Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Tập hợp các bài viết của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Ghi chép lang thang
  • Nhận bài mới qua email

Hồ Đắc Đằng: VÔ KỴ HỌC BẮN CUNG

10/11/2019 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Ghi chú: Bác sĩ Hồ Đắc Đằng là người bạn cùng khóa với tôi tại Y khoa Đại học đường Saigon (1962-1969) vừa có loạt bài viết rất thú vị về chuyện “Vô Kỵ Học Võ” đã được post trên trang này và được rất nhiều bạn bè chia sẻ. Anh tiếp tục có bài Vô Kỵ Học Lái Xe cũng rất độc đáo. Và hôm nay là bài “Vô Kỵ học bắn cung” với Đứng, Nắm, Nhắm, Buông… rất tuyệt vời.

Xin chia sẻ cùng các bạn.

Cảm ơn Hồ Đắc Đằng.

Đỗ Hồng Ngọc

PS Đa tạ Đèn Biển (Võ Quang), người đã chịu khó gõ Word từ bản viết tay “chữ bác sĩ” đọc không ra của Hồ Đắc Đằng.

……………………………………………………………….

Vô Kỵ học bắn cung

Hồ Đắc Đằng

Vô Kỵ đánh võ thì giỏi, tánh tình thì điềm đạm mà cái gì có dính dáng đến võ khí là nó sợ nhất. Nó không còn có một tâm thức nào làm người khác, vật khác đau nữa, nói chi là bắn với giết. Vì vậy khi hắn nghe thầy bảo thầy sẽ dạy nó bắn cung, hắn từ chối ngay tức khắc.

– Vô Kỵ nầy. Cái tư tưởng không bao giờ làm người khác đau của con quí báu vô cùng. Còn cái nghệ thuật bắn cung của thầy dạy đây chẳng những không bao giờ làm ai đau mà lại, nếu con thực hành đúng, nó sẽ làm cho mọi người vui.

Trước hết, con phải thấm nhuần vài nguyên tắc căn bản của cái nghệ thuật nầy. Hai nguyên tắc chánh:

1/ Thứ nhất: Bắn để đúng, không phải để được.

Người đời thường hiểu lầm cái nầy. Bắn cái gì là để được cái đó. Bắn con nai thì muốn con nai ngã xuống để lấy về ăn nhậu, khoe khoang. Bắn cho được là lấy vô. Bắn cho đúng là cho ra. Ai đi săn tìm hạnh phúc cho mình sẽ chỉ lấy vô được khoái lạc (excitement). Ai đi săn tìm hạnh phúc cho người sẽ tạo ra, cho ra hạnh phúc cả mình lẫn người.

– Thầy nói có lý, con có đọc đâu đó một tác giả Mỹ nói cái chi đó tương tự như vậy “In life, happiness is not a goal. Happiness is a by-product”, “The more you are looking for ít, the farther away it will evade you.”

– Con giỏi thật, đọc mà nhớ được mấy cái lặt vặt nầy. Thầy khen con đấy. Đó là phu nhân của một cựu tổng thống Mỹ, bà Eleanor Roosevelt.

2/ Thứ hai: Tâm thức khi bắn cung. Tâm thức của thân hữu, không bao giờ của thù nghịch.

Với 2 nguyên tắc nầy, thầy mới có thể dạy con cái nghệ thuật gần như thất truyền nầy. Người ta bây giờ cũng hay học bắn, bắn súng. Súng đạn không bao giờ ứng dụng được 2 nguyên tắc nầy của cung tiễn.

Vô Kỵ bắt đầu tò mò hơn. Từ khinh thường cung tiễn vì ý tưởng của bạo lực, vũ khí đến cái tò mò của tâm thức trong bắn cung.

Đứng

– Nầy Vô Kỵ. Đứng ở đây có 2 khía cạnh: Tư thế đứng cho vững của thân thể, con giỏi rồi, như lúc học võ, đứng lại như ngũ giới, có 5 cái không làm. Một khía cạnh khác là dừng lại. Tâm con chậm lại, dừng lại. Con còn nhớ một tâm nhanh là một tâm bệnh ; một tâm chậm là một tâm khỏe mạnh ; một tâm dừng lại là một tâm ngộ.

Hiện tại thầy đang dạy con ở cái chặng thứ hai nầy: chậm lại. Dừng hẳn lại là Ngộ đó con.

– Chừng nào mới Ngộ thưa thầy? – Vô Kỵ tò mò nhiều nên thiếu kiên nhẫn.

– Vô Kỵ con, đừng có nóng lòng, mong đợi một cái gì hết. Ngay cả mong đợi giác ngộ. Để yên cái giác ngộ đó. Chẳng có ai tranh đua đến trước, giữ chỗ sắp hàng như tụi Mỹ sắp hàng từ 3 giờ sáng để chờ bán hạ giá sau lễ Tạ ơn tháng nầy (After Thanksgiving sale).

Nắm

– Vô Kỵ. Cái nắm nầy là cái thứ 2 của 4 tác động của bắn cung: Đứng, Nắm, Ngắm và Buông.

Luôn luôn phải nắm cung bằng tay trái. Thầy biết con thuận tay trái. Sẽ dễ cho con tập. Sẽ dễ cho thầy dạy.

“Quái lạ, ai thuận tay nào, nắm tay ấy, sao lại phải nắm bằng tay trái nhỉ?” Vô Kỵ tự hỏi. Thầy nó biết ý, mới giải thích:

– Vô Kỵ nầy. Não bộ của người có 2 bán cầu não. Một phải, một trái. Hai cái làm việc hỗ trợ nhau nhưng luôn luôn có một bên mạnh hơn (dominant). Người thuận tay trái, bán cầu não bên phải mạnh hơn. Người nào thuận tay phải thì bán cầu não bên trái mạnh hơn.. Hơn nữa Vô Kỵ con phải biết, còn có vấn đề tâm lý nữa.

“Não trái, não phải mà dính đáng đến tâm lý mình?” Nó lại càng tò mò hơn nữa.

– Thần kinh học sau nầy khám phá ra cái nầy. Bán cầu trái thì thiên về phân tách, đo lường, lý luận và thắng với thua. Bán cầu phải thì lại khác, nó thiên về cảm nhận, tổng hợp, bao dung và từ bi! Đại khái như kiểu Nam tả, Nữ hữu của Á đông mình. Đừng có lộn với câu Tả trọng, Hữu khinh nhé, Vô Kỵ. Cái Tả trọng, Hữu kinh nầy là do người đặt ra, không phải thiên nhiên khoa học. Thầy chỉ dạy con cái thiên nhiên thôi. Chỉ cần nhớ bán cầu và tâm lý của mỗi bán cầu não.

– Làm sao họ khám phá ra mấy cái nầy, thưa thầy?

– Từ bệnh. Mấy thầy thuốc họ theo dõi tâm lý của mấy bệnh nhân trước và sau khi bị TBMMN (tai biến mạch máu não). Chính thầy đã nhận xét và thấy cái chuyện nầy có thật. Mấy ông bị bại xuội bên trái, tức là bị nhũn não bên bán cầu não phải. Trời đất ơi, mấy ổng trước bệnh khó một, sau khi bị TBMMN, khó gấp 3 lần. Cãi vã, kèn cựa, cãi chầy cãi cối. Mấy bà vợ chịu không nổi, Trái lại mấy người bị bại bên phải thì hiền lại hẳn. Hết cãi cọ, lý luận, trách móc như trước khi bệnh. Hiền hẳn lại, Người nhà ai cũng nhận thấy. Tại sao? Bán cầu não bên trái của mấy người nầy bị nhũn. Mà bên trái là tranh luận đó! Mấy bác sĩ hospitalist (chỉ làm việc trong bệnh viện thôi, không theo dõi bệnh nhân như PCP (Primacy Care Physician) nên họ không để ý mấy cái vụ tâm lý thay đổi nầy. Họ không biết bệnh nhân trước khi mấy bệnh nhân nầy nhập viện. Ra viện, họ cũng không theo dõi lâu dài. Giao lại cho PCP.

– À ra vậy – Vô Kỵ vỡ lẽ nhưng vẫn còn thắc mắc – Tại sao mấy cái khái niệm trái phải của bán cầu não lại liên hệ với nắm cung tay nào?

– Bao dung và từ bi. Đó là lý do để nắm cung tay nào. Cái tay hướng cung về đâu. Cái tay đó phải được điều khiển bởi cái tâm bao dung và từ bi. Cái tâm của bán cầu não phải.

Vô Kỵ ngẫm nghĩ, trầm tư. Nó đâu có ngờ tay nào cầm cung có tầm quan trọng như vậy. Chỉ nhắm. À ra vậy. Nhắm với lòng từ bi, bao dung, ôn hòa mới gọi là nhắm đúng. Không phải bắn trúng thôi là đủ.

Nhắm

– Cái nầy mới là cái chủ chốt đấy Vô Kỵ. Nhắm một cái đích. Một mục tiêu.

– Còn xa gần thì ra sao, thưa thầy?

– Giỏi, hỏi như vậy. Không phải gần mà dễ. Thiên hạ chỉ quan tâm đến mấy mục tiêu xa, khó thấy, mà quên mấy cái mục tiêu gần. Nhìn xa mà quên nhìn gần là lọt xuống ổ gà không hay đó con. Đời sống mỗi bước chân trước mặt là quan trọng hơn cái mục tiêu xa vời. Con vô trường học để ra trường kỹ sư, bác sĩ, dược sĩ là đã được định rồi. Mỗi ngày đến lớp, đến bệnh viện để học là một công chuyện dài và lặn lội. Mục tiêu xa lâu lâu nhìn một cái là đủ. Mục tiêu gần phải nhìn hằng phút giây. Tỉnh thức trong mỗi bước đi: nhìn gần.

Mục tiêu di động

– Mục tiêu nó di động thì sao, thưa thầy?

– Mục tiêu nào cũng di động hết. Nghệ thuật bắn cung trong đời là mấy cái “di động” nầy. Cái ý muốn mục tiêu luôn đứng một chỗ là làm cho xạ thủ luôn luôn thất vọng. Mục tiêu trong đời sống là di động, là vô thường. Con phải biết hòa hợp cái nhắm của con vô cái di động nầy để hòa hợp với vũ trụ. Hòa hợp, harmony là một cái chung của một xạ thủ tài giỏi và một nhạc sĩ điêu luyện. Một lời nói, một tiếng nhạc mà hòa hợp nó sẽ làm lành lòng người. Súng đạn cũng bắn, tụi nó không được cái nầy. Súng đạn cũng cần nhắm nhưng không bao giờ hàn gắn cái gì cả. Chỉ tăng hận thù.

Nhắm cung và nhắm mắt.

– Trời đất, thưa thầy. Thầy giỡn sao chứ? Mở mắt, đèn sáng đây còn bắn không trúng, nói gì nhắm mắt – Vô Kỵ kinh ngạc.

– Vô Kỵ con. Cái nầy mới là cái tuyệt vời của cái nghệ thuật nầy. Mục tiêu ở bên ngoài mà người đời thường nhắm thì con không cần học thầy. Ai cũng dạy con được. Đó là nhắm vào sự được thua, thắng bại, là đời. Cái thầy dạy là nhắm vào bên trong. Mà khi cái nhắm nhìn nầy mà chánh rồi thì cái mục tiêu của con nó đã ở trên đầu mũi tên của con rồi, trước khi con giương cung.

Buông

– Thưa thầy, thầy chưa dạy giương cung – Vô Kỵ nhắc thầy nó.

– Cái nầy không cần dạy. Với sức lực dẻo dai mạnh mẽ của cánh tay mặt của con, con dư sức giương cung. Bây giờ con nhắm cung đã thuần thục, nhắm vào nội tâm; đứng đã điêu luyện, đứng trên tư thế của huynh đệ, từ bi, chỉ còn có cái cuối cùng là buông tên nầy.

– Thưa thầy, buông tên dễ ợt, kéo mới khó chứ – Vô Kỵ cãi lý với thầy nó.

– Vô Kỵ nầy. Cái nầy là cái khó nhất đấy con. Ai mà đứng đúng rồi, nhắm đúng rồi, mục tiêu đã ở rõ trong nhìn đúng thì đã đến trình độ thực hành cái tác phong cuối cùng nầy: buông tên. Buông tên là buông xả. Mũi tên đã đến đích trước khi rời tay con. Nhắm mắt, mục tiêu di động mà con đã bắn trúng hồng tâm là vì vậy.  Thân an tịnh, tâm từ bi, tự tại, nhắm mắt nhìn vào atrong thì tên tự nó bay đến hồng tâm, con thì buông xả. Có đích, có tên mà không có xạ thủ là vậy.

Vô Kỵ hân hoan đảnh lễ thầy.

HĐĐ

 

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Gươm báu trao tay, Phật học & Đời sống

Krishnamurti: CÁI  TRỐNG  RỖNG NỘI  TÂM

16/08/2019 By Bac Si Do Hong Ngoc 4 Comments

 

CÁI  TRỐNG  RỖNG (1) NỘI  TÂM

Krishnamurti

Dịch giả: Nguyễn Tường Bách

(Cám ơn dong phan đã gởi. Đang đợi cuốn sách dịch này của NTB).

Cô đội trên đầu một chiếc giỏ to, một tay giữ cho khỏi rơi; cái giỏ hẳn phải nặng lắm nhưng trọng lượng của nó không hề làm lệch bước cô đi. Cô giữ thăng bằng một cách tuyệt vời, cô bước đi nhẹ nhàng và có nhịp. Tay cô mang vòng phát nhẹ tiếng kêu leng keng, chân mang giày xăng – đan đã cũ. Chiếc váy sari của cô đã rách và bẩn vì đã mặc quá nhiều. Thường thì cô có nhiều bạn cùng đi, ai nấy đều đội giỏ cả, nhưng hôm nay cô chỉ một mình trên con đường gập ghềnh. Mặt trời chưa đến nỗi quá nóng và trên bầu trời xanh nhiều con chim kên kên lượn những vòng rộng, cánh không hề vỗ. Dòng sông chảy yên lặng dọc bên đường. Thật là một buổi sáng rất bình an, và cô gái cô đơn với chiếc giỏ trên đầu dường như là tâm điểm của cái đẹp và ân sủng; tất cả mọi sự dường như hướng về cô và nhận cô làm một phần sự tồn tại của chính mình. Cô không phải là một đơn vị tách rời, mà là một phần của bạn và tôi, và của cây me kia. Cô không đi trước mặt tôi mà lại là tôi đang đi với chiếc giỏ trên đầu. Đây không phải là ảo giác, là cái tự nghĩ, cái mong ước và sự tự đồng hóa được bày vẽ ra – nếu có thì thật là xấu hết chỗ nói – mà là một chứng nghiệm tự nhiên và tức thì. Vài bước chân cách ly giữa chúng tôi đã biến mất; thời gian, ký ức và khoảng cách không gian, những điều do tư tưởng sinh ra, đã hoàn toàn biến mất. Chỉ còn một cô gái này chứ không có tôi đang nhìn cô. Và cũng còn một đoạn dài nữa mới đến phố chợ, chỗ mà cô sẽ bán những đồ đựng trong giỏ. Buổi tối cô sẽ về lại dọc theo con đường này, qua cầu tre nhỏ về tới làng, và sáng mai mới ra lại với chiếc giỏ đầy.

Anh rất đứng đắn, độ tuổi trung niên nhưng anh có một nụ cười vui thích và cũng còn rất khỏe mạnh. Ngồi xếp bằng trên sàn, anh nói tiếng Anh một cách ngập ngừng. Anh hơi bẽn lẽn vì đã học đại học và đậu bằng thạc sĩ nhưng đã nhiều năm nay anh không nói tiếng Anh và do đó quên đi cũng nhiều. Anh đọc một số kinh sách bằng tiếng Sanskrit, những từ Sanskrit hay được thốt ra trên môi anh. Anh cho biết tới đây để đặt vài câu hỏi về sự trống rỗng nội tâm, sự trống không của tâm. Rồi anh bắt đầu ca bằng tiếng Sanskrit và căn phòng tức khắc tràn ngập bởi một sự cộng hưởng sâu lắng, thanh tịnh và thấm đượm. Anh tiếp tục hát một hồi và thật là hân hoan khi được nghe anh hát. Khuôn mặt anh ngời sáng lên với ý nghĩa của mỗi từ trong câu hát, anh dò tìm nội dung những từ đó với một tình thương yêu. Anh không có chút giả tạo nào, anh quá đứng đắn đến nỗi không biết làm bộ tịch.

“Tôi rất vui mừng được ca những bài sloka (2) này trước mặt ông. Đối với tôi những bài ca này có ý nghĩa sâu xa và chứa đầy vẻ đẹp; tôi đã thiền định từ nhiều năm nay và những bài ca này là suối nguồn của sự hướng dẫn và sức mạnh. Tôi đã tập mình đừng dễ bị xúc động thế nhưng những bài ca Sloka này làm tôi dâng trào nước mắt. Âm hưởng của từ ngữ với nội dung phong phú của nó tràn đầy tim tôi để tôi thấy cuộc đời không còn vất vả và thống khổ nữa. Cũng như mọi người khác, tôi đã biết khổ; biết đến sinh tử và niềm đau của cuộc sống. Vợ tôi đã chết và sau đó tôi từ bỏ cuộc sống êm ấm của gia đình, và bây giờ tôi hiểu ý nghĩa của thái độ tình nguyện chấp nhận nghèo khổ. Tôi kể để cho ông hiểu thôi. Tôi không bị thất vọng, không cô đơn, hay tương tự như thế. Tâm tôi thấy vui thích trong nhiều thứ, nhưng cha tôi thường kể về các cuộc nói chuyện của ông, và một người quen khuyên tôi nên tìm gặp ông, và vì thế mà tôi đến đây”.
“Tôi muốn nghe ông nói về sự trống rỗng vô lượng”, anh nói tiếp, “tôi có cảm nhận về sự trống rỗng đó, và tôi có cảm giác đã chạm đến biên giới của nó trong những lần đi hành cước và thiền định”. Sau đó anh trích đoạn một bài ca sloka để giải thích chứng nghiệm của mình.

Krishnamurti: Cần phải nói rằng, thẩm quyền của một ai khác, dù to lớn tới mấy, cũng không chứng minh kinh nghiệm của anh là đúng hay sai. Chân lý không cần phải được chứng minh bằng hành động, nó cũng không lệ thuộc vào bất cứ thẩm quyền nào; thế nên hãy dẹp qua một bên tất cả thẩm quyền và truyền thống và hãy tự mình tìm ra chân lý cho chính mình.

“Điều đó thật là khó cho tôi vì tôi bị ngâm trong truyền thống – không phải truyền thống của thế gian mà trong giáo pháp của Gita, của Upanishad (3), vân vân… Có đúng là tôi nên bỏ cả đi hay sao? Tôi sẽ là người vô ơn bạc nghĩa không?”.

K: Trong việc này không hề có vấn đề biết ơn hay vô ơn; chúng ta đang nói về việc khám phá cái đúng hay cái sai của sự trống rỗng mà anh nói đến. Nếu anh đi theo con đường của thẩm quyền và truyền thống, những thứ đó là tri thức, thì anh chỉ chứng nghiệm những gì anh muốn chứng nghiệm, được thẩm quyền và truyền thống hổ trợ. Nó không phải là một sự phát hiện mới mẻ; thứ đó đã được biết tới, như một vật cần được anh nhận biết và chứng nghiệm. Thẩm quyền và truyền thống có thể sai lầm, chúng có thể chỉ là những ảo giác đầy tiện nghi. Muốn khám phá sự trống rỗng nọ là đích thực hay hư vọng, hay liệu nó chỉ là sự bày vẽ của tâm, tâm phải thoát khỏi mạng lưới của thẩm quyền và truyền thống.
“Liệu có lúc nào tâm thoát được khỏi mạng lưới đó không?”

K: Tâm không thể nào tự giải phóng mình, vì mỗi cố gắng tự giải phóng của nó chỉ dệt nên một mạng lưới khác mà trong đó nó lại bị ràng buộc. Sự tự tại không phải là cái đối nghịch với bất cứ cái gì, tự do không phải là tự do thoát khỏi một cái gì đó, đó không phải là tình trạng được cởi trói. Chính bản thân niềm mong ước được tự tại nuôi dưỡng cái tù ngục. Tự tại là dạng của sự tồn tại mà dạng đó không phải được sinh ra từước mong được tự tại. Khi tâm thấu hiểu được điều này và thấy cái hư vọng trong thẩm quyền lẫn truyền thống, thì cái hư vọng sẽ tự tan rã.

“Có thể tôi bị xui khiến khi đọc sách, hay khi suy tư về những điều trong sách; ngoài ra thì từ hồi còn nhỏ, tôi đã cảm nhận mơ hồ, như mơ, về một cái trống rỗng. Trong tôi luôn luôn có một sự gợi biết về nó, một cảm nhận bâng khuâng; và khi lớn lên, khi đọc các sách tôn giáo tôi cảm thấy cảm giác này còn mạnh hơn, sinh động hơn, chắc chắn hơn. Tôi cũng bắt đầu thấy những gì ông nói. Hầu như tôi hoàn toàn bị lệ thuộc vào sự miêu tả về những chứng nghiệm của người khác, như được ghi lại trong kinh sách. Tôi có thể từ bỏ sự lệ thuộc này vì thấy cần thiết phải làm, nhưng liệu tôi có thể sống lại được cái cảm nhận độc đáo, thanh tịnh nằm ngoài mọi ngôn từ được không?”.

K: Cái được làm sống lại không phải là cái sinh động, cái mới; đó chỉ là ký ức, một thứ đã chết, và anh không thể thổi sự sống vào trong cái đã chết. Sống lại và sống trong ký ức chỉ là sự nô lệ của sự tự kích thích, và một cái tâm mà lệ thuộc vào sự kích thích, dù ý thức hay không ý thức, thì chắc chắn sẽ cùn nhụt và trở thành vô cảm. Làm sống lại chỉ là kéo dài thêm sự thất vọng. Quay về quá khứ đã chết trong cơn khủng hoảng đang xảy ra là đi tìm một khuôn mẫu để sống, điều này chính là sự hủy hoại. Điều mà anh cảm nhận là tuổi thanh niên, hay chỉ mới ngày hôm qua thôi, điều đó đã qua, đã mất; nếu anh bám giữ vào quá khứ thì anh chỉ ngăn chận sự chứng nghiệm tươi tắn của cái mới mẻ.

“Như ông thấy, tôi thật sự nghiêm túc và đối với tôi có cái thôi thúc phải hiểu ngộ và hòa nhập được vào Tính Không (4) đó. Tôi cần phải làm gì?”.

K: Người ta phải xả bỏ tâm thức của những cái đã biết; tất cả tri thức mà ta đã tích lũy phải dứt bặt thì mới mong nhận được ảnh hưởng của tâm đang sống động. Tri thức luôn nói về quá khứ, nó là một quá trình của quá khứ và tâm phải thoát khỏi quá trình đó. Nhận thức là một giai đoạn của quá trình tri thức, đúng thế không?

“Thế là sao?”

K: Muốn nhận thức một vật, anh phải biết đến nó rồi hay phải kinh nghiệm về nó trước đó và những kinh nghiệm này được tích lũy thành tri thức, thành ký ức. Nhận thức xuất phát từ quá khứ. Có lẽ anh đã một lần chứng nghiệm cái trống không này; và khi đã có, anh khao khát có nữa. Cái chứng nghiệm độc đáo đó đã đến khi anh không truy tìm nó; bây giờ thì anh đang tìm và cái mà anh đang tìm không phải là Tính Không mà làsự tái diễn của một ký ức cũ. Nếu nó phải xảy ra lại lần nữa thì tất cả ký ức về nó, tất cả tri thức về nó, phải biến mất đã. Tất cả mọi sự tầm cầu phải ngưng bặt, vì sự tìm kiếm luôn luôn dựa vào mong ước được chứng nghiệm.

“Thật sự ông muốn nói là tôi không được phép tìm kiếm? Nghe thật là điều khó tin!”.

K: Động cơ của sự tìm kiếm thường đáng biết hơn bản thân sự tìm kiếm. Động cơ thâm nhập, dẫn dắt và hình thành sự tìm kiếm. Động cơ từ lòng sở cầu của anh là mong được chứng nghiệm cái chưa biết, được nhận thức ân sủng và tính chất vô hạn lượng của nó.Tâm sở cầu này sinh ra người chứng nghiệm, kẻ mong ước sự chứng nghiệm (5). Người chứng nghiệm đi tìm sự chứng nghiệm to lớn hơn, bao trùm hơn và quan trọng hơn. Khi tất cả mọi kinh nghiệm khác đã hết hấp dẫn, người chứng nghiệm nóng lòng tìm Tính Không; vì thế mà có người chứng nghiệm một bên và bên kia là vật được chứng nghiệm. Thế nên mối tranh chấp nhị nguyên đã hình thành giữa hai cái, người theo đuổi và vật bị theo đuổi.

“Tôi hiểu rất rõ điều này, vì nó chính là tình trạng hiện nay của tôi. Giờ thì tôi thấy mình đang bị ràng buộc trong một mạng lưới do mình tự tạo”.

K: Đó cũng là tình trạng của mọi kẻ tầm cầu khác thôi, không phải của riêng những ai đi tìm Thượng đế, Tính Không, vân vân… Mỗi ai có tham vọng và khao khát, kẻ đi tìm quyền lực, địa vị, tiếng tăm, mỗi ai yêu lý tưởng, mỗi ai sùng bái sự đạt đạo, mỗi ai xây dựng một vương quốc ảo tưởng – tất cả họ đều bị ràng buộc vào trong cùng một mạng lưới. Thế thì khi anh đã hiểu thấu toàn bộ ý nghĩa của sự tầm cầu, anh còn tiếp tục tìm kiếm Tính Không nữa không?

“Tôi hiểu nội dung sâu kín câu hỏi của ông và tôi cũng đã chấm dứt sự tìm kiếm”.

K: Nếu quả thật như thế thì tình trạng của tâm phi sở cầu như thế nào ?

“Tôi không biết, câu chuyện đối với tôi mới mẻ đến nỗi tôi phải cố tập trung hết sức mình và quan sát. Cho tôi vài phút trước khi tiếp tục”.

Sau khi nghỉ một lát, anh tiếp.

“Tôi nhận ra thật hết sức vi tế, thật khó khăn nếu không cho người chứng nghiệm, người quan sát hiện diện. Hầu như không thể cấm tư tưởng tạo tác ra người tư tưởng; thế nhưng hễ có người tư tưởng, có người chứng nghiệm thì rõ ràng phải có một sự chia cắt với cái được chứng nghiệm và như thế là có tranh chấp với nó. Và bây giờ ông lại hỏi, thế thì trạng thái của tâm vắng bóng tranh chấp nhị nguyên thì như thế nào?”.

K: Tranh chấp nhị nguyên hiện diện khi sự thèm muốn lấy dạng của người chứng nghiệm và theo đuổi cái phải được chứng nghiệm; vì cái phải được chứng nghiệm đó chẳng qua cũng do sự thèm muốn hình thành nên.

“Xin hãy kiên nhẫn với tôi, hãy từ từ để tôi hiểu những gì ông đang nói. Sự thèm muốn không những chỉ tạo nên người chứng nghiệm, người quan sát, mà còn sinh ra những cái phải được chứng nghiệm, vật bị quan sát. Thế nên ái dục là nguyên nhân của sự tách rời giữa người chứng nghiệm và cái được chứng nghiệm; và đó là sự phân biệt ngầm chứa tranh chấp nhị nguyên. Bây giờ ông hỏi trạng thái của tâm phi nhị nguyên, không bị ái dục lôi kéo thì sao? Nhưng làm sao trả lời câu hỏi này nếu bây giờ không có người quan sát chứng nghiệm cái vắng bóng ái dục này?”.

K: Khi anh ý thức về sự khiêm tốn của mình, không phải sự khiêm tốn chấm dứt ư? Có còn đạo đức nữa chăng khi anh cố tình thực hành đạo đức? Kiểu làm như thế chỉ tăng cường cho hoạt động vì tự ngã của mình, nó là kẻ chấm dứt đạo đức. Lúc mà anh ý thức mình đang hạnh phúc, lúc đó anh đã chấm dứt sự hạnh phúc. Tình trạng của tâm thế nào khi nó không bị ràng buộc bởi ái dục? Ý muốn tìm ra nó cũng là một phầncủa ái dục, nó sinh ra người chứng nghiệm và vật bị chứng nghiệm, không phải sao?

“Đúng vậy. Câu hỏi của ông là một cái bẫy cho tôi nhưng tôi cảm ơn ông đã nêu lên. Tôi thấy thêm tính chất vi tế của ái dục”.

K: Đó không phải là cái bẫy mà là câu hỏi tự nhiên và không thể tránh khỏi mà anh đã tự hỏi mình trong lúc nói chuyện. Nếu tâm không hết sức cảnh giác, tỉnh táo, thì nó sớm bị ràng buộc trong mạng lưới ái dục của chính nó.

“Câu hỏi cuối cùng: Tâm có khả năng thật sự thoát khỏi mọi ái dục tìm kiếm chứng nghiệm không, điều mà sẽ xóa bỏ ranh giới giữa người chứng nghiệm và vật được chứng nghiệm? (6 )”.

K: Anh hãy tự mình tìm ra. Nếu tâm hoàn toàn tự tại thoát khỏi mọi cấu trúc của ái dục thì tâm đâu có khác gì Tính Không?

Dịch giả : NGUYỄN TƯỜNG BÁCH

………………………………………………………………………………………………..

Ghi chú của người dịch

(1) Void. Từ này được dịch là “sự trống rỗng” hay “Tính Không” tùy theo nội dung câu chuyện.

(2) Thơ hay kệ bằng tiếng Sanskrit, thường gồm hai câu, mỗi câu 16 âm.

(3) Gita. Viết tắt của Bhagavad-Gita (Chí tôn ca) và Upanishad (Những bài thuyết giảng) là kinh sách then chốt của Ấn Độ giáo.

(4) Kể từ đây từ “Void”được dịch là Tính Không vì đã đi vào nội dung đích thực của triết học Tính Không.

( 5) “Tâm sở cầu sinh ra người chứng nghiệm” chứ không phải “người chứng nghiệm có tâm sở cầu”. Xin độc giả chú ý, đây là chỗ cần hiểu rõ: “Tâm sở cầu” tạo nên trong dòng tâm thức một chủ thể mà ta mệnh danh là “Người chứng nghiệm”. Không có tâm sở cầu thì cũng không có người chứng nghiệm.

(6) Khi ranh giới giữa người chứng nghiệm và vật được chứng nghiệm được xóa bỏ thì sẽ có tình trạng phi thường mà tác giả nói về cô bé đội giỏ trong phần đầu của bài này.

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Gươm báu trao tay, Phật học & Đời sống

Tuệ Sỹ: PHƯƠNG NÀO CÕI TỊNH (viết từ cảm hứng “Cõi Phật Đâu Xa” của ĐHN)

03/08/2019 By Bac Si Do Hong Ngoc 2 Comments

 

Thư Đỗ Hồng Ngọc kính gởi Thầy Tuệ Sỹ

Vườn Chuối, 21.7.2019

Mới thôi mà đã hơn 2 năm, từ ngày Thầy gởi tôi bài  PHƯƠNG NÀO CÕI TỊNH “viêt từ cảm hứng Cõi Phật Đâu Xa của Đỗ Hồng Ngọc” và bảo để in vào sách khi tái bản.

Vừa rồi, máy vi tính của tôi bị hỏng toàn bộ ổ cứng, mất hết các dữ liệu. May sao người cháu “cứu” được một ít trong đó giữ lại được bản này. Tôi đọc lại mà rưng rứt, nhớ Tết nào cùng Thân Trọng Minh đến thăm thầy ở Thư quán Hương Tích, trò chuyện thật vui, đặc biệt về vở “nhạc kịch Duy-ma-cật”  vốn đầy kịch tính, từ những nhân vật “phản diện” cho đến bối cảnh, với những cao trào có thể mang tính nghệ thuật cao, với vai “Người dẫn truyện” của Văn Thù, vai Thiên nữ tán hoa cùng tiếng đàn hát dìu dặt, thanh thoát…

Tôi hiểu từ lâu thầy đã ấp ủ “kịch bản” này đâu đó sẵn rồi. Thân Trọng Minh và tôi chỉ đóng góp thêm vài ba ý cho thêm phần “hấp dẫn”. Thầy biết đó, Thân Trọng Minh vốn là người viết kịch! Cao Huy Thuần bên trời Tây nghe được cũng hết lòng ủng hộ và nói sẵn sàng sắm một vai…

Tôi nay đã 80 tuổi, già nhanh rồi, mà vừa trải qua những ngày không vui vì mất hết dữ liệu trong ổ cứng máy tính. Nhờ người cháu tậu cho cái ổ cứng mới nên nay vội viết thư này xin phép thầy hoan hỉ cho phép tôi đưa bài “Phương nào cõi tịnh” lên dohongngoc.com. Đây là trang web của riêng tôi, chỉ nhằm lưu trữ bài vở, và cũng in ra giấy để giữ.

Vừa rồi tôi nóng ruột, đã thử phone thầy và nhắn tin xin phép, mới hay Thầy và cả thầy Hạnh Viên đều đang nhập thất mùa An Cư Kiết Hạ.

Tôi hoàn toàn đồng ý với thầy:

“trình độ ngôn ngữ và năng lực tư duy của chúng ta vốn hữu hạn, cho nên bằng con đường nghệ thuật mà đi vào ngõ đạo có thể tương đối dễ hơn”…

Mong Thầy hoan hỷ nhấp một chung trà lão Triệu, với nụ cười rất tuệ sỹ vậy nhe.

Thân kính,

Đỗ Hồng Ngọc.

Đỗ Hồng Ngọc, Thân Trọng Minh và Thầy Tuệ Sỹ (Thư quán Hương Tích).

………………………………………………………………………………..

 

 

PHƯƠNG NÀO CÕI TỊNH

Tuệ Sỹ

(viêt từ cảm hứng “Cõi Phật Đâu Xa” của Đỗ Hồng Ngọc)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Ta hỏi kiến nơi nào Cõi Tịnh,

Ngoài hư không có dấu chim bay?

Từ tiếng gọi màu đêm đất khổ,

Thắp tâm tư thay ánh mặt trời.

 

Lần đầu tiên tôi tình cờ gặp bản dịch Duy-ma-cật sở thuyết của ngài Huệ Hưng; hành tung ly kỳ và chuổi lý luận của Duy-ma-cật khiến đọc say mê, nhiều đoạn học thuộc lòng. Có thể không “choáng ngợp” như anh Cao Huy Thuần vì trình dộ nhận thức của tôi bấy giờ chỉ là của một cậu bé 14 tuổi, không thể sâu sắc như  vị giáo sư trẻ tốt nghiệp Đại học Luật khoa Huế. Một chú tiểu tu chùa Việt nhưng học kinh điển theo hệ Theravāda với các Sư người Lào, do đó cực kỳ kính trọng các A-la-hán, và vì vậy không có cảm giác Duy-ma-cật đã có thể triệt hạ địa vị các Đại Thanh văn. Lớn lên chút nữa, qua nhiều năm học thêm nhiều kinh luận Đại thừa, đọc thêm các nhà luận giải Trung hoa chê bai tư tưởng các vị Thanh văn thấp kêm, tâm tư nhỏ hẹp, và kêt án khá nặng là “hạng tiêu nha bại chủng”, hủy diệt mọi thứ mầm non và hạt giống tốt của giác ngộ.

Cùng với sự phát triển của loại “khẩu đầu Thiền”, thuyết lý Thiền tông trên đầu môi chót lưỡi, phát sinh một lớp sư tăng “cuồng thiền”: thỏng tay vào chợ, thanh lâu, hý viện, đâu chẳng là thanh tịnh đạo tràng. Nhưng với sự huân tập từ hồi còn là tiểu nhóc, tôi chưa hề cảm thấy, mặc dầu với lý luận biện tài vô ngại, Duy-ma-cật đã lấn lướt vượt qua các vị Thanh văn như thế nào. Tuy nhiều vị luận giải Trung hoa quả có chế diễu ngài Xá-lợi-phất, và nhiều vị Đại Thanh văn khác nữa, như khi ngài hỏi Duy-ma-cật các Thánh giả sẽ ăn cơm ở đâu, sẽ ngồi chỗ nào; dù vậy, tôi vẫn cảm thấy trong đó có ẩn ngữ mình chưa hiểu.

Cho tới một lúc, lớn thêm chút nữa, giữa xã hội xô bồ đảo điên, tăng đồ như một cộng đồng ô hợp, riêng Phật riêng thầy, riêng tông môn pháp phái, bấy giờ bỗng xuất hiện những cư sỹ lão thành cự phách, mà trình độ thâm hiểu giáo lý không nhường các bậc trưởng lão trong sơn môn. Bên trong, hiểu và hành sâu xa nội điển; bên ngoài nhạy bén trước các biến cố đảo điên của xã hội; hiểu đạo sâu mà hiểu đời rộng, tài và trí ấy, hiểu và hành ấy, đã góp phần rất lớn trong những đoạn đường khơi lạc nguồn mạch tư duy.

Không chỉ một Duy-ma-cật, mà có rất nhiều Duy-ma-cật, khoác nhiều hành trạng khác nhau trong nhiều địa vị xã hội khác nhau, đã từng xuất hiện ở đây, sống giữa chúng ta. Họ lăn lóc trong bụi đời, nếm đủ thứ “mùi tục lụy” nhưng vẫn không ngừng vươn lên theo chiều cao của Đạo Pháp. Trong một thời đại mà không còn tìm thấy thấp thoáng bóng dáng của Duy-ma-cật, Phật pháp đạo lý có thể chỉ như món hàng trong siêu thị; có lúc chỉ như gánh hàng rong trên hè phố.

Duy-ma-cật là ai mà được ví von như thế? Một nhân vật nửa lịch sử, nửa huyền thoại. Nhân cách ấy là tập hợp tất cả phẩm tính để được gọi là “đích tử”, con chân thật, của các đấng Giác Ngộ. Mỗi nhân cách nổi lên trong một thời đại lịch sử riêng biệt, trong mỗi thời đại ấy là những nhân cách từ phẩm chất và phẩm trật trong từng xã hội cá biệt. Nhân cách ấy ẩn mình đơn độc trong rừng sâu, hoặc hiện diện giữa chợ đời huyên náo, mà không gian bao trùm bởi trực tâm và thâm tâm. Trực tâm, mà Huyền Trang gọi là “thuần ý lạc (āśaya)”, đó chính là ý chí hướng thượng, nhìn đời bằng con mắt yêu thương, định hướng cho cuộc đời của mình và cùng với tất cả cùng đi lên bằng tình yêu và trí tuệ. Từ trực tâm ấy, với ý chí quyết định, kiên trì mục đích, đó gọi là thâm tâm, cũng nói là tăng thượng ý lạc (adhy-āśaya). Đó là nhân vật mà ta có thể gặp đâu đó.

Bằng thuần ý lạc địa, từ cơ sở đó mà bảy bước phát khởi tâm bồ đề, khởi từ tình yêu thâm thiết đối với Mẹ thân sinh, vì sự an lạc của Mẹ mà phát nguyện hành bồ-đề. Rồi với tình Mẹ bao la mà tâm nguyện bồ-đề cũng theo đó mà rộng lớn lên, theo một đường thẳng như tấm lòng ngay thẳng. Từ tâm tư thuần ý lạc địa ấy mà kiên định chí hướng, in sâu trong tận cũng tâm khảm, trong thâm tâm.

Thế nhưng có thể chúng ta dễ bị choáng ngợp bởi những từ ngữ mang tính triết học, do đó mà thấy Duy-ma-cật là một nhân vật cao diệu, xa vời. Vậy, chúng ta bắt đầu từ diễn tả bằng ngôn ngữ đời thường, như Đỗ Hồng Ngọc viết trong Cõi Phật Đâu Xa: anh viêt Kinh dễ dàng và cũng rất thận trọng cân nhắc, y như bác sỹ viết toa thuốc:

“Lòng ngay thẳng – trực tâm – chính là sự bình đẳng, không phân biệt, không kỳ thị … Không kỳ thị, không phân biệt đối xử mới có lòng tôn trọng như Thường Bất Khinh, mới có lòng Từ bi, Thấu cảm như Quán Thế Âm, mới có lòng Chân thành để “ai thấy cũng vui, ai gặp cũng mừng” như Dược Vương. Tôn trọng, chân thành, thấu cảm phải dựa trên điều kiện tiên quyết không phân biệt, là Bình đẳng. Đó chính là Bất nhị.”

Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa cũng sợ; chúng ta lại gặp một từ ngữ triết học rắc rối hơn nữa: “bất nhị.” Đó là nguyên lý chỉ đạo cho tư duy và hành động của Duy-ma-cật, khi ông nói với ngài Xá-lợi-phất: “Hiện các oai nghi (đi, đứng, nằm, ngồi) mà vẫn không xuất tưởng thọ diệt định, đó mới chính là tĩnh tọa.” Hoặc khi ông chào đón Bồ-tát Văn-thù đến thăm bệnh, và ở đó, trong “Cõi Phật Đâu Xa”,  ta cũng nghe rõ như lời bệnh nhân chào đón y sỹ: “Lành thay, Văn-thù mới đến! Tướng chẳng đến mà đến. Tướng chẳng thấy mà thấy.” Bệnh chứng, bệnh nguyên, tất cả các tướng ấy, chẳng đến mà đến, chẳng thấy mà thấy; bệnh nhân không tìm đến y sỹ, và y sỹ không đi đến bệnh nhân.

Trong đối thoại này, Duy-ma-cật cũng chào đón Văn-thù bằng ngôn ngữ thông thường: svāgatam: nghĩa đen được hiểu đã đến một cách khéo léo, tốt đẹp; đây là một từ chào hỏi tương đương chính xác với lời chào tiếng Anh: “Welcom!” Từ chào hỏi này liên hệ đến từ Tathāgata: Như Lai, mà Kinh Kim cang định nghĩa: “Như Lai, vị khéo đến, vì không từ đâu đến, cũng không đi đến đâu.”  Nó cũng liên hệ các từ  Phạn gata, āgata, anāgata: đã đi, đã đến, không đến, chưa đến, đó là những từ mà chúng ta đọc hằng ngày trong Tâm Kinh: gate gate paragate parasaṃgate bodhi svāha. Đến mà không đến, đi mà không đi, là thể tính Như Lai: Tathāgata: tathā gata/āgata. Các vị Thánh giả chào nhau bằng ngôn ngữ đời thường mà trong đó vẫn bao hàm thế giới siêu việt.

Nhưng, tư tưởng bất nhị là căn nguyên tư tưởng của một nhánh trong triết học Vedānta, tiếng Phạn nói là advaita-vāda, dịch theo ngôn ngữ triết học quen dùng ngày nay, đó là chủ thuyết lý “Nhất nguyên Tuyệt đối”. Đạt đến nhất nguyên tuyệt đối, là đạt đến giải thoát, bấy giờ Phạm-Ngã đồng nhất, Tiểu ngã và Đại Ngã hiệp thành nhất thể tuyệt đối. Nói cách khác, Linh hồn và Thượng đế là Nhất thể Tuyệt đối. Kinh Phật không nhận có Thật Ngã tồn tại, dó đó không thừa nhận thuyết Nhất nguyên tuyệt đối này.

Để khỏi phái bối rối, choáng ngợp trước những từ ngữ và lý luận biện chứng siêu nghiệm, từ nhất nguyên tuyệt đối của Phạm-Ngã nhất thể, cho đến “Như Lai đến mà không đến, đi mà không đi”, chúng ta cũng có thể bắt đầu với nhận thức đơn giản hơn từ dẫn giải bởi Đỗ Hồng Ngọc, hiểu theo cách y sỹ chẩn đoán bệnh:

“Ở tại nơi sanh tử mà chẳng làm việc ô trược, trụ nơi Niết-bàn mà chẳng diệt độ mãi; hành tánh không mà vẫn trồng các cội công đức; hành vô tướng mà vẫn độ chúng sanh; hành vô khởi mà khởi tất cả thiện hạnh…”

Đây là đoạn dẫn tóm tắt khi Duy-ma-cật nói với Văn-thù về sở hành cảnh giới của Bồ-tát, môi trường hành đạo và đối tượng quán sát của Bồ-tát; trong đó nói hành tánh không (śūnyatā-gocara), hành vô tướng (animitta-gocara), là hai trong ba giải thoát môn mà một vị Thanh văn lập làm đối tượng quán sát để chứng nghiệm Niết-bàn. Ba giải thoát này là Không, Vô tướng, Vô nguyện (apraṇihita), hay nói là  Vô tác theo La-thập.  Chưa thấy và chưa biết Niết-bàn là gì thì chớ vội nói sinh tử và Niết-bàn là một, không hai. Thế nhưng, đây là những lời người bệnh nói với người thăm bệnh. Bệnh hay vô bệnh, sinh tử hay Niết-bàn, đây và đó qua lại trong ba ngõ: người bệnh vốn không, hiện tượng bệnh cũng không, cho nên không có gì để nói hy vọng hay tuyết vọng.

Những điều như vậy cũng không phải dễ hiểu; do đó chúng ta nên nghe lời dẫn từ Cõi Phật Đâu xa:

“Bồ-tát luôn đứng giữa hai bờ…” và tại đây ông giới thiệu lời trong ca khúc của Trịnh Công Sơn: trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyêt/ Rọi suốt trăm năm một cõi đi về. Nếu đưa thẳng vào tư duy triết học thì lời nhạc của Trịnh Công Sơn không liên hệ gì đến pháp môn bất nhị. Nhưng nó cũng khiến chúng ta nhớ đến câu chuyện một nhạc công của Thiên đế Indra thất tình với một thiên nữ, bèn tìm đến đức Phât, hát lên “bản tình ca dâng Phật”, với đoạn tả tình thắm thiết: “Tôi yêu nàng như A-la-hán yêu Chánh Pháp”. Có lẽ chẳng có ca từ mô tả tình yêu chung thủy nào chân tình hơn thế. Lời nhạc đã lạ lùng với đôi tai người đọc kinh Phật nghiêm túc, mà câu trả lời của Phât cũng thất lạ lùng khó hiểu: “Hay lắm, nhạc hòa hợp với lời, lời hòa hợp với nhạc; trong đó có ái dục mà cũng có Niết-bàn,” Ái dục là tình yêu hệ lụy sắc dục, và Niết-bàn là cảnh giới ly dục. Há lại có nghĩa, từ trong ái dục mà thấy Niết-bàn, từ Niết-bàn mà thấy rõ thể tính của ái dục? Đơn giản hơn, từ bùn lầy hôi thối mà tìm thấy hoa sen?

Rốt cục, cửa dẫn vào pháp bất nhị này là đâu, là cái gì?

Chuyện tình nhạc công của Thiên đế diễn thành kịch bản để nói những điều không thể nói, vì tính chẩt phản diện được cấu trúc trong đó. Cũng thế đó, người đọc Duy-ma-cật sở thuyết có thể dễ dàng nhận ra bản văn này được cấu trúc theo thể loại kịch. Trong kịch bản, tính phản diện của các nhân vật được sử dụng để diễn tả nội dung theo ý nghĩa muốn nói.

Trong đoạn dẫn của Đỗ Hống Ngọc nêu trên, chúng ta thấy Bồ-tát tu tâm như một Thánh giả Thanh văn xuất thế, nhưng hành đạo như một phàm phu trong sinh tử: trong bùn mà chằng hôi tanh mùi bùn. Đó là căn bản của tư duy bất nhị. Thánh nhân xuất thế, và phàm phu sinh tử, hai mặt phàn diện mà lại đồng nhất thể tính. Người đọc nếu không nhìn ra những cặp phản diện trong Sở thuyết này tất sẽ thấy Duy-cật-đã đã “lấn lướt” các Thánh giả Thanh văn, đã “dồn ví” các ngài vào ngõ bí.

Trong kịch bản Duy-ma-cật sở thuyết, người ta nghe được những đối đáp tương xứng giữa Văn-thù và Duy-ma-cật, nhưng đây không phải là cặp nhân vật phản diện; mà trong đây Văn-thù chính là vai người dẫn kịch. Không có người dẫn kịch thì khó có thể hiểu nội dung của kịch bản. Đây là cấu trúc cổ điển của kịch. Như trong khi Văn-thù nói và hỏi, Duy-ma-cật im lặng; nếu không có Văn-thù như là vị dẫn kịch, thì sự im lăng của Duy-ma-cật chẳng có ý nghĩa gì; do đó đây không phải là cặp đối đáp phản diện.

Thực ra, Duy-ma-cật xuất hiện trong nhiều lớp áo khác nhau, nên đồng thời thủ vai phản diện cho nhiều vị Thánh giả, từ các A-la-hán cho đến các Bồ-tát. Khi ngài Xá-lợi-phất tĩnh tọa trong rừng vắng, Duy-ma-cật xuất hiện với lý luận sắc bén khiến cho vị Đại Thanh văn này không còn lời đối đáp. Dễ chừng người ta chỉ thấy một Tôn giả Xá-lợi-phất trong rừng vắng nhập tưởng thọ diệt tận định, thân tâm bất động, có thể lưu thọ hành để giữ cho thân thể tồn tại không mục rã qua một đại kiếp, hằng triệu năm của mặt trời; ấy thế nhưng lại không thấy ngài ôm bát lang thang trong hang cùng ngõ hẻm với cái bụng đói. Nếu để thọ hưởng an lạc tịch tĩnh chính mình qua hằng nghìn năm cho đến khi thân ấy mục rã nếu muôn, thế thì cần gì phải ăn để mà sống. Vậy ôm bát đi khất thực vì lẽ gì?  Vì cơn đói sẽ hành hạ bản thân, hay vì để thức tỉnh thế gian đang trầm luân trong khổ lụy? Thế thì Duy-ma-cật đi vào đời để xây dựng cho đời an vui có cao quý hơn ngài Xá-lợi-phất ngồi trong tịch nhiên bất động? Phải chăng tượng Phật ngồi bất động trên bàn chẳng ích lợi gì cho ai, chẳng bằng sư trụ trì tụng kinh cầu siêu, cầu an cho bá tánh? Đấy là cặp phản diện làm hiện rõ bản chất của tồn tại.

Mặt khác, trong phong thái Thánh giả xuất trần Xá-lợi-phất lại xuất hiện trước một phản diện là cô thiên nữ cực kỳ diễm lệ. Với sắc đẹp vượt lên cả hàng thiên hương quốc sắc ây, với vũ điệu thiên nữ tán hoa kỳ ảo hơn cả vũ khúc nghê thường ấy, cũng rất dễ khiến cho Đường Mimh Hoàng mất ngôi mất nước. Nhưng sao nàng sống chung trong một căn phòng trống trải với lão cư sỹ Duy-ma-cật; rồi lại xuất hiện múa hát trước các Thánh nhân xuất thế, những vị mà tâm tư lắng đọng không hề gợn sóng dục tình; hiện diện với ý nghĩa gì? Đối đáp giữa thiên nữ và Xá-lợi-phất đã dẫn cặp phản diện ô nhiễm và thanh tịnh lên đến kịch tính gay cấn, khiến cho Xá-lợi-phất biến hình thành thiên nữ kiều diễm, và thiên nữ biến hình thành Thánh giả Xá-lợi-phất nghiêm trang.

Nhận diện được những cặp nhân vật phản diện trong Kinh thì cũng có thể bằng hình ảnh ấy mà chiêm nghiệm thế nào là ý nghĩa bất nhị, bằng cánh cửa nào để đi vào cảnh giới bất nhị ấy.

Thêm nữa, ngoài những nhân vật phản diện, cũng nên đi sâu vào những bối cảnh phản diện. Khu vườn xoài, sở hữu của kỹ nữ Am-la-bà-lị, nơi các vương tôn công tử buông mình thả trôi trong dục vọng, lại trở thành nơi tịnh tu của các Thanh văn xuất thế, trong ô nhiễm mà không ô nhiễm. Tư gia của Duy-ma-cật, nơi ông tiếp những chính khách đang lao mình trong đấu trường quyền lực, những thương gia đang cạnh tranh ráo riết trên thương trường, mhưng chỗ ấy lại cũng là nơi lai vãng của các Thánh giả xuất trần, Thanh văn và Bồ tát. Tư gia của trưởng giả Duy-ma-cật, khu vườn xoài của kỹ nữ Am-la-bà-lị: cặp phản diện của náo nhiệt và tịch tĩnh, của ô nhiễm và thanh tịnh.

Giữa thế giới Ta-bà và cõi Phật Chúng Hương, tòa sư tử và thành Tì-la-da, cái vô cùng lớn đến trong cái vô cùng nhỏ, và cái nhỏ đi vào trong cái lớn: đây cũng là cặp phản diện bối cảnh làm lộ rõ thể tính tồn tại của thế gian, vũ trụ. Bằng hình ảnh đó mà tập luyện cho tư duy vượt ngoài khuôn sáo ước lệ, vượt qua thế giới thường nghiệm để vươn lên cảnh giới siêu nghiệm, bất khả tư nghị.

Như thế, đọc Duy-ma-cật sở thuyết như đang xem một kịch bản, với những nhân vật và bối cảnh phản diện, với những biến cố mang đầy kịch tính, đó là cách tự huấn luyện và tự trang bị cho mình một công cụ định hướng tự duy để vươn lên chiều cao của giác ngộ.

Trong khi chúng tôi cùng tìm hiểu ý nghĩa phản diện và kịch tính trong Duy-ma-cật sở thuyết, hai ông bạn cư sỹ Đỗ Hồng Ngọc và Thân Trong Minh tỏ ra tâm đắc và cao hứng, cố ý muốn viết lại một kịch bản và dàn dựng sân khấu như thế nào đó để có thể hiểu rõ hơn điều mà Kinh muốn chỉ điểm; vì trình độ ngôn ngữ và năng lực tư duy của chúng ta vốn hữu hạn, cho nên bằng con đường nghệ thuật mà đi vào ngõ đạo có thể tương đối dễ hơn.

Hy vọng các bạn cư sỹ thành tựu như ý. Riêng tôi, trở về thảo am thơ thẩn, gởi lại hai bạn cư sỹ hai câu thơ:

Nhà tranh mái cũ quen chừng,

Chén trà lão Triệu mà chưng hoa ngàn.

 

Thị ngạn am, tiết Lập xuân, Đinh dậu

Tuệ Sỹ

(3.2017)

 

 

 

 

Filed Under: Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định, Gươm báu trao tay, Nghĩ từ trái tim

Đọc “Về thu xếp lại…” của Đỗ Hồng Ngọc

04/04/2019 By Bac Si Do Hong Ngoc 1 Comment

 

Đọc “Về thu xếp lại…” của Đỗ Hồng Ngọc

Nguyên Giác

 

(ảnh: kinhtethoidai)

Cảm giác đầu tiên khi đọc tác phẩm mới này của Đỗ Hồng Ngọc, có thể thấy rằng đây là những dòng chữ từ một người sắp ra đi… Chẳng phải sao, ngay trên tựa sách đã ghi là “Về thu xếp lại…” (VTXL).

Đúng là trong các tản văn có nói về tuổi già, về bệnh, về những người bạn đã ra đi – trong đó, ngay ở Lời Ngỏ là ghi lại hình ảnh tới thăm người bạn thân, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tại phòng Săn sóc đặc biệt Bệnh viện Chợ Rẫy.

Tác giả Đỗ Hồng Ngọc, một bác sĩ về hưu và đang giữ thói quen Thiền tập hàng ngày, tự ghi lại hình ảnh của mình, trích:

“…Thấy những bạn trẻ… trên dưới bảy mươi mà “gato”! Mới vài năm thôi mà mọi thứ đảo ngược cả rồi. Bây giờ có vẻ như tôi đang lùi dần về lại tuổi ấu thơ, tuổi chập chững, tuổi nằm nôi…” (Lời Ngỏ, VTXL)

Cần ghi nhận rằng chữ “gato” trong đoạn trên là tiếng lóng trong nước, có nghĩa “ghen ăn tức ở” dùng trong giới trẻ. Như thế, hình ảnh tuổi già dưới mắt ĐHN rất mực độc đáo: phải cao niên tới một tuổi nào đó, mới thấy mình như tuổi ấu thơ (vì trí nhớ lãng đãng rồi), thấy mình ở tuổi chập chững (vì đi lụm khụm rồi), thấy mình như tuổi nằm nôi (vì phần nhiều là nằm bệnh)…

Tuy nhiên, giọng văn không hề bi quan tí nào. Từng trang sách là những dòng chữ rất mực yêu thương trần gian này. Ông nói về già và bệnh, đồng thời đưa ra kinh nghiệm lạc quan của bản thân về Thiền tập, về quán niệm hơi thở, vể trải nghiệm những dòng chảy thời gian trên cơ thể, trên trí nhớ…

Đỗ Hồng Ngọc nói về khổ đau, nhưng chỉ xem như là chuyện hoa nở hoa tàn, như ở Chương cuối trong VTXL: “…tại vì có cái ta mà phát sanh phiền não, khổ đau. Pháp vận hành theo pháp, chẳng vì ta. Chẳng vì ta mà hoa nở hoa tàn. Nếu không can thiệp thì nó vậy là nó vậy. Sự phân biệt chính là can thiệp, dính mắc.”

Đỗ Hồng Ngọc nói về cái chết, nhưng chỉ xem như một quà tặng từ cõi trần gian, trong cùng chương vừa dẫn: “Thuốc đã sẵn có. Phật giáo nhìn cái chết là sự vận hành của pháp. Chết là sự chấm dứt tạm thời của một hiện tượng tạm thời, cái sống. Cho nên chết không phải là hết. Cái sống, một hiện tượng tạm thời và vận động không ngừng, vô thường thú vị, một bonus, nên cái chết cũng là vô thường, một bonus khác.”

Không phải là mượn lời của ai, hay dẫn lại từ sách, mà tất cả là từ kinh nghiệm của nhà văn Đỗ Hồng Ngọc, cùng chương vừa dẫn: “Không phải là lý thuyết suông, mà là sự thực nghiệm, thể nghiệm ngay trên bản thân mình.  Hãy đến và nếm thử. Mô tả không được!”

Không phải nếm thử cái chết, tuy rằng Đức Phật có dạy pháp niệm tử. Nơi đây, nhà văn họ Đỗ nói rằng những thể nghiệm trong cõi trần gian tuyệt vời đó là từ bản thân ông khi sống với Kinh Phật, trích cùng chương vừa dẫn:

“Mà thấy Pháp tức là thấy Phật. Pháp nó tự vận hành. Không có người vận hành. Không có ta. Cho nên Phật dạy cách khác đơn giản hơn: Cái thấy chỉ là cái thấy. Cái nghe chỉ là cái nghe. Chỉ vậy. Khi có cái “ta” xen vào: Ta thấy, ta nghe… thì đã sinh sự. Có ta hay không có ta thì pháp nó cũng cứ vận hành như vậy. Nhưng bằng cách nào để sống được “cái thấy chỉ là cái thấy”? Vì ta không phải là gỗ đá, vô tri. Vấn đề chỉ ở chỗ không dính mắc. Cô hoa hậu xinh đẹp thì thấy là xinh đẹp, nhưng dính vào thì tiêu!”

Chỉ trong vòng mấy câu trên, chưa hết một đoạn văn, Đỗ Hồng Ngọc đã ghi lại “sự thực nghiệm, thể nghiệm ngay trên bản thân mình.  Hãy đến và nếm thử” một số bản kinh nhà Phật.

“Thấy Pháp tức là thấy Phật” là từ Kinh Tương Ưng SN 22.87, khi Đức Phật thăm ngài Vakkali đang bệnh, và nói: “Vakkali, hễ ai thấy Pháp là thấy ta; ai thấy ta là thấy Pháp.”

“Pháp nó tự vận hành. Không có người vận hành. Không có ta” là từ Luật duyên khởi, không hề có cái gì gọi là ta hay người. Trong Kinh Trung Bộ MN 115, Đức Phật nói: “Nếu cái này có, cái kia có; do cái này sanh, cái kia sanh. Nếu cái này không có, cái kia không có; do cái này diệt, cái kia diệt…” Không hề có bất kỳ ai vận hành, và cũng chẳng có cái ta nào.

Đỗ Hồng Ngọc lại tiếp rằng lời Phật dạy hãy giữ cái thấy nghe chỉ là cái thấy nghe… chính là từ Kinh Bahiya.

Họ Đỗ lại thêm rằng chỉ là ở chỗ không dính mắc… câu này là từ Kinh Kim Cương và rất nhiều kinh khác.

Đỗ Hồng Ngọc dẫn ra cội nguồn khổ là từ tham ái bằng hình ảnh cô hoa hậu xinh đẹp… cũng từ rất nhiều kinh.

Tuyệt vời cho nhà văn Đỗ Hồng Ngọc và cho bất kỳ ai đã có thể sống được như ông, khi đã “thể nghiệm ngay trên bản thân mình” những bản kinh Phật như thế.

Nhưng không khô khan hay trịnh trọng chút nào. Văn của Đỗ Hồng Ngọc không hề khô khan như các lớp toán hay vật lý chúng ta đã trải qua.

Trước tiên là cách đặt nhan đề, sách và chương sách – tất cả đều từ ngôn ngữ thơ mộng của Trịnh Công Sơn, người bạn thân của tác giả. Nhưng chính cách kể chuyện của Đỗ Hồng Ngọc mới là độc đáo, tuyệt vời, luôn luôn gây giựt mình cho độc giả.

Thí dụ, tuổi đẹp nhất của đời người? Như dường là hầu hết mọi người đều đoán sai… vì câu trả lời của Đỗ Hồng Ngọc là tuổi 65-75:

“Tôi nay ở tuổi 80. Thực lòng… đang tiếc mãi tuổi 75… Cái tuổi đẹp nhất của đời người theo tôi có lẽ ở vào lứa 65-75. Đó là lứa tuổi tuyệt vời nhất, sôi nổi nhất, hào hứng nhất… Tuổi vừa đủ chín tới, có thể rửa tay gác kiếm, tuyệt tích giang hồ…” (Lời ngỏ)

Tuổi 75 đẹp nhất? Bạn nhiều phần là sẽ đồng ý với tác giả Đỗ Hồng Ngọc, nếu bạn đọc xong tuyển tập tản văn này.

Đọc văn Đỗ Hồng Ngọc cũng cần có thái độ rất bình tỉnh… bởi vì khi kể về già và chết, ông đã gọi đó là diễn biến tuyệt vời. Như ông viết ở Chương Cát bụi tuyệt vời, trích:

“Có sinh ắt có tử, có tử ắt có sinh. Hơi vào có hơi ra và ngược lại. Cho nên người đạt đạo họ tỉnh queo, nôm na là họ… giác ngộ. Họ chẳng cần phải bối rối. Họ biết nó phải vậy. Như Thị.

Chu trình “khép kín” đó bắt đầu tăng tốc ở lứa 65-75 tuổi. Tăng tốc khô héo, tăng tốc nhăn nheo. Sự  tăng tốc của lứa tuổi này cũng làm ta há hốc, muốn kêu lên kinh ngạc… như ở tuổi dậy thì, tuổi mới lớn. Cái vòng đời nó diễn biến tuyệt vời đến vậy, liên tục đổi thay đến vậy thì có gì đáng phàn nàn đâu! Nhiều bạn cùng lứa than với tôi sao thế này sao thế khác, tôi thường chỉ nói “Ai biểu già chi?” rồi cười xòa với nhau mà không khỏi có chút … ngậm ngùi.”

Dĩ nhiên, Đỗ Hồng Ngọc khác rất nhiều với người đời thường (như tôi, chẳng hạn, một nhà văn không biết gì về y khoa). Đỗ Hồng Ngọc kể về thời sinh viên, chuyện xương người với đầu lâu là những thứ phải học kỹ, phải nhớ tên gọi và chức năng của từng hốc xương, khớp xương… Nhưng chuyện tu học thì, hiển nhiên là ai cũng có thể cảm nhận được những ghi nhận của họ Đỗ về Kinh Phật. Khi ông kể về trải nghiệm ngay trên cơ thể của ông.

Trong Chương Tôi chợt nhìn ra tôi của sách VTXL, tác giả kể về “tôi thấy tôi” – tức là thấy cái vô ngã, cái vô thường, và do vậy là cái thật tướng vô tướng, trích:

“…không phải bất ngờ vì tôi thấy tôi. Mà bất ngờ vì tôi chợt “nhìn ra” tôi. “Nhìn ra” khác với thấy. Nhìn ra là “quán”.  Quán Tự Tại Bồ-tát hành thâm Bát Nhã chiếu kiến ngũ uẩn giai không… . Quán là thấy rõ (chiếu kiến). Tôi bấy giờ không còn là tôi bây giờ. Tôi bấy giờ là tứ đại, là ngũ uẩn. Và nếu quán một cách sâu sắc hơn, có thể thảng thốt kêu lên: “Bổn lai vô nhất vật”! (Lục tổ Huệ Năng)…

Có lần Phật hỏi Duy-ma-cật: Ông quán Như Lai thế nào? Duy-ma-cật đáp: Thì như quán pháp thân của Phật và của chính tôi thôi. Có gì khác nhau đâu!

Nhìn thì có thể thấy khác. Bởi nhìn thì qua mắt, nhãn căn. Quán thì không nhìn bằng mắt. Mà nhìn bằng cả năm thứ con mắt (ngũ nhãn) gồm nhục nhãn (mắt thịt), thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhãn và Phật nhãn.  Thú vị, khi quán thì cả Như Lai, Phật và Tôi… đều là một, không khác. Đó là đã thấy pháp thân, thật tướng vô tướng.”

Đỗ Hồng Ngọc còn dùng những hình ảnh để độc giả dễ hình dung xem thật tướng vô tướng đã héo đi thế nào, trích:

“…Trước hết tôi bây giờ già hơn tôi xưa, già thấy rõ, già tốc hành chớ không phải già lai rai như trước.

Nhiều hôm nhìn vào gương soi, tôi thấy mình như một quả táo để lâu ngày, héo dần, teo tóp, nhăn nheo. Nhưng có cái gì đó như cứng cỏi hơn, tuy quắt queo mà chỉ bay hơi nước, bay cái láng mượt, nuột nà của quả táo căng phồng, ngây thơ, tràn đầy thuở nào. Bây giờ thì co cụm lại, co rúm lại, gom tụ lại vào trong cái hột, cái lõi.”

Hình ảnh đi từ trừu tượng “cái tôi trong thật tướng vô tướng” trở về cái trước mắt, cái trên bàn của “cái tôi như quả táo héo mòn, nhăn nheo”… hình như chưa từng có nhà văn nào viết như thế. Nhưng đó cũng chính là sự thật của cõi này, khi Đức Phật tuyên thuyết về tứ diệu đế.

Trong khi phần lớn đều lo sợ già, lo sợ nhăn nheo, Đỗ Hồng Ngọc gọi đó là diễn biến tuyệt vời, và ông quan sát hàng ngày với thái độ xem chuyện lão hóa là “cũng dễ thương quá”… Họ Đỗ viết trong chương vừa dẫn:

“…Rồi đến cái tuổi gió heo may, dìu dịu, nhạt nhòa nhưng vẫn là tuổi năng nổ, hoạt động mạnh mẽ và hiệu quả nhất để rồi chuyển sang tuổi già, tạm coi là sau tuổi 65, một chu trình “khép kín” đã lại bắt đầu: tăng tốc khô héo, tăng tốc nhăn nheo, tăng tốc ngược chiều đủ làm hết hồn, làm há hốc, muốn kêu lên kinh ngạc…

Nó diễn biến tuyệt vời đến vậy, liên tục đổi thay đến vậy thì có gì đáng phàn nàn đâu, có gì mà không thể tủm tỉm cười một mình đâu. Cho nên nếu tôi có gì khác tôi xưa thì chính ở chỗ tôi có phần… khoái cái sự già nua tăng tốc đó của mình, tôi hồi hộp dõi theo nó, tôi cảm thấy nó…hợp lý, nói chung là… cũng dễ thương quá đó chớ!

Ở tuổi 70 chưa thấy già đâu. Thậm chí đến 72, 73 vẫn còn thấy trẻ chán.” (ngưng trích)

Đỗ Hồng Ngọc kể chuyện đời thường của ông, qua đó cho thấy ông quán sát thân tâm liên tục, xem các diễn biến như xem hoa bay gió thổi, không hề khởi tâm kinh hãi với vô thường, trích cùng chương dẫn trên:

“…Nhiều khi, sáng dậy, nhìn vào gương soi tôi lại thấy tức cười. Tôi đó sao? Nhăn dần từng nét ngộ nghĩnh trên mắt trên da. Đôi khi muốn lấy viết vẽ nguệch ngoặc gương mặt thay đổi từng ngày của mình, từng ngày nhưng rất nhanh, thấy rõ chứ không như ngày xưa, nhiều năm mới nhận ra nét đổi thay. Tôi tức cười nhìn mình. Nó nhìn tôi cũng cười. Ngộ nghĩnh. Cười mà ráng. Không ráng thì nó trĩu nặng. Mấy tế bào của cơ mặt hình như sinh tật làm biếng, xệ xuống cho khỏe…

…Ghi tiếp “Nhật ký rời”: Chỉ còn mấy ngày nữa, đã đầy tám chục (tuổi ta). Phải nhanh chóng ghi lại vài điều kẻo quên.Thứ nhất, ở tuổi này tôi thấy tay mình ngày càng run. Làm cái gì mà cẩn thận thì đổ vỡ. Làm cái gì không tính trước thì được. Tùy cơ ưng biến thì tốt. Tay run đến nỗi viết cũng khó mà vẽ chơi cũng khó. Tôi phải vẽ kiểu “tốc họa”, vẽ như chớp, theo một cảm xúc bất chợt, không toan tính thì tốt. Ai bắt chước được cái run?” (ngưng trích)

Trong khi tác giả Đỗ Hồng Ngọc viết để kể về những trải nghiệm riêng, độc giả hiển nhiên là không mong đợi những chuyện ly kỳ như phim 007 hay truyện Z 28. Tất cả lời kể trong VTXL chỉ là những chi tiết đời thường, dưới mắt quan sát của người có thói quen thiền tập như Đỗ Hồng Ngọc đều đột nhiên trở thành đáng chú ý.

Thí dụ, tác giả Đỗ Hồng Ngọc kể về chuyện ngủ, chuyện thức dậy, chuyện ghi trên giấy từ đêm trước về những gì cần làm, chuyện xem trận banh, chuyện đọc tin trên báo chỉ cần liế qua cái tựa… nghĩa là chuyện đời thường soi rọi dưới mắt ông. Phải chăng đó là từ thói quen quán sát thân tâm?

Hay là khi tác giả tự soi gương, nhận ra tóc bạc, da nhăn… rồi chuyện ngồi thiền, quán niệm hơi thở, rồi niệm từ bi, niệm hỷ xả… rồi tự pha ly cà phê, rồi ngồi vào máy tính.

Cứ tà tà kể chuyện như thế, cuốn sách cũng hoàn tất. Tuy là chuyện đời thường, là chuyện của người già, nhưng thực sự không đời thường tí nào, cũng không già cỗi tí nào. Vì nơi đây, từng khoảnh khắc được  quan sát và kể lại, đã hiển lộ lên một thế giới rất mực lạc quan. Nói về già nhưng vẫn là thơ mộng rất mực, như đùa như giỡn… Nói về cái chết nhưng vẫn dịu dàng như nói với người bạn thân sắp gặp lại.

Như cách Đỗ Hồng Ngọc viết về bệnh:

“…Nhưng bệnh cũng có cái hay của nó chứ. Nó làm cho ta nhớ lại mình. Đã đành biết bệnh tật gắn vào mình từ trong trứng nước, thậm chí trước đó nữa, ở nơi ông bà cha mẹ mình từ ngàn xưa qua các gene di truyền nhiều thế hệ, nhưng cứ mỗi lần bệnh tật, với tôi, trở thành một cái giật mình. Mà cũng lạ, đường đường là một người thầy thuốc, học hành đàng hoàng, ra trường hơn nửa thế kỷ, nghề nghiệp chín chắn, nổi tiếng là người thầy thuốc “mát tay”, luôn quan tâm chăm lo giúp đỡ cho người khác khi có ai nhờ đến, cả bệnh thân lẫn bệnh tâm, vậy mà, với mình, tôi quên tôi tuốt. May thay, nhờ có bệnh nhắc. Mà không phải là bệnh nhẹ. Bệnh nhẹ không đủ nhắc tôi đâu…”

Hay như khi Đỗ Hồng Ngọc viết về cái chết, về cách luôn nhớ về cái chết:

“…Có cách nào để người ta luôn nhớ đến cái chết để được sống hạnh phúc hơn không?

Có đó. Cứ ngồi yên đó. Lăng nghe hơi thở của mình. Thở vào… thở ra. Một hơi thở là một cuộc sống. Thở ra rồi thở vào. Lại một cuộc sống mới. Thì ra…. sống và chết là một chu kỳ hình sin. Cái gọi là sống, cái gọi là chết. Gọi vậy thôi chớ không phải vậy. Có thể đảo ngược lại. Nhìn kỹ thì thấy cái chết mới là cái sống. Thở vào như sóng. Thở ra như nước. Sóng là nước. Nước là sóng. Tùy duyên. Bày đặt vui thôi mà!”

Trong tuyển tập VTXL, nhà văn Đỗ Hồng Ngọc còn viết nhiều về ăn, ăn mặn hay ăn chay, về thỉnh thoảng nấu ăn, về bốn loại thức ăn theo quan điểm nhà Phật, về thuốc đông tây nam bắc, về thời đi học mỗi sáng ăn xôi, về dạo cảnh chùa, về những buổi đi uống cà phê cùng bạn, về những người bạn vắng dần, về Internet mang theo nước mắt nụ cười…

Nói về đời thường, và rồi nói về mật nghĩa cõi này. Tới những đoạn văn như thế, chúng ta tự nhiên đọc chậm lại, và có thể phải đọc đi đọc lại rất nhiều lần, vì văn nơi đây nghe như thơ, như kệ, như nhạc, như thần chú, như mật nghĩa của pháp.

Thí dụ, như đoạn văn sau, khi Đỗ Hồng Ngọc viết:

“Phật có đến có đi. Có từ bi có hỷ xả. Có nói năng có im lặng. Có thể dùng âm thanh dùng ánh sáng dùng chuông mõ, tiếng tụng niệm mà thấy Phật. Nhưng Như Lai thì không. Không thể dùng âm thanh, ánh sáng mà thấy Như Lai. Kinh nói Như Lai thọ lượng mà không nói Phật thọ lượng vì Phật thọ lượng chỉ có hơn 80 năm! Kinh nói Như Lai thần lực mà không nói Phật thần lực vì Phật chẳng ưa chuyện thần thông. Kinh nói vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai mà không nói vào nhà Phật, mặc áo Phật, ngồi tòa Phật… Cho nên, Phật là Như Lai, mà Như Lai không phải Phật. Như Lai là Như Lai. Nó vậy đó…”

Đọc thấy Đỗ Hồng Ngọc viết chữ “vậy  đó” rất mực dịu dàng, nhưng từng chữ một vẫn nặng rất mực, kiên cố rất mực.

Trong sách, chúng ta đọc thấy Đỗ Hồng Ngọc còn viết nhiều nữa, như về Trần Nhân Tông, về Tuệ Trung Thượng Sĩ… Tác phẩm “Về thu xếp lại..” của Đỗ Hồng Ngọc không chỉ để đọc một lần. Sách này có thể nên đưa vào túi xách, nên mang theo bên người để thỉnh thoảng đọc lại. Để không sợ già, không sợ chết, để biết cách đùa giỡn với bệnh, và cũng để biết cách Thiền tập trong những cách tự quan sát thân tâm mình không rời.

Tuy rằng Đỗ Hồng Ngọc có cẩn trọng ghi rằng sách này là “góp nhặt từ những trang nhật kỳ rời, từ những ghi chép lang thang không ngày tháng, rải rác nơi nọ nơi kia… Rất riêng tư, và rất chủ quan…” nhưng các chuyện kể trong sách cũng là chung cho mọi phận người, nơi những dòng chữ của ông có thể giúp độc giả sống bình an giữa những bất an cõi này, sống yêu thương giữa những hoang mang cõi này.

Có thể tin rằng tác phẩm “Về thu xếp lại..” sẽ có một vị trí độc đáo trong văn học Việt Nam, và cũng rất đặc biệt sẽ là một cẩm nang sống cho nhiều người học Phật tương lai.

 

(Nguyên Giác Phan Tấn Hải. April 4, 2019)

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Gươm báu trao tay, Nghĩ từ trái tim

Thư gởi bạn xa xôi (1.3.2019)

01/03/2019 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

 

Thư gởi bạn xa xôi (1.3.2019)

“Về thu xếp lại…”

Đúng là lúc đầu, tập “tản văn” này mình lấy Tựa là “Một ngày kia đến bờ” và post lên dohongngoc.com một vài đoạn… để bạn bè mình xem thử. Không ngờ dù đã “rao trước” chỉ dành cho ” người cao tuổi”, trên dưới 70 mới nên đọc mà các bạn trẻ cũng đọc, rồi kêu bác đổi tựa đi, tựa này nghe đầy “hù dọa”, bác nghĩ coi, con để cuốn sách này trong túi xách, đặt trên bàn, hay cầm trên tay vào quán càphê thì người ta dòm con… ra sao?

Vì thế mình đã đổi Tựa là: “Về thu xếp lại…. ” cũng là một ca từ của Trịnh. Một bạn trẻ viết: Tựa này con nghe thân mật, gần gũi hơn, cũng nhắn nhủ đó, nhưng nhẹ nhàng, không “hù dọa”…

Thiệt ra, lúc đầu khi viết, nghĩ viết để mình mình đọc, để tự “nhắc nhở” mình: Gate, Gate, Paragate, Parasamgate… thôi.

Nhưng đúng là “Về thu xếp lại…” có vẻ nhẹ nhàng hơn, dù cuối cùng thì “thu xếp lại” cũng là để “đến bờ” mà, phải không?

Thế rồi, Nhà xuất bản Tổng hợp Tp. HCM, nơi trước đây đã in Gió heo may đã về, Những người trẻ … lạ lùng, Già ơi… chào bạn!… đã sẵn sàng để in “Về thu xếp lại…”.

Gởi bạn cái bìa… coi trước cho vui.

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc.

 

 

 

Filed Under: Già ơi....chào bạn, Góc nhìn - nhận định, Gươm báu trao tay

“Về thu xếp lại…” (kỳ 1)

19/02/2019 By Bac Si Do Hong Ngoc 6 Comments

 

(Ghi chú: Tập tản văn “tào lao” này tôi viết dành riêng cho các bạn thân trên dưới 70 tuổi của mình! Nếu bạn thấy đọc được thì sẽ post tiếp các “chương” sau! Thân mến, Đỗ Hồng Ngọc, Kỷ Hợi 2019).

 

“Về thu xếp lại…”

 

Đỗ Hồng Ngọc

 

tranh Lê Ký Thương

 

Lời Ngỏ

Người ta nói đúng. Mình đang ở tuổi nào thì đó là cái tuổi đẹp nhất, không thể có tuổi nào đẹp hơn! Một người 40 mà cứ tiếc mãi tuổi 20 của mình, một người 60 mà tiếc mãi tuổi 40 thì đến 75 họ sẽ tiếc mãi tuổi 60… thật là đáng thương!

Tôi nay ở tuổi 80. Thực lòng… đang tiếc mãi tuổi 75! Thấy những bạn trẻ… trên dưới bảy mươi mà “gato”! Mới vài năm thôi mà mọi thứ đảo ngược cả rồi. Bây giờ có vẻ như tôi đang lùi dần về lại tuổi ấu thơ, tuổi chập chững, tuổi nằm nôi…

Vòng đời rất công bằng. Chỉ còn cách tủm tỉm cười một mình mà thôi!

 

Cái tuổi đẹp nhất của đời người theo tôi có lẽ ở vào lứa 65-75. Đó là lứa tuổi tuyệt vời nhất, sôi nổi nhất, hào hứng nhất… Tuổi vừa đủ chín tới, có thể rửa tay gác kiếm, tuyệt tích giang hồ, “nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo” (NCT), nhưng cũng là tuổi có thể lại vướng víu, đa đoan nhiều nỗi, để một hôm ngậm ngùi ta là ai mà còn khi giấu lệ/ ta là ai mà còn trần gian thế? (TCS) 

 

Nhớ hồi ở tuổi 55, mới hườm hườm, tôi ngẫm ngợi, ngắm nghía mình rồi lẩn thẩn viết Gió heo may đã về. Đến 60 thì viết Già ơi… chào bạn! như một reo vui, đến 75 còn… ráng viết Già sao cho sướng?… để sẻ chia cùng bè bạn đồng bệnh tương lân. Nhưng 80 thì thôi vậy.

Đã đến lúc phải “về thu xếp lại” rồi, bởi  “chút nắng vàng giờ đây cũng vội”… rồi đó thôi!

Khi viết “Gió heo may đã về”, tôi cảm xúc từ nhạc Trịnh, nên đã mượn những ca từ của anh làm tiêu đề cho mỗi chương sách. Trong Lời bạt cho cuốn sách này, Trịnh Công Sơn đã viết: “… Bạc đầu có phải đã chớm già không. Theo tôi, bạn Đỗ Hồng Ngọc ạ, đó chỉ là thay đổi một màu tóc… Tôi nghĩ rằng, không có già, không có trẻ, nói với một người trẻ, tôi già rồi em ạ là vô lễ”.

 

Thế rồi, đến một hôm kia, anh đã lại viết:

“Ôi phù du/

 từng tuổi xuân đã già/

một ngày kia đến bờ/

Đời người như gió qua…”

 

Tôi nhớ mãi lần đến thăm anh ở phòng Săn sóc đặc biệt Bệnh viện Chợ Rẫy năm đó, trông anh như một tàu lá chuối khô, dán sát giường bệnh, tôi bỗng ngộ, những câu chữ anh viết trong ca khúc thì ra đã đến từ một cõi nào khác, xa xôi, một “mặc khải”, một “phó chúc” nào đó, chớ không phải từ tấm thân tứ đại ngũ uẩn mong manh này. Cho nên khi viết những dòng này, hôm nay, tôi lại nhớ người bạn nhạc sĩ họ Trịnh và lại mượn những ca từ của anh như một đề dẫn…

 

Những dòng viết này góp nhặt từ những trang nhật kỳ rời, từ những ghi chép lang thang không ngày tháng, rải rác nơi nọ nơi kia, chỉ để sẻ chia cùng bè bạn thân thiết, những bè bạn  cùng trang lứa, cùng tâm trạng.

Rất riêng tư, và rất chủ quan…

Thân mến,

 

Đỗ Hồng Ngọc

(Saigon, 2.2019)

 

……………………………………………………………………………………..

 

1. Cát bụi tuyệt vời…

 

“Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi,

            Để một mai vươn hình hài lớn dậy?

           Ôi, cát bụi tuyệt vời

           Mặt trời soi một kiếp rong chơi…”

(TCS)

 

Cái hình ảnh lấy cát bụi vo thành môt cục rồi thổi vào đó một hơi dài để vươn vai lớn dậy làm người thì thật là thú vị. Thú vị ở chỗ nghĩ cho cùng, cái thân xác cát bụi kia một hôm trở về làm cát bụi thì đã là chuyện dĩ nhiên, đương nhiên, tự nhiên, sao còn sanh sự tào lao chi cho mệt. Có điều để cái “cát bụi tuyệt vời…” này trở thành “cát bụi mệt nhoài” thì lỗi tại ta. Ta có thể làm cho cát bụi trở nên “thú vị” được lắm chứ! Cứ như người làm gốm sứ, cát bụi mệt nhoài là bởi thứ cát bụi làm kiểu công nghiệp, hàng loạt, giống nhau như đúc, dù cố vẽ vời chi đó trên gốm cũng vô ích. Cát bụi tuyệt vời là thứ cát bụi rất riêng tư. Nó tùy màu đất. Nó tùy độ lửa. Tùy chất liệu điểm tô không thể tính toán trước. Nó tạo ra vô vàn sự khác biệt. Như người họa sư chới với, kinh ngạc khi nhặt từ lò nung ra một thứ phẩm vật trời cho, tươm bao sắc màu pha trộn quái dị, chảy theo một dòng chảy không thể lường trước…

Phải, chính cái “phần hồn” kia – cái thức –  đã được lưu chuyển từ một kiếp nào xa đó, chằng chịt quấn quít với bao thứ duyên sinh, từ không mà có, từ có mà không, vừa chân không vừa diệu hữu, đã khiến cát bụi tuyệt vời kia một hôm trở nên cát bụi mệt nhoài nọ, với thất tình lục dục, hỉ nộ ái ố… để rồi nhận ra “trăm năm vô biên chưa từng hội ngộ/ chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà…”(TCS).

Nói không được. Bất khả thuyết. Không từ đâu đến/ chẳng đi về đâu. Nó Như Lai. Khi cát bụi và hơi hướm kia không chịu nhau nữa, giận nhau, cãi nhau, hục hặc, chí chóe, đòi tách nhau ra thì đủ thứ chuyện trên đời sẽ sinh sôi. Cuối cùng thì đến một lúc, cát bụi trở về cát bụi, hơi hướm trờ về hơi hướm… Rã ra. Tan ra. Không thương tiếc. Có một chu kỳ, có một nhịp điệu chăng? Không biết.

 

Banki, thiền sư Nhật bản, tác giả Tâm bất sinh (bản dịch Ni sư Trí Hải) nói ngay lúc sống người ta nên thuờng xuyên nghĩ về cái chết. Đúng vậy, bởi vì cái sống không tách rời cái chết. Cũng như thở vào không thể tách rời thở ra. Nó là một chu trình khép kín.

Có sinh ắt có tử, có tử ắt có sinh. Hơi vào có hơi ra và ngược lại. Cho nên người đạt đạo họ tỉnh queo, nôm na là họ… giác ngộ. Họ chẳng cần phải bối rối. Họ biết nó phải vậy. Như Thị.

Chu trình “khép kín” đó bắt đầu tăng tốc ở lứa 65-75 tuổi. Tăng tốc khô héo, tăng tốc nhăn nheo. Sự  tăng tốc của lứa tuổi này cũng làm ta há hốc, muốn kêu lên kinh ngạc… như ở tuổi dậy thì, tuổi mới lớn. Cái vòng đời nó diễn biến tuyệt vời đến vậy, liên tục đổi thay đến vậy thì có gì đáng phàn nàn đâu! Nhiều bạn cùng lứa than với tôi sao thế này sao thế khác, tôi thường chỉ nói “Ai biểu già chi?” rồi cười xòa với nhau mà không khỏi có chút … ngậm ngùi.

 

Anh chàng Alexis Zorba nói: “Cũng phải chăm nom đến thân thể nữa chứ, hãy thương nó một chút. Cho nó ăn với. Cho nó nghỉ với.  Đó là con lừa kéo xe của ta, nếu không cho nó ăn, nó nghỉ, nó sẽ bỏ rơi mình ngang xương giữa đường cho mà coi” (Nikos Kazantzaki). Từ ngày biết thương “con lừa” của mình hơn, tử tế với nó hơn, thì có vẻ tôi… cũng khác tôi xưa. Tôi biết cho con lừa của mình ăn khi đói, không ép nó ăn lúc đang no, không cần phải cười cười nói nói trong lúc ăn. Món gì khoái khẩu thì ăn, chay mặn gì cũng tốt. Cá khô, mắm ruốc gì cũng được, miễn là đừng nhiều muối quá, đừng nhiều mỡ quá!

Mỗi người có đồng hồ sinh học của riêng mình. Không ai giống ai. Như vân tay, như mống mắt vậy. Cho nên không cần bắt chước. Chỉ cần lắng nghe mình. Phương pháp này, phương pháp nọ của người này người kia bày vẽ chẳng qua cũng chỉ để tham khảo. Nắm lấy nguyên tắc chung thôi, rồi áp dụng vào hoàn cảnh riêng cụ thể của mình, tính cách mình, sinh lý mình. Phương pháp nào có sự ép buộc cứng ngắc thì phải cảnh giác!

 

Thời tôi học y khoa được học tế bào thần kinh không thể sinh sản, mất là mất luôn, hư hỏng thì không thể tự sửa được, không như tế bào ở các mô khác. Ngày nay người ta biết có khoảng 100 tỷ neuron thần kinh và 100 nghìn tỷ kết nối giữa chúng, nhưng thật ra não bộ còn rất nhiều điều bí ẩn chưa thể biết hết. Khoa học ngày nay tiến bộ, cho thấy tế bào thần kinh chẳng những rất nhu nhuyến (plasticity), có khả năng tự thích nghi, tự điều chỉnh mà còn có thể sinh sản tế bào mới (neurogenesis). Chúng có thể kết nối tự bên trong, hoán chuyển vị trí… chứ không phải tập trung từng khu vực cứng ngắc như ngày xưa đã tưởng. Khả năng thay đổi và thích nghi này của não không bị mất đi, tuy khi có tuổi thì các khả năng nhận thức, ngôn ngữ, trí nhớ, suy luận cũng kém đi theo tiến trình chung. Nghiên cứu gần đây cho thấy ở tuổi 80 não bộ vẫn còn tiếp tục tạo nên những con đường mới nối kết bên trong nên vẫn phát triển được.

Bây giờ thời đại cái gì cũng “thông minh” đáng ngại. Không lâu nữa, chắc con người sẽ có đủ “tam minh lục thông” chăng? Tam minh là Túc mạng minh (biết rõ kiếp trước của mình), thiên nhãn minh (biết rõ… kiếp sau của mình), lậu tận minh (dứt tất cả lậu hoặc); lục thông gồm thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, thần túc thông,…

Từ ngày có trang web riêng mình (www.dohongngoc.com/web/) do một bạn trẻ giúp cho, tôi bận bịu với nó nhiều hơn. Rồi nhờ nó mà tôi lần mò học cách post bài, đưa hình ảnh, chỉnh sửa tùm lum… Nó giúp tôi như quên ngày tháng, quên đi những buổi mai buổi chiều buổi trưa buổi tối…  Nhưng cũng nhờ nó, tôi mở rộng việc học hỏi, mở rộng giao lưu, thấy quả đất chỉ còn là một hòn bi xanh trong lòng bàn tay… Và chiếc điện thoại thông minh cũng giúp mình nhiều việc, dù thực tế nhiều lúc thấy nó thiệt là… ngu!

Mắt kém, đọc mỏi, tôi bắt đầu ít đọc báo, ít xem TV – ngày trước, mỗi ngày ngốn chục tờ báo là thường! Nay chỉ đọc lướt qua cái tựa là xong. Thời đại cần cái gì, gõ gõ vài cái có người đưa tới tận nhà! Hy vọng không lâu nữa, họ gởi các thứ qua mạng, bấm nút in ba chiều, muốn gì cũng có… Nghe nói người ta đã có thể “fax” một con người từ nơi này sang nơi khác… giúp ta không phải đợi chờ lâu! Máy móc, kỹ thuật, phương tiện nghe nhìn ngày càng chiếm ngụ trong ta, “thay mãi đời ta”…

 

 

…………………………………………………………………………………………..

 

2. Tôi chợt nhìn ra tôi

 

“Có nụ hồng ngày xưa rớt lại

Bên cạnh đời tôi đây

Có chút tình thoảng như gió vội…”

(TCS)

 

“Chợt” là vì bất ngờ. Nhưng không phải bất ngờ vì tôi thấy tôi. Mà bất ngờ vì tôi chợt “nhìn ra” tôi. “Nhìn ra” khác với thấy. Nhìn ra là “quán”.  Quán Tự Tại Bồ-tát hành thâm Bát Nhã chiếu kiến ngũ uẩn giai không… . Quán là thấy rõ (chiếu kiến). Tôi bấy giờ không còn là tôi bây giờ. Tôi bấy giờ là tứ đại, là ngũ uẩn. Và nếu quán một cách sâu sắc hơn, có thể thảng thốt kêu lên: “Bổn lai vô nhất vật”! (Lục tổ Huệ Năng).

Có lần Phật hỏi Duy-ma-cật: Ông quán Như Lai thế nào? Duy-ma-cật đáp: Thì như quán pháp thân của Phật và của chính tôi thôi. Có gì khác nhau đâu!

Nhìn thì có thể thấy khác. Bởi nhìn thì qua mắt, nhãn căn. Quán thì không nhìn bằng mắt. Mà nhìn bằng cả năm thứ con mắt (ngũ nhãn) gồm nhục nhãn (mắt thịt), thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhãn và Phật nhãn.  Thú vị, khi quán thì cả Như Lai, Phật và Tôi… đều là một, không khác. Đó là đã thấy pháp thân, thật tướng vô tướng.

 

Tôi thường tự hỏi tôi khác gì tôi xưa. Xưa ở đây là trước cái hồi tôi bị tai biến mạch máu não phải mổ sọ não cách đây cũng vài chục năm rồi. Câu trả lời là khác. Khác quá đi chứ. Trước hết tôi bây giờ già hơn tôi xưa, già thấy rõ, già tốc hành chớ không phải già lai rai như trước.

Nhiều hôm nhìn vào gương soi, tôi thấy mình như một quả táo để lâu ngày, héo dần, teo tóp, nhăn nheo. Nhưng có cái gì đó như cứng cỏi hơn, tuy quắt queo mà chỉ bay hơi nước, bay cái láng mượt, nuột nà của quả táo căng phồng, ngây thơ, tràn đầy thuở nào. Bây giờ thì co cụm lại, co rúm lại, gom tụ lại vào trong cái hột, cái lõi. Tôi thường tủm tỉm cười, cảm thấy khoái khi gặp môt người bạn trẻ, nghĩa là nhỏ hơn tôi chừng mươi, mươi lăm tuổi, lâu ngày không gặp nhìn tôi kinh ngạc, há hốc, như định kêu lên cái gì đó rồi thôi. Tôi hiểu và dĩ nhiên tôi cũng nhìn người bạn, cũng định kêu lên một cái gì đó, nhưng rồi cũng thôi. Thì ra cả tôi, cả người bạn trẻ đều cùng đã thay đổi, đã già đi mà không hay! Và như Nguyên Sa nói, người ta chỉ có thể đo tuổi mình qua ánh mắt cố nhân!

 

Tôi biết vòng đời của con người có ba giai đoạn đổi thay rất nhanh. Đó là thai nhi trong bụng mẹ, tuổi dậy thì và tuổi già. Khi trứng thụ tinh thì chỉ hình thành một tế bào, phải soi dưới kính hiển vi mới thấy; đến 3 tháng tuổi, thai nhi cũng mới bằng ngón tay út, vậy mà 6 tháng đã dài hơn ba mươi lăm phân và nặng trên một ký; đến lúc chào đời thì đã dài hơn nửa thước, nặng hơn ba ký rồi. Lớn nhanh như thổi!

Bé sinh ra lớn lên từng ngày, mỗi ngày mỗi khác, nhưng phải đến tuổi dậy thì mới có sự tăng trưởng và phát triển đột ngột. Chừng vài ba tháng không gặp, khi gặp lại cô bé mười ba, cậu trai mười bảy kia ta đã hết hồn, há hốc, kinh ngạc. Nó không chỉ cao lớn mà còn trỗ mã, xinh đẹp, đầy đặn, căng tròn như quả táo muốn tươm mật. Gái thì yểu điệu thục nữ, tóc mượt lưng ong. Trai thì vạm vỡ, hiên ngang, râu hùm hàm én… Rồi đến cái tuổi gió heo may, dìu dịu, nhạt nhòa nhưng vẫn là tuổi năng nổ, hoạt động mạnh mẽ và hiệu quả nhất để rồi chuyển sang tuổi già, tạm coi là sau tuổi 65, một chu trình “khép kín” đã lại bắt đầu: tăng tốc khô héo, tăng tốc nhăn nheo, tăng tốc ngược chiều đủ làm hết hồn, làm há hốc, muốn kêu lên kinh ngạc…

Nó diễn biến tuyệt vời đến vậy, liên tục đổi thay đến vậy thì có gì đáng phàn nàn đâu, có gì mà không thể tủm tỉm cười một mình đâu. Cho nên nếu tôi có gì khác tôi xưa thì chính ở chỗ tôi có phần… khoái cái sự già nua tăng tốc đó của mình, tôi hồi hộp dõi theo nó, tôi cảm thấy nó…hợp lý, nói chung là… cũng dễ thương quá đó chớ!

 

Ở tuổi 70 chưa thấy già đâu. Thậm chí đến 72, 73 vẫn còn thấy trẻ chán. Những năm tháng đó, khi đến những buổi giao lưu, trò chuyện (Talk) ở đâu người ta cũng nói tôi trông trẻ quá, chừng 60 là cùng. Không phải an ủi đâu. Tôi cũng… thấy vậy. Tóc vẫn đen nhánh, da căng mượt, trí tuệ sáng láng. Thấy có lửa. Thấy thèm muốn. Rồi sau đó, bỗng dưng mọi thứ như trôi tuột, tứ đại đất nước gió lửa gì gì đó coi bộ ai muốn về chỗ nấy, ngũ uẩn sắc thọ tưởng hành thức gì gì đó coi bộ cũng không còn muốn bó trong một bó (uẩn) như xưa nữa mà xục xịch lỏng lẻo dần ra, mỗi thứ cứ muốn tách ra riêng, trở về chốn cũ của nó. Thì ra tôi chỉ là cái được cho “mượn tạm”, “xài đỡ” một thời gian.

Bỗng lầm lì. Hình như ngó vào bên trong nhiều hơn ngó ra bên ngoài. Có vẻ như đang lắng nghe một cái gì đó. Cái mà Trịnh gọi là “tôi đang lắng nghe… im lặng đời mình”, hay lắng nghe “lời mời đã dậy”…  Các hormone bắt đầu cạn dần, cạn dần. Mọi thứ đã “lập trình” đâu đó từ trước. Tùy mỗi người. Không phải cứ muốn mà được. Điều quan trọng người ta phải chấp nhận mình là. Nghe tin người nọ người kia tự nhiên mà quên hết, tự nhiên mà không nhớ mình là ai, không nhớ ai là ai. Chụp ảnh não bộ thì thấy teo, teo ở một nơi nào đó, làm mất trí nhớ dần. Thật đáng sợ và cũng đáng tức cười. Tự nhiên mà nhớ rồi tự nhiên mà quên. Có người phải tu tập khó khăn lắm mới buông bỏ được, mới quên được, có người tự nhiên mà quên tuốt tất cả mọi sự đời, chẳng cần phải tu! Hôm qua, nghe tin người bạn cùng tuổi, cách đây 60 năm vào cùng trường cùng lớp với mình tự dưng quên cả tên vợ con, quên cả đường đi quanh nhà. Anh vốn là một nhà toán học, mà bây giờ không biết cả hai với hai là bốn. Một bạn khác, vốn là một nhà quản lý có tiếng ở một bệnh viện lớn ngày xưa mà nay cũng không nhớ nổi tên mình! Một người bạn hứa cùng đi chơi, giờ chót xin lỗi vì không mặc được quần vì thấp khớp…  Quên chìa khóa, quên mắt kiếng, quên điện thoại, quên số nhà, không biết đường về… thì thường xuyên rồi. Con đường mòn của ký ức đã trục trặc, vấy bẩn hay vì những nguyên nhân gì khác không biết.  Quên ngày tháng, quên nơi chốn. Nói điều gì xong quên ngay. Hỏi đi hỏi lại mãi. Ăn mặc luộm thuộm. Thích đi lang thang. Rồi đến lúc không thể tự săn sóc cho mình được nữa, phải hoàn toàn lệ thuộc. Nghĩa là người ta cứ từ từ trở lại tuổi nằm nôi, từ biết đi biết chạy đến đứng chựng, biết bò biết lật rồi… Giận hờn, trách móc, lo âu, trầm cảm, còn thêm nhiều thứ bệnh ập tới không thương tiếc. Rồi té ngã, loét da, táo bón, tiêu tiểu không kiểm soát… Già ấy là lúc cạn, lúc teo, lúc héo. Thích nghi không dễ. Biết để mà thương, mà chấp nhận mình.

 

Nhiều khi, sáng dậy, nhìn vào gương soi tôi lại thấy tức cười. Tôi đó sao? Nhăn dần từng nét ngộ nghĩnh trên mắt trên da. Đôi khi muốn lấy viết vẽ nguệch ngoặc gương mặt thay đổi từng ngày của mình, từng ngày nhưng rất nhanh, thấy rõ chứ không như ngày xưa, nhiều năm mới nhận ra nét đổi thay. Tôi tức cười nhìn mình. Nó nhìn tôi cũng cười. Ngộ nghỉnh. Cười mà ráng. Không ráng thì nó trỉu nặng. Mấy tế bào của cơ mặt hình như sinh tật làm biếng, xệ xuống cho khỏe.

Tôi thường tự hỏi, tôi bây giờ khác gì tôi xưa? Khác nhiều chứ. Tôi tập xả hơi. Tôi tập xì hơi. Nhiều khi thử xả cho tận kiệt xem sao. Tôi thử bịt mũi từng tế bào, coi nó ra sao? Tôi thử thả trôi nó coi nó ra sao. Tôi tách thân xác ra khỏi thân hơi coi nó ra sao. Trần Nhân Tông nói có lý: thân thể y như cái túi da. Là bác sĩ, tôi còn biết túi da đó đựng những gì nữa! Không chỉ thấy là xương là thịt, là mỡ gì đó đâu, tôi còn thấy đến tận những chất liệu Carbone (C), Hydrogen (H), Nitrogen (N), Oxygen (O) và chừng 60 món vô cơ khác từ sắt đồng chì kẽm mangan, vôi vữa… các thứ câu kết ra sao, thay đổi ra sao, hùng hục, huỳnh huỵch với những phản ứng hóa học ra sao.

 

Tôi ăn cũng khác mà ngủ cũng khác xưa. Bây giờ tôi thấy ngủ cũng chỉ là cách cho cơ thể nghỉ ngơi, giảm tiêu hao năng lượng, cho tế bào não sạc pin, phục hồi, tế bào cơ thư giản. Nếu có cách nào khác làm cho tế bào cơ thư giản, hết co cơ, tế bào não hết sinh sự, kiếm chuyện, thì tôi cứ để cho thân thể tự dàn xếp. Cơ thể tự biết cách thu xếp. Nó biết xì hơi, xả hơi. Thường thì nhờ vậy, tôi ngủ lúc nào không hay. Kệ nó. Nó muốn thức dậy giờ nào thì cứ cho nó dậy, ngủ tiếp thì ngủ. Mỗi ngày cũng mất 7-8 giờ cho chuyện ngủ nghỉ này. Pin đủ, đầu óc sáng suốt, trí nhớ tốt, nhạy hơn hẳn. Trưa cũng cần sạc pin chút xíu.

Lâu nay tôi hoang phí năng lượng vào những chuyện không đâu,  cho nên cơ thể căng cứng, rả rời, lúc nào phổi cũng phải bơm hơi cho kịp, tế bào cũng phải quần quật hì hục sản xụất năng lượng. Bây giờ tôi chủ trương thở vừa đủ xài. Xài ít thì thở ít. Bộ não có chút xíu, có 2% thể trọng mà họat động cực kỳ mạnh mẽ, tiêu thụ đến 25% khối lượng Oxy đưa vào cơ thể. Nếu có cách nào làm cho não nghỉ ngơi thì giảm được sự mệt nhọc. Còn khi có tranh chấp, căng thẳng thì … cơ sẽ căng cứng, cứ y như những con thú rừng, sẵn sàng tư thế chiến đấu  hoặc bỏ chạy (stress). Toàn bộ cơ mà căng thẳng vậy, nhu cầu năng lượng tăng gấp… 4 lần!

 

Ghi tiếp “Nhật ký rời”: Chỉ còn mấy ngày nữa, đã đầy tám chục (tuổi ta). Phải nhanh chóng ghi lại vài điều kẻo quên.Thứ nhất, ở tuổi này tôi thấy tay mình ngày càng run. Làm cái gì mà cẩn thận thì đổ vỡ. Làm cái gì không tính trước thì được. Tùy cơ ứng biến thì tốt. Tay run đến nỗi viết cũng khó mà vẽ chơi cũng khó. Tôi phải vẽ kiểu “tốc họa”, vẽ như chớp, theo một cảm xúc bất chợt, không toan tính thì tốt. Ai bắt chước được cái run?

“Già khú” là giai đoạn một, thêm một bước nữa thì gọi là “già khú… đế”. Khú, Từ điển tiếng Việt bảo là “để thâm lại và có mùi hôi”, thí dụ dưa khú, tức là một thứ dưa để lâu quá, sắp hư. “Khú đế” là “vua” của khú đó chăng?

Sai lầm lớn khi ta nghĩ rằng già sẽ đến từ từ. Cứ từ từ mà thích nghi. Không đâu. Già nó xồng xộc trên trời rơi xuống, dưới đất vọt lên. Không những xồng xộc nó còn gia tốc, tàn bạo như cơn sóng vỗ vào bờ đá, vội vã để mau chóng nhập vào dòng nước cuồn cuộn đuổi theo sau. Nó mạnh mẽ và tàn nhẫn, tung tóe, tan tác, lắng chìm, không một chút xót thương. Nó lãnh đạm bởi nhiệm vụ nó phải thế. Nó thú vị bởi nó không phân biệt. Giàu nghèo sang hèn, da trắng da đen… Còn ta, ta chần chờ, làm ngơ… Đi đâu mà vội… Không đâu! Một hôm già bỗng chuyển hệ sang già…khú, rồi khú đế đột ngột làm đảo lộn mọi thứ tính toan. Bây giờ tôi thấy mình lạc lõng, ở đâu cũng lạc lõng. Với lứa trẻ, mình lạc lõng đã đành mà với lứa trung niên mình cũng bị… loại sớm. Bạn già cũng rơi rụng đâu mất dần.

Một người bạn điêu khắc gia có tiếng nắn tôi cái tượng chân dung. Anh không nói trước. Một hôm, kêu lên nhà café chơi. Tôi đến. Anh mang tượng ra, bảo, ngồi yên chút cho anh retouch lại. Lúc đó mới biết. Tôi nhìn anh hý hoáy gọt gọt giũa giũa… thấy ngộ, bèn cũng hý hoáy vẽ  anh với bộ râu đặc biệt. Anh không biết là tôi đang vẽ anh. Xong đâu đó, trao tặng anh. Anh ngạc nhiên, vui lắm. Tượng sau đó tôi mang về giấu kỹ. Mười lăm năm trôi qua từ ngày đó. Tình cờ nhìn lại tượng, tôi giật mình: râu tóc đã bạc phơ. Nhăn nhúm đã tràn đầy!

Lạ thiệt!

 

 

Đỗ Hồng Ngọc

(còn tiếp)

 

 

Filed Under: Già ơi....chào bạn, Góc nhìn - nhận định, Gươm báu trao tay, Nghĩ từ trái tim

Kỳ 35: PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG

14/09/2018 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Kỳ 35: Phật Học & Đời Sống

Chùa Phật học Xá-Lợi, 89 Bà Huyện Thanh Quan, Tp,HCM

Ngày thứ bảy 8.9.2018 ( 29/7 Âm lịch) từ 15-16h30

Đề tài “Sám Hối”

Ghi chú: Đợt II của Ct PH & ĐS kỳ này có Chủ đề Sám Hối theo đề nghị của một số bạn, vì vẫn còn trong tháng 7 Âm lịch, mùa Vu Lan.

Gọi là Kỳ 35 vì Đợt I đã có 31 buổi có quay Video clip và 3 buổi thảo luận suông, không ghi hình, cũng chẳng ghi âm. Các bạn bảo vậy mà hay! Ai nấy mạnh dạn phát biểu. Còn khi có ghi hình cũng thấy ngại ngại, sợ cái “dung nhan” không mấy ăn ảnh của mình! Kỳ 35 này, thử nghiệm thu âm xem sao. Thu âm chủ yếu để làm tư liệu tham khảo khi cần. Thế nhưng, nvquyen bảo vẫn có thể đưa lên youtube chia sẻ cho bạn bè ở xa theo dõi được.

Vậy thì, thử xem nhé! Thì ra, chỉ thu âm rồi chèn mấy cái hình vô sao thấy nó khô khan… cứng ngắc, trơ trơ, thiếu… cảm xúc quá!

Thôi đã lỡ. Đành “Sám Hối” vậy. Kỳ tới, sẽ lại tiếp tục ghi hình như cũ nhé. Cảm ơn nvquyen đã rất vất vả.

PH & ĐS Kỳ 36, ngày Thứ bảy, 15.9.2018 này (cũng từ 15-16.30) sẽ tiếp tục mở rộng đề tài “Sám Hối”. Ngày càng đi vào vấn đề ứng dụng, thực hành trong Đời sống hàng ngày vậy.

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc.

 

 

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Gươm báu trao tay, Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống

Vài câu chuyện với bạn trẻ…

08/09/2018 By Bac Si Do Hong Ngoc 4 Comments

 

Vài câu chuyện với bạn trẻ…

Lời Ngỏ: Một hôm, nhạc sĩ Dương Thụ “chủ xị” Cafe Thứ bảy phone nhờ tôi dành một buổi sáng Chủ nhật (12.8.2018) đến trò chuyện với các bạn trẻ ở một quán Café đường NKKN, quán Cafe Thứ bảy dành riêng cho giới trẻ, đề tài: Khởi Nghiệp!

Tôi kêu Trời! Tôi mà “khởi nghiệp” cái gì ông ơi! “Khởi nghiệp” là chuyện mở mang làm ăn, kinh doanh làm giàu… chớ sao lại mời tôi. Tôi thì chỉ nói về “Thiểu dục, Tri túc”, “Từ bi hỷ xả”… mà! Ông nhầm rồi ông ơi! Nhưng Dương Thụ bảo không, “khởi nghiệp” ở Chương trình này là kể cho các bạn trẻ nghe những bước đầu đi vào nghề nghiệp của mình, những kinh nghiệm thành công thất bại để chia sẻ cùng các bạn trẻ đang loay hoay tìm kiếm. Chương trình này đã mời Tiến sĩ Bùi Trân Phượng, nguyên hiệu trưởng Đại học Hoa Sen, nói về “nghiệp” làm giáo dục của bà buổi đầu tiên và sau đó, buổi thứ hai nhạc sĩ Dương Thụ nói về cái “nghiệp” âm nhạc… Kỳ này BTC muốn các bạn trẻ được nghe Bs Đỗ Hồng Ngọc nói về con đường học Y, hành Y của mình để có thêm kinh nghiệm về lối sống, sức khỏe…

Vậy thì tôi “OK”. Tôi cũng muốn được nghe tâm tình của các bạn trẻ, tôi cũng muốn học từ các em, cách nghĩ, cách làm hiện nay của thời đại các em, thời đại 4.0, và vì tôi cũng biết Nhật bản đang đi vào Thời đại 5.0, trong đó Giáo dục “con người” là yếu tố hàng đầu…

Và, nvquyen đã dựa trên tư liệu livestream của BTC và clip của Bs Trương Trọng Hoàng để hình thành youtube dưới đây. Xin trân trọng cảm ơn tất cả.

Buổi trò chuyện khá là sôi nổi. Hơi dài.

Cứ tùy nghi. Tùy hỷ. Lai rai vậy nhé.

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc.

 

 

Filed Under: Các bài trả lời phỏng vấn, Góc nhìn - nhận định, Gươm báu trao tay, Thầy thuốc và bệnh nhân

Kỳ 31: PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG

09/08/2018 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 Kỳ 31: Phật Học & Đời Sống

“Thấy biết Như Thật” (tiếp theo)

Ngày thứ Bảy 4.8.2018 từ 15-16h30

tại Chùa Phật học Xá Lơi, Saigon

89 Bà Huyện Thanh Quan, Quận 3, Tp HCM.

………………………………………………………………

Thông báo: Sắp đến Lễ Vu Lan, cùng lúc có các ngày Lễ trong năm 19.8; 2.9. cũng như Niên học mới sắp khai giảng…, mọi người đều rất là bận rộn… Do vây, sinh hoạt PH & ĐS của chúng ta sẽ tạm nghỉ đến Thứ bảy 8.9.2018 và sẽ có thông báo cụ thể sau.

Trân trọng,

Đỗ Hông Ngọc.

TB: Thời gian này, tất cả chúng ta có dịp coi lại các clip cũ, đọc thêm tài liệu, kinh sách… và đừng quên… thực hành để rút kinh nghiệm nhé!

Thân mến,

……………………………………………………………………………..

Cảm ơn nvquyen,

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Gươm báu trao tay, Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống

“Sách nói” : CÕI PHẬT ĐÂU XA (về kinh Duy Ma Cật)

06/08/2018 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Có một cuốn “Sách nói”:

CÕI PHẬT ĐÂU XA

(Đỗ Hồng Ngọc viết về Kinh Duy Ma Cật)

 

Thiệt là ngạc nhiên! Tôi vừa nhận được sáng nay, cuốn sách nói “Cõi Phật Đâu Xa” của Thảo Nhiên Nguyễn Ngọc Trinh, một thành viên trong Gia đình Hoa Sen Đà Lạt gởi tặng. Thảo Nhiên nói đọc xong Cõi Phật Đâu Xa thấy nên chia sẻ với mọi người, nhất là những người cao tuổi, những người đọc chữ in đã khó, coi trên Internet cũng không dễ, muốn mang theo mình không biết tính sao, nên tốt nhất… “nghe” lai rai! Vậy là cô tranh thủ những lúc rỗi rảnh, đọc rồi tự thu vào điện thoại, tạp âm tùm lum… May sao, tình cờ gặp em Hoàng Tuyến, ở tận Thái Nguyên, một lần gặp nhau ở Đà Lạt – là người từng có kinh nghiệm làm PTTH, biết chuyện, đã tình nguyện chỉnh âm giùm và… post lên mạng.

Vậy là bỗng nhiên có một cuốn sách nói “trời ơi” thật dễ thương như vậy.

Lẽ nào không chia sẻ nơi đây?

Đa tạ Thảo Nhiên, đa tạ Hoàng Tuyến.

Đỗ Hồng Ngọc.

(Saigon, 6.8.2018)

TB: Tôi cũng không biết làm sao đưa lên www.dohongngoc.com/web/, đành copy rồi đưa nguyên một cụm như vậy. Cứ tùy nghi nhé. Thân mến.

……………………………………………………………………………………….

Sách Nói: CÕI PHẬT ĐÂU XA

Đỗ Hồng Ngọc (viết về kinh Duy Ma Cật)

Giọng đọc: Thảo Nhiên (2018).

https://youtu.be/Dm3EsQmGsO4 ( PHẦN 1)
https://youtu.be/jVPpzeDFoUw ( PHẦN 2)
https://youtu.be/R5lDemtkHfU (PHẦN 3)
https://youtu.be/7Op075g3dS4 (PHẦN 4)
https://youtu.be/An6h3Oxbkz4 (PHẦN 5)
https://youtu.be/KKdwc4ni8gQ (PHẦN 6)
https://youtu.be/syDMmRaWZMw (PHẦN 7)
https://youtu.be/Vgw8OHariMo (PHẦN 8)
https://youtu.be/VRQQQwvIHWI (PHẦN 9)
https://youtu.be/xeE5xy8X8NA (PHẦN 10)
https://youtu.be/nm_nBVUomVM (PHẦN 11)
https://youtu.be/xuKHM-SHWAs( PHẦN 12)
https://youtu.be/KPX-RMO_jsQ ( ĐÔI DÒNG)

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Gươm báu trao tay, Phật học & Đời sống, Đọc sách

Kỳ 30: PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG

03/08/2018 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Kỳ 30:  Chương trình  PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG

Ngày 28.7.2018, chùa Phật học Xá Lợi Saigon,

89 Bà Huyện Thanh Quan, Quận 3, Tp.HCM

Chủ đề: “Thấy Biết Như Thật”

Cảm ơn nvquyen.

Đỗ Hồng Ngọc.

Thư Mời:

Thân mời các bạn tiếp tục dự buổi Sinh hoạt Phật Học & Đời Sống kỳ 31 ngày 4.8.2018, tại Chùa Phật học Xá Lợi từ 15-16h30

Chủ đề: “Thấy Biết Như Thật” (tiếp theo)

Trân trọng,

ĐHN

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Gươm báu trao tay, Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống

Kỳ 28 “PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG”

19/07/2018 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Kỳ 28: Phật Học & Đời Sống

Chủ đề: “ĂN và CHAY”

Ngày Thứ bảy 14.7.2018 tại Chùa Phật học Xá Lợi Saigon,

89 Bà Huyện Thanh Quan, Quận 3, TpHCM

Cảm ơn nvquyen

Đỗ Hồng Ngọc

………………………………………………………………………………………………..

Thân mời các bạn tham dự buổi sinh hoạt Kỳ 29 “Phật Học & Đời Sống”,

15-16h30 ngày Thứ bảy 21.7.2018

tại Chùa Xá Lợi, 89 Bà Huyện Thanh Quan, Quận 3, Tp HCM

Chủ đề: “Ăn và Chay” (tiếp theo)

Trân trọng,

ĐHN.

 

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Gươm báu trao tay, Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống, Uncategorized

Kỳ 27 PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG

13/07/2018 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Kỳ 27: Phật Học & Đời Sống

Ngày 7.7.2018 Chùa Phật học Xá Lợi Saigon, Quận 3 Tp HCM

“THIỂU DỤC, TRI TÚC”

Cảm ơn nvquyen 

Đỗ Hồng Ngọc.

……………………………………………………………………………

Thân mời các bạn tham dự Sinh hoạt Phật Học & Đời Sống kỳ 28

Ngày Thứ bảy 14.7.2018

tại Chùa Phật học Xá Lợi, 89 Bà Huyện Thanh Quan, Quận 3, Tp HCM.

Chủ đề: “Ăn và CHAY”

ĐHN

 

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Gươm báu trao tay, Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống

Chương trình Phật Học & Đời Sống đợt I.

03/07/2018 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Chương trình PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG

Thân gởi các anh chị, các bạn,

Trước hết, chúng ta phải cảm ơn nvquyen và bà xã (Nga) đã tự nguyện bỏ công sức quay toàn bộ Video clip cho các buổi sinh hoạt của chúng ta vào mỗi chiều Thứ bảy tại Chùa Xá Lợi và post lên để  chúng ta được dịp xem kỹ lại cũng như để chia sẻ cùng bè bạn khắp nơi, (nvquyen cho biết đã có hơn 1500 bạn ‘tham dự’ từ xa).

Trước khi Chương trình “Phật học & Đời sống” chuyển qua Đợt II vào Thứ bảy ngày 7.7.2018 sắp tới, nvquyen lại có sáng kiến tổng hợp tất cả các video clip theo trình tự để post lên hôm nay.

Tất cả có 26 video clips đã được tổng hợp dưới đây ( riêng 3 buổi sinh hoạt cuối tháng 6 dành để chia sẻ, trao đổi, giải đáp thắc mắc nên không quay clip).

nvquyen cũng chia sẻ nơi đây một vài comments như một cách “động viên” nhóm thực hiện cố gắng tiếp tục Chương trình Phật học & Đời sống này.

Trong Đợt I, chúng ta đã học những vấn đề cơ bản (Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo, Duyên Khởi, Từ Bi Hỷ Xả, Nghiệp, Phước…) thì ở Đợt II, chúng ta sẽ mở rộng, thảo luận các lời dạy trong Kinh sách, chú trọng phần Ứng dụng trong đời sống hàng ngày.

Nhắc lại, Đợt II vào ngày Thứ bảy, 7.7.2018 lúc 15-16h30 nhé.

Mời các bạn tham dự.

Thân mến,

BS Đỗ Hồng Ngọc.

……………………………………………………………………………………………………………..

 

Chương trình Phật Học & Đời Sống đợt I.

Từ ngày 7.10.2017 đến 30.6.2018

Mỗi Thứ bảy từ 15-16h30 tại Chùa Phật học Xá Lợi Saigon,

89 Bà Huyện Thanh Quan, Quận 3, Tp HCM

Phụ trách: Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, Cư sĩ Tô Văn Thiện, Cư sĩ Minh Ngọc

Video clip: nvquyen.

 

Kỳ 1: Dẫn nhập chương trình Phật học và đời sống:

Kỳ 2 :Phật học và đời sống:

Kỳ 3: Tứ Diệu Đế

Kỳ 4: Tứ Diệu Đế (tt)

Kỳ 5: Tứ Diệu Đế (tt)

Kỳ 6: Tứ Diệu Đế (tt)

Kỳ 7: Tứ Diệu Đế (tt)

Kỳ 8: Bát Chánh Đạo

Kỳ 9: Bát Chánh Đạo(tt)

 

Kỳ 10: Bát Chánh Đạo: Tứ Niệm Xứ

Kỳ 11: Bát Chánh Đạo (tt)

Kỳ 12: Bát Chánh Đạo (tt)

Kỳ 13: Bát Chánh Đạo (tt)- Anapanasati “An-ban thủ ý”

Kỳ 14: Duyên khởi (Thập nhị nhân duyên)

Kỳ 15: Duyên khởi (Thập nhị nhân duyên)-tt

Kỳ 16: Duyên khởi (Thập nhị nhân duyên)-tt

Kỳ 17: Tứ vô lượng tâm  (Từ-Bi-Hỷ-Xả)

Kỳ 18: Tứ vô lượng tâm (Từ-Bi-Hỷ-Xả)-tt

Kỳ 19: Tứ vô lượng tâm (Từ-Bi-Hỷ-Xả)-tt

Kỳ 20: Từ bi với chính mình

Kỳ 21: Từ bi với chính mình (tt)

Ky 22: Từ bi với chính mình (tt)

 

Kỳ 23 Hô hấp và 16 hơi thở Thân-Thọ-Tâm-Pháp

Kỳ 24: Nghiệp

Kỳ 25: Chuyển Nghiệp

Kỳ 26: Phước và tu Phước

 

……………………………………………………………………………………………………………………..

Một vài comments:

 

Lâm Hoàng 18 hours ago

Vừa là bs vừa là tu sĩ,tuyet diệu.. cam on bs.

Thưa bs … bản chất của thiền mà bs đã trình bày rât đồng ý… và đã thưc tap. cam ơn tât cả

Mong rằng chương trình này có hàng ngày….

Đung đo.. thở bằng bụng ap dụng đươc cho tu thiền đinh… cac ban thử đi.. tôi dùng no đc 8 năm..co hiêu quả cao.

Lâm Hoàng 3 days ago

Rât vui, rât hay, rât thú vị..

Ngoài kien thưc thế trí biên thông… còn có thêm tâm niêt bàn ,tâm này có sẵn trong mọi người.. đo là tâm Phât của mỗi người…..

Nghe khg chỉ để nghe, mà phải nghe như thế nào, khg đơn thuần nghe như sự giải trí!..

Lâm Hoàng 3 days ago

Môt vi sư ẩn tu.. nhận đinh theo giáo pháp của đưc phat rât khoa học ,rat đươc trân trọng,..

Hoàng Tuấn Anh 1 week ago

con cảm ơn

Thuận Đinh 2 weeks ago

ko biết sử dụng ngôn từ như thế nào để diễn tả những xúc cảm đang chảy trong con.vô cùng xúc động

Lap Tran 1 week ago

Cảm ơn những bạn upload Video này. Phước Báu Vô Cùng. Vì những lời giải thích của Bs Đỗ Hồng Ngọc về giáo lý Đất Phật dễ hiểu,vì phần lớn kinh Phật đa phần là từ Hán Việt chỉ những vị Thầy có học Hán Việt mới hiểu, với Tôi ,khi nghe BS ĐHN giảng về hơi thở và Thiền là một…..tôi đã thực tập 1 tuần …..kết quả ngoài sức tưởng tượng .Tôi có Hạnh Phúc và sự Bình An trong suốt thời gian Thiền và Thở. Xin Trân trọng cảm ơn Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc.

Thuận Đinh 3 weeks ago

cảm ơn bác sĩ, cảm ơn thầy Minh Ngọc, cảm ơn những buổi sinh hoạt của các quý cô chú đã làm nảy nở trong lòng con những hạt giống thiện lành khiến một kẻ ngoại đạo như con vô cùng yêu mến Phật pháp khát khao được bước chân vào con đường đạo mà chẳng biết bắt đầu từ đâu.nếu có duyên lành được bác chỉ dạy con mong bác hãy giúp con

evangeline S 4 weeks ago

Con cảm ơn Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, Bác Vquyen, Bác Minh Ngọc, Ban tổ chức vì thêm một bài giảng về karma – một chủ đề con thấy thật khó ạ <3!

evangeline S 1 month ago

Con xin thật cảm ơn Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, Bác Vquyen , và ban tổ chức đã quay clip lại buối ” Học Phật” giúp con hiểu hơn về Phật Giáo. Con có thể hỏi những câu hỏi sau: Khóa học đã kết thúc chưa ạ? Liệu sẽ còn những khóa học tiếp theo không ạ? Con có thể tham gia không ạ? Nếu được, cách đăng kí như thế nào ạ?

Hung Nguyen 2 months ago

Con xin cảm ơn Thầy ! Một vị Thầy,một vị Bác sỹ có tấm lòng từ bi bác ái thông thái vô cùng…!!!

evangeline S 2 months ago

Cảm ơn bạn @vquyen đã cho mình nghe Idol của mình giảng giải về chủ đề mình yêu thích<3 Bạn ơi, lớp giảng này có cho người tham gia tự do không à bạn? Cảm ơn bạn!

Thuận Đinh 2 months ago

cảm ơn bạn đã mang đến những vi deo vô cùng quý giá vô cùng nhân văn

Tiến Thành Đinh 2 months ago

bác sĩ có một năng lượng rất bình an! khiên người khác dễ chịu, tu giỏi quá

Trần Đình Nguyên Phúc 2 months ago

bác sĩ thuyết rất hay và rất khoa học

Hung Nguyen 3 months ago

Bồ tát sửa Tâm, Bác sỹ sửa Thân. Thầy Ngọc sửa cả Tâm và Thân.xin chân thành cảm ơn Thầy !

 

 

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Gươm báu trao tay, Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống, Thiền và Sức khỏe

Kỳ 26: Phật Học & Đời Sống (ngày 9.6.2018)

23/06/2018 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Kỳ 26: Phật Học & Đời Sống

Ngày 9.6.2018 tại Chùa Phật học Xá Lợi Saigon

(89 Bà Huyện Thanh Quan, Quận 3, Tp.HCM

“PHƯỚC và TU PHƯỚC” 

Trước hết xin lỗi các bạn vì Video clip Phật Học & Đời Sống kỳ 26 này đã được post lên đây quá trễ, do nvquyen bận nhiều ở Tu Viện Khánh An và chúng tôi cũng bận trong mùa Trường Hạ của quý vị tu sĩ về “An cư kiết hạ” tại chùa Xá Lợi.

Riêng tôi còn bận một số việc gia đình nên các ngày Thứ bảy trong tháng 6 đã do Cư sĩ Minh Ngọc và Cư sĩ Tô Văn Thiện phụ trách. Các buổi sinh hoạt “ngoại khóa” này tập trung thảo luận và hỏi-đáp về các chủ đề đã trao đổi trong thời gian qua,  không ghi hình, mong các bạn thông cảm.

Hy vọng tháng tới, các buổi sinh hoạt của “Lớp lỏng lẻo” PH & ĐS của chúng ta sẽ được tiếp tục như cũ.

Cảm ơn nvquyen.

Trân trọng,

Đỗ Hồng Ngọc.

 

Ghi chú: Thứ bảy 30/6 vẫn có buổi thảo luận do Cư sĩ Tô Văn Thiện và Minh Ngọc phụ trách. Thân mời các bạn tham dự.

 

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Gươm báu trao tay, Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống

  • Go to page 1
  • Go to page 2
  • Go to page 3
  • Go to page 4
  • Go to Next Page »

Thư đi Tin lại

  • Lịch “Trò chuyện, giao lưu…”
  • Lại đính chính: “SAIGON BÂY GIỜ”
  • ĐÍNH CHÍNH: BSNGOC không phải là BS ĐỖ HỒNG NGỌC
  • Đính chính: BS NGỌC không phải là Bs Đỗ Hồng Ngọc
  • bsngoc đã lên tiếng đính chính
  • Thư cảm ơn và Đính chính về FACEBOOK Bác sĩ NGỌC
  • ĐÍNH CHÍNH: Bài viết "TÀN NHẪN" không phải của Bs Đỗ Hồng Ngọc

PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG

Biết rồi còn hỏi

Ba tầng của tâm thức – Vô Kỵ ở tầng nào?

“An cư kiết hạ” trong mùa Covi

Thư gởi bạn (2.4.2020)

Nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo với “CÓ KHÔNG”

Xá-lợi-phất và Duy-ma-cật

Phật cười dưới trăng…

Nguyễn Hiền Đức với “TÔI HỌC PHẬT” của Đỗ Hồng Ngọc

Lời ngỏ viết cho Tuyển tập TÔI HỌC PHẬT

Mừng NOEL với “Tiếng Hát Thiên Thần”

Xem thêm >>

Chuyên mục

  • Một chút tôi
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy

Bài viết mới nhất!

  • Thơ Nguyễn Thị Khánh Minh: NHỚ ĐINH CƯỜNG
  • Sách Ở Trên Đường
  • Ngô Nguyên Nghiễm: Đọc “TỬ SINH CA” của Trần Yên Thảo
  • Nguyên Giác (PTH): Thêm một ngày, học vô cùng
  • Truyện đọc mùa Noel: DUYÊN PHẬN

Bài viết theo tháng

Ý kiến bạn đọc!

  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Tĩnh lặng
  • Tịnh Phan trong Tĩnh lặng
  • Phan Minh Tịnh trong Tĩnh lặng
  • Trần Vạn Lợi trong Chuyện kể đêm Giáng Sinh
  • hai trầu trong Chuyến về Đà Lạt cùng Quán Văn
  • hai trầu trong Chuyến về Đà Lạt cùng Quán Văn
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Thơ Trần Thị Nguyệt Mai trên TUỔI HOA xưa
  • Vũ Thất trong Thơ Trần Thị Nguyệt Mai trên TUỔI HOA xưa
  • Nguyệt Mai trong Thơ Trần Thị Nguyệt Mai trên TUỔI HOA xưa
  • Nguyễn Quốc Anh trong Làm rõ vài chi tiết về Nguiễn Ngu Í

Cùng một tác giả

  • 0
  • 1
  • 1
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6

Thống kê

Nhà tài trợ

biệt thự vũng tàu
biệt thự vũng tàu cho thuê | biệt thự vũng tàu cho thuê theo ngày giá rẻ | cho thuê biệt thự vũng tàu có hồ bơi
© 2009 - 2016 Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Phát triển & Hỗ trợ kỹ thuật bởi SGC.
Trích dịch nội dung để dùng trong nghiên cứu, học tập hay dùng cho cá nhân đều được tự do nhưng cần phải chú thích rõ nguồn tài liệu và đối với các trích dịch với mục đích khác, cần phải liên lạc với tác giả.
  • Một chút tôi
    ?
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    ?
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    ?
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    ?
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    ?
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy
  • Nhận bài mới qua email