LỜI BẠT viết cho cuốn Tuỳ bút “MỘT NGÀY KIA… ĐẾN BỜ” của Đỗ Hồng Ngọc.
Nguyễn Minh Tiến
Tôi nhận được bản thảo này của anh Đỗ Hồng Ngọc với lời nhắn gửi thân tình:
“Anh nhờ em ĐỌC giùm, và viết cho anh một lời Bạt.” Chữ “đọc” anh cố ý viết in
hoa làm tôi hơi… sợ. Với một bậc đàn anh đa tài mà tôi luôn kính trọng, tôi tự biết
việc đọc và viết lời Bạt cho tập sách đặc biệt này của anh quả thật không dễ. Tôi
không dám chắc rằng mình có thể đọc hiểu đúng và đủ những ý tưởng độc đáo của
anh để có thể viết ra một lời Bạt đúng nghĩa.
Nhưng rồi hôm nay vẫn phải mở sách ra đọc để cố gắng viết một lời Bạt như lời
anh dặn, cũng là lúc một trong những người đàn anh thân thiết đã vĩnh biệt chúng tôi
để ra đi “về cõi hoang sơ” như lời thơ anh ấy nói. Có vẻ như khi mái tóc đổi màu
thì chúng ta càng có nhiều cơ hội hơn để cảm nhận những bài học về vô thường.
Anh Đỗ Hồng Ngọc là người từ lâu tôi quý mến, và anh cũng xem tôi như đứa em
thân thiết, nhưng không phải vì thế mà tôi dám dễ duôi tự cho phép mình quên đi
việc anh là một “cây đại thụ” trong thế hệ những người đi trước mà tôi may mắn
được biết tên. Tôi từng đọc Nguyễn Hiến Lê viết về anh: “Một bác sĩ, lại là một thi
sĩ thì luôn làm cho chúng ta ngạc nhiên một cách thú vị…” Tôi biết, không có
nhiều nhà thơ hay nhà văn đương thời tạo được ấn tượng tốt đẹp với lời ngợi khen
như vậy từ một người uyên bác và nghiêm túc như Học giả Nguyễn Hiến Lê, và
bọn hậu sinh như chúng tôi không thể không vui mừng khi may mắn có được tấm
gương sáng như anh để noi theo, trong sự học tập cũng như khi tập tành viết lách.
Và bây giờ thì anh đã cho tôi thêm một sự ngạc nhiên thú vị nữa qua tập sách này,
khi anh còn là một tấm gương sáng trong sự tu tập Phật pháp. Tôi bỗng dưng muốn
lặp lại nhận xét của Học giả Nguyễn Hiến Lê, tất nhiên là với một chút “cải biên”
của riêng tôi: “Một nhà văn, bác sĩ, lại là một thiền sư thì luôn làm cho chúng ta
ngạc nhiên một cách thú vị…”
Tôi biết là anh không muốn và thậm chí có thể sẽ trách nhẹ tôi vì đã gọi anh là
“thiền sư”, nhưng tôi không… sợ. Vì tôi tin là tôi có thể chứng minh rằng tôi nói
đúng. Sự kết hợp những phẩm tính của nhà văn, bác sĩ và thiền sư trong anh đã hòa
quyện, biểu lộ rất rõ với tập sách này.
Ngay cái tựa đề “Một ngày kia đến bờ” mà anh mượn trong ca từ nhạc phẩm Phôi
pha của Trịnh Công Sơn cũng đã cho thấy cái tố chất mơ màng lãng mạn của một
nhà văn. Nhưng trong khi Trịnh Công Sơn gây cho chúng ta một nỗi buồn man
mác khi nhìn lại “đời người như gió qua” thì Đỗ Hồng Ngọc lại chuẩn bị cho “một
ngày kia đến bờ” với tinh thần tích cực của một người học Phật và hiểu Phật, cho
một cuộc viễn du với tấm thông hành đóng dấu “well-dying”.
Và khi nghe anh bàn về “well-being” với “well-dying” thì chúng ta không còn nghi
ngờ gì điều đó nữa. Anh nói về những chuyện này với tư cách là người trong cuộc,
không giống như bàn chuyện người khác. Những gì anh nói, ta có thể thấy rõ đều
là những cảm nhận, những trải nghiệm của riêng anh, bằng chính cuộc đời mình.
Anh đã “well-being” ngay cả trong nhiều hoàn cảnh khắc nghiệt, bệnh tật, thiếu
thốn… từ thời thơ ấu, và tiếp tục “well-being” cho đến nay vào độ tuổi U90, độ tuổi
của những chiếc lá vàng hiếm hoi cùng thời với anh còn sót lại. Vì thế, chúng ta có
đủ căn cứ để tin rằng những gì anh nói, anh làm, hoàn toàn có thể bảo đảm cho anh
một viễn cảnh “well-dying” tốt đẹp như dự tính.
Nhà Thiền có câu “sinh tử sự đại”, nay anh đã đối diện, giải tỏa và vượt qua được
cái ngưỡng “sự đại” đó thì chuyện “một ngày kia đến bờ” hẳn cũng là một lẽ
đương nhiên, và chắc chắn rồi sẽ đến trong sự thản nhiên của một “người vô sự”
theo đúng tinh thần của nhà Thiền.
Điều đáng nể phục nơi anh là ở độ tuổi vào bậc huynh trưởng của hàng “cổ lai hy”
nhưng ngòi bút của anh vẫn không mất đi nét dí dỏm, hài hước xưa nay vẫn thường
gặp ở giọng văn anh. Cái chất hài hước nhẹ nhàng ấy như bàng bạc trong mọi tác
phẩm của anh, dù là khi anh viết về chuyện sức khỏe, chuyện văn chương hay ngay
cả về Phật học. Tôi đã gặp không ít người trì tụng hoặc tìm hiểu kinh Pháp Hoa,
nhưng đọc kinh Pháp Hoa mà nhìn thấy được Phật Thích-ca bước vào bảo tháp
“tay bắt mặt mừng” với Phật Đa Bảo thì duy nhất chỉ có anh. Những vấn đề khô
khan trong y học, phức tạp và siêu hình trong Phật học, qua ngòi bút của anh đều
trở nên nhẹ nhàng, vui vui, dễ tiếp nhận.
Và lần này, giọng văn hài hước của anh không ẩn giấu nữa mà khởi đầu ngay từ
tiểu mục “Nghĩ tức cười”, ấy là anh muốn công khai nêu ra những cái “tức cười”
trong cuộc tồn sinh của vạn hữu từ muôn triệu năm nay (hay còn lâu hơn nữa?)…
mà thật ra ai cũng nhìn thấy nhưng lại chẳng biết cười như anh. Bây giờ nghe anh
nói rồi thì thấy đúng là thật “tức cười”.
Nhưng với Đỗ Hồng Ngọc thì cười không chỉ để… mà cười. Cái cười của anh thật
ra là thâm trầm, sâu lắng, khởi đi từ manh mối của sự “Nhìn lại mình”, vốn là khởi
đầu cốt yếu của mọi pháp môn tu tập trong Phật pháp. Không “nhìn lại mình” thì
có bỏ nhà lên núi tu hành miên mật năm bảy chục năm cũng không mong gì đạt
được sự giải thoát hay giác ngộ. Bởi vậy, anh cười như kiểu “vui thôi mà” nhưng
lại bật ra một câu hỏi làm nhiều người choáng váng: “Có kiếp sau không?”
Choáng váng là vì đối với những con người còn đầy tham chấp hỷ nộ ái ố, vất vả
lắm mới quên đi được câu hỏi ấy để sống vui thì bỗng dưng anh khơi lại vấn đề
khiến họ không thể nào vui sống.
Mà thật ra thì anh cũng chỉ đùa thôi. Bởi anh không hỏi để tìm câu trả lời, mà chỉ
để gợi ra những phương thức rất tuyệt vời giúp mọi người vui sống. Đó chính là rõ
biết và chấp nhận “bốn thứ ma” (bởi không nhận thì chúng cũng đang có đó) và
“bắt tay làm hòa”, vui sống với chúng. Nhưng thử nghĩ mà xem, làm được như anh
nói chẳng phải đã là một thiền sư “thõng tay vào chợ” rồi đó sao? Đâu còn bận
lòng gì với tử sinh, sinh tử?
Nhưng rồi anh quá rõ biết tâm niệm “chúng sinh” nên tuy nói vậy mà vẫn ân cần
giải thích. Hẳn anh biết là rất nhiều người trong chúng ta vẫn còn luôn ưu tư, thắc
mắc. Anh nói về “nghiệp”, về “bản ngã” và rồi cuối cùng chỉ ra một sự thật để ta
thấy rằng mỗi người chỉ có thể nỗ lực tự tu tập để cứu lấy chính mình, bởi vì “Phật
cũng già, cũng bệnh”, và tất nhiên là rồi… cũng chết.
Chỉ qua mấy đoạn văn ngắn với cách đề cập “vui vui” rất đặc thù của riêng anh,
người đọc như bừng tỉnh để nhìn lại chính mình và tự thấy ra cái “cuộc đời như
gió qua” này thật không đáng để chúng ta ôm giữ mãi quá nhiều khổ đau mà hầu
hết đều do chính mình tạo ra. Một cái nhìn nhẹ nhàng nhưng sáng rõ về cuộc đời sẽ
giúp cho cuộc sống của chúng ta cũng tự nhiên trở nên nhẹ nhàng hơn. Phải chăng
đây là định nghĩa thiết thực và dễ hiểu nhất của sự giải thoát?
Tập sách khá mỏng nhưng anh đã đề cập đến hầu hết các phần giáo lý quan trọng
từ những bộ kinh quan trọng của Phật giáo như Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Kim
Cang, Duy-ma-cật… Đây thật đúng như tinh thần mà anh tự bộc bạch: “Tôi chỉ học
lõm bõm ít kinh Phật…, và cũng chỉ học lấy cái ‘cốt lõi’”.
Thì quả đúng vậy. Những kinh anh đã đọc qua và nhắc đến, nếu so với số lượng
Kinh điển Phật giáo hiện còn trong hai tạng Nam truyền và Bắc truyền thì quả thật
là quá ít. Nhưng hai chữ “lõm bõm” của anh thì tôi thật không khỏi hoài nghi, bởi
lời anh nói là “chỉ học lấy cái cốt lõi” thì quả thật không phải ai cũng làm được.
Bởi muốn làm được cái việc “đãi cát chọn vàng”, từ vô số những ngôn từ phương
tiện Phật đã thuyết trong kinh mà trích xuất ra được “cái cốt lõi” thì phải hết sức
thông thuộc, am hiểu thấu đáo mới có thể làm được.
Tuy nhiên, cũng nên lưu ý rằng “cái cốt lõi” mà anh rút ra từ Kinh điển là “cái cốt
lõi” cho riêng anh, anh không hề có ý đưa ra để làm khuôn mẫu cho ai khác. Chính
cái tinh thần tự khai phá, tự tìm tòi trong sự tu tập của anh mới là tấm gương sáng
để chúng ta noi theo. Anh nói rõ: “Có tới 40 đề mục để thiền quán, tôi chỉ chọn
một…” Với tôi, chính sự chọn lựa này có thể đã quyết định phần lớn khả năng
thành công trong tu tập. Rất nhiều người khi mới đến với thiền phải loay hoay rất
lâu giữa các lựa chọn khác nhau, bởi không biết chắc được mình thích hợp với đề
mục nào, phương pháp nào. Khi hành giả xác định được một chọn lựa thích hợp
cho chính mình, sự tu tập sẽ dễ dàng và hiệu quả hơn rất nhiều, bởi có thể tập trung
toàn bộ tâm ý vào đề mục đó mà không bị phân tán bởi các lựa chọn khác.
Tôi cũng thực sự thán phục khi đọc qua những tiểu mục anh nêu đại lược chặng
đường anh tìm đến và đi qua nội dung những bộ kinh lớn.
Tôi có cảm giác anh như một nghệ sĩ tài hoa đang ngắm nhìn và cảm thụ một bức
tranh đẹp, không mất nhiều thời gian cho những họa tiết, phông nền… mà có thể dễ
dàng nhận biết ngay những đường nét chính yếu, những ý nghĩa ẩn tàng mà tác giả
muốn thể hiện. Bởi vậy, những bộ kinh đồ sộ đối với nhiều người trong chúng ta
thì qua mô tả của anh trở nên gần gũi, dễ tiếp nhận hơn, nhưng không vì thế mà
mất đi phần tinh túy. Tôi cũng từng đọc Pháp Hoa, Duy-macật… như anh, nhưng
tôi chưa bao giờ có được khả năng “tóm lược” một cách rõ ràng các điểm tinh yếu
của giáo pháp theo cách như anh.
Một sự “ngạc nhiên thú vị” khác cần đề cập đến ở đây là anh cũng “tóm lược” cả
cuộc đời mình từ ấu thơ cho đến… U90 một cách mạch lạc, dễ hiểu nhưng đầy đủ,
cũng như điểm qua được hầu hết những thành tựu từ ngòi bút của anh trong cả ba
lãnh vực: văn chương, y học và Phật học. Anh chỉ điểm “sơ sơ” thôi mà có đến 7
tập thơ, hơn 60 đầu sách… Những con số hẳn là phải gây ấn tượng với bất kỳ người
cầm bút nào.
Sự “đầy đủ” trong những tóm lược của anh nên được hiểu theo ý nghĩa do chính
anh nêu ra, “bởi chính đó là một trong những yếu tố của ‘chất lượng cuộc chết’”,
và nếu nói theo thuật ngữ chuyên ngành cũng do anh đề nghị thì đó là “well-
dying”. Hẳn độc giả sẽ không khỏi ngạc nhiên đầy thú vị khi thấy hành trình cả
một đời người rồi sẽ chi phối như thế nào đến “chất lượng” của chuyến đi xa cuối
đời.
Có 26 tiểu mục được anh đưa vào tập sách, với những chủ đề dàn trải hầu như đề
cập đến tất cả những vấn đề quan trọng trong sự tu tập, từ sự nhận hiểu tinh yếu
giáo pháp cho đến kinh nghiệm thực hành. Độc giả có thể từ từ, thong thả “nhâm
nhi” từng tiểu mục ngắn trong sách này, mà theo tôi rất nên đọc lại nhiều lần để
thấy hết được sự tài tình của anh khi biến mọi vấn đề khô khan hay trừu tượng,
siêu hình trở nên gần gũi, dễ hiểu, thiết thực và… hấp dẫn. Nhưng đối với riêng tôi,
những phần “hấp dẫn” nhất chính là khi anh chia sẻ “vài kinh nghiệm riêng”,
những điều không thể tìm thấy trong bất kỳ bài thuyết giảng hay luận văn Phật giáo
nào. Đó là những điều theo tôi hoàn toàn thể hiện được “dấu ấn Đỗ Hồng Ngọc”.
Chẳng hạn, anh chia sẻ một câu “thần chú” chưa từng có ai tụng đọc trong Phật
giáo, nhưng đúng là sẽ rất ư “linh nghiệm” đối với nhiều người. Câu thần chú đó là
“thả lỏng toàn thân thả lỏng chưa” mà anh thường “tụng” khi ngồi xuống bắt đầu
thiền tọa.
Thật ra, “thả lỏng” hay “buông thư” là điều mà bất cứ vị thầy nào khi hướng dẫn
thiền tập cũng đều nhắc đến, nhưng chia sẻ quan trọng của anh ở đây là sự nhấn
mạnh phải “thả lỏng toàn thân” cũng như tính chất quyết định của việc này, mà
anh cho rằng nếu không làm được thì sẽ “hỏng bét”.
Dù vậy, không phải ai cũng may mắn có được khả năng “thả lỏng toàn thân” ngay
tức khắc khi ngồi xuống bắt đầu thiền tập. Một số người, thật ra là đa số, tuy vẫn
muốn làm thế nhưng chưa thể làm được. Điều này cũng bình thường thôi, vì cần
phải có công phu luyện tập qua thời gian. Nhưng nguyên tắc chung được áp dụng
cho mọi trường hợp là thân và tâm luôn tương quan chặt chẽ với nhau. Do vậy, nếu
khi bắt đầu thiền tập mà toàn thân chưa buông thư hoàn toàn thì cũng không nên lo
lắng, chỉ cần tiếp tục giữ tâm an tĩnh, chú ý vào đề mục thiền đã chọn thì sau một
thời gian, chắc chắn mọi việc sẽ tốt hơn. Khi tâm an tĩnh thì thân cũng sẽ dần dần
đi vào trạng thái buông thư, cơ bắp giãn ra, không còn “căng cứng” nữa. Tuy nhiên,
vì điều này thực sự rất quan trọng nên việc “tụng thần chú” như anh nói để
nhắc nhở chính mình khi bắt đầu thiền tập là rất hữu ích.
Một chia sẻ quan trọng khác của anh cũng hết sức thú vị là mối tương quan giữa
tình trạng thiếu oxy kinh niên (chronic hypoxia) của não với trạng thái hỷ lạc, lâng
lâng sảng khoái của thiền giả. Anh giải thích theo cách nhìn của khoa học thì có
thể là do tình trạng thiếu oxy làm cơ thể tạo ra các hormone liên quan đến trạng
thái hạnh phúc, sảng khoái đó. Anh cũng liên kết hiện tượng này với kinh nghiệm
riêng của anh sau những cơn bệnh sốt rét và cho rằng có thể việc thiếu hồng cầu
khiến cơ thể thiếu oxy đưa đến trạng thái sảng khoái sau mỗi cơn sốt rét hồi nhỏ. Và anh
cũng đưa ra giả định rằng các thiền sư thường tìm lên núi cao để dễ tu tập vì trên
đó không khí loãng, tỷ lệ oxy thấp, như vậy tất nhiên hành giả dễ rơi vào tình trạng
thiếu oxy, từ đó có được trạng thái thiền duyệt, sảng khoái.
Tất nhiên, đây là những dữ kiện rất lý thú và chắc chắn cần được nghiên cứu thêm
trước khi có thể vận dụng vào thực tiễn. Nhưng người học thiền cũng nên dè dặt
với những mối liên kết giả định như vậy. Việc hạn chế cung cấp oxy cho cơ thể
qua việc kiểm soát hơi thở là điều mà người tập thiền hoàn toàn có thể làm được,
nhưng nếu như có ai muốn thử nghiệm dùng cách này để đạt được thiền duyệt thì
chắc chắn là không nên, thậm chí còn rất nguy hiểm. Khi thiền giả đi sâu vào định
thì hơi thở sẽ chậm dần đi cho đến lúc gần như chỉ còn duy trì ở mức tối thiểu.
Nhưng đó là một hiện tượng tự nhiên do nhu cầu oxy của cơ thể giảm mạnh chứ
không phải do thiền giả cố ý tạo ra, và tình trạng cơ thể khi đó tiêu thụ rất ít oxy
chứ không phải thiếu oxy. Đỗ Hồng Ngọc cũng nhắc trong thiền tập phải hết sức
thận trọng, không nên “nín thở” để mong được mau vào thiền vào định!
Tuy nhiên, việc đề cập đến mối tương quan “thân – tâm” này quả thật vô cùng lý
thú. Điều này cũng cho thấy rằng thiền tập chẳng những thiết yếu cho một cuộc
sống hạnh phúc mà còn luôn mang lại cho mỗi chúng ta những khám phá mới,
những điều mới mẻ và cuốn hút.
Tôi đã đọc say mê cả tập sách này không một lần dừng lại, không chỉ bởi lối văn
nhẹ nhàng mà hấp dẫn của anh, mà còn phần lớn là do cách anh trình bày những
vấn đề rất độc đáo, rất ư là… Đỗ Hồng Ngọc, nghĩa là không thể nhầm lẫn với ai
khác.
Lời cuối cùng muốn nói ở đây là tôi mong gặp lại anh biết bao! Từ lần cuối ghé
nhà thăm anh đến nay e cũng đã gần chục năm rồi chưa gặp lại, và giờ thì tôi với
anh ở hai đầu… trái đất. Mặc dù thường liên lạc với anh qua email, qua điện thoại,
nhưng tôi vẫn luôn muốn gặp lại để được ngắm nhìn khuôn mặt anh, khuôn mặt
như lúc nào cũng ẩn chứa một nụ cười hoan hỷ và sẵn sàng nở ra để lan tỏa niềm
vui sống đến với người đối diện.
Cảm ơn anh rất nhiều đã một lần nữa cho tôi “những ngạc nhiên đầy thú vị”.
Mong cho tập sách này sớm ra đời và đến tay bạn bè thân hữu, để một lần nữa “có
dịp chí chóe cho vui” như lời anh nói.
Quế Minh Đường (Westminster), California
Tháng 9 – 2023
Nguyễn Minh Tiến
………………………………………………………………………………………….
Có thể đọc Ebook “Một Ngày Kia… Đến Bờ” V2 ngày 11.9.2023 trên dohongngoc.com
Trả lời