Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Tập hợp các bài viết của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Ghi chép lang thang
  • Nhận bài mới qua email

Tựa CHỚ QUÊN MÌNH LÀ NƯỚC, Văn Công Tuấn

14/09/2019 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Ghi chú:

Văn Công Tuấn ở bên trời Tây, tôi ở bên Đông, cách nhau ngàn vạn dặm, chưa có dịp gặp nhau nhưng tình đã thân quen vì cùng có chung những người bạn quý: Thầy Phước An ở Nha Trang, Nguyễn Hiền Đức gốc Hội An và Nguyễn Minh Tiến ở Sông Xoài dạo trước…

Một hôm, Văn Công Tuấn gởi về tôi một bản thảo và đề nghị viết cho anh đôi dòng như một cái “Tựa” gì đó… cho cuốn sách “Chớ quên mình là nước”. Và tôi đã đọc, đã nghe, đã thấy… bèn có đôi lời cho bạn xa xôi…

ĐHN 

 

Tựa “CHỚ QUÊN MÌNH LÀ NƯỚC”

 

 

Như những lời tâm sự

Văn Công Tuấn viết trong “Chớ quên mình là nước” như sau: “Những bài viết trong tập sách này chỉ là việc đi chắt mót, ngồi xâu chuỗi lại những suy tư và nỗi niềm để tâm sự cùng bạn đọc. Nó không phải là công trình khảo cứu cũng chẳng là tác phẩm văn học. Nó chỉ là một cõi lòng…”

Một cõi lòng. Chút “thốn tâm”. Chắt mót. Xâu chuỗi. Nhưng với tôi vô cùng thú vị và đầy những bài học. Có khi nói ra, có khi không nói ra. Là một cõi lòng nên ta hãy đọc từ một cõi lòng. Một cõi lòng không phân biệt.

Có khi là một câu thơ. Có khi là một khúc hát. Khi lại là một công thức. Một bản vẽ. Mấy con số ngoằn ngoèo… Hãy đọc. Ngẫm ngợi. Đôi khi công thức cũng là thơ, bản vẽ cũng là nhạc… Hãy để cho cõi lòng tự trôi chảy.

Trôi chảy như dòng sông cát hôm nay mà ngày xưa chính nơi này là dòng nước chảy xiết, nơi Gotama đã đặt bình bát với lời đại nguyện:

“… một buổi trưa nóng cháy ở Bodh Gaya lắng tai nghe lời anh bạn Ấn Độ kể: ‘Chỗ này là ngay giữa sông Ni Liên Thuyền, ngày xưa Sa môn Gotama đã thả bình bát và phát lên một lời đại nguyện, chỗ này nước chảy xiết lắm nhưng bình bát đã trôi ngược.’

“(…) Khi anh Naresh với tất cả lòng cung kính đặt bình bát xuống cát, nơi được xem như là giữa dòng sông lúc bình bát trôi ngược.

Tôi thì đã nằm dài dưới cát nóng cầm sẵn máy ảnh để chụp hình. Tôi muốn chụp tấm hình phía trước là bình bát mà đàng sau có phông nền là hình ngôi Tháp Đại Giác Bồ Đề. Chăm chú nhìn vào ống kính, tôi giật mình tưởng mắt mình đang hoa. Hay do vì buổi trưa nắng Ấn Độ mà cát lại nóng quá nên tôi bị lóa mắt? Tôi đẩy máy ảnh qua bên và nhìn kỹ bình bát. Tôi đã nhìn thấy. Vâng, tôi thấy bình bát chuyển động trong vòng gần một phút. Có thể nào do cát lún nên bình bát “rục rịch” như vậy? Hay là một cái rùng mình của đất trời?

Nhưng sao kéo dài cả phút. Trong tôi dấy lên một niềm rung động kỳ lạ. Naresh cũng thấy như tôi và đứng ngẩn người trố mắt nhìn. Có phải có bàn tay chư Thiên hay có con rắn chuyển mình làm bình bát chuyển mình trên cát?

“Không, tôi nghe rất rõ: “hồn nước” đang nhẹ nhàng luân chuyển dưới nguồn sâu trong lòng cát nóng buổi chiều Ấn Độ.

“Hai chúng tôi đứng yên lặng tại địa điểm lịch sử này rất lâu, mỗi người đắm chìm trong suy nghĩ của mình. Sau đó mới cùng nhau chậm rãi ôm bình bát đi về hướng cây Ajapala ở Tháp Đại Giác.

Chúng tôi thỉnh bình bát về khu vực tháp và kết thúc một chuyến đi: Ôm bình bát dõi theo bước chân Sa môn Gotama ngày xưa”…

Rồi từ câu chuyện của dòng sông nay đã trở thành sa mạc cát mênh mông, Văn Công Tuấn nói về chuyện môi trường, chuyện nylon, mủ nhựa…

“Xin cùng nhau bắt tay ngay cứu hành tinh của chúng ta, trước khi nỗ lực đi chiếm hữu Sao Hỏa hay Cung Trăng. Với lòng tham và tâm bất thiện thì dù con người có sở hữu mười Sao Hỏa, trăm Cung Trăng cũng không thấy đủ. Rồi rác cũng sẽ tràn ngập ở bên đó.

Mà đúng vậy, không phải nói chơi, NASA đã xác nhận, ngay bây giờ cũng đã thấy plastic trên Sao Hỏa rồi đó. Thật hết ý!”

Rồi ngẫm ngợi chuyện xưa chuyện nay, Văn Công Tuấn… tự nhắc mình với những bài học:

Cũng tại bát nước mà Tôn giả A Nan đã gặp gỡ Ma Đăng Già hôm đó. “Người đâu gặp gỡ làm chi, trăm năm biết có…” để rồi Phật phải vất vả một phen. “Tựu trung cũng từ một bát nước ấy mà sinh sự. Giả sử, hôm đó Tôn giả A Nan cũng đi khất thực như mọi ngày mà không khát nước thì đâu có chuyện gì xảy ra. Hoặc giả, nếu gặp người con gái không đa tình như Ma Đăng Già thì chỉ có vài mẩu đối thoại ngắn, rồi dâng nước, rồi uống nước là xong chuyện.”

Bài học là đừng có… khát nước!

Rồi chuyện của nhà bác học Alexander Fleming (1881-1955) ân nhân vĩ đại của nhân loại đã phát minh ra Peniciline đã tuyên bố tại Hàn Lâm Viện Y Khoa Anh Quốc: “Sao người ta cứ gán cho tôi cái công phát minh ra chất Peniciline. Không ai phát minh ra được chất Peniciline, vì tạo hóa đã sinh ra nó từ thuở nào đến giờ, nhờ một loại mốc… Tôi chỉ có công làm cho mọi người chú ý tới chất đó, và đặt cho nó cái tên, thế thôi.”

Phật cũng bảo Ta chẳng nói gì, Ta chẳng dạy ai điều chi, mọi thứ đã sẵn có đó thôi!

Rồi chuyện Nhà Nho và Phật giáo. Anh nhắc học giả Cao Huy Thuần kể chuyện nhà nho, nhà khoa học Hoàng Xuân Hãn… ngày ngày đi chùa Trúc Lâm ở Paris vì rằng “Nho thì động mà Phật thì tịnh. Động rồi thì phải tịnh thôi.” Văn Công Tuấn kể chuyện cụ Phan Sào Nam, nhà Nho với “Khổng Học Đăng” sau này đã thường xuyên lui tới chùa và viết “Phật Học Đăng”. Cụ Sào Nam thường tìm đến chùa Tường Vân để hàn huyên, bàn chuyện văn thơ, chuyện thế sự và Phật pháp với Hòa thượng Thích Tịnh Khiết. Hai con người uyên thâm Hán học ấy đã một thời là bạn tâm giao, chỉ khác: một người là Hòa Thượng, một người là Nho Sĩ.

Nước xuôi ra biển lại tuôn về nguồn.

***

“Chớ quên mình là nước”, Văn Công Tuấn ngậm ngùi sẽ đến lúc “dưới biển cá thôi bơi, trên trời chim hết lượn…” để rồi nhắc đến cái chết của dòng sông Cửu Long.

Anh nói, đọc cuốn ký sự Đi Dọc Dòng Sông Phật Giáo tự dưng thấy sao… nước mắt tự động chảy ra, không cầm được:

Bởi vì chiều buồn chiều về giòng sông

Bởi vì tình đời nào chỉ thù oán

Hãy cất tiếng ca cho đời thêm buồn

Hãy cất tiếng ca cho lòng thôi khô héo…

(Phạm Duy)

“Vậy một con rồng của Tiền Giang đã chết. Ở Hậu Giang thì hiện nay, cửa sông Ba Lai được thay thế bằng hệ thống cống đập ngăn mặn chặn vĩnh viễn dòng chảy…”

“Cửu Long bây giờ là 7 con rồng. Nói sao nghe khó lọt lỗ tai quá.

“Hèn chi chật chội. Hèn chi sinh sự!”

Rồi cảm thán:

“Có phải vì vậy mà người Khmer gọi Mê Kông là Dòng Sông Mẹ. Tiếng Miên chữ “Mê” là “mẹ” còn “Kông” là “sông”. Tại sao? Vì những chàng, những nàng có tên gọi “Buổi chiều Lục tỉnh” hay ham vui, hay dzô dzô ba xị đế, hay hò ơ dí dầu, hay đàn ca tài tử… Nhưng khi buồn quá thì những trò vui đó không khỏa lấp hết nỗi buồn, những chàng hay nàng “Chiều” mới tìm về với Cửu Long. Tâm sự với dòng sông. Yên lặng với dòng sông. Như chàng Tất Đạt của Hermann Hese đã về với dòng sông và lắng nghe dòng sông. Chỉ có dòng sông mới nghe, mới hiểu nổi buồn của Chiều”.

Để rồi kết:

“Nhớ da diết đám lục bình trôi trên sông Tiền, sông Hậu. Không biết giờ này chúng lưu lạc ở đâu?”

Phải. Như những phận người.

Chớ quên mình là nước.

 

Đỗ Hồng Ngọc

Saigon, tháng 6.2019

 

 

 

 

Filed Under: Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định, Vài đoạn hồi ký

Tuệ Sỹ: PHƯƠNG NÀO CÕI TỊNH (viết từ cảm hứng “Cõi Phật Đâu Xa” của ĐHN)

03/08/2019 By Bac Si Do Hong Ngoc 2 Comments

 

Thư Đỗ Hồng Ngọc kính gởi Thầy Tuệ Sỹ

Vườn Chuối, 21.7.2019

Mới thôi mà đã hơn 2 năm, từ ngày Thầy gởi tôi bài  PHƯƠNG NÀO CÕI TỊNH “viêt từ cảm hứng Cõi Phật Đâu Xa của Đỗ Hồng Ngọc” và bảo để in vào sách khi tái bản.

Vừa rồi, máy vi tính của tôi bị hỏng toàn bộ ổ cứng, mất hết các dữ liệu. May sao người cháu “cứu” được một ít trong đó giữ lại được bản này. Tôi đọc lại mà rưng rứt, nhớ Tết nào cùng Thân Trọng Minh đến thăm thầy ở Thư quán Hương Tích, trò chuyện thật vui, đặc biệt về vở “nhạc kịch Duy-ma-cật”  vốn đầy kịch tính, từ những nhân vật “phản diện” cho đến bối cảnh, với những cao trào có thể mang tính nghệ thuật cao, với vai “Người dẫn truyện” của Văn Thù, vai Thiên nữ tán hoa cùng tiếng đàn hát dìu dặt, thanh thoát…

Tôi hiểu từ lâu thầy đã ấp ủ “kịch bản” này đâu đó sẵn rồi. Thân Trọng Minh và tôi chỉ đóng góp thêm vài ba ý cho thêm phần “hấp dẫn”. Thầy biết đó, Thân Trọng Minh vốn là người viết kịch! Cao Huy Thuần bên trời Tây nghe được cũng hết lòng ủng hộ và nói sẵn sàng sắm một vai…

Tôi nay đã 80 tuổi, già nhanh rồi, mà vừa trải qua những ngày không vui vì mất hết dữ liệu trong ổ cứng máy tính. Nhờ người cháu tậu cho cái ổ cứng mới nên nay vội viết thư này xin phép thầy hoan hỉ cho phép tôi đưa bài “Phương nào cõi tịnh” lên dohongngoc.com. Đây là trang web của riêng tôi, chỉ nhằm lưu trữ bài vở, và cũng in ra giấy để giữ.

Vừa rồi tôi nóng ruột, đã thử phone thầy và nhắn tin xin phép, mới hay Thầy và cả thầy Hạnh Viên đều đang nhập thất mùa An Cư Kiết Hạ.

Tôi hoàn toàn đồng ý với thầy:

“trình độ ngôn ngữ và năng lực tư duy của chúng ta vốn hữu hạn, cho nên bằng con đường nghệ thuật mà đi vào ngõ đạo có thể tương đối dễ hơn”…

Mong Thầy hoan hỷ nhấp một chung trà lão Triệu, với nụ cười rất tuệ sỹ vậy nhe.

Thân kính,

Đỗ Hồng Ngọc.

Đỗ Hồng Ngọc, Thân Trọng Minh và Thầy Tuệ Sỹ (Thư quán Hương Tích).

………………………………………………………………………………..

 

 

PHƯƠNG NÀO CÕI TỊNH

Tuệ Sỹ

(viêt từ cảm hứng “Cõi Phật Đâu Xa” của Đỗ Hồng Ngọc)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Ta hỏi kiến nơi nào Cõi Tịnh,

Ngoài hư không có dấu chim bay?

Từ tiếng gọi màu đêm đất khổ,

Thắp tâm tư thay ánh mặt trời.

 

Lần đầu tiên tôi tình cờ gặp bản dịch Duy-ma-cật sở thuyết của ngài Huệ Hưng; hành tung ly kỳ và chuổi lý luận của Duy-ma-cật khiến đọc say mê, nhiều đoạn học thuộc lòng. Có thể không “choáng ngợp” như anh Cao Huy Thuần vì trình dộ nhận thức của tôi bấy giờ chỉ là của một cậu bé 14 tuổi, không thể sâu sắc như  vị giáo sư trẻ tốt nghiệp Đại học Luật khoa Huế. Một chú tiểu tu chùa Việt nhưng học kinh điển theo hệ Theravāda với các Sư người Lào, do đó cực kỳ kính trọng các A-la-hán, và vì vậy không có cảm giác Duy-ma-cật đã có thể triệt hạ địa vị các Đại Thanh văn. Lớn lên chút nữa, qua nhiều năm học thêm nhiều kinh luận Đại thừa, đọc thêm các nhà luận giải Trung hoa chê bai tư tưởng các vị Thanh văn thấp kêm, tâm tư nhỏ hẹp, và kêt án khá nặng là “hạng tiêu nha bại chủng”, hủy diệt mọi thứ mầm non và hạt giống tốt của giác ngộ.

Cùng với sự phát triển của loại “khẩu đầu Thiền”, thuyết lý Thiền tông trên đầu môi chót lưỡi, phát sinh một lớp sư tăng “cuồng thiền”: thỏng tay vào chợ, thanh lâu, hý viện, đâu chẳng là thanh tịnh đạo tràng. Nhưng với sự huân tập từ hồi còn là tiểu nhóc, tôi chưa hề cảm thấy, mặc dầu với lý luận biện tài vô ngại, Duy-ma-cật đã lấn lướt vượt qua các vị Thanh văn như thế nào. Tuy nhiều vị luận giải Trung hoa quả có chế diễu ngài Xá-lợi-phất, và nhiều vị Đại Thanh văn khác nữa, như khi ngài hỏi Duy-ma-cật các Thánh giả sẽ ăn cơm ở đâu, sẽ ngồi chỗ nào; dù vậy, tôi vẫn cảm thấy trong đó có ẩn ngữ mình chưa hiểu.

Cho tới một lúc, lớn thêm chút nữa, giữa xã hội xô bồ đảo điên, tăng đồ như một cộng đồng ô hợp, riêng Phật riêng thầy, riêng tông môn pháp phái, bấy giờ bỗng xuất hiện những cư sỹ lão thành cự phách, mà trình độ thâm hiểu giáo lý không nhường các bậc trưởng lão trong sơn môn. Bên trong, hiểu và hành sâu xa nội điển; bên ngoài nhạy bén trước các biến cố đảo điên của xã hội; hiểu đạo sâu mà hiểu đời rộng, tài và trí ấy, hiểu và hành ấy, đã góp phần rất lớn trong những đoạn đường khơi lạc nguồn mạch tư duy.

Không chỉ một Duy-ma-cật, mà có rất nhiều Duy-ma-cật, khoác nhiều hành trạng khác nhau trong nhiều địa vị xã hội khác nhau, đã từng xuất hiện ở đây, sống giữa chúng ta. Họ lăn lóc trong bụi đời, nếm đủ thứ “mùi tục lụy” nhưng vẫn không ngừng vươn lên theo chiều cao của Đạo Pháp. Trong một thời đại mà không còn tìm thấy thấp thoáng bóng dáng của Duy-ma-cật, Phật pháp đạo lý có thể chỉ như món hàng trong siêu thị; có lúc chỉ như gánh hàng rong trên hè phố.

Duy-ma-cật là ai mà được ví von như thế? Một nhân vật nửa lịch sử, nửa huyền thoại. Nhân cách ấy là tập hợp tất cả phẩm tính để được gọi là “đích tử”, con chân thật, của các đấng Giác Ngộ. Mỗi nhân cách nổi lên trong một thời đại lịch sử riêng biệt, trong mỗi thời đại ấy là những nhân cách từ phẩm chất và phẩm trật trong từng xã hội cá biệt. Nhân cách ấy ẩn mình đơn độc trong rừng sâu, hoặc hiện diện giữa chợ đời huyên náo, mà không gian bao trùm bởi trực tâm và thâm tâm. Trực tâm, mà Huyền Trang gọi là “thuần ý lạc (āśaya)”, đó chính là ý chí hướng thượng, nhìn đời bằng con mắt yêu thương, định hướng cho cuộc đời của mình và cùng với tất cả cùng đi lên bằng tình yêu và trí tuệ. Từ trực tâm ấy, với ý chí quyết định, kiên trì mục đích, đó gọi là thâm tâm, cũng nói là tăng thượng ý lạc (adhy-āśaya). Đó là nhân vật mà ta có thể gặp đâu đó.

Bằng thuần ý lạc địa, từ cơ sở đó mà bảy bước phát khởi tâm bồ đề, khởi từ tình yêu thâm thiết đối với Mẹ thân sinh, vì sự an lạc của Mẹ mà phát nguyện hành bồ-đề. Rồi với tình Mẹ bao la mà tâm nguyện bồ-đề cũng theo đó mà rộng lớn lên, theo một đường thẳng như tấm lòng ngay thẳng. Từ tâm tư thuần ý lạc địa ấy mà kiên định chí hướng, in sâu trong tận cũng tâm khảm, trong thâm tâm.

Thế nhưng có thể chúng ta dễ bị choáng ngợp bởi những từ ngữ mang tính triết học, do đó mà thấy Duy-ma-cật là một nhân vật cao diệu, xa vời. Vậy, chúng ta bắt đầu từ diễn tả bằng ngôn ngữ đời thường, như Đỗ Hồng Ngọc viết trong Cõi Phật Đâu Xa: anh viêt Kinh dễ dàng và cũng rất thận trọng cân nhắc, y như bác sỹ viết toa thuốc:

“Lòng ngay thẳng – trực tâm – chính là sự bình đẳng, không phân biệt, không kỳ thị … Không kỳ thị, không phân biệt đối xử mới có lòng tôn trọng như Thường Bất Khinh, mới có lòng Từ bi, Thấu cảm như Quán Thế Âm, mới có lòng Chân thành để “ai thấy cũng vui, ai gặp cũng mừng” như Dược Vương. Tôn trọng, chân thành, thấu cảm phải dựa trên điều kiện tiên quyết không phân biệt, là Bình đẳng. Đó chính là Bất nhị.”

Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa cũng sợ; chúng ta lại gặp một từ ngữ triết học rắc rối hơn nữa: “bất nhị.” Đó là nguyên lý chỉ đạo cho tư duy và hành động của Duy-ma-cật, khi ông nói với ngài Xá-lợi-phất: “Hiện các oai nghi (đi, đứng, nằm, ngồi) mà vẫn không xuất tưởng thọ diệt định, đó mới chính là tĩnh tọa.” Hoặc khi ông chào đón Bồ-tát Văn-thù đến thăm bệnh, và ở đó, trong “Cõi Phật Đâu Xa”,  ta cũng nghe rõ như lời bệnh nhân chào đón y sỹ: “Lành thay, Văn-thù mới đến! Tướng chẳng đến mà đến. Tướng chẳng thấy mà thấy.” Bệnh chứng, bệnh nguyên, tất cả các tướng ấy, chẳng đến mà đến, chẳng thấy mà thấy; bệnh nhân không tìm đến y sỹ, và y sỹ không đi đến bệnh nhân.

Trong đối thoại này, Duy-ma-cật cũng chào đón Văn-thù bằng ngôn ngữ thông thường: svāgatam: nghĩa đen được hiểu đã đến một cách khéo léo, tốt đẹp; đây là một từ chào hỏi tương đương chính xác với lời chào tiếng Anh: “Welcom!” Từ chào hỏi này liên hệ đến từ Tathāgata: Như Lai, mà Kinh Kim cang định nghĩa: “Như Lai, vị khéo đến, vì không từ đâu đến, cũng không đi đến đâu.”  Nó cũng liên hệ các từ  Phạn gata, āgata, anāgata: đã đi, đã đến, không đến, chưa đến, đó là những từ mà chúng ta đọc hằng ngày trong Tâm Kinh: gate gate paragate parasaṃgate bodhi svāha. Đến mà không đến, đi mà không đi, là thể tính Như Lai: Tathāgata: tathā gata/āgata. Các vị Thánh giả chào nhau bằng ngôn ngữ đời thường mà trong đó vẫn bao hàm thế giới siêu việt.

Nhưng, tư tưởng bất nhị là căn nguyên tư tưởng của một nhánh trong triết học Vedānta, tiếng Phạn nói là advaita-vāda, dịch theo ngôn ngữ triết học quen dùng ngày nay, đó là chủ thuyết lý “Nhất nguyên Tuyệt đối”. Đạt đến nhất nguyên tuyệt đối, là đạt đến giải thoát, bấy giờ Phạm-Ngã đồng nhất, Tiểu ngã và Đại Ngã hiệp thành nhất thể tuyệt đối. Nói cách khác, Linh hồn và Thượng đế là Nhất thể Tuyệt đối. Kinh Phật không nhận có Thật Ngã tồn tại, dó đó không thừa nhận thuyết Nhất nguyên tuyệt đối này.

Để khỏi phái bối rối, choáng ngợp trước những từ ngữ và lý luận biện chứng siêu nghiệm, từ nhất nguyên tuyệt đối của Phạm-Ngã nhất thể, cho đến “Như Lai đến mà không đến, đi mà không đi”, chúng ta cũng có thể bắt đầu với nhận thức đơn giản hơn từ dẫn giải bởi Đỗ Hồng Ngọc, hiểu theo cách y sỹ chẩn đoán bệnh:

“Ở tại nơi sanh tử mà chẳng làm việc ô trược, trụ nơi Niết-bàn mà chẳng diệt độ mãi; hành tánh không mà vẫn trồng các cội công đức; hành vô tướng mà vẫn độ chúng sanh; hành vô khởi mà khởi tất cả thiện hạnh…”

Đây là đoạn dẫn tóm tắt khi Duy-ma-cật nói với Văn-thù về sở hành cảnh giới của Bồ-tát, môi trường hành đạo và đối tượng quán sát của Bồ-tát; trong đó nói hành tánh không (śūnyatā-gocara), hành vô tướng (animitta-gocara), là hai trong ba giải thoát môn mà một vị Thanh văn lập làm đối tượng quán sát để chứng nghiệm Niết-bàn. Ba giải thoát này là Không, Vô tướng, Vô nguyện (apraṇihita), hay nói là  Vô tác theo La-thập.  Chưa thấy và chưa biết Niết-bàn là gì thì chớ vội nói sinh tử và Niết-bàn là một, không hai. Thế nhưng, đây là những lời người bệnh nói với người thăm bệnh. Bệnh hay vô bệnh, sinh tử hay Niết-bàn, đây và đó qua lại trong ba ngõ: người bệnh vốn không, hiện tượng bệnh cũng không, cho nên không có gì để nói hy vọng hay tuyết vọng.

Những điều như vậy cũng không phải dễ hiểu; do đó chúng ta nên nghe lời dẫn từ Cõi Phật Đâu xa:

“Bồ-tát luôn đứng giữa hai bờ…” và tại đây ông giới thiệu lời trong ca khúc của Trịnh Công Sơn: trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyêt/ Rọi suốt trăm năm một cõi đi về. Nếu đưa thẳng vào tư duy triết học thì lời nhạc của Trịnh Công Sơn không liên hệ gì đến pháp môn bất nhị. Nhưng nó cũng khiến chúng ta nhớ đến câu chuyện một nhạc công của Thiên đế Indra thất tình với một thiên nữ, bèn tìm đến đức Phât, hát lên “bản tình ca dâng Phật”, với đoạn tả tình thắm thiết: “Tôi yêu nàng như A-la-hán yêu Chánh Pháp”. Có lẽ chẳng có ca từ mô tả tình yêu chung thủy nào chân tình hơn thế. Lời nhạc đã lạ lùng với đôi tai người đọc kinh Phật nghiêm túc, mà câu trả lời của Phât cũng thất lạ lùng khó hiểu: “Hay lắm, nhạc hòa hợp với lời, lời hòa hợp với nhạc; trong đó có ái dục mà cũng có Niết-bàn,” Ái dục là tình yêu hệ lụy sắc dục, và Niết-bàn là cảnh giới ly dục. Há lại có nghĩa, từ trong ái dục mà thấy Niết-bàn, từ Niết-bàn mà thấy rõ thể tính của ái dục? Đơn giản hơn, từ bùn lầy hôi thối mà tìm thấy hoa sen?

Rốt cục, cửa dẫn vào pháp bất nhị này là đâu, là cái gì?

Chuyện tình nhạc công của Thiên đế diễn thành kịch bản để nói những điều không thể nói, vì tính chẩt phản diện được cấu trúc trong đó. Cũng thế đó, người đọc Duy-ma-cật sở thuyết có thể dễ dàng nhận ra bản văn này được cấu trúc theo thể loại kịch. Trong kịch bản, tính phản diện của các nhân vật được sử dụng để diễn tả nội dung theo ý nghĩa muốn nói.

Trong đoạn dẫn của Đỗ Hống Ngọc nêu trên, chúng ta thấy Bồ-tát tu tâm như một Thánh giả Thanh văn xuất thế, nhưng hành đạo như một phàm phu trong sinh tử: trong bùn mà chằng hôi tanh mùi bùn. Đó là căn bản của tư duy bất nhị. Thánh nhân xuất thế, và phàm phu sinh tử, hai mặt phàn diện mà lại đồng nhất thể tính. Người đọc nếu không nhìn ra những cặp phản diện trong Sở thuyết này tất sẽ thấy Duy-cật-đã đã “lấn lướt” các Thánh giả Thanh văn, đã “dồn ví” các ngài vào ngõ bí.

Trong kịch bản Duy-ma-cật sở thuyết, người ta nghe được những đối đáp tương xứng giữa Văn-thù và Duy-ma-cật, nhưng đây không phải là cặp nhân vật phản diện; mà trong đây Văn-thù chính là vai người dẫn kịch. Không có người dẫn kịch thì khó có thể hiểu nội dung của kịch bản. Đây là cấu trúc cổ điển của kịch. Như trong khi Văn-thù nói và hỏi, Duy-ma-cật im lặng; nếu không có Văn-thù như là vị dẫn kịch, thì sự im lăng của Duy-ma-cật chẳng có ý nghĩa gì; do đó đây không phải là cặp đối đáp phản diện.

Thực ra, Duy-ma-cật xuất hiện trong nhiều lớp áo khác nhau, nên đồng thời thủ vai phản diện cho nhiều vị Thánh giả, từ các A-la-hán cho đến các Bồ-tát. Khi ngài Xá-lợi-phất tĩnh tọa trong rừng vắng, Duy-ma-cật xuất hiện với lý luận sắc bén khiến cho vị Đại Thanh văn này không còn lời đối đáp. Dễ chừng người ta chỉ thấy một Tôn giả Xá-lợi-phất trong rừng vắng nhập tưởng thọ diệt tận định, thân tâm bất động, có thể lưu thọ hành để giữ cho thân thể tồn tại không mục rã qua một đại kiếp, hằng triệu năm của mặt trời; ấy thế nhưng lại không thấy ngài ôm bát lang thang trong hang cùng ngõ hẻm với cái bụng đói. Nếu để thọ hưởng an lạc tịch tĩnh chính mình qua hằng nghìn năm cho đến khi thân ấy mục rã nếu muôn, thế thì cần gì phải ăn để mà sống. Vậy ôm bát đi khất thực vì lẽ gì?  Vì cơn đói sẽ hành hạ bản thân, hay vì để thức tỉnh thế gian đang trầm luân trong khổ lụy? Thế thì Duy-ma-cật đi vào đời để xây dựng cho đời an vui có cao quý hơn ngài Xá-lợi-phất ngồi trong tịch nhiên bất động? Phải chăng tượng Phật ngồi bất động trên bàn chẳng ích lợi gì cho ai, chẳng bằng sư trụ trì tụng kinh cầu siêu, cầu an cho bá tánh? Đấy là cặp phản diện làm hiện rõ bản chất của tồn tại.

Mặt khác, trong phong thái Thánh giả xuất trần Xá-lợi-phất lại xuất hiện trước một phản diện là cô thiên nữ cực kỳ diễm lệ. Với sắc đẹp vượt lên cả hàng thiên hương quốc sắc ây, với vũ điệu thiên nữ tán hoa kỳ ảo hơn cả vũ khúc nghê thường ấy, cũng rất dễ khiến cho Đường Mimh Hoàng mất ngôi mất nước. Nhưng sao nàng sống chung trong một căn phòng trống trải với lão cư sỹ Duy-ma-cật; rồi lại xuất hiện múa hát trước các Thánh nhân xuất thế, những vị mà tâm tư lắng đọng không hề gợn sóng dục tình; hiện diện với ý nghĩa gì? Đối đáp giữa thiên nữ và Xá-lợi-phất đã dẫn cặp phản diện ô nhiễm và thanh tịnh lên đến kịch tính gay cấn, khiến cho Xá-lợi-phất biến hình thành thiên nữ kiều diễm, và thiên nữ biến hình thành Thánh giả Xá-lợi-phất nghiêm trang.

Nhận diện được những cặp nhân vật phản diện trong Kinh thì cũng có thể bằng hình ảnh ấy mà chiêm nghiệm thế nào là ý nghĩa bất nhị, bằng cánh cửa nào để đi vào cảnh giới bất nhị ấy.

Thêm nữa, ngoài những nhân vật phản diện, cũng nên đi sâu vào những bối cảnh phản diện. Khu vườn xoài, sở hữu của kỹ nữ Am-la-bà-lị, nơi các vương tôn công tử buông mình thả trôi trong dục vọng, lại trở thành nơi tịnh tu của các Thanh văn xuất thế, trong ô nhiễm mà không ô nhiễm. Tư gia của Duy-ma-cật, nơi ông tiếp những chính khách đang lao mình trong đấu trường quyền lực, những thương gia đang cạnh tranh ráo riết trên thương trường, mhưng chỗ ấy lại cũng là nơi lai vãng của các Thánh giả xuất trần, Thanh văn và Bồ tát. Tư gia của trưởng giả Duy-ma-cật, khu vườn xoài của kỹ nữ Am-la-bà-lị: cặp phản diện của náo nhiệt và tịch tĩnh, của ô nhiễm và thanh tịnh.

Giữa thế giới Ta-bà và cõi Phật Chúng Hương, tòa sư tử và thành Tì-la-da, cái vô cùng lớn đến trong cái vô cùng nhỏ, và cái nhỏ đi vào trong cái lớn: đây cũng là cặp phản diện bối cảnh làm lộ rõ thể tính tồn tại của thế gian, vũ trụ. Bằng hình ảnh đó mà tập luyện cho tư duy vượt ngoài khuôn sáo ước lệ, vượt qua thế giới thường nghiệm để vươn lên cảnh giới siêu nghiệm, bất khả tư nghị.

Như thế, đọc Duy-ma-cật sở thuyết như đang xem một kịch bản, với những nhân vật và bối cảnh phản diện, với những biến cố mang đầy kịch tính, đó là cách tự huấn luyện và tự trang bị cho mình một công cụ định hướng tự duy để vươn lên chiều cao của giác ngộ.

Trong khi chúng tôi cùng tìm hiểu ý nghĩa phản diện và kịch tính trong Duy-ma-cật sở thuyết, hai ông bạn cư sỹ Đỗ Hồng Ngọc và Thân Trong Minh tỏ ra tâm đắc và cao hứng, cố ý muốn viết lại một kịch bản và dàn dựng sân khấu như thế nào đó để có thể hiểu rõ hơn điều mà Kinh muốn chỉ điểm; vì trình độ ngôn ngữ và năng lực tư duy của chúng ta vốn hữu hạn, cho nên bằng con đường nghệ thuật mà đi vào ngõ đạo có thể tương đối dễ hơn.

Hy vọng các bạn cư sỹ thành tựu như ý. Riêng tôi, trở về thảo am thơ thẩn, gởi lại hai bạn cư sỹ hai câu thơ:

Nhà tranh mái cũ quen chừng,

Chén trà lão Triệu mà chưng hoa ngàn.

 

Thị ngạn am, tiết Lập xuân, Đinh dậu

Tuệ Sỹ

(3.2017)

 

 

 

 

Filed Under: Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định, Gươm báu trao tay, Nghĩ từ trái tim

Thư gởi bạn xa xôi: Về Phan Thiết

21/06/2019 By Bac Si Do Hong Ngoc 1 Comment

 

Thư gởi bạn xa xôi

Về Phan Thiết

(tặng Trần Vấn Lệ)

Mình vừa định kể chuyện mấy lần về Phan Thiết gần đây cho bạn nghe thì Trần Vấn Lệ đã có thư hỏi “Có về Phan Thiết không? Có nhớ không…?”. Cho nên thư này, như viết riêng cho Trần Vấn Lệ, thiệt ra cũng là cho Phan Đổng Lý, Phan Bá Thụy Dương… cùng những bạn bè xa xôi khác!

Về Phan Thiết, lần nào đi ngang núi Tà Cú, dãy Ba Hòn, lang thang bên bờ sông Cà Ty (sông Mương Mán) … mình không thể không nhớ Hoài Khanh, nhà thơ xứ mình. Nhất là khi đi ngang Ba Hòn mình thường nhẩm câu thơ của Hoài Khanh “Người đi để dãy Ba Hòn chơ vơ” và cái Bưng Cò Ke ở ngay dưới chân dãy núi đó . Thế nhưng, nhớ lần ghé thăm anh ở Biên Hòa, anh đính chánh “Người đi nhớ dãy Ba Hòn trơ vơ” chứ!   …

Cái xứ mình lạ, cứ Tà Dôn, Tà Cú, Tà Đặng, Tà Mon, Tà Lài… cứ La Gàn, La Ngâu, LaGi, La Ngà…
Hoài Khanh sinh ra và lớn lên ở Đức Nghĩa, Phan Thiết. Nhà anh cách chỗ mình ở không xa. Anh lứa lớn, đã phiêu bạt… giang hồ tự thuở nào, lúc mình còn cắp sách đến trường tiểu học bên bờ sông Cà Ty! Anh vào Saigon, làm thơ, làm báo và một mình dựng nên Nhà xuất bản Ca Dao nổi tiếng một thời. Và thơ Hoài Khanh thì thời tụi mình không ai không thuộc ít nhiều. Trong bài thơ Đức Nghĩa, Hoài Khanh viết:

Biển mang niềm nhớ đi hoang
Gió Trường Sơn luyến mây ngàn Tà Dôn
Ôi sương Núi Cú lạnh hồn
Người đi nhớ dẫy Ba Hòn trơ vơ
Cành dương cát trắng hững hờ
Nhìn nhau thuở ấy bây giờ nhớ nhau.

Hoài Khanh

Vậy đó. Nói tới Phan Thiết là vậy đó. Biển. Cát trắng. Đồi dương. Mây ngàn. Tà Dôn. Tà Cú. Ba Hòn…

Gởi bạn mấy tấm hình để nhớ. Viết, mình làm biếng quá rồi bạn ơi!

một bức phù điêu để nhớ

Biển Phan Thiết (Ngãnh, Lagi)

Và mùa hè đến…

 

 

 

 

 

 

 

Lần nào về ngang Lagi mình cũng ghé Đập Đá Dựng làm một ly Càphê. Hồi nhỏ, thì đi xe đạp cùng bạn bè băng qua các láng tranh cao quá đầu, vèo đến Đá Dựng, lúc còn những tảng đá cao ngất (khi chưa xây đập), dựng xe, nhảy ùm xuống nước. Khi xây đập thì thấy giữa dòng sông có dựng một ngôi thủy tạ (nhà một cột) khá hùng vĩ, về sau có lẽ đã đổ ụp xuống lòng sông.

Nay dọc biển đã có những resorts… khá đẹp

và Núi Tà Cú cũng đã có cáp treo;

Bãi biển Đồi dương nhìn qua Lầu Ông Hoàng…

 

Và không gì tốt hơn, ngồi đây, dưới bóng dừa bên bờ biển đọc một vài trang sách… với một trái dừa ba nhát… quen thuộc.

 

 

 

Từ đó, không thể không ra Mũi Né…

Đừng quên ăn một chén chè đậu hủ nóng bên bờ biển, chỗ Đá Ông Địa.

Thuyền thúng về bày hải sản bán ngay tại bãi Đá Ông Địa…

Đá Ông Địa… xưa là một nơi nổi tiếng linh thiêng trên đường đi Mũi Né; cũng là bãi tắm đẹp, nơi du ngoạn, chỗ cắm trại của học sinh và những bạn trẻ ngày nào…

Đá Ông Địa ngày nay chỉ còn một ngôi miếu thờ.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Hẹn bạn thư sau.

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc.

Filed Under: Ghi chép lang thang, Gì đẹp bằng sen?, Vài đoạn hồi ký

Ca sĩ Lâm Dung với “Bông hồng cho Mẹ”

17/06/2019 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Ca sĩ Lâm Dung với “Bông hồng cho Mẹ”

Tôi vừa nhận được youtube này từ Ca sĩ Lâm Dung. Cô Lâm Dung đã trình bày đầy cảm xúc và trang trọng bài Bông Hồng Cho Mẹ của nhạc sĩ Võ Tá Hân (phổ thơ Đỗ Hồng Ngọc) trong buổi Sinh hoạt Văn nghệ tại Viện Việt-Học, thứ bảy 8.6.2019 vừa qua.

Chân thành cảm ơn ca sĩ Lâm Dung, nhạc sĩ Võ Tá Hân và cô MC (chưa được biết tên) là người đã có lời giới thiệu đầy xúc động…

Xin được chia sẻ nơi đây cùng bè bạn.

Trân trọng,

Đỗ Hồng Ngọc.

(Anh Võ Tá Hân vừa cho biết cô MC tên là Giáng Tuyết. Lần nữa, xin cảm ơn Giáng Tuyết). 

 

Filed Under: Gì đẹp bằng sen?, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Phật Đản (PL 2563): Về thăm đất Phật, Nepal

17/05/2019 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Phật Đản (PL 2563)

Đỗ Hồng Ngọc

Ghi chú: Bài viết này đã đăng trên Tạp chí Văn hóa Phật giáo, số 321 ngày 15.5.2019. Nhân dịp Phật Đản 15.4 Kỷ Hợi (PL 2563), xin được chia sẻ lại nơi đây (thêm vài hình ảnh riêng).

Trân trọng,

ĐHN.

 

Trong buổi kể chuyện và trình chiếu một số hình ảnh về chuyến về thăm đất Phật Nepal, Lâm-tì-ni của tôi cho nhóm bạn trong Chương trình Phật học và Đời sống ở Chùa Xá-Lợi, có một bạn trẻ đặt câu hỏi: Bác có thấy “động tâm” không khi được đến Lâm-tì-ni nơi Phật đản sanh và bác có ý định đi thăm tiếp 3 nơi nữa cho đủ “Tứ động tâm” không? Tôi trả lời là với Đức Phật lịch sử thì lúc nào tôi cũng thấy “động tâm” và ở đâu tôi cũng thấy “động tâm” cả, không nhất thiết phải đến tận Lâm-ti-ni hay đi cho đủ 4 thánh tích…

Cả chục năm nay chưa hề đi đâu xa khỏi nhà…, thế mà một ông già 80 tuổi là tôi,  bỗng nhiên bay vèo đến Himalaya (Hi-mã-lạp-sơn) ngắm núi tuyết rồi kêu lên núi tưởng là mây, mây tưởng là núi…  Thế giới có 10 đỉnh núi cao nhất thì Nepal đã có đến 8, kể cả Everest, 8848m. Chỗ tôi trú nằm trong rặng Himalaya nhưng chỉ cao hơn 2500m thôi, nghĩa là lùn tẹt, so với Everest nhưng cũng còn cao hơn Đà Lạt mình cả ngàn thước! Vậy mà đã lạnh buốt đầu tháng 3 này. Đêm 7-8 độ C, ngày 13-14 độ C. May mà có cái máy… sưởi. Đồi núi trùng trùng điệp điệp. Không khí đã nghe loãng. Thở nhẹ như bay bay.

(Một góc Nepal, Hymalaya, ảnh ĐHN 3.2019)

Chuyến đi Nepal này khá bất ngờ với tôi. Năm ngoái, hai vợ chồng bác sĩ Thủy – học trò cũ của tôi và là đệ tử của thầy Huyền Diệu – ở Úc mời thầy đi Nepal một chuyến cho biết “vì thầy là con Phật, phải về thăm xứ Phật một lần”. Rồi có thư mời của thầy Huyền Diệu nữa, nhưng tôi vẫn lần lữa mãi không đi, vì sợ lạnh, sợ độ cao, “sức khỏe không cho phép”! Lần này Thủy nói có Ba Má em đi nữa, mà ông bà đều lớn tuổi hơn thầy. Ừ, thì đi.

Phi trường Kathmandu, thủ đô Nepal là một Mandala giữa thung lũng bao bọc bởi núi là núi. Bụi khói mịt mù. Xe cộ nhớn nhác- vì lái bên trái- làm cứ giật mình đánh thót. Người Nepal lắc đầu là OK. Gật đầu là từ chối. Chủ nhật là ngày làm việc. Thứ hai mới là ngày nghỉ. Giao dịch, ăn uống bằng tay phải. Tay trái để…. vệ sinh. Đàn ông có uy tín lớn trong nhà. Ban ngày đi làm gì không biết, nhưng chiều về, vợ mang nước rửa chân cho… Giữa phố thị có khu vực… dành làm nơi thiêu xác lộ thiên. Có nhiều tiếng quạ quang quác. Nepal có 26 triệu dân, gồm 100 dân tộc và 123 ngôn ngữ, ngôn ngữ chính là Nepali. Đồng tiền là Rupee. Một USD bằng hơn trăm rupee. Năm 2015 Nepal bị một trận động đất chết đến 8000 người, bị thương 20.000 và hằng trăm ngàn ngôi nhà bị chôn vùi. Khu vực tôi đến ở – Himalayan Happiness Resort- thuộc vùng Dhulikhel, cách Kathmandu hơn 36 km, nhưng có khi phải đi 2 tiếng đồng hồ mới tới vì kẹt xe và đường đèo núi.  Nơi đây chỉ còn cách Tây Tạng ba chục cây số! Thầy Huyền Diệu (HD) đã đợi sẵn. Thầy nói thầy đã đi 27 tiếng đồng hồ bằng xe bus từ Bồ Đề đạo tràng (Bodh Gaya) về đây chờ mọi người. Chưa chi đã thử sức leo gần hai trăm bậc thang để về phòng nghỉ. Mình được ưu tiên ở một phòng… đẹp nhất, để nhìn quang cảnh thung lũng và núi tuyết của Himalaya xa xa.

Khí hậu, độ cao, với không khí khá loãng nhưng thấy dễ chịu, có lẽ nhờ khung cảnh trời đất bao la quá đẹp. Sáng sớm, mở màn cửa ra thì ôi chao, một cảnh sắc tuyệt vời, mê mẩn. Mặt trời sắp ló dạng, tươm một màu tim tím rồi vàng hườm rồi hồng đượm… ở chân trời, cắt từng nét bởi đồi núi chập chùng và những ngọn cây chới với… Đã có tiếng thầy HD đến tận phòng thăm hỏi và mời đi uống trà, cafe sáng, ngắm… mặt trời lên!

Về tuổi đời thầy HD còn ít hơn tôi đến 6 tuổi, trông… đẹp trai, cao ráo, năng động, tháo vát, rất nhiệt tâm và có đường lối tu tập riêng, gọi là “mật pháp” với những “mầu nhiệm” “phép lạ” dựa trên kinh Pháp Hoa… “nhất tự nhất bái”! Kinh Pháp Hoa không lạ với tôi, vì đã nhiều năm nghiền ngẫm và viết cuốn “Ngàn cánh sen xanh biếc” nhưng cách thực hành của thầy HD thì tôi thấy cần phải tìm hiểu và lý giải thêm.

Buổi tối, đáp lại câu hỏi của thầy, tôi trình bày nền Y học hiện đại đang gặp những khó khăn gì, tại sao có khuynh hướng tiến về một thứ Y học toàn diện (Holistic Medicine) – mà hai bác sĩ Diệu Thủy, Minh Sơn đang theo đuổi- về các thứ bệnh thời đại S.A.D (Stress, Anxiety, Depression) phải trị liệu với Thiền học, rồi gần đây, “21 Bài học cho Thế kỷ 21” của Yuval Noah Harari nêu hai vấn đề nổi cộm: Công nghệ sinh học và AI (Artificial Intelligence, trí thông minh nhân tạo). Phải chăng, rồi đây công nghệ sinh học sẽ tạo ra phần “sắc”, còn AI sẽ tạo ra “thọ, tưởng, hành, thức” để rồi sẽ có một chủng loại người với “ngũ uẩn” mới?

Sáng hôm sau, tôi đề nghị cho đi thăm làng, thăm “dân cho biết sự tình”, bởi cái máu làm Sức khỏe cộng đồng, Y tế công cộng trong tôi vẫn còn nặng lắm. Vui quá, Liz (Trúc), con của bác sĩ Thủy là người đang làm việc trong lãnh vực này. Tiếng Việt cháu không rành lắm, lại sống với người chồng Ấn độ (sanh tại Úc) nên tôi có dịp… ôn tiếng Anh lõm bõm của mình. Nào Community Diagnosis (Chẩn đoán cộng đồng); Community Involvement (tham gia cộng đồng), nào Intersectoral Cooperation (phối hợp liên ngành), nào Appropriate Technology (kỹ thuật học thích hợp)… ! Rồi đến thăm một gia đình theo đạo Phật, tiếp xúc với Hiệu trưởng một trường Tiểu học để chuẩn bị cho buổi khám sức khỏe cho bà con ngày hôm sau.

***

Từ Kathmandu đến Lumbini (Lâm-tì-ni) chỉ dài 320km mà đường bộ đi mất khoảng 16-20 tiếng đồng hồ. Đường đèo núi xuyên Himalaya rất khó đi. Buổi sáng đoàn rời Dhunlikhel để về Lumbini (Lâm-tì-ni). Mọi người cầu nguyện và đọc kinh suốt một đoạn đường. Đây là quãng đường đèo nguy hiểm nhất.

Đoàn nghỉ một đêm ở Bandipur, một điểm du lịch nổi tiếng, trên con đường Tơ Lụa ngày xưa từ thế kỷ XIV, vẫn còn dấu tích những căn nhà cổ, bằng đất và đá. Khung cảnh rất đẹp. Một khu phố cổ … nhà nghỉ, cửa hàng và khá nhiều du khách phương Tây đang thưởng thức cảnh thanh nhàn. Trưa hôm sau, đoàn rời Bandipur để về Lumbini. Tôi thử đếm có bao nhiêu đoạn quanh cùi chỏ khi xe lên xuống ngọn núi này (không kể những đoạn quanh không gắt). Trời ạ, 67 khúc quanh “cùi chỏ”! Hèn chi mà người ta nói đi đoạn đường này người chưa quen chỉ có việc… tụng kinh và nhắm mắt!

Đến Lumbini đã khá chiều. Việt Nam Phật quốc tự đây rồi. Hai con hạc vung cánh như múa và quang quác kêu lên mừng rỡ. Trời vẫn còn lạnh, nhất là về đêm, 12-13 độ C.  Muốn tắm phải xách nước nóng từ nhà bếp lên lầu, khá xa. Đã ba ngày không tắm rồi. Tôi nói với sư chú MN ở chùa như một lời… xin lỗi thì chú nói ở đây bảy ngày không tắm là thường đó bác ạ.  Các bữa cơm self-service, chay trường, rất ngon. Đêm ngủ khá nhiều muỗi. Thỉnh thoảng nghe tiếng chó sói (?) tru.

Có điều đến Việt Nam Phật quốc tự ở Lâm-ti-ni thấy như đã về đến nhà mình rồi vậy! Cũng lũy tre, ruộng lúa, bờ ao, ngọn cỏ, cũng vườn rau, cây cầu… Mái chùa cong vút trong nắng chiều. Cổng chùa thân quen quá… Tôi nghĩ phải cảm ơn thầy Huyền Diệu thôi. Đã dựng nên một ngôi chùa Việt rất sớm nơi đất Phật đản sanh, Lâm-tì-ni này vậy. Việt Nam phật quốc tự khởi công từ 1993, hoàn thành 2005. Lần lượt nhiều ngôi chùa của các quốc gia khác đã được dựng nên. Chùa Nepal, chùa Tây Tạng, chùa Trung quốc, chùa Thái, chùa Myanmar… và cả một số nước Tây phương như Đức, Thụy sĩ, Áo… Đặc biệt ngôi Tháp Hòa bình, chùa Nhật có vẻ bề thế nhất vì nối trực diện với khu thánh tích.

***

Hoàng hậu Mayadevi hôm đó vội vã lên đường về kinh đô Ka-tì-la-vệ (Kapilavastu) để kịp sanh hoàng tử nhưng vừa đến Lâm-ti-ni thì cơn đau đã rột, không thể cất bước được nữa. Ở đó đã có ao nước mát, đã có cây Bồ đề tỏa bóng râm. Trong đoàn tháp tùng Hoàng hậu hôm đó đã có các cô mụ, các ngự y. Khi Hoàng hậu vin cành Bồ đề ráng rặn sanh thì không còn kịp nữa. Người ta đã phải giúp Bà sanh bằng Cesarien. Và vì thời đó kỹ thuật vô trùng chưa tốt, Hoàng hậu đã bị nhiễm trùng hậu sản mà chết. Phật đã là một con người. Đã sanh ra. Đã khổ đau. Đã hạnh phúc. Và đã từ bỏ cung vàng điện ngọc, từ bỏ vương quyền để một mình lang thang vào rừng sâu, sống đời khổ hạnh, mong tìm con đường giải thoát cho mình và cho chúng sanh. Suốt 6 năm vất vưỡng trong rừng sâu, ngày ăn một hạt mè, đêm ngủ trong nghĩa địa hay trên cành cây, người chỉ còn xương bọc da, sờ tay vào bụng thì đụng ngay đốt sống thắt lưng, đầu óc bắt đầu choáng váng, tù mù… (Narada, Đức Phật và Phật pháp), may sao nhờ chén sữa của cô gái Sujata mà tỉnh lại, nhận rõ lối tu khổ hạnh, hành xác là sai lầm, quyết tâm đi vào con đường trung đạo để rồi giác ngộ sau 49 ngày thiền định dưới cội Bồ đề . “Thiên thượng thiên ha, duy ngã độc tôn” chỉ có nghĩa là chính Ta chớ không phải ai khác, chính ta mới có thể làm khổ ta, chính ta mới có thể làm ta an lạc, hạnh phúc. Phải quay về nương tựa chính mình thôi. Thấy biết vô thường, khổ, không, vô ngã, thực tướng vô tướng… mà vượt thoát sanh tử. Ơ hay, thì ra tất cả mọi người đều sẵn có Phật tính, không phải tìm kiếm đâu xa. Chỉ vì vô minh che khuất. Chỉ vì tham sân si, mạn nghi tà kiến… che khuất. “Vô trí diệc vô đắc”. Ta chưa từng nói một câu nào cả. Chưa từng dạy cho ai điều gì cả. Phật bảo vậy. Vẫn duyên khởi duyên sinh đó thôi.

Lâm-tì-ni rộng 774 ha. Ngang 1,8km. Dài 4,8km. Do một Kiến trúc sư nổi tiếng của Nhật là Kenzo Tange nghiên cứu thiết kế tổng thể suốt 8 năm, từ 1970 đến 1978. Theo đó, Lâm-tì-ni có 3 khu vực: khu Làng mới Lâm-tì-ni, khu Tự viện và khu Vườn thiêng, thánh địa, với nhiều di tích: Trụ đá của Vua A-dục (Ashoka), đền thờ Hoàng Hậu Mayadevi, Ao nước, Cây Bồ đề. Năm 249 TCN, Vua Ashoka đã tìm ra đúng nơi Phật đản sanh và dựng Trụ đá làm dấu tích, ghi rõ dòng chữ Pali vẫn còn đó. Huyền Trang (602-664) đi thỉnh kinh có ghé qua đây. Nhưng rồi Lâm-tì-ni rơi vào quên lãng, mãi đến năm 1896 mới được hai nhà khảo cổ người Đức là Futher và Bhuler tìm được trụ đá của vua A Dục và công bố. Ngày nay Lâm-tì-ni đã được Unesco công nhận là Di tích Văn hóa Thế giới và được trùng tu ngày càng trang nghiêm, hùng vĩ. Các vị Tổng Thư ký Liên hợp quốc từ U Than đến Ban Ki-moon đều đã đến thăm viếng Lâm-tì-ni.

Con kênh đào thẳng tắp chạy từ Tháp Hòa bình (Chùa Nhật) đến trụ đá của vua Ashoka đã thấy có thuyền máy xình xịch đưa khách hành hương. Mình đề nghị nên mang vài cái thuyền thúng (ở Phan Thiết rất đẹp) về đây sẽ thu hút du khách vì sự độc đáo. Hoặc ít ra, nơi đây cũng nên có những chiếc  “thuyền nan nhẹ lướt” chèo tay như ở Suối Yến chùa Hương!

 

 

Nhiều nhóm Tu sĩ và Phật tử thập phương đang chiêm bái Vườn thiêng Lâm-tì-ni quanh Cột đá Vua Ashoka. Họ đọc kinh, tụng niệm vô cùng thành kính.  Nhóm nhiễu quanh trụ đá, nhóm kinh hành quanh hồ nước thiêng, nhóm tụ tập dưới táng cây Bồ đề… Mọi người lần lượt xếp hàng vào viếng đền Mayadevi (cấm chụp hình).  Tôi vẫn lang thang một mình, quan sát, dòm ngó, ngơ ngác… Thực lòng, chỉ thấy một sự… náo nhiệt mà chưa thấy “động tâm” chi. Chỉ đến khi bắt gặp một chiếc lá bồ đề rơi lẻ loi trên đụn gạch xưa cũ vốn là những nấm mồ vài ngàn năm trước của các đệ tử Phật mới thấy xúc động!

Ngay buổi chiều đó, đoàn đi thăm Kapilavastu (Ca-tì-la-vệ) cách đó khoảng 30 cây số. Đường xấu, đang sửa chữa, bụi khói mù mịt. Thỉnh thoảng thấy một vài cánh đồng… khô khốc…  mùa nóng sắp tới, ở đây 49-50 độ C là bình thường!

Đây rồi. Ca-tì-la-vệ. Kinh thành trù phú ngày xưa của Tịnh Phạn Vương, dòng dõi Sakya uy dũng, phụ vương của thái tử Tất Đạt Đa. Bây giờ chỉ còn là một khu vườn hoang vắng, trơ trụi dưới nắng hanh. Quanh co là những cổ thụ sừng sững, dáng uy nghi đường bệ… Có cái gì đó nhói lòng nơi đây. Chính là một sự “động tâm” rất lớn của riêng tôi. Chính nơi đây, thái tử Tất Đạt Đa đã nhận ra nỗi khổ đau của kiếp người … Chính nơi đây, thái tử Tất Đạt Đa đã vượt rào thoát ra khỏi cổng thành giữa đêm khuya, từ biệt vương quyền, từ biệt phú quý vinh hoa… quyết tâm tìm “đạo sáng cứu chúng sanh”… Phải, chính nơi đây, tôi mới bắt gặp sự “động tâm” thực sự trong không khí yên ắng của buổi trưa hè ngay trên đất Phật. Chỉ còn những đống gạch. Này là chỗ ăn chỗ ở, này là giếng nước, ao sen…Tôi cứ lang thang và lắng nghe một mình. Nhặt một cánh hoa lửa. Đặt vào lòng bàn tay. Nhìn gốc cổ thụ có hình dáng như một apsara đang múa hát…

(Ca-tì-la-vệ, ảnh ĐHN)

Chỗ cổng thành thái tử Tất Đạt Đa đã “trốn” đi, hiện chỉ còn hai cây cổ thụ. Bên ngoài còn có gò mộ của con ngựa đã đưa thái tử đi quanh thành, nhất định không chịu về lại chuồng cũ.

Từ thành Ca-tỳ-la-vệ về, đoàn ghé thăm Kundan nơi Phật khi thành đạo đã trở về thăm Vua cha và độ cho Vua cha, hoàng hậu cùng vợ con. Lúc này La-hầu-la đã lên 7 tuổi và xin xuất gia theo Phật. Hiện vẫn còn các ngôi tháp mộ của Vua Tịnh Phạn và hoàng hậu.

Buổi tối đó, như đã hứa, tôi nêu vấn đề thảo luận về pháp hành của thầy Huyền Diệu là lạy từng chữ Kinh Pháp Hoa như một “mật pháp” .

Dịp này tôi trình bày với thầy HD và các đệ tử về kinh Pháp Hoa dưới góc nhìn khác. Tôi nói kinh có nhiều ẩn dụ, ẩn nghĩa cần được hiểu. Pháp Hoa là kinh tối thượng thừa vì là Phật thừa, không còn chia chẽ gì nữa, nhằm “khai thị chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật”. Kinh dạy các hạnh bồ tát như Tôn trọng (Thường Bất Khinh), Chân thành (Dược Vương), Thấu cảm (Quán Thế Âm) và những bài học tuyệt vời khác để thấy Thực tướng Vô tướng, thấy Pháp thân Như Lai, mà nếu học được thì đã có một đời sống an lạc, tự tại, đem lại hạnh phúc cho mình cho người trong bất cứ thời đại nào, xã hội nào… Thầy HD nói bác sĩ là nhà khoa học, nhưng cũng cần thấy phần tín ngưỡng “mật pháp” rất huyền bí…

Lý giải về hiệu quả của pháp hành lạy từng chữ  hoặc đơn thuần chỉ niệm tên kinh Pháp Hoa, thì một khi có Tín tâm cao độ sẽ có Niệm rồi dẫn tới Định, Huệ (Tín, Tấn, Niệm, Định, Huệ). Ở góc độ sinh học thì khi lạy (đúng cách) một lúc, cơ thể sẽ tiết ra endorphine, một thứ morphine nội sinh cho cảm giác sảng khoái, dễ chịu; và một khi liên tục niệm một câu, một chữ nào đó (trong Kinh) thì  tạp niệm không thể xen vào vỏ não, nhờ đó mà dễ “nhất tâm bất loạn”… Cuối buổi trao đổi, một đệ tử của thầy HD nói cảm ơn anh Ngọc, bây giờ thì em đã được mở rộng tầm nhìn khi học và hành kinh Pháp Hoa!

Đã đến lúc phải chia tay Lumbini rồi! Chuyền về này tôi và nhóm bạn trẻ được đi máy bay! Thiệt là thú vị. Biết thế nào là cái sân bay tí xíu của Lâm-tì-ni, với một vài chuyến bay mỗi ngày, chỉ chở được vài chục người mỗi chuyến và luôn trễ vài tiếng đồng hồ là “chuyện thường ngày ở huyện”. Nhưng ai cũng nói đi máy bay thì sướng lắm vì chỉ bay 30 phút là tới Kathmandu, không phải mất cả ngày đường vất vả như đi đường bộ. Phi trường Lumbini hình như đang được sửa chữa, nâng cấp vì ngày càng có nhiều đoàn hành hương về đất Phật. May mắn, máy bay hôm nay đúng giờ và chuyến ATR 72 này khá to, lịch sự, chở đến 60-70 người.

Đến phi trường Kathmandu đã thấy có chú MĐ đón và hướng dẫn về nhà nghỉ ở Boudhanath.  Thời gian không nhiều vì trưa mai đã phải rời Kathmandu nên mọi người vội vả đi tham quan Đại bảo tháp Boudhanath nổi tiếng nơi đây.

Đây là một đại bảo tháp lớn nhất thế giới, nổi tiếng linh thiêng, không rõ có từ bao giờ, ngoài những truyền thuyết huyền bí, gốc gác từ Đức Liên Hoa Sanh Tây Tạng… Thấy có rất nhiều tu sĩ người Tây Tạng nơi đây. Tiếng đọc kinh rì rầm khắp nơi. Và du khách đông nghẹt, cả ngàn người đi nhiễu quanh bảo tháp. Đại bảo tháp chứa Pháp thân của Phật Thích Ca. Chiều cao 30m và đường kính 100m. Quanh tháp, tầng đất rất nhiều chỗ để cầu nguyện, và nhiều người khấn vái, xoay bánh xe kinh luân… Bốn mặt tháp đều có vẽ thật lớn 2 mắt Phật, chính giữa là con mắt thứ ba, mắt Tuệ và dưới 2 mắt là một dấu hiệu như một dấu hỏi, mang nhều ý nghĩa. Người người đi rất nhanh quanh tháp 9 vòng. Hàng quán bán đồ lưu niệm san sát, tạo thành một khu phố sầm uất, vòng tròn quanh chân tháp báu. Nhiều quán cafe tuyệt đẹp trên Terrace để vừa nhìn Tháp vừa nhìn Núi tuyết. Thường người bán ở đây nói thách khá cao. Phải trả giá rất kỹ… Mình thì quá quen Chợ Bến Thành xưa rồi, không có việc gì… khó, chỉ sợ “lòng không bền”. Tội nghiệp cho cô bé Liz, sống và lớn lên ở Úc, có biết gì là nói “thách, rồi “cò kè bớt một thêm hai” đâu! Lần đầu tiên cô thử… trả giá và mua được một món hàng nên thích quá! Cô kêu lên, con mua được rồi Thầy, vui quá ha! Nhưng có lẽ cô đã mua… hớ! Dù sao, nói thách, trả giá, cò kè… làm cho cả người bán lẫn người mua đều vui! Hoan hô nói thách!

Một chuyến đi còn đọng rất nhiều kỷ niệm.

Đỗ Hồng Ngọc

Filed Under: Gì đẹp bằng sen?, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

“VỀ THU XẾP LẠI…” với Gia đình Hoa sen Đà Lạt

29/04/2019 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

“VỀ THU XẾP LẠI…” với Gia đình Hoa sen Đà Lạt

Thảo Nhiên

 

Đỗ Hồng Ngọc cùng Gia đình Hoa Sen và các thân hữu. (Đà Lạt 31.3.2019)

 

“ Chút nắng vàng giờ đây cũng vội..” có lẽ, ngày không dài như mình nghĩ                                   , nên nắng vội chăng? Chút nắng chiều rồi sẽ tắt ? Vâng, hẳn là như thế! Nên vội! Vội thật mà !
Vội vì lý do gì? Để gặp nhau. Để thương. Để thăm thú đó đây. Để chia sẻ chút gì đó trong hành trình đi qua từng tuổi xuân cho người cùng thế hệ, cùng nghe “chân đi nằng nặng hoang mang… ” mà về “ lắng nghe hơi thở , lắng nghe cái tứ đại nó trở nên khó bảo trong trái tim vẫn rào rạt yêu thương , dù chỉ là yêu thương “vô tình chợt gọi”
Chính vì yêu thương đó, mà có lẽ , bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đã ung dung viết vội , viết lại những thoáng qua chợt ngộ để không phải cho mình, mà cho bạn bè của mình, cho hậu thế, cho những “ bé sơ sinh “ mà bác đã đón vào đời từ những thập niên 60 với lời nhắn nhủ:
“ Khi anh cắt rún cho em
Anh đã xin lỗi chân thành rồi đó nhé
Vì từ nay em đã phải cô đơn
Em đã phải xa địa đàng lòng mẹ.”

Thế mà, các bé sơ sinh ngày ấy cũng đã dần hai màu tóc… Cuộc lữ vô tận tít tắp kia kết nối bao tình thương . Hạnh ngộ rồi chia xa… Sinh rồi tử. Và tử rồi sinh. Tử Sinh của Số phận Con Người ! Bác sĩ đã thấy, đã Ngộ một điều gì đó. Chỉ mình Bác biết! Cái NGỘ mà chỉ riêng cho một người. Riêng mà lại chung. Của một người nhưng lại chung cho nhiều người.
Cho nên, bác gói ghém lại. Viết lại. Ngồi gõ từng chữ. Ghép lại. Để lại thêm một cuốn sách trên kệ trong tủ… Về Thu Xếp Lại. Một thu xếp đáng trân quý.


Thu xếp xong rồi thì in ấn. Sách đã về nên mang đi tặng. Đến từng nhà những người bạn thân… mà trao tận tay…
Và hôm nay, đến những bông hoa của gia đình Hoa Sen Dalat. Cảm động quá chừng. Trân quý quá chừng . Và cũng thương quá chừng. Thương tình cảm bao la chân tình của bác, thương ngồi xe hơn 600 cây số đi về… chỉ để tận tay ký tặng Về Thu Xếp Lại! Thương quá đi chớ, cái Tình của người tuổi Tám Mươi .

 

Buổi chiều cuối tháng ba hai không mười chín, hương trà quyện hương nắng … Bên nhau là những người tuổi đã bảy mươi tám mươi… rồi năm mấy sáu mươi… Lắng nghe Hương Chiều (*) mà thương mình, thương bạn của mình quá chừng! Ở cái tuổi không còn là của năng nổ và khoẻ mạnh! Tuổi thấy “ trời cao đất rộng một mình tôi đi/ Đời như vô tận, một mình tôi về…với tôi” Biết nói gì đây?
“ Nói không được. Bất khả thuyết. Không từ đâu đến/ chẳng đi về đâu. Nó Như Lai. Khi cát bụi và hơi hướm kia không chịu nhau nữa, giận nhau, cãi nhau, hục hặc, chí choé, đòi tách nhau ra thì đủ thứ chuyện trên đời sẽ sinh sôi. Cuối cùng thì đến một lúc, cát bụi trở về cát bụi, hơi huớm trở về hơi hướm… Rã ra . Tan ra. Không thương tiếc. Có một chu kỳ, có một nhịp điệu chăng. Không biết.” ( trích Phần 1: Cát bụi tuyệt vời – Về thu xếp lại – ĐHN)

Bác viết: “ Từ ngày về hưu, bạn bè rơi rụng dần. Rơi rụng cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Lâu lâu, dòm lại cái cuốn sổ danh mục ghi điện thoại đã thấy có nhiều địa chỉ chẳng biết làm sao liên lạc được nữa. Muốn xoá mà ngập ngừng rồi không nỡ “ Có chút nghẹn trong lòng. Ai cũng có những ngập ngừng như thế. Thương.

Ngồi với nhau chỉ 150’ mà nỗi lo âu nhẹ hẳn! Bởi có gì lạ đâu khi “ tôi chợt nhìn ra tôi”
Nhìn ra rằng “ Vì ta không phải là gỗ đá, vô tri. Vấn đề chỉ ở chỗ không dính mắc. Cô hoa hậu xinh đẹp thì thấy là xinh đẹp, nhưng dính vào thì tiêu! “

Bác vậy đó! Thông tuệ nhưng dí dỏm và hài hước! Hài hước dễ thương. Và dí dỏm rất thật thà : “ có vẻ như càng già người ta càng yêu nhiều hơn, yêu vội hơn, và càng yêu thì càng “ sống khoẻ sống vui” hơn với một mối tình lãng mạn hoặc một mối tình “ ngỡ đã quên đi/ bỗng về quá rộn ràng” bởi vì “ cát bụi tuyệt vời “ đã chuyển thành “ cát bụi mệt nhoài” rồi! Có lẽ, khi thoáng yêu như thế thì sẽ quên đi một nỗi sợ…

“ Nỗi sợ lớn nhất của kiếp người là sợ…chết. Ta từ đâu đến. Ta sẽ đi về đâu… là những câu hỏi không lời đáp từ ngàn xưa. Câu trả lời đơn giản nhất có lẽ là ta đã từ bào thai mẹ mà đến và sẽ trở về …”bào thai Như Lai. Quả là có một sự giấu nhẹm thú vị. Ta bỗng dưng mà có thì cũng sẽ bỗng dưng mà không. Nhưng có và không lại là một. Thú vị ở đó. Xà quần chút chơi vậy thôi. Nó sẽ vận hành theo pháp. Sanh trụ dị diệt. “
( trích phần 10 – Về thu xếp lại – ĐHN)

Thôi thì, vén khéo lại nhé, thu xếp lại nhé! Cho nhẹ hành trang! Cho ngày nào đó chỉ “ để lại trong cõi thiên thu hình dáng nụ cười” .
“ Nụ cười ấy là sự giác ngộ, giải thoát. Đã thấy biết Như Lai. Đã sống cùng Như Lai. Đã là Như Lai. Ai đã thấy biết Như Lai, đã sống với Như Lai, đã là Như Lai mà không cười như vậy? “ ( kết Về Thu Xếp Lại -bs ĐHN)

Gia đình Hoa Sen và các thân hữu chụp chung tấm hình kỷ niệm.

Trân trọng cảm ơn những chia sẻ chân thành của chị Thoại Anh, cô Quế Hương, cô Diệu Thanh, anh chi Cẩn Phạm Gia , anh chị Trình Mai, cô Nhiên Linh , cô Trần thị Thanh đã thay lời mọi người nói lên cảm nhận riêng trong một không gian chung khi nhận sách từ tay Bs Đỗ Hồng Ngọc trao tặng! Kính cảm ơn vô cùng chân tình mà bs Đỗ Hồng Ngọc đã ưu ái dành cho gia đình Hoa Sen và những bạn hữu ! Bác sĩ đã rất vui! và mọi người hôm ấy cũng rất vui! Chỉ tiếc là thời gian không đủ để chia sẻ những tâm tình và sự ngưỡng mộ! Không đủ để vừa nhâm nhi vị trà vừa tâm tình cùng người bác sĩ hiền hậu chân chất mà vô cùng thông tuệ!

(TN)

(*) Nhạc Thuần Nhiên, thơ Ngũ Hành Sơn

Filed Under: Ghi chép lang thang, Gì đẹp bằng sen?, Nghĩ từ trái tim

Đọc TRĂNG VÀNG THUYỀN KHÔNG của Sa môn Thích Giác Toàn

17/01/2019 By Bac Si Do Hong Ngoc 1 Comment

 

Văn Hóa Phật Giáo, Xuân Kỷ Hợi, 2019

 

“Hạt bụi hồng…”

Đọc TRĂNG VÀNG THUYỀN KHÔNG của Sa môn Thích Giác Toàn

Sư Giác Toàn gọi phone cho tôi nói sắp in cuốn Trăng Vàng Thuyền Không, thơ Lục bát về Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục tổ Huệ Năng để kỷ niệm “Bảy mươi năm- hạt bụi hồng/ Chí thành chí kính… tông phong Phật đà” của mình và nhờ tôi viết đôi dòng cảm nhận.

Tôi chẳng ngạc nhiên chút nào vì từ lâu đã thân quen với nhà thơ Trần Quê Hương, một bút danh của Sư Giác Toàn. Tôi cũng chẳng ngạc nhiên về truyền thống của hệ phái Khất sĩ Việt Nam vẫn thường sử dụng thể thơ Lục bát – một thể thơ dân gian ai cũng biết, đặc biệt phù hợp với đồng bào Nam bộ – để truyền đạo pháp xưa nay.   Lạ chăng là lạ ở chỗ Sư “thú thiệt”: khi thấm đẫm Pháp Bảo Đàn Kinh với thơ lục bát Sư đã không ngăn được sự trào dâng của cảm xúc chân thành, những ý tưởng tâm đắc, tự nội, tự thân…

Bảy mươi năm… vạn sắc không

Bảy mươi năm… hạt bụi hồng long lanh!

(Trần Quê Hương, 2018)

Bảy mươi năm, vẫn là hạt bụi hồng “vạn sắc không” đó thôi nhưng đã là hạt bụi hồng… long lanh! Chân không mà diệu hữu là vậy!

Nhận định về Pháp Bảo Đàn Kinh, Sư viết: “Lục tổ Huệ Năng đã mở đầu môt truyền thống sinh hoạt , tu tập, giảng pháp mới mẻ và sinh động (…), ở Pháp Bảo Đàn Kinh ta thấy một giáo pháp khi thì nhẹ nhàng, chân chất, khi thì hóc hiểm, kỳ khu… thâm nhập trực tiếp vào tâm người học (…)”

(Trăng Vàng Thuyền Không)

“Tôi không ngăn được sự trào dâng của cảm xúc”, Sư nói như một lời sám hối rất chân thành. Không ngăn được cảm xúc? Phải, đó là điều mà Chu Hy, hơn tám trăm năm trước khi đề tựa cho tác phẩm của mình Thi kinh tập truyện, đặt câu hỏi: Thơ, tại sao mà làm ra? Và trả lời: Ấy là vì không ngăn được cảm xúc trào dâng…

Cho nên, vừa cố gắng giữ trọn ý nghĩa của văn bản Pháp Bảo Đàn Kinh vừa “không ra sức ngăn cản cảm xúc của chính mình khi chuyển thành Luc bát” quả là không dễ dàng.

“Đá mòn nhưng dạ không mòn

Tào Khê nước chảy vẫn còn trơ trơ”.

Và quả thật, Sư Giác Toàn đã làm được.

 

Ý nghĩa của Pháp Bảo Đàn Kinh vẫn được tôn trọng chính xác. Từ Tự thuật đến Bát Nhã, Đinh Huệ, Đốn Tiệm… được diễn dịch đầy đủ, dễ hiểu, từng ý từng lời.

Ngồi, nằm, đi, đứng… an nhiên

“Nhất tướng tam muội” diệu huyền thanh trong

Rồi “Nhất hạnh tam muội” hiện tiền đài sen khi:

Một tâm ngay thẳng thuyền không

Đạo tràng bất động gia phong cảnh thiền…

 

Lục tổ Huệ Năng nhắc đi nhắc lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh để người người không mất công tìm kiếm đâu xa: Tự tâm đó thôi. Phật ở đó mà chúng sanh cũng ở đó. Chúng sanh là cõi Phật của Bồ-tát mà!

“Thức tự tâm chúng sanh

 Kiến tự tâm Phật tánh”

(Pháp Bảo Đàn Kinh)

Nhà thơ Trần Quê Hương chuyển thành lục bát:

Chúng sanh tự tâm lung linh

Tức thì Phật tánh tự tình long lanh

Muốn tìm thấy Phật cao thanh

Chỉ cần tỏ rõ chúng sanh của mình

“Tỏ rõ”, ấy là Thức. “Thức tự tâm”. Chúng sanh chẳng đâu xa. Chúng sanh ngay trong “tự tâm” mình đó thôi. Chính cái tự tâm mình bày đặt, vẽ vời ra vô số vô lượng vô biên chúng sanh để tự mình phiền não, tự mình khổ đau! Nếu tự mình “chiếu kiến ngũ uẩn giai không” thì đã “độ nhứt thiết khổ ách”!

Gia trung hữu bảo hưu tầm mích  (Trần Nhân Tông).

Rồi nhà thơ viết:

Chúng sanh tự tâm lung linh

Tức thì Phật tánh tự tình long lanh

Cái “tự tâm lung linh” kia bày vẻ đủ trò, chỉ cần có “tri kiến Phật” để thấy biết. Thấy biết Phật tánh ngay trong tự tâm mình, thì đã “Tức thì” (đốn ngộ) rồi đó vậy.

Từ cái “lung linh” hay sanh sự kia đã trở thành cái “long lanh” Phật tánh nọ. Tưởng dễ mà chẳng dễ chút nào.  Phật Thích Ca cũng đã  mất 6 năm chặng đường gian khổ để thấy Trung đạo, Duyên sanh…

 

Nhưng thú vị nhất là những đoạn đầy kịch tính trong Pháp Bảo Đàn Kinh đã được chuyển thành lục bát sôi động, như lúc Huệ Năng đối đáp với Ngũ tổ Hoàng Nhẫn:

“Tổ rằng: Ngươi kẻ man di

Quê miền biên địa, sao bì Phật gia!

Năng rằng: Nam Bắc chánh tà

Thế gian câu nệ thiền gia đâu cần

Thân đệ tử dẫu tiện nhân

Phật tâm Phật tánh … há phân nghèo giàu

Tứ đại huyễn ảo chiêm bao

Hòa thượng, đệ tử… một màu sắc không”.

Hoàng Nhẫn giựt mình là phải.

Phật dạy: không thể coi khinh người mới học.

 

Rồi cảnh Thần Tú bứt rứt khi làm kệ, nhà thơ viết:

Thần Tú đi ra đi vào

Trước phòng Ngũ tổ lao xao nỗi niềm

Tự mình run sợ bâng khuâng

Toát mô hôi lạnh âm thầm dầm tuôn

 

Và khi Huệ Năng nhờ người viết mấy câu kệ  “Bổn lai vô nhất vật” thì:

Kệ viết xong chúng hãi hùng

Mọi người kinh ngạc tần ngần

Rồi sau đó:

Năng liễu ngộ, đắc tâm linh

Canh ba hầu tổ hữu tình chứng tri

Thầy trò truyền đạt huyền vi…

Đúng là một đoạn đầy kịch tính:

“Thầy trò truyền thọ nghiêm trang

Nửa đêm tĩnh lặng ánh vàng lung linh”

Rồi sau đó, Huệ Năng chạy thoát về phương Nam:

Đêm nay canh ba xuất thần/ Thọ nhận y bát nhanh chân vượt ngàn.

Tiễn đưa Lục tổ lên thuyền sang sông

 Cửu giang lồng lộng tông phong…

Lúc đó, cả một đoàn người đèn đuốc sáng choang rầm rập rượt đuổi Huệ Năng. Thượng tọa Huệ Minh, xưa là một quan tướng, dẫn đầu đoàn người sắp bắt được Huê Năng. Huệ Năng bảo: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là bổn lại diện mục của thượng tọa Huệ Minh?” Chỉ với một câu đó thôi, Huệ Minh bừng tỉnh, sụp lạy, cúi đầu.

Đừng quên trước đó đã có một câu quan trọng hơn: “Dứt bặt duyên trần, chớ sanh một niệm, không nghĩ thiện, không nghĩ ác…”.

Vô niệm từ đó.

Vô tướng từ đó.

 

Rồi những hoạt cảnh sinh động khác qua vần thơ lục bát, lúc Huệ Năng gặp Pháp Hải, Pháp Đạt, Trí Thông, Trí Thường…

Và đặc biệt, lúc gặp Vĩnh Gia Huyền Giác:

Tổ chứng: Ngươi đã nhập tông

Một đêm tương hội bên dòng thiền quang

“Một đêm giác ngộ” hương vàng

“Bài ca chứng đạo” huy hoàng nhân gian

Vừa trách Pháp Đạt đã không kính lễ đúng mực, đến lúc gặp Huyền Giác, mọi sự đã khác.

“Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân

Bất trừ vọng tưởng bất cầu chân

Vô minh thực tánh tức Phật tánh

Ảo hóa không thân tức pháp thân”…

(Chúng đạo ca. Vĩnh Gia Huyền Giác)

 

Đọc Trăng Vàng Thuyền Không, diễn dịch Pháp Bảo Đàn Kinh bằng thơ Lục bát của Sa môn Thích Giác Toàn, cũng là nhà thơ Trần Quê Hương hôm nay, vừa giữ được nguyên tinh thần bản kinh, vừa bay bỗng với những câu thơ Luc bát đặc trưng Nam bộ đầy thăng hoa, ta không khỏi khâm phục, cảm mến một nhà sư thi sĩ đã có công đem đạo vào đời như thế.

Cảm ơn Sư  Giác Toàn, cảm ơn nhà thơ Trần Quê Hương.

Cảm ơn “Hạt bụi hồng… long lanh!”.

 

Đỗ Hồng Ngọc

(Văn hóa Phật Giáo, Xuân Kỷ Hợi, 2019)

 

 

 

 

Filed Under: Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống

Tháng tám: sinh-nhật-không-ngày

21/08/2018 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Sinh nhật

anh không có ngày sinh nhật
nên mỗi ngày
là sinh nhật của anh

cảm ơn em
nhớ đến anh
ngày sinh nhật!

Đỗ Hồng Ngọc

 

Chúc Mừng Sinh-Nhật-Không-Ngày anh Đỗ Hồng Ngọc!

gửi bác sĩ ĐHN

anh vốn
không
có ngày sinh?
tự vòng tròn
một chỗ thình lình ra
tìm điểm mốc
em khéo đùa
sinh là khởi
cơn gió lùa về không

Vũ Hoàng Thư

 

Chúc Mừng Sinh-Nhật-Không-Ngày anh Đỗ Hồng Ngọc!

sinh nhật lại
không
có ngày
từ vô thủy
luân sinh bày cuộc chơi
về vô xứ
phù vân trôi
bồng thinh lặng
mở khơi lời
rất như

Vũ Hoàng Thư
18/8/2018

 

Đỗ Hồng Ngọc gởi Vũ Hoàng Thư

cảm ơn vũ hoàng thư

thả vần thơ tuyệt mù

đã nghe tràn bát nhã

đã nghe đầy chơn như…

ĐHN

(20.8.2018)

………………………………………..

Thu Vàng viết tiếp

Cảm ơn chàng Đỗ, Vũ
“Thả vần thơ tuyệt mù”
Cõi Phật như hiển hiện
Bát Nhã với Chơn Như.

Thu Vàng


Mừng Sinh Nhật Đỗ Hồng Ngọc

Khi bắt đầu tháng Tám, tôi nhớ Sinh Nhật chàng… không-biết-ngày, thì khoan, gửi lời mừng cuối tháng!

Và, bây giờ cuối tháng, gửi về lời từ xa: Chúc lòng chàng nở hoa, chúc đời chàng kết trái, trái bòng hay trái bưởi… trái gì cũng Tình Thân!

Chàng như mình, hết Xuân, cũng hết rồi tuổi Hạ, chẳng ai còn Ba Má, hỏi ai biết ngày sinh?

Xưa, trong thời chiến tranh, làm giấy tờ cho có! Nhiều người dân mắc nợ / một chút xíu thật thà…

Rồi ngày tháng trôi qua, cái thật thà vô nghĩa! Nhà nước nào chịu xía chuyện-sinh-tử-của-dân?

Kể từ năm Bốn Lăm đến Bảy Lăm, Chạy! Chạy! Ngày sinh có để đấy, năm sinh có cho vui

Tất cả đều trời ơi! Khóc, cười, cơn dâu bể! Gặp thế thời, thời thế… Không ra đời, hay hơn?

Bạn ơi, xin đừng buồn, mình chỉ tào lao giỡn… nếu mình đi quá trớn, cho mình lòng khoan dung…

*
Cầm như hái bưởi bòng đem ném sông ném biển, cầm như con bướm liệng quanh áo nàng tiểu thơ…

Gửi về bạn giấc mơ tự dưng mà thấp thoáng.
Sài Gòn đang tháng Tám, lá me bay đường me…

Trần Vấn Lệ

Filed Under: Chẳng cũng khoái ru?, Gì đẹp bằng sen?, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Tu viện Khánh An: “ĂN và CHAY”

23/07/2018 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Bác Sĩ Đỗ Hồng Ngọc Thuyết Trình Về “Ăn Và Chay”

23/07/2018 09:08

Nguồn: http://tuvienkhanhan.com/index.php/phap-duong-chanh-niem/tin-phap-duong/post/1373:bac-si-do-hong-ngoc-thuyet-trinh-ve-an-va-chay

Nhận lời mời của ban tổ chức khóa tu “Sống tỉnh thức” lần thứ 28 (22/07/2018), Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đã có mặt tại Pháp Đường Chánh Niệm để chia sẻ với hội chúng Phật tử phương pháp “Ăn và Chay” đúng đắn theo y học cũng như theo tinh thần nhà Phật.

 

Từ trái: Bs Đỗ Hồng Ngọc, Thầy Trí Chơn, Viện chủ, và các vị Tu sĩ Tu viện Khánh An, Quận 12 Tp.HCM, ngày CN 22.7.2018 (ghi chú: ĐHN).

 

 

Nói đến việc “Ăn”, bác sĩ nói đó là một nhu cầu để duy trì sự sống, trong khi ăn, năng lượng được tạo ra để nuôi sống cơ thể. Năng lượng này, theo bác sĩ, nó khác nhau tùy thuộc vào từng độ tuổi, từng loại đối tượng khác nhau. Bác sĩ dẫn chứng, một người bình thường cần khoảng 2000 calo, trong khi người già thì cần khoảng 800-1000 calo, trong khi các vận động viên thể thao thì cần nhiều hơn mức của người bình thường. Đó là lí do vì sao, việc ăn cần phải áp dụng đúng với thể trạng và hoàn cảnh sống của từng người để có thể điều chỉnh hợp lí.

Bác sĩ chia sẻ đến với hội chúng bốn thành phần năng lượng chính có trong thức ăn:

• nhóm đường bột (Glucid)

• nhóm đạm (Protid)

• nhóm chất béo (Lipid)

• nhóm vitamin và khoáng chất (Vitamins, Minerals)

 

Phân tích bốn nhóm này và liên hệ đến bốn loại thức ăn trong nhà Phật. Bác sĩ khẳng định, thức ăn được đề cập trong y học là để nuôi thân, nó thuộc đoàn thực – một trong bốn loại thức ăn theo lời Phật dạy. Ba loại thức ăn còn lại thuộc về đặc trung duy nhất có trong Đạo Phật đó là: xúc thực, tư niệm thực và thức thực – ba loại thức ăn này thuộc về tâm. Vậy, theo bác sĩ, đức Phật dạy cả hai phương pháp nuôi thân và nuôi tâm đúng chánh pháp.

 

Nói đến phương pháp ăn cho đúng cách, bác sĩ chia sẻ, phải ăn sao cho có được sự cân bằng về năng lượng nạp vào và thải ra. Bên cạnh đó, phải ăn trong chánh niệm, trong sự biết ơn để có được năng lượng lành mà thực phẩm mang lại.

 

Nói đến chay, bác sĩ nói, nó xuất phát từ chữ “trai” nghĩa là thanh tịnh, cho nên ăn chay, ngoài việc dùng các thực phẩm từ thực vật, cần phải đáp ứng yếu tố thanh tịnh trong khi ăn, mà nhà Phật dạy “tam đề, ngũ quán”. Không nên ăn chay trong sự hưởng thụ, tốn kém. Theo bác sĩ, ăn chay tốt nhất là quay về với thực phẩm thô, tự nhiên, chưa qua công đoạn sơ chế và bảo quản công nghiệp, ăn chay như vậy vừa bổ dưỡng vừa thanh đạm, có sức khỏe tốt để tu tập.

Bác sĩ kinh nghiệm rằng, cái “dục” của ăn rất mạnh, nó chi phối những cái dục còn lại trong ngũ dục (danh, tài, sắc, thực, thụy), cũng chỉ vì cái ăn không chân chánh mà con người từ đó dẫn đến tranh đấu, bức hại nhau. Vì vậy, bác sĩ khuyên nên “Ăn và Chay” theo tinh thần của Phật dạy để có được năng lượng thánh thiện, an lành.

 

Bs ĐHN trao tặng Thầy Trí Chơn cuốn sách mới: Thoảng Hương Sen.

 

Buổi thuyết trình được khép lại, Thầy Viện chủ đã phát biểu đúc kết. Sau đó là phần tặng sách mà bác sĩ Ngọc là tác giả. Hơn 400 cuốn “Thoảng Hương Sen” được gửi đến hành giả được Công ty Hoa Lan Lâm Thăng phát tâm cúng dường.

 

Dịp này mỗi tham dự viên đều nhận được một cuốn Thoảng Hương Sen của bác sĩ ĐHN do Phật tử Lệ Mai gởi tặng.

Trung Pháp – Trung Nhân

Filed Under: Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

Nha Trang 2009: “Thiền và Sức khỏe”

21/07/2018 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

“THIỀN và SỨC KHỎE”

Buổi Nói chuyện tại Tuần Văn hóa Phật Giáo, Nha Trang, 2009

 

Đó là buổi Nói chuyện tại Nha Trang 5.12.2009 trong Tuần Văn Hóa Phật Giáo các tỉnh phía Nam. Trong dịp này, tôi được Ban Tổ chức mời nói về Thiền và Sức khỏe, qua cái nhìn “khoa học thực nghiệm” của người thầy thuốc và những kinh nghiệm cá nhân. Nhớ năm 2008, cũng trong Tuần Lễ Văn Hóa Phật Giáo tại Huế, tôi cũng được mời trình bày đề tài này. Dám đến một nơi như Huế, Nha Trang nói về… Thiền với các bậc Thầy thiện đức và các thiện tri thức Phật tử quả là… can đảm cùng mình. Một người bạn Huế – nhà thơ PN – bảo tôi “anh đến Huế kỳ này như đến Tào Khê rồi đó nhé!”. Nhưng tôi nghĩ khác. Không có dịp nào học tốt hơn vầy nữa. Vả lại, tôi có cơ sở để trình bày Thiền dưới góc độ khoa học y học, và những kinh nghiệm, những cảm nhận riêng tư để chia sẻ chân thành. Tại Huế lần đó tôi nhớ còn có các anh Cao Huy Thuần, Bửu Ý, Nguyên Ngọc… và lần này tại Nha Trang có các Cư sĩ Trần Đình Sơn, KTS Phạm Anh Dũng, KTS Ngô Viết Nam Sơn… Tại đây tôi lại có dịp gặp các Thầy Trung Hậu, Hải Ấn (vốn là một bác sĩ), thầy Minh Thông, Tâm Hải…

Đã gần mười năm, tôi cũng quên lửng mình có một bản DVD buổi Nói chuyện này do BTC gởi tặng (tôi chưa coi lại bao giờ!). Mới đây, lục lọi đống sách vở để “về thu xếp lại” tôi bỗng tìm thấy cái DVD này và… tò mò mở ra coi thử! Nói chung, coi cũng được, không đến đỗi nào! Tôi bèn gởi nvquyen nhờ em xem thử có thể post lên để chia sẻ với bè bạn gần xa được không, nhất là các bạn đang cùng sinh hoạt trong Lớp “Phật học & Đời sống” hằng tuần với chúng tôi tại chùa Xá Lợi Saigon. Em Quyền coi xong nói được, nhưng hồi đó sao bác trông… trẻ khỏe hơn bây giờ, thần thái phong độ, nói năng cũng hay hơn bây giờ nữa! Thế mới biết vô thường là thế nào!

Tôi cười quá. Mới có mười năm chớ mấy!

Cảm ơn nvquyen nhiều lắm!

Đỗ Hồng Ngọc.

 

Filed Under: Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Thiền và Sức khỏe

Kỳ 25: Phật học & Đời sống

09/06/2018 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Kỳ 25: PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG

Ngày 2.6.2018 Chùa Xá Lợi Saigon (Tp.HCM).

Đề tài: Chuyển “Nghiệp”

Cảm ơn nvquyen đã chuyển video clip, mời các bạn tham khảo.

…………………………………………………………..

Thân mời các bạn tiếp tục dự sinh hoạt Phật học & Đời sống

Kỳ 26 Ngày 9-6-2018 từ 15-16h30

Đề tài: Phước và Tu Phước

Đỗ Hồng Ngọc.

 

Filed Under: Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống

Phan Trang Hy: TRÒN TRĂNG THÁNG TƯ

29/05/2018 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

TRÒN TRĂNG THÁNG TƯ

Phan Trang Hy

Kênh Nhiêu Lộc Tp HCM. ( theo vncphathoc)

Nắng hạ về ươm mật. Trên từng ngõ ban sơ hạnh ngân dài (Bùi Giáng), cùng những con phố ánh vàng rực rỡ, mặt người rạng rỡ hoan ca. Cờ ngũ sắc cùng Phật kỳ reo vui mở hội. Hội mừng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giáng trần.

Dẫu là người ngoại đạo, nhưng ở tôi, thi thoảng cũng thích cơm chay. Có lúc cũng bập bẹ dăm ba câu chú, đọc ít kinh ít kệ. Cứ gọi là có chút tâm Phật – nếu Phật cho phép – ngộ được cái ngộ của Nguyễn Tiên Điền: Thiện căn ở tại lòng ta, Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài. Và cứ thế, chữ tâm ở chốn hồng trần đã giúp tôi mơ. Có lúc, tôi mơ thấy mình chắp tay như những Thanh Văn cung kính hầu Đức Phật, nghe Ngài thuyết pháp cõi người ta (chữ của Nguyễn Du). Cũng có lúc, tôi mơ về bến giác, được chu du cõi Ta-bà như trăng, như gió, như mây. Cũng có lúc, tôi vui mừng như thể được ánh đạo vàng. Tôi như là bằng hữu của mọi người; tôi như là anh em của chúng sinh. Tôi nghe lời của Đức Từ Phụ sáng ngời đạo lý Từ, Bi, Hỷ, Xả.

Cũng có lúc đớn đau, có lúc bệnh tật, có lúc thất tình lục dục nổi lên. Tôi than khóc ở cõi đời này. Tôi đã kêu Trời Phật. Và Người như dỗ dành tôi, xoa dịu nỗi đau nhân thế. Tôi như mang cái nghiệp, cái duyên, cái nợ ở kiếp này. Và tôi chấp nhận vác những bụi trần như thể “trời sinh ra ta có ý”.

Mỗi năm một lần, tôi cùng vợ con đi chốn Phật đường. Đó là giây phút giao thừa. Hương trầm lan toả không gian, ánh sáng diệu huyền như rửa sạch mọi nỗi ưu tư. Tôi cùng mọi người lễ bái, nguyện cầu trước huệ nhãn của Đức Từ Phụ. Tôi thấy ai cũng tử tế, cũng tâm bình an trong giây phút linh thiêng. Ai cũng tay bắt mặt mừng, lòng tràn hạnh phúc. Trong tiếng nhạc mừng xuân dịu nhẹ, tôi thấy Đức Phật trên đài sen vẫn trầm tư. Ngài vô ưu, vô tư lự?

Và tháng tư về. Vẫn linh thiêng như phút giao thừa! Vẫn ánh sáng viên diệu chốn trần gian! Hương lan, hương huệ thơm cả trời đêm. Tất cả các từng trời, các thế giới vang lên khúc nhạc hát mừng Đản Sinh.

Tiếng mõ, tiếng chuông, tiếng kinh cầu như lời của chúng sinh dâng lên Đức Phật. Trên trời, trăng xanh trong như thể mang sự huyền diệu đến muôn dân, đến với thế gian luân hồi này.

Tháng tư huyền diệu tròn trăng. Tháng tư huyền diệu Đản Sinh. Huyền diệu cả đất trời hát mừng Đức Thích Ca Mâu Ni Phật. Tròn trăng viên mãn tháng tư. Tròn trăng hát mừng thế gian được ánh đạo vàng chỉ lối.

Bất chợt, tôi nhớ đến bài thơ của Từ Đạo Hạnh :

Tác hữu trần sa hữu,

Vi không nhất thiết không.

Hữu, không như thuỷ nguyệt,

Vật trước hữu không không.

Dịch thơ :

Có thì có tự mảy may,

          Không thì cả thế gian này cũng không.

         Vừng trăng vằng vặc in sông,

          Chắc chi có có, không không mơ màng.

(Huyền Quang dịch?)

 

Đêm. Tôi ngước nhìn trời. Sáng trên trời trăng tháng tư. Sáng trong tôi trăng tháng tư. Cùng chư tôn Phật tử trên thế gian hát mừng Đức Phật, tôi cũng hát theo. Tôi hát mừng, hát nguyện cầu thế gian được an bình, được gặp điều viên diệu ở cõi trần.

Trầm hương thơm cả đất trời. Ngời ngời trăng sáng tháng tư. Đất trời thị hiện Đức Thế Tôn.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

 

(P.T.H)

Filed Under: Gì đẹp bằng sen?, Nghĩ từ trái tim

Kỳ 21: Phật học & Đời sống, chùa Xá Lợi 21.4.2018

09/05/2018 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Kỳ 21: Phật học & Đời sống

Chùa Xá Lợi, Saigon (Tp.HCM) ngày Thứ bảy 21.4.2018

Đề tài:     Từ Bi Hỷ Xả

                Từ bi với minh (tiếp theo)

Do tôi bận đi Huế và Hội An nên buổi sinh hoạt kỳ 21 (Tb 21/4/2018) tiếp tục về Từ Bi Với Mình sẽ do thầy Minh Ngọc và Cư sĩ Tô Văn Thiện phụ trách, chủ đề tiếp theo ĐOÀN THỰC (thức ăn cho Thân- Sắc) là 3 nhóm Thức ăn cho Tâm (Thọ/ Tưởng/ Hành/ Thức):

“XÚC THỰC – TƯ NIỆM THỰC – THỨC THỰC”

Ngày Thứ bảy 28/4 và 5/5 LLL sẽ nghỉ… ”hè”.

…………………………………………………………

Chú ý: Lớp sẽ sinh hoạt lại vào ngày Thứ bảy 12-5-2018 lúc 15h-6h30 tại Chùa Xá Lợi, 89 Bà Huyện Thanh Quan, Quận 3. Tp HCM.

Thân mời các bạn tham dự,

Trân trọng

Bs Đỗ Hồng Ngọc.

………………………………………………..

Cảm ơn nvquyen đã gởi clip Kỳ 21.

Filed Under: Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống

Có một cuốn sách mới: Thoảng Hương Sen

21/04/2018 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Thoảng Hương Sen

 

Tập hợp đa số các bài viết từ suy gẫm về Phật học & Đời sống trên Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo để chia sẻ cùng bè bạn thân quý gần xa.

Ngắn gọn. Chữ to. Dễ đọc cho người có tuổi.

Và dĩ nhiên, dành cho cả các bạn trẻ quan tâm đến một nếp sống an lạc, hạnh phúc…

Đỗ Hồng Ngọc.

 

T h a y l ờ i t ự a

Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
(Ca dao/ Quốc văn Giáo khoa thư)

Từ những ngày còn thơ dại ai mà chẳng nghêu ngao

Trong đầm gì đẹp bằng sen/

Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng…

Thế rồi khi dấn bước vào đời người ta đã quên bài học
ngày xưa đó. Mải mê tìm kiếm một búp sen vàng sen bạc
rực rỡ hào quang ở tận chân trời. Cho đến một hôm giật
mình ngó lại: thì ra cái Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
kia rốt cuộc cũng chỉ là Nhị vàng bông trắng lá xanh đó thôi.
Chẳng thêm chẳng bớt.

Nó vậy đó. Nó như thị. Nó Như Lai.
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng coi lăng xăng, chen
chúc, quần quật, xanh đỏ tím vàng vậy cũng chỉ để rồi rốt
cuộc Nhị vàng bông trắng lá xanh…

Đừng tìm đâu nữa cho mất công.

Gia trung hữu bảo hưu tầm mích (Trần Nhân Tông).

Của báu trong nhà sẵn đó rồi! Viên ngọc trong chéo áo

người cùng tử sẵn đó rồi. Chẳng qua vì không thấy biết.

Cái đóa sen đó cứ xòe ra rồi khép lại. Khép lại rồi xòe ra.
Từ nghìn xưa cũ. Đóa sen của thiên thu vẫn lung linh giữa
gió và nước, như tủm tỉm cười, thoảng ngát hương thơm…

Mà chợt ngộ một điều cốt lõi: Gần bùn mà chẳng hôi
tanh mùi bùn!

Nó tuyệt vời bởi nó giản đơn. Nó chung thủy. Nó chẳng
vì ai để tỏa hương. Nhưng cũng đủ làm cho cái mùi bùn kia
trở nên nhu mì, yểu điệu…

Khai thị là để ngộ nhập. Nhập về đâu? Về Như Lai tạng.
Về bào thai Như Lai. Về Chơn tâm thường trú. Về Thể tánh
tịnh minh.
Nhưng, không chỉ vậy. Nhập còn là nhập thế. Đóa sen
không chỉ nhập vào cõi Phật mà còn nhập vào cõi bùn nhơ
giữa chốn Ta-bà.
Sen vậy đó. Tìm kiếm đâu xa.

 

Đỗ Hồng Ngọc

(Saigon, 3.2018)

Filed Under: Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định, Gươm báu trao tay, Nghĩ từ trái tim

Kỳ 20: Phật học & Đời sống: Từ Bi Với Mình

19/04/2018 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Kỳ 20:              PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG

Ngày 14.4.2018 tại chùa Xá Lợi , Saigon (Tp.HCM)

TỪ, BI, HỶ, XẢ (tiếp theo)

                             Từ Bi Với Mình

 

Cảm ơn nvquyen.

ĐHN

……………………………………………………………………………………

Thông báo:

Thứ bảy 21.4.2018 sinh hoạt bình thường từ 15-16h30 tại Chùa Xá Lợi 89 Bà Huyện Thanh Quan, Quận 3, Tp.HCM.

Thân mời các bạn tham dự.

Lớp nghỉ 2 buổi Thứ bảy 28.4 và 5.5.2018.

Sẽ tiếp tục sinh hoạt lại vào ngày Thứ bảy 12.5.2018.

Trân trọng,

Đỗ Hồng Ngọc.

 

 

Filed Under: Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống

  • « Go to Previous Page
  • Go to page 1
  • Go to page 2
  • Go to page 3
  • Go to page 4
  • Interim pages omitted …
  • Go to page 7
  • Go to Next Page »

Thư đi Tin lại

  • Lịch “Trò chuyện, giao lưu…”
  • Lại đính chính: “SAIGON BÂY GIỜ”
  • ĐÍNH CHÍNH: BSNGOC không phải là BS ĐỖ HỒNG NGỌC
  • Đính chính: BS NGỌC không phải là Bs Đỗ Hồng Ngọc
  • bsngoc đã lên tiếng đính chính
  • Thư cảm ơn và Đính chính về FACEBOOK Bác sĩ NGỌC
  • ĐÍNH CHÍNH: Bài viết "TÀN NHẪN" không phải của Bs Đỗ Hồng Ngọc

PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG

Tạp Ghi (Lõm bõm kỳ 2)

TẠP GHI (Lõm Bõm)

Nguyễn Xuân Thiệp: VỴ ƠI…

Truyện Phan Tấn Hải: QUÊN NHAU LÀ CHUYỆN KHÓ

Thêm một Tuổi Mới

PHĐS: Buổi học cuối năm (16.1.2021).

Biết rồi còn hỏi

Ba tầng của tâm thức – Vô Kỵ ở tầng nào?

“An cư kiết hạ” trong mùa Covi

Thư gởi bạn (2.4.2020)

Xem thêm >>

Chuyên mục

  • Một chút tôi
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy

Bài viết mới nhất!

  • Trần Hoài Thư: Thư Tết gửi bạn thơ Đỗ Nghê ở SG.
  • Trần Doãn Nho: Lạnh lùng Texas!
  • Tạp Ghi (Lõm bõm kỳ 2)
  • TẠP GHI (Lõm Bõm)
  • Nguyễn Xuân Thiệp: VỴ ƠI…

Bài viết theo tháng

Ý kiến bạn đọc!

  • Bac Si Do Hong Ngoc trong CHÚC MỪNG NĂM MỚI
  • Diêu Trong trong CHÚC MỪNG NĂM MỚI
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Sách Ở Trên Đường
  • Su Su Do trong Sách Ở Trên Đường
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Tĩnh lặng
  • Tịnh Phan trong Tĩnh lặng
  • Phan Minh Tịnh trong Tĩnh lặng
  • Trần Vạn Lợi trong Chuyện kể đêm Giáng Sinh
  • hai trầu trong Chuyến về Đà Lạt cùng Quán Văn
  • hai trầu trong Chuyến về Đà Lạt cùng Quán Văn

Cùng một tác giả

  • 0
  • 1
  • 1
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6

Thống kê

Nhà tài trợ

biệt thự vũng tàu
biệt thự vũng tàu cho thuê | biệt thự vũng tàu cho thuê theo ngày giá rẻ | cho thuê biệt thự vũng tàu có hồ bơi
© 2009 - 2016 Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Phát triển & Hỗ trợ kỹ thuật bởi SGC.
Trích dịch nội dung để dùng trong nghiên cứu, học tập hay dùng cho cá nhân đều được tự do nhưng cần phải chú thích rõ nguồn tài liệu và đối với các trích dịch với mục đích khác, cần phải liên lạc với tác giả.
  • Một chút tôi
    ?
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    ?
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    ?
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    ?
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    ?
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy
  • Nhận bài mới qua email