Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Tập hợp các bài viết của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Ghi chép lang thang
  • Nhận bài mới qua email

Nguyên Cẩn: DỰNG LẠI CON NGƯỜI

29/12/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

 

DỰNG LẠI CON NGƯỜI

LỜI CỦA KẺ SĨ

NGUYÊN CẨN

 

TỰA

Kính thưa độc giả!

Bạn đang cầm trên tay cuốn sách DỰNG LẠI CON NGƯỜI. Và bây giờ, bạn đang lướt đến những dòng giới thiệu sách. Tôi đang được hân hạnh trò chuyện với bạn – một người yêu sách. Tôi muốn nói với bạn rằng, đừng đặt cuốn sách này xuống, đừng bỏ qua nó. Bởi vì, nếu làm vậy, bạn đã “phụ một tấm lòng trong thiên hạ”– tấm lòng trăn trở với quốc gia, với thời cuộc, với con người (dĩ nhiên là trong đó có bạn, và có tôi) của một kẻ sĩ.

Nếu được phép đặt tên cho cuốn sách này, tôi sẽ gọi nó là LỜI CỦA KẺ SĨ. Bởi vì, 28 bài viết của cuốn sách là tiếng nói của một trí thức đầy mẫn tuệ, tâm huyết và khát khao cống hiến – cống hiến bằng chữ nghĩa từ những gì mình lĩnh hội được qua thực tế, qua sách vở và qua sự nhạy cảm trước những biến động của đời sống.

DỰNG LẠI CON NGƯỜI nghĩa là tìm lại giá trị người đã từng có, nhưng bị đánh mất qua bao biến cố, bão giông của lịch sử; tìm lại quốc pháp, gia quy từng rất nghiêm cẩn đã bị lơi lỏng, biến dạng dưới bàn tay của những người chấp pháp vô trách nhiệm; tìm lại vị thế của nước Việt đã từng vượt xa các nước trong khu vực nay lại bị các nước ấy vượt xa. Đi tìm những giá trị đã mất, xác lập giá trị mới cho quốc gia cường thịnh, chính trị minh bạch, kinh tế phồn vinh, văn hoá phát triển và con người hạnh phúc chính là khát khao cháy bỏng của Nguyên Cẩnqua từng trang viết. Tác giả để tâm đến tất cả mọi lĩnh vực của đời sống: kinh tế, chính trị, giáo dục, văn hoá, nhân sinh, nhân tính, nhân tình, nhân tâm… Có cảm giác như trái tim mẫn cảm và trí tuệ nhạy bén của ông luôn quặn thắt khi nhìn thấy, nghe thấy, cảm thấy những điều không vui vừa mới xảy ra. Sau mỗi quặn thắt là sự điềm tĩnh cần có của một trí thức, Nguyên Cẩn suy ngẫm, phân tích nguyên nhân, hệ quả, và đi tìm giải pháp.

Trong mỗi bài viết mang tính xã luận hoặc tính đối thoại, Nguyên Cẩn luôn dẫn dắt vấn đề một cách lớp lang, diễn giải từ tốn, đi từ việc nhỏ đến việc lớn, dung hoà giữa lý trí và cảm xúc, lý thuyết và thực tiễn khiến người đọc rấtdễ nắm bắt vấn đề. Ông thường lập luận chặt chẽ, xác định luận điểm rõ ràng, xây dựng luận cứ chắn chắc và đưa ra nhiều luận chứng xác đáng. Từ đó, đi vào bình luận một cách có lý có tình với những kiến giải sắc sảo đầy thuyết phục. Và cuối cùng, những giải pháp mà ông đưa ra rất thiết thực, có tính khả thi cao.

Đặc biệt, điều làm nên nét đặc sắc của cây bút xã luận Nguyên Cẩn chính là những tầng văn hóa. Tầng văn hóa đó được sắp xếp nên bởi các lớp tri thức về văn hóa, chính trị, pháp luật, kinh tế, triết học, nghệ thuật… mà người viết có được. Những bài học thực tế đông tây kim cổ, ý kiến của các danh nhân, đạo đức của các tôn giáo được trích dẫn và lồng ghép một cách phù hợp với liều lượng vừa phải. Vì thế, đọc bài của Nguyên Cẩn -đọc lời của kẻ sĩ, ta tiếp nhận được rất nhiều kiến thức bổ ích, lại có thêm cái thú “qua núi còn thấy núi”, và rồi ta không khỏi tự vấn mình về trách nhiệm của một kẻ sĩ, một công dân.

DỰNG LẠI CON NGƯỜI khiến tôi nhớ đến một câu danh ngôn: Cách hay nhất để làm giàu tri thức mình là đọc một cuốn sách hay hoặc trò chuyện với người thông thái. Bạn sẽ gặp được cả hai điều đó khi đọc cuốn sách này. Tôi tin nhưvậy!

Nguyễn Thị Tịnh Thy (*)

………………………………………………….

(*) Tiến sĩ , Đại học Sư Phạm Huế

 

 

 

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Uncategorized, Đọc sách

CHIỀU BUÔNG…

18/12/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

 

Chiều buông…

 (đôi dòng về Không đứng mãi trong tranh của Lê Chiều Giang)

 

 

Đỗ Nghê

Không biết nên gọi Không đứng mãi trong tranh của Lê Chiều Giang là gì cho đúng? Tùy bút? Không phải. Tản mạn? Không phải. Viết ngắn? Không phải. Thơ… Ừ, thơ. Đúng là thơ rồi. Nó cuốn hút. Nó xao xuyến. Nó ray rứt. Nhưng, thực ra thì nó có hơi hướm của một hồi ký hơn với rất nhiều những năm, những tháng, những ngày… cùng với những yêu thương, khóc giấu, khổ đau… Nhưng hình như vẫn không phải là hồi ký, tuy dàn trải cả một đời người, một kiếp người. Tôi biết mình vẫn cứ lẽo đẽo tìm theo những rêu phong của ngày tháng cũ (64). Nó trộn lẫn thơ với nhạc với họa, âm thanh và màu sắc, tưởng tượng và sự kiện. Nó tuôn chảy như một dòng sông, “yên ba giang thượng” mỗi khi chiều xuống…

 

Ta có thể hỏi tò mò: Khi muốn Không đứng mãi trong tranh thì người ta làm cách nào? Mà thiệt ra có mấy cách đâu! Những bức tranh đời đó. Một bức bị xé toang với những lời chát đắng. Một bức bị giấu nhẹm với nước mắt và giận hờn. Một bức với những sắc màu sặc sỡ như để bù đắp mà không kịp hoàn tất, để rồi vùi theo với nhan sắc trăm năm.

 

Không đứng mãi trong tranh là lúc muốn xổ lồng bay xa. Thiệt không dễ! Bởi muốn bay mà vẫn còn ngập ngừng e sợ. Cái gì làm cho ngập ngừng, e sợ, nấn ná?

Và tôi cứ lẳng lơ, tôi rất lẳng lơ viết những chữ mông lung, vật vờ như gió… sáng trưa chiều tối với hằng tỷ bức email như vậy.

Vẫn có một bờ vực còn đó. Một giới tuyến không thể vượt qua.

Tôi biết mình không được bước xa hơn, dù chỉ là một inch nhỏ. Chúng tôi  dừng lại, đứng ngay ngắn ngay lằn ranh khắt khe nhất của định mệnh. Với tới nhau qua khoảng không gian xa vời ngàn dặm, mù tăm (156).

 

Nhưng tuổi vẫn chẳng tha người. Đó là khi người ta “Kên” với tuổi đời. Khi chợt nghĩ tới số 60, tôi nhắm mắt uống thêm ba hớp café một lúc…  Nếu café mà làm tan biến mất được cái số đáng sợ này, chiều nay tôi tình nguyện uống thêm vài ngàn ly nữa… 

Phản ứng với số 60 dễ ghét, tôi tiếp tục mặc jeans bó sát, áo trễ xuống thêm chút nữa và luôn đi giày cao gót… khua vang, vọng theo mỗi bước chân. Tôi cố gắng hết sức để nhìn như 50 hay trẻ hơn thế… (145).

Để rồi chợt nhận ra “thế gian hằng như mộng”:

Thiên hạ hay bàn về những điều bất biến, những bền bỉ trăm năm… tôi tính theo phút theo giây.

Những bóng những bọt của đời người (148).

 

Giật mình,

Ta

Chắc phải… yêu thôi.

(Liều mạng, 151).

 

Khi yêu thương và được yêu thương, tháng ngày như ngắn lại, tôi sợ đời sẽ hết, tôi sợ ngày sắp hết… Và chúng tôi hấp tấp vội vàng. Vội vàng nhưng… “tinh khiết”.

Một thứ “tình yêu hàm thụ”. 

Tôi về lại vị trí mình đang đứng, ngó mông ra cuối chân trời, thấy có những óng ánh của hai chữ “Đạo đức”. Với tôi, nó không chỉ phù phiếm mà rất nhiều khi mang ý nghĩa của những người Dại dột, không biết sống và chẳng bao giờ dám sống. (159). 

Thấy không, xổ lồng bay xa đâu có dễ.

 

Đứng mãi trong tranh

Đóng vai:

Góa phụ

Sáng nay ta

Ra với mặt trời

Như kẻ xa xôi về lại trái đất…

 

Rồi nhìn quanh quất, vội vã lại bước vào trong tranh:

 

… Diễn tiếp

Hỡi thế gian

Ta

Bỏ cuộc chơi.

(Đầu hàng,103).

 

Duyên chăng? Nghiệp chăng? Từ những ngày còn thơ đọc mà chẳng cần hiểu với Krishnamurti, Tagore, Khalil Gibran, Hermann Hesse… Những ngày lang thang phòng tranh, Pagode, Givral… Những ngày trốn học, cà phê góc phố, bỏ Lễ nhà thờ, canh giờ về muộn…

Những ngọn lửa nhỏ cứ ngún dần như thể đợi một cơn gió. Và gió đã bùng lên.

Bước vào trong tranh, có lúc như ngựa chứng, tóc bờm tung bay như phi nước đại, cổ vươn cao ngoằng hí vang, cho nên không ngạc nhiên khi tranh thiếu nữ của NĐ luôn kề bên một bóng ngựa phi đường xa dưới bóng trăng huyền hoặc lẫn bóng tối u mê giữa ngàn lá biếc.

Sự cách điệu không hài hòa làm cho gương mặt có sắc sáng như trăng, lại thêm chút bóng tối của u mê (11).

 

Lê Chiều Giang viết Không đứng mãi trong tranh có khi như thơ, có khi như nhạc, như họa. Giọng điệu đôi khi ngổ ngáo, khinh bạc, nhưng ẩn chứa bên trong là rụt rè, bẽn lẽn, đắn đo…

Cái đó làm cho Không đứng mãi trong tranh đáng đọc, để thấy thương hơn một nhan sắc, một tính cách, một số phận như dòng sông những buổi chiều về…

Chiều buông

Trên dòng sông cuốn mau…

……………………. 

Về đâu?

Bọt bèo tuôn khắp nơi…

 

Để rồi, nhận ra cõi vô lượng tâm:

“Bể sầu không nhiều, nhưng cũng đủ yêu…” 

(Chiều về trên sông, Phạm Duy)

 

(Đỗ Nghê. Saigon,12.2021)

 

 

 

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

“Đêm thơm như một dòng sữa…”

25/11/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

 

“Đêm thơm như một dòng sữa…”

(ĐÊM, thi tập Khánh Minh, tháng 11, 2021)

 

Đỗ Hồng Ngọc

Bỗng dưng nhớ Đêm thơm như một dòng sữa của Phạm Duy (Dạ lai hương) khi nhận được Thi tập ĐÊM của Nguyễn Thị Khánh Minh.

Hiu hiu hương tự ngàn xa
Bỗng quay về dạt dào trên hè ngoài trời khuya…

 

Đêm đâu là chốn quê nhà

Trăng ngõ nhà ta xưa

Gần hơn trăng nơi này

Mộng hơn trăng nơi này

Nên trăng vàng khắp ngõ

Hỏi trăng gần, trăng xa

Đâu là chốn quê nhà…

 

Tìm trong đêm, mây trắng

 Hỏi xem nhà ta đâu

Đêm cúi nhìn im lặng 

 

Đêm guốc mùa đi tất tả

Năm tháng năm buồn thủ thỉ

Hằn vai quang gánh nỗi niềm

Tiếng guốc vẹt mòn kiệt phố

Lắng vào đêm tiếng chân quen

Năm tháng năm buồn lựng chín

Lời ru hồn phố chắt chiu

Tiếng guốc mùa đi tất tả

Hội An thức ngủ về theo

… lục tàu xá… lục tàu xá…

 

Bỗng nhớ “Hội An đêm” của Đỗ Nghê:

Hội An đêm

Bập bềnh cơn sóng dợn

Nghìn lồng mắt chao nghiêng

Những linh hồn thức dậy

Thở cùng Hội An đêm 

(ĐN)

 

Đêm hai nửa điệu cong

Trăng trên kia

Một đường cong sáng

Nếu xóa đi không gian

Sẽ có được một vòng tròn đâu lại

Tôi và trăng

Hai nửa điệu cong

Mềm mại.

 

Thân đêm nồng nắng ủ

Mật ngọt. Lừ chiêm bao

Một giây bừng vĩnh cửu

Thầm thì, tan trong nhau…

Gợn lên từ hơi ấm

Tận cùng. Dâng hiến đất

Cúi xuống. Bao la trời

Trao nhau. Đêm diệu mật..

 

Chàng mở mắt

Và trái đất có bình minh

Nàng hỏi bằng ánh mắt thơ ngây nhất

Và đêm có đêm rằm 

Trong phút giây hạnh phúc 

Nàng nhắm mắt

Và. Đêm. Trăng mật

 

Đêm tiếng bước thời gian

Đêm qua anh cùng em

Dặm đường nghe gió biếc

Đêm nay em nhìn lên

Thấy một vầng trăng khuyết

 

Nhớ chuyện kể hình như của Tagore: người chồng có chuyến buôn xa, từ biệt vợ, nàng âu yếm đôi lần bảy lượt dặn đừng quên lúc về mua cho nàng một tấm gương tròn sáng như vầng trăng vành vạnh kia. Ngày về, chàng nhìn lên trăng, thấy một vầng trăng lưỡi liềm cong vút, vội vã mua một chiếc lược ngà…

Lại nhớ Trịnh: “Em đi qua chuyến đò, ối a con trăng còn trẻ/ Con sông đâu có ngờ, ngày kia trăng sẽ già” (Biết đâu nguồn cội).

Một nhà thơ nữ lẽ nào “đâu có ngờ” như con sông kia nhỉ?

 

Đêm rộn lòng dâu bể

Không rộn lòng dâu bể

Tỉnh thủy vô ba đào

Nếu mà không hạt lệ

Thử tâm chung bất dao…*

Nếu mà không trăng sáng

Làm sao nối xưa sau…

Cho nên Đêm Nguyễn Thị Khánh Minh đầy “rộn lòng dâu bể”, đầy hạt lệ yêu thương, cha mẹ, vợ chồng, bè bạn… quê hương xứ sở, dịch bệnh, phân ly, kỳ thị, ngăn cách, xót xa, giấc mơ em nhỏ châu Phi, giấc mơ em nhỏ Việt…

Ở Khánh Minh, thơ không chỉ là thơ mà còn là tiếng nói, còn là hạt lệ… còn là vòng tay, còn là hơi ấm từ trái tim biết đau xót nỗi đau chung:

Người đem theo nụ cười

Đi vào những biên giới

Những biên giới đôi co

Những biên giới gào thét

Bỗng nhận ra mình

Những phân chia hổ thẹn

 

Để rồi:

Nhìn trời. Thấy cái đồng không

Hét to. Lại thấy nỗi mông quạnh ngày

Sao tự nhiên đứng ở đây?

Một nơi rất lạ, cõi không nụ cười

Ngây ngô họ xúm gần tôi

Chỉ trỏ vào nụ tôi cười, ngạc nhiên

Quệt vào tôi những ánh nhìn

Hỏi tôi hạt nước mắt tìm ở đâu

Thưa, tôi nhặt ở tim đau..

 

Rồi quay về chính mình:

Soi gương thảng thốt mặt mày

Mở hai con mắt không đầy được tôi

Thốt lên ngọng nghịu những lời

Bóng trong gương hỏi, tiếng người đó chăng?

 

Đêm trái tim diệu mật

Nghe gió thỉnh hồi chuông

Từ trái tim diệu mật

Chắt chiu tâm Phật

Chuông giờ lành

Trái đất đầu thai

 

Trong thơ Khánh Minh, ngọn cỏ với Ta là một, cùng uống ánh mặt trời, cùng tỏa ngát hương thơm, cùng rúng động vì tiếng chuông chùa trên núi xa kia để hòa vào  vũ trụ mênh mông không còn phân biệt bởi căn-trần-thức nữa!

 

Cỏ nhé. Ta nằm xuống

Cỏ nhé. Ta cùng uống

Vô lượng ánh mặt trời

 

Cỏ nhé. Ta đầy hương

Của nồng nàn thơm giấc

Đưa nhau đến ngọn nguồn…

 

Không thể không nhớ lữ khách nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San làm xao động giấc mơ…

Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.

[Thuyền ai đậu bến Cô Tô

Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San]

(Phong Kiều Dạ bạc, Trương Kế)

 

***

Đêm thơm không phải từ hoa

Lung linh trăng lại về nữa

Cánh gió đưa hương ngả đầu mây phất phơ…

Đêm thơm không phải từ hoa

Mà bởi vì ta thiết tha tình yêu Thái Hoà…

(Dạ lai hương, Phạm Duy)

 

Phải, “mà bởi vì ta thiết tha tình yêu Thái Hoà…” đó vậy./.

ĐHN,

Saigon 24.11.2021)

……………………………………………….

(*) Ý đạo, Nguyễn Du

 

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Đọc sách

Nguyễn Thị Khánh Minh: LAGI NGÀY CON VỀ

10/11/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

 

LAGI NGÀY CON VỀ

Thơ NGUYỄN THỊ KHÁNH MINH

(trang 48, Tập Thơ ĐÊM vừa phát hành 11.2021)

                                      Kính tặng Nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc

 

 

Có mùa xuân theo con về trước ngõ

Gọi Mẹ ơi. Hàng giấy đỏ xôn xao

Then cổng gỗ từ lâu rồi chưa mở

Trời Lagi mừng vội một câu chào

 

Có thời gian theo con về tung cửa

Hiên nhà xưa kỷ niệm mọc xanh um

Cội xoài vắng. Mầm cây khô nói mớ:

Ai về kia. Lẫn bóng mẹ mùa xuân…

 

Vâng thưa Mẹ. Con về reo tuổi nhỏ

Lòng ấu thơ khua giấc nắng chiêm bao

Hương xoài non khan giọng nhớ cồn cào

Gầy dáng Mẹ. Bên thềm hong tóc gió

 

 

Con ngồi đây. Một vuông sân lặng lẽ

Ôi nón quen. Mẹ cài đó. Thiu thiu

Nón mồ côi lâu rồi hương tóc Mẹ

Con mồ côi. Đường viễn xứ liêu xiêu

 

Nghe rất khẽ. Nghe như mơ. Tiếng chổi

Xào theo chân. Bóng mẹ mỏng như mây

Vườn thức giấc. Hồn tinh sương mẹ gọi

Chuồn chuồn bay về. Mưa trổ trên cây

 

Vâng thưa Mẹ. Bếp nhà vừa cơi lửa

Cơm chiều ngon thơm lúa vụ mùa tươi

Mai mẹ về. Về với Ngoại xa xôi

Chiếc nón lá Mẹ cứ cài trên cửa

 

Là cột mốc nhắc con. Đường xa ngái

Đất Lagi cát mặn biển theo chân

Mai con đi. Khép cổng nhẹ như thầm

Hàng giấy đỏ lại một mình. Ở lại…

1.2017

(Cảm xúc khi nhìn hình căn nhà cũ ở LaGi của Mẹ anh Đỗ Hồng

Ngọc).

 

 

Filed Under: Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Thư Cao Huy Thuần gởi Đỗ Hồng Ngọc

04/11/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Thư Cao Huy Thuần gởi Đỗ Hồng Ngọc

GS Cao Huy Thuần ký tặng sách cho độc giả.

Anh Đỗ,

Thư anh đến trong lúc tôi đang đọc quyển sách của Mark Epstein, nhan đề là “Advice not given”. Đây là quyển sách thứ ba của cùng tác giả mà tôi đọc, toàn là xếp vào hạng best-sellers ở Mỹ. Epstein là bác sĩ tâm thần nổi tiếng. Nổi tiếng vì là thầy thuốc giỏi. Và nổi tiếng là nhà Phật học uyên thâm. Có gì lạ đâu, phải không anh Đỗ? Đức Phật của chúng ta đã chẳng là thầy thuốc đó sao! Lặn lội trong chuyên môn phân tâm học với Freud, với Jung, ông chợt thấy đức Phật, ông lặn lội qua Tây Tạng “học Phật”, học cả với các danh sư ở Mỹ, và ông đem đạo Phật áp dụng vào chuyên môn của ông, rốt cuộc ông nổi tiếng cả hai, cả cách trị liệu tâm thần, cả tư tưởng Phật giáo. Ông sống với đạo Phật trong chuyên môn, ông sống với đạo Phật trong đời thường, càng sống ông càng hiểu thêm đạo Phật, ông đem hiểu biết đó vun trồng trên đất Mỹ cho hợp với thủy thổ xa lạ, và đạo Phật bây giờ sáng trên thủy thổ ấy, anh Đỗ à, tôi cho rằng đích thị hai chữ “học Phật” là như vậy.

Hay thật, anh đâu có biết ông ấy, ông ấy đâu có biết anh, vậy mà tay trong tay, anh đi cùng đường và cùng “học Phật” như thế. Lý tưởng, hành động, cuộc đời, cao đẹp thay là ông thầy thuốc tương chao!

Anh Đỗ, bây giờ tôi hỏi anh câu này nhé, vì anh với tôi đều đã đọc “Tổng Quan về Nghiệp” của Thầy Tuệ Sỹ: Anh “học Phật” trước hay học Y trước? Chắc anh sẽ trả lời: hiển nhiên là học Y. Nhưng mà, nghĩ thêm chút nữa, cái gì xúi anh học Y? Cái gì xúi anh thích Y? Cái gì xúi anh thành ông bác sĩ như thế, lúi húi hành nghề rồi lúi húi dùi mài kinh kệ? “Cái đó”, tôi chắc là anh có trước khi học Y. “Cái đó”, tôi cũng chắc là ông Epstein có trước khi thành danh với bác sĩ tâm thần. “Cái đó”, chính là cái xúi anh đến với Phật mà anh không biết đó thôi, anh đến với Phật trước khi học Y. Anh “học Phật” từ lâu rồi, từ kiếp nảo kiếp nao, để bây giờ thành danh với… Đỗ Hồng Ngọc. Cho nên tôi nói: “Tiên học Phật, hậu học…”. Hậu học cái gì cũng được, cái gì cũng thành danh, ít nhất là thành danh con người.

Nhưng tôi chưa nói hết: anh đâu phải chỉ là ông thầy thuốc, cái danh của Đỗ Hồng Ngọc còn là con người thơ. Cũng vậy, tôi cũng lấy từ “Tổng Quan…” mà ra: thơ đến với anh từ trước khi anh làm thơ. Thơ là tiếng nói trong tận cùng thâm cung bí sử của tư tưởng. Cái gì mà tư tưởng không nói nên lời được thì phải diễn tả bằng thơ. Thơ đời Lý đời Trần là như vậy. Và thơ đó, chắc anh đã đọc không phải chỉ ở trong kiếp này. Cho nên bây giờ hồn anh nhập vào thơ của Thầy Tuệ Sỹ. Cho nên bây giờ anh thấy Phật trong thơ. Cho nên bây giờ một tay anh bốc thuốc, một tay anh viết thơ, thuốc thơm mùi thơ, thơ thơm mùi thuốc.

Còn có chuyện này nữa, hơi khó nói. Tôi thấy thấp thoáng có một người thứ ba nữa nấp sau hai con người kia. Thấp thoáng thôi, đây đó, kín đáo, chỉ nghe tiếng cười cười, tinh tế lắm mới nghe. Chẳng hạn khi anh nói chuyện ngồi thiền. Tất cả đều nghiêm trang, tôi chỉ trích mấy câu cuối:

Hơi thở xẹp xì

                             Thân tâm an tịnh

                             Không còn ý tưởng

                             Chẳng có thời gian

                             Hạt bụi lang thang

                             Dính vào hơi thở

                             Duyên sinh vô ngã

                             Ngủ uẩn giai không

                             Từ đó thong dong

                             Thõng tay vào chợ.

Rất nghiêm chỉnh, kể cả lúc anh vô chợ mà chẳng để mua gì, vì hai tay thõng thế kia thì làm thế nào móc túi lấy tiền? Thế rồi anh cắt nghĩa: “Mặt hồ tĩnh lặng thì không cần ghi bóng con hạc bay qua, không cần biết hạc vàng hay hạc đỏ, hạc trống hay hạc mái…” Ối giời, hạc vàng thì chỉ bay trên lầu Hoàng Hạc trong thơ Đường, đâu có bay trên mặt hồ Sài Gòn hay Phan Thiết? Bạn tôi nhầm với con vạc “như cánh vạc bay” rồi chăng? Không phải đâu. Nhà thơ nghĩ ra hai chữ “trống mái” rồi nhà thơ khoái chí vừa hạ bút vừa cười cười, hạc hay vạc thì có gì đáng quan tâm?. Ấy là bụng để ngoài da, con người thứ ba “anh linh phát tiết ra ngoài” đấy nhé. Có ai đa tài mà chẳng đa… tình?

Tôi “học Phật”, ngồi thiền với anh, thỉnh thoảng thấy tâm có hơi lộn xộn như thế, chắc anh cũng cười cười mà thông cảm nhau. Nhưng, nói nghiêm chỉnh nhé, con người thứ ba là cái duyên của anh. Chữ nghĩa mà không có duyên thì buồn lắm. Cho nên thỉnh thoảng anh cứ cho anh chàng thứ ba ấy cười cười một chút như thế, và mọi người sẽ cùng vui mà “học Phật” với anh.

Thân mến,

Cao Huy Thuần

(Oct 29, 2021)

Filed Under: Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

NT Khánh Minh “đọc” Đỗ Hồng Ngọc (Đỗ Nghê): “Còn Chút Để Dành”

19/10/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

 

Giới Thiệu “Còn Chút Để Dành” –

Nguyễn Thị Khánh Minh đọc Đỗ Hồng Ngọc (Đỗ Nghê)

Nguyệt Mai hân hạnh giới thiệu:

CÒN CHÚT ĐỂ DÀNH
Nguyễn Thị Khánh Minh đọc Đỗ Hồng Ngọc (Đỗ Nghê)
Tháng 8/2021

Bìa trước “Còn Chút Để Dành”

gồm 7 bài viết đặc sắc của nữ sĩ Nguyễn thị Khánh Minh:
1. Reo Tuổi
2. Con đường dài qua những bài thơ ngắn của Đỗ Nghê
3. Ngoại chờ bên kia sông
4. Lagi, ngày con về
5. Đỗ Hồng Ngọc, lang thang nghìn dặm trái tim
6. Cùng sông
7. Còn chút để dành

Mình vừa thực hiện một tập sách mỏng, kỷ niệm tuổi 81 này, với những bài viết rất hay của nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh về Đỗ Hồng Ngọc (Đỗ Nghê). Có thể nói Khánh Minh “Đọc” Đỗ Hồng Ngọc với một cảm xúc thi ca hiếm có, “Nhìn ra” một Đỗ Nghê (ĐHN) còn hơn ĐHN thấy biết về chính mình.

– Đỗ Hồng Ngọc

oOo

Quý bạn có thể xem sách ở đây.
Tập CÒN CHÚT ĐỂ DÀNH (Đỗ Hồng Ngọc) (1)

oOo

Sau đây là một số chia sẻ của bạn văn.

Một cuốn sách làm quà tặng vô cùng dễ thương.
Càng đọc càng thấy nữ sĩ Khánh Minh là một tri âm tri kỷ – rất quý của Đỗ Hồng Ngọc (Đỗ Nghê). Đã hiểu anh một cách rất sâu sắc. Hình như chưa có người nào đọc ĐHN mà thấu đáo tận cùng như vậy.
Rất tuyệt vời.

– Nguyệt Mai

oOo

Hải không viết được về cuốn Còn Chút Để Dành của NT Khánh Minh. Tự cuốn sách đã hay rồi. Bây giờ bình luận thì không làm cho hay thêm.
Cũng giống như khi ngồi nghe một ca khúc của Phạm Duy. Thì Khánh Minh là một Phạm Duy của ngôn ngữ. Có viết thêm, cũng không làm ca khúc hay hơn.
Hãy cứ để như thế đi. Khi nghe nhạc hay, mà làm thêm tiếng động sẽ làm hỏng giây phút đó.

…………………………………………..

Trong thế giới thơ Nguyễn Thị Khánh Minh, chúng ta còn nhìn thấy những bài thơ viết về cha, về mẹ, hay về những người bạn thân như nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc, nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ … Một thế giới được tái hiện bằng chữ. Nơi đó, Đỗ Hồng Ngọc quyện vào một màn sương của hồn dân tộc. Tôi xin thú thật, tôi không biết hồn dân tộc cụ thể là gì, vì chữ này trừu tượng quá, mơ hồ quá.
Nhưng tôi đã mơ hồ nhận ra trong bài Lagi Ngày Con Về, khi Nguyễn Thị Khánh Minh viết tặng nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc năm 2017, nơi đó họ Đỗ về thăm căn nhà của Mẹ ở Lagi, trích:

Bìa sau “Còn Chút Để Dành”

 

Nghe rất khẽ. Nghe như mơ. Tiếng chổi
Xào theo chân. Bóng mẹ mỏng như mây
Vườn thức giấc. Hồn tinh sương mẹ gọi
Con bướm bay về. Lá trổ trên cây

Vâng thưa Mẹ. Bếp nhà vừa cơi lửa
Cơm chiều ngon thơm lúa vụ mùa tươi
Mai mẹ về. Về với Ngoại xa xôi
Chiếc nón lá Mẹ cứ cài trên cửa

Có phải hồn dân tộc là cái gì có thể nghe được, như tiếng chổi của ký ức nơi hiên nhà của mẹ, hay có thể ngửi được như cơm mùa lúa mới, hay có thể thấy được như chiếc nón lá Mẹ cài trên cửa? Đây là thế giới như mơ, như thực đã hiện ra trên những dòng thơ của Nguyễn Thị Khánh Minh.

– Phan Tấn Hải

oOo

NƯỚC – YouTube

Nước (Kể chuyện trăng tàn)
Thơ Đỗ Hồng Ngọc,
Nhạc Khúc Dương (Đặng Ngọc Phú Hòa)
Hát bởi Camille Huyền

oOo

Tuyển tập thu góp những bài viết đẹp đẽ đầy tình người của NT Khánh Minh về Đỗ Hồng Ngọc (Đỗ Nghê) một lần nữa cho thấy có lẽ anh là người hạnh phúc và giàu có nhất trên đời.
Xin được chung vui cùng anh. Và xin chúc anh an lạc trong lòng thương yêu, quý mến của mọi người.
Thân mến,

– Tô Thẩm Huy

oOo

Hạnh phúc của người viết là nhận được sự đồng điệu nơi người đọc. Em nghĩ người viết Đỗ Hồng Ngọc hạnh phúc muôn phần khi nghe được khúc hòa âm từ tác giả Nguyễn Thị Khánh Minh.
Hơn tuần nay, em may mắn được đọc “REO TUỔI”, ngưỡng mộ vô cùng ngòi bút sắc sảo, uyên thâm mà dạt dào khôn tả; lại xuýt xoa với câu từ của chị Khánh Minh,thú vị và đẹp đẽ!
Đúng lúc hoang mang vì tuổi tác chất chồng, em cảm thấy an lòng đón thêm tuổi mới khi được đọc những dòng này!
Cảm ơn thật lâu với “Còn chút để dành”!

– Lê Uyển Văn

oOo

BÔNG HỒNG CHO MẸ – Nhạc Võ Tá Hân – Thơ Đỗ Hồng Ngọc – Ca sĩ Thu Vàng – YouTube

Bông Hồng Cho Mẹ
Thơ Đỗ Hồng Ngọc
Nhạc Võ Tá Hân
Hát bởi Thu Vàng

oOo

Em chào anh,
Được mail anh mừng lắm. Vì anh vẫn khỏe, vẫn an lạc cùng chữ nghĩa văn chương.
Tuyệt quá, chúc mừng anh.
Anh thật hạnh phúc có người đọc tuyệt vời như Khánh MInh.
Cảm nhận sâu sắc, đồng điệu thật ngưỡng mộ. 7 bài là bảy cung bậc đọc ĐN-ĐHN
Em thích CON ĐƯỜNG DÀI QUA NHỮNG BÀI THƠ NGẮN…
Thăm anh chị mùa dịch bình an và chúc mừng anh niềm vui sáng tạọ tái sinh sáng tạo…
Em gửi lời thăm chị Khánh Minh nghen.
Quý mến,
Hoàng Kim Oanh

oOo

Anh Ngọc và KM ơi,
Chúc mừng anh Ngọc vừa tặng KM một tác phẩm quá mỏng mảnh, quá thi vị, quá dễ thương… “Các em” đã vất vả nằm thin thít trong thùng tối để vượt đường xa về với chị KM, các em đã “ lội ngược dòng” từ đông sang tây để đến với “các bạn trẻ” của anh Ngọc, và bạn trẻ đầu tiên đã được cầm nó trên tay háo hức đọc lại từng chữ của người thân yêu hàng ngày chia buồn sẻ vui mà tưởng tượng đến một người thân yêu khác đã tìm tòi, lục lọi, đã tỉ mẩn sắp xếp lại từng trang sách, từng bản nhạc… để hoàn thành một kỷ vật thật đáng quý.
Vui quá, vui quá nè anh Ngọc, KM ơi. “Các bạn trẻ” của anh Ngọc chuẩn bị ăn mừng nhe.

Thu Vàng

oOo

Ca khúc Sông ơi cứ chảy – YouTube

Sông Ơi Cứ Chảy…
Thơ Đỗ Hồng Ngọc
Nhạc Nguyễn Đức Vinh
Hát bởi Thu Vàng

oOo

Đọc tập “Còn Chút Để Dành” của Nguyễn Thị Khánh Minh viết về nhà thơ Đỗ Nghê – Đỗ Hồng Ngọc không thể không liên tưởng đến Bá Nha – Tử Kỳ, mối tri kỷ chỉ hiện hữu ở tình bạn tuy giữa hai người mà đã là như một. Tưởng là chuyện chỉ xảy ra thời Xuân Thu Chiến Quốc, ngờ đâu truyền kỳ ấy lặp lại giữa thời đại chúng ta. Thật là một tương lân thân tình hiếm có!
Với một bút pháp sâu sắc, diễm lệ, Khánh Minh bắt đúng mạch và dẫn người đọc đến một thế giới thơ mộng Đỗ Nghê chan hòa giữa đạo và đời, nói đúng ra một nếp sống an lạc trong lục hòa. Từ đó ta bắt gặp một Bồ tát không tuổi bởi “Anh không có ngày sinh nhật/ Nên mỗi ngày/ Là sinh nhật của anh.”  Anh sống trong hiện thị đương là, từng giây phút ngập tràn luân sinh chất ngất, vô thủy vô chung nên vô sinh, không sinh ra nên không chết đi cho lý nhân quả dừng lại. Không những thế ta còn khám phá ra những dòng thơ ngắn, cô đọng, đời thường của Đỗ Nghê vậy mà “vỡ òa ngực biếc” bởi những gì là thân yêu nhất không thể thay thế: tình quê, tình Mẹ. Và rất nhiều nữa.
Cám ơn nhà văn Khánh Minh, không có những tản văn cô đọng và đúc kết như thế của cô, có lẽ chúng ta sẽ không thấy hết, thấy đầy đủ một viên ngọc quý: Đỗ Hồng Ngọc.

– Vũ Hoàng Thư

oOo

Cảm ơn anh Đỗ Hồng Ngọc và Khánh Minh đã tặng tập sách quý “Còn Chút Để Dành”. Cuốn sách tuy mỏng mà nặng… Bìa đẹp với mùa thu thơ mộng và lãng mạn, rất thích hợp với văn phong NTKM. Đọc sách điều TL cảm nhận được là một mối hòa điệu tri kỷ của người đọc và người được đọc. Thật không gì hạnh phúc hơn khi viết mà nhận được những đáp ứng sâu sắc ân tình như bảy bài viết của Khánh Minh. Tự nhiên TL nhớ mấy chữ Hiểu và Thương của thiền sư Nhất Hạnh, Khánh Minh viết cảm nhận về văn Đỗ Hồng Ngọc như thế, không chỉ là HIỂU mà còn THƯƠNG.

– Nguyễn Thị Thanh Lương

oOo

kẹp sách cho “Còn Chút để dành”, gửi nhà văn, thi sĩ Đỗ Hồng Ngọc.
duyên

………………………………………………..

Nguồn: https://tranthinguyetmai.wordpress.com/2021/10/19/gioi-thieu-con-chut-de-danh-nguyen-thi-khanh-minh-doc-do-hong-ngoc-do-nghe/

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Tập Thơ “Đêm” Của Nguyễn Thị Khánh Minh

18/10/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

 

Tập Thơ “Đêm” Của Nguyễn Thị Khánh Minh

ĐÊM

tập thơ NGUYỄN THỊ KHÁNH MINH
VĂN HỌC PRESS xuất bản, 2021

DML_Cover_PreOrder.jpg

Tựa: Tô Thẩm Huy
Tranh bìa: Phạm Cung
Ký họa chân dung Nguyễn Thị Khánh Minh:
Đinh Cường – Trương Thìn – Lê Thánh Thư –
Bảo Huân – Trương Đình Uyên – Phan Tấn Hải

 

Viết về Nguyễn Thị Khánh Minh:
Phan Tấn Hải – Nguyễn Xuân Thiệp – Trần Thị Nguyệt Mai –
Lê Lạc Giao – Hoàng Xuân Sơn – Hồ Đình Nghiêm – Trịnh Y Thư –
Lê Giang Trần – Tô Đăng Khoa – Nguyễn Lương Vỵ

@@@

Lời của Thơ

Tựa: Tô Thẩm Huy
–––––––––––––––––––––
Nguyễn thị Khánh Minh và thi tập
Đêm
Bóng Sáng – Bóng Tối

Night, the shadow of light,
and life, the shadow of death.
A.C. Swinburne

– Sao gọi là lời?
– Thưa: logos
– Là?
– Là ẩn ngữ ân điển từ cõi trời Hy La uyên nguyên vọng về.
– Vọng về điều gì?
– Thưa: Có một lỗ thủng màu trắng trên nền trời đen tối.

Trăng buồn
Lỗ thủng trắng
Trời đêm

– Thật vậy sao? Làm sao nghe ra tiếng vọng ấy?
– Thưa ấy là từ thuở con người vẫn hiểu tiếng nói của chim muông, cây cỏ, biết nghe tiếng đêm, biết tan vào bóng tối mà ẵm bóng sáng vào lòng.

Dằng dặc đêm. Trăng hoài không rơi
Vắng trong tôi. Tôi hoài không lời
Chịu không nổi. Một cành cây đập gió

Nghe thấy không? Trong đêm dằng dặc, một cành cây đang đập gió. Mà trăng hoài vẫn cứ không rơi. Làm sao chịu nổi! Cây ơi, ngừng lại, đừng đập gió nữa.

Tôi không nói
Chỉ có hàng cây gió thổi
Và bóng. Tối

Tôi không ngủ
Chỉ có đêm đang trôi
Có lẽ sẽ một lời
Để đừng tan vào bóng tối

Thi sĩ là ai trong đêm đang trôi? Thưa là bức tường xôn xao ở lại cùng bóng sáng sau khi cửa sổ đã bay đi:

Bóng trôi ra ngoài cửa sổ
Như với theo
Cái gì đó vụt bay
Gió bay đi
Đêm bay đi
Giấc mơ bay đi
Chiếc cửa sổ bay đi
Nỗi chờ đợi cũng bay đi

Và:

Rưng trên tay
Bóng sáng
Người để lại

Thi tập “Đêm” gom lại những bài thơ tác giả viết đây đó những 20 năm thao thức, sắp xếp theo những chủ đề xoay quanh hai dòng ý tưởng: Bóng Sáng và Bóng Tối.

Sao gọi là bóng sáng? Đã bóng sao lại sáng?

Thưa nếu không thế thì làm sao có thể làm đầy những lỗ hổng của giấc mơ:

Bầu trời sâu
Kéo đêm lên là những chấm sao
Bóng tối sâu
Đang vực tôi lên là đường tròn
Một đường tròn
Chở bóng sáng trong
Một đường tròn
Đang dịu dàng tròn mãi
Dựa vào nó
Tôi đi trên con đường khúc khuỷu của mộng
Dựa vào nó
Tôi làm đầy những lỗ hổng của giấc mơ trong cuộc sống.

Sao là những lỗ hổng của giấc mơ? Từ nay liệu chúng ta có thể yên tâm để mơ về những giấc mộng không còn lỗ hổng chăng?

Thế bóng tối là sao? Đã bóng thì hẳn phải tối chứ?

Thưa chuyện ấy cũng còn tùy. Phải bật lên đã, thì đêm mới tối:

Bật đêm lên
Một điểm bất ngờ
Vành trăng úp mặt hổ ngươi

Rồi phải với lấy vầng trăng đang trôi nổi trong đêm:

Sợ xa thêm ánh sáng vì sao
Sợ chìm xuống trong khuya sâu
Tôi với lên một vừng trăng đang nổi

Sau đó phải đi vời áng mây trắng:

Tìm trong đêm, mây trắng
Hỏi xem nhà ta đâu
Đêm cúi nhìn im lặng
Cả ba buồn như nhau

Đã có ai trò chuyện với mây, lặng lẽ nhìn đêm, mà ngậm ngùi thương nhớ người thân?

Nếu cho ba điều ước
Tôi xin đừng nhìn ngược
Tôi xin đừng nghe xuôi
Và ước mơ lúc nào cũng chờ tôi phía trước

Ước chi ai ai lúc nào cũng nhớ ba điều ước ấy.

Khi tôi nắm vào trong tay
Ít nắng
Thì cùng lúc tôi nắm vào chút nhỏ nhoi của bóng tối

Khi tôi ôm vào lòng
Ít gió
Cũng là lúc tôi đầy trống không, im lặng

Khi tôi bắt đầu một giấc mơ
Cũng là lúc tôi đã chìm sâu
Giấc ngủ
Và để biết có giữ được gì không
Tôi bắt đầu hy vọng

Và từ niềm hy vọng ấy:

Tôi nhóm lên một ngọn lửa
Gió thổi tắt đi

Tôi nhóm lên một ngọn lửa nữa
Gió lại thổi tắt đi

Khi tôi không còn hy vọng
Thì gió
Lại làm những que tàn kia bắt lửa…

Và niềm hy vọng từ đấy sẽ mãi mãi phục sinh trên thân phận chúng ta:

Tôi hút vào bóng tối
Đôi mắt mù không hay
Ánh sáng trong tôi nói
Cái sáng từ tôi đây

Hãy dùng nó làm khiên
Hãy dùng nó làm đèn
Hãy dùng nó để tỏ
Với lòng ngươi đêm đen

– Sao gọi là Minh?
– Thưa Minh có thể là nhật giao thoa với nguyệt mà chan hòa ánh sáng:

Mặt trời
Trong phút giây thức dậy đẹp đẽ nhất
Chàng mở mắt
Và trái đất có bình minh

Trăng
Nơi cao lồng lộng
Nàng hỏi bằng ánh mắt thơ ngây nhất
Và đêm có đêm rằm

Từ đó, khi nghe gọi tên:

Ánh sáng chọn
Ngày
Để tan ra

Ánh sáng chọn
Đêm
Để lấp lánh

Tôi chọn ánh sáng
Để tự vệ với bóng tối
Nơi mình

Đó cũng là tên
Khi người ấy gọi tôi
Âu yếm

(Gọi Tên)

Mà Minh cũng có thể là tiếng hót đến từ chiếc lưỡi của cánh chim đang chao lượn trong gió mà nếu không có vầng trăng trầm mình dưới mặt giếng tĩnh lặng thì làm sao nó có thể hân hoan xao xuyến với về tấm lòng trong thanh tơ trắng của Tố Như Tử: Trạm trạm nhất phiến tâm, Minh nguyệt cổ tỉnh thủy.

Không rộn lòng dâu bể
Tỉnh thủy vô ba đào
Nếu mà không hạt lệ
Thử tâm chung bất dao…

Nếu mà không trăng sáng
Làm sao nối xưa sau…

Và nếu không có bóng trăng lặng trên mặt giếng thì làm sao đêm có thể mọc lên từ bức tranh?

Đêm mọc lên từ bức tranh
Ứ đầy tĩnh lặng…

…Trên con đường ánh mắt đang đi
Đêm thiếu nữ. Òa vỡ…

Từ đấy, logos trong “Đêm” trở thành bức tranh chan hòa mầu sắc của lời thơ Khánh Minh:

Nếu bảo tôi vẽ bóng tối. Tôi sẽ vẽ
Những đôi cánh của chiêm bao mọc ra từ trái tim trong suốt. Vầng trăng trên gối ngủ bài thơ. Ngọn đèn cô đơn bên trang bản thảo.

Tôi sẽ vẽ cả tôi đang vượt qua đêm dài. Tôi sẽ vẽ làm sao để người xem tranh thấy được. Bóng tối chỉ là ảo ảnh…

Phải chăng vì đời sống chỉ là bóng hình của cái chết?

Và hỡi những họa sĩ thân yêu trên trần gian này, tôi xin được làm cậu Hoàng Tử Bé của St Exupery, yêu cầu quý vị vui lòng vẽ hộ tôi – không phải con cừu đang gặm cỏ trên tinh cầu xa xôi – mà làm ơn vẽ hộ tôi bức tranh của bóng khuya – không phải là bóng khuya lúc đang ngồi tỉ tê cạnh bóng đêm, mà là lúc đang lững thững đi dạo dưới trăng – để tôi có dịp được ngắm bức tranh vẽ lúc “bóng về” của họa sĩ Khánh Minh:

Ai vẽ được bóng khuya đi
Cho tôi đọ với bóng về. Của tôi

Lời của thơ trong “Đêm” là tiếng nói của con người nguyên sơ mà chúng ta đã lâu ít còn được nghe thấy ai nói, đến gần như đã quên mất. Xin mời nghe lại mấy lời:

Gió vườn nhà êm ả
Ai nói gì qua lá
Mà khuya đầy trăng thơm

Đêm ngó trời. Cao quá
Hỏi trăng gần, trăng xa
Đâu là chốn quê nhà…

Sáu câu thơ tuyền những lời giản dị mà vang vọng một trời âm nhạc, êm đềm mà man mác thớ vị chua xót, ngân nga trong đêm u hoài tiếng ai thầm thì qua lá. Và chao ôi, sao hai chữ “cao quá” trong lời thơ ấy nghe thất thanh, lặng ngắt một nỗi sợ hãi bâng quơ, đơn côi, nhỏ bé!

Thế giới của “Đêm” trong thơ Khánh Minh trừu tượng những hình ảnh tươi mát ban đầu, chan chứa những ý tưởng tinh khôi, ẩn hiện những tâm tình thanh cao, diệu vợi. Thế giới ấy trước khi bước vào thật nên làm theo lời khuyên của Tagore mà tắm gội, tẩm mình bằng hương trầm, để đón vọng:

Một mảnh trăng vắt cong ngoài cửa sổ
Yên bình đến nỗi
Để thưởng thức nó
Tôi có cảm giác như mình đang phạm lỗi…

Tôi cũng thế. Tôi cũng nhiều khi có cảm giác như mình đang phạm lỗi – những lúc đọc thơ Nguyễn Thị Khánh Minh.

Bốn câu thơ trên là những lời sau cuối của “Đêm”. Những câu thơ “sau dấm chấm hết”. Vậy nên tôi xin được có thêm lời ước thứ tư: Rằng chúng ta sẽ còn được thêm nữa nhiều đêm hạnh phúc nghe lời Khánh Minh trò chuyện.

Thật may mắn những ai thường được gặp gỡ, gần kề với cái thế giới tinh khôi ấy.

– Tô Thẩm Huy
Houston, Tiết Đại Thử, tháng 7, 2021

Ký họa chân dung Nguyễn Thị Khánh Minh. – Đinh Cường

………………………………………………….

Nguồn: tranthinguyetmai.wodpress

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Đọc sách

Thơ Trần Vấn Lệ

17/10/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Ghi chú:

TVL ơi, bài thơ hay rồi, dịch ra tiếng Pháp làm chi cho nó thành dở?

Thân mến,

ĐHN

 

Bạn Dịch Bài Thơ Này Ra Tiếng Pháp Được Không

Những con quạ.  Buổi sáng.  Không thấy ghé thăm mình!  Mình như kẻ thất tình, nhớ những con quạ quá!
Các em đâu hết cả?  Trời sáng nay không mưa, các em đang trên bờ con sông Los Angeles?
Các em có vui thiệt hay là vui giả đò?  Các em có thấy thơ của tôi xuôi dòng nước?
Các em là Ô Thước hay là Chim Họa Mi?  Các em bỏ đồng quê, các em chơi thành phố?
Nhớ ơi các em nhỏ, các em học trò xưa…Bao nhiêu năm tháng mờ trong lòng tôi nước mắt…
Quê Hương là Tổ Quốc, nhớ quá tôi chưa về…nhìn bà Mẹ gánh quê, nhìn ông Cha giảng đạo…
Tôi đã là con sáo xổ lồng bay qua sông…Tôi bay vào mịt mùng của cõi đời vô tận…
Tôi nhớ lắm hương phấn, phấn thông vàng Lang Bien…Tôi nhớ lắm Đa Nhim, mặt hồ sương phẳng lặng!
Ôi sáng nay buổi sáng, bầy quạ đâu không về?  Mùa Thu nắng vàng hoe hay hoa vàng vậy nhỉ?
Ông Nguyễn Khuyến thủ thỉ:  “Mấy chùm trước ngõ hoa năm ngoái, một tiếng trên không, ngỗng nước nào?”.
Mùa Thu sẽ qua mau, mùa Đông buồn sắp tới, Quê Hương ơi vời vợi…Nhớ quê, buồn với ai?
Sáng nay buổi sáng nay làm thơ muốn ai dịch từ những lời tiếng Việt ra tiếng Pháp giùm tôi…
Tôi muốn đi xa xôi nơi nào tôi chưa tới…nơi nào cũng vời vợi như buồn tôi bao la…

Trần Vấn Lệ

Filed Under: Già ơi....chào bạn, Nghĩ từ trái tim

Hãy vui với tuổi vàng của mình

01/10/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc 3 Comments

 

Nhân Ngày Quốc tế Người Cao Tuổi 1.10.2021

 

(internet)

 

 

(internet)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Ghi chú: Bác sĩ Lê Quang Khánh, người bạn cùng khóa với tôi ở Y khoa Đại học đường Saigon (1962-1969) hiện sống ở Melbourne Úc vừa gởi tôi bài viết này của một người bạn nào đó đã trích từ cuốn sách Về Thu Xếp Lại của tôi (2019), đặt cho cái tựa mới, chèn mấy bức minh họa thiệt dễ thương…

Cảm ơn LQK.

Hãy Vui Với Tuổi Vàng Vì Đó Chính Là Tuổi Tuyệt Vời Nhất !

Đỗ Hồng Ngọc
 
Tôi nay ở tuổi 80. Thực lòng… đang tiếc mãi tuổi 75! Thấy những bạn trẻ… trên dưới bảy mươi mà “gato” ! Mới vài năm thôi mà mọi thứ đảo ngược cả rồi. Bây giờ có vẻ như tôi đang lùi dần về lại tuổi ấu thơ, tuổi chập chững, tuổi nằm nôi…
 
Vòng đời rất công bằng. Chỉ còn cách tủm tỉm cười một mình mà thôi!

Cái tuổi đẹp nhất của đời người theo tôi có lẽ ở vào lứa 65-75. Đó là lứa tuổi tuyệt vời nhất, sôi nổi nhất, hào hứng nhất… Tuổi vừa đủ chín tới, có thể rửa tay gác kiếm, tuyệt tích giang hồ, “nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo” (NCT), nhưng cũng là tuổi có thể lại vướng víu, đa đoan nhiều nỗi, để một hôm ngậm ngùi ta là ai mà còn khi giấu lệ/ ta là ai mà còn trần gian thế? (TCS)

Nhớ hồi ở tuổi 55, mới hườm hườm, tôi ngẫm ngợi, ngắm nghía mình rồi lẩn thẩn viết Gió heo may đã về. Đến 60 thì viết Già ơi… chào bạn! như một reo vui, đến 75 còn… ráng viết Già sao cho sướng?… để sẻ chia cùng bè bạn đồng bệnh tương lân. Nhưng 80 thì thôi vậy.

Đã đến lúc phải “Về thu xếp lại…”, bởi “chút nắng vàng giờ đây cũng vội”… rồi đó thôi!

Chu trình “khép kín” đó bắt đầu tăng tốc ở lứa 65-75 tuổi. Tăng tốc khô héo, tăng tốc nhăn nheo. Sự tăng tốc của lứa tuổi này cũng làm ta há hốc, muốn kêu lên kinh ngạc… như ở tuổi dậy thì, tuổi mới lớn. Cái vòng đời nó diễn biến tuyệt vời đến vậy, liên tục đổi thay đến vậy thì có gì đáng phàn nàn đâu! Nhiều bạn cùng lứa than với tôi sao thế này sao thế khác, tôi thường chỉ nói “Ai biểu già chi?” rồi cười xòa với nhau mà không khỏi có chút… ngậm ngùi.
 

Anh chàng Alexis Zorba (*) nói: “Cũng phải chăm nom đến thân thể nữa chứ, hãy thương nó một chút. Cho nó ăn với. Cho nó nghỉ với. Đó là con lừa kéo xe của ta, nếu không cho nó ăn, nó nghỉ, nó sẽ bỏ rơi mình ngang xương giữa đường cho mà coi”.

Từ ngày biết thương “con lừa” của mình hơn, tử tế với nó hơn, thì có vẻ tôi… cũng khác tôi xưa. Tôi biết cho con lừa của mình ăn khi đói, không ép nó ăn lúc đang no, không cần phải cười cười nói nói trong lúc ăn. Món gì khoái khẩu thì ăn, chay mặn gì cũng tốt. Cá khô, mắm ruốc gì cũng được, miễn là đừng nhiều muối quá, đừng nhiều mỡ quá!

Mỗi người có đồng hồ sinh học của riêng mình. Không ai giống ai. Như vân tay, như mống mắt vậy. Cho nên không cần bắt chước. Chỉ cần lắng nghe mình. Phương pháp này, phương pháp nọ của người này người kia bày vẽ chẳng qua cũng chỉ để tham khảo. Nắm lấy nguyên tắc chung thôi, rồi áp dụng vào hoàn cảnh riêng cụ thể của mình, tính cách mình, sinh lý mình. Phương pháp nào có sự ép buộc cứng ngắc thì phải cảnh giác!

Thời tôi học y khoa được học tế bào thần kinh không thể sinh sản, mất là mất luôn, hư hỏng thì không thể tự sửa được, không như tế bào ở các mô khác. Ngày nay người ta biết có khoảng 100 tỷ neuron thần kinh và 100 nghìn tỷ kết nối giữa chúng, nhưng thật ra não bộ còn rất nhiều điều bí ẩn chưa thể biết hết. Khoa học ngày nay tiến bộ, cho thấy tế bào thần kinh chẳng những rất nhu nhuyến (plasticity), có khả năng tự thích nghi, tự điều chỉnh mà còn có thể sinh sản tế bào mới (neurogenesis). Chúng có thể kết nối tự bên trong, hoán chuyển vị trí… chứ không phải tập trung từng khu vực cứng ngắc như ngày xưa đã tưởng. Khả năng thay đổi và thích nghi này của não không bị mất đi, tuy khi có tuổi thì các khả năng nhận thức, ngôn ngữ, trí nhớ, suy luận cũng kém đi theo tiến trình chung. Nghiên cứu gần đây cho thấy ở tuổi 80 não bộ vẫn còn tiếp tục tạo nên những con đường mới nối kết bên trong nên vẫn phát triển được.

Bây giờ thời đại cái gì cũng “thông minh” đáng ngại. Không lâu nữa, chắc con người sẽ có đủ “tam minh lục thông” chăng?
Tam minh là Túc mạng minh (biết rõ kiếp trước của mình), Thiên nhãn minh (biết rõ… kiếp sau của mình), Lậu tận minh (dứt tất cả lậu hoặc).
Lục thông gồm: Thiên nhãn thông, Thiên nhĩ thông, Tha tâm thông, Thần túc thông,…

Từ ngày có trang web riêng mình, do một bạn trẻ giúp cho, tôi bận bịu với nó nhiều hơn. Rồi nhờ nó mà tôi lần mò học cách post bài, đưa hình ảnh, chỉnh sửa tùm lum… Nó giúp tôi như quên ngày tháng, quên đi những buổi mai buổi chiều buổi trưa buổi tối… Nhưng cũng nhờ nó, tôi mở rộng việc học hỏi, mở rộng giao tiếp, thấy quả đất chỉ còn là một hòn bi xanh trong lòng bàn tay… Và chiếc điện thoại thông minh cũng giúp mình nhiều việc, dù thực tế nhiều lúc thấy nó thiệt là… ngu!

Mắt kém, đọc mỏi, tôi bắt đầu ít đọc báo, ít xem TV – ngày trước, mỗi ngày ngốn chục tờ báo là thường! Nay chỉ đọc lướt qua cái tựa là xong. Thời đại cần cái gì, gõ gõ vài cái có người đưa tới tận nhà! Hy vọng không lâu nữa, họ gởi các thứ qua mạng, bấm nút in ba chiều, muốn gì cũng có… Nghe nói người ta đã có thể “fax” một con người từ nơi này sang nơi khác… giúp ta không phải đợi chờ lâu! Máy móc, kỹ thuật, phương tiện nghe nhìn ngày càng chiếm ngụ trong ta, “thay mãi đời ta”…

(ĐHN)

………….
(*) nhân vật của Nikos Kazantzakis

Viết thêm: Cảm ơn chị Sương Lam Trần và anh Võ Tá Hân

 

Sương Lam

(Suong Lam Portland)

Chào BS Đỗ Hồng Ngọc,

Trong tinh thần sống vui vẻ trong tuổi “hoàng hạc”, Sương Lam thường giới thiệu hoặc chuyển tiếp những bài viết, những tài liệu đem lại niềm vui tinh thần  sống vui, sống khỏe, sống an nhiên tự tại đến các thân hữu của  Sương Lam.

Trang nhà của anh Ngọc Đỗ (www.dohongngoc.com) là một trong những trang nhà SL thích và muốn giới thiệu đến các thân hữu của SL như trang youtube  của thầy Thích Tánh Tuệ, của Thầy Thích Pháp Hòa, trang youtube của anh Võ Tá Hân, trang nhà Quán Ven Đường của anh Hùynh Chiếu Đẳng …

Kính chúc anh Đỗ Hồng Ngọc nhiều sức khỏe và an lạc trong cuộc sống,

Thân mến,

 

……………………………………………………………………………………

Võ Tá Hân

(hanvota.com)

Anh Đỗ Hồng Ngọc & Chị Sương Lam mến,

Anh Ngọc có khuyến khích người cao niên dùng máy vi tính thì cũng đừng quên khuyên họ nên … học đàn guitar nữa nhé.

Ngồi chăm chú tập đàn – quên hết mọi phiền toái cuộc đời – thì cũng là một cách “thiền”, luyện tập các ngón tay thì cũng giúp mình đỡ bị phong thấp, rồi 50 năm sau, nay mới ôm đàn hát được những những bài mình hằng yêu thích từ thuở 20 thì còn gì hạnh phúc hơn!

Sáng mai lớp Guitar Ngàn Thương sẽ có một buổi họp mặt ngoài trời – mọi người đều đã chích 3 mũi thuốc! (…)  Các “cụ nhạc sinh” góp mặt trong CD này hầu hết là các ông bà có trung bình 2 cháu nội ngoại, học đàn từ vài tháng đến khoảng 3 năm.

… và đây là hình ảnh lớp đàn đầu tiên mà tôi dạy năm 2017 cho nhóm bạn cao niên vùng Little Sài Gòn, Nam Cali.

 

Filed Under: Già ơi....chào bạn, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

Nguyên Giác: Đọc “Tôi học Phật” của Đỗ Hồng Ngọc

27/09/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Đọc “Tôi học Phật” của Đỗ Hồng Ngọc

Nguyên Giác

Báo GIÁC NGỘ TP.HCM, 26.09.2021

(https://giacngo.vn/doc-toi-hoc-phat-cua-do-hong-ngoc-post58829.html)

 

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc
Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc
GN – Có những người làm gì cũng hay, viết gì cũng hay. Tôi luôn luôn kinh ngạc về những người như vậy. Họ như dường lúc nào cũng chỉ ra một thế giới rất mới, mà người đời thường như tôi có ngó hoài cũng không dễ thấy ra.

Đỗ Hồng Ngọc là một người như thế.

Đỗ Hồng Ngọc là một bác sĩ; dĩ nhiên ai cũng biết, bởi vì anh nổi tiếng hơn rất nhiều bác sĩ khác, và được báo chí phỏng vấn thường xuyên. Nhưng anh cũng nổi tiếng làm thơ hay từ thời sinh viên. Thơ của anh nhiều đề tài, có cả thơ Vu lan, thơ tặng mẹ, thơ tình, thơ tặng em bé sơ sinh, thơ tặng bà bầu, và đủ thứ.

Trong khi tôi đọc, thưởng thức, và thán phục các vần thơ tuyệt vời của anh, nhưng tận cùng thích nhất vẫn là đọc Đỗ Hồng Ngọc viết về kinh Phật. Chính nơi lĩnh vực này, họ Đỗ viết gì cũng hay, viết ngắn cũng hay, viết dài cũng hay, viết về Thiền thở cũng hay, viết về ngũ uẩn giai không của Tâm kinh cũng hay, viết về ưng vô sở trụ của kinh Kim cang cũng hay, viết về kinh Pháp hoa, kinh Duy Ma Cật cũng hay. Và tôi tin, nhiều thế hệ sau sẽ nhớ tới một Đỗ Hồng Ngọc viết về lĩnh vực này, đó là những gì anh đã đọc, đã hiểu, đã sống và đã ghi xuống các trang giấy trọn một pháp giới học Phật của anh.

 

Đọc "Tôi học Phật" của Đỗ Hồng Ngọc ảnh 1
Thiết kế: Tống Viết Diễn (Báo Giác Ngộ số 1116-1119)

 

Nhiều thế hệ tương lai sẽ không nhớ tới một bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, và cũng chẳng thắc mắc chuyên ngành của anh có phải tai mũi họng hay nhi khoa, hay nội khoa. Cũng như chúng ta bây giờ chỉ mơ hồ hình dung về một bác sĩ Lê Đình Thám, nhưng dễ dàng nhớ về một cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám đã dịch kinh Lăng nghiêm, Đại thừa Khởi tín luận, v.v… cũng là người đã sáng lập Gia đình Phật Hóa Phổ, tiền thân của Gia đình Phật tử. Vâng, đời sau hẳn là sẽ nhớ tới Đỗ Hồng Ngọc với tuyển tập Tôi học Phật, một tuyển tập đã gom chung nhiều tác phẩm đã in rời trước kia.

Làm thế nào Đỗ Hồng Ngọc viết hay như thế? Phước đức, học lực của một đời hẳn là không đủ. Hẳn phải là nhiều đời. Tôi suy nghĩ về câu hỏi đó, khi đọc Tôi học Phật – phiên bản 2 của Đỗ Hồng Ngọc. Đây là ấn bản họ Đỗ biên tập lại nhân dịp nằm nhà khi cả nước rơi vào mùa dịch, như lời anh giải thích khi qua email:

“Cả gần 3 tháng nay nằm nhà. Tình hình Covid-19 ở Sài Gòn căng thẳng lắm như Hải đã biết. Trong suốt thời gian này, mình chỉ làm một việc là ‘biên tập’ lại toàn bộ cuốn Tôi học Phật, chủ yếu là một cách ôn tập cho bản thân. Nay tương đối hoàn chỉnh bản thảo này, mình in ra một ít để kỷ niệm. Bìa do mình tự ‘dàn dựng’, cảm hứng từ đặc san Liễu Quán (Huế), mang tính ‘lõm bõm’ ‘lãng mạn’ của mình…”

Đỗ Hồng Ngọc giải thích về cơ duyên học Phật sau 6 thập niên loanh quanh: “Khi là sinh viên ở Sài Gòn, tôi cũng đọc Bát-nhã, đọc Suzuki, Krishnamurti…nhưng đọc chỉ để mà đọc. Đến năm tuổi gần 60, sau một cơn bệnh thập tử nhất sinh, tôi thấy mọi sự khác hẳn đi. Tôi đọc Tâm kinh thấy không khó nữa. Như vỡ ra. Và với Tâm kinh, tôi thấy chỉ cần học một chữ thôi. Chữ không. Từ đó mà vô trụ, vô trí, vô đắc…”.

Nếu chúng ta nhìn về không khí học Phật nơi thế giới Tây phương, cụ thể là tại Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Úc châu… chúng ta có thể thấy 2 khuynh hướng lớn. Thứ nhất, khuynh hướng thế tục hóa Phật giáo, làm cho Phật giáo trở thành một ứng dụng đời thường, biến Phật pháp thành một pháp mindfulness đơn giản để thư giãn, để chữa bệnh, để làm một liệu pháp nơi góc bệnh viện, thậm chí để làm một pháp tỉnh thức bổ túc cho các tôn giáo khác. Thứ hai, khuynh hướng xuất thế gian, học Phật để bước đi trên đường giải thoát của Phật giáo, nơi đây lại chia ra ba tông phái lớn: Nam tông, Bắc tông, Kim Cang thừa (Phật giáo Tây Tạng).Đó là cơ duyên lớn của tác giả họ Đỗ. Vì có những người tụng Tâm kinh cả đời, nhưng không hiểu được. Cũng như có người đọc chú giải Tâm kinh từ nhiều thầy, nhưng lại không vào được. Có người sau nhiều năm không hiểu, lại ngờ vực Tâm kinh. Rồi có những người chọn thái độ kính nhi viễn chi, dặn nhau là nên tìm những gì cho đơn giản, thích nghi với đời sống hơn, nói sai lầm rằng Tâm kinh chỉ là kinh để tụng trong chùa. Hiển nhiên là trăm ngả rẽ. Hẳn là tùy cơ duyên.

Tuyệt vời nơi Đỗ Hồng Ngọc là chúng sinh muốn nghe chuyện gì thì anh nói chuyện đó. Muốn nghe chuyện ứng dụng thế gian, họ Đỗ trở thành một bác sĩ phân tích về sức khỏe thân và tâm. Muốn nghe chuyện giải thoát, họ Đỗ liền trở thành một người kể lại các kinh nghiệm học Phật mà ai cũng có thể học theo và tự chứng ngộ được.

Thí dụ, Đỗ Hồng Ngọc, trong tư cách bác sĩ, đã viết về chữa bệnh: “… Đặc biệt là phương pháp ‘thở Chánh niệm’ – mà Phật đã dạy từ những bài học đầu tiên sau khi giác ngộ – tôi thấy có thể có hiệu quả trong phòng ngừa và điều trị một số bệnh thời đại, những bệnh dịch không lây, nhưng rất nguy hiểm, gây khổ đau, tàn phế cho nhiều người mà Tổ chức Sức khỏe Thế giới (WHO) đã luôn cảnh báo trong những năm gần đây, làm giảm chất lượng cuộc sống của con người, chủ yếu do lối sống và môi trường sống đầy căng thẳng, bất an…”.

Như thế rất thực dụng, bất kỳ tín đồ tôn giáo nào cũng có thể áp dụng được. Phương pháp thiền Tỉnh thức dùng trong các trường học, và trong các bệnh viện tại Hoa Kỳ hiện nay cũng dựa nhiều vào pháp thở Chánh niệm. Khi Phật pháp ứng dụng để dùng trong trường học và bệnh viện, tất cả yếu tố tín ngưỡng và tôn giáo đều phải gỡ bỏ.

 

Đọc "Tôi học Phật" của Đỗ Hồng Ngọc ảnh 3
Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc chia sẻ chủ đề “Tôi học Phật” tại chùa Thiên Quang (Bình Dương)

 

Nơi mặt ngược lại, khi nói về giải thoát luận, Đỗ Hồng Ngọc đã chỉ ra những cách nhìn để xúc chạm sâu thẳm tới các pháp ấn: vô ngã, vô thường, khổ, không. Chúng ta có thể nhớ rằng, chư Tổ ngày xưa lấy cỗ xe ra để giải thích lý vô ngã, để nói rằng không hề có cái gì gọi là xe nào trong cỗ xe, gọng xe, bánh xe… Và rất hiện đại hóa, Đỗ Hồng Ngọc lấy cái đồng hồ ra để giải thích về lý vô ngã:

“Bị bó rọ, bị thành kiến che khuất, lấp chặt, dần dần ta bị lệ thuộc, bị níu kéo, ta giữ lề, cho ‘xứng với ta’, với vai ta đóng và bản ngã ta sẽ ngày càng to, càng dầy ra, chính là nguồn gốc của khổ đau. Cái gì có ‘ta’ trong đó thì tạo ra khổ đau. Nhà ta, của ta, con ta, người yêu ta và thân ta… Mà cái ta đó, theo cái nhìn Bát-nhã Tâm kinh chỉ là sự kết hợp của những thành tố do duyên mà tụ lại, tương tác, tương sinh, tương hợp, cái này có là do cái kia có, quấn quýt chằng chịt lẫn nhau – như những thành tố tạo nên cái đồng hồ gồm kim, bánh xe, con lắc… và sinh ra tiếng ‘tích tắc’. ‘Tích tắc’ vốn không có, thực không có, do kết hợp các thành tố riêng lẻ mà có. Gỡ bỏ các thành tố ra để tìm lấy tiếng tích tắc (cái ngã) sẽ không thấy đâu nữa! Ráp lại thì có. Cái tiếng tích tắc, không mà có, có mà không, trống rỗng mà tràn đầy là sự vận hành tuyệt diệu của cái đồng hồ. ‘Chân không’ cũng chính là ‘diệu hữu’. Dừng lại ở ‘không’ đơn thuần, như một xóa bỏ, từ chối, hư vô chủ nghĩa là một sai lầm tai hại”.

Có thể tin rằng, những gì tác giả Đỗ Hồng Ngọc viết về học Phật sẽ lưu giữ rất lâu trong nền văn học Phật giáo quê nhà, vì toàn văn tuy rời rạc, nhiều chủ đề, nhưng vẫn xuyên suốt là một tập luận thư để chú giải kinh Phật. Điều rất khác giữa Đỗ Hồng Ngọc và nhiều vị tiền bối là từ chỗ rất lơ mơ trong 6 thập niên, chứ không phải vào chùa học Phật từ thời thơ ấu, cho nên văn phong của anh là một pháp giới xen lẫn của một nhà văn, một nhà thơ, và là một nhà khoa học. Đây cũng là chỗ độc đáo không chỉ của anh, mà là của rất nhiều người từ một thế hệ học Phật cùng thời.

Nơi đó, để Phật hóa cõi nhân gian, một thế hệ học Phật đã từ nhiều cõi nước hẹn nhau bước tới Việt Nam, để học, để tu, để dịch, để dạy và để viết – trong đó có cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám, thầy Minh Châu, thầy Nhất Hạnh, thầy Thanh Từ, thầy Tuệ Sỹ, Giáo sư Lê Mạnh Thát, Ni trưởng Trí Hải, Ni trưởng Hải Triều Âm… Và nơi mặt khác, để thi hóa cõi trần gian đầy đau đớn này, để chỉ ra Khổ đế nhằm làm tiền đề cho Đạo đế hiển lộ, một thế hệ các văn nghệ sĩ đã hẹn nhau tới Việt Nam để sống và để viết lên những cõi thơ dị thường, trong đó có Bùi Giáng, Phạm Thiên Thư, Đỗ Hồng Ngọc, Thích Tánh Tuệ, Nguyễn Lương Vỵ…

Nói theo Phật giáo Tây Tạng, họ là những bậc tái sinh. Dĩ nhiên, tác giả Đỗ Hồng Ngọc không đồng ý về nhận xét này. Vì họ Đỗ sẽ dẫn ra ngay rằng anh không hề thấy có cái gì gọi là “cái ta, cái của ta” trong thân ngũ uẩn, thì hà huống gì lại nói rằng có một chàng họ Đỗ hẹn tới Việt Nam để làm thơ, để viết văn, để chú giải kinh Phật:

“Trong cái tánh “Không” đó, tất cả là Vô, hay nói khác đi, tất cả là không có! Không có hình thể, sắc tướng; không có cảm thọ – không có tưởng, hành, thức gì cả. Tóm lại, là vô ngã. Không có cái ta thực mà chỉ có cái ta giả tạm, bọt bèo, cái ta đang ăn uống, nói năng, huênh hoang, tự mãn, tự ti, tham lam, sân si, mê đắm… đủ thứ, đủ kiểu. Cái ta giả này làm khổ cái ta thật. Cái ta giả làm Tôn Ngộ Không bị kim cô siết đau muốn chết, còn cái ta thật thì Tôn Ngộ Không đã bay bổng biến ra vô số những Tôn Ngộ Không khác rồi! Mà đã vô sắc (cái thân xác) thì đương nhiên sẽ vô nhãn (mắt), vô nhĩ (tai), tỷ (mũi), thiệt (lưỡi), thân (xúc giác), ý (suy tưởng). Toàn thân đã không có lẽ nào có từng thành phần?”.

Một điểm đặc biệt trong Tôi học Phật của Đỗ Hồng Ngọc, và cũng hiếm thấy nơi các tác giả khác: bạn có thể ngưng ở bất kỳ trang nào, ở bất kỳ dòng chữ nào, để tự nghiệm những lời kinh được chú giải ngay trên thân và tâm của bạn. Bạn hãy đọc rất chậm và hãy nghiệm như thế, nơi từng hơi thở của bạn, nơi từng niệm và nơi từng cảm thọ của bạn. Những dòng chữ Đỗ Hồng Ngọc viết xuống trong sách cũng là từ các thể nghiệm thực chứng của tác giả. Đó là những dòng trực giải kinh Phật rất mực trang nghiêm, nơi đó từng dòng chữ đã trở thành những trận mưa hoa để cúng dường chư Phật. Nơi đó là hạnh phúc, là an lạc và là vô lượng công đức.

Nguyên Giác/ Báo Giác Ngộ
(26.09.2021)

Filed Under: Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Lữ Kiều: CHÀNG NHO SINH DƯỚI GỐC TÙNG

20/09/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

CHÀNG NHO SINH DƯỚI GỐC TÙNG
thử bút & xuôi dòng
Lữ Kiều

DML_Cover_PreOrder.jpg

Tranh bìa: Lữ Kiều
Thiết kế bìa: Lê Giang Trần
Tựa: Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc
Bạt: Nguyên Minh – Cao Kim Quy – Trần Thị Nguyệt Mai
VĂN HỌC PRESS xuất bản, 2021

@@@
Tựa:

TÔI CŨNG TIN VẬY…

Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc

Hơn bốn mươi năm cầm bút, chàng “nho sinh” kia vẫn chỉ có mỗi một việc để làm, miệt mài, không mệt mỏi, ấy là thử bút. Chàng nắn nót, nâng niu, đưa ngọn bút lông lên ngang tầm mắt, ngắm nghía từng sợi nhỏ, xoay tới xoay lui đôi ba bận một cách thuần thục mà ngập ngừng, rồi thè lưỡi liếm nhanh mấy cái như vót cho các sợi lông bút quấn quít vào nhau, cho nhọn hoắt lại như gom nội lực vào nhất điểm; rồi thận trọng, nhẹ nhàng chàng nhúng bút sâu vào nghiên mực đã mài sẵn, ngập đến tận cán, rút nhanh ra rồi chắt vào thành nghiên, ấn ấn xoay xoay lúc nặng lúc nhẹ cho mực túa ra nức nở, ào ạt rồi thưa dần, đến lúc sắc nhọn vừa ý, chàng phết nhẹ một nét lên tờ giấy đợi chờ, như để đo độ đậm nhạt, hít một luồng chân khí, định thần, lim dim, rồi phóng bút… Chàng “nho sinh” mỉm cười khoái trá, trút đi gánh nặng ngàn cân, kiệt sức, nhanh tay nhúng bút vào lọ nước trong… Những giọt mực thừa rơi lả tả…

Thử bút, không phải tùy bút, không phải tản mạn, không phải tạp văn… Nó ùa ra, nó túa ra, nó lan ra, có lúc tòe loe, có khi hụt hẫng, những cảm hứng, những ngẫu hứng, những xúc động bất chợt, như không kềm chế được…

*  *  *

Bạn tôi, Lữ Kiều Thân Trọng Minh, con mắt thầy thuốc đắn đo, cái hồn thi sĩ mang mang, trái tim hiền triết Đông phương. Tuổi đôi mươi tự vấn văn chương, số phận, ý nghĩa đời người… Rồi “xuôi dòng” với bao bờ bến lạ. Có những phút tưởng thoát ra được. Giằng xé, hoang mang. Cuối cùng vẫn không thoát. Chàng vẫn là kẻ chỉ sống với cảm tính, viết với cảm tính, nếu có nhận ra một điều gì đó như là một khẳng định thì ấy chính là “chỉ có văn nghệ là vượt thoát, là giúp con người tử tế với nhau”. Chàng thổ lộ:

Thuở đôi mươi chữ nghĩa đã mê hoặc tôi.

… cho đến khi hiểu ra, cuộc sống vẫn hồn nhiên trôi đi, ta cũng trôi đi. (Lãng ca, 1982)

… chúng tôi không còn trẻ, quỹ thời gian của đời người đang hồi vét cạn. (Tự tình, 2001)

Khi nói về thơ, thứ mê hoặc hơn tất cả những mê hoặc, chàng cũng đã nhận ra của hôm nay và ngày tháng cũ:

Thơ bấy giờ là bài ca mê muội của lòng say đắm, có cái thất thanh của tiếng vỡ thủy tinh nhưng cũng đâu đó đã có cái bồi hồi im lặng của giới hạn.

… những điều tưởng như rất cũ xưa kia, giờ đây đã khác. Đã có sự giả hình, lòng khinh bạc, có cả sự thù hận lẫn trong tình thương yêu…

Những cuộc chia tay, những lần phụ tình, thấy lòng nghèo đi những xúc động cũ. Mới hoảng hốt thương mình đã sống quá xa đường hẹn ước… (Lãng ca, 1982)

Chàng không viết “những lần tình phụ” mà viết “những lần phụ tình”. Tôi thích cái cách viết của bạn tôi, khẳng khái, của một tâm hồn hào hoa mà nhân bản. Nhưng điều đắng cay đọng lại trong chúng tôi chính là “thấy lòng nghèo đi những xúc động cũ… hoảng hốt thương mình đã sống quá xa đường hẹn ước.”

Bởi đã có một thời chàng hùng hồn như đứng giữa đời mà hét: Con dế mèn có thể hát để mà hát nhưng tôi không thể viết để mà viết. Đó là những phút rời bỏ viễn mơ, thấy con đường trách nhiệm của người trí thức, thấy cần thiết một dấn thân.

Phải, nhưng rồi chàng đành thú thật: Đời sống trở nên đầy ắp giằng co. Sự giằng co giữa hai người trong một tấm thân làm ta kiệt quệ!

Đó chính là sự giằng xé giữa lý trí và cảm xúc để cuối cùng chỉ còn “chừa lại một sợi khói phù du”. Vâng, chính là sợi khói phù du đó mà ta “ưng tác như thị quán!’.

Đọc Lữ Kiều, thấy có những lúc ngọn bút của anh như những nhát dao phẫu thuật, sắc cạnh và chính xác; lại có những lúc như những nhát cọ mơn man, đắm đuối…

Tôi thương bạn như thương chính mình, cùng những anh em bạn bè mình một thuở khôn nguôi. Chàng như vùng vẫy giữa trùng vây của ngã nhân chúng sanh thọ giả, để rồi hốt hoảng nhận ra mình đang cheo leo: “Tôi vẫn thường ngồi thâu đêm, suy nghĩ và không suy nghĩ. Thời gian qua đi, tôi chiêm nghiệm được thời gian trên từng phân vuông da thịt, bởi khi người ta già, ta nhạy cảm với cái chết của từng tế bào trong cơ thể, vô hình nhưng có thật”. (Con đường nhan sắc, 1990)

Đó là những lúc bạn bè về trong trí nhớ, và đôi mắt nhung ai kia đã từng dòng lệ nhỏ, một chiều cuối năm hun hút nơi đầu hẻm cụt phố phường:

Bạn cũ gọi về trong trí nhớ
Lá vẫn bay và ta cuối năm
Đôi mắt nhung đen hàng lệ nhỏ
Thì thôi lá chọn đất ân cần.

Bạn cũ. Đất. Ân cần. Đó là tất cả những gì còn lại trong người đàn ông 60 chiều cuối năm. (Gió Mai, những ngày hoang dại, 2003).

Đọc Lữ Kiều, thương một thân phận. Cảm được cái chán chường, cái đắng cay lạ lùng không nói hết, không nói được. Tôi rưng rức nhớ hình ảnh buổi chiều, anh ngồi bên tôi ở một quán riêng. Để ánh sáng hắt từ phía sau lưng mình, không như thường lệ, chàng buồn bã nói với tôi về chiếc lá bàng đỏ hun hút cuối hành lang của một phòng thí nghiệm, ở đó, một người bạn chung của chúng tôi là bác sĩ giải phẫu bệnh lý chuyên khoa về ung thư, đã mỉm cười cùng chàng mà ánh mắt vời vợi xa xăm.

Với tôi, dẫu thế nào tôi cũng hiểu và thương bạn hơn bao giờ hết: Khi tác phẩm đã hình thành, mây tan, hồn tôi khánh kiệt. Bạn viết. Sự khánh kiệt nào cũng dễ thương, như một buông xả. Bởi buông xả nào mà không khánh kiệt, phải không?

Tôi có một thói xấu là mỗi khi soạn chồng sách cũ, giở lại những tờ thư xưa, những tấm ảnh hoen màu lại bần thần rã rượi, bị chìm đắm cuốn hút vào bao nhiêu kỷ niệm lúc nào không hay, quên cả thở chánh niệm! Đọc bản thảo Thử Bút của bạn, nhớ lời bạn dặn viết gấp mấy dòng mà đắm và sợ. Như ngọn lửa ngún trong một gốc cây to, chỉ cần thổi vài hơi là đủ bùng cháy. Bùi nhùi đâu mà sẵn sàng đến vậy?

Rồi bỗng lóe lên một niềm hy vọng mong manh khi bạn tôi viết:

Tìm trong kinh Dịch, bèn đắc ý với một hào dương dưới những hào âm, quẻ Phục đó!

Tôi cũng tin vậy.

(8/2006)

Nguồn: (tranthinguyetmai.wordpress)

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Nguyễn Hiền-Đức: “TIẾNG GỌI SÂU THẲM CỦA Y VƯƠNG”

05/09/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

 

ĐỖ HỒNG NGỌC –

TIẾNG GỌI SÂU THẲM CỦA Y VƯƠNG

 

NGUYỄN HIỀN-ĐỨC

 

* Thay Quà Tặng mừng Sinh Nhật 81 của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Tặng Bác sĩ Văn Công Trâm (Đức quốc)

NHĐ 

 

  1. Vì sao Đỗ Hồng Ngọc chọn ngành Y?

Đậu tú tài II xong, Đỗ Hồng Ngọc băn khoăn trước ngã ba đường: Vừa muốn học y, lại muốn học sư phạm, học văn khoa. Cuối cùng thì Đỗ Hồng Ngọc quyết định thi vào trường y.

Đỗ Hồng Ngọc chỉ thi vào trường y, theo tôi từ những nguyên do sâu xa, những “ám ảnh không rời” ngay từ quãng đời tuổi thơ côi cút của anh ở quê nhà:

– Nguyện vọng của gia đình;

– Thân phụ mất ở trong rừng vì thiếu thầy, thiếu thuốc. Nỗi đau và sự mất mát to lớn đó đã “đưa”, đã “đẩy” anh chọn nghề thầy thuốc.

– Vì mang đủ thứ bệnh nên mỗi ngày, anh vẫn thường qua lại bằng đò ngang để đến nhà thương thí chích thuốc! Riết rồi anh “ghiền cái mùi nhà thương.”

Tôi tin câu này, lời này của Đỗ Hồng Ngọc: “Riết rồi tôi ghiền cái mùi nhà thương!” Vâng, anh ghiền cái “mùi nhà thương” cũng như tôi đã ghiền cái mùi nhà in, nên tôi đã theo học nhiều khóa về kỹ thuật ấn loát và quản trị nhà in; rất say mê khi nhìn ngắm, tìm hiểu các loại máy in, các loại mực in, giấy in… Tôi mê cái không khí sôi động, ồn ào ở nhà in, mê mùi mực, mùi giấy… nên nhiều buổi trưa tôi nằm chèo queo ngủ ngon lành trên đống giấy vụn tại Ấn quán Đại học Vạn Hạnh sau những giờ chấm morasse bộ Trường Bộ Kinh, Trung Bộ Kinh do Ôn Thích Minh Châu dịch từ Pali ra tiếng Việt và nhiều tác phẩm khác về Phật học, thế học do Tu Thư Đại Học Vạn Hạnh xuất bản mà tôi thực hiện với trách nhiệm là Trưởng phòng Tu Thư. Đến nay, hơn bốn mươi năm sau, tôi vẫn luôn ghiền cái mùi nhà in, vẫn muốn tiếp tục học ngành in và làm thêm việc ở nhà in.

– Cuối cùng, chính lời khuyên chí lý, sáng suốt và trách nhiệm của cụ Nguyễn Hiến Lê mà Đỗ Hồng Ngọc đã quyết định thi vào trường y. Cụ Lê khuyên “nên học y để giúp đỡ cụ thể cho gia đình, nếu học giỏi sau này có thể làm “thầy giáo” và nếu có năng khiếu, cũng có thể viết lách được…!” Thế là Đỗ Hồng Ngọc học y, học thêm văn, thêm xã hội học… rồi viết lách, giảng dạy… suốt mấy chục năm nay.

Được học giả Nguyễn Hiến Lê khuyên nên anh đã nghe theo và bắt đầu dấn thân vào ngành học rất cực nhọc mà cũng rất nhân văn này.

Từ ngày tuyên thệ, đọc lời thề Hippocrates, Đỗ Hồng Ngọc trở thành một bác sĩ “mát tay”, đặc biệt ông ít dùng đến thuốc, luôn chú trọng đến việc chữa cả thân bệnh lẫn tâm bệnh nên trong các dịp lễ Tết, ông thường chúc mọi người: “Thân tâm thường an lạc!” là xuất phát từ cái thân tâm bất dị này.

 

  1. Học và hành nghề y

– Năm 1962, Đỗ Hồng Ngọc đậu vào trường y. Vốn là người ham đọc, ham học, có ý chí và biết tự học nên ngoài việc học y, ông cũng đã ghi danh học thêm ở Đại học Văn khoa, và xã hội học ở Đại học Vạn Hạnh.

Tóm tắt quá trình học và hành nghề y của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc như sau:

* 1962 thi đậu APM vào Đại học Y khoa Sài Gòn.

* Năm 1965 thực tập tại Bệnh viện Từ Dũ, đã đỡ được một ca đầu tiên mẹ tròn con vuông! Với lòng lâng lâng, ông lập bản “phúc trình”, viết ngay sau phần bệnh án một bài thơ nhỏ: Thư Cho Bé Sơ Sinh. Bài thơ khá nổi tiếng này được đưa vào tập thơ đầu tay của ông: Tình Người, xuất bản năm 1967. Có thể nói kể từ năm 1965, Đỗ Hồng Ngọc đã thực sự dấn thân vào lãnh vực Nhi khoa, nên có thể nói ông là một bác sĩ yêu trẻ và có nhiều kinh nghiệm về Nhi khoa.

* Năm 1967 và 1968 là Nội trú ủy nhiệm (Interne fonctionnel) của bệnh viện Nhi Đồng Sài Gòn.

* Năm 1969 tốt nghiệp Đại học Y khoa Sài Gòn.

* Năm 1970, bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ với đề tài “Bệnh Sốt Rét Ở Trẻ Em”, Đỗ Hồng Ngọc được nhận Văn bằng Tiến sĩ Y khoa Quốc gia.

* Năm 1971 là bác sĩ điều trị tại Dưỡng đường Nhi khoa Trần Bình Trọng, Chợ Lớn (GĐ Bs Trần Văn Còn).

* Năm 1972, xuất bản cuốn sách đầu tay: Những Tật Bệnh Thông Thường Trong Lứa Tuổi Học Tròdo học giả Nguyễn Hiến Lê đề Tựa. Trong tập này Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc chia sẻ với các bạn trẻ những kinh nghiệm về tổ chức việc học và cách học sao cho có hiệu quả ngoài các cách phòng tránh bệnh thường gặp ở lứa tuổi.

* Năm 1973, Đỗ Hồng Ngọc làm Trưởng phòng Cấp cứu Khu Ngoại chẩn Bệnh viện Nhi Đồng Sài Gòn

* Năm 1974, xuất bản cuốn Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng. Cuốn này được Giáo sư Phan Đình Tuân, Giám đốc Bệnh viện Nhi Đồng thời Đỗ Hồng Ngọc làm việc viết Lời Tựa. Chính Giáo sư Phạm Đình Tuân cũnglà người đã đỡ đầu luận án tốt nghiệp của Đỗ Hồng Ngọc và trong Lời Tựa cho cuốn sách này ông gọi là “sách gối đầu giường cho các bà mẹ.”

* 1977 Trưởng khu Phòng Khám và Cấp cứu Bệnh viện Nhi Đồng I (Bv Grall thành lập bệnh viện Nhi Đồng 2).

* Từ năm 1981, là Giảng viên thỉnh giảng Bộ môn Nhi, Đại học Y Dược. Trong thời gian công tác tại đây, ông đã đỡ đầu luận văn khoảng 10 đề tài cho các thầy thuốc trẻ. Ông còn viết nhiều cuốn sách y học phổ cập như Những Bệnh Nguy Hiểm Thường Gặp Ở Trẻ Em, Nuôi Con, Săn Sóc Con Ở Nơi Xa Thầy Thuốc.

* Từ những năm 1984 – 1986, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc triển khai các Chương trình “Săn Sóc Sức Khỏe Ban Đầu Cho Trẻ Em” ở Quận 6, để làm thí điểm phòng bệnh từ xa với một chiến lược mới, cần có sự tham gia của cộng đồng và sự phối hợp liên ngành. Ông được sự đồng tình ủng hộ của nhiều đồng nghiệp và trường Đại học Y Dược thành phố lúc đó đã gởi nhiều sinh viên theo học và làm luận văn về hướng Nhi khoa xã hội này. Và ông bắt đầu thực hiện các buổi nói chuyện trên Đài Truyền hình và Đài Phát thanh. Từ năm 1986 ông ở trong nhóm thực hiện Chương trình Săn sóc Sức khỏe Ban đầu cho xã Hiệp Phước, Nhà Bè

* Từ 1986, Giám đốc Trung Tâm Truyền Thông – Giáo Dục Sức Khỏe Thành phố Hồ Chí Minh.

* Ông triển khai hai bộ môn mới do ông làm chủ nhiệm là Bộ môn “Khoa học Hành vi và Giáo dục Sức khỏe” thuộc Trung tâm Đào tạo và Bồi dưỡng Cán bộ Y tế Thành phố (nay là Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch) và Bộ môn Sức khỏe Phụ nữ của Đại học Mở. Ông còn thực hiện “Chương trình Giáo dục Sức khỏe Phòng chống AIDS, Thuốc lá” v. v… dạy học, viết báo…

* 1993 Tu nghiệp Y tế công cộng tại Đại học Harvard Hoa Kỳ và 1997 Giáo dục Sức khỏe tại CFES Paris, Pháp.

* Từ năm 1989 đến năm 2000, ông giữ mục Phòng Mạch Mực Tím trên báo Mực Tím, một tờ báo dành cho lứa tuổi mới lớn để giúp các em giải tỏa những băn khoăn thắc mắc của lứa tuổi mình, những băn khoăn thắc mắc về phát triển tâm sinh lý, về bệnh tật… Trước 1975, ông đã viết cho các báo Tuổi Ngọc, Mây Hồng, rồi sau này là Khăn Quàng Đỏ, Mực Tím… những tờ báo dành cho tuổi trẻ.

Nhân dịp Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc nghỉ hưu (2006), Nhà xuất bản Tổng hợp thành phố đã tái bản cuốn Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng được cập nhật và bổ sung đầy đủ – gần 400 trang mà ông xem là một món quà nhỏ gởi đến các ông bố, bà mẹ trẻ mới sinh con đầu lòng…Một cuốn sách về y học mà được tái bản đến hơn 40 lần, quả là một kỷ lục. Năm 2008, cuốn sách này nhận “Giải Bạc Sách Hay”.

Trả lời câu hỏi của các học trò, trong một buổi giao lưu tại Trung tâm Truyền thông và Giáo dục sức khỏe:“Thưa thầy, kinh nghiệm của thầy khi đi nước ngoài, bài học thầy áp dụng vào ngành truyền thông – giáo dục sức khỏe của Việt Nam?”

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc chân thành chia sẻ:

“Thầy có không nhiều dịp đi nước ngoài, nên mỗi dịp đều là một cơ hội để được học thêm và rút kinh nghiệm đem về áp dụng những điều hay. Lần nào thầy cũng mang về một lô sách và tài liệu để sử dụng cho ngành mình và kể cả về đào tạo y khoa, như lần đi dự hội nghị về “Đào Tạo Chuyên Viên Phát Triển Sức Khỏe” của WHO tại Ai Cập (1988), thầy được mời tham gia trong nhóm sáng lập Trung tâm Đào tạo và Bồi dưỡng cán bộ y tế thành phố, sau này là Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch. Nhờ thời gian tu nghiệp ở Đại học Harvard (1993), thầy về triển khai Bộ môn Khoa Học Hành Vi và Giáo Dục Sức Khỏe cho trường. Lúc tu nghiệp ở CFES, Paris (1997) thầy thấy họ làm nghiên cứu về Giáo dục sức khỏe rất bài bản, dựa trên đó xây dựng các chương trình can thiệp có hiệu quả, khi về, thầy củng cố thư viện T4G, lập bộ phận tổ chức tư liệu (documentation) và đẩy mạnh các nghiên cứu khoa học trong lãnh vực giáo dục sức khỏe. Khi đi Ấn Độ dự Hội thảo quốc tế về HIV/AIDS (1996) thầy ứng dụng “truyền thông thay đổi hành vi” cho những lớp huấn luyện theo phương pháp giáo dục chủ động, tạo tham gia…

Tóm lại, học đối với thầy bao giờ cũng đi đôi với hành. Học mà không hành thì không thể nào “chín” được. Thầy cũng mong các em: đi học, nhất là du học không chỉ để lấy cái bằng cấp về treo, để “hù” thiên hạ… mà phải rút ra được bài học gì ứng dụng phù hợp vào hoàn cảnh nước ta với sự sáng tạo riêng của mình. Nhân dịp cũng nói thêm với các em rằng khi tiếp các đoàn chuyên gia quốc tế, đừng thụ động đối phó, lo trả lời những câu hỏi của họ đặt ra mà phải chủ động… đặt câu hỏi, đưa ra những ý tưởng của mình để tranh luận, từ đó mới có cơ hội học hỏi lẫn nhau…”

Đối với các bạn trẻ mong muốn chọn ngành y làm con đường nghề nghiệp, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc chia sẻ:

“Rất hoan nghênh các bác sĩ trẻ này. Đây là một ngành đang có nhu cầu rất lớn của xã hội. Nhưng chọn học y là chọn con đường gian nan, hằng ngày trực diện với những nỗi đau nỗi khổ của kiếp người (sanh, lão, bệnh, tử)… Phải thực sự yêu nghề và có năng lực. Nói chung, học y cần có một lý tưởng nhân đạo, một “tiếng gọi sâu thẳm” (vocation) của nghề nghiệp. Nếu học y để mong đầu tư… làm giàu trên bệnh nhân thì không nên! Thực ra học y cũng rất thú vị, nhiều thử thách đòi hỏi trách nhiệm cao. Luôn đứng trước lương tâm của mình. Hạnh phúc rất lớn khi thấy mình sống hữu ích cho gia đình, cho cộng đồng, cho xã hội. Bà con mình thường nói:“Cứu sống một mạng người bằng… lập năm bảy kiểng chùa” phải không”?

Trò chuyện, tâm tình, gởi gắm niềm tin vào các bạn trẻ đang học ngành y, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc nói:

“Để thành công, phải thực sự say mê, cần phải đi chuyên sâu về một lãnh vực nào đó nhưng đồng thời không quên mở rộng kiến thức văn hóa nói chung. Phải học hỏi không ngừng. Thầy thuốc là một sinh viên y khoa suốt đời. Không học thêm thì sau vài ba năm đã lạc hậu. Nghiên cứu, giảng dạy là cơ hội học tập tốt nhất. Đừng quên chia sẻ kiến thức của mình với người bệnh và luôn tôn trọng lắng nghe họ, sẽ học được rất nhiều từ họ.”

“Y khoa là một khoa học nhưng cũng là một nghệ thuật. Nó gắn liền với thân và tâm của con người. Mà cái gì đã liên quan đến con người thì luôn là một “nghệ thuật’’ chứ, phải không? Cho nên ngày nào y khoa trở thành hoàn toàn máy móc thì nguy cho con người lắm! Khi máy móc hóa hay thương mại hóa mối quan hệ “thầy thuốc – bệnh nhân’’ thì có nhiều vấn đề đặt ra.

 

  1. Đỗ Hồng Ngọc và những “sở đắc” về ngành y

Năm 1972, tức là chỉ ba năm sau khi tốt nghiệp Bác sĩ Y khoa Quốc gia, Đỗ Hồng Ngọc xuất bản cuốn Những Tật Bệnh Thông Thường Trong Lứa Tuổi Học Trò trong loại y học phổ cập. Theo Đỗ Hồng Ngọc:

“Cuốn sách đầu tay không những được các em học sinh mà cả các bậc phụ huynh cũng nồng nhiệt đón nhận. Nhà văn Trần Phong Giao – Tổng thư ký báo Văn lúc đó – đã bắt con mình học… thuộc lòng cả một chương trong sách! Nhà xuất bản Lá Bối của thầy Từ Mẫn độc quyền phát hành và chỉ vài tháng sau sách đã được tái bản”.

Trong lời Tựa cuốn này, học giả Nguyễn Hiến Lê viết:

“Tập này là tác phẩm đầu tay của ông. Ông dùng kinh nghiệm bản thân khi đi học và đi dạy (vì như một số sinh viên khác, ông phải tự túc), cùng những sở đắc trong ngành y để hướng dẫn các bạn học sinh trong việc giữ gìn sức khỏe, ngừa trước những bệnh thông thường và khi bệnh đã phát thì nên làm gì. Yêu nghề và có lương tâm, ông không mách thuốc bừa bãi như thỉnh thoảng chúng ta thấy trên một số báo, ông phản đối thái độ ‘vô trách nhiệm’ đó”.

Từ đó chúng ta có thể thấy, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc tuy mới ra trường 3 năm mà đã dùng kinh nghiệm bản thân khi đi học và đi dạy, cùng những sở đắc trong ngành y để hướng dẫn các bạn trẻ giữ gìn sức khỏe… Ông lại rất yêu nghề và có lương tâm. Tri thức chuyên ngành và lương tâm của người thầy thuốc ngày càng khẳng định “sở đắc”, tầm nhìn mới của ông trong ngành y.

Năm 1974, Đỗ Hồng Ngọc hoàn thành cuốn Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng, lúc ông đang làm việc tại Bệnh viện Nhi Đồng Sài Gòn và cũng vừa có 3 đứa con “đầu lòng”. Cuốn này được cụ Nguyễn Hiến Lê góp ý và “khen” Đỗ Hồng Ngọc là một thầy thuốc nhi khoa tốt, yêu trẻ con.

Tôi cảm kích và vui mừng về bước khởi đầu viết lách của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc khi đọc những nhận xét về tác phẩm này của những người đồng nghiệp, những bậc đàn anh, những người Thầy của Đỗ Hồng Ngọc. Trước hết là bài Tựa của Giáo sư, Giám đốc Bệnh viện Nhi Đồng Sài Gòn Phan Đình Tuân, cũng là người đỡ đầu luận án tốt nghiệp của Đỗ Hồng Ngọc. Bài Tựa có đoạn viết:

“Đọc quyển sách Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, các bà mẹ sẽ tìm thấy những lời chỉ dẫn ân cần về những vấn đề thiết thực, để bớt những bỡ ngỡ băn khoăn, lo lắng vô ích. Thêm vào đó, tác giả còn đả phá những thành kiến sai lầm, những tập quán nguy hiểm từ lâu vẫn lan tràn ở nước ta gây nhiều tai hại cho trẻ nhỏ… (…)

Một quyển sách về y học, dù là y học phổ thông, thường thường rất khô khan, ít ai muốn đọc, nhưng quyển sách của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc lại khác. Tác giả có lối hành văn trong sáng, nhẹ nhàng, thân mật, gần gũi, có chỗ dí dỏm nên thơ, đọc không biết chán.

Tôi mong rằng quyển sách này sẽ là sách gối đầu giường không những của các bà mẹ sanh con đầu lòng mà còn của tất cả các bà mẹ vậy.”

Tôi đọc 16 cuốn gọi chung là “Câu chuyện sức khỏe” từ tác phẩm đầu tay của ông xuất bản: Những Tật Bệnh Thông Thường Trong Lứa Tuổi Học Trò (1972),đến các tác phẩm mới nhất là Sức Khỏe Gia Đình, Ăn Vóc Học Hay và Thiền Và Sức Khỏe. Rồi đọc tiếp 18 bài Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc trả lời phỏng vấn trên nhiều tờ báo, chung quy ông cũng đề cập đến vấn đề giữ gìn sức khỏe, nâng cao sức khỏe và chất lượng cuộc sống theo định nghĩa về sức khỏe của WHO: “Sức khỏe là một tình trạng hoàn toàn sảng khoái (well being) về thể chất, tâm thần và xã hội chứ không phải chỉ là không có bệnh hay tật.”

Càng đọc nhiều sách loại này, tôi càng thấy rõ Đỗ Hồng Ngọc xem cuộc sống là một điều kỳ diệu, tôn vinh giá trị gia đình, xác quyết mối quan hệ thân – tâm không thể tách rời nhau. Ông hô hào mọi người hãy đầu tư cho chính mình để được hạnh phúc. Mỗi người hãy trở về với hải đảo của mình; hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi theo lời dạy của Đức Phật. Ông kêu gọi mọi người hãy sống tự tại hơn để hạnh phúc hơn, ông thành tâm cầu mong mọi người thân tâm thường an lạc. Ông chia sẻ những kinh nghiệm, trải nghiệm và thể nghiệm từ bản thân mình để xiển dương những lợi ích và lợi lạc của việc tập thở, tập thiền, hành thiền. Với ông tu là học và tu là hành… nhờ đó mà ông được nhiều người tin cậy và làm theo hướng dẫn của ông. Những bài trả lời phỏng vấn của ông về y học, vốn là chuyên ngành sâu, là nghề và nghiệp của ông nên ông viết luôn luôn rõ ràng, rành mạch, chính xác, với lời lẽ chân thành, thân ái, gần gũi, thấu cảm nên người đọc vừa tin yêu vừa phấn chấn. Làm được, viết được như vậy chẳng dễ tí nào! Những lời ông tâm tình, trao đổi, gợi ý, chia sẻ với các bạn trẻ, với những học trò cũ vừa chân tình vừa cảm động, vừa ý nhị sâu sắc, vừa thiết thực, cụ thể, có lúc nghiêm khắc nhưng đầy lòng khoan dung và khích lệ. Hơn 50 năm trước tôi đã đọc nhiều cuốn sách, có cuốn tôi gọi là “cuốn sách cứu người”, cuốn sách “làm thay đổi cuộc đời” của cụ Nguyễn Hiến Lê, thì nay đọc sách, đọc các bài viết về y, về Phật họccủa Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc tôi cũng có cảm nhận sâu sắc và chân thành như vậy. Xin hết lòng biết ơn Thầy Nguyễn Hiến Lê và Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc!

Trong các bài viết về chuyên đề sức khỏe, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc luôn cẩn trọng, khiêm tốn, vui vẻ. Ông luôn luôn dung dị mà sâu sắc, dí dỏm, hóm hỉnh, trí tuệ, thông minh, sắc sảo mà gần gũi và thân ái. Ông thể hiện tròn đầy lòng chân thành, sự thấu hiểu, thấu cảm nên mang tính thuyết phục cao đối với đông đảo người đọc. Tôi rất tâm đắc khi đọc những bài này của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc và xem nó là một trong những dấu ấn sâu đậm, đáng yêu và sống lâu bền trong lòng người đọc.

Ở đây, tôi xin phép được trích dẫn một số cảm nhận chân thành của bạn đọc để làm rõ thêm ý kiến mà chúng tôi đã nêu trên:

 

Yumi.multiply.com

(…) Ở đó, tôi không chỉ nắm bắt được những kiến thức khoa học để nuôi con mà còn gặp được tấm lòng một người cha vĩ đại. Ông kể chuyện của con mình, kể về nỗi buồn lo, ân hận của mình để mà truyền kinh nghiệm cho bạn, cho tôi. Khi con mọc răng nóng sốt, khi con quấy khóc, ốm đau, khi con chán ăn, khi con biết lẫy, biết bò… tôi đều giở sách ra, đôi khi không chỉ đọc để biết phải làm gì mà còn tìm trong đó một nguồn an ủi, vỗ về.Mỗi lần nâng quyển sách ấy trên tay, tôi không nghĩ mình đang đọc sách mà đang trò chuyện với ông, ấm áp và tin tưởng lạ thường!

 

blog.dongchay.com

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc không phải viết theo phong cách của một bác sĩ cho các đồng nghiệp, không phải cho thân nhân người bệnh, cũng không phải theo khuôn mẫu của một sách giáo khoa khô khan. Bác sĩ viết như người bạn viết cho người bạn, người anh, người chú lớn tuổi nhiều kinh nghiệm viết cho những người em bắt đầu làm bố, làm mẹ. Lời lẽ thân thiện, dễ gần, hình ảnh sống động, dễ hiểu, trình bày khoa học, dễ tra cứu. Quả thực, mẹ học được rất nhiều từ cuốn sách và cũng đã nhiều lần cuốn sách đã giải tỏa cho mẹ những ưu tư , rồi cả những hủ tục, những quan niệm sai lầm khi nuôi con của các bà mẹ ngày xưa.

Mẹ rất thích cuốn sách, đọc đi đọc lại nhiều lần, ngẫm nghĩ những điều nằm ngoài chuyên môn mà bác sĩ Ngọc đã gửi gắm. Mẹ cảm thấy việc sinh con, nuôi con ý nghĩa hơn. Mẹ cũng cảm thấy trách nhiệm của bố và mẹ lớn lao hơn khi giờ đây, bố mẹ là người cha, người mẹ và trước kia, bố mẹ cũng là những người con bé bỏng và ông bà nội ngoại đã phải vất vả ra sao mới có bố mẹ, có con như bây giờ…

 

Lê Uyển Văn says

 Vẫn là phong cách của Đỗ Hồng Ngọc, con chữ của Đỗ Hồng Ngọc – lấp lánh yêu thương  – sao như lần đầu được gặp, chúng tôi đọc mải miết, những kiến thức đã từng biết bỗng trở nên gần gũi và sống động lạ thường.

Không đúc kết nào gọn gàng hơn “ BUSĂC” – phổ biến những điều căn bản nhất để nuôi con sao cho khỏe mạnh. Không cách so sánh nào cụ thể, dễ nắm bắt mà xúc động hơn cách hướng dẫn làm dung dịch như Oresol tại nhà : “…pha xong nếm thử thấy nó y như nước mắt là được / Nước mắt ở đâu mà thử?/ Thì bà mẹ nào có con tiêu chảy cấp mà không khóc chứ?”. Cũng không gì thuyết phục hơn khi khuyên mẹ tự làm thức ăn cho con: “Bây giờ có nhiều thức ăn làm sẵn / Phải, nhưng không có thứ “tình thương” làm sẵn nào cả !”….

… “ Mẹ cứ kỳ vọng vào con đi”,“ Có hiểu mới thương”, “ Thương nhớ… đòn roi”… đều là những “Bài học quý giá” mà tôi, các con tôi đang rất cần. Có những điều, tôi không sao nói được với con mình thì tác giả đã nói hộ rồi, tôi chỉ cần hỏi “con đã đọc “bài học quý giá” của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc chưa?”, con đáp “dạ, rồi!”,tôi nghe như trút vài gánh đá, đọc rồi nghĩa là con hiểu con phải làm gì để đối diện với kỳ thi đang rất gần kề.

Với ông, y khoa là một khoa học nhưng cũng là một nghệ thuật. Kỹ thuật y khoa càng tiến bộ thì càng cần hơn tính nhân văn trong y học vì nó đứng trước cái sống, cái chết, cái đau, cái khổ của kiếp người. Y học ngày càng tiến bộ, kỹ thuật ngày càng cao, thuốc men ngày càng nhiều thì… bệnh tật cũng ngày càng phát triển, gia tăng, đôi khi đe dọa cả hành tinh…

Vì thế, ông hô hào: “Bớt kỹ thuật – Thêm nhân văn” và hãy đầu tư cho chính mình để được hạnh phúc. Ông quan tâm tới khía cạnh tâm lý xã hội của vấn đề chứ không đơn thuần ở góc độ bệnh lý. Ông khởi xướng và đã cùng với cộng sự, học trò tập trung nhiều công sức, tâm huyết, trí lực vào việc xây dựng và phát triển ngành Truyền Thông – Giáo Dục Sức khỏe và Nâng cao sức khỏe.

Ông cảnh báo về nguy cơ lớn nhất của ngành y là đi quá sâu vào kỹ thuật và tách hẳn cái thân ra khỏi cái tâm, thậm chí trong cái thân lại chẻ nhỏ ra thành những mảnh thân nhỏ hơn nữa để đi chuyên sâu. Ông cho rằng điều đó có lợi về mặt khoa học nhưng lại làm cho con người không còn toàn vẹn nữa vì thân và tâm không thể chia chẻ được và không thể nào có cái thân mà không có cái tâm và ngược lại: Hai cái đó vốn là một. Vì thế, một người thầy thuốc khi chữa bệnh cho bệnh nhân, nếu chỉ thấy cái thân bệnh, mà không thấy cái tâm bệnh, tức là chỉ thấy cái “đau” mà không thấy được cái “khổ” của họ thì không thể chữa thành công.

Ông băn khoăn, trăn trở trước nguy cơ kỹ thuật hóa, thương mại hóa ngành y. Có cách nào làm giảm bớt nguy cơ đó không? Có cách nào phục hồi tính nhân bản của ngành y như những “ngày xưa thân ái” không? Dĩ nhiên không thể trở lại thời kỳ y khoa phù thủy, nhưng cũng không thể đẩy đến bờ vực thẳm của y khoa kỹ nghệ… Trước thực trạng, y khoa ngày càng nặng về kỹ thuật., người thầy thuốc trẻ dần dần có khuynh hướng chạy theo kỹ thuật, xa cách dần với… con người. Nó làm cho người thầy thuốc trở nên bí hiểm… chẳng khác gì các phù thủy của những bộ lạc ngày xưa! Thế nhưng con người từ xưa đến nay vẫn không thay đổi: cũng những lo âu, phiền muộn, sợ hãi, cũng những ganh tị, ghen ghét, mừng vui, cũng vẫn già nua, tuổi tác, ốm đau bệnh hoạn…

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đưa ra một số giải pháp, theo tôi là mới mẻ, thiết thực và hiệu quả:

“Chỉ có cách là phá vỡ huyền thoại (démystification) về người thầy thuốc, về nghề y và nâng cao kiến thức của người dân để họ tự bảo vệ sức khỏe của mình và hợp tác với thầy thuốc một cách có ý thức. Bên cạnh việc thay đổi chương trình giảng dạy ở các đại học y khoa sao cho ngành y vừa kỹ thuật mà cũng vừa nhân văn, đưa các môn tâm lý, xã hội, nhân chủng, quan hệ thầy thuốc – bệnh nhân, y đức, nghĩa vụ luận… vào giảng dạy. Giáo dục sức khỏe là biện pháp cần thiết để nâng cao dân trí, thay đổi hành vi có hại sức khỏe của cá nhân và góp phần đề ra các chính sách nhằm nâng cao sức khỏe cộng đồng…”

Muốn giải quyết vấn đề bệnh ngày càng nhiều, bệnh viện quá tải…, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc thấy cần “phải giải quyết cái gốc từ xã hội, tức là phải giải quyết trên vấn đề sức khỏe toàn diện chứ không chỉ là vấn đề y tế đơn thuần. Y tế chỉ cung cấp dịch vụ chữa bệnh, còn sức khỏe bao gồm cả môi trường sống, môi trường xã hội và thiên nhiên, cho đến hành vi, lối sống của mỗi cá nhân. Đã đến lúc cần giải quyết trên một bình diện rộng. Một mặt, ngành y tế tổ chức lại hệ thống chăm sóc sức khỏe tốt hơn, mang tính dự phòng tích cực từ cơ sở, nâng cao dân trí để mọi người biết tự bảo vệ sức khỏe cho cá nhân mình, gia đình và cộng đồng. Mặt khác, xã hội phải coi trọng việc đầu tư chăm sóc sức khỏe người dân hơn là tập trung mở thêm nhiều bệnh viện để hứng bệnh tật, tức là chăm lo bảo vệ môi trường, quan tâm giáo dục từ tuổi ấu thơ nhằm thay đổi hành vi, lối sống với các chương trình nâng cao sức khỏe (health promotion).

Từ kinh nghiệm bản thân, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc cho rằng:

“Truyền thông trị liệu”, “Truyền thông thay đổi hành vi” không dễ tí nào! Nó là một khoa học, bao gồm cả tâm lý- xã hội – nhân chủng (văn hóa) ứng dụng vào ngành y, giúp cải thiện mối quan hệ thầy thuốc – bệnh nhân và nâng cao y đức. Làm sao người thầy thuốc thấy được nỗi khổ sau nỗi đau, để thấu cảm với người bệnh. Một lời nói, một cử chỉ của thầy thuốc có thể làm cho bệnh nặng hơn hay nhẹ đi, vơi đi. Những kỹ năng ứng dụng này phải bằng cái tâm của người thầy thuốc.” Và rằng: “Thầy thuốc không chỉ là một chuyên viên tư vấn (consultant) về y học mà còn phải là một chuyên viên tham vấn (counselor) về sức khỏe, bởi người bệnh đến với họ vì tin tưởng rằng người thầy thuốc ngoài việc chữa bệnh còn có thể an ủi, giúp đỡ họ. Người bệnh cũng rất nhạy cảm với những “truyền thông không lời” trong mối giao tiếp đặc biệt này. Chỉ cần nhìn nét mặt, cử chỉ, nghe giọng nói, cái vỗ vai, cái bắt tay… cũng được bệnh nhân hiểu bao nhiêu điều…”

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc mong muốn bản thân ngành y cần coi trọng vấn đề nhân sự của ngành, vì không chỉ cần có kỹ năng, có học thuật mà còn cần đến tấm lòng, vì đó là con đường của y đức và y đạo.” Ông cho rằng: “Nói y đức suông mà không có tay nghề thì… hại người ta nhiều hơn, làm người ta “đau” nhiều hơn. Còn giỏi kỹ thuật chuyên môn mà thiếu y đức thì làm cho người ta “khổ” nhiều hơn.

Riêng vấn đề y đức phải được quan tâm đúng mức, đặt trong hệ thống đào tạo người thầy thuốc tương lai. Rồi đây, quản lý bệnh viện dần dần sẽ là những doanh nhân chứ không phải là bác sĩ, các bác sĩ sẽ chỉ là người làm công tác ăn lương. Y đức như vậy phải được mở rộng cho giới doanh nhân “khai thác” ngành y.”

Đỗ Hồng Ngọc theo ngành Nhi khoa và thực sự “say mê” trẻ em. Vì vậy mà Đỗ Hồng Ngọc đi đến một kết luận đáng chú ý: “Tôi thấy rõ một điều là dù người thầy thuốc có “ba đầu sáu tay” cũng không thể cứu giúp được trẻ con nếu người mẹ, gia đình vẫn mắc phải những sai lầm tai hại. Từ đó tôi luôn quan tâm đến lãnh vực giáo dục sức khỏe, làm sao để giúp bà mẹ những kiến thức tối thiểu cần thiết để nuôi con khỏe mạnh, không ốm đau bệnh tật.” Ông cho rằng, bà mẹ mới thực sự là “trung tâm bảo vệ sức khỏe” của con mình chứ không phải là bệnh viện hay các Trung tâm y tế.”

Trong Lời Ngỏ cuốn Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc viết:

“… ở đây không có “ông bác sĩ” viết cho thân nhân trẻ bệnh mà chỉ có người bạn viết cho người bạn, chỉ có người trong gia đình viết cho anh chị em mình, cho nên tôi viết bằng một giọng thân mật và cố gắng tránh những lý thuyết, những danh từ chuyên môn dễ nhàm chán”. Và trong lời Viết thêm ông bày tỏ một cách chân tình với bạn đọc: “Cuốn sách là những lời tâm tình, chia sẻ của một người vừa là thầy thuốc, vừa là người cha những năm xưa, nay đã trở thành ông nội, ông ngoại của mấy nhóc nhỏ rồi! Thời gian trôi nhanh thật.”

Trong nhiều thập niên và mãi đến giờ, cuốn sách này đã trở thành cuốn “sách gối đầu giường”, là “bửu bối”, là “báu vật” theo cảm nhận chân thành của nhiều người mẹ qua nhiều thế hệ.

Đỗ Hồng Ngọc thổ lộ: “Không gì vui hơn khi các bà mẹ nói rằng nhờ cuốn đó mà họ đã nuôi con được khỏe mạnh, và đặc biệt đã làm cho họ vơi bớt nỗi lo âu. Đối với tôi, bà mẹ mới thực sự là “trung tâm bảo vệ sức khỏe” của con mình chứ không phải là bệnh viện hay các Trung tâm y tế.”

Sau hai cuốn sách chuyên ngành mang tính phổ thông, thiết thực và có ích đó được đông đảo người đọc đón nhận và yêu thích, Đỗ Hồng Ngọc vẫn luôn luôn âm thầm đọc, học, viết. Có thể nói ông đã kết hợp nhuần nhuyễn, tài tình, khéo léo, hiệu quả đối với công việc “bộ ba” của ông: truyền thông giáo dục sức khỏe – dạy học – viết lách. Ông đã nghiền ngẫm viết lách, giảng dạy, chia sẻ kinh nghiệm với người khác. Để làm được những điều đó ông phải đọc, học, trải nghiệm rất nhiều và ông cho rằng “Viết cũng là học”. Vào thời điểm này, ông đã có ba cuốn sách về lãnh vực nhi khoa được phổ biến khá rộng rãi và một số sách viết cho tuổi già; mảng sách viết về học… Phật.

Trong buổi giao lưu với học trò cũ, ông tâm tình và chia sẻ như sau:

“Những năm cơ cực sau 1975, thầy bận rộn suốt ngày với bệnh nhi ở phòng cấp cứu Bệnh viện Nhi Đồng, ở nhà trông cậy một mình cô nuôi dạy các con. Nhiều bữa thầy về nhà tối om, đem thịt cá được “Tổ đời sống” chia cho đã ôi thiu về, cô chỉ biết cười trừ…”

Tình cảnh khó khăn, bi đát như thế cộng với rất nhiều khó khăn khác chắc chắn là ông rất ít có thì giờ, sức lực, điều kiện để đọc, để học, để viết. Nhà thơ Đỗ Trung Quân cho biết:

“Một ngày của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc thật không còn chỗ thở: hội họp, giảng dạy, hướng dẫn chuyên môn, khám chữa bệnh ngoài giờ cho trẻ con. Anh là bạn thân của lứa tuổi Mực tím (Phòng mạch Mực Tím), là “ông ngoại” của những đứa nhỏ đang ốm sốt trong tay người mẹ trẻ. Việc viết lách, viết sách, làm thơ khi trời hừng sáng, dậy sớm, ngồi vào bàn computer gõ, để đó, khi nào rảnh mới xem lại, sửa chữa, sắp xếp. Sức làm việc thật dữ dội và tất nhiên cũng phải… chớm già thôi!’

Khó khăn, bận rộn là thế nhưng rồi ông đã vượt lên tất cả để viết và viết hàng loạt tác phẩm về y học như: Thầy Thuốc Và Bệnh Nhân, Săn Sóc Con Em Nơi Xa Thầy Thuốc (1986), Nuôi Con (1988), Nói Chuyện Sức Khỏe Với Tuổi Mới Lớn (1989), Sức Khỏe Trẻ Em (1991), Viết Cho Tuổi Mới Lớn (1994), Bỗng Nhiên Mà Họ Lớn, Bác Sĩ Và Những Câu Hỏi Của Tuổi Mới Lớn, Câu Chuyện Sức Khỏe (Tháng 6. 1994).

Nhà văn Nguyễn Lệ Uyên trong bài viết về  tác giả Đỗ Hồng Ngọc (Khói trời Phương Đông, 2012) đã viết: Câu nói “Làm thầy thuốc là để cứu người; làm nhà văn là để cứu đời” có lẽ rất đúng với trường hợp Đỗ Hồng Ngọc- với những tác phẩm đa dạng của ông trong văn thơ, y học và Phật học.

Ông quan tâm đến những chuyện mà nhiều người lo âu và chia sẻ:

“Nhắc lại, giấc ngủ rất quan trọng. Phải ngủ đủ. Khoảng 7 – 8 tiếng một đêm ở tuổi này. Khi nào buồn ngủ thì đi ngủ, không thì thôi. Bài viết Có Một Nghệ Thuật Ngủ của tôi được nhiều bạn bè chia sẻ. Nhà văn Hồ Anh Thái ở Hà Nội bảo đã photocopy ra khá nhiều để gởi cho bạn bè vì lúc này nhiều người mất ngủ quá! Trên thế giới thì thuốc ngủ vẫn là thứ thuốc bán nhiều nhất! Tuổi càng cao, càng cần ngủ, như pin điện thoại xài lâu, sạc phải càng lâu. Ăn thì rất đơn giản thôi. Có gì ăn nấy. Tôi thường tự chế biến thức ăn cho mình. Càng ngày tôi càng học tốt hơn hạnh “độc cư”, “kham nhẫn / tri túc”.

 

  1. Học với Y vương

Năm 1997, Đỗ Hồng Ngọc bị tai biến mạch máu não. Trong cái rủi có cái may, trong thất bại có mầm mống của thành công. Sau cơn bệnh thập tử nhất sinh này, Đỗ Hồng Ngọc đã “ngộ” ra nhiều điều. Ông đến với thiền, kết hợp phương pháp thở bụng của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện và nghiền ngẫm, “hành thâm” Bát Nhã Tâm Kinh. Rồi 5 năm sau là Kim Cang, 5 năm tiếp theo là Diệu Pháp Liên Hoa, hình thành mảng sách mới lạ, độc đáo, cuốn hút người đọc từ các vị cao tăng, Tăng Ni, Phật tử đến những người “mê” Đỗ Hồng Ngọc ở những tác phẩm: Nghĩ Từ Trái Tim, Gươm Báu Trao Tay, Thấp Thoáng Lời Kinh, Ngàn Cánh Sen Xanh Biếc, Cõi Phật Đâu Xa, Thoảng Hương Sen… mà ông đều ghi là: “Thấp thoáng lời kinh…”. Từ những “thấp thoáng” đó, ông “ngộ” ra lẽ huyền vi của “lấp lánh ánh vàng”. Những cuốn sách thuộc loại “thấp thoáng lời kinh” này thực sự là một “hiện tượng” mới lạ, sôi nổi và độc đáo trong sinh hoạt văn học nghệ thuật nước nhà và văn học Phật giáo trong nhiều năm qua. Tôi không cường điệu chút nào khi nghĩ và viết như vậy!

Tôi chợt nhớ lại, khi Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc lâm trọng bệnh có thể gọi là “thập tử nhứt sinh” (năm 1997) thì có người bạn dí vào tay ông cuốn Trái Tim Hiểu Biết dạng photocopy của NH. Đỗ Hồng Ngọc từ đó tìm hiểu, nghiên cứu sâu thêm, nghiền ngẫm và thực hành Tâm Kinh Bát Nhã… Sau đó ông viết cuốn Nghĩ Từ Trái Tim để chia sẻ với mọi người với phong cách và cái nhìn của một bác sĩ, mang tính “khoa học thực nghiệm”. Ông ngại ngùng, đắn đo và cân nhắc dữ lắm, nhưng rồi ông cũng viết và gởi bản thảo nhờ Ni Sư Thích Nữ Trí Hải đọc và góp ý. Đêm hôm đó chùa bị cúp điện, Ni Sư Trí Hải nói phải đốt đèn, ráng đọc “chữ bác sĩ”. Sáng sớm hôm sau, Sư gởi lại bản thảo với lời khuyên: “Bác sĩ nên cho xuất bản cuốn sách này đi vì sẽ rất có lợi lạc cho nhiều người”. Nghĩ Từ Trái Tim xuất bản lần đầu năm 2003 đến nay đã tái bản 15 lần (2020)!

Đến đây thì chúng ta có thể “đồng tình” với tạp chí Văn Hóa Phật Giáo rằng: “Có một Đỗ Hồng Ngọc là người viết văn, làm thơ, có một Đỗ Hồng Ngọc là người viết về Phật học, có một Đỗ Hồng Ngọc là bác sĩ và cũng là nhà tư vấn tâm lý và sức khỏe cho tuổi mới lớn, doanh nhân, người già… được nhiều người quý mến”.

Phương châm, phong cách của Đỗ Hồng Ngọc khi viết là chân thành, tôn trọng, thấu cảm, thấu hiểu người khác, nhất là về những nỗi mất mát, để tạo nên năng lượng hóa giải sự khổ. Đỗ Hồng Ngọc tâm sự:

“Viết cho tuổi mới lớn, thì tôi… ở tuổi mới lớn, sống cùng tuổi đó, sống với tuổi đó, nghĩ như họ, nói như họ. Tôi viết như mình đang được trò chuyện với họ, như họ đang ngồi trước mặt tôi. Khi viết cho tuổi chớm già… thì tôi đang ở tuổi chớm già… Tóm lại, phải “thấu cảm” (empathy) nghĩa là phải “sống với”, cho thấu suốt nguồn cơn…”. Ông nghĩ rằng: “Y khoa là một khoa học nhưng cũng là một nghệ thuật. Tiếp cận với những cảnh đời, những con người, cũng là một nguồn cảm xúc để cầm lấy cây bút”.

Đỗ Hồng Ngọc được nhiều độc giả quý mến, chắn hẳn do cách viết của mình. Ông chỉ viết những gì mình thực sự trải nghiệm. Ông viết để chia sẻ kinh nghiệm chứ không phải từ sách vở mà ra. Khi viết, ông luôn nghĩ rằng như có độc giả đang ở trước mắt mình và đang trò chuyện với mình. Có lẽ kiểu viết như thế làm cho người đọc cảm nhận được người viết và độc giả có sự gần gũi, chia sẻ, trao đổi một cách chân thành, không kiểu cách, xa lạ. Đỗ Hồng Ngọc được mọi người hiểu, cảm, yêu, mến, vì ông trải lòng mình để chia sẻ cùng người đọc. Ông cho rằng chuyện viết lách là cái tình. “Ta cũng nòi tình, thương người đồng điệu…” (Chu Mạnh Trinh.)

Qua cơn mổ sọ não vì tai biến mạch máu, Đỗ Hồng Ngọc đến với Thiền học, Phật học để tiếp nối hơn 40 năm gắn bó với ngành y, để “dấn thân” hết mình theo tiếng gọi sâu thẳm của Y Vương:

“Cũng vậy. Khi tôi bị một vố bệnh nặng – tai biến mạch máu não, phải mổ cấp cứu – sau đó tôi đã tìm cách tự chữa trị cho mình. Tôi biết trường hợp này thuốc men chỉ là phụ, cái chính là thay đổi nếp sống, thay đổi nếp nghĩ, nếp nhìn. Tôi tìm đến Thiền học, Phật học là vì thế. Mình là bác sĩ, bất quá chữa được một phần cái “đau” còn cái “khổ” mình không chữa được. Có một bậc thầy, một y vương là Phật, sao không học nhỉ? Lại có một Bồ tát rất dễ thương tên là Dược Vương – thuốc vua – sao không học nhỉ? Vậy là tôi học. Rồi chia sẻ, bàn bạc, trao đổi lẫn nhau giữa bạn bè anh em, những người đồng bệnh tương lân.”

Quý hóa thay và đáng kính thay cái trí, cái tài và cái tâm của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc!

Trong nhiều năm ở những bước đầu tập tễnh học Phật tôi may mắn được Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc chỉ dẫn, khích lệ, đặc biệt là những bài học “thân giáo” mà tôi cảm nhận được. Nhờ đó mà tôi đã làm xong Tuyển tập Tôi Học Phật. Nội dung chính của Tuyển tập này gồm 4 cuốn “cốt lõi” trải dài trong 20 năm nghiền ngẫm, “lõm bõm học Phật” mới có được của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Đó là:

 

     1. Nghĩ Từ Trái Tim (Viết về Tâm Kinh Bát Nhã),

2. Gươm Báu Trao Tay (Viết về Kim Cang),

3. Ngàn Cánh Sen Xanh Biếc (Viết về Pháp Hoa),

4. Cõi Phật Đâu Xa (Viết về Duy Ma Cật).

Theo Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc thì cuốn Cõi Phật Đâu Xa rất “quan trọng” vì nói lên vai trò của Cư sĩ, nhất là trong thời đại hiện nay (với cái nhìn khá mới mẻ). Và, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc cũng nói thêm rằng hai cuốn Thấp Thoáng Lời Kinh và Thoảng Hương Sen… là những bài học tự rút ra cho bản thân mình, những giải thích, nhận định… để làm sáng tỏ thêm nội dung của 4 cuốn “cốt lõi” đã nêu trên.

Tuyển tập này được các anh chị trong nhóm “Phật học và Đời sống” chùa Xá Lợi chào đón và Hòa thượng Thích Đồng Bổn, Trụ trì chùa Xá Lợi gởi tặng Trang Nhà Quảng Đức. Và sau đó là Trang nhà Thư Viện Hoa Sen, Rộng Mở Tâm Hồn, Chùa Hương Sen v.v…

Trong Lời Ngỏ tuyển tập“Tôi Học Phật” Bác Sĩ Đỗ Hồng Ngọc viết:

“Vào tuổi 80, tôi nghĩ đã đến lúc “về thu xếp lại”, đã đến lúc “nhìn lại mình…” như người bạn nhạc sĩ họ Trịnh kia đã nói. Về thu xếp lại, bởi “chút nắng vàng giờ đây cũng vội”, vì rất nhanh thôi, các tế bào thân xác kia đã có vẻ rã rượi, ù lì, và cũng rất nhanh thôi các tế bào thần kinh nọ cũng mịt mờ, mỏi mệt, nhớ trước quên sau… Đầu năm 2019, tôi gom góp in cuốn Về Thu Xếp Lạinhư một cột mốc, một hẹn hò, rồi cuối năm tiếp tục gom góp in thêm cuốn Biết Ơn Mìnhnhư một nhắc nhở… Bên cạnh đó, cũng đã tạm một tệp bản thảo Đi Để Học, Ghi Chép Lang Thang… chủ yếu là một dịp để giúp “Nhìn lại mình”… Tôi cũng mong gom góp, tập hợp được một số bài viết, một số quyển sách nhỏ những lời biên chép bấy nay trong lúc lõm bõm học Phật, thấp thoáng lời kinh, làm thành một tệp để ngẫm ngợi khi cần. Muốn thì muốn vậy, nhưng lực bất tòng tâm rồi. Duyên may lại đến…

“… Cái học y khoa, tâm lý học, xã hội học cũng đã giúp tôi thấy rõ hơn vai trò thầy thuốc, tham vấn viên của bậc Y vương qua hình tượng các vị Bồ tát Thường Bất Khinh, Dược Vương, Diệu Âm, Quán Thế Âm… để không chỉ học hiểu lời kinh mà còn vận dụng vào nghề nghiệp cho sáng tỏ hơn…  Ở Duy-ma-cật, học Bất nhị. Kinh mở ra một cách tiếp cận mới, sinh động, cho dòng chảy mênh mang rộng khắp.

“Chắc chắn Phật không muốn chỉ có các đệ tử ngồi thiền định dưới gốc cây, tới giờ đi khất thực và đợi ngày nhập Niết bàn. Phật cần có những vị Bồ-tát đem đạo vào đời, tự giác giác tha. Thế nhưng, các Bồ-tát đầu tròn áo vuông cũng khó mà “thõng tay vào chợ” giữa thời đại bát nháo này. Vì thế mà cần Duy-ma-cật. Một thế hệ cư sĩ tại gia, nhằm thực hiện lý tưởng của Phổ Hiền Bô-tát…!

“Rồi từ những điều học hỏi, nghiền ngẫm, thể nghiệm… bấy nay mà tôi mạnh dạn sẻ chia với “Thấp Thoáng Lời Kinh”,  “Thoảng Hương Sen”, “Thiền Và Sức Khỏe”, “Nếp Sống An Lạc”… như một ứng dụng Phật pháp vào đời sống. Khi được hỏi “kinh nghiệm” về học Phật, tôi nghĩ trước hết, cần nắm được các thuật ngữ, sau đó là hiểu được các ẩn dụ, ẩn nghĩa, hàm chứa trong lời Kinh và quan trọng nhất là thực hành, ứng dụng vào đời sống, ở đây và bây giờ…

“Những năm sau này, tôi có dịp cùng học với nhóm bạn tại Chùa Phật học Xá Lợi về Lăng Nghiêm, Viên Giác, Lăng Già… Con đường học Phật thênh thang như cánh rừng kia mà ta mới tiếp cận vài hạt bụi rơi từ nắm lá Simsapa dạo nọ.

Xin được thưa thêm rằng Tuyển tập “Tôi Học Phật” gồm 4 cuốn “cốt lõi” trải dài trong 20 năm nghiền ngẫm, “lõm bõm học Phật” mới có được của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Theo Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc thì cuốn Cõi Phật Đâu Xa rất “quan trọng” vì nói lên vai trò của Cư sĩ, nhất là trong thời đại hiện nay (với cài nhìn khá mới mẻ). Và, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc nói thêm rằng hai cuốn Thấp Thoáng Lời Kinh và Thoảng Hương Sen là những bài học tự rút ra cho bản thân mình, những giải thích, nhận định… để làm sáng tỏ thêm nội dung của 4 cuốn “cốt lõi” đã nêu trên.

Với tấm lòng khao khát học hỏi và trí thông minh sẵn có, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đã tiếp nhận rất bén nhạy nhanh chóng giáo lý vi diệu Phật Đà. Cũng có thể những tri kiến này được tích lũy từ nhiều kiếp trước, đã tiềm ẩn đâu đó trong Tạng Thức của ông nên những kinh sách ông học đã thấu đáo nghĩa lý. Kiến thức Phật Học của ông được nhiều bậc Tôn Đức, thức giả khen ngợi.

Khi Thầy Tuệ Sỹ tặng sách HUYỀN THOẠI DUY-MA-CẬT cho Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, Thầy đã ghi ở đầu sách, như một lời xác nhận cái trí tuệ đó:

“Quý tặng Duy Ma Cư Sĩ Đỗ Hồng Ngọc.”

 

Tôi vui mừng và hãnh diện về điều này.

Như vầy tôi nghe; thưa Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc!

 

Nguyễn Hiền-Đức

Santa Ana, tháng 3.2021

Sửa chữa, bổ sung tháng 7, tháng 9 – 2021

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Filed Under: Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

ĐỌC ĐỖ HỒNG NGỌC: TÔI HỌC PHẬT, PHIÊN BẢN 2

03/09/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

ĐỌC ĐỖ HỒNG NGỌC:
TÔI HỌC PHẬT, PHIÊN BẢN 2

Nguyên Giác

z bia sach Toi Hoc Phat phien ban 2_Do Hong Ngoc

Có những người làm gì cũng hay, viết gì cũng hay. Tôi luôn luôn kinh ngạc về những người như vậy. Họ như dường lúc nào cũng chỉ ra một thế giới rất mới, mà người đời thường như tôi có ngó hoài cũng không dễ thấy ra. Đỗ Hồng Ngọc là một người như thế.

Đỗ Hồng Ngọc là một bác sĩ; dĩ nhiên ai cũng biết, bởi vì anh nổi tiếng hơn rất nhiều bác sĩ khác, và được báo chí phỏng vấn thường xuyên. Nhưng anh cũng nổi tiếng làm thơ hay từ thời sinh viên. Thơ của anh nhiều đề tài, có cả thơ Vu Lan, thơ tặng mẹ, thơ tình, thơ tặng em bé sơ sinh, thơ tặng bà bầu, và đủ thứ. Trong khi tôi đọc, thưởng thức, và thán phục các vần thơ tuyệt vời của anh, nhưng tận cùng thích nhất vẫn là đọc Đỗ Hồng Ngọc viết về Kinh Phật. Chính nơi lĩnh vực này, họ Đỗ viết gì cũng hay, viết ngắn cũng hay, viết dài cũng hay, viết về Thiền thở cũng hay, viết về ngũ uẩn giai không của Tâm Kinh cũng hay, viết về ưng vô sở trụ của Kinh Kim Cang cũng hay, viết về Kinh Pháp Hoa cũng hay, viết về Kinh Duy Ma Cật cũng hay. Và tôi tin, nhiều thế hệ sau sẽ nhớ tới một Đỗ Hồng Ngọc viết về lĩnh vực này, đó là những gì anh đã đọc, đã hiểu, đã sống và đã ghi xuống các trang giấy trọn một pháp giới học Phật của anh.

Nhiều thế hệ tương lai sẽ không nhớ tới một bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, và cũng chẳng thắc mắc chuyên ngành của anh có phải tai mũi họng hay nhi khoa, hay nội khoa. Cũng như chúng ta bây giờ chỉ mơ hồ hình dung về một bác sĩ Lê Đình Thám, nhưng dễ dàng nhớ về một cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám đã dịch Kinh Lăng Nghiêm, Đại Thừa Khởi Tín Luận, vân vân… và cũng là người đã sáng lập Gia Đình Phật Hóa Phổ, tiền thân của Gia Đình Phật Tử. Vâng, đời sau hẳn là sẽ nhớ tới Đỗ Hồng Ngọc với tuyển tập Tôi Học Phật, một tuyển tập đã gom chung nhiều tác phẩm đã in rời trước kia: Nghĩ Từ Trái Tim (về Tâm Kinh), Gươm Báu Trao Tay (về Kinh Kim Cang), Ngàn Cánh Sen Xanh Biếc (về Kinh Pháp Hoa), Cõi Phật Đâu Xa (về Kinh Duy Ma Cật), Thấp Thoáng Lời Kinh,  Thoảng Hương Sen, Thiền Tập…

Làm thế nào Đỗ Hồng Ngọc viết hay như thế? Phước đức, học lực của một đời hẳn là không đủ. Hằn phải là nhiều đời. Tôi suy nghĩ về câu hỏi đó, khi đọc “Tôi Học Phật – phiên bản 2” của Đỗ Hồng Ngọc. Phiên bản 2, bản PDF dày 780 trang, là ấn bản họ Đỗ biên tập lại nhân dịp nằm nhà khi cả nước rơi vào mùa dịch, như lời anh giải thích khi qua email ngày 7/8/2021 khi gửi bản PDF để chia sẻ giữa những người học Phật thân cận:

“Cả gần 3 tháng nay nằm nhà. Tình hình Covi ở Saigon căng thẳng lắm như Hải đã biết. Trong suốt thời gian này, mình chỉ làm một việc là “biên tập” lại toàn bộ cuốn Tôi Học Phật, chủ yếu là một cách ôn tập cho bản thân. Nay tương đồi hoàn chỉnh bản thảo này, mình in ra một ít để kỷ niệm. Bìa do mình tự “dàn dựng”, cảm hứng từ Đặc san Liễu Quán (Huế), mang tính “lõm bõm” “lãng mạn” của mình…”

Cũng nên ghi nhận rằng, chưa phiên bản nào phát hành rộng rãi (trừ, in ra một ít để kỷ niệm, như tác giả cho biết), vì bản PDF của “Tôi Học Phật – Phiên bản I” (1) lưu hành trên mạng từ đầu năm 2020, cũng là lúc trùng hợp với khởi đầu đại dịch coronavirus toàn cầu. Lúc đó, nhiều nước trên thế giới chới với vì dịch, kể cả tại Hoa Kỳ; riêng Việt Nam lúc đó bình yên, ngăn chận kịp thời. Nhưng tới mùa hè năm 2021, đại dịch tràn ngập nhiều tỉnh, thành Việt Nam. Thê thảm là ngay ở thành phố Sài Gòn, nơi ngụ cư của tác giả Đỗ Hồng Ngọc. Đó là lý do nhà văn, và là bác sĩ họ Đỗ, mới biên tập lại, bổ túc thêm, để soạn thành “Tôi Học Phật – Phiên Bản 2.”

Đỗ Hồng Ngọc giải thích về cơ duyên học Phật sau 6 thập niên loanh quanh, trích: “Khi là sinh viên ở Saigon, tôi cũng đọc Bát Nhã, đọc Suzuki, Krishnamurti…nhưng đọc chỉ để mà đọc. Đến năm tuổi gần 60, sau một cơn bệnh thập tử nhất sinh, tôi thấy mọi sự khác hẳn đi. Tôi đọc Tâm Kinh thấy không khó nữa. Như vỡ ra. Và với Tâm Kinh, tôi thấy chỉ cần học một chữ thôi. Chữ không. Từ đó mà vô trụ, vô trí, vô đắc…” (Tôi Học Phật II, bản PDF, trang 15)

Đó là cơ duyên lớn của tác giả họ Đỗ. Vì có những người tụng Tâm Kinh cả đời, nhưng không hiểu được. Cũng như có người đọc chú giải Tâm Kinh từ nhiều thầy, nhưng lại không vào được. Có người sau nhiều năm không hiểu, lại ngờ vực Tâm Kinh. Rồi có những người chọn thái độ kính nhi viễn chi, dặn nhau là nên tìm những gì cho đơn giản, thích nghi với đời sống hơn, nói sai lầm rằng Tâm Kinh chỉ là kinh để tụng trong chùa. Hiển nhiên là trăm ngã rẽ. Hẳn là tùy cơ duyên.

Nếu chúng ta nhìn về không khí học Phật nơi thế giới Tây phương, cụ thể là tại Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Úc châu… Chúng ta có thể thấy 2 khuynh hướng lớn. Thứ nhất, khuynh hướng thế tục hóa Phật Giáo, làm cho Phật Giáo trở thành một ứng dụng đời thường, biến Phật Pháp thành một pháp mindfulness đơn giản để thư giãn, để chữa bệnh, để làm một liệu pháp nơi góc bệnh viện, thậm chí để làm một pháp tỉnh thức bổ túc cho các tôn giáo khác. Thứ hai, khuynh hướng xuất thế gian, học Phật để bước đi trên đường giải thoát của Phật Giáo, nơi đây lại chia ra ba tông phái lớn: Nam Tông, Bắc Tông, Kim Cang Thừa (Phật Giáo Tây Tạng).

Tuyệt vời nơi Đỗ Hồng Ngọc là chúng sinh muốn nghe chuyện gì thì anh nói chuyện đó. Muốn nghe chuyện ứng dụng thế gian, họ Đỗ trở thành một bác sĩ phân tích về sức khỏe thân và tâm. Muốn nghe chuyện giải thoát, họ Đỗ liền trở thành một người kể lại các kinh nghiệm học Phật mà ai cũng có thể học theo và tự chứng ngộ được.

Thí dụ, Đỗ Hồng Ngọc, trong tư cách bác sĩ, đã viết về chữa bệnh trong Tôi Học Phật: “…đặc biệt là phương pháp “thở chánh niệm” – mà Phật đã dạy từ những bài học đầu tiên sau khi giác ngộ – tôi thấy có thể có hiệu quả trong phòng ngừa và điều trị một số bệnh thời đại, những bệnh dịch không lây, nhưng rất nguy hiểm, gây khổ đau, tàn phế cho nhiều người mà Tổ chức Sức khỏe Thế giới (WHO) đã luôn cảnh báo trong những năm gần đây, làm giảm chất lượng cuộc sống của con người, chủ yếu do lối sống và môi trường sống đầy căng thẳng, bất an...” (THP 2, trang 30)

Như thế rất thực dụng, bất kỳ tín đồ tôn giáo nào cũng có thể áp dụng được. Phương pháp thiền tỉnh thức dùng trong các trường học, và trong các bệnh viện tại Hoa Kỳ hiện nay cũng dựa nhiều vào pháp thở chánh niệm. Khi Phật Pháp ứng dụng để dùng trong trường học và bệnh viện, tất cả yếu tố tín ngưỡng và tôn giáo đều phải gỡ bỏ.

Nơi mặt ngược lại, khi nói về giải thoát luận, Đỗ Hồng Ngọc đã chỉ ra những cách nhìn để xúc chạm sâu thẳm tới các pháp ấn: vô ngã, vô thường, khổ, không. Chúng ta có thể nhớ rằng, chư tổ ngày xưa lấy cỗ xe ra để giải thích lý vô ngã, để nói rằng không hề có cái gì gọi là xe nào trong cỗ xe, gọng xe, bánh xe… Và rất hiện đại hóa, Đỗ Hồng Ngọc lấy cái đồng hồ ra để giải thích về lý vô ngã:

“Bị bó rọ, bị thành kiến che khuất, lấp chặt, dần dần ta bị lệ thuộc, bị níu kéo, ta giữ lề, cho “xứng với ta”, với vai ta đóng và bản ngã ta sẽ ngày càng to, càng dầy ra, chính là nguồn gốc của khổ đau. Cái gì có “ta” trong đó thì tạo ra khổ đau. nhà ta, của ta, con ta, người yêu ta và thân ta… Mà cái ta đó, theo cái nhìn Bát nhã Tâm Kinh chỉ là sự kết hợp của những thành tố do duyên mà tụ lại, tương tác, tương sinh, tương hợp, cái này có là do cái kia có, quấn quýt chằng chịt lẫn nhau – như những thành tố tạo nên cái đồng hồ gồm kim, bánh xe, con lắc… và sinh ra tiếng “tích tắc”. “Tích tắc” vốn không có, thực không có, do kết hợp các thành tố riêng lẻ mà có. gỡ bỏ các thành tố ra để tìm lấy tiếng tích tắc (cái ngã) sẽ không thấy đâu nữa! Ráp lại thì có. Cái tiếng tích tắc, không mà có, có mà không, trống rỗng mà tràn đầy là sự vận hành tuyệt diệu của cái đồng hồ. “Chân không” cũng chính là “diệu hữu”. dừng lại ở “không” đơn thuần, như một xóa bỏ, từ chối, hư vô chủ nghĩa là một sai lầm tai hại.” (THP 2, trang 70-71)

Có thể tin rằng, những gì tác giả Đỗ Hồng Ngọc viết về học Phật sẽ lưu giữ rất lâu trong nền văn học Phật Giáo quê nhà, vì toàn văn tuy rời rạc, nhiều chủ đề, nhưng vẫn xuyên suốt là một tập luận thư để chú giải Kinh Phật. Điều rất khác giữa Đỗ Hồng Ngọc và nhiều vị tiền bối là từ chỗ rất lơ mơ trong 6 thập niên, chứ không phải vào chùa học Phật từ thời thơ ấu, cho nên văn phong của anh là một pháp giới xen lẫn của một nhà văn, một nhà thơ, và là một nhà khoa học. Đây cũng là chỗ độc đáo không chỉ của anh, mà là của rất nhiều người từ một thế hệ học Phật cùng thời. Nghĩa là, Sài Gòn đã là biển lớn, là nơi hội ngộ của những dòng sông tư tưởng. Từ các dòng nước mát này, một (và rồi nhiều) thế hệ đã tắm gội, đã uống, đã học và rồi lại cầm bút để làm cho các dòng sông tư tưởng ngày càng chảy lan ra khắp quê nhà.

Nơi đó, để Phật hóa cõi nhân gian, một thế hệ học Phật đã từ nhiều cõi nước hẹn nhau bước tới Việt Nam, để học, để tu, để dịch, để dạy và để viết — trong đó có Cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám, Thầy Minh Châu, Thầy Nhất Hạnh, Thầy Thanh Từ, Thầy Tuệ Sỹ, Giáo sư Lê Mạnh Thát, Ni Trưởng Trí Hải, Ni Trưởng Hải Triều Âm… Và nơi mặt khác, để thi hóa cõi trần gian đầy đau đớn này, để chỉ ra Khổ Đế nhằm làm tiền đề cho Đạo Đế hiển lộ, một thế hệ các văn nghệ sĩ đã hẹn nhau tới Việt Nam để sống và để viết lên những cõi thơ dị thường, trong đó có Bùi Giáng, Phạm Thiên Thư, Đỗ Hồng Ngọc, Thích Tánh Tuệ, Nguyễn Lương Vỵ…

Nói theo Phật Giáo Tây Tạng, họ là những bậc tái sinh. Dĩ nhiên, tác giả Đỗ Hồng Ngọc không đồng ý về nhận xét này. Vì họ Đỗ sẽ dẫn ra ngay rằng anh không hề thấy có cái gì gọi là “cái ta, cái của ta” trong thân ngũ uẩn, thì hà huống gì lại nói rằng có một chàng họ Đỗ hẹn tới Việt Nam để làm thơ, để viết văn, để chú giải Kinh Phật:

“Trong cái tánh “Không” đó, tất cả là Vô, hay nói khác đi, tất cả là không có! Không có hình thể, sắc tướng; không có cảm thọ – không có tưởng, hành, thức gì cả. Tóm lại, là vô ngã. Không có cái ta thực mà chỉ có cái ta giả tạm, bọt bèo, cái ta đang ăn uống, nói năng, huênh hoang, tự mãn, tự ti, tham lam, sân si, mê đắm… đủ thứ, đủ kiểu. Cái ta giả này làm khổ cái ta thật. Cái ta giả làm Tôn ngộ Không bị kim cô siết đau muốn chết, còn cái ta thật thì Tôn ngộ Không đã bay bổng biến ra vô số những Tôn ngộ Không khác rồi! Mà đã vô sắc (cái thân xác) thì đương nhiên sẽ vô nhãn (mắt), vô nhĩ (tai), tỷ (mũi), thiệt (lưỡi), thân (xúc giác), ý (suy tưởng). Toàn thân đã không có lẽ nào có từng thành phần?” (THP 2, trang 92)

Người xưa có nói, uống nước ấm lạnh chỉ tự biết, không nói ra được cho người khác hiểu được. Tương tự, cũng là các cảm xúc khi đọc Đỗ Hồng Ngọc. Đặc biệt, giới trẻ kém tiếng Việt có thể đọc phần tiếng Anh — “Handing Down The Precious Sword / Gươm Báu Trao Tay” —  do dịch giả Diệu Hạnh Giao Trinh dịch từ nguyên tác Gươm Báu Trao Tay của Đỗ Hồng Ngọc.

Cuối cùng, xin trích dẫn vài dòng cuối một bài thơ của Đỗ Hồng Ngọc, mà tác giả khiêm tốn gọi là “bài vè” để ghi nhận về pháp Thiền hơi thở, trích:

“…Hơi thở xẹp xì
Thân tâm an tịnh
Không còn ý tưởng
Chẳng có thời gian
Hạt bụi lang thang
Dính vào hơi thở
Duyên sinh vô ngã
Ngũ uẩn giai không
Từ đó thong dong
Thõng tay vào chợ
.” (THP 2, trang 228)

Độc giả muốn đọc đầy đủ bài “Vè cẩm nang Thiền” vừa dẫn có thể chờ cho sách “Tôi Học Phật – phiên bản 2” phát hành rộng rãi. Bài thơ hướng dẫn Thiền pháp này không có trong ấn bản “Tôi Học Phật – phiên bản 1.” (1)

Một điểm đặc biệt trong Tôi Học Phật của Đỗ Hồng Ngọc, và cũng hiếm thấy nơi các tác giả khác: bạn có thể ngưng ở bất kỳ trang nào, ở bất kỳ dòng chữ nào, để tự nghiệm những lời kinh được chú giải ngay trên thân và tâm của bạn. Bạn hãy đọc rất chậm và hãy nghiệm như thế, nơi từng hơi thở của bạn, nơi từng niệm và nơi từng cảm thọ của bạn. Những dòng chữ Đỗ Hông Ngọc viết xuống trong sách cũng là từ các thể nghiệm thực chứng của tác giả. Đó là những dòng trực giải Kinh Phật rất mực trang nghiêm, nơi đó từng dòng chữ đã trở thành những trận mưa hoa để cúng dường chư Phật. Nơi đó là hạnh phúc, là an lạc và là vô lượng công đức.

Nguyên Giác PHAN TẤN HẢI

02.09.2021

Nguồn: Thư Viện Hoa Sen

https://thuvienhoasen.org/a36490/doc-do-hong-ngoc-toi-hoc-phat-phien-ban-2

GHI CHÚ:

(1) Tôi Học Phật – phiên bản 1: https://thuvienhoasen.org/p46a33329/2/toi-hoc-phat

Filed Under: Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

Vài điều tâm đắc khi đọc TÔI HỌC PHẬT của Đỗ Hồng Ngọc

25/08/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc 2 Comments

 

Vài điều tâm đắc khi đọc Tôi học Phật của Đỗ Hồng Ngọc

Minh Lê

(Nha Trang)

Sau bài “Học Phật qua thơ Đỗ Hồng Ngọc”, Anh Ngọc thấy con nhỏ “có chí học hỏi” nên gởi tặng tập sách “Tôi học Phật” và dặn “em coi rồi có cảm nhận hay câu hỏi gì thì cho anh biết”. Trời, lúc đó tôi vừa mừng vừa… run, mừng vì được Anh Ngọc tặng sách, run vì chuyện Phật pháp mình chỉ võ vẽ chút rìa, sao hiểu được chuyện cao xa. Nhưng không thể phụ tấm lòng của Anh, tôi bèn… đẩy mắt kiếng lên, lọ mọ đọc, ngẫm và cảm nhận.

“Tôi học Phật” là tập hợp bốn cuốn sách giải thích kinh Phật và một “bộ sưu tập” những bài viết ngắn về Phật pháp. Để lĩnh hội hết ý nghĩa sâu xa của các bộ kinh thì hiển nhiên tôi không đủ sức, tôi sẽ làm “người mù sờ voi”, hiểu được chỗ nào nói chỗ đó, nếu có sai chắc Anh Ngọc sẽ thông cảm và không la đâu.

 

“Nghĩ từ trái tim” viết về Tâm Kinh Bát Nhã, đây là cuốn đầu tiên Anh Ngọc viết về kinh Phật. Tôi đã “thủ” cuốn này từ lâu trong tủ sách, khi nào lo, buồn, giận thì lấy ra lật một trang như… bói Kiều, rồi đọc. Nói đâu xa, mấy bữa trước xã tôi thông báo sẽ tới từng nhà test Covid-19, tôi nghe xong bắt đầu… lo. Trời ơi, lỡ mà test ra mình bị dương tính, thì sẽ “bị” test PCR. PCR cũng dương tính thì sẽ “bị” đi cách ly, nghe nói… đủ thứ chuyện không biết thật giả nhưng nghe xong sợ muốn chết. Chỉ trong mấy phút, trong đầu tôi, cuốn phim đã nhanh chóng “tua một vòng” từ chuyện ra test tới chuyện… ra nghĩa địa. Không được, mình phải bói… Tâm Kinh ngay lập tức. Lật ra, là trang có câu “viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh niết bàn”. Anh Ngọc viết: “Lòng mơ ước của cả kiếp người để tìm kiếm hạnh phúc với hết thành công này đến thành công khác, rồi khổ đau, rồi tuyệt vọng rồi hy vọng… và cứ xây đắp mãi, cao lên mãi, để rồi càng bám víu, càng lo âu, càng sợ hãi.” (tr. 106) Đúng quá chớ, nhưng mà làm sao cho đỡ lo, đỡ sợ?

Thì đây: “Chỉ cần chú ý vào hơi thở của mình thôi thì hình như thân ta cũng nhẹ nhàng vì cái duy nhất còn là cái hơi thở vào thở ra rất quan trọng mà ta vốn hay quên… Trên thực tế, nếu biết tập trung vào cái hơi thở đó thôi, ta vừa thở tốt hơn, hiệu quả hơn về mặt sinh lý mà còn làm quên đi những nỗi phiền muộn lo âu làm ta khổ đau, tức là được an vui cả về mặt tâm thần.” (tr. 50) Ủa, đơn giản vậy sao? Tôi làm liền, đầu tiên hơi thở còn ngắn, dồn dập nhưng từ từ hơi thở dài ra, sâu hơn. Đầu tôi cũng dần dần bình tĩnh lại, vì tôi chú ý tới hơi thở nên quên nghĩ tới chuyện khác. Anh Ngọc dặn tiếp: “Thở bụng, chú ý thở vào thở ra, bỏ mặc cảm xúc thì cảm xúc sẽ biến mất. Khi giận, khi sợ, khi cảm xúc mạnh lập tức tập trung vào hơi thở thì sẽ có lợi.” (tr. 52 – 53) Tôi thở được cỡ 15 phút thì bỗng nhận ra, trong suy nghĩ của mình trước đây, cái phần trăm có thể xảy ra rất ít, vậy mà mình cuống quít cứ như… nước đã tới chân rồi vậy. Vậy là tôi hổng thèm nghĩ tới nó nữa, hôm sau ra test, âm tính. May quá, nếu hôm đó tôi không bói Tâm Kinh, nghe lời Anh Ngọc thì tôi đã ăn không ngon ngủ không yên vì mấy cái “điên đảo mộng tưởng” của mình rồi. Té ra “niết bàn” cũng gần chớ đâu có xa như mình tưởng!

 

Cuốn thứ hai “Gươm báu trao tay” chú thích kinh Kim Cang Bát Nhã. Anh Ngọc nói ảnh “bỡ ngỡ, chưng hửng” khi đọc kinh này, nhưng tôi lại rất… hí hửng. Hí hửng vì qua lời phiên dịch của Anh Ngọc, tôi thấy bài học lần này dễ hiểu quá trời. Kinh kể “chuyện Phật tới giờ ăn, đói bụng, bèn mặc áo, ôm bình bát đi… khất thực… Đến khi khất thực thấy vừa đủ rồi ung dung trở lại “hội trường”, bày ra ăn, ăn xong, thu dọn y bát đâu đó đàng hoàng rồi rửa chân sạch sẽ, ngồi xếp bằng… thở, nghĩa là… nhập định!” (tr. 154) Thong thả, an nhiên, tự tại, chớ đâu như mình, đói vẫn chưa chịu ăn, đang ăn mà cứ nghĩ tới chuyện khác, ăn xong chưa kịp thở thì đầu óc đã chạy lung tung… Tôi vốn khoái ẩm thực nên nói tới chuyện… ăn là sẽ nói mê mải, lần này Phật dạy chuyện “ăn” nên đúng “tủ”. Rõ ràng mình ăn mà tâm chưa yên, nên mới ăn không ngon, mới đủ thứ bịnh. Dường như cũng nghĩ vậy nên trong Kinh, Ngài Tu Bồ Đề liền hỏi Phật “làm thế nào để hàng phục tâm?”

Phật thấy câu này quan trọng quá, nên chịu khó giải thích rất dài và chi tiết, như thầy giáo giảng bài hình học không gian cho một học trò mới vậy. Tôi vốn… dốt hình học không gian, nên nghe giảng thường như “vịt nghe sấm”, nhưng cuối cùng cũng thấy được một cái hình… tam giác ba chiều khi anh Ngọc cho cái đề tựa “đối cảnh vô tâm” (tr. 187) Cũng giống như khi nhìn vô một bài hình học không gian, bạn có thể “thấy” hoặc “không thấy”, không có khả năng thứ ba, tôi may mắn “thấy” chút gì đó qua đề tựa này. Tôi chợt nhớ tới mười bài thơ chăn trâu do Trần thị Lai Hồng phỏng dịch từ bản chữ Hán của Thiền Sư Phổ Minh (Trung Quốc) và bản tiếng Anh của Thiền Sư Kaku-An (Nhật) (“Mười tranh chăn trâu”, gio-o.com Tết 2009) Trong các bài thơ này, tâm được ví như con trâu, còn mình là người chăn trâu. Ai “chăn” cái con trâu – tâm này rồi thì biết, còn lâu mới “chăn trâu sướng lắm chứ”. Con trâu – tâm này nó cực kỳ ngang bướng, mình biểu đi đông thì nó chạy bên tây, mình kêu đi từ từ thôi thì nó lồng lên như con ngựa bất kham, tóm lại chăn trâu rất khổ! Cho nên tôi “diễn dịch” cái đề tựa của Anh Ngọc thành “cảnh còn, trâu mất”, không trâu thì hết… khổ!

Nhưng làm sao để con trâu… biến mất? Đầu tiên phải “thấy” nó, “lắng nghe” nó, “vỗ về” nó, kêu nó “thở” với mình:

“Túm chặt dây roi giắt bên người

ngại ngươi tuôn lấm bụi trần ai

vỗ về thân ái

nào dìu

nào dắt

hò rì hò tắt

ngươi thuần hòa theo sát chân ta.”  (bài số 5) (*)

Khi mình lắng nghe nó rồi, nó cùng mình “thở” rồi, thì nó sẽ dịu xuống, và mình có thể “cỡi lưng nó về nhà”. Về nhà mình dắt nó vô chuồng, cho nó ăn cỏ, còn mình:

“liệng dây

quăng roi

Ơ …ngươi đâu rồi?

Ờ …mà lòng ta lại thật thảnh thơi…” (bài số 7) (*)

Giờ thì con trâu thong thả ở trong chuồng, mà mình thì tung tăng ra đường:

“Ngực trần

chân không

bùn đất lội chợ đời

sảng khoái ngoác miệng cười

đâu cần thần tiên bí quyết

cành khô nẩy nụ tươi.”  (bài số 10) (*)

Bài số 10 là bài tôi thích nhứt, bởi nó minh họa hết sức sống động cho câu “đối cảnh vô tâm”. Thực ra, có tâm mà như vô tâm đó thôi!

 

Cuốn thứ ba trong Tôi học Phật là “Ngàn cánh sen xanh biếc” viết về Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Kinh này Phật chỉ “làm cách nào cho mau thành Phật” (tr. 349) Nghe hấp dẫn không? Kinh này vui lắm, vì một trong những nhân vật chính là Bồ tát Dược Vương, một vị Bồ tát  “ai thấy cũng vui, ai gặp cũng mừng”. (tr. 391) Và một trong những cách “mau thành Phật” là theo gương “chân thành” và “thấu cảm” của Bồ tát Dược Vương, hay Bồ tát Di Lặc, nói một cách khác là “tùy hỷ” (tr. 410) Anh Ngọc viết: “Hỷ là lòng vui, tùy hỷ là vui giùm người, vui theo người.” (tr. 414)

Hồi đọc cuốn Đắc nhân tâm – bí quyết để thành công, tôi nhớ cách đầu tiên Dale Carnegie nói trong 6 cách gây thiện cảm là “quên mình và thương người”. Ông đưa ra nhiều dẫn chứng thực tế để minh chứng cho câu: “Nếu bạn sốt sắng thành thật quan tâm tới người khác thì chỉ trong hai tháng sẽ có nhiều bạn thân hơn là hai năm gắng công bắt người khác quan tâm tới bạn.” (tr. 89) Có lần tôi đi mua vải may màn cửa, người bán là một cô mặt buồn thiu. Thường hễ gặp người bán mặt buồn là tôi đi thẳng, lần này tôi thử thực hành điều Carnegie khuyên. Tôi nói loại vải tôi cần, khen tiệm của cô có nhiều loại vải và hỏi sao cô lại chọn ngành vải này mà không bán vải may mặc như người khác? Cô thấy tôi thực sự muốn biết nên kể lý do của cô ra, sau đó chúng tôi nói chuyện rất vui vẻ, mặt cô cũng tươi lên hẳn. Ra về tôi thấy lòng rất vui vì đã giúp cô bán hàng có những phút vui vẻ. Đây chính là “tùy hỷ” chăng? Có lẽ khác ở chỗ “hỷ” của Bồ tát Di Lặc và Bồ tát Dược Vương là “không vụ lợi”, còn “hỷ” của Carnegie khởi đầu từ cái tâm “có vụ lợi”, nhưng nếu làm nhiều, bỏ dần cái tâm “vụ lợi” thì chắc sẽ đi tới được cái “hỷ” của Bồ tát như Anh Ngọc viết.

 

Cuốn cuối cùng “Cõi Phật đâu xa” kể về Kinh Duy-ma-cật. Duy-ma-cật là vị cư sỹ tại gia, có hiểu biết và kinh nghiệm thực hành Phật pháp sâu sắc. Khi ông bị bịnh, Phật kêu các đại đệ tử như thầy Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Ca Diếp, A Nan Đà,… đi thăm ông nhưng không ai dám đi vì đã từng tiếp nhận bài học từ ông. Ngay cả Bồ tát Di Lặc và Bồ tát Trì Thế cũng “thua” luôn, cuối cùng Phật nhờ Bồ tát Văn Thù Sư Lợi nổi tiếng “đại trí” đi giùm. Mọi người bèn theo chân Bồ tát Văn Thù tới nhà ông Duy-ma-cật. Hai bậc đại trí đối đáp với nhau rất uyên thâm, sau đó Phật cũng nói chuyện với ông Duy-ma-cật. Tôi chỉ “sờ voi” được có một điểm: Duy-ma-cật nói ông thấy Phật từ trong chính mình (chánh quán). Anh Ngọc chú thêm: “Cho nên Phật dạy: hãy nương tựa chính mình!” (tr. 608) Tôi hiểu là đừng tìm kiếm đâu xa ở bên ngoài, cứ tập thở sâu, chăn “trâu” cho tốt, “tùy hỷ”, tin tưởng ở Phật tính trong mình và trong người, rồi sẽ thấy “cõi Phật đâu xa, cõi Phật trong ta” (tr. 730).

 

Phần cuối sách tập hợp nhiều bài viết rải rác của Anh Ngọc trong khi “Lõm bõm học Phật” từ những năm 2000 cho tới nay. Văn phong Anh Ngọc lúc nào cũng vậy, giản dị, dí dỏm, tinh tế và rất thơ. Nếu ví các cuốn sách chú giải Kinh như những bản trường ca dài, hùng tráng và… đôi khi khó hiểu, thì các bài viết này như những đoản khúc ngắn giúp người nghe hiểu được các điểm đặc sắc và quan trọng nhứt trong Kinh.

Tuyển tập Tôi học Phật làm tôi thêm tin tưởng rằng Phật muốn trao truyền một triết lý sống hơn là một tôn giáo. Đâu có người sáng lập tôn giáo nào lại khẳng định “mỗi người các bạn đều sẽ thành ta”, hay dám hứa “bạn sẽ có cuộc sống an lạc ngay bây giờ và ở đây”? Nhưng Phật thì rất tha thiết mong mọi người đều thành Phật càng sớm càng tốt, để thế gian này không còn đau khổ nữa. Lời Phật dạy được ghi lại bằng tiếng Phạn, nhưng truyền bá ở Việt Nam đa phần qua chữ Hán, lúc giảng Phật cũng phải “tùy nghi” cho hợp với suy nghĩ thời xưa, nên có nhiều từ và cách nói khó hiểu với người thời nay. May mắn có người “học Phật” dễ thương như Anh Đỗ Hồng Ngọc, chịu khó giải thích lời Kinh theo cách thời nay. Mong Anh Ngọc sẽ tiếp tục “thả thêm nhiều chiếc lá Simsapa” (ý từ “Một chút tâm tình” và bìa sách) như những viên sỏi trắng đánh dấu đường đi trong chuyện cổ tích, cho tôi theo dấu về nơi an lạc!

………………………………

(*) theo Trần thị Lai Hồng

 

ML (Suối Tiên, 8/2021)

 

Sách trích dẫn:

  1. Đỗ Hồng Ngọc, Tôi học Phật, phiên bản 2 (2021) do Nguyễn Hiền-Đức và Đỗ Hồng Ngọc tuyển chọn.
  2. Dale Carnegie, Đắc nhân tâm – bí quyết để thành công, Nguyễn Hiến Lê và Phương Hiếu dịch, NXB Văn Hóa 1993.

3.Trần thị Lai Hồng http://www.gio-o.com/Tet/TranThiLaiHongChanTrauTet2009.htm

MƯỜI TRANH CHĂN TRÂU Thập Mục Ngưu Đồ

 

 

 

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Lõm bõm học Phật, Nghĩ từ trái tim

Ngô Tiến Nhân: Đỗ Hồng Ngọc học PHẬT – như tôi thấy 

23/08/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Đỗ Hồng Ngọc học PHẬT – như tôi thấy 

Ngô Tiến Nhân

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc vừa gởi cho tôi “ hợp tuyển “ Tôi học Phật sau cơ may “ cấm túc-nhập thất “ 3 tháng trong Sài Gòn giãn cách để “còng lưng edit “ và thiết kế trang bìa với yêu cầu xem trước và… có nhận xét !

Trước hết tập sách có trang bìa được Hoạ sĩ Ngọc.(tôi rất thích các ký họa của Anh chỉ vài nét mà lột tả được chân dung thần thái nhân vật) thiết kế công phu và gởi gắm nhiều thông điệp, mang chất lãng mạn của một tâm hồn Thi sĩ Đỗ Nghê cũng như cách học “Lõm bõm” đặc thù của Anh .

Hai bàn tay nâng niu 3 chiếc lá như đơm một đóa hoa mà hương thơm của nó đưa ta về rừng Simsapa cận tọa Thầy nghe giảng . Tôi thấy 3 cuốn kinh mà Anh chọn trong rừng kinh điển ( Bát nhã Tâm kinh – Kinh Kim Cang – Kinh Pháp Hoa ) đủ tối giản mà vẫn kết thành viên kim cương toả sáng dẫn đường ta đi tới Giác ngộ . Còn hai bàn tay kia phải chăng là hai bàn tay Bất nhị Đạo – Đời của Bồ tát Duy Ma Cật ?

Tất cả được chiếu soi trong gam màu của Hoài niệm của trầm tư song sau nó vẫn lung linh ánh hoàng kim một thủa !

Đấy là “ nhàn đàm” về hình thức , còn nội dung còn cấu tứ ?

Vụ này không dễ đâu !

Tôi quen biết và trở nên thân thiết với Anh Ngọc khoảng 20 năm , thời gian không dài song vì gặp nhau thường xuyên lại có nhiều mối quan tâm chung cũng đồng điệu vài chuyện nên có cảm giác gần gũi… từ kiếp nào . Chúng tội gặp nhau hàng tuần tại Chùa Xá lợi trong Nhóm học Phật ( nơi Anh làm Trưởng tràng ), lại cùng sinh hoạt tại Salon Văn hoá Càphê Thứ bẩy gặp nhau có hẹn hoặc không hẹn trong các hội thảo tọa đàm hay triển lãm … cũng thật tình cờ (hay không ?) chúng tôi có nhiều bạn hay người quen chung đặc biệt trong lĩnh vực liên quan đến Phật pháp !

Dài dòng một chút để nói rằng tôi có chút duyên để phần nào hiểu Anh còn Anh hình như có tin tôi đôi phần nên hỏi ý .

Lúc đầu do nông nổi nên tôi hăng hái trình bày về cấu trúc tuyển tập, về tổ chức bản thảo, về tầm quan trọng của dẫn luận … quên rằng Anh là dân cầm bút lão luyện lại có hai trợ thủ chuyên nghiệp bên tây !

Rồi Anh “ kích động “ kiểu gì mà tôi bồng bột ngồi xuống rị mọ gõ phần Dẫn luận ! Cũng may còn chút tỉnh táo nên tôi ngồi đọc kỹ lại phần Dẫn nhập Anh viết .

Ơn giời ! Hú vía ! Suýt nữa thì mình làm một việc dại dột !

Dẫn nhập do chính Anh tác giả viết với sự am tường sâu sắc, cấu tứ chặt chẽ với sự cẩn trọng vốn có và bút pháp dung dị duyên dáng là hoàn hảo rồi , còn chỗ nào cho tôi nữa !

Có chăng tôi chỉ có thể viết về một góc nhìn hay một cách tiếp cận Phật pháp mà tôi thấy qua Tôi học Phật của Anh mà thôi .

Hãy xem cách “ lõm bõm “ học Phật của Anh :

Trước rừng thiên kinh vạn quyển Phật học Anh chọn cho mình chỗ đột phá : Tâm kinh . Đây là cốt tủy của Bộ kinh Bát nhã 600 quyển rút còn 260 từ rồi rút nữa còn 4 từ ( ngũ uẩn giai không ) rồi kết tinh trong một chữ Không. Đây cũng là liễu nghĩa của Trung quán luận, là hạt nhân của Phật học, ai ngộ nhập được sẽ mở lối vào Phật đạo thênh thang, sẽ đến vô trí vô đắc vô ngã … thật dũng mãnh mà cũng thật sảng khoái !

Nhưng không “ túc duyên “ thì dễ gì ngộ nhập !

Rồi Anh tấn công vào Kinh Kim Cang để nhận biết thực tướng – vô tướng , để giải phóng mình ra khỏi mọi hệ quy chiếu (ưng vô sở trụ), mọi mô thức tư duy, mọi hình thái của não trạng để tự do trực nhận chân lý !

Anh chọn Kinh Pháp Hoa với tinh thần “ khai thị chúng sinh – ngộ nhập trí kiến Phật “

Thế là tạm đủ để Anh xây dựng một nền tảng vững chắc cho việc đi hết con đường Phật học !

Rồi nữa Anh chọn kinh Duy Ma Cật để thống nhất Đạo – Đời  để xây cầu Bất nhị để thấy đời không chỉ khổ đau mà còn phúc lạc để thấy cõi Phật đâu xa …

Lõm bõm như Anh mình chạy e không kịp !

Khi công phá một công án Anh tiếp cận đa ngành có hệ thống. Anh vừa có tư duy khoa học phân tích mổ xẻ của một bác sĩ y khoa vừa mở con mắt trực giác của một thiền giả cộng thêm sự nhạy cảm của một thi sĩ Đỗ Nghê. Đừng quên Anh có sự mẫn cảm về sinh tử qua các bài thơ viết hồi 67 hay Mới hôm qua thôi ở Canada, có kinh nghiệm cận tử nghiệp và tái sinh sau cơn bạo bạnh cùng kinh nghiệm làm truyền thông với kiến thức tâm lý học và xã hội học. Anh tiếp cận một vấn đề bài bản cả về bản thể luận lẫn phương pháp luận, thấy cả Thể – Tuóng  đặc biệt là Dụng của nó Anh đào từ hai đầu theo cách nói của Harari tác giả Lược sử loài người .

Tôi vốn lười biếng học Phật, chỉ theo kiểu lãng đãng tưng tửng nên thích cách học lõm bõm của Anh. Tôi và Anh có nhiều sở thích khác biệt tỷ dụ như tôi thích rượu Anh lại mê chè, cay ngọt khác nhau nhưng hình như rượu chè cũng có thể đi cùng nhau được .

Lại nói về Thấp thoáng lời kinh. Theo tôi kinh kệ như là di tích khảo cổ nếu ta khéo bóc tách đi những lớp bụi của thời gian, của văn hoá, của lịch sử, của Huyền thoại thì những hạt còn lại như những chỉ dẫn vẫn dẫn chúng ta về núi Linh thứu, nắm lá khô vẫn chỉ đường cho ta về rừng Simsapa nghe liễu nghĩa Uyên nguyên của Thầy .

Đừng bám chắc lời kinh ( vì thế là phỉ báng ) cũng đừng xa rời ( vì thế là lời Ma vương ) mà phải nắm được liễu nghĩa cái có thể nằm giữa nằm sau và nhiều khi siêu việt khỏi ngôn từ .

Thế nên vẫn phải miên mật văn tư tu, miên mật giới định tuệ, không phải chỉ tọa thiền mà sống thiền, không phải tụng Tâm kinh mà phải sống Tâm kinh trong từng sát na để rồi Gate gate paragate parasamgate …

Có phải không Anh Đỗ Hồng Ngọc?

Ngô Tiến Nhân

(Saigon, 14.8.2021)

 

Được gửi từ iPad của tôi

…………………………………………………….

Đỗ Nghê học Phật

Ngô Tiến Nhân

Tác hữu trần sa hữu…

Nhiều người hỏi : Thi sĩ Đỗ Nghê (Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc) học Phật từ Thầy nào ( mà uyên thâm thế ?) và học từ bao giờ ?
Anh ú ớ vì… nói không được !
Anh muôn giữ giới nhưng nói thật thì vừa dài lại khiến người ta nghi hoặc nên  thường đánh trống lảng hoặc cười… trừ !
Nhưng khi không thể né mãi  Anh đành bộc bạch qua bài thơ “Bổn sư”.

Nhưng để biết Anh học Phật từ lúc nào e rằng phải viện ra đây hai bài thơ , bài Thư  cho bé sơ sinh, viết lúc chàng thi sĩ 25 tuổi là sinh viên y thực tập đỡ đẻ ở Bênh viện Từ Dũ và bài thơ Mới hôm qua thôi, viết khi đi thăm Trại dưỡng lão ở Canada khi “chàng” ở lứa tuổi … tri thiên mệnh!
Những câu hỏi nhân sinh, những băn khoăn kiếp người, những hoang mang thời loạn, những âu lo cô đơn lạc loài (mất ID ) … được Anh chia sẻ … bình đẳng với em bé sơ sinh. Rồi những chiêm nghiệm cuộc đời, nỗi niềm trắc ẩn trước những hình hài đã đi hết kiếp nhân sinh, chẳng phải những điều phải học Phật mới “ ngộ “ được sao ? Thế nên việc học Phật thực ra không có khởi đầu mà cũng chẳng có kết thúc bởi vì ta đã bẩm sinh cùng nó. Với tâm hồn mẫn cảm với “đa tình là tâm Phật” thi sĩ Đỗ Nghê không Đến với Phật pháp mà Về với nó như một lẽ đương nhiên.

Còn tại sao Đỗ Nghê phải dùng thơ để giãi bày tâm sự ư ?
Đơn giản vì ngôn từ “dẫn con người ta đi trong mê lầm suốt 3 kiếp”, ngay cả cái gọi là “chân ngôn” cũng phải hết sức cẩn trọng. Thi ca cho phép chúng ta vượt thoát khỏi khuôn khổ ngữ nghĩa có tính cách “quy định” của ngôn từ, có những ẩn nghĩa ẩn dụ nằm giữa nằm sau và quan trọng hơn là siêu vượt lên trên ngôn từ – đến một miền cảm thức mới .
Khi diễn đạt những suy tư phóng khoáng trong dòng cảm xúc tuôn chảy hình như Đỗ Nghê không muốn bị ràng buộc vào những khuôn khổ hình thức mà chọn kiểu Thơ văn xuôi (kiểu như Khalil Gibran viết Tiên trí và Thiên sứ), khi mạch tư duy dòng cảm xúc tự nó đã tạo nên tiết tấu và giai điệu của thơ .
Bổn sư vừa là câu trả lời Ai là thầy cũng là phương pháp và quan niệm học Phật của Anh. Anh thấy Phật là Như Lai!
Tất nhiên Anh học Như Lai!
Nhưng Như Lai lại không chỉ là Phật! Anh thấy Như Lai trong vạn Pháp! (vạn pháp tri Tôn mà!). Anh học Phật học các vị Tôn túc, các bậc thức giả, học bạn bè … tôi đồ rằng Anh học cả từ em bé sơ sinh, từ ông già bất động trên xe lăn từ bông hoa nở trên hàng rào từ tiếng chuông chiều … nếu tất cả giúp Anh tỉnh thức , cho Anh tăng trưởng yêu thương …
Và quan trọng hơn cả Anh học từ chính mình! Anh đánh thức Vị Phật đang ngủ trong mình để rồi hai Thầy Trò cận tọa bên nhau miên mật sớm chiều …
Như Lai còn dạy!
Ta còn học!
Phật đạo thênh thang!
Đường đời bất tận !

NTN

(Saigon, tháng 8.2021)

Filed Under: Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

  • « Go to Previous Page
  • Go to page 1
  • Go to page 2
  • Go to page 3
  • Go to page 4
  • Interim pages omitted …
  • Go to page 36
  • Go to Next Page »

Thư đi Tin lại

  • Lịch “Trò chuyện, giao lưu…”
  • Lại đính chính: “SAIGON BÂY GIỜ”
  • ĐÍNH CHÍNH: BSNGOC không phải là BS ĐỖ HỒNG NGỌC
  • Đính chính: BS NGỌC không phải là Bs Đỗ Hồng Ngọc
  • bsngoc đã lên tiếng đính chính
  • Thư cảm ơn và Đính chính về FACEBOOK Bác sĩ NGỌC
  • ĐÍNH CHÍNH: Bài viết "TÀN NHẪN" không phải của Bs Đỗ Hồng Ngọc

PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG

Kỳ 3 Lớp An Cư Chùa Xá Lợi, 2022

Bài đọc thêm: DƯỢC TÍNH TRONG TÂM…

Hiểu thêm về “giả dược” (Placebo)!

Nguyễn Hiền-Đức: Tập tuyển CÀNH MAI SÂN TRƯỚC

Minh Lê: Học Phật qua thơ Đỗ Hồng Ngọc

TẠP GHI (Lõm bõm… Kỳ 4b)

Tạp Ghi (lõm bõm… kỳ 4): Mười Hạnh Phổ Hiền

TẠP GHI (Lõm bõm…) kỳ 3

Tạp Ghi (Lõm bõm kỳ 2)

TẠP GHI (Lõm Bõm)

Xem thêm >>

Chuyên mục

  • Một chút tôi
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy

Bài viết mới nhất!

  • Vài ngày về thăm Lagi, Phan Thiết…
  • Ngày của Cha – Happy Father’s Day
  • Kỳ 3 Lớp An Cư Chùa Xá Lợi, 2022
  • Bài đọc thêm: DƯỢC TÍNH TRONG TÂM…
  • Hiểu thêm về “giả dược” (Placebo)!

Bài viết theo tháng

Ý kiến bạn đọc!

  • Tùng Phạm trong Bài đọc thêm: DƯỢC TÍNH TRONG TÂM…
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Giới thiệu
  • Đinh Hà Duy Linh trong Giới thiệu
  • Hồng trong Song Thao: GIÀ KHÚ ĐẾ
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Buổi trò chuyện về Thiền “Quán Niệm Hơi Thở”
  • Cao Huy Khiem trong Buổi trò chuyện về Thiền “Quán Niệm Hơi Thở”
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong “Xả”… stress !
  • “Xả”… stress ! | suonglamportland trong “Xả”… stress !
  • Phan Công Khương trong Nguyễn Mậu Pháp: CẢM NHẬN  “VỀ THU XẾP LẠI…”
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Có một “nghệ thuật”… ngủ!

Cùng một tác giả

  • 0
  • 1
  • 1
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6

Thống kê

Nhà tài trợ

biệt thự vũng tàu
biệt thự vũng tàu cho thuê | biệt thự vũng tàu cho thuê theo ngày giá rẻ | cho thuê biệt thự vũng tàu có hồ bơi
© 2009 - 2016 Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Phát triển & Hỗ trợ kỹ thuật bởi SGC.
Trích dịch nội dung để dùng trong nghiên cứu, học tập hay dùng cho cá nhân đều được tự do nhưng cần phải chú thích rõ nguồn tài liệu và đối với các trích dịch với mục đích khác, cần phải liên lạc với tác giả.
  • Một chút tôi
    ?
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    ?
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    ?
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    ?
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    ?
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy
  • Nhận bài mới qua email