” như thế.

Nhưng “kham nhẫn” trong lời khuyên của Phật thì không chỉ là sự chịu đựng, “nhịn nhục” với cái đáng giận, đáng ghét mà còn phải “kham nhẫn” cả với những đường mật, mê say vì dễ dẫn ta tới tham ái, chấp thủ.

“Kham nhẫn” với giận với hờn còn dễ hơn kham nhẫn với nhớ, với thương, phải không?

 

Tri túc

Tri túc là Biết đủ. Nhưng thế nào là đủ? Làm sao để biết đủ?

Lòng tham vốn không đáy. Lúc nào cũng muốn muốn muốn. Nào vạn tuế vạn vạn tuế, nào muôn năm trường trị, nhất thống giang hồ, trường sanh bất tử…

Mà càng tham thì càng thấy thiếu. Người đẹp muốn đẹp hơn. Người giàu muốn giàu nữa. Người quyền chức thì muốn càng cao thêm mãi.

Nguyễn Công Trứ bảo: Tri túc tiện túc, đãi túc hà thời túc? Biết đủ thì đủ! Đợi đủ bao giờ mới đủ? Bao giờ nghĩa là… còn lâu!

Ưng Bình Thúc Giạ Thị thì bảo trên con đường hoạn lộ:

Biết đủ dầu không chi cũng đủ

Nên lui đã có dịp thì lui… 

Cho nên Tri túc luôn đi đôi với Thiểu dục. Thiểu dục Tri túc. Bởi người it ham muốn thì may ra mới thấy là đã đủ, nghĩa là thôi, đủ rồi đó!

Có một cách “tri túc” hay là đừng bao giờ so sánh. Đã có so sánh thì có hơn thua. Hơn cũng khổ mà thua cũng khổ. Ngang bằng càng… khổ!

Thiểu dục Tri túc không có nghĩa ngăn cản sự tiến bộ của xã hội, của con người. Dĩ nhiên là tiến bộ theo hướng thiện, không làm khổ mình, khổ người, mà chỉ là để ngăn ngừa lòng tham không đáy, “ích kỷ hại nhân”, để có được một đời sống an lạc, hạnh phúc.

 

Nhưng, nói thì dễ, mà làm thì không dễ chút nào bạn ơi!

 

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc.

2.4.2020

 

 

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống

Nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo với “CÓ KHÔNG”

13/03/2020 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

“CÓ KHÔNG”

nhạc Hoàng Quốc Bảo & thơ Đỗ Hồng Ngọc và giọng ca Thu Vàng, 

Vài ghi chú:

Nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo, hiệu Không Hư, tác giả của các tập nhạc nổi tiếng Tịnh Tâm Khúc (2004), Khúc Vô Thanh (2014) với nhiều bàì hát quen thuộc như Hồ Như, Tháng ngày gió xóa, Mưa trên thành phố cũ, Lên non quẫy mộng… qua các giọng ca quen thuộc của Hà Thanh, Kim Tước, Mai Hương, Vũ Khanh…

Năm 2005, Hoàng Quốc Bảo… xuống tóc, trở thành Tỳ khưu Đăng Châu, trú tại thiền viện Đại Đăng LA.

“CÓ KHÔNG”, bài thơ được viết đã lâu, ngay sau một buổi ngồi thiền “quán niệm hơi thở” (Anapanasati) như  một cảm nhận rất riêng, tôi gởi tặng người bạn “thiền sư” Không Hư của mình, sau đó đã in lại trong tập Thơ Ngắn Đỗ Nghê (2017).  Hoàng Quốc Bảo viết ngay thành một ca khúc trầm lắng: CÓ KHÔNG tặng một người bạn nào đó.

 

 

 

 

 

Đỗ Hồng Ngọc & Hoàng Quốc Bảo

(Saigon 11.2019, ảnh Thân Trọng Minh)

Rồi anh gởi tôi mp3 bài hát được Diệu Nhân thể hiện, theo anh là thành công với một bài không dễ hát, dù chỉ với tiếng guitar đệm tài tử…

Mới đây, ca sĩ Thu Vàng đã thu âm bản CÓ KHÔNG tại Quoc Thanh Studio và  nvquyen đã dựng nên clip nhạc rất dễ thương này với những hình ảnh do tôi chụp trong những ngày lang thang ở Nepal (2018), dưới chân rặng Hy-mã-lạp-sơn, được hít thở thứ không khí trong lành và nhẹ tênh như có như không, được ngắm mặt trời nở bung như một đóa hoa ban sớm, và được trầm ngâm với những cội cây già nơi vườn xưa Ca-tỳ-la-vệ…

Xin được sẻ chia cùng bè bạn thân quen.

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc.

 

 

 

Filed Under: Lõm bõm học Phật, Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống

Xá-lợi-phất và Duy-ma-cật

27/01/2020 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Xá-lợi-phất và Duy-ma-cật

Đỗ Hồng Ngọc

 

(Internet)

Hôm đó ở thành Tỳ-da-ly,  Duy-ma-cật tiếp Bảo Tích và năm trăm vị vương tôn công tử, thiếu gia con nhà viên ngoại, là những “Bồ-tát tại gia” tương lai, đối tượng đích của buổi “huấn luyện đặc biệt” tại cái thất trống trơn của ông, có mặt Xá-lợi-phất, đệ tử trí tuệ bậc nhất của Phật và có cả Bồ tát Văn Thù cùng một số lớn các vị Đại đệ tử khác.

Lúc bấy giờ, Xá-lợi-phất thấy trong thất của Duy-ma-cật trống huơ trống hoắc không có giường ghế chi cả, liền đặt câu hỏi:

“Chư vị Bồ Tát và các Đại đệ tử này rồi sẽ ngồi ở đâu?”

Ai nấy chưng hửng. Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi và Duy-ma-cật đang thuyết giảng về con đường tu tập: “Bồ-tát phải có nội lực (trí huệ), phải có chiêu thức (phương tiện), biết dùng «sức phương tiện». Rồi nào Vô sở trụ, Vô sở đắc… rồi nào sống trong  thực tướng vô tướng mà vẫn thấy chân không diệu hữu… nào chuyện lớn như bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bố thí, trì giới, nhẫn nhục… thì một vị Đại đệ tử trí tuệ bật nhất của Đức Phật đặt một câu hỏi trớt quớt, tầm thường vậy sao?

Nhưng không. “ Rồi sẽ ngồi ở đâu?” rõ ràng là một vấn đề mấu chốt của buổi huấn luyện nhằm đào tạo các vị Bồ-tát tương lai này. “Rồi sẽ ngồi đâu?” phải đặt ra để xác định vai trò, vị trí, nhiệm vụ của một Bồ tát tại gia cũng như các Đại đệ tử muốn đi vào con đường Bồ tát đạo.

Từ đó, một câu hỏi tiếp theo sẽ là họ có đủ sức “ngồi” chưa? Họ có lòng đại bi, không “ái kiến” chưa? Có nhu hòa nhẫn nhục chưa? Có thấy biết và sống với “nhất thiết Không” chưa?

Nhiệm vụ trước hết của một vị Bồ-tát có lẽ phải là một vị Pháp sư chân chánh, truyền bá được giáo pháp của Phật để “thành tựu chúng sanh”. Những lời dạy của Phật trong kinh sách không chỉ để “thọ trì, đọc tụng” mà còn phải “biên chép, giảng nói”. Phải hiểu rõ ẩn nghĩa từng câu từng chữ trong kinh, phải biết diễn giải tùy tình huống, tùy đối tượng. Phật “khai thị”, nhưng chúng sanh phải tự mình “ngộ nhập” mới xong. Không chỉ vậy, không chỉ thuyết giảng bằng lời mà còn phải là một tấm gương “tự chứng, tự nội” của một thiền giả.

Để có thể làm một Pháp sư chân chánh thì phải đáp ứng 3 điều kiện: “Vào nhà Như Lai; Mặc áo Như Lai; Ngồi tòa Như Lai.. Vào nhà Như Lai là có lòng từ bi rộng lớn, thấy chúng sanh đều như cùng “chung một mái nhà”; mặc áo Như Lai là có đức nhu hòa nhẫn nhục; và quan trọng nhất là thấu triệt tánh Không, duyên sinh, vô ngã, thực tướng vô tướng…

Duy-ma-cật liền quay sang hỏi Bồ-tát Văn-thù: “Nhân giả  có biết cõi Phật nào có những tòa sư tử đủ các công đức, đẹp đẽ cao trọng, mầu nhiệm hơn hết?” dĩ nhiên là để mượn về làm chỗ ngồi cho các vị.
”Tòa sư tử đủ các công đức, đẹp đẽ cao trọng, mầu nhiệm hơn hết ” ư? Phải, tòa sư tử chính là nơi chư Phật, chư Bồ-tát ngồi thuyết pháp. Lời thuyết pháp như sư tử hống, như tiếng rống của sư tử. Trên thực tế, “tòa sư tử” đó có khi chỉ là một vệ cỏ, một gốc cây, một tọa cụ đơn sơ… nhưng nó đã trở thành “tòa sư tử” bởi chính vị Pháp sư chân chánh ngồi thuyết pháp trên đó.

Văn-thù đáp: “Cư sĩ, từ đây đi về phương đông, vượt qua số cõi nước nhiều như số cát ba mươi sáu sông Hằng, có một thế giới tên là Tu-di Tướng. Đức Phật cõi ấy hiện nay hiệu là Tu-di Đăng Vương, thân cao đến tám mươi bốn ngàn do-tuần. Tòa sư tử của ngài cũng cao đến tám mươi bốn ngàn do-tuần, nghiêm sức bậc nhất.”

Tức khắc, ba mươi hai ngàn tòa sư tử cao rộng nghiêm tịnh cao đến tám mươi bốn ngàn do-tuần đó bay vèo đến thất của Duy-ma-cật mà không hề gây chướng ngại chi cả, bốn cõi thiên hạ cũng không có sự dồn ép chật chội, vẫn y nguyên như cũ…

Duy-ma-cật bảo Xá-lợi-phất: “Thỉnh ngài lên ngồi tòa sư tử.”
Xá-lợi-phất đáp: “Cư sĩ! Tòa ấy cao rộng quá, tôi không thể lên ngồi.”
Duy-ma-cật nói: “Thưa ngài Xá-lợi-phất! Ngài hãy lễ bái đức Như Lai Tu-di Đăng Vương, rồi sẽ ngồi được thôi!”

Lúc ấy, những vị Bồ Tát mới phát tâm cùng các Đại đệ tử liền “lễ bái” đức Như Lai Tu-di Đăng Vương. Các vị liền được ngồi lên các tòa sư tử.

“Lễ bái” là thực hành, là rèn luyện để có trí huệ sáng suốt, rộng lớn (Tu di Đăng vương), để thấy biết, để sống trong Như Lai thì mới có thể lên tòa sư tử đó mà ngồi để thuyết pháp, để làm một Pháp sư chân chánh.

Bấy giờ đã gần giờ ngọ, Xá-lợi-phất lại hỏi: “Sắp đến giờ thọ thực rồi. Các vị Bồ-tát này sẽ ăn thức gì đây?”.

Nữa. Vừa mới đòi hỏi chỗ ngồi giờ đến đòi hỏi chuyện ăn. Cứ đến lúc mọi người đang bay bổng trên chín từng mây với những lý luận cao vời thì Xá-lợi-phất lại kéo ngay xuống mặt đất!

Ăn không phải là chuyện hệ trọng sao? Đức Phật tới giờ ăn mà còn phải khoác y, trì bát vào thành khất thực, mang về đạo tràng ăn uống xong xuôi đâu đó rồi mới rửa chân lên ngồi… nhập định trước khi thuyết giảng Kim Cang Bát Nhã đó sao?

Dĩ nhiên, Xá-lợi-phất hỏi “các vị Bồ Tát này sẽ ăn thức gì đây” mang một ý nghĩa khác: các vị Bồ tát tại gia tương lai này sẽ được nuôi dưỡng bằng “thức ăn”gì đây  để có thể trưởng thưởng tâm Bồ đề mà thực hiện tốt các hoạt động của một vị Bồ-tát chân chánh nhằm “thành tựu chúng sanh”?

Duy-ma-cật lên tiếng: “ Xin đợi cho giây lát, tôi sẽ khiến quý vị được thứ thức ăn chưa từng có.”.

Thứ thức ăn chưa từng có ư? Với các vị vương tôn công tử, thiếu gia, con nhà trưởng giả này thì cao lương mỹ vị có gì là lạ, tổ yến hồng sâm, nem công chả phượng có gì là lạ.

Họ háo hức chờ đợi Duy-ma-cật mang lại thứ thức ăn “chưa từng có” là gì đây!

Thì ra… Duy-ma-cật mang đến một mùi hương! Một mùi hương thơm. Thứ “thức ăn” xin được từ cõi Chúng Hương của Phật Hương Tích!

Duy-ma-cật liền nhập vào Tam-muội, dùng sức thần thông khiến cho đại chúng nhìn thấy về hướng trên, cách đây nhiều cõi Phật liên tiếp nhau như số cát của bốn mươi hai con sông Hằng, có một cõi nước tên là Chúng Hương, hiện có đức Phật hiệu là Hương Tích ngự tại đó….

Phật dạy có bốn loại thức ăn để nuôi dưỡng thân và tâm. Đoàn thực, Xúc thực, Tư niệm thực, Thức thực. Đoàn thực là thứ thức ăn để nuôi thân được nói trước tiên. Không có thân sao có tâm? Không có sắc sao có thọ tưởng hành thức ? Tứ đại ngũ uẩn quan trọng quá chứ! Thân là một « bảo tháp » để tâm quay về nương tựa!  Nhìn 32 tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của Phật mà coi, chắc chắn khác hẳn cái thời lang thang khổ hạnh, suýt chết, tâm thần lãng đãng, thân thể chỉ còn xương bọc da, sờ tay vào bụng thì đụng phải cột sống ! Nhờ một chén sữa mà tỉnh giấc dưới cội Bồ đề. Từ đó, Thành đạo. Từ đó, Chuyển pháp luân. Nhưng suốt đời Phật, ba y một bát, tiết độ, kham nhẫn, tri túc. Ngày nay người ta dễ chạy theo lợi dưỡng, món ngon vật lạ, để rồi béo phì, tiểu đường, tăng huyết áp, tim mạch, gút… khổ thân!

Mỗi khi gặp một vị Phật, sau khi cung kính đảnh lễ, thì câu chào hỏi đầu tiên bao giờ cũng là: “Việc ăn uống thức ngủ của Ngài ra sao ? Ngài ít bệnh ít não chăng? Khí lực được an ổn chăng?” Nghĩa là luôn luôn thăm hỏi một vị Phật, một vị Như Lai về những nhu cầu tồn tại của cuộc sống (physical needs): Ăn, uống, ngủ, nghỉ, bệnh đau, phiền não, hít thở…

Còn xúc thực, tư niệm thực… ngày nay mới thật đáng ngại. Sách báo, phim ảnh, truyền hình, công nghệ thông tin ngày càng phát triển càng mang đến những nguy cơ cao về đời sống tinh thần của con người. Dĩ nhiên không phải lỗi tại sự tiến bộ của khoa học.

Trở lại với thứ thức ăn chưa từng có của Duy-ma-cật mang về là một mùi hương! Một thứ hương thơm đủ để nuôi cả thân và tâm bất tận. Đó chính là Giới đức. Thứ hương thơm có thể bay cao, bay xa, bay ngược chiều gió!

Hương thơm giới đức không thể có trong một ngày một buổi. Phải được huân tập lâu ngày chày tháng. Giới từ luật nghi mà có nhưng giới cũng từ định, từ huệ. Hương thơm đó phải tích lũy từ từ mới đầy dần lên, mới sung mãn, tràn trề…

Cho nên Phật Hương Tích xuất hiện. Các vị Phật thật dễ thương. Lúc nào cũng sẵn sàng xuất hiện khi có ai đó cần đến ! Đức Phật Hương Tích lấy cái bát ở cõi Chúng Hương, đơm đầy cơm thơm, trao cho vị hóa Bồ Tát mang về cho Duy-ma-cật làm « Phật sự ». Phải đích thân Phật Hương Tích san sẻ món « cơm thơm » đó trao cho vị hóa Bồ-tát. Một pháp thí.

Duy-ma-cật mời: “Các nhân giả, hãy dùng món cơm cam-lộ của Như Lai, do lòng đại bi hun đúc mà thành”. Thứ « thức ăn chưa từng có” đó không sợ thiếu, luôn đủ cho tất cả mọi người, vì đó là một thứ « vô tận hương »…

Rõ ràng Xá-lợi-phất và Duy-ma-cật đã dựng nên một màn sắm vai (role playing) “tung hứng” làm cho buổi giảng trở nên hào hứng và sinh động…

(ĐHN)

 

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Lõm bõm học Phật, Phật học & Đời sống

Phật cười dưới trăng…

24/01/2020 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Phật cười dưới trăng…

(Internet)

Chưa có khi nào Phật cười to như thế, cười sảng khoái, “cười hùng mạnh như vua sư tử…” giữa đêm trăng Lăng Già cùng với chúa đảo Ravana và thần dân của ông, với sự có mặt của hàng ngàn Bồ tát.

Giữa đỉnh núi ở trên đảo Lăng Già đêm trăng đó khi nhìn những ánh vàng bập bềnh trên sóng nước, vỡ tan, vỡ tan theo từng con sóng, Phật đã cất tiếng cười to. Ánh trăng vỡ tan rồi gom tụ lại. Rồi vỡ tan, rồi gom tụ lại. Thế giới muôn hồng ngàn tía cũng chỉ do Thức tâm tạo ra. Nó như huyễn, nó như mộng, như bào ảnh, như sương mai, như ánh chớp… Bên dưới đó, là Như Lai tạng, là A-lại-da vẫn im ả, “như như bất động”. Chỉ có cái thức tâm phân biệt của ta quậy phá chính ta. Cái tâm thanh tịnh bổn nhiên kia thì vẫn im ắng. Không lay động. Vẫn bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm.

Vì thức khởi mà sự sinh. Thế giới chỉ là tâm thức của chính mình. Chúng sanh là ảo vật do ảo thuật gia là ta vẽ bày để rồi tự mình phan duyên, dính mắc, khổ đau…

Bồ tát thấy biết như vậy, thấy biết nhứt thiết duy tâm tạo, thấy chúng sanh là ảo vật do chính mình tạo ra rồi thức tâm phân biệt, chấp trước mà khổ đau bèn nói thẳng cho mọi người cùng biết. Nói thẳng ra như thế mới là “lòng Từ chân thật”, không giấu giếm, che đậy, không hù dọa, gạt gẫm nhau chi! “Trí chẳng đắc có không/ Mà hưng tâm đại bi”.

“Sao gọi là Từ? Bồ-tát nhờ hành Từ phương tiện nên thị hiện tất cả. Nhờ hành Từ không uẩn khúc nên lòng dạ trong sạch. Nhờ hành Từ không dối trá nên không có việc hư giả. Nhờ hành Từ an lạc nên được cái vui…

Sao gọi là Bi? Có được bao nhiêu công đức đều chia sẻ hết cho chúng sinh.

Sao gọi là Hỷ? Làm lợi ích cho chúng sinh thì vui vẻ không hối tiếc.

Sao gọi là Xả? Làm những việc phước đức mà không hề mong nhận được phước báo”. (Duy-ma-cật).

Tâm bất sinh thì vô sinh. Vô sinh thì vô sự.  Dứt mọi phân biệt của thức tâm thì không bị quậy phá nữa. Ở đó là Như Lai tạng. Nhất thiết chủng trí. Đại viên cảnh trí. Bởi cái thế giới đối tượng bên ngoài kia không gì khác hơn là chính cái Tâm.

Thấy biết Như Lai, thì sống với Như Lai, sống trong Như Lai, sống cùng Như lai. Cho nên Phật cười thật sảng khoái!

Đỗ Hồng Ngọc

(Đặc san Liễu Quán, Huế. Xuân Canh Tý 2020) 

 

 

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống

Nguyễn Hiền Đức với “TÔI HỌC PHẬT” của Đỗ Hồng Ngọc

13/01/2020 By Bac Si Do Hong Ngoc 1 Comment

 

TÔI HỌC PHẬT

 

Lời ngỏ

Càng có tuổi, hình như tôi càng nhận ra có cái gì đó ở ngoài ý chí mình, can thiệp vào mình tùy hứng khiến mình đôi lúc không khỏi chưng hửng, ngỡ ngàng, thầm nghĩ “duyên” chăng? Nhưng duyên là gì không biết. “Nghiệp” chăng? Nhưng nghiệp là gì cũng không biết. Thôi thì, cứ để nó trôi chảy, tự nhiên, bởi nó có vẻ chẳng cần đến ta, chẳng phải là ta, chẳng phải của ta…

Vào tuổi 80, tôi nghĩ đã đến lúc “về thu xếp lại”, đã đến lúc “nhìn lại mình…” như người bạn nhạc sĩ họ Trịnh kia đã nói. Về thu xếp lại, bởi “chút nắng vàng giờ đây cũng vội”, vì rất nhanh thôi, các tế bào thân xác kia đã có vẻ rả rượi, ù lì, và cũng rất nhanh thôi các tế bào thần kinh nọ cũng mịt mờ, mỏi mệt, nhớ trước quên sau… Đầu năm 2019, tôi gom góp in cuốn Về thu xếp lại như một cột mốc, một hẹn hò, rồi cuối năm tiếp tục gom góp in thêm cuốn Biết ơn mình như một nhắc nhở… Bên cạnh đó, cũng đã tạm một tệp bản thảo Đi để Học, Ghi chép lang thang, Như không thôi đi được!… chủ yếu là một dịp để giúp “Nhìn lại mình”… Tôi cũng mong gom góp, tập hợp được một số bài viết, một số quyển sách nhỏ những lời biên chép bấy nay trong lúc lõm bõm học Phật, thấp thoáng lời kinh, làm thành một tệp để ngẫm ngợi khi cần. Muốn thì muốn vậy, nhưng lực bất tòng tâm!

Duyên may lại đến.
Cách đây mấy năm, một buổi chiều, khi đi café với một người bạn trẻ về đến nhà thì nhận được 3 cuốn bản thảo “Tuyển tập Đỗ Hồng Ngọc” dày cả ngàn trang A4 của một người không quen biết gởi tặng. Giật mình. Ai vậy cà? Thấy có kẹp mảnh giấy nhỏ, ghi số điện thoại tên Nguyễn Hiền Đức. Bèn phone thăm hỏi mới biết đó là một bạn đọc quý mến mình, đã “dõi theo” hành trình viết lách của mình từ lâu, nay tỉ mẩn ghi chép lại cả một tuyển tập đồ sộ gởi tặng và nói còn sẽ gởi tiếp mấy tập nữa! Lúc đầu tưởng anh gom góp từ trên mạng, nhưng không, anh cho biết anh đã gò lưng đánh máy từ những trang sách mà anh ưa thích! Thời buổi này. Lạ thiệt.

Hẹn gặp, mới biết Nguyễn Hiền Đức (thường gọi 5 Hiền), trước 1975 từng có thời là Thư ký Tòa soạn của tạp chí Tư Tưởng của Đại học Vạn Hạnh, thư ký riêng của HT Thích Minh Châu… Anh tốt nghiệp Báo chí và Xã hội học, rồi cao học Sử ở Đại học Vạn Hạnh. Đó là một người gầy gò, trông khắc khổ, nghiêm túc, nhưng rất nhiệt tâm và nói chung… dễ thương.

Rồi hãy nghe 5 Hiền “giải trình”:
Tôi bắt đầu “gõ” và “gõ”, mải mê “gõ” cuốn “TUYỂN TẬP ĐỖ HỒNG NGỌC – THẤP THOÁNG LỜI KINH” này từ năm 2010 và kết thúc năm 2018. Tôi rất thích từ “Thấp thoáng” vì nó thể hiện rất rõ, rất đúng cái chất “thấp thoáng”, “lõm bõm” của tôi khi học Phật.
Ngay trong bước đầu “tập tễnh học Phật” tôi đã chọn cách học hợp với sở thích của mình. Đó là chọn bài, chọn sách rồi… rị mọ. cặm cụi, kiên trì “gõ” vào máy. Cách làm này giúp tôi đọc chậm, đọc kỹ từng đoạn, từng trang, từng bài, rồi chú tâm sửa lỗi. Tôi đọc ít nhất 5 lần cho mỗi trang với lòng thanh thản, thư thái. Tôi không “ép” mình phải ghi, phải nhớ một điều gì cứ để nó trôi chảy như một dòng sông. Rồi biết đâu mười năm sau, hay hơn nữa những gì tôi đã đọc, đã “gõ” sẽ giúp tôi nhiều hơn, tốt hơn trên con đường học Phật. Tôi chỉ đặt ra một thứ kỷ luật tự giác mà tôi phải tuân thủ, đó là mỗi ngày “gõ” ít nhất 5 trang, mỗi tháng tối thiểu 120 trang học Phật.

* * *
Làm sao không cảm động với một người bạn chí tình như vậy.
Cho nên để 5 Hiền thực hiện đầy đủ bản thảo Tôi Học Phật này, tôi đã gởi thêm cho anh cuốn Cõi Phật Đâu Xa viết về kinh Duy-ma-cật cho “đủ bộ”. Và bảo anh cứ tùy nghi, làm cái mà anh gọi là “tổ chức bản thảo” theo ý riêng đi. Vui thôi mà! (Bùi Giáng).

Dĩ nhiên đây chỉ là bước đầu gom góp, tập hợp tư liệu, và chia sẻ cho những bạn bè thân thiết coi trước, và mong góp cho thêm nhiều ý kiến để hoàn chỉnh dần.

Đa tạ 5 Hiền (Nguyễn Hiền Đức), Nguyễn Minh Tiến và Phùng MInh Bảo đã giúp thực hiện “Tệp tuyển” này trên www.dohongngoc.com.

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc

(Saigon,13.1.2020)

………………….

Ngoài trang www.dohongngoc.com, có thể đọc TÔI HỌC PHẬT trên các trang Quảng Đức và Thư Viện Hoa Sen theo các đường links:

https://quangduc.com/a67354/toi-hoc-phat-sach-pdf

https://thuvienhoasen.org/a33329/toi-hoc-phat

…………………………………………………………………………..

Ghi chú: Dưới trang sách, phía góc trái, có mũi tên lên xuống để lật trang tùy nghi.

TOI HOC PHAT. FINAL-1.2020

 

 

 

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Lõm bõm học Phật, Phật học & Đời sống, Vài đoạn hồi ký

Lời ngỏ viết cho Tuyển tập TÔI HỌC PHẬT

28/12/2019 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

 

Lời ngỏ

Tuyển tập TÔI HỌC PHẬT của Đỗ Hồng Ngọc

(bản thảo thưc hiện bởi 5 Hiền, Nguyễn Hiền Đức, 11.2019)

 

Càng có tuổi, hình như tôi càng nhận ra có cái gì đó ở ngoài ý chí mình, can thiệp vào mình tùy hứng khiến mình đôi lúc không khỏi chưng hửng, ngỡ ngàng, thầm nghĩ “duyên” chăng? Nhưng duyên là gì không biết. “Nghiệp” chăng? Nhưng nghiệp là gì cũng không biết. Thôi thì, cứ để nó trôi chảy, tự nhiên, bởi nó có vẻ chẳng cần đến ta, chẳng phải là ta, chẳng phải của ta…

Vào tuổi 80, tôi nghĩ đã đến lúc “về thu xếp lại”, đã đến lúc “nhìn lại mình…” như người bạn nhạc sĩ họ Trịnh kia đã nói. Về thu xếp lại, bởi “chút nắng vàng giờ đây cũng vội”, vì rất nhanh thôi, các tế bào thân xác kia đã có vẻ rả rượi, ù lì, và cũng rất nhanh thôi các tế bào thần kinh nọ cũng mịt mờ, mỏi mệt, nhớ trước quên sau… Đầu năm 2019, tôi gom góp in cuốn Về thu xếp lại như một cột mốc, một hẹn hò, rồi cuối năm tiếp tục gom góp in thêm cuốn Biết ơn mình như một nhắc nhở… Bên cạnh đó, cũng đã tạm một tệp bản thảo Đi để Học, Ghi chép lang thang… chủ yếu là một dịp để giúp “Nhìn lại mình”… Tôi cũng mong gom góp, tập hợp được một số bài viết, một số quyển sách nhỏ những lời biên chép bấy nay trong lúc lõm bõm học Phật, thấp thoáng lời kinh, làm thành một tệp để ngẫm ngợi khi cần. Muốn thì muốn vậy, nhưng lực bất tòng tâm rồi.

Duyên may lại đến.

Cách đây mấy năm, một buổi chiều, khi đi café với một người bạn trẻ về đến nhà thì nhận được 3 cuốn bản thảo “Tuyển tập Đỗ Hồng Ngọc” dày cả ngàn trang A4 của một người không quen biết gởi tặng. Giật mình. Ai vậy cà? Thấy có kẹp mảnh giấy nhỏ, ghi số điện thoại tên Nguyễn Hiền Đức. Bèn phone thăm hỏi mới biết đó là một bạn đọc quý mến mình, đã “dõi theo” hành trình viết lách của mình từ lâu, nay tỉ mẩn ghi chép lại cả một tuyển tập đồ sộ gởi tặng và nói còn sẽ gởi tiếp mấy tập nữa! Lúc đầu tưởng anh gom góp từ trên mạng, nhưng không, anh cho biết anh đã gò lưng đánh máy từ những trang sách mà anh ưa thích! Thời buổi này. Lạ thiệt.

Rồi hẹn gặp, mới biết Nguyễn Hiền Đức (thường gọi 5 Hiền), trước 1975 từng có thời là Thư ký Tòa soạn của tạp chí Tư Tưởng của Đại học Vạn Hạnh, thư ký riêng của HT Thích Minh Châu… Anh tốt nghiệp Báo chí và Xã hội học, rồi cao học Sử ở Đại học Vạn Hạnh. Đó là một người gầy gò, trông khắc khổ, nghiêm túc, nhưng rất nhiệt tâm và nói chung… dễ thương.

Bỗng nhiên anh… biến mất. Không tăm hơi!

Sau đó mới biết anh đã về định cư ở Cali mấy năm nay.

Cách đây chừng tháng, một người bạn bên kia nửa vòng trái đất cho hay tình cờ thấy có Tuyển tập Đỗ Hồng Ngọc “Thấp Thoáng Lời Kinh” trên Thư Viện Hoa Sen online.  Nghĩ chắc… 5 Hiền đây rồi! Và đúng vậy.

Hãy nghe 5 Hiền “giải trình”:

Tôi bắt đầu “gõ” và “gõ”, mải mê “gõ” cuốn “TUYỂN TẬP ĐỖ HỒNG NGỌC –  THẤP THOÁNG LỜI KINH” này từ năm 2010 và kết thúc năm 2018. Tôi rất thích từ “Thấp thoáng” vì nó thể hiện rất rõ, rất đúng cái chất “thấp thoáng”, “lõm bõm” của tôi khi học Phật.

Ngay trong bước đầu “tập tễnh học Phật” tôi đã chọn cách học hợp với sở thích của mình. Đó là chọn bài, chọn sách rồi… rị mọ. cặm cụi, kiên trì “gõ” vào máy. Cách làm này giúp tôi đọc chậm, đọc kỹ từng đoạn, từng trang, từng bài, rồi chú tâm sửa lỗi. Tôi đọc ít nhất 5 lần cho mỗi trang với lòng thanh thản, thư thái. Tôi không “ép” mình phải ghi, phải nhớ một điều gì cứ để nó trôi chảy như một dòng sông. Rồi biết đâu mười năm sau, hay hơn nữa những gì tôi đã đọc, đã “gõ” sẽ giúp tôi nhiều hơn, tốt hơn trên con đường học Phật. Tôi chỉ đặt ra một thứ kỷ luật tự giác mà tôi phải tuân thủ, đó là mỗi ngày “gõ” ít nhất 5 trang, mỗi tháng tối thiểu 120 trang học Phật.

Với cách này, tôi đã “gõ” được một số Tuyển tập học Phật của quý Thầy Minh Châu, Mãn Giác, Trí Tịnh, Nhất Hạnh, Thanh Từ, Chơn Thiện, Ni trưởng Trí Hải, Tuệ Sỹ… GS Cao Huy Thuần, BS Đỗ Hồng Ngọc, GS Hoang Phong v.v…

***

Làm sao không cảm động với một người bạn chí tình như vậy.

Cho nên để 5 Hiền thực hiện đầy đủ “Tuyển tập” Tôi Học Phật này, tôi đã gởi thêm cho anh cuốn Cõi Phật Đâu Xa viết về kinh Duy-ma-cật cho “đủ bộ”. Và bảo anh cứ tùy nghi, làm cái mà anh gọi là “tổ chức bản thảo” theo ý riêng. Dĩ nhiên đây chỉ là gom góp tập hợp tư liệu và chia sẻ cho vài bạn bè thân thiết trên mạng coi trước, không phổ biến rộng.

 

Rồi tôi cũng “giải trình” với 5 Hiền:

Tôi có chút “duyên” với Phật, nhưng đến với Phật rất trễ. Lại đến một mình.  Sanh ở Phan Thiết mấy ngày thì tôi được về ở nhà Ngoại, làng Phong Điền, Hiệp Nghĩa, dưới chân núi Tà Cú, nơi có chùa Linh Sơn Trường Thọ Tự. Nhỏ xíu, tôi đã được theo cha mẹ, các cậu, dì, lên chơi Chùa núi. Khi là sinh viên ở Saigon, tôi cũng đọc Bát Nhã, đọc Suzuki, Krisnamurti… nhưng đọc chỉ để mà đọc. Đến năm tuổi gần 60, sau một cơn bệnh thập tử nhất sinh, tôi thấy mọi sự khác hẳn đi. Tôi đọc Tâm Kinh thấy không khó nữa. Như vỡ ra. Và với Tâm Kinh, tôi thấy chỉ cần học một chữ thôi. Chữ không. Từ đó mà vô trụ, vô trí, vô đắc. Từ đó mà gate, gate, paragate… Nó như giúp tôi trả lời câu hỏi cho chính mình, Why, tại sao? Tôi vẫn thường tự đặt ra cho mình câu hỏi “tại sao” như vậy. Rồi bằng cách nào đây (How?) để mà “hành thâm Bát nhã”? Câu trả lời là Kim Cang. Ở Kim Cang học Vô ngã ( nhân vô ngã, pháp vô ngã), và Thiền định. Dĩ nhiên không thể không học những bước cơ bản: Tứ diệu đế, Bát chánh đạo, Thập nhị nhân duyên…Không có chánh định làm sao có chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ… Con đường từ thể nghiệm, thực nghiệm đến ứng dụng trong đời sống hàng ngày. Ở Pháp Hoa học vô tướng, thực tướng, gặp Như Lai Đa Bảo của mình như luôn tủm tỉm cười chọc quê mình! Cái học y khoa, tâm lý học, xã hội học cũng đã giúp tôi thấy rõ hơn vai trò thầy thuốc, tham vấn viên của bậc Y vương qua hình tượng các vị Bồ tát Thường Bất Khinh, Dược Vương, Diệu Âm, Quán Thế Âm… để không chỉ học hiểu lời kinh mà còn vận dụng vào nghề nghiệp cho sáng tỏ hơn…  Ở Duy-ma-cật, học Bất nhị. Kinh mở ra một cách tiếp cận mới, sinh động, cho dòng chảy mênh mang rộng khắp.

Chắc chắn Phật không muốn chỉ có các đệ tử ngồi thiền định dưới gốc cây, tới giờ đi khất thực và đợi ngày nhập Niết bàn. Phật cần có những vị Bồ-tát đem đạo vào đời, tự giác giác tha. Thế nhưng, các Bồ-tát đầu tròn áo vuông cũng khó mà “thõng tay vào chợ” giữa thời đại bát nháo này. Vì thế mà cần Duy-ma-cật. Một thế hệ cư sĩ tại gia, nhằm thực hiện lý tưởng của Phổ Hiền Bô-tát…!

Rồi từ những điều học hỏi, nghiền ngẫm, thể nghiệm… bấy nay mà tôi mạnh dạn sẻ chia với “Thấp thoáng lời Kinh”,  “Thoảng hương Sen”, “Thiền và Sức khỏe”, “Nếp sống An lạc”… như một ứng dụng Phật pháp vào đời sống. Khi được hỏi “kinh nghiệm” về học Phật, tôi nghĩ trước hết, cần nắm được các thuật ngữ, sau đó là hiểu được các ẩn dụ, ẩn nghĩa, hàm chứa trong lời Kinh và quan trọng nhất là thực hành, ứng dụng vào đời sống, ở đây và bây giờ…

Những năm sau này, tôi có dịp cùng học với nhóm bạn về Lăng Nghiêm, Viên Giác, Lăng Già… Con đường học Phật thênh thang như cánh rừng kia mà ta mới tiếp cận vài hạt bụi rơi từ nắm lá Simsapa dạo nọ.

***

Tôi muốn mượn những lời tâm tình này của Văn Công Tuấn khi giới thiệu các Tuyển tập của Nguyễn Hiền Đức để kết luận: 

…

Nỗi riêng mà lại là tình chung. Đây thật là những tài liệu vô cùng quý giá giúp cho tôi khỏi lạc lõng giữa rừng chữ. Mà đã quý như thế thì tôi không thể giữ cho riêng mình. Nghĩ vậy nên tôi mạn phép ghi vào đây để chư thiện hữu cùng thưởng ngoạn.

… Chẳng qua cũng chỉ muốn đem cõi lòng trải rộng thêm ra cùng bạn hữu gần xa thôi. Tựu chung, tất cả cũng chỉ vì một tấm lòng. Mà đã có tấm lòng thì phải … để gió cuốn đi (TCS)”.

 

Đỗ Hồng Ngọc.

(Saigon 12.2019)

Filed Under: Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống, Vài đoạn hồi ký

Mừng NOEL với “Tiếng Hát Thiên Thần”

26/12/2019 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

Một bài hát Noel rất dễ thương của IANBUI.

ian bui viết lời mới cho Silent Night, và tự hát, với các nhạc công… thiên thần trong đêm Noel.

Và hình như anh cũng chưa kịp thuộc lời…

Đa tạ IANBUI,

Cho phép chia sẻ cùng các bạn,

Đỗ Hồng Ngọc.

 

Filed Under: Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống

“THẤP THOÁNG LỜi KINH”, Tuyển tập Đỗ Hồng Ngọc

13/12/2019 By admin Leave a Comment

Mời bạn xem tuyển tập “Thấp Thoáng Lời Kinh” do Anh 5 Hiền (Nguyễn Hiền, Nguyễn Hiền Đức) thực hiện.

File gốc tại Thư Viện Hoa Sen

Xem sách online tại đây

(Chú ý: Dưới góc trái trang sách có mũi tên chỉ lên và chỉ xuống. Bấm vào đó để lật trang).

xem tiếp …

Filed Under: Phật học & Đời sống, Đọc sách Tagged With: thap thoang loi kinh, thu vien hoa sen

Kể chuyện thăm Úc châu 10.2019

26/11/2019 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Đỗ Hồng Ngọc kể chuyện thăm Úc châu 10.2019

Theo thông lệ, mỗi Thứ bảy đầu tháng Ban Phật học Chùa Xá Lợi đều có một buổi sinh hoạt “Chuyên đề”. Kỳ này, nhân chuyến đi thăm Úc châu vừa rồi của tôi, các bạn có nhã ý mời tôi “kể chuyện” về chuyến đi này của mình, đặc biệt trong dịp này tôi đã có vài buổi chia sẻ về “Phật học và Đời sống” tại chùa Quang Minh, Melbourne, Australia.

Dù thời gian ở Úc chỉ có 3 tuần ngắn ngủi, nhưng tôi cũng đã “tranh thủ” đi cho biết đó biết đây và bây giờ lai rai kể chuyện cùng các bạn…

Rất cảm ơn nvquyen đã thực hiện video clip này và cảm ơn Nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn, cùng các bạn hữu đã đóng góp nhiều ý kiến sôi nổi…

Trân trọng,

Đỗ Hồng Ngọc.

 

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống, Vài đoạn hồi ký

Hồ Đắc Đằng: Vô Kỵ học đi biển

21/11/2019 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Ghi chú: Tiếp tục loạt vài “Vô Kỵ…” rất đặc sắc của Bs Hồ Đắc Đằng. Xin trân trọng giới thiệu đến các bạn.

Nhớ đọc từ bài thứ nhất: “Vô Kỵ Học Võ” trên trang www.dohongngoc.com này nhé.

Bạn Võ Quang (Đèn Biển) đã giúp chuyển bản viết tay của Hồ Đắc Đằng (chữ bác sĩ đọc không ra!) thành bản Word để có thể post lên như thế này! Đa tạ Đèn Biển!

Thân mến,

ĐHN.

…………………………………………….

Vô Kỵ học đi biển

Hồ Đắc Đằng

 

Vô Kỵ vốn sợ chết chìm nên cực chẳng đã nó mới xuống thuyền để qua đò. Thế nên khi thầy nó đề nghị dạy nó đi biển là nó từ chối liền.

– Vô Kỵ nầy. Đi biển là cả một nghệ thuật. Nhất là đi biển trong đêm.

Trời đất, Vô Kỵ ngẫm nghĩ trong đầu, nhưng không dám nói ra. Ban ngày đã là không bờ, không bến, chẳng biết đâu là đâu, bây giờ bắt đi ban đêm thì có chịu chết.

– Nầy Vô Kỵ – thầy nó đoán cái tâm của nó đúng phong phóc – con còn nhớ thầy dạy con bắn cung? Bắn cung mà nhắm mắt mà bắn đúng trăm lần như một? Đấy đi biển ban đêm mà không bao giờ lạc, mà không bao giờ đụng đá ngầm là như vậy.

Vô Kỵ nó có nhớ cái vụ bắn cung nhắm mắt nầy mà nó vẫn chưa tưởng tượng ra liên hệ thế nào đến đi biển ban đêm.

Hải đăng (Đèn biển): Đèn để tránh.

Nghe thầy nó nói đến hải đăng Vô Kỵ sáng mắt lên:

– Thưa thầy, để con kể chuyện tiếu lâm về hải đăng thầy nghe. Có một thủy quân đề đốc hạm trưởng. Một đêm tàu ổng thấy có một ánh đèn đằng xa. Ổng đánh diện “Hạm trưởng chiến hạm tuần dương, tránh ra chỗ khác”. Điện trả lời “Binh nhì hải quân, không tránh, ông phải đổi hướng”. Hạm trưởng “Bất phục tùng, sẽ cho ra tòa án quân sự”. Trả lời “Tòa không xử được. Đây là hải đăng”. Hạm trưởng vâng lời, bẻ lái.

Thầy nó biết cái chuyện nầy rồi nhưng vẫn cười thỏa thích với nó.

– Ban đêm – thầy nó dạy – hải đăng là để con biết chỗ nào để tránh. Hải đăng cố định, vững như núi, tám gió không động. Trong võ nghệ, xuống tấn, bàn tay năm ngón đưa về phía trước để thủ thế. Ngũ giới là 5 cái không làm. Hải đăng chỉ một cái: người đi thuyền ban đêm phải tránh.

Hải đăng: Ánh sáng phải nhắm.

– Phải nhắm? – Vô Kỵ kinh ngạc – Đi biển ban đêm mà thấy một ánh sáng từ xa mà phải nhắm vào nó?

– Đúng, phải nhắm vào nó, đến phút chót. Trong đời sống tâm linh, cái đèn con nhắm là cái ánh sáng từ bên trong, từ nội tâm, của Bát nhã. Bên ngoài có ngũ giới để tránh, bên trong có Bát nhã để hướng thì khỏi đi lạc.

– Liên hệ thế nào với đi biển ban đêm, thưa thầy?

– Có một nước ở Nam Mỹ, hồi xưa, cả ngàn năm trước, có nền văn minh rất cao. Dân tộc Maya, vùng Yucatan bây giờ của Mễ tây cơ. Lúc đó làm gì có GPS hay vệ tinh. Họ tìm ra một cách rất thần kỳ để hướng dẫn tàu bè của họ trở về đất liền, an toàn không đụng đá ngầm.

Vô Kỵ bắt đầu tò mò. Đá ngầm. Đúng thật, đụng đá là chết, ban ngày đã khó thấy rồi. Ban đêm, đèn sáng cách mấy cũng chẳng hơn được gì. Để một cái hải đăng nhỏ ở đó thì là tiện nhất, cần gì phải sáng chế cái gì khác.

– Dân Maya rất thông minh. Chỗ biển của họ có nhiều đá ngầm. Tàu bè của họ đụng mấy đá ngầm cả trăm năm rồi nên họ có kinh nghiệm. Họ đánh dấu đá ngầm. Họ khám phá ra có một hải đạo rất hẹp đi thẳng vô thành phố, không có đá ngầm. Khổ một nỗi, hải đạo nầy rất dài mà ban đêm thì mấy dấu hiệu không thấy được. Họ bèn xây một cái tháp bằng đá, cao bằng 10 tầng lầu, kiểu Kim tự tháp ở Ai Cập nhưng nhỏ hơn. Trên đỉnh tháp, họ xây một cái phòng, chỉ có một cái cửa sổ, hẹp và cao, hướng ra biển. Ở cuối phòng, xa cửa sổ, họ đốt lửa to. Ánh sáng thoát ra khỏi phòng chỉ có thể qua cửa sổ thôi. Cái chùm ánh sáng nầy rất hẹp vì nguồn sáng ở xa khe hở. Một người nào đó chỉ thấy được ánh sáng nầy khi nào họ đứng ngay trong chiều của chùm ánh sáng nầy.

Vô Kỵ vỗ đùi cười ha hả. Nó bắt đầu hiểu cái trí thông minh của người Maya.

– Thành ra, từ ngoài biển khơi – thầy nó giải thích tiếp – thuyền nào mà thấy được chùm sáng nầy là an toàn trong cái hải đạo không đá ngầm nầy. Lệch qua một chút, không còn thấy ánh sáng nữa, họ biết ngay là phải lái trở lại một chút. Cứ thế mà từ từ tiến về đất liền an toàn.

– Hay quá. Hay quá, dân Maya thông minh thật.

– Con học được bài học gì, Vô Kỵ?

– Bài học gì, thưa thầy? Dĩ nhiên là dân Maya muốn về an toàn thì về ban đêm là tốt nhất. Ban ngày, đá ngầm thì không thấy mà ánh sáng của lửa trên tháp làm sao thấy được.

Đôi khi, từ khổ đau mà tỉnh thức

Khổ đau có thể ví như đêm dài. Đêm dài có thể đưa đến trầm cảm, tuyệt vọng. Thế nhưng, có những lúc, có những hoàn cảnh mà đêm trở thành quá dầy, nó có thể đánh thức một cái ánh sáng giác ngộ mà đã có sẵn ở đó từ bao giờ mà ai đó không thấy được vì cái gì cũng trôi chảy, dễ dàng.

“Đôi khi một cái đau khổ cùng tột lại là một tiếng chuông làm cho người ta giật mình, tỉnh giấc ra khỏi mộng đời”

(Sometimes extreme suffering turns out to be a waking up call for somes) *

(HĐĐ)

………………………………………………………………………………………………

* Đọc được trong một buổi học CME (Continued Medical Education) ở Boston

 

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống

Họp mặt lớp “Phật Học & Đời Sống”

20/11/2019 By Bac Si Do Hong Ngoc 2 Comments

 

Vài hình ảnh về buổi Họp mặt lớp “Phật Học & Đời Sống”

(CN 17.11.2019).

 

(ảnh NVQ)

 

Buổi họp mặt nhân Ngày Nhà giáo Việt Nam cũng là dịp kỷ niệm 2 năm Lớp “Phật Học & Đời Sống” của Chùa Phật học Xá Lợi Tp.HCM. Như vậy là đã trải qua 50 buổi học được quay videoclip đưa lên youtube (do nvquyen thực hiện) và gần 50 buổi của năm vừa qua – đã không quay video clip- mà chỉ thảo luận học tập tại chỗ.

 

Anh Dương Minh Trí thay mặt anh chị em đọc “diễn văn”…

 

“Hôm nay nhân Ngày Nhà giáo em xin đại diện cho lớp PHẬT HỌC và ĐỜI SỐNG chúc Bs. Ngọc, thầy Minh Ngọc và anh Thiện được nhiều sức khỏe và có nhiều an lạc trong cuộc sống.

Lớp chúng ta là một lớp học khá đặc biệt, chúng ta không được dạy về kiến thưc thế gian để mưu sinh trong cuộc sống mà được dạy về giáo lý Phật Đà, một giáo lý thậm thâm vi diệu và cũng là một phương tiện rất hữu ích giúp chúng ta có được một cuộc sống an lạc thân tâm trong một xã hội đầy bề bộn, xô bồ như hiện nay. Đây là một thuận duyên rất lớn và chúng ta hãy cùng nhau nắm bắt nó, hiểu nó và thực hành nó. Lớp xin tri ơn đến các thầy đã tạo ra cơ duyên thuận lợi này cho chúng em.

Với Bs Đỗ Hồng Ngọc, ngoài sự trải nghiệm dày dặn của bản thân, ngoài một phương pháp giảng dạy rất khoa học khêu gợi trí tư duy của mỗi người,  Bs còn có một phong cách nói chuyện rất từ tốn, điềm đạm, ung dung. Điều này đã gây ấn tượng cho lớp ngay từ những buổi đầu được tiếp xúc với Bs. Một người thầy dạy đạo ngoài việc truyền đạt giáo lý qua khẩu giáo còn truyền giới đức qua thân giáo, phong cách của Bs có thể xem như là thân giáo và mỗi chúng ta nên học hỏi.

Với thầy Minh Ngọc, một người được đào tạo bài bản về Phật học, có kiến thức uyên thâm về Hán văn, thầy đã giải thích rõ ràng những ý nghĩa thâm thúy của các thuật ngữ bằng tiếng Hán trong kinh điển. Ngoài ra thầy có cách diễn đạt câu chữ rất rõ rãng làm cho người học dễ tiếp thu và có đặc tính nói rất thật khi nhận xét hay phát biểu về một vấn đề nào đó.

Với anh Tô Văn Thiện, một người gắn bó lâu dài nhất với lớp, là một người đã làm việc qua nhiều năm , đầu tiên là với thầy Thích Đồng Bổn, kế tiếp là với thầy Thích Tuệ Nhật và hiện nay là với Bs. Đỗ Hồng Ngọc và thầy Minh Ngọc. Có thể nói lớp chúng ta tồn tại và phát triển được như ngày nay một phần lớn công lao thuộc về anh. Anh Thiện cũng là người rất chu đáo, chuẩn bị bài vở rất kỹ mỗi khi anh tham dự lớp.

Một lần nữa chúng em xin cám ơn các Thầy rất nhiều.

Café Đông Hồ

Sài Gòn, ngày 17/11/2019″

 

Anh Đào Văn Thanh, người “học viên” lớn tuổi và kỳ cựu nhất của Lớp phát biểu rất hay, và đóng góp nhiều ý kiến cho những Chuyên đề nên học vào thời gian tới.

Cô Hoa Đức cũng là một “học viên kỳ cựu” phát biểu rất chân tình. Sau đó, các anh chị em lần lượt nói lên những cảm nghĩ, những “hiệu ứng” của việc trải nghiệm thực tế… trong đời sống hàng ngày…

Rồi cùng kéo nhau chụp chung một tấm hình lưu niệm. (Ảnh nvquyền)

(ĐHN)

Filed Under: Lõm bõm học Phật, Phật học & Đời sống, Vài đoạn hồi ký

Sáng, Trưa, Chiều, Tối…

17/11/2019 By Bac Si Do Hong Ngoc 2 Comments

SÁNG, TRƯA, CHIỀU, TỐI…
Đỗ Hồng Ngọc

(ĐHN)

Kinh sách khuyên học Phật dù một câu một chữ cũng… quý !Lục tổ Huệ Năng lúc còn gánh củi trên rừng chỉ nghe người ta tụng câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” mà hoát nhiên đại ngộ. Lại nhớ chuyện một thiền sư cho đệ tử mỗi một chữ “Vô” để làm “thoại đầu” mà thiền tập…

Các bậc tôn túc tự xưa đã đúc kết những câu những chữ chẳng đáng cho ta ngẫm ngợi đó sao?

Chẳng hạn “trà Tào Khê”, “cơm Hương Tích”, “thuyền Bát-nhã”, “trăng Lăng-già”!

Chẳng đủ cho một ngày Sáng, Trưa, Chiều, Tối… cho mỗi chúng ta đó sao?

 

Trà Tào Khê

Huệ Năng từ phương Nam lặn lội đến Huỳnh Mai bái Ngũ tổ Hoàng Nhẫn.

Tổ hỏi: “Ngươi từ phương nào đến, muốn cầu vật chi?”.

Huệ Năng đáp: “Đệ tử là dân Lãnh Nam, từ xa đến lễ Thầy, chỉ cầu làm Phật, không cầu gì khác!”.

Tổ bảo: “Ông người Lãnh Nam quê mùa, ít chữ, làm sao kham làm Phật?”.

Huệ Năng đáp: “Người có Bắc Nam chớ Phật tánh đâu có Nam Bắc. Kẻ quê mùa này cùng với Hòa thượng chẳng đồng, nhưng Phật tánh đâu có sai khác!”.

Hoàng Nhẫn giật mình. Cho xuống bếp… bửa củi, nấu cơm, giã gạo!

Không lâu sau đó, Ngũ Tổ gọi riêng truyền dạy cho, rồi trao y bát, lẻ n đưa Huệ Năng xuống thuyền trốn về phương Nam xa xôi nơi có dòng suối mát Tào Khê tu tập. Huệ Năng trở thành Lục tổ từ đó, ngày ngày uống ngụm trà Tào Khê, bắt đầu truyền thụ dòng Thiền “đốn ngộ”. Tâm truyền tâm. Bất lập văn tự. Kiến tánh thành Phật. Lấy Vô niệm làm tông, Vô tướng làm thể, Vô trụ làm gốc.

Huệ Năng dạy học trò nghiêm khắc. Đệ tử từ xa tìm đến tham vấn, xin ấn chứng mà chưa tỏ ngộ, chưa thấy “bổn lai vô nhất vật”, chưa nhận ra “Thức tự tâm chúng sanh – Kiến tự tâm Phật tánh”, còn loay hoay dính mắc mãi những đâu đâu thì thường bị quở phạt, trách mắng, cảnh tỉnh.

Một hôm có người học trò Vĩnh Gia Huyền Giác đến Tào Khê. Huyền Giác xuất gia từ nhỏ, tinh thâm Thiên Thai tông, nhờ xem Duy-ma-cật Sở thuyết mà tâm địa bừng ngộ.

Gặp Huệ Năng, ông đi quanh ba vòng rồi chống tích trượng đứng yên. Huệ Năng trách: Phàm làm Sa-môn phải đủ ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh, Đại đức từ đâu đến mà lớn lối ngạo mạn vậy?

Huyền Giác trả lời: Sinh tử sự đại – Vô thường tấn tốc (sinh tử việc lớn, vô thường mau chóng, lễ nghĩa làm chi!).

Huệ Năng đáp: Sao không nhận cái lý (thể) “Vô sinh” và thấu rõ (liễu) cái nghĩa “không chóng”.

Huyền Giác đáp: “Thể” tức vô sinh, “liễu” vốn không chóng.

Huệ Năng khen: Đúng vậy! Đúng vậy! Thế rồi Huệ Năng cùng Huyền Giác đối đáp, càng lúc càng sôi nổi.

Đoạn, Huyền Giác xin kiếu về, Huệ Năng hỏi. Về chóng thế sao?

Rồi, mời Huyền Giác ở lại Tào Khê với mình một đêm để cùng uống trà… mà đàm đạo!

Về sau, Huyền Giác viết Chứng đạo ca: Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân, Bất trừ vọng tưởng bất cầu chân. Vô minh thực tánh tức Phật tánh, Ảo hoá không thân tức Pháp thân. (…)

 

Cơm Hương Tích

Hôm đó Duy-ma-cật tiếp Bảo Tích và năm trăm vị vương tôn công tử, thiếu gia, con nhà viên ngoại – là những Bồ-tát tại gia tương lai – tại cái thất trống trơn của ông ở thành Tỳ-da-ly.

Giữa lúc mọi người đang sôi nổi hào hứng bàn những chuyện cao xa như hữu lậu với vô lậu, hữu vi và vô vi, sinh tử và niết-bàn… thì Xá-lợi-phất, vị đệ tử trí tuệ bậc nhất của Phật, lên tiếng đưa mọi người về “mặt đất”: “Sắp đến giờ ăn rồi. Các vị Bồ-tát này sẽ ăn thức gì đây?”.

Duy-ma-cật: “Xin đợi cho giây lát, tôi sẽ khiến quý vị được thứ thức ăn chưa từng có”. Thức ăn chưa từng có ư? Với các vị vương tôn công tử, thiếu gia, con nhà trưởng giả này thì cao lương mỹ vị có gì là lạ, tổ yến hồng sâm, nem công chả phượng có gì là lạ.

Họ háo hức chờ đợi Duy-ma-cật mang đến thứ thức ăn “chưa từng có”!

Thì ra… Duy-ma-cật mang đến một mùi hương! Một mùi hương thơm. Thứ “thức ăn” xin được từ cõi Chúng Hương của Phật Hương Tích! Đó là một thứ “thức ăn” chưa từng có.

Duy-ma-cật liền nhập vào Tam-muội, dùng sức thần thông khiến cho đại chúng nhìn thấy về hướng trên, cách đây nhiều cõi Phật liên tiếp nhau như số cát của bốn mươi hai con sông Hằng, có một cõi nước tên là Chúng Hương, hiện có Đức Phật hiệu là Hương Tích ngự tại đó. Nước ấy có mùi thơm bậc nhất đối với các mùi thơm của người ta và chư thiên ở các thế giới chư Phật mười phương. Khắp cõi ấy, mùi thơm tạo ra lầu gác. Người ta đi trên đất bằng mùi thơm. Các cảnh hoa viên và vườn tược đều bằng mùi thơm. Từ nơi thức ăn, mùi thơm bay tỏa ra khắp vô lượng thế giới mười phương.

Duy-ma-cật chỉ xin “chút xíu thức ăn thừa” của Phật Hương Tích để đãi các vương tôn công tử tại Tỳ-da-ly hôm ấy. Chỉ một  chút xíu thức ăn thừa  thôi nhé. Một chút thức ăn thừa thôi cũng đã là quá đủ, bởi thứ “thức ăn chưa từng có” đó là một thứ “vô tận hương” đến từ bên trong của người có giới đức. Chính là hương giới đức. Một thứ hương có thể “bay cao, bay xa, bay ngược chiều gió”!

Hương thơm giới đức không thể có trong một ngày một buổi. “Hương” thơm đó phải được “Tích” chứa từ từ mới đầy dần lên được, mới sung mãn, mới tràn trề… mới “ngát hương”!

Nhờ giới đức, cõi Chúng Hương đó của Phật Hương Tích chẳng cần phải thuyết pháp bằng văn tự mà chỉ dùng các mùi hương là đủ. Mọi chúng sanh nhờ hương giới đức mà đắc nhập luật hạnh. Bồ-tát ở cõi đó mỗi vị đều ngồi nơi cội cây thơm, nghe mùi thơm vi diệu kia mà thành tựu hết thảy các phép Tam-muội Đức tạng. Chẳng cần phải nói năng cho phiền hà, gây tranh cãi, hý luận. Bởi Giới là gốc. Có Giới thì có Định, có Huệ đó vậy.

 

Thuyền Bát-nhã

“Bát-nhã” lúc nào cũng phải có … “thuyền”! Nhưng có lúc “bè” cũng được… Có lần Phật bả o các đệ tử: Qua sông rồi còn vác bè theo chi cho nặng!

Quán Tự Tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa (Prajna Paramita) thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.

Bát-nhã luôn là Bát-nhã “Ba-la-mật”. Prajna paramita. Para: bờ kia, bên kia. Mita: đến. Paramita: là đến bờ kia, là “đáo bỉ ngạn”. Từ bờ mê qua bến giác.

Qua bờ kia thì “Độ nhất thiết khổ ách” được ư? Được. Với điều kiện hành thâm Bát-nhã. Thấy rõ năm uẩn đều Không. Chẳng những vậy, khi đã thấy không tướng, thực tướng vô tướng, đã sống với Bát-nhã, sống trong Bát-nhã thì… cái núi Tu-di to đùng kia có thể nhét vào hột cải, nước bốn biển mênh mông nọ có thể cho vào một lỗ chân lông… !

Một khi lý đã vô ngại thì sự vô ngại. Lý sự đã vô ngại thì sự sự vô ngại…

Nhưng, thuyền có đi thì có về, có qua thì có lại. Các vị Bồ-tát theo nguyện vì người mà nấn ná cõi Ta-bà, qua qua lại lại giữa đôi bờ. Thuyền thong dong qua lại mà cũng chỉ quanh quẩn ở lòng ta, tâm ta.

Con thuyền vẫn đi có khi trên dòng nước xuôi, có khi trên dòng nước ngược. Phải chèo phải chống. Không dễ mà lỏng buông tay lái. Bố thí. Trì giới. Nhẫn nhục. Tinh tấn. Thiền định. Trí huệ.

Bát-nhã, Prajna, là cái Biết trước cái Biết. Pra là trước, Jna là biết. Cái biết trước cái biết là cái biết hiện tiền, biết “như thực”, không qua suy luận, phê phán, biện biệt. Cho nên nó đã là Trí chớ không còn là Thức nữa. Hay nói cách khác Thức đã chuyển thành Trí.

 

Trăng Lăng-già

Chưa có khi nào Phật cười to như thế, cười sảng khoái, “cười hùng mạnh như vua sư tử …” giữa đêm trăng Lăng-già cùng với chúa đảo Ravana và thần dân của ông, với sự có mặt của hàng ngàn Bồ -tát.

Ấy bởi Phật đã thuyết giảng chân lý giúp cho mọi người chuyển hóa tâm thức, vượt ngoài tri thức lý luận, vượt cả tam-ma-địa thông thường để mà an trú trong Bất động địa, Thiện tuệ địa, Pháp vân địa, cảnh giới cao nhất, nhập vào Như Lai tạng, bằng “tự chứng tự nội”…

Giữa đỉnh núi ở trên đảo Lăng-già khi nhìn những ánh trăng bập bềnh trên sóng nước, vỡ tan, vỡ tan theo từng con sóng, Phật đã cấ t tiế ng cườ i to. Á nh trăng vỡ tan và gom tụ lại. Rồi vỡ tan, rồi gom tụ lại. Hoa đốm hư không. Dấu chân chim ngang trời. Bức tranh vân cẩu. Nó vậy đó. Thế giới muôn hồng ngàn tía cũng chỉ do tâm thức tạo ra. Nó như huyễn, nó như mộng, như bào ảnh, như sương mai, như ánh chớp… Bên dưới đó, là Như Lai tạng, là A-lại-da vẫn im ả, “như như bất động”. Chỉ có cái thức tâm phân biệt của ta quậy phá chính ta. Cái tâm thanh tịnh bổn nhiên kia vẫn im ắng. Không lay động. Vẫn bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm.

Vì thức khởi mà sự sinh. Thế giới chỉ là tâm thức của chính mình. Chúng sanh là ảo vật do ảo thuật gia là ta vẽ bày để rồi tự mình phan duyên, dính mắc, khổ đau… Bồ-tát thấy biết như vậy, thấy biết nhứt thiết duy tâm tạo, thấy chúng sanh là ảo vật do chính mình tạo ra rồi thức tâm phân biệt, chấp trước mà khổ đau bèn nói thẳng cho mọi người cùng biết. Nói thẳng ra như thế mới là “lòng từ chân thật”, không giấu giếm, che đậy, không hù dọa, gạt gẫm nhau chi! Vì như huyễn, mà có lòng Từ. “Trí chẳng đắc có không – Mà hưng tâm đại bi”.

Tâm bất sinh thì vô sinh. Vô sinh thì vô sự. Dứt mọi phân biệt của thức tâm thì không bị quậy phá nữa. Ở đó là Như Lai tạng. Nhất thiết chủng trí . Đại viên cảnh trí .

Thấy biết Như Lai, thì sống với Như Lai, sống trong Như Lai, sống cùng Như Lai vậy.

Đỗ Hồng Ngọc | Văn Hóa Phật Giáo s333 ngày 15-11-2019

(thuvienhoasen.org)

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống

Đỗ Hồng Ngọc: Đi & Học

13/11/2019 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

Đi & Học

Ghi chú:

Tháng 2-2015 khi đi café với một người bạn trẻ về đến nhà thì nhận được 3 cuốn bản thảo “Tuyển tập Đỗ Hồng Ngọc” dày cả ngàn trang A4 của một người không quen biết gởi tặng. Giật mình, ai vậy cà? Thấy có kẹp mảnh giấy nhỏ, ghi số điện thoại và email, ký tên Nguyễn Hiền Đức. Bèn phone thăm hỏi mới biết đó là một bạn đọc quý mến mình, đã “dõi theo” hành trình viết lách của mình từ lâu, nay tỉ mẫn ghi chép lại cả một tuyển tập đồ sộ gởi tặng và nói còn sẽ gởi tiếp mấy tập nữa!

Nguyễn Hiền Đức (5 Hiền), trước 75 là Thư ký Tòa soạn của tạp chí Tư tưởng, và là thư ký riêng của HT Thích Minh Châu, phụ trách Tu thư ở đại học Vạn Hạnh. Anh tốt nghiệp Báo chí và Xã hội học, rồi cao học Sử, đại học Vạn Hạnh. Đó là một người nghiêm túc, cẩn mật, nhiệt tâm, và rất dễ thương…

Nguyễn Hiền Đức đã về ở Cali mấy năm nay. Giờ anh cũng vào tuổi  75- nghĩa là còn khá trẻ- đã cùng với Nguyễn Minh Tiến, Văn Công Tuấn… thành một nhóm “Tam Nguyên”…

Đọc loạt bài “Úc du”… một chuyến của mình trên trang này, anh bỗng có sáng kiến gom lại thành một file “trọn bộ” 7 bức thư để bạn xa xôi dễ đọc, thay vì tản mác khó tìm. Đây là một ý rất hay, bởi tìm đọc các bài rải rác, dù chung một chủ đề cũng không phải là dễ ngay trên www.dohongngoc.com của mình. “Được voi đòi tiên”, mình bèn nhờ anh 5 Hiền gom luôn cho bài Về thăm xứ Phật, Nepal và Về Huế thăm chùa, vào chung trong một tập lấy tên là Đi & Học.

Vậy là có ngay một “tệp”– chữ của 5 Hiền- để gởi đến các bạn tùy hỷ.

Đa tạ bạn… Hiền!

Đỗ Hồng Ngọc.

(13.11.2019)

Vui lòng xem Ebook tại đây:

Filed Under: Ghi chép lang thang, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống

  • « Go to Previous Page
  • Go to page 1
  • Go to page 2
  • Go to page 3
  • Go to page 4
  • Interim pages omitted …
  • Go to page 7
  • Go to Next Page »

Thư đi Tin lại

  • Lịch “Trò chuyện, giao lưu…”
  • Lại đính chính: “SAIGON BÂY GIỜ”
  • ĐÍNH CHÍNH: BSNGOC không phải là BS ĐỖ HỒNG NGỌC
  • Đính chính: BS NGỌC không phải là Bs Đỗ Hồng Ngọc
  • bsngoc đã lên tiếng đính chính
  • Thư cảm ơn và Đính chính về FACEBOOK Bác sĩ NGỌC
  • ĐÍNH CHÍNH: Bài viết "TÀN NHẪN" không phải của Bs Đỗ Hồng Ngọc

PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG

Kỳ 3 Lớp An Cư Chùa Xá Lợi, 2022

Bài đọc thêm: DƯỢC TÍNH TRONG TÂM…

Hiểu thêm về “giả dược” (Placebo)!

Nguyễn Hiền-Đức: Tập tuyển CÀNH MAI SÂN TRƯỚC

Minh Lê: Học Phật qua thơ Đỗ Hồng Ngọc

TẠP GHI (Lõm bõm… Kỳ 4b)

Tạp Ghi (lõm bõm… kỳ 4): Mười Hạnh Phổ Hiền

TẠP GHI (Lõm bõm…) kỳ 3

Tạp Ghi (Lõm bõm kỳ 2)

TẠP GHI (Lõm Bõm)

Xem thêm >>

Chuyên mục

  • Một chút tôi
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy

Bài viết mới nhất!

  • Vài ngày về thăm Lagi, Phan Thiết…
  • Ngày của Cha – Happy Father’s Day
  • Kỳ 3 Lớp An Cư Chùa Xá Lợi, 2022
  • Bài đọc thêm: DƯỢC TÍNH TRONG TÂM…
  • Hiểu thêm về “giả dược” (Placebo)!

Bài viết theo tháng

Ý kiến bạn đọc!

  • Tùng Phạm trong Bài đọc thêm: DƯỢC TÍNH TRONG TÂM…
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Giới thiệu
  • Đinh Hà Duy Linh trong Giới thiệu
  • Hồng trong Song Thao: GIÀ KHÚ ĐẾ
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Buổi trò chuyện về Thiền “Quán Niệm Hơi Thở”
  • Cao Huy Khiem trong Buổi trò chuyện về Thiền “Quán Niệm Hơi Thở”
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong “Xả”… stress !
  • “Xả”… stress ! | suonglamportland trong “Xả”… stress !
  • Phan Công Khương trong Nguyễn Mậu Pháp: CẢM NHẬN  “VỀ THU XẾP LẠI…”
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Có một “nghệ thuật”… ngủ!

Cùng một tác giả

  • 0
  • 1
  • 1
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6

Thống kê

Nhà tài trợ

biệt thự vũng tàu
biệt thự vũng tàu cho thuê | biệt thự vũng tàu cho thuê theo ngày giá rẻ | cho thuê biệt thự vũng tàu có hồ bơi
© 2009 - 2016 Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Phát triển & Hỗ trợ kỹ thuật bởi SGC.
Trích dịch nội dung để dùng trong nghiên cứu, học tập hay dùng cho cá nhân đều được tự do nhưng cần phải chú thích rõ nguồn tài liệu và đối với các trích dịch với mục đích khác, cần phải liên lạc với tác giả.
  • Một chút tôi
    ?
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    ?
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    ?
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    ?
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    ?
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy
  • Nhận bài mới qua email