Thư Hai Trầu Lương Thư Trung:
Kính gởi quý bạn,
LÁ THƯ THẦY NGUYỄN HIẾN LÊ GỞI
BÁC SĨ ĐỖ HỒNG NGỌC
Long Xuyên 20. 7. 1979
Cháu Hồng Ngọc,
Tôi về đây từ 4.6, tính 1.8 mới trở lên Sàigòn. Về để chuẩn bị sang năm sẽ về ở hẳn dưới
này: già rồi, nhà tôi muốn ở tại quê hương gần họ hàng, người thân.
Mới nắng được một tuần nay, mà nắng gắt; trước đó mưa liên tiếp ba tuần, buồn quá,
không biết làm gì đọc lại báo cũ, số BK cuối cùng 25.4.75. Đọc lại bài cháu viết về tôi,
rồi đọc lại bài Bàng Bá Lân (trong Kỉ niệm nhà văn hiện đại), bài anh Ngư (trong Sống
và Viết) và tập Châu Hải Kỳ viết về tôi.
Bài của cháu ngắn nhất mà tôi thích nhất, vì thành thật, tự nhiên, thân mật nhất. Lối viết
của cháu cũng giống lối viết của tôi: Sáng sủa, gọn gàng, cụ thể, xen nhiều hồi kí, tình
cảm, hấp dẫn. Không có những câu dài lúng túng như một số cây bút trẻ.
Tôi nghĩ cái buổi trưa cháu thấy cuốn Kim chỉ nam của tôi ở trên vỉa hè đường Trần
Hưng Đạo đó. Không vì nó là một điểm quan trọng đánh dấu đời cháu mà cũng có ảnh
hưởng ít nhiều đến đời của tôi nữa. Trong bảy tám năm nay cháu giúp tôi được nhiều khi
tôi đau, nhờ cháu mà tôi biết cậu Hùng – cháu có gặp, cho tôi gởi lời thăm cậu ấy – mà
hết được tật và bệnh thận. Rồi bài cháu viết về tôi chắc khiến cho nhiều người hiểu tôi
hơn; lại còn những quà như bánh tráng, hột điều, mạch nha mà bây giờ không làm sao
có được nữa. Ngon lạ.
Nhớ lại hồi đó, mới đây thôi mà đã đúng như câu thơ cổ: “Vạn sự tan như mây khói” cả
rồi. Cả cái mộng đi một tua thăm Nam Trung Bắc cũng tan biến nữa. Tôi chưa về thăm
ngoài đó mà cũng không muốn về nữa.
Còn sống ít năm nữa thì rán viết như bắt óc làm việc cho nó khỏi mau suy, và cũng để
cho mau qua 24 giờ trong một ngày.
Tôi đã làm gần xong chương trình của tôi rồi: giới thiệu kĩ và dịch trọn hoặc gần trọn tác
phẩm của tất cả các triết gia lớn của T.H. thời Tiên Tần: 7-8 bản thảo trung bình 400
trang một. Không biết giữ được bao lâu? 10 năm, 20 năm nữa?
Tôi cũng tính viết qua loa (vài trăm trang thôi) hồi kí. B.B Lân đã viết xong 500 trang,
Quách Tấn viết cả ngàn trang rồi mà chưa xong.
Nhưng tôi không biết viết gì bây giờ? Viết về hoạt động văn hóa của tôi? Thì các tác
phẩm của tôi đó, viết thêm gì nữa?
Viết về đời sống của tôi hồi trẻ? Thì cũng đã lác đác có trong một số tác phẩm của tôi
rồi. Viết về bạn văn? Tôi ít bạn văn, chỉ khoảng mươi người, khen họ thì tôi nghĩ nên vắn
tắt thôi, không cần viết dài, còn chê thì tôi không có gì để chê!
Cháu nghĩ xem tôi nên viết gì đây? Tôi chưa đọc cuốn Mon ami qui s’appellait moi của
A.Maurois mà cháu nhắc trong bài báo BK đó. Ông ta nói gì trong đó? Cháu có cuốn đó
không? Tôi sẽ hỏi Lê Ngộ Châu xem có cuốn đó không.
Trong bài cháu viết, có nhắc tới “anh chín NS” thợ may. Nay ông ta vui không? Yên ổn
làm ăn được không? Con cái khá không?
Từ 1975 tới nay, tôi vẫn thường được thư của thanh niên, toàn là những cậu mới hay sắp
đậu tú tài thì nước nhà thống nhất. Họ vẫn tin tưởng ở sách của tôi. Tôi mong rằng họ sẽ
không thất vọng, và tôi thương họ!
À, gần đây cháu có gặp Thầy Từ Mẫn không? Ông Nguyễn Hữu Vị nữa?
Năm ngoái Viện khoa học xã hội sai người (người này quen tôi) lại dò xem tôi còn ở đây
không. Rồi mới hai tháng trước một cán bộ quen tôi từ mười mấy năm trước (sơ sơ thôi)
cũng lại hỏi tôi có tính đi đâu không. Tôi đáp: Có, tính về Long Xuyên ở cho trọn cái tuổi
trời. Họ ra về và chẳng trở lại nữa.
Thư này tôi viết ở L.X nhưng không nhớ địa chỉ của cháu, phải đợi về Sàigòn rồi mới gởi
được. Khoảng đầu Aout, chưa biết ngày nào tôi sẽ lên. Xe cộ đi bây giờ mệt lắm mà tốn
kém lắm.
Tôi chúc toàn thể gia đình cháu an vui.
Bệnh của nhà tôi bớt nhiều (8/10) rồi nhờ Gasepeline ở Pháp gởi về.
Thân ái,
Nguyễn Hiến Lê
Phụ chú:
-Hai Trầu đánh máy lại và ghi tựa bài.
-Xin đính kèm thủ bút của thầy Nguyễn Hiến Lê trong thư (trang 1 và trang 4):
Trang 1 và trang 4.
Để lại một bình luận