Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Tập hợp các bài viết của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Ghi chép lang thang
  • Nhận bài mới qua email

Nhớ Sài Gòn, Qua Bài Thơ “Mai sau dù có bao giờ” của Đỗ Hồng Ngọc

23/07/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Nhớ Sài Gòn, Qua Bài Thơ “Mai sau dù có bao giờ” của Đỗ Hồng Ngọc (1)

Lương Thư Trung

 

Giới thiệu chương trình nhạc chủ đề“Tình Ca Việt Nam” trên đài phát thanh Sài Gòn, vào đầu thập niên 1970, nhà văn Nguyễn Đình Toàn viết:

“Tình ca, những tiếng nói thiết tha và tuyệt vời của một đời người, bao giờ cũng bắt đầu từ một nơi chốn nào đó, một quê hương, một thành phố, nơi người ta đã yêu nhau.

Tất cả mùa màng, thời tiết, hoa lá, cỏ cây của cái vùng đất thần tiên đó, kết hợp lại, làm nên hạnh phúc, làm nên nỗi tiếc thương của chúng ta…”(2)

 

Vâng, đó là chương trình nhạc chủ đề mà hồi ấy, những “Ngày hai mươi tuổi, có những đêm chong đèn ngồi…” (3), chúng tôi rất mê và ghiền lời giới thiệu các bản nhạc trong chương trình này mà nhà văn Nguyễn Đình Toàn đã gởi đến thính giả; mà dường như cách nào đó, với Sài Gòn, nơi thành phố ấy của hơn nửa thế kỷ (55 năm) trước, chúng tôi có những lần hẹn hò với một cuộc tình rất tha thiết và nồng nàn mà giờ ngồi hồi tưởng lại đúng là thành phố ấy nó“làm nên hạnh phúc, làm nên nỗi tiếc thương của chúng ta…”

Đó là nhạc chủ đề, còn trong thơ ca thì sao? Xin mời bạn nghe Đỗ Hồng Ngọc (tức nhà thơ Đỗ Nghê), hơn bốn mươi năm trước, đã viết một bài thơ rất đằm thắm, thiết tha trong tâm trạng tiễn người bạn cũ giã từ để ra đi về “nửa vòng trái đất cõi người ta” trong bài thơ Mai sau dù có bao giờ…

Lâu nay đọc thơ Đỗ Hồng Ngọc, ít khi thấy ông “thiệt thà” bày tỏ nỗi lòng riêng tư, nhưng với mai sau dù có bao giờ ta thấy thêm góc khuất khác của nhà thơ Đỗ Nghê vậy.

“Cám ơn em đã đến giã từ
Dù sao năm tháng vẫn chưa phai
Em cười mà mắt còn đẫm ướt
Hình như tối qua trời không mưa”

Lần đó, họ không nói với nhau một lời nào, mà chỉ trao cho nhau những nỗi niềm bằng ánh mắt; bởi lẽ trong những hoàn cảnh như vậy lời nói nào đủ nghĩa yêu đương cho bằng ánh mắt thiết tha:

“Tôi hiểu – em đừng nói gì thêm
Những lời không đủ nghĩa đâu em
Tôi sẽ đưa em thăm thành phố
Em không ngại là tôi cũng ghen
 

Rồi họ cùng đi thăm lần cuối “một quê hương, một thành phố” nơi mà “cả mùa màng, thời tiết, hoa lá, cỏ cây của cái vùng đất thần tiên đó, kết hợp lại, làm nên hạnh phúc, làm nên nỗi tiếc thương”…

Thành phố – nơi ta đã lớn lên
Nơi ta hò hẹn buổi đầu tiên
Nơi ta hờn giận ta vui sướng
Thành phố – chân hôn mỗi bậc thềm!”
 

Vâng, với nhà thơ, Sài Gòn là cả một vùng kỷ niệm chập chùng với bến Bạch Đằng ngày ấy, (Bạn còn nhớ Nguyên Sa: “hãy đưa tôi ra bờ sông, để tôi nhìn dòng nước chảy, tôi nhìn tôi bơ vơ…” không?) và cả ngôi trường Trưng Vương với màu áo xanh của các nàng nữ sinh thướt tha trong nắng sớm sân trường, với khung trời Đại học của một thời sinh viên nhiều mộng đẹp nữa …; nhiều và nhiều lắm… Những chữ “lối xưa xanh áo”, “mờ rưng rưng”… rất thiết tha và gợi lại biết bao nỗi nhớ mà con tim và tâm hồn của những người trong cuộc không khỏi bồi hồi, ray rứt, bâng khuâng …

“Tôi sẽ đưa em ra bờ sông
Sông Sài Gòn mà bến Bạch Đằng
Lối xưa xanh áo Trưng Vương đó
Mái trường Đại học mờ rưng rưng”

Nhắc tới Sài Gòn là nhắc tới những con đường tình rợp lá me bay như đường Gia Long, đường Lê Thánh Tôn và nhứt là con đường Nguyễn Du trong bài thơ, nhưng không thể không nhắc tới cái nắng của Sài Gòn, những cơn nắng làm “hanh đôi má” nàng, và “mồ hôi mặn”, nhưng với họ, những đôi tình nhân gắn bó ấy thì lúc bấy giờ họ không lấy gì làm khó chịu với cái nắng nóng ấy, mà còn “thấy thương ghê”… Mấy chữ “rợp mát bóng me che” trong câu thơ tả cảnh con đường Nguyễn Du dưới đây, thiệt là hết ý!

“Tôi sẽ đưa em ghé Nguyễn Du
Con đường rợp mát bóng me che
Cái nắng Sài Gòn hanh đôi má
Giọt mồ hôi mặn thấy thương ghê”

Qua con đường Nguyễn Du, một trong những con đường tình tiêu biểu của Sài Gòn, và dĩ nhiên Sài Gòn không chỉ có thế, mà Sài Gòn ai đã đến đó và ở đó dù lâu, dù mau đều nhận ra rằng Sài Gòn bên cạnh những con đường lớn, những tòa nhà cao, những khu mua bán sầm uất, nó còn có rất nhiều con hẻm nhỏ mà ở đó nhà nhà, người người chen chúc nhau kiếm sống lây lất qua ngày, dù tất bật, nhưng không thiếu tình chòm xóm, tình lân láng, tình người…: 

“Tôi sẽ đưa em về Bàn Cờ
Xóm nghèo nho nhỏ đường quanh co
Tình người thắm đượm từng nếp áo
Bà mẹ ngày nao em nhớ chưa”
 

Nhớ lại hồi cách nay năm mươi lăm năm về trước, chúng tôi còn nhiều lắm những kỷ niệm qua bao lần nơi ghế đá công viên, những quán nước bên đường, những cà phê gốc me vào mùa mưa tháng Sáu của Sài Gòn; những rạp xi nê với các phim thời tài tử Alain Delon ăn khách một thời, nào rạp Rex, nào Eden, nào quán Tre quán Trúc nơi thương xá TAX thuở nào… với những hẹn hò mà chúng tôi không “làm sao quên” được, như nhà thơ muốn nói với người thương của mình: 

“Tôi hiểu em còn muốn đi thêm
Một đời chưa đủ phải không em
Chân bước đi mặt còn ngoảnh lại
Xao xuyến hồn ta – làm sao quên!”
 

Ở đây, nếu bạn để ý một chút, trong đoạn thơ trên chúng ta sẽ bắt gặp tác giả không cố ý làm cho câu thơ cao siêu, bóng bảy; trái lại ông rất khéo léo dùng một chút tâm sự của “kẻ ở người đi” trong sách Quốc văn Giáo Khoa Thư mà có lẽ ai ai trong chúng ta cũng có lần đã đọc qua mà có khi vì dòng đời tất bật quá, rồi lại quên:“Chân bước đi, mặt còn ngoảnh lại: từ cái mái nhà, cái thềm nhà, cái lối đi, cho đến bụi cây, đám cỏ, cái gì cũng làm cho tôi quyến luyến khác thường!”(4). Cái hay của ý thơ vừa rồi là nó rất gần, rất quen mà gợi đúng cái tâm trạng của “kẻ ở người đi” trong một lần từ giã. Là một người đã hơn một lần “giã từ” Sài Gòn, hơn một lần“giả từ” người thân yêu của mình, tôi rất thấm thía câu thơ này của tác giả, nó nói lên được tấm lòng của người ở lại lo cho người thân của mình, rồi ra ở nơi “Nửa vòng trái đất cõi người ta” ấy, em sẽ sống thế nào và em sẽ phải làm gì với đất trời xa lạ ấy?

“Thôi nhé từ nay em sẽ xa
Nửa vòng trái đất cõi người ta”

Giữa chập chùng những ý nghĩ vừa lo lắng, vừa ái ngại ấy, rất may, tác giả không quên nuôi trong lòng niềm hy vọng, như một niềm an ủi cho chính mình và cho người thương yêu của mình:

“Mai sau dù có bao giờ nữa
Thành phố – lòng mẹ vẫn bao la”

Cái hay ở câu thơ “Mai sau dù có bao giờ nữa”, một phần rất Kiều (5), và một phần rất Đỗ Hồng Ngọc! Ở chữ “nữa” của Đỗ Hồng Ngọc, vốn là một trạng từ, mà tác giả cho vào cuối câu Kiều, nó vừa là niềm tin yêu và hy vọng, nó vừa là nỗi bịn rịn không rời như “nữa mai”, “nữa rồi”, “nữa khi”, “nữa là”…mà bàng bạc một tấm lòng! Chính những chữ “nữa” ấy là những chữ làm gợi dậy tấm chơn tình trong tình yêu thương có lẽ chưa bao giờ dứt được… Nó vừa nhẹ nhàng mà thân ái, nó vừa tha thiết mà nồng nàn, nó làm tim gan người trong cuộc nhiều khi muốn đứt ruột nhưng vẫn giữ cho lòng chút hy vọng một ngày nào đó còn có dịp gặp lại nhau dù cho bao lâu sau đi chăng“nữa”!!!


Vâng, với Sài Gòn, với thành phố ấy với những đôi tình nhân đã yêu nhau cách nay hơn năm mươi lăm năm ấy, rồi ra, vớichúng tôi, tôi chợt nhớ lại qua những kỷ niệm ngày nào quả quá đúng như nhà văn Nguyễn Đình Toàn nói “làm nên hạnh phúc, làm nên nỗi tiếc thương của chúng ta…”! Và với nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc, khi tuổi đời giờ không còn trẻ trung gì, và đọc được bài thơ “Mai sau dù có bao giờ” này của ông, rồi tôi có dịp hồi tưởng lại những nơi chốn hẹn hò của những “Ngày hai mươi tuổi, có những đêm chong đèn ngồi…” với những con đường tình của Sài Gòn một thời, và nhìn lại lòng mình, tôi thấy ông nói quả quá đúng, không sai chút nào được khi ông viết:“Mai sau dù có bao giờ nữa!” thì Sài Gòn lúc nào cũng“Xao xuyến hồn ta – làm sao quên!

 

Hai Trầu Lương Thư Trung

Houston, ngày 21.07.2021 

 

Phụ chú:

1/ “Mai sau dù có bao giờ” của Đỗ Hồng Ngọc (1980)

(trích từ tập thơ Giữa hoàng hôn xưa, Đỗ Hồng Ngọc, nhà xuất bản Trẻ, 1993)

[Theo trang nhà Trần Thị Nguyệt Mai, ngày 16.07.2021]

2/ Trích CD Nhạc Chủ Đề Tình ca Việt Nam 1970 của Nguyễn Đình Toàn.

3/ “Ngày hai mươi tuổi, có những đêm chong đèn ngồi…” )[Trích trọng “Trên Đồi Là Lô Cốt” Lữ Kiều-Thân Trọng Minh, Thư Ấn Quán xuất bản, Hoa Kỳ, năm 2006]

4/ Trích “Kẻ ở người đi”, Quốc Văn Giáo Khoa Thư (Lớp Sơ đẳng) của Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc và Đỗ Thận, nhà xuất bản Thanh Niên tái bản, năm 2000. 

5/ Truyện Thúy Kiều của Nguyễn Du do Bùi Kỷ và Trần Trong Kim hiệu khảo, bản in lần thứ bảy (năm 1925). Nhà xuất bản Đại Nam (Hoa Kỳ) tái bản, (không thấy ghi năm).

 

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Trần Vấn Lệ: Làm Sao Chải Được Rừng Xanh Lá

20/07/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Làm Sao Chải Được Rừng Xanh Lá

Mình sẽ làm chi cho hết ngày?
Mình đi lên núi…hứng mây bay?
Mình vô rừng kiếm con chim lạc
nó đứng gọi bầy trên ngọn cây?
Đà Lạt cao nguyên, biển mịt mùng
Đường về Ninh Chữ rất mông lung
Lâm Viên dõi mắt không nhìn thấy
chỉ thấy quanh co núi chập chùng…
Mình sẽ làm chi cho hết sáng?
hết trưa, rồi hết buổi chiều hôm…
Tà huy đâu cũng vàng như nghệ
Sương cũng vàng nha những lũng sương!
Em ơi em ngả cái đầu, đi
như rất là xưa mới dậy thì
vén tóc mà nghe như tóc ướt
mưa rừng gió thoảng tóc bay bay…
Mình sẽ làm chi cho hết ngày
Anh người lính lạc mất thời trai
Trường Sơn tưởng chỗ mình yên giấc
Ai khiến cho mình giạt tới đây?
Mơ về Đà Lạt mấy mươi năm
Tuổi mới lòng xưa lệ chảy ngầm
Cha mẹ, bà con, bè bạn…hết
rồi mình cũng hết ước mơ chăng?
Mơ ước xưa nay là cái ảo
Tóc thề em chải vẫn ngang vai…
Làm sao chải được rừng xanh lá
chải gió cho bay nhỉ áo dài?

Trần Vấn Lệ

Filed Under: Gì đẹp bằng sen?, Nghĩ từ trái tim

Đỗ Trung Quân: Mẹ Ta Trả Nhớ Về Không

11/07/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Mẹ Ta Trả Nhớ Về Không

Thơ Đỗ Trung Quân

ngày xưa chào mẹ, ta đi
mẹ ta thì khóc , ta đi thì cười
mười năm rồi lại thêm mười
ta về thì khóc, mẹ cười lạ không
ông ai thế ? Tôi chào ông
mẹ ta trí nhớ về mênh mông rồi
ông có gặp thằng con tôi
hao hao…
tôi nhớ…
nó …người …như ông.
mẹ ta trả nhớ về không
trả trăm năm lại bụi hồng…
rồi..
đi…

ĐỖ TRUNG QUÂN

(phovanblog)

Filed Under: Nghĩ từ trái tim

Cao Huy Thuần: “Xa làm sao được quê hương!”

02/07/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Xa làm sao được quê hương!

 

Sen thơm nắng hạ quê mình

Đọc tập tản văn Sen thơm nắng hạ quê mình (Khai Tâm và Nxb Tri Thức) của Cao Huy Thuần, với tôi, hay nhất là  Người đưa đò – câu chuyện của Lucien de Samosate (120-180), gần 2000 năm trước được tác giả chọn dịch và sáng tác thêm phần “ngoại truyện”.

Tác phẩm là cuộc trao đổi giữa thần Mercure và Charon- người đưa đò chở người chết qua sông chia cách âm dương… Charon than phiền có những xác chết nặng chình chịch, làm đò chìm, người chết phải rơi vào địa ngục và có những xác chết nhẹ tênh… Mượn chuyện xưa nói chuyện nay là tài của Cao Huy Thuần. Người đời có hai hạng, hạng sống mà không thấy Charon lúc nào cũng đứng chực sẵn một bên, tham sân si, lúc chết thì cũng ôm quá nặng, đò chìm. Chỉ một số ít khác nhẹ tênh, nhờ thấy cái gì trên đời cũng nhẹ nhàng, cũng đẹp, cũng đáng ngạc nhiên, nhìn đâu cũng thấy ân huệ của cuộc sống…

Tôi có hơi tiếc một chút: giá mà anh dịch theo giọng xưa của 20 thế kỷ trước thì nỗi đau sẽ càng đau hơn, nhưng anh có lý của anh, dùng ngôn ngữ hiện đại cho ai cũng hiểu.

Trong nhiều tản văn đầy tính triết học uyên thâm, Giao thừa, Chữ của tôi, Trí tuệ và lòng tin,Sóng và biển, Mẹ tôi, Thúy Kiều và… tôi… là những trang viết ấn tượng; riêng Thì thầm bàn về “Bát Nhã”, “Bát bất”, về “Có Không” viết rất khéo, rạch ròi và thuyết phục, thấm đẫm “Trí bất đắc hữu vô/ Nhi hưng đại bi tâm” (Trí chẳng đắc có không/ Mà hưng khởi tâm đại bi).…

Nhưng Quả trứng (Thay lời tựa) mới đúng là Cao Huy Thuần. Như một gởi gắm, một tạ từ, bởi “chút nắng vàng giờ đây cũng vội…”.

Bỏ qua một bên chuyện “sứ mệnh văn nghệ” xa vời, bỏ qua một bên giảng đường đại học, giờ đây còn một chút này:

“Xa xôi, lữ thứ, cuối đời nghĩ lại quả trứng ngày xưa, cái hạnh phúc vô biên được cắn vào quả trứng đầu tiên trong đời nghèo khó, mơ màng tưởng như cắn cả buổi trưa, cắn cả phố chợ, cắn cả nguồn cội, cắn cả quê hương…”

Bởi từ những ngày thơ dại ai mà chẳng nghêu ngao Trong đầm gì đẹp bằng sen/ Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng…Thế rồi khi dấn bước vào đời ta đã quên bài học cũ, mải mê tìm kiếm một búp sen vàng sen bạc rực rỡ hào quang ở tận chân trời góc biển. Cho đến một hôm giật mình: thì ra cái Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng kia rốt cuộc cũng chỉ là Nhị vàng bông trắng lá xanh đó thôi. Chẳng thêm chẳng bớt. Đóa sen của thiên thu vẫn lung linh giữa gió và nước, giữa đất và bùn, vẫn tủm tỉm cười, vẫn ngát hương thơm…

Cao Huy Thuần viết:“Tôi tương tư mùi đất ruộng. Tôi tương tư làng tôi. Tôi tương tư nước tôi. Càng già, càng trở về với quả trứng. Càng thấy mình mắc nợ với đứa bé ngày xưa, với gốc gác của nó. Một món nợ không trả được vì nó đã cho mình tất cả, từ trái tim đến máu thịt. Nó cho cả hơi thở, vì đôi lúc một làn gió vô tình thoảng vào mũi mùi gì như mùi lúa nảy đòng đòng. Xa làm sao được quê hương?”

“Cho nên tôi yêu, như đã yêu từ trong trứng, mọi cái tầm thường. Cho nên tôi thấm đạo. Hạnh phúc, đâu phải tìm ở đâu xa. Nó ở ngay nơi mọi cái tầm thường xung quanh tôi. Và nếu mọi cái tầm thường làm nên cái hằng ngày của ta, thì ngày nào chẳng là hạnh phúc?” (Quả trứng).

May cho anh, không như Thôi Hiệu “Nhật mộ hương quan hà xứ thị” bởi anh còn có Quả trứng, “quả trứng” của Âu Cơ.

Đỗ Hồng Ngọc.

(Saigon, 7.2021)

 

Báo TUỔI TRẺ ngày 2.7.2021

 

 

 

Filed Under: Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định

Ghi chép lang thang: Nếp Sống An Lạc (tái bản lần thứ 3)

22/06/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Nếp Sống An Lạc

(tái bản lần thứ 3)

Chuyện trò cùng Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc về
“Nếp Sống An Lạc”,
tái bản lần thứ 3. Tháng 6.2021

 

Ghi chép lang thang: Nhớ buổi “giao lưu” ở Đà Nẵng  

Đề tài được chọn là Một nếp sống hạnh phúc, an lạc chẳng qua là một cái “cớ” cho một chuyến hành hương về miền Trung… “miền thùy dương bóng dừa ngàn thông thuyền ngược xuôi suốt một dòng sông ư.ư… dài” mà thôi! Bởi làm gì có “một nếp sống hạnh phúc, an lạc” để mà nói năng?  Nói làm sao được một thứ “bất khả thuyết” như thế chứ? Chẳng qua là một cơ hội để gặp gỡ bạn bè, trò chuyện loanh quanh, bấy nay chỉ quen nhau qua trang sách.

(…) Một không khí đầm ấm, thân thiết khó thấy ở đâu.  Chưa từng gặp mà quen đã từ lâu. Tay bắt mặt mừng. Chụp ảnh kỷ niệm. Rồi xin chữ ký… thật vui và thật cảm động. Có người ôm nguyên một chồng sách cũ đã “sưu tập” của ĐHN bấy nay đến xin chữ ký, kêu ghi giùm tên và ngày tháng hẳn hòi để kỷ niệm…

MC không phải ai xa lạ: Cát Tiên, chị của ca sĩ Lê cát Trọng Lý. Cát Tiên cũng là một ca sĩ, cùng bạn bè thành lập một thư viện tại gia và một phòng trà nho nhỏ thật dễ thương mà ở Đà Nẵng ít người không biết.

(…) Một bác 82 tuổi lúc ra về nói: Hôm nay tôi rất hạnh phúc bác sĩ nè, khi nghe bác sĩ nói về “vô thường” về phiền não với bồ đề, về khổ đau với an lạc!

Một chị ở Mỹ về tình cờ đến nghe nói “Tôi nhớ nhất câu bác sĩ bảo mình đang ở tuổi nào thì tuổi đó là tuổi đẹp nhất”.

Còn cô giáo “bỏ giờ” đi nghe thì bảo: “Em thực sự thấy hạnh phúc vì đã sống… ở đây và bây giờ buổi sáng hôm nay đó”…

(Đà Nẵng, 12, 2012)

 

Và vài comments sau đó:

Phương Chi (Đà Nẵng):

Nhân duyên đã giúp em biết và đọc sách của Bs. Nhờ đó em đã bình tâm trước nhiều điều bất như ý trong cuộc sống, bớt tham lam hơn, nhìn đời và nhìn người vị tha hơn. Em hiểu ra rằng những khó khăn, bất hạnh xảy ra với mình không gì khác hơn là thử thách của chính mình. Nhờ đó mình bớt kiêu hãnh đi, nhún mình lại và chịu khó nhìn lại để sửa mình.
Gặp Bs hôm rồi em thực sự vui, dù những gì minh trao đổi về « Một nếp sống hạnh phúc » không có gì xa lạ đối với em. Những gì Bs đề cập hôm đó em đều đọc nhiều lần trong các tác phẩm hoặc các bài viết cua BS trên các báo.(…) Em mang sách Bs ký tặng và hình chụp cùng Bs về khoe với hai đứa con, con gái của em năm nay 22 tuổi nói em rằng: « Me teen qua chừng, trốn đi làm bệnh viện, đi gặp idol xin chữ ký với lại xin chụp hình mới ghê chứ » . Em thấy đúng là mình trẻ con, nhưng lại thấy rất hài lòng…

Lê Uyển Văn (Trà Vinh):
“Đọc bài của LVD, thấy hạnh phúc đến rưng rưng, hạnh phúc bởi sự đồng cảm, sự chan hòa mà tình người mang lại cho nhau. Em như hình dung được không khí đó, vui cùng niềm vui của mọi người.
Rồi em chợt nghĩ, thật không quá đáng khi Đỗ Hồng Ngọc đi đến một nơi nào đó mà được đón nhận hơn cả những ngôi sao… Cái chính là sức lan tỏa và lay động đến tâm hồn mọi người thật lâu bền từ những cuộc chuyện trò dung dị ấy”.

Lưu Hà (Đà Nẵng)

Bác Ngọc ơi,
Vợ chồng cháu thật may mắn đã được gặp bác. Từ bữa đó về chúng cháu đều cố gắng ăn cơm “chánh niệm”, nói chuyện cũng “chánh niệm”… không vừa ăn vừa xem ti vi, không mất tập trung. Rồi sau đó mới nghỉ ngơi nói chuyện. Kì lạ là từ sau đó chúng cháu thấy vợ chồng gần gũi nhau hơn, chia sẻ tình cảm, suy nghĩ nhiều hơn sau một thời gian dài vật lộn với 2 em bé sinh đôi mà quên mất nhau. Hihi
Cháu có ghi lại cuộc trò chuyện của bác để làm “Cẩm nang” khi cần. Cháu xin gửi lại bác, phòng khi có ai cần đọc. Cháu cảm ơn bác nhiều. Vợ chồng cháu chúc bác mạnh khỏe và hạnh phúc.
Cháu Lưu Hà.

 

***

Năm 2017, lại Đà Nẵng:

Hội Sách của Phương Nam tổ chức tại Hải Châu Đà Nẵng với hàng trăm gian hàng sách và những đêm giao lưu giữa độc giả – khán giả với cả ngàn người tham dự.

Buổi “giao lưu” với độc giả Đà Nẵng, tháng 4.2017 tại Hội Sách Hải Châu.

Đợt này, cuốn “Chuyện trò cùng Bs Đỗ Hồng Ngọc về Nếp Sống An Lạc” được giới thiệu chính thức tại Hội sách với một buổi giao lưu khá đông. Hôm đó còn có ca sĩ Thu Vàng hát mấy bài thiệt hay và người dẫn chương trình là MC Ngân Hoa.

Cuốn sách phát hành lần đầu năm 2017, đến nay, 2021 đã tái bản lần thứ 3 rồi đó.

“Nếp Sống An Lạc” quả là không dễ giữa thời buổi Cô-vi này vậy.

 

Xin cảm ơn tất cả.

Đỗ Hồng Ngọc

(Saigon, 06.2021)

 

 

 

Filed Under: Ghi chép lang thang, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

“MỘT THỜI ĐỂ YÊU VÀ MỘT THỜI ĐỂ NHỚ”

21/06/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

LÊ KÝ THƯƠNG. “MỘT THỜI ĐỂ YÊU VÀ MỘT THỜI ĐỂ NHỚ”

Nguyễn Hiền-Đức

 

 

Thưa rằng…

Mãi đến nay, tôi chưa một lần được “diện kiến” anh Lê Ký Thương, nhưng tôi đã “quen”, đã “biết” và đã yêu thích những sáng tác của Anh từ lâu. Xem như tôi có cơ duyên được gặp gỡ Anh ấy vậy! Số là khi lang thang trên mạng, khi được bạn gởi cho những bài của anh, hoặc của các Tác giả viết về Anh tôi đều chăm chú đọc sau khi đã dàn trang (mis-en-page).

Bây giờ  tôi nghĩ cần phải làm một điều gì đó về Anh theo sự mách bảo từ tâm cảm tôi. Thế là có được “tệp” này. Đây chỉ là một sự tập họp bước đầu những sáng tác của Lê Ký Thương và một ít bài viết về anh. Việc làm này chỉ là bước khởi động và còn ở phía trước.

Nội dung “Tệp” này gồm 3 phần chính:

Phần Dẫn Nhập: Bài viết của Đỗ Hồng Ngọc, Phan Vũ, Hai Trầu (2 bài), và Lời giới thiệu Tạp bút Lê Ký Thương của Trang Nhà Văn Việt.

Phần II: Lê Ký Thương: Trang Văn – Trang Đời

Tôi xin thưa trước điều này:

– Tôi chỉ gọi là Lê Ký Thương. Trước họ tên anh không có danh xưng nào. Gọi như thế người Quảng Nam chúng tôi gọi là “nói trỗng”, là thiếu tôn trọng, thậm chí là vô lễ. Nhưng tôi nào dám thất lễ đối với một người mà tôi cảm phục về tài, trí và tâm như Lê Ký Thương; chẳng qua là vì gọi Lê Ký Thương – Nhà Văn? Lê Ký Thương – Nhà Thơ? Lê Ký Thương – Họa Sĩ? Lê Ký Thương – Nhà Báo? Lê Ký Thương – Dịch giả?  v.v… và v.v… tôi thấy nó thiếu thiếu cái gì đó, bởi vì tôi vẫn nghĩ Lê Ký Thương là sự tổng hợp nhuần nhuyễn, khắn khít, tài hoa và thơ mộng của những “Nhà” đó; rằng “Nhà” nào ở anh và của anh, đều xinh xắn, khang trang và mời gọi cả.

– Tôi rất thích đọc những trang viết thắm đẫm về Quê Nhà của anh, đó là những trang viết dạng hồi ức rất “nhớ cố hương lưu luyến tấc lòng” rất cô đọng và sâu sắc của anh. Rồi đến giai đoạn từ năm 1969, anh vào Sài Gòn lập nghiệp và tỏa sáng qua nhiều sáng tác của anh.

– Khi xem bản thảo “nháp” tệp này, ca sĩ Thu Vàng nhiều lần bảo rằng: “Anh Lê Ký Thương vẽ đẹp hết biết. Trước nay em thích tranh của họa sĩ Bé Ký và thời gian gần đây em rất thích xem tranh của anh Lê Ký Thương.”

– Tôi thấy cần ghi thêm ở đây rằng tôi là người lo bản thảo Tiếng Hát Thu Vàng -đã nhờ anh Lê Ký Thương chuyển lời cám ơn và biết ơn Chị Cao Kim Quy vì bài  viết cực hay của chị về Thu Vàng.

– Câu kết trong bài “Nhớ Gió Tuy Hòa: Đúng là một thời để yêu và một thời để nhớ.” Vâng, “Một thời để yêu và một thời để nhớ” đó nó xuyên suốt, bàng bạc, ẩn hiện trong trang văn, trang thơ, trong các họa phẩm của Lê Ký Thương.

Phần III: Một Thời Ý Thức, Một Thuở Bạn Văn

Tôi rất muốn sưu tầm thêm nhiều bài về Tạp chí Ý Thức. Chắc chắn là tôi sẽ trở lại về chủ đề này vì với tôi, Ý Thức là một tạp chí sáng giá về nhiều mặt được thực hiện bởi những người mới vào tuổi đôi mươi, của một thời hoa niên thơ mộng. Một thời của tuổi trẻ “dấn thấn” đến với ngôi nhà thiêng Văn học Nghệ thuật, trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động của đất nước.

Nhân đây xin cám ơn Nguyễn Thị Khánh Minh và Trần Thị Nguyệt Mai đã viết bài và gởi cho một số bài về Tạp chí Ý Thức mà tôi rất cần. Khánh Minh viết hay quá: tài hoa, sâu lắng, tinh tế và “cốt lõi” đến lạ! Đó là cảm nhận chân thành của tôi khi đọc 2 bài mới nhất của Khánh Minh viết về Nguyên Minh và Huỳnh Ngọc Chiến.

– Xin thưa thêm lời cuối này: Tôi không dám gọi đây là một Tuyển tập. Vì rằng, tôi thử gắng sức viết Thay Lời Vào Tập khoảng 20 trang, sau rút lại còn 14 trang. Đọc lại tôi thấy bài này thô vụng quá nên đã xóa sạch dù có tiếc công sức, có vỗ về những cơn đau cột sống khi tôi rị mọ làm “tệp” này. Tôi nhớ lại một đoạn trong bài viết của BS Đỗ Hồng Ngọc:

“Mới đây, Quán Văn số 53 giới thiệu ”Lê Ký Thương”, anh được mời lên sân khấu ngồi nghe và cười… trong im lặng.”

Vâng, Lê Ký Thương “ngồi nghe và cười… trong im lặng”.

Tôi liên tưởng đến “Niêm hoa vi tiếu” của Đức Phật Thích Ca và nụ cười của thị giả Ca-Diếp. Cũng chính vì điều này mà tôi đã bỏ bài “Đôi Điều Cảm Nhận Về Lê Ký Thương” vì thấy cần để Anh yên lặng và mỉm cười thôi.

Cuối bài, tôi xin mượn lời của anh Hai Trầu – Lương Thư Trung”

“Chính cái “đức thành thật”, óc quan sát tỉ mỉ, cách dùng chữ tinh xác và thuật miêu tả vừa phải mà tự nhiên trong những trang hồi ức của Lê Ký Thương, tác giả đã làm cho tôi thích thú và cảm động; và tôi tin chắc rằng, nếu bạn may mắn đọc được những trang văn ấy của tác giả, bạn sẽ đồng ý với tôi về nhận xét ấy và rồi bạn cũng sẽ thích thú và cảm động như tôi vậy!”

Anh Hai Trầu luôn tẩn mẫn, tỉ mỉ, chu đáo và chân thành với bạn văn nên tôi rất vui mừng và chia sẻ với anh về cảm nhận trên đây và đi theo anh và cùng với anh để đến với anh Lê Ký Thương.

Sáng nay, 14/06/2021 tôi nhận được bài “Trò Chuyện Với Nhà Văn Lê Ký Thương” của anh Hai Trầu. Tôi vui quá liền đưa vào Tệp này và vội vã gửi đi để mong được chia sẻ với các Sư huynh và các Bạn.

Tôi muốn đọc lại “tệp” này ít nhất là 2 lần nữa để sửa lỗi chính tả và kỹ thuật nhưng vì những cơn đau cột sống tôi chưa làm được, Vậy kính mong các Sư huynh và các Bạn thân thiết của tôi lượng thứ và sửa lỗi giúp cho.

Tôi đã, đang và sẽ tiếp tục làm nhiều tuyển tập nữa để mong thực hiện một phần nào lời dạy kín đáo và tế nhị của Thầy Nguyễn Hiến Lê và Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, rằng: “ĐỌC ĐỂ HỌC”.

Tôi đọc và xem những sáng tác của anh Lê Ký Thương trong tệp này cũng là cách tôi Học vậy!

Santa Ana, ngày 14 tháng 06 năm 2021

5 Hiền – Nguyễn Hiền-Đức

Cẩn bút

 

LÊ KÝ THƯƠNG: ”HÀNH TRÌNH NGHIỆP THƠ”

ĐỖ HỒNG NGỌC

Lê Ký Thương làm thơ trước khi làm họa sĩ, dịch giả… Năm 1974, anh ra mắt tập thơ: Bếp lửa còn thơm mùi bã mía ở Phan Rang và từ đó đăng nhiều thơ văn trên các báo ở Sài Gòn. Anh cũng là người làm maquette đầu tiên cho tờ Ý Thức, tạp chí Văn học nghệ thuật những năm 70 của nhóm anh em Nguyên Minh, Lữ Kiều, Châu Văn Thuận, Lữ Quỳnh, Trần Hoài Thư, Nguyễn Mộng Giác, Đỗ Nghê, Lê Ký Thương…

Mấy năm trước, anh bị một cơn stroke, liệt nửa người phải, nhờ tích cực tập luyện với một ý chí cao nên phục hồi khá tốt. Thế rồi, một hôm đạp xe đi bơi, anh bị té gây chấn thương sọ não… Anh nói bây giờ chỉ với một tay, anh dư sức lo cả… gia đình!

Đi lại, nói năng hơi khó, nhưng lạ, trí nhớ tuyệt vời. Như một cuốn tự điển bách khoa về ”văn học nghệ thuật”. Anh nhớ vanh vách ai, làm gì, ở đâu… đời sống riêng tư ra sao! Thiệt lạ.

Mới đây, Quán Văn số 53 giới thiệu ”Lê Ký Thương”, anh được mời lên sân khấu ngồi nghe và cười… trong im lặng.

Anh vừa in một tập thơ dày đến 250 trang: “Trò Chơi Trời Cho. Hành Trình Nghiệp Thơ” *. Tự design, tự layout… còn sửa morasse đã có Kim Quy phu nhân lo (nhưng nghe nói giờ chót chàng không cho sửa…!), và in ấn thì đã có Nguyên Minh.

Xin giới thiệu với bạn bè.

Lê Ký Thương, nói chung, là một người hiền lành, còn nói riêng thì hổng biết…!

Đỗ Hồng Ngọc

 

 

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Lắng nghe âm thanh của yên lặng

20/06/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Lắng nghe âm thanh của yên lặng

Bs Hồ Đắc Đằng 

Một buổi sáng mùa đông năm nọ, một hiện tượng kỳ lạ, chưa từng thấy đã xảy ra ở thác Niagara, NY. Hoàn toàn yên lặng. Một trong ngũ đại hồ, hồ Erie bị đóng băng không còn đổ nước xuống thác được và cả Niagara trở thành một tường đá đong cứng. Cái tiếng động ầm ỉ của thác đổ ngàn năm hôm đó nhường chỗ cho yên lặng hoàn toàn. Điều nầy không có nghĩa là cái yên lặng đó đã không có từ trước mà chì mới sinh ra buổi sáng mùa đông năm đó. Nó đã có từ lúc thác Niagara mới hình thành từ ngàn năm. Chỉ có điều người ta không ai để ý lắng nghe nó; Nó bị một chuỗi dài tiếng động che giấu nó. Bạn làm gì khi bạn đi kinh hành (walking meditation)?  Bạn chú tâm vô cái động tác bước , hay cái tiếng động làm ra bởi cái bàn chân khi nó chạm sàng gỗ hay thảm?  Cái chú tâm nầy nó liên tục hay nó có lúc nó gây ra tiếng động, làm cho bạn hay biết bước nhanh hay chậm ; và không có lúc bàn chân bạn còn chưa đụng sàn ? Dĩ nhiên là liên tục, cả chân đụng sàn hay chưa đụng sàn. Du khách của thác Niagara không phải hành giả kinh hành. Họ chỉ nghe được khi có tiếng động và có cái ảo tưỏng là cái gì không làm ra tiếng là không có.

Lắng nghe, hay biết mà không nghe gì cả

Khoảng 400 bác sĩ chăm chú nghe một thuyết trình viên hôm đó ở một buổi hội thảo CME tại Harvard năm 2015. Tôi là một trong nhóm ngồi nghe. “ Khi tôi hỏi quí vị có nghe không thì quý vị trả lời nhé”. Deepak Chopra báo cho toàn thính giả.

  • Quý vị nghe không?
  • Nghe “. Chúng tôi hớn hở la to
  • Bây giờ hãy nghe cho kỹ. Khi tôi hỏi “ Quý vị nghe không ?” thì khoang trả lời. Hãy lặng thinh, chờ cho đến khi tôi đưa ngón tay trỏ phải lên trời thì chừng đó mới trả lời nhé “. Sau đó thì ổng hỏi
  • Quý vị nghe không? Toàn thể im phăng phắc, hoàn toàn im lặng trong thính đường. Chúng tôi tuân lệnh, chăm chú nhìn ổng. Khoảng chừng 90 giây đồng hồ sau, ổng chỉ ngón tay trỏ phải lên trời. Chúng tôi đồng thanh la to:
  • Nghe”

Deepak Chopra tuyên bố: “ Cái khoảng thời gian 90 giây đó là pure awareness “.

Tôi hiễu ổng muốn nói tôi đã lắng nghe một cái hoàn toàn tĩnh lặng. Cả không có chấn động của âm thanh trong không khí mà cũng không có dao động trong ý tưởng. Yên lặng bên ngoài là một sự vắng mặt của tiếng động âm thanh. Định là một sự đứng lại của ý tưởng. Đó là Samadhi, hay còn gọi là stillness.

Hôm lễ Phật đản 26/5 vừa rồi, thiền sư Ajahn Amaro, đệ tử của Ajahn Chah, được mời giảng Dharma tại trụ sở Liên hiệp quốc tại NY.

Người thế tục hay xưng tán mấy cái mầu nhiệm lúc đức Phật đản sanh, như mới sanh đã đi 7 bước và có 7 đoá hoa sen nở dưới chân ngài. Cái mầu nhiệm thật sự mà đức Phật đã cống hiến cho nhân loại là cái ngài tìm thấy có sẵn trong tâm thức của mỗi người. Một cái hiện tượng hết sức bình thường mà không ai để ý. Đó là: “the feeling arises and passes away; The perception arises and passes away “.

Khoảng yên lặng giữa hai tiếng động và khoảng trống không giữa hai niệm.

Cái yên lặng đầy ý nghĩa của thác Niagara đóng băng  là cái tương đương của chú tâm, lắng nghe lệnh giơ ngón tay của Deepak Chopra trong 90 giây đồng hồ.

Cái ngàn năm yên lặng của Niagara không ai hay . Chỉ hay biết là nó có thật trong hai ngày . Sau đó lại chìm đắm trong thế giới của âm thanh. Hay biết < awareness > cái khoảng trống không , emptiness, giữa 2 niệm, cái trước đã qua mà cái kế tiếp chưa đến, là cái khả năng nghe được cái đứng yên, dừng lại của vô niệm mà Đỗ Hồng Ngọc nói. Nghe cái không động của Deepak Chopra làm thí nghiệm. Nghe cái Samadhi của các thiền sư như Dipa Ma. Nghe cái “ Stillness speak” của Ekkhart Tolle.

(HĐĐ)

8.6.2021

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Gươm báu trao tay, Nghĩ từ trái tim

Nhà thơ Khánh Minh viết cho Huỳnh Ngọc Chiến

17/06/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc 1 Comment

 

Nguyễn thị Khánh Minh

 

MẦU HOA TÍM VÀ GIẤC MỘNG DÀI

 

Những ngày cuối của mùa xuân ở Santa Maria vẫn còn hơi lạnh, khi nắng chưa lên nhiệt độ thường là 57 độ, mỗi sáng đi bộ quanh sân nhà tôi vẫn phải mặc áo khoác, có một sáng bỗng thấy một đốm vàng le lói ở cuối sân, lại, thì ra một đóa daffodil muộn, dư âm diễm ảo của ngày đầu mùa daffodil tháng 3, mà lạ thay phút hiện tiền hội ngộ ấy lại kéo tôi tuột về thời gian xa lắc xa lơ, thời của cơn gió thơ mộng tuổi trẻ thổi vào tuổi mười tám hai mươi tình yêu lạ kỳ lặng lẽ, mà quyến luyến biết mấy thời gian, hóa ra tôi chẳng phải đệ tử biết nghe lời Phật -Biết Sống Một Mình, vững chãi tự tại trong hiện tại- mà lại đang ngu ngơ trong cái “bây giờ và ở đây”… chỉ vì chút mầu vàng daffodil kia quyến dụ mầu áo lụa vàng hoàng hoa thuở nọ theo về khiến lòng người cứ dài ra theo thời gian huyễn mộng. Vâng, thời gian. Đấy đôi khi trong cõi phù du này, cái níu được ta chỉ là chút mầu vàng của một đóa daffodil nở muộn, cho ta cảm thấy sung sướng rằng, chập chùng nhạt phai mà nắng vẫn mang trong nó ánh lung linh từa tựa vĩnh cửu, gió vẫn thổi lao xao cái mầu vàng như thể là trăm năm… Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết/ Đêm qua, sân trước một nhành mai*…Vậy thì làm sao còn bị đánh động bởi lẽ đến đi còn mất trong vòng tròn của tự nhiên tuần hoàn thay đổi? Cái đi kia là khởi đầu, là chuyển hóa cái đến. Cánh hoa rụng tàn trên đất với nụ hoa vừa hé nở chỉ cách nhau một màn sương mỏng ban mai. Tôi cảm nhận thật sâu thật thấm cái mầu nhiệm ấy, khi ở vào thời điểm này, đón cháu bé Bennett vừa chào đời, tiếng khóc oa như khóa sol bắt đầu một bản nhạc diệu kỳ của khai mở, mỗi ngày kề cận Ben bé nhỏ như nụ hoa chớm nở trong bình minh tôi miên man cảm giác mới mẻ của sự khai sinh, và thấy thật là tuyệt đẹp cái điểm tinh sương của chu kỳ đến đi. Vâng, em bé sơ sinh là khải thị nhiệm mầu của đến.

Và rồi, một ngày, từ phương xa kia, nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc báo tin về sự đi. Nhà giáo, nhà văn nhà thơ nhà biên khảo dịch thuật -chưa kể đàn hát- Huỳnh Ngọc Chiến đã ra đi. (Cũng từ anh Ngọc mà tôi quen được anh Chiến qua email, và chỉ một thời gian ngắn ngủi). Anh đã tiên liệu và sửa soạn ngày chia tay, tôi không muốn dùng chữ dũng cảm, mà là an nhiên, đón nhận cái phù du đang từng phút giây cợt đùa tấm thân tứ đại. Nhưng thân hữu đón nhận vô thường ấy với bao buồn thương tiếc nhớ, không sao được, với một tài hoa như thế! Cũng nói, hôm rời Santa Ana để đi đến đây, tôi đem theo hai cuốn sách, một của Nguyên Giác, Từ Huyền Thoại Tới Tâm Kinh. Một của Huỳnh Ngọc Chiến, Rong Chơi Cùng U Mộng Ảnh, với tập này, đang đọc đến câu 5 của Trương Trào: Vì trăng mà lo mây, vì sách mà lo mối mọt, vì hoa mà lo gió mưa, vì tài tử giai nhân mà lo mệnh bạc, đó thực là tấm lòng Bồ Tát vậy” ** thì tin buồn đến. Hỏi ai ưu tư đến cái đẹp và tài hoa mà không khỏi ngẩn ngơ ngậm ngùi khi những vưu vật ấy bất hứa nhân gian kiến bạch đầu? ***. 

 

Mới hồi tháng 2 đây thôi, khóc một bạn hiền, nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ, tôi đã viết: Điểm lung linh mà có thể trong một sát na tương cảm là ta có thể nghe, có thể thấy, là không sinh không tử. Điểm hạnh ngộ của chấm ngàn thu và nốt rạng rỡ trùng sinh. Chỉ một màn sương mỏng thôi… (2.2021)

Vâng. sương khói, mỏng tang mà nghìn trùng…

Hôm nay, chỉ vừa mới qua tuần thứ nhất kể từ khi Huỳnh Ngọc Chiến mất (ngày 1.6.2021), nhân anh Năm Nguyễn Hiền Đức báo tin đang soạn tập tưởng niệm Huỳnh Ngọc Chiến và gửi cho tài liệu thơ văn của Huỳnh Ngọc Chiến, thôi thì xem như tôi đang rong chơi vào cõi thơ văn trong giờ phút đối mặt với sinh tử của anh, mà anh đặt tên là Ngọa Bệnh Cảm Tác, anh khởi viết từ năm 1996, mở đầu là bài thơ lục bát được viết ngay trong bệnh viện, trước khi mổ:

 

Bệnh rồi ta mới thấy ra

Sinh là thế ấy, Tử là thế thôi

Đã qua ba cửa quan rồi

Vẫn chưa hết được cuộc chơi Ta Bà

Cửa thứ tư chắc không xa

Bước vào sẽ thấy đâu là Quê Hương.

 

Giờ này nơi cửa thứ tư ấy hẳn anh đang mỉm cười nhìn mờ xa cõi vừa mới đây thôi anh gọi là cuộc chơi ta bà, và tôi có cảm tưởng như nhắm mắt lại tập trung hẳn sẽ được thấy, để mà nhắn gửi anh những lời này và hỏi anh về mây trắng miền cố lý, có phải mối tương tư bao năm nơi cõi trần ai nay đã được mở gút rồi không. Mừng thay cho kẻ, bước vào sẽ thấy đâu là Quê Hương.

 Đến tháng 8 năm 2020, Huỳnh Ngọc Chiến bị ung thư thực quản. Sau những lần hóa trị mà anh gọi là “một trải nghiệm kinh khủng”, mà sau đó vẫn nói: “Chỉ buồn chút là thanh quản bị ảnh hưởng nên hiện vẫn chưa nói còn rất yếu, và vĩnh viễn không thể hát hò như cũ!!! Cũng không sao, vì vẫn còn cây đàn làm bạn!” hầu như suốt thời gian anh sống cùng con bịnh anh đều mang tâm thái như thế, biết vui với những gì mình đang có ở hiện tại, cho dù biết rõ rằng mỗi ngày mình mỗi mất nhiều hơn sức lực. Vì đâu mà anh có một nội lực an nhiên mạnh mẽ như thế?

 

… Mọi chuyện trong đời xem như đã tạm tròn bổn phận nên tôi giờ rất xem nhẹ lẽ tử sinh. Chỉ mong sao sinh thuận tử an. Để tiếp tục chu kỳ sinh hóa khác trong vũ trụ…

… Trong những cơn đau quặn thắt vị hóa trị, tôi vẫn hoàn tất được bộ kinh Lăng Già đối chiếu. Và thấy lòng thanh thản vô cùng. Tôi mang ơn kinh Phật đã đem lại cho tôi những huyền lực để giúp tôi tìm được thanh thản giữa những cơn đau khủng khiếp đến kiệt sức…

… Khi dịch xong cuốn kinh Lăng Già, và được một nhà xuất bản nhận in, thì tác phẩm L’Enseignement de Vimalakīrti – bản dịch cuốn kinh Duy Ma sang Pháp ngữ từ Tạng ngữ – của Étienne Lamotte lại cuốn hút tôi. Và tôi lại bắt tay vào dịch bộ kinh phương đẳng kỳ diệu này. Tôi xem đây như là một Cuộc Chơi Chuyển Nghiệp khi tiếp cận bến bờ sinh tử… (Trích từ Ngọa Bệnh Cảm Tác)

 

Sức mạnh cho anh nương tựa là đấy, huyền lực của kinh Phật! Trong cơn đau khổ hoạn nạn nếu có ánh sáng của niềm tin này thì như chiếc đũa mầu nhiệm đã gõ vào ta giúp ta nghị lực để sống với, hay có thể là vượt qua, tôi tin như vậy vì cũng có đôi chút kinh nghiệm khi lâm vào một lúc trầm cảm. Và điều này đối với Huỳnh Ngọc Chiến là một xác quyết, lúc đang đau đớn thể xác như thế, tinh thần ấy vẫn là chất nuôi dưỡng anh sức sống làm việc, sáng tác, mà anh gọi một cách thống khoái là Cuộc Chơi Chuyển Nghiệp… Ôi là tài tử tài hoa Huỳnh Ngọc Chiến! Tài hoa mà uyên bác nữa thì hẳn người đó đã Phước Huệ song tu****. 

 

Gượng đau ngồi dịch Lăng Già

Xong, lại mơ cõi Duy Ma phiêu bồng

Để mai về bến sương hồng

Trong tâm còn lại đôi dòng chân kinh

Bước chân qua cõi tử sinh

 

Bước chân qua cõi tử sinh, thì ô kìa, điểm hạnh ngộ của chấm ngàn thu và nốt rạng rỡ trùng sinh. Vâng, đây là mặc khải huyền vi của Đi. Cuộc đi đẹp quá với mang mang lồng lộng chân kinh mà phiêu hốt sương hồng, anh Huỳnh Ngọc Chiến ơi, hãy nói thế nào là sương hồng?

 

Sáng ni lên chín tầng trời
Ngồi nghe thiên cổ kể lời biển dâu
Muốn cho cuộc sống nhiệm mầu
Mỗi giây phút phải xanh màu thiên thu
Để khi vào cõi sa mù
Sẽ bay như hạt mưa thu nhẹ nhàng

 

(HNC, Hóa Trị Lần 1, Ngày 9/9 lên lầu tầng 9, ngồi ghế số 63, hoá trị cả ngày, ngẫu hứng làm thơ)

 

Tôi nhớ lời Phật Thích Ca dạy trong kinh Người Biết Sống Một Mình. Hiện pháp lạc trú, Muốn cho cuộc sống nhiệm mầu/ Mỗi giây phút phải xanh màu thiên thu… Không ưu tư mình sẽ ra đi mà tận hưởng cái xanh hạnh phúc đang là, ngay ở phút giây hóa trị…

 

Hôm nay tóc rụng hết rồi
Lần hai hóa trị, lại ngồi thi gan
Vội ghi đây một vài hàng
Xem như gởi lại trần gian đôi lời
Mai đây khởi sự xa đời
Cơn Mơ nào sẽ đưa người ngàn thu?
Xin khi vào cõi Không Hư
Hóa thân thành một lời ru dịu dàng
Bao nhiêu mộng ước dở dang
Sẽ thành tựu với Cung Đàn Trùng Sinh.

(HNC, Hóa Trị Lần 2, Ngày 2/10, hóa trị lần 2, cảm xúc làm thơ)

Người tuyệt mơ mộng… Mơ cơn mơ đưa mình về ngàn thu, một ra đi nhẹ nhàng để rồi chuyển hóa thành lời ru dịu dàng. Và nhân gian ai có nghe? Lời ru bất tuyệt lãng mạn của ánh trăng với tiếng dương cầm lung linh Beethoven? Lời ru buồn sâu đêm của mưa thưa trên tàu lá chuối cạnh thư phòng xưa chàng ngồi dịch kinh? Ôi, những lời ru dịu dàng hóa thân của người, một mất mà hóa hiện trùng trùng… Sinh tử kia, điểm hạnh ngộ của chấm ngàn thu và nốt rạng rỡ trùng sinh, thì tâm ước Bao nhiêu mộng ước dở dang/ Sẽ thành tựu với Cung Đàn Trùng Sinh, sẽ viên thành, sẽ từ tinh anh ấy mà họp lại nên tài hoa… Nói tới đây tôi cảm động muốn khóc.

 

Hôm nay hóa trị đợt ba
Bước xuống ghế bệnh mắt hoa, quay cuồng
Cười ta quen thói phiêu bồng
Bây giờ dừng vó ngựa hồng nơi đây
Giang hồ bao cuộc tỉnh say
Mây đưa tiếng hát, khói bay cung đàn
Cuối đời phiêu bạt phương nam
Cần Thơ sông nước ngọt trầm cải lương
Bến Tre nhớ bóng tà buông
Sài Gòn hòa tiếng hát buồn Bạc Liêu
Tam Kỳ phố cũ thương yêu,
Vui trưa Đà Nẵng, say chiều Hà Lam
Ta nhàn du cõi trần gian
Rong chơi cùng với cây đàn guitar
Dịch kinh, viết sách gọi là
Lưu chút tặng vật làm quà thế gian
Bận tâm chi chuyện hợp tan
Sinh là nắng gió, tử ngàn hoa bay
Đến như hoa thắm bên này
Đi thành hương ngát tháng ngày bên kia
Một làn sương mỏng cách chia

(HNC, Hóa Trị Lần 3, Sáng 23/10 hóa trị đợt 3, từ 7h đến 13h, làm thơ… chữa bệnh)

 

Hài hước là cách hay nhất để hóa giải và cho ta chịu đựng một cách nhẹ nhàng những cảnh ngộ khó khăn, những tình huống tréo ngoe, như lúc này đây: Cười ta quen thói phiêu bồng/ Bây giờ dừng vó ngựa hồng nơi đây… Hẳn vó ngựa hồng một thời đang mỉm cười với chân ghế xạ trị hôm nay. Luôn luôn trong phút đối mặt với tử sinh, Huỳnh Ngọc Chiến hầu như không nghĩ đến cái mất đi, nỗi chia xa, Bận tâm chi chuyện hợp tan/ Sinh là nắng gió, tử ngàn hoa bay… Tôi nghe nắng gió hoa bay xao xuyến đất trời… Trong một bài giảng của sư ông Nhất Hạnh nói, tất cả các pháp luân phiên chuyển hóa, chẳng có gì gọi là còn là mất, hạt nước bốc hơi thành mây, mây tan thành mưa… Và người tài hoa kia thì Đến như hoa thắm bên này/ Đi thành hương ngát tháng ngày bên kia… Cõi nào người cũng Có Mặt, Thực Sống. Diệu nghĩa thay đi đến ấy! Cũng vậy, trong bài thơ In Flanders Fields, bác sĩ quân y John McCrae, chứng kiến bao cái chết của những người lính, giữa hàng bia mộ, ông cũng thấy được phục sinh huyền ảo ấy:

 

Trên cánh đồng Flanders

Giữa những hàng hàng bia mộ

Hoa poppies nở

Dập dờn

Đánh dấu nơi chúng tôi yên nghỉ

Trên trời

Những con sơn ca vẫn can đảm hót

Tiếng hót chợt vang lên đôi lúc

Giữa tiếng đại pháo rền dưới kia

Chúng tôi là những người vừa mới chết

Chỉ mấy ngày trước đây

Nhưng chúng tôi vẫn sống

Để cảm nhận bình minh

Thấy được ánh hoàng hôn

Yêu và được thương yêu

…

(John McCrae, In Flanders Fields, Nguyễn Xuân Thiệp dịch)

 

Có được tuệ giác của vô thường, John McCrae mới nhìn ra sống chết chan chứa xúc cảm như thế, để gặp gỡ với Huỳnh Ngọc Chiến, cõi đây anh là hoa thắm, cõi kia anh là hương ngát… và trên cánh đồng hoa poppy vàng ngát bia mộ Jon McCrae vẫn nghe trong gió: chúng tôi vẫn sống để cảm nhận ban mai, chiều tà… Thật mang mang huyễn lộng tử sinh trong mấu chốt ngọt bùi miên viễn yêu và được thương yêu. Nó là gì nếu không là sức mạnh cho ta lúc sống được nương tựa bình an, là sợi tơ kết gắn người đi xa và kẻ ở lại, là hạt mầm nuôi nấng bao lời hẹn cõi mai. Trong bài Lời Cuối của Huỳnh Ngọc Chiến, anh cũng đã nói về hạnh phúc yêu và được thương yêu này.

 

… Tôi cũng sắp từ giã mọi người để xuống một bến ga. Trên chuyến xe đời ở kiếp này, giữa bao trầm luân trôi nổi, tôi thấy mình là lữ khách hạnh phúc. Tôi đã vào đời bằng tiếng khóc giữa tiếng cười của cha mẹ, người thân, bây giờ sẽ ra đi bằng nụ cười giữa sự thương yêu của người thân, bè bạn, v.v… Hạnh phúc đó đâu phải ai cũng có thể có được đâu?

… Mọi người rồi sẽ trải nghiệm được rằng chết là bước chuyển để nối tiếp cuộc sống theo một thể điệu khác, trong chu kỳ sinh hóa vô cùng.

Tôi xin cảm ơn tất cả những người, trong gia đình lẫn ngoài đời, từ những bậc đàn anh đến thân hữu, học trò, đồng nghiệp, v.v… đã gặp gỡ và thương yêu, quý mến tôi trong chuyến rong chơi giữa cõi Ta Bà này. Trong kiếp sau, hay nhiều kiếp sau nữa, nếu có duyên chúng ta vẫn có thể gặp lại nhau.

Đến lúc này, tôi thấy cái Chết cũng chỉ là cái sân khấu ở nơi khác để tôi bước lên chơi đàn như trong đêm nhạc Cung Trầm, mà nhóm bạn thân tổ chức cho tôi vào đêm 28/12/2019 tại Tam Kỳ. Chỉ hơi hồi hộp chút xíu vì có thể tôi sẽ gặp những người khách lạ! (Lời Cuối, HNC viết ở Tam Kỳ 5/5/2021)

 

Đón nhận sự ra đi như thế, thì quả thật là tử an, thưa anh. Và khi anh đã nói chết là bước chuyển để nối tiếp cuộc sống theo một thể điệu khác, trong chu kỳ sinh hóa vô cùng, đó phải chăng là bất sinh bất diệt, thường trụ, chân không diệu hữu? Với tâm thái niết bàn ấy thì sự ra đi kia nhẹ nhàng như chiếc lá rơi trong tiếng gió, tiếng chuông, tiếng nhạc cổ điển (mà anh hằng ưa thích). Và hẳn là màu tím của buổi nắng chiều cũng hòa theo, tiếp tục lao xao trong cõi mộng dài khác, để lại sinh ra một tài hoa? 

 

-o-o-o-

 

Trong email ngày 29 tháng 5 -ba ngày trước khi qua đời-, anh HNC đã viết cho tôi:

“Tôi thích nhất hai câu: Mầu hoa tím ở trên đồi/Thường về lao xao trong giấc ngủ (NTKM). Tôi cũng mơ màu hoa tím và tiếng nhạc cổ điển lao xao trong Giấc Mộng Dài của đời mình.” Mầu hoa tím và Giấc Mộng Dài tôi dùng làm tiêu đề cho bài viết tưởng niệm Huỳnh Ngọc Chiến không có nghĩa gì đặc biệt ngoài chất thơ mộng của hình ảnh, biết đâu nhờ chiếc cầu thơ mộng này tạo nên một túc duyên mà anh nói trong một email: “Mong kiếp sau chúng ta được là bạn” và tôi sẽ được hưởng một cái thú sống đẹp theo Trương Trào “nguyệt hạ thính guitar thanh” ** của một người bạn tài hoa.  Thưa anh Huỳnh Ngọc Chiến, tôi viết bài này trong nỗi niềm chia sẻ, nếu không muốn nói là tri âm, của một người bạn.

Santa Maria, June 12, 2021

ntkm

 

*câu thi kệ của Thiền sư Mãn Giác, Ngô Tất Tố dịch

**Huỳnh Ngọc Chiến, Rong Chơi Cùng U Mộng Ảnh, tr.88. tr.94 (Nguyệt hạ thính tiêu thanh, dưới trăng nghe tiếng tiêu)

*** Nguyễn Công Trứ: Giai nhân tự cổ như danh tướng/ Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu (Tự ngàn xưa, giai nhân cũng như danh tướng, không để nhân gian thấy sống đến lúc bạc đầu -Huỳnh Ngọc Chiến dịch-)

****Huỳnh Ngọc Chiến, Ngọa Bệnh Nhàn Đàm, câu 32

 

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Thơ Phạm Thiên Thư “Mười con nhạn trắng về tha”

12/06/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc 4 Comments

 

Thư gởi bạn xa xôi

11.6.2021

“Mười con nhạn trắng về tha”

(Động hoa vàng, Phạm Thiên Thư)

 

Câu hỏi của bạn hơi “ác” đó nha. Đây là 4 câu thơ mở đầu của bài thơ Động hoa vàng của Phạm Thiên Thư, bài thơ dài tới 100 khổ, mỗi khổ 4 câu lục bát đẹp như mơ mà ai cũng biết… Cho đến nay đã có hàng trăm bài viết về Phạm Thiên Thư với Động hoa vàng này đó. Mà hình như chưa có ai hỏi như bạn đã làm khó mình hôm nay. Bạn biết đó, mình chẳng phải nhà phê bình văn học, nhất là phê bình thơ… Bởi thơ là để cảm nhận, để rung động… chớ không phải để phân tích, để bình giảng… Nói thì nói vậy chớ người yêu thơ vẫn cứ vừa cảm nhận, vừa rung động vừa bình giảng… để thấy cho hết cái đẹp cái hay, để rồi được rung động 6 cách “nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý” cũng chẳng khoái ru?

Mười con nhạn trắng về tha

Như lai thường trụ trên tà áo xuân

Vai nghiêng nghiêng suối tơ huyền

Đôi gò đào nở trên miền tuyết thơm…

Bạn hỏi mình tại sao nhạn trắng, tại sao mười con mà không phải tám chín con hay trăm con? Tại sao “về tha”? Tha ai? Tha cái gì? Tại sao tha?

Rồi “Như lai thường trụ” là sao? Vô thường, vô ngã, “vô sở trụ” mà sao còn trụ?

Rồi bạn cho rằng “Vai nghiêng nghiêng suối tơ huyền/ Đôi gò đào nở trên miền tuyết thơm” thì ai cũng hiểu cả rồi. Mái tóc huyền óng ả chảy mượt như suối của nàng thiếu nữ xinh đẹp. Làm nhớ “vai gầy guộc nhỏ” của Trịnh Công Sơn! Còn “Đôi gò đào nở trên miền tuyết thơm” đâu cần phải giải thích thêm! À, nhưng mà “miền  tuyết thơm” ở đâu vậy? Có trời mới biết, ủa không, có nhà thơ mới biết. Làm nhớ Văn Cao: “Chúng em xin dâng hai chàng trái đào tiên…”.

Tóm lại là bạn chỉ “quay” mình vài chỗ “bí hiểm”: Mười con nhạn trắng về tha là sao?Tại sao mười, tại sao tha…? Và tại sao Như Lai thường trụ?

Ối trời. Mình bí quá. Bèn phải mượn “quyền trợ giúp”.

Phạm Thiên Thư (PTT) bây giờ không xài Điện thoại, chẳng có email, giữa mùa Cô-vi giãn cách này cũng không trực tiếp đến gặp được. Lại nghe nói ông bắt đầu quên nhiều sau mấy lần tai biến.

Mình liền hỏi nhà thơ Trụ Vũ, vốn chỗ thân thiết với PTT. Ông trả lời ngay:  “Tha” ở đây là “khác”, phương khác. Câu này có nghĩa là mười con nhạn trắng bay về phương khác…

Không yên tâm lắm, mình bèn hỏi Lam Điền, nhà báo, nhà thơ, ở báo Tuổi Trẻ. Lam Điền khuyên: “Tranh thủ lúc tác giả còn sống nên hỏi trực tiếp cho chắc đi bác ơi, mọi suy đoán về thơ thường do không còn tác giả để hỏi”. Chí lý. Nhưng có trường hợp như TTKH, không biết tác giả là ai thì biết đâu mà hỏi! Có khi tác giả Alzheimer quên hết rồi thì sao?

Bèn hỏi Linh Thoại, nhà báo, phụ trách mảng văn học báo Tuổi Trẻ. “Dạ con cũng không rõ ý nhà thơ chú ơi, để con hỏi thầy Huỳnh Như Phương”.

Huỳnh Như Phương là nhà phê bình văn học nổi tiếng, đã nghiên cứu về PTT kỹ chắc chắn phải biết rồi. Hy vọng.

Thầy HNP trả lời Linh Thoại: “Thầy chịu thua. Thiền sư Đỗ Hồng Ngọc mà không giải thích được thì làm sao mình giải thích. Chờ qua dịch gặp ông PTT hỏi ông. Mà có khi ông cũng không giải thích được!”.

Mình đùa với Linh Thoại: Ông PTT chắc cũng sẽ biểu về hỏi “thiền sư” ĐHN đi! Bởi ông cũng quên hết rồi! Dĩ nhiên chú Ngọc giải được quá đi chớ! “Thiền sư” mà!

Linh Thoại cười: Vậy chú giải cho con nghe với. hihi.

Mình “cầu cứu” nhà thơ Đỗ Trung Quân. Quân ơi, cho anh hỏi chút nhe: PTT trong bài thơ Động hoa vàng có câu đầu tiên: “Mười con nhạn trắng về tha…” nghĩa là sao, nhất là chữ “tha” khó hiểu quá?

ĐTQ trả lời liền: Theo em cảm nhận thì mười con nhạn trắng PTT chỉ 10 ngón tay hoa vẽ trên luân chuyển tiết mùa, nhưng chỉ là cảm nhận vì em không nghiên cứu Phật học…

Mắt mình sáng ra: À há! Rất hay rồi đó!

ĐTQ thêm: Câu sau hình như là “vai nghiêng nghiêng suối tơ huyền/ Đôi gò đào nở trên miền tuyết thơm…” cái nhìn Phật học cũng lại là ẩn dụ của suối- mây- rừng… em nghĩ thế.

Mình mừng rỡ: Hay lắm ĐTQ! Anh nghĩ anh bắt đầu giải được rồi đó! Cảm ơn em.

Dù vậy, mình cũng thử hỏi nhà thơ Phật tử thuần thành Tôn Nữ Hỷ Khương xem sao, chị bảo “Bs Đỗ Hồng Ngọc mà không biết thì Hỷ Khương làm sao biết được!”.

Ối giời!

Thôi thì hỏi thêm nhà thơ Khánh Minh ở tận nửa vòng trái đất bên kia, người cũng rất thân quen PTT. Khánh Minh trả lời: “Anh Ngọc ơi, anh mà không biết thì em biết… chết liền! Xưa em rất thân với PTT, phải gọi bằng chú, nhưng em không đọc Động hoa vàng. Em chỉ thích tập thơ 4 chữ thôi. Tại sao là “mười”, tại sao “về tha” và Như-lai thì sao “thường trụ”?

Khánh Minh thắc mắc nữa!

Tóm lại, góc độ “thơ” thì không xong rồi. Còn góc độ “thiền” thì sao?

Mình hỏi chuyện tu hành của PTT cho rõ nguồn cơn, Google trả lời:

Đi tu, thực ra với ông không hẳn là tìm một chốn nương náu, mà ông ngộ ra một điều, ông đã tự tìm cho mình một cõi riêng, một kiểu tu hành riêng…

Ông viết Động hoa vàng những ngày đầu ngấm giáo lý nhà Phật, như đánh dấu mình vào một cõi của chính mình trong thi đàn. Dĩ nhiên, Động hoa vàng chưa hẳn là tác phẩm xuất sắc nhất trong đời viết của Phạm Thiên Thư, nhưng nó đã làm nên một “thương hiệu” của Phạm Thiên Thư. Những câu thơ đẩy cái đạo đời bềnh bồng trên cõi Phật, làm hiện hữu cái cuộc đời đáng sống trên cái mênh mang bao la của phù vân hư ảo.

Nhiều người đã cho rằng Phạm Thiên Thư đi tu mà lòng vẫn hướng về cõi tục. Ông chỉ cười: “Tôi tu theo cách của mình, tu để sống cuộc đời của mình, nuôi dưỡng lối tư duy và trí tuệ của mình”. Quả thực là từ cõi Phật, ông đã làm được những điều đáng nể: thi hóa kinh Phật, sáng tác những thi phẩm hay và đẹp thuộc diện hiếm hoi trong văn học Việt Nam…Thơ của ông được nhiều người có tên tuổi trong giới và rất nhiều bạn đọc mến mộ… (//vi.wikipedia.org/wiki).

 

Tìm hiểu sâu hơn về PTT không gì bằng tham khảo nhà văn Nguyễn Thu Trân, người đã có những buổi tiếp xúc , gặp gỡ, trao đổi trực tiếp với nhà thơ nhiều năm qua (trích). Thu Trân viết:

“Từ Động hoa vàng, người yêu thơ Phạm Thiên Thư cũng mờ mờ ảo ảo với “tu sĩ lãng mạn” Thích Tuệ Không bởi những dòng tự bạch:

Hỏi con vạc đậu bờ kinh

Cớ sao lận đận cái hình không hư

Vạc rằng thưa bác Thiên Thư

Mặc chi cái áo thiền sư ỡm ờ…

 

Hỏi: Thưa, ở đây là nhà thơ hay nhà sư ỡm ờ?

Đáp: Cả hai, từ ỡm ờ ở đây có nghĩa tôi ra đi từ đời và trưởng thành từ đạo. Trong tôi, đạo và đời là một. Trong 9 năm ở chùa (1964-1973), tôi- tức nhà sư Thích Tuệ Không đã tiếp cận tư tưởng nhà Phật và triết lý Phật giáo là phần lớn tinh thần sáng tác của tôi. Triết lý Phật giáo cũng không ngoài những hạnh phúc, khổ đau của con người. Một đời sống hoà bình, thanh thản với cái thiện luôn đẩy lùi cái ác… cũng là mục đích thơ Phạm Thiên Thư hướng đến. Phật giáo khi hòa nhập vào cuộc sống thì đã trở thành một giá trị văn hóa chứ không đơn thuần là tôn giáo.

Hỏi: Vì sao cậu học trò Phạm Kim Long lại trở thành nhà sư Thích Tuệ Không?

Đáp: Tôi sinh năm 1940, quê Thái Bình nhưng đã là người Sài Gòn từ năm 1954. Thời sinh viên mê văn chương thơ phú, tôi sáng lập và tụ tập bạn bè vào Học hội Hồ Quý Ly. Việc lập hội đoàn này khiến tôi luôn bị cảnh sát chế độ Sài Gòn chú ý, thế là để được yên thân, tôi đã ẩn vào chùa để tu. “Tu bất đắc dĩ” mà ngộ ra kinh Phật, ngộ ra chuyện thiền rất nhanh nên tôi thấy mình là người may mắn, tôi sớm nhận ra điều, nhà chùa không phải là nơi tôi nương náu để qua cơn bỉ cực mà là một cõi riêng, rất riêng để tôi tha hồ bay bổng từ những điều ngộ ra chính mình và cuộc sống chung quanh.

Hỏi: Sau kinh kệ, thơ nhạc… rồi đến hớt tóc, bán tạp hóa, bán cà phê kiếm sống; thi sĩ Phạm Thiên Thư còn nổi tiếng nhờ tài chữa bệnh?

Đáp: Tôi nghiệm ra phương pháp chữa bệnh điện công Phathata từ những cách tham thiền, vận nội công và yoga. Những tiền đề này tôi tích lũy được từ những ngày học võ (bố tôi là thầy thuốc dạy võ) và thời gian tầm sư học đạo ở Thất Sơn (Bảy Núi-An Giang); cũng không thể không kể thêm ở đây sự kết hợp với võ Bình Định, gồng Châu Quý, thiền Mật Tông… Phathata là phương pháp tập luyện nhân điện; tự điều chỉnh bế tắc, rối loạn cơ thể và tâm lý thông qua khả năng siêu ý thức. Tôi cũng đã tự chữa bệnh cho mình bằng phương pháp Phathata (có kết hợp cùng các phương pháp khác). Hiện tôi vẫn tham gia câu lạc bộ chữa bệnh miễn phí cho mọi người bằng phương pháp Phathata…

Ngày của thi sĩ Phạm Thiên Thư bây giờ cũng nhẹ nhàng như gió như mây. Dưới bóng cây xanh đầy hoa nắng của quán cà phê gia đình với tên gọi Hoa Vàng trên đường Hồng Lĩnh (quận 10-TP.HCM), ông thường ngồi hàng giờ để hoài niệm về màu hoa vàng cùng bóng áo thoát tục năm xưa, để thấy mình đã sống bảy mươi năm không hoài không phí giữa nhịp đời sắc sắc không không:

Gối tay nệm cỏ nằm say

Gõ vào đá tụng một vài biến kinh

Mai sau trời đất thái bình

Về lưng núi phượng một mình cuồng ca… 

(Nguồn: Đương Thời, http://cntyk2.free.fr/vannghe/tho/)

Bài phỏng vấn của nhà văn Nguyễn Thu Trân đã thực hiện hơn 10 năm trước, khi PTT mới 70 tuổi, ta được biết thêm ngoài tu Phật, làm thơ, ông còn là một thầy thuốc chữa bệnh với phương pháp Phathata.

 

Bây giờ ta thử nghe Võ Phiến nhận xét về thơ tình của PTT:

“Phạm Thiên Thư chỉ đóng trọn vai tuồng xuất sắc khi ông trở về với chính mình, tức một tu sĩ đa tình. Và trong vai tuồng ấy ông thật tuyệt vời, đáng yêu hết sức.

Thử tưởng tượng: Nếu Phạm Thiên Thư sớm tối miệt mài kinh kệ, một bước không ra khỏi cổng chùa, không biết tới chuyện hẹn hò, không hề lẽo đẽo đưa em này đi rước em nọ về v.v… thì nền thi ca của chúng ta thiệt thòi biết bao. Lại thử tưởng tượng Phạm Thiên Thư quanh năm suốt tháng chỉ những em này em nọ dập dìu, nhớ thương ra rít, mà không màng tới kinh Hiền kinh Ngọc, không biết chuông biết mõ gì ráo, thì trong kho thi ca tình ái của ta cũng mất hẳn đi một sắc thái đặc biệt chứ.

Cho nên ông cứ ỡm ờ thế lại hay. Có tu mà cũng có tình. Cái tình của một người tu nó khác cái tình của người không tu, nó có nét đẹp riêng”.

“Tình yêu của ông thật tội nghiệp. Không phải nó tội nghiệp nó đáng thương vì ông bị hất hủi, bị bạc tình, bội phản, vì ông gặp cảnh tuyệt vọng v.v… Không phải thế. Tội nghiệp là vì bên cạnh các mối tình vời vợi của ông lúc nào cũng thấp thoáng cái ám ảnh của kiếp sống mong manh, của cuộc thế vô thường, của cảnh đời hư ảo.

Vả lại không phải chờ đến một cái chết mới đối diện Hư Vô, ngay cả khi đôi trẻ hãy còn đủ trên đời ông vẫn ý thức rõ ràng cái nhỏ bé chơi vơi của tình yêu:

“Cõi người có bao nhiêu

Mà tình sầu vô lượng

Còn chi trong giả tướng

Hay một vết chim bay.”

Rồi Võ Phiến khẳng định, thơ tình của PTT là thứ thơ tình “Tuyệt nhiên không thịt da”:

“Thơ tình của chàng là thứ thơ tình không có nụ hôn. Người tình của chàng là thứ người tình không da thịt. Đố thiên hạ tìm ra trong thơ chàng một nụ hôn, tìm ra những cặp môi mọng như quả nho, gò má ửng hồng như trái đào, những sóng mắt đắm đuối, ngực tròn phập phồng v.v…, đố như thế là đố khó quá… Không mọng đỏ, không no tròn, không phập phồng, không đắm đuối, không long lanh v.v… Tuyệt nhiên không thịt da”.

Ông dẫn nào Xuân Diệu, nào Vũ Hoàng Chương, nào Bạch Cư Dị, ông nào ông nấy cũng “ca tụng thân xác” (chữ Nguyễn Văn Trung)… và chỉ riêng thơ tình PTT là “Tuyệt nhiên không thịt da”!

(chusalan.net: Võ Phiến  Từ Ngày xưa Hoàng Thị… tới… Đưa em tìm động hoa vàng…)

“Không phải đâu là không phải đâu”! Võ Phiến lầm chết! Tưởng tượng xem, một tu sĩ đa tình, 9 năm ngồi ngắm trăng suông bên bờ suối, nhìn vách đá ngẩn ngơ chẳng thua gì 9 năm diện bích của Bồ Đề Đạt Ma… một hôm sực nhớ đóa hoa vàng (khổ 99- Động hoa vàng)

 Vào hang núi nhập Niết bàn
Tinh anh nở đoá hoa vàng cửa khe


“Thiền sư” hiểu rõ lẽ vô thường, rõ cái chơi vơi của “cõi người có bao nhiêu/ mà tình sầu vô lượng” nên một khi đã phập phồng, đã đắm đuối, đã long lanh thì hết phương … cứu chữa!

Anan là đệ tử đẹp trai nhất của Phật, một hôm đi khất thực, gặp người đẹp Ma-đăng-già quyến rũ sắp…, Phật vội vàng kêu đại đệ tử Xá-lợi-phất mang lá bùa đến cứu. Lá bùa đó là Chú Lăng Nghiêm. Bây giờ các tu sĩ sáng nào cũng phải tụng!

Cho nên 9 năm ngồi nhìn vách đá, ngắm trăng suông, miệt mài kinh kệ,  một hôm biệt thầy giã bạn xuống núi, thõng tay vào chợ thì choáng váng, háo hức, hừng hực…không lạ!

Nhưng để hiểu cho rốt ráo “mười con nhạn trắng về tha” này, ngày 9.6.2021, mình viết thư hỏi nhà văn Nguyễn Thu Trân. Cô liền gọi phone ngay cho nhà thơ và trả lời mình:

Gửi anh Đỗ Hồng Ngọc,

Em đã gặp nhà thơ Phạm Thiên Thư nhiều lần, nhưng thật ra chưa thắc mắc về từ “tha” trong câu đầu của thiền ca Động hoa vàng. Chú cháu ngồi với nhau chỉ nói về cõi thiền vô ưu dữ dội của Động hoa vàng thôi. Thắc mắc của anh quá hay, khiến em phải thắc mắc rằng, tại sao mình không thắc mắc điều này với nhà thơ. Em có gọi chú PTT bằng số điện thoại từ lâu rồi nhưng tổng đài bảo số này không có thật (chắc chú đã đổi số). Không chắc bây giờ ông già còn khoẻ và minh mẫn. Thuở em gặp, ông già cũng đã mơ màng với cái điện công Phathata lắm rồi. Thôi thì, em cũng liều mình suy diễn trên tinh thần đã trao đổi về Động hoa vàng với nhà thơ PTT, anh xem thử coi có hợp lý không nhé- nếu không hợp lý thì anh cho em ý kiến khác vậy.

Chúc bác sĩ luôn vui khoẻ trong mùa dịch covid.
Thu Trân

9.6.2021

.

Mười con nhạn trắng về tha

Như Lai thường trụ trên tà áo xuân

Vai nghiêng nghiêng suối tơ huyền

Đôi gò đào nở trên miền tuyết thơm

 

“Tha” có lẽ phải hiểu ở đây theo nghĩa Hán- Việt, chứ không thể là “tha thứ” hoặc

“tha đi, mang đi”- suy diễn hơn một chút, càng không phải là “bê tha”.

Trong tiếng Hán, “tha” có 3 nghĩa:

– “Tha” đại từ chỉ ngôi thứ ba số ít: anh ấy, chị ấy, ông ấy, bà ấy (nam nữ cách viết

khác nhau nhưng phát âm giống nhau).

– “Tha” tính từ có nghĩa thư thả, ung dung tự tại.

– “Tha” động từ có nghĩa gánh vác, chở che.

 

Trong bối cảnh “Mười con nhạn trắng về tha” là câu đầu của “thiền ca” Động hoa

vàng 100 khổ thơ lục bát của Phạm Thiên Thư, có lẽ “tha” trong trường hợp này là

tính từ (thư thả, ung dung tự tại) là phù hợp nhất. Động hoa vàng đẹp như mơ, hư

hư thật thật với đàn chim nhạn “mở màn” thì thái độ ung dung tự tại (vô ưu) rất phù hợp cho 3 câu sau đó:

Như Lai thường trụ trên tà áo xuân

Vai nghiêng nghiêng suối tơ huyền

Đôi gò đào nở trên miền tuyết thơm

 

Và kết nối khổ thơ đầu với khổ thơ cuối, ta sẽ thấy “sự suy diễn” này phù hợp:

 

Hoa vàng ta để chờ anh

Hiện thân ta hát trên cành tâm mai

Trần gian chào cõi mộng này

Sông Ngân tìm một bến ngoài hoá duyên

 

Chỉ có sự vô ưu của một loài chim sang trọng, đẹp đẽ như chim nhạn mới có thể

“gánh” hết những gì huyền ảo trong cõi thiền mà rất đời, mà rất sex của tu sĩ Phạm Thiên Thư thôi.

(Thu Trân, 9.6.2021).

………………………………………………………………………………………….

 

Thiền sư thi sĩ đa tình “huyền ảo trong cõi thiền mà rất đời, mà rất sex ”, Thu Trân nói về PTT rất đúng đó vậy. Nhưng tại sao “về tha”? Thu Trân viết có lẽ “tha” trong trường hợp này là tính từ (thư thả, ung dung tự tại) là phù hợp nhất. Mình không nghĩ vậy. Phải tìm trong hướng khác: Y học chẳng hạn. Đừng quên, PTT không chỉ thiền sư thi sĩ mà còn là một thầy thuốc.

PTT xuất thân trong một gia đình làm nghề đông y, từ nhỏ ông đã nghe quen mùi thuốc, ba chén sắc còn 6 phân, dao cầu, thuyền tán các thứ… để chữa thân bệnh. Lớn lên đi tu… lại học được Phật pháp, chữa cả tâm bệnh, vì thế vào đời, ngoài chuyện làm thơ, ông sáng tạo một phương pháp dùng nhân điện chữa bệnh như phim kiếm hiệp Kim Dung, đưa hơi xuống huyệt đan điền, truyền công lực qua các huyệt đạo trên thân thể, PTT đặt tên phương pháp mình là Phathata (viết tắt của Pháp-Thân- Tâm). Ta thấy “Pha” là PHÁP, “Tha” là THÂN và “Ta” là TÂM. Phải đặt tên bí hiểm một chút thì pháp mới linh nghiệm chớ!  Có lúc ông còn quả quyết Phathata của ông chữa trị được cả bệnh HIV-AIDS, Ung Thư các thứ…!

Về Phathata, ông bảo rằng ông “nghiệm ra phương pháp chữa bệnh điện công Phathata từ những cách tham thiền, vận nội công và yoga. Những tiền đề này ông đã tích lũy được từ những ngày còn trẻ (cha là thầy thuốc kiêm thầy võ) và thời gian tầm sư học đạo ở Thất Sơn (An Giang) khoảng 1964-1973 đã hình thành nên phương pháp ông đặt tên là Phathata này.

Như vậy, phải chăng “về tha” ở đây là “trở về với cái Thân xác”, về với cái Sắc trong ngũ uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Hành giả khi “hành thâm Bát Nhã, chiếu kiến ngũ uẩn giai Không” thì vượt hết mọi khổ đau ách nạn. (PTT vốn là Thích Tuệ Không!).  “Thân tâm nhất như” là nguyên tắc của Phật học và của Y học ngày nay (holistic medicine), nên ông muốn đem Phathata chữa bệnh giúp đời nhưng hiệu quả ra sao lại là vấn đề khác!

Tóm lại, “về tha” có thể là về với cái Thân xác, về với con người trần tục; và “mười con nhạn trắng” là mười ngón tay hoa miệt mài…

Phật giáo khuyên ly dục, ly tướng. “Ly nhất thiết tướng tức kiến Như Lai”. Nhưng tu sĩ thì hiểu bản thể Như-lai là vô tướng, thường trụ, bất nhị. “Chư pháp tùng bổn lai/ thường tự tịch diệt tướng”. Thị chư pháp không tướng: Bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm (Tâm Kinh). Cho nên “Như Lai thường trụ” là đúng. Cái hay ở đây là “Như lai thường trụ… trên tà áo xuân” nhé.

Thi sĩ Quách Thoai, một hôm thấy-biết Như Lai ở những bông bụp ngoài hàng giậu và giật mình sụp lạy, cúi đầu:

Ðứng im ngoài hàng giậu
Em mỉm nụ nhiệm mầu
Lặng nhìn em kinh ngạc
Vừa thoáng nghe em hát
Lời ca em thiên thâu

Ta sụp lạy cúi đầu.

(QT)

Ở phần kết Động hoa vàng, PTT viết:

Vào hang núi nhập niết bàn
Tinh anh nở đoá hoa vàng cửa khe
Mai sau thí chủ nào nghe
Tìm lên xin hỏi một bè mây xanh


Hoa vàng ta để chờ anh

Hiện thân ta hát trên cành tâm mai

Trần gian chào cõi mộng này

Sông Ngân tìm một bến ngoài hoá duyên

 

Hy vọng bạn đã… hài lòng phần nào.

Thân mến,

 

Đỗ Hồng Ngọc

(11.6.2021)

………………………………………………………

Xin chia sẻ một vài Comments

 

Một người bạn:

Theo tôi, hồi đó ông PTT chưa nghĩ ra chuyện PHATHATA đâu.

Tôi thiên về cách hiểu “tha” là động từ.

Về tha cũng là tha về, thả về. Về đâu? Về động hoa vàng. Câu thơ tạo nên một không gian vừa đạo vừa đời, vừa huyền bí, ẩn mật, vừa cụ thể, trần tục. Mười con nhạn trắng hay trăm con nhạn trắng cũng vậy thôi, là những sứ giả đem niềm vui hạnh ngộ về động hoa vàng, cho gã từ quan tưởng xa đời mà vẫn không quên đời. Gã có thành thiền sư chuẩn bị nhập Niết Bàn thì cũng không buông bỏ nụ hoa vàng ngoài khe suối. Cũng như không bỏ được suối tơ huyền, đôi gò đào nở…

 Hai Trầu

Đọc phần dẫn chuyện của anh Đỗ Hồng Ngọc từ người đặt câu hỏi tới người giải đáp câu hỏi vừa mạch lạc vừa hồi hộp mà hấp dẫn với những bí hiểm trong từng phần của mỗi câu thơ càng lúc càng đi vào con đường…hổng cách gì hiểu nổi thi sĩ muốn gởi gắm điều gì qua những vần thơ và cách dùng chữ của ông…

Khánh Minh

Anh Ngọc ơi, em đã đọc bài viết về mười con nhạn trắng… thật là đầy đủ ý kiến của “võ lâm ngũ bá” rất thú vị và em cũng mở rộng tầm nhìn, mỗi người cảm nhận 4 câu thơ mở đầu Động Hoa Vàng theo cảm xúc riêng của mình làm thơ PTT thêm giàu ý nghĩa. Đó thực là thơ, anh đồng ý không?

Riêng km thì km không hiểu mười con nhạn trắng là mười ngón tay hoa… như nhà thơ Đỗ Trung Quân và anh đồng tình,  km nghĩ mười ở đây chỉ là một thi ngữ, nó không mang ý nghĩa một con số xác thực 1,2,3,4…, để làm đẹp lời thơ, thi hoá một số lượng nào đó.

Và “mười con nhạn trắng về tha” thì km đồng ý với cách giải thích của nhà thơ Trụ Vũ, tha là phương khác. Vì km nhớ lại  một kỷ niệm cách đây hơn bốn chục năm, lúc đó km thường cùng ba mẹ và cô Tuệ Mai ( cố nữ sĩ Tuệ Mai) họp ở nhà chú PTT đang sống cùng mẹ của ông, căn nhà mà ông gọi là Động hoa vàng, trước ngõ là một giàn hoa vàng anh mà tới thì như phải đi chậm lại vì cái đẹp của nó, ở đó một lần trên căn gác thơ, km đã nghe ông bảo: km nhìn ra cửa sổ xem, km thấy gì? Một cảnh tượng rất đẹp, cả đàn cò trắng trên cánh đầm cạn trong nắng chiều. Đẹp lắm, nhất là đối với một con bé thành thị ít dịp thấy cò. Ông nói, đó là thi hứng của ông “và km biết không cả khi chúng bay đi thì hình ảnh đó vẫn lung linh ở đó…”,  do ông nói vậy mà em cảm nhận hai câu thơ đầu, cò đuọc thi hoá bằng nhạn để liên tưởng đến mùa Xuân và cho dù đàn nhạn có bay đi thì màu trắng kia là “Như lai thường trụ” sắc Xuân.

Cũng nói ở đây ý của em, vì với thời gian quen thân và cũng nói đến thơ nhiều nên em hiểu với tính cách của ông, hai câu tiếp theo cũng chỉ là hình ảnh thơ  mộng ẩn dụ của mùa xuân chứ không mang hình ảnh hiện thực nào, vì như vậy, nó sẽ không đủ sức để mở đầu và chở cả nội dung Động Hoa Vàng. Đó là trực cảm của em không giải thích được, e rằng sẽ rơi vào phân biệt. Chỉ biết rằng nếu hỏi em

Mười con nhạn trắng về tha

Như lai thường trụ trên tà áo xuân 

có hay không, thì em sẽ gật đầu ngay. Hỏi vì sao hay thì em sẽ trả lời không biết. Thế là hay, phải không thưa anh?

ĐHN

Cảm ơn Km. Đúng vậy. Thế mới là thơ. Như họa. Mỗi người tùy cảm nhận riêng của mình mà “thấy” “nghĩ” khác nhau. Cái đó nó do những “tập khí” tích lũy từ trong Alaiya thức, chuyển qua Mạt-na thức với cái “ngã” của mình xen vào trong đó. Nhờ vậy mà cõi Ta-bà trở nên thú vị phải không?

Một nhà ngôn ngữ học:

Ý kiến của Thu Trân không thuyết phục: (1) Tha trong tiếng Hán có 22 chữ khác nhau (mà riêng 差 đã có 20 nghĩa), nói có 3 nghĩa, thì khó chấp nhận; (2) Cho dù muốn gán tha trong câu thơ Phạm Thiên Thư có nghĩa là “thư thả, ung dung tự tại”, tức là chữ 佗, thì không phải đã ổn: đây là chữ Hán, chỉ có trong tiếng Hán, chứ không phải Hán Việt, tức là loại chữ Hán có mặt trong kho từ vựng tiếng Việt. Quả vậy, trong tiếng Việt, không xuất hiện bất kỳ từ nào có tha với nghĩa là “thư thả, ung dung tự tại” cả.

Ý kiến của Đỗ Hồng Ngọc cũng thế: (1) Động hoa vàng xuất bản năm 1971, của một Phạm Thiên Thư thi sĩ, chứ không phải một Phạm Thi Thư thầy thuốc với môn dưỡng sinh điện công Phathata sau này; (2) Mà cho dẫu người đọc cố hiểu tha ở đây là là viết tắt của thân đi nữa, thì không khỏi đối mặt với câu hỏi: Có thật Phạm Thiên Thư khi viết Mười con nhạn trắng về tha / Như Lai thường trụ trên tà áo xuân / Vai nghiêng nghiêng suối tơ huyền / Đôi gò đào nở trên miền tuyết thơm là muốn nhìn người con gái trong con mắt của một thầy thuốc (dùng nhân điện) cứu người? Hay là của một thi nhân tu sĩ, tôn sùng vẻ đẹp cơ thể của người con gái, có làn tóc như “suối tơ huyền” sau bờ “vai nghiêng nghiêng”, và trên “miền tuyết thơm” là bộ ngực tròn đầy “đôi gò đào nở”, đến nỗi nghĩ rằng “trên tà áo xuân” bao giờ cũng hiện thân Đức Phật “Như Lai thường trụ”?

Mình nghĩ tha ở đây là “mang” (như trong thành ngữ Kiến tha lâu cũng đầy tổ), gốc Hán 佗 (lưu ý viết cùng tự dạng như chữ tha với nghĩa là “thư thả, ung dung tự tại”). Nhưng tha gì? “Tha Như Lai”. Tức phải hiểu đây là trường hợp thơ vắt dòng (enjambment). Mười con nhạn trắng “tha Như Lai” để ngài “thường trụ trên tà áo xuân”!

Hy vọng góp được một kiến giải mới, có ích.

ĐHN 

  1. Mười con nhạn trắng về tha. Bạn bảo “Tha Như Lai” để về “thường trụ trên tà áo xuân…” (tội nghiệp Như Lai hết sức!). Bài thơ Động hoa vàng PTT làm năm 1971, thời đó đã có nhiều thơ “vắt dòng” ở VN chưa nhỉ? Và không lẽ PTT chỉ “vắt dòng” mỗi một lần đó thôi sao?
  2. Mình nghĩ PTT đã chịu ảnh hưởng cách chữa “thân bệnh” từ nhỏ (với người cha là thầy thuốc bắc), rồi đi tu (1964-1973) thì chịu ảnh hưởng thêm cách chữa “tâm bệnh” từ Phật giáo, từ đó mà đề ra phương pháp chữa bệnh Phathata (kết hợp Pháp-Thân-Tâm), đã có thể hình thành rất sớm, trước khi viết Động hoa vàng (1971) chăng?

Dù sao, bài thơ rất hay, bay bỗng… (thử đọc thêm đoạn kết) của nhà thơ rất… “ỡm ờ, rất thiền mà rất sex” này như Thu Trân nhận định.

Một người bạn:

Đọc thơ mà chỉ vụ vào từng chữ thì khó cảm nhận ý nghĩa lắm. Ví dụ, cứ truy từ điển rằng “tha” là khác, là thư thả rồi đoán mò thì rất dễ suy diễn. Nhỡ như một lúc nào đó tìm được bản gốc thấy tác giả viết là “về qua” hay “về thu”, mà nhà in in nhầm, thì phá sản hết.

Hiểu là “tha Như Lai” thì cụ thể, lộ bài quá, mà hơi vô lễ nữa. Mà hình như ông PTT cũng chưa lần nào dùng thủ pháp enjambement (dù thủ pháp này đã phổ biến từ thời Thơ Mới 1932-1945 với Thế Lữ, Xuân Diệu…)

Vì đây là câu thơ đầu bài nên phải ráng cắt nghĩa, chứ các ông nhà thơ nhiều khi viết cũng tùy hứng lắm (Ví dụ, Nguyễn Đình Chiểu: Vợ Tiên là Trực chị dâu).

Mình vẫn giữ cách hiểu “ấn tượng”: bầy chim nhạn trắng “về tha” là đem về, mang về cái hình ảnh của Đạo. Và Như Lai thường trụ trên tất cả cảnh vật ấy, cả trong hình ảnh của mười con nhạn trắng.

Một người bạn:

Mình hiểu hơi khác. Tu sĩ Phật giáo thì một trong những giới cấm đầu tiên là sắc dục. Thế mà tu sĩ Phạm Thiên Thư nhìn cô gái trong con mắt đắm đuối (thị dục) như thế, thì “tha Như Lai thường trụ trên tà áo xuân” chính là điểm nhất quán của thơ, là cái hay của bài thơ. Nhưng trong ý kiến của hai bác có một điểm hợp lý, buộc mình phải kiểm tra lại: Phạm Thiên Thư có lần nào khác làm thơ vắt dòng không?

ĐHN

1.”Nhỡ như một lúc nào đó tìm được bản gốc thấy tác giả viết là “về qua” hay “về thu”, mà nhà in in nhầm, thì phá sản hết”.

Bạn viết câu này làm mình giật mình! Trong cõi văn chương đã xảy ra không ít trường hợp nhờ sai “bản vỗ” mà câu thơ bỗng hay hơn!

  1. Về thủ pháp “vắt dòng” thời Thơ Mới chỉ là một cách “lạ hóa” chớ chưa phải là một trường phái Tân hình thức như ngày nay.
  2. Cái “sex” (tính dục) trong mấy câu thơ này… không chỉ là “thị dục”.

 Nguyễn Lệ Uyên

Hình như triết lý nhân sinh luôn bàng bạc trong thơ PTT, nhuốm đầy màu sắc thiền tính, phả hơi thở sâu thăm thẳm vào thơ… và đã làm cho những câu thơ lung linh hơn, đẹp hơn.

Anh Ngọc này,

Theo tôi, thơ PTT không phải là thơ tình như DTL, NTN… ở đó, là những tâm cảm phóng ra từ những rung động khi chạm nhẹ vào những hốc khuyết, những tròn căng “Anh theo Ngọ về/ Chiều mưa nho nhỏ“…

Vai nghiêng nghiêng suối tơ huyền 

Đôi gò đào nở trên miền tuyết thơm

chứng tỏ PTT đứng trên hiện sinh thường ngày khi nhìn thấy, cảm thụ và thốt ra đôi gò đào nở, trên bình diện gần như một công án (thầy tu cõng thiếu phụ qua sông mùa lũ xiết).

Tóm, đời thường bên ngoài, từ thiếu nữ, bông hoa, cô gái lên chùa, những em… trong thơ PTT đều bay lên tầng cao thẳm từ cái Tâm đã được định, không lung lay, xao động.

Nhật Chiêu

Theo tôi, “THA” ở đây là “tha ngộ” (khác với “tự ngộ”). Mười con nhạn trắng là mười phương cõi Phật đã giúp thi sĩ “ngộ” ra Như Lai (Tathata) vẫn “thường trụ” trên tà áo xuân, trên suối tơ huyền, trên đôi gò đào nở…

T.T

Chỉ một từ “tha” mà anh “bóc trần” được thi sĩ, tu sĩ PTT rồi. Bài dạng nghiên cứu đọc hay, vui, lý thú.

…………………………………………………….

 

Chân thành cảm ơn các bạn.

Tôi nghĩ rằng, đây cũng là dịp để những bạn yêu thơ đọc lại Pham Thiên Thư!

Đỗ Hồng Ngọc

Mùa giãn cách Cô-vi

Saigon, 15.06.2021

 

Đỗ Hồng Ngọc và Phạm Thiên Thư, 2/2011 tại Cafe Hoa Vàng, Quận 10 Tp.HCM. (Ảnh Đặng Văn Hiệp)

Filed Under: Ghi chép lang thang, Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định

Nguyễn Xuân Thiệp: TÌNH CA SỎI ĐÁ

08/06/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

TÌNH CA SỎI ĐÁ

nguyễnxuânthiệp

Que des cailloux

TÌNH CA SỎI ĐÁ

Từ dưới lòng khe
hay bên sườn núi. xưa
vang lên. tiếng hát
ôi. sỏi đá
ngàn đời có nhau
này em có nghe
này em có nghe
khúc ca
của sỏi. và đá
sao mình mãi xa nhau
trong cõi đời
cho anh cầm tay em
và hãy lắng nghe
que des cailloux
ôi. sỏi đá

TÌM ĐÂU, MÁI NHÀ

bao giờ
về
ngồi. dưới gốc cây hoa gạo. chùa xưa
nghe chiều rơi
đọc bài thơ vương phủ
nhớ
vầng trăng
mắt em
trong lá
mái tóc ngày nào
như thơ anh
ảo. quỳnh hương

anh đi
qua bao dốc núi
bờ truông
không tìm đâu thấy
mái nhà

THĂM VƯỜN. MÙA DỊCH

buổi trưa
mùa dịch
nàng đeo khẩu trang
đi thăm vườn. nắng
thăm cây magnolia. bông tím
có thấy bóng tôi. đứng tựa góc tường
cười. khóc

HỎI HOA SỨ. CHÙA XƯA

mai sau
em về bên dòng sông ấy
ghé hỏi giùm tôi
những chùm bông sứ. ngủ quên. trên mái chùa xưa
có nghe mưa rơi
lời kinh bát nhã

HOA QUỲ. TỪ KẼ ĐÁ

buổi chiều
đứng ngắm
bông dã quỳ
mọc từ kẽ đá
hồn tịch lặng
ôi. đá xưa. đâu. người

… Và lỜi Đá kỂ

tảng đá. hình cổ quái
nằm bên sườn đồi
với lũ quạ. và những trái thông khô
kể chuyện
gã nhà thơ
tóc râu. hoang dã
qua đây
nguyện cầu gặp lại. người xưa
rồi ngồi. thiền định. cho tới khi hóa đá
giờ nằm. cô đơn. bên khóm quỳ. vàng
nghe gió. từ thiên thu. thổi

ĐI GIữA NHữNG TỜ KINH

tôi đi giữa những tờ kinh
nắng. hong trên màu lá
vàng. xưa
có tiếng gọi
trời hư vô. nghiêng bóng cây
chim ơi. chim. sao không về lại
mình tôi đi giữa những tờ kinh
còn nghe. tiếng gió. trên gác chuông. chùa cũ
vị sư già. đã rời đi
con bướm. hoàng hoa. trên phương trượng
còn thức. đợi. người

NGắM TRĂNG MÙA ÔN DịCH

Cám ơn
cám ơn em
mùa ôn dịch
đã gởi cho tôi
một nụ cười. thơ trẻ
qua màn hình cell phone
đêm nay. trăng mười bốn
tôi sẽ chạy xe qua nhà em
chúng ta cùng đứng ngắm trăng
cách một bức tường
em nhớ nhé
đừng khóc. nghe em. đừng rơi lệ

TƯỢNG*

hình như
có tiếng chim
trong đôi mắt
trăng
và nguyệt
mùa xuân đã về rồi
này em có hay
này em có hay
hoa
bên đá
tượng người
đâu. xưa

NXT
Mar 2018

*Khi xem hình mộ TCS 

Filed Under: Nghĩ từ trái tim

Nguyễn Hiền-Đức: Nhớ Huỳnh Ngọc Chiến

07/06/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Nhớ HUỲNH NGỌC CHIẾN

Nguyễn Hiền-Đức

Ghi chú: Sáng nay 7.6.2021, mở hộp thư ra đã thấy ngay bài viết Nhớ Huỳnh Ngọc Chiến của 5 Hiền (Nguyễn Hiền-Đức) với mấy dòng tâm tình như sau:

“5 Hiền đang cặm cụi và rị mọ làm Tuyển tập Tưởng Niệm Huỳnh Ngọc Chiến. Xin được trích ra mấy bài để mong Cả Nhà đọc và gõ 3 tiếng chuông tiễn biệt Huỳnh Ngọc Chiến. Làm sao mà không nhớ, không tiếc một người như Huỳnh Ngọc Chiến cho được!”

Đa tạ 5 Hiền. Và xin được sẻ chia cùng bè bạn.

(ĐHN)

 

HUỲNH NGỌC CHIẾN
VIẾT VỀ
BÙI GIÁNG, TRỊNH CÔNG SƠN,
ĐỖ HỒNG NGỌC, TRẦN XUÂN KIÊM

(Trích từ tập Tưởng Niệm Huỳnh Ngọc Chiến
do Nguyễn Hiền-Đức thực hiện)

 

ĐÔI LỜI VỀ BÙI GIÁNG

HUỲNH NGỌC CHIẾN

Bùi Giáng là một hiện tượng kỳ lạ nhất trong lịch sử văn học Việt Nam, nên viết về ông, dù ca ngợi hay công kích, đối với tôi, gần như là điều bất khả. Tập tiểu luận này − tạm gọi thế − chỉ gồm những bài tôi viết về ông, được đăng rải rác, thường là vào các dịp kỷ niệm ngày ông mất, theo yêu cầu của một vài tờ báo mà tôi cộng tác. Viết theo lối lai rai, ngẫu nhĩ tình cờ. Và chỉ có thể viết được như thế thôi. Hình như chưa một ai, trong số những người viết về Bùi Giáng mà tôi được đọc, có thể lường hết được sự hoằng viễn của ông, trong thi ca và tư tưởng, để có thể thấy ông trác việt đến độ nào mà có một tác phẩm tương xứng về ông. Tập tiểu luận này, do đó, chỉ là những cảm nhận mang rất nhiều tính cách riêng tư để sẻ chia với những người có cùng cảm nhận như tôi, khi đọc Bùi Giáng. Và xin bạn đọc hãy nguyên lượng có cái sự vụ rất riêng tư đó.
Khi đọc một tác phẩm biên khảo về triết học hay văn học, tôi thường không bận tâm nhiều chi đến những thứ ngôn ngữ “đao to búa lớn” với các thuật ngữ rối rắm trong đó, mà muốn tìm đâu là cái riêng biệt của tác giả. Chỉ cái riêng đó đối với tôi mới thực sự có giá trị. Bởi vậy, tôi rất dững dưng đối với những loại sách biên khảo theo thể lệ giáo khoa của các giáo sư, học giả, vì hầu như cuốn nào cũng được viết theo một khuôn sáo na ná như nhau, và cũng đều vô vị, nhàn nhạt như nhau, cho dù lý luận có thể rất thuyết phục, lời lẽ có thể rất hùng hồn. Bởi chúng chỉ thuần là sản phẩm của lý tính, nên đều vô hồn và thiếu sức sống như nhau. Một người có đôi chút thông minh chỉ cần thông thạo vài ngoại ngữ, và chịu khó đọc sách triết theo kiểu sinh viên trả bài trong các kỳ thi là có thể cho ra đời được một tác phẩm loại đó rồi. Các học giả xưa nay hầu như đều chỉ viết về triết học, mà ít ai sống cùng triết học. Mà đọc sách triết học là để sống cùng triết học, và dùng nó để tìm một căn cơ an thân lập mệnh, chứ đâu phải để biến nó thành một thứ trang sức tinh thần. Trừ một vài nhân vật thông tuệ, phần lớn học giả đều viết sách triết học hoặc văn học giống như người đang tập lái xe hoặc lái xe chưa vững, hai tay lúc nào cũng phải giữ chặt vô−lăng, và đôi mắt phải đăm đăm nhìn theo lộ trình quy định. Ngồi lên những cỗ xe đó, có nhắm mắt ta cũng có thể hình dung họ sẽ đưa ta đến nơi nào. Cho nên đến khi tình cờ được đọc Bùi Giáng, tôi thấy choáng ngợp như được ngồi trên cỗ xe của một tay đua loại “chịu chơi” siêu hạng đang chạy trên những xa lộ thênh thang không biết đâu là lộ giới. Choáng ngợp nhưng kỳ diệu. Và cuốn hút. Đúng là : “Đùng đùng gió dục mây vần, Cỗ xe triết học tuyệt trần như bay.” (xin cụ Tố Như lượng thứ cho!)
Đọc sách của ông, từ những cuốn tiểu luận ban đầu mang tính giáo khoa như : Một Vài Nhận Xét Về Truyện Kiều, Bà Huyện Thanh Quan, v.v… cho đến những tác phẩm triết học của ông về sau như : Martin Heidegger và Tư Tưởng Hiện Đại, Con Đường Ngã Ba, Lễ Hội Tháng Ba, v.v… tôi như kẻ đang chèo ghe trong sông, rạch, đột nhiên bị lạc ra biển lớn. Những loại tư tưởng mà tôi được đọc, lâu nay vốn nằm chết khô trong mạng lưới lý luận vô hồn của các cuốn sách biên khảo, giờ đây được diễn đạt theo phong cách phiêu bồng thù thắng của một kẻ đang “kỵ kình du Hãn Mạn” trên đại dương ngôn ngữ thượng thừa vô biên vô tế. Đọc ông, tôi có cảm giác được giải thoát, như một người bị nhốt lâu ngày trong nhà tù, nay được tự do hô hấp những làn hơi thật thâm trường, giữa biển trời lộng gió. Cảm giác đó giống như khi tôi đọc tác phẩm của đại sư Vivekanada. Từ đó, những con châu chấu, chuồn chuồn của ông đã âm thầm nhiếp dẫn tôi từng với đi theo dòng ẩn lưu chảy ngầm qua tất cả những tác phẩm của ông, và nối kết cả với những cuốn kinh, cuốn sách mà tôi đọc tản mạn đó đây.
Suốt đời, tôi vẫn luôn xem Bùi Giáng là một trong người thầy vĩ đại đã dẫn dắt mình vào cõi thi ca, tư tưởng bằng phong cách hoằng viễn của một Vivekananda hoặc một Khổng Tử. Ông đã khai mở những phương trời tư tưởng lồng lộng của Shakespeare, Khổng Tử, Heidegger, Nerval, Camus, đặc biệt là Nguyễn Du, v.v…, những phương trời mà nếu không có ông thì những người thuộc thế hệ của tôi khó lòng cảm nhận được. Rất nhiều điều tôi viết lai rai lâu nay đều khởi nguồn cảm hứng từ vài trang kinh Phật hoặc vài trang sách của ông.
Tôi có một cảm nhận hơi cực đoan, là những triết gia nào hoặc những người biên khảo về triết học nào mà không đồng thời là nhà thơ, hoặc không có một cảm nhận thâm thúy về thi ca, thì sách vở của họ luôn khô khan và cũng chẳng giúp được gì nhiều cho ta. Lý trí và lý luận dẫu có xây dựng nên được những cung điện duy lý nguy nga đồ sộ, thì những cung điện đó cũng sẽ đổ nhào qua một câu nói đơn sơ :
Nếu ta không thực hiện nổi cỗi nguồn trường mộng ở nội tâm, thì không bao giờ triết học tiếp xúc được với căn cơ chân chính của nó, dù ta có líu lo trong học hiệu phù hoa với bao nhiêu giọng điệu. (Martin Heidegger và Tư Tưởng Hiện Đại, tập 1, tr.147)
Nếu triết học mà “không tiếp xúc được với căn cơ chân chính của nó” thì có đọc sách mòn hai con mắt, ta vẫn cứ “mang nhiên vô sở đắc”. Phong thái hoằng viễn cùng tư tưởng phóng dật thênh thang và dụng ngữ phi thường của Bùi Giáng là phương pháp giúp ta nuôi dưỡng “cỗi nguồn trường mộng ở nội tâm” để không bối rối trước muôn ngàn giọng điệu líu lo của học hiệu phù hoa vốn dẫy đầy trong môi trường học thuật cổ kim. Những giọng điệu “líu lo trong học hiệu phù hoa” đó giống như những chiêu thức của Đan Thanh tiên sinh hay Ngốc Bút Ông của Mai Hoa Sơn Trang, tung hoành hoa mỹ, làm khiếp đảm những kẻ sơ cơ, nhưng chỉ cần một chiêu kiếm nhẹ nhàng của Lệnh Hồ Xung là tất cả đều biến thành phế vật. Giống như mọi sở tri uyên bác của Hương Nghiêm đều rụng rơi lả tả trước một câu hỏi đơn giản của tổ Quy Sơn, để rồi về sau mới có cơ hội đốn ngộ khi nghe tiếng sỏi chạm vào thân trúc. Những trang sách của Bùi Giáng là chiêu kiếm của Lệnh Hồ Xung, là câu hỏi của Quy Sơn.
Tập tiểu luận này, ra đời vào thời điểm hiện nay, hẳn có đôi chút lạc lõng, khi mà người ta thường nói đến Bùi Giáng, không phải để bàn về thi ca, tư tưởng − là cái ông cần chia sẻ − mà để tán nhảm về cái gọi là “giai thoại Bùi Giáng” − vốn là những thứ mà ông đã gọi một cách khinh bỉ là những “mẩu giẻ rách”.[1] Những cái gọi là “giai thoại” đó đã xúc phạm ông quá nhiều, nhưng ít ai chịu nghĩ đến. Khi ông còn sống, đã có những người viết một số bài nhảm nhí rồi ký tên Bùi Giáng[2]. Khi ông mất, còn có một số người đọc một vài bài thơ ông, hay một vài trang sách của ông, rồi bắt chước “lập ngôn kiểu Bùi Giáng” bằng những thứ ngôn ngữ đại cà sa được cóp nhặt bừa bãi từ các tác phẩm của ông. Thật chẳng khác gì cái tình trạng mà ngày xưa, trong lời tựa cho Kinh Lăng Già, Tô Tử Chiêm đã gọi là “Dư ba mạt lưu, vô sở bất chí.” Lại thêm một vài ông giáo sư giảng dạy triết học đem những thứ kiến thức hàn lâm trường trại ra để chê bai Bùi Giáng. Có lẽ vì họ xem những gì ông viết đều không đúng với cái khuôn khổ của triết học nhà trường theo mẫu mực mà họ được đạo tạo. Mà xét ra, ông có bị chê cũng phải, vì “bất tiếu bất túc dĩ vi đạo”. Những chiêu thức vô chiêu của môn Độc Cô Cửu Kiếm còn khiến đại tông sư võ học như Nhâm Ngã Hành phải ngỡ ngàng, nói chi đến những cao thủ cỡ Dư Thương Hải hay Phong Bất Bình? Đọc sách của các học giả, ta có cảm tưởng giống như Lệnh Hồ Xung học kiếm với Nhạc Bất Quần, phải rập khuôn theo từng chiêu thức mẫu, chẳng khác những con robot đã được lập trình. Đọc Bùi Giáng, ta lại có cảm tưởng giống như Lệnh Hồ Xung học kiếm với Phong Thanh Dương. Kiếm chiêu tùy thuận mà ứng, cứ mặc tình thu phát toàn tùy tâm niệm. Kiếm trong tay Nhạc Bất Quần chỉ là kiếm, kiếm trong tay Phong Thanh Dương là con thần long biến hóa. Triết học trong tác phẩm của các giáo sư, học giả chỉ là cái xác chết khô được ướp bằng đủ loại ngôn ngữ hoa mỹ của tinh thần duy lý, triết học trong tác phẩm Bùi Giáng là con thần long đã điểm nhãn. Đọc những lời chê bai công kích của họ, chắc ở cõi bên kia ông cũng đang bượch cười, như cụ Tản Đà. Ta hãy gác qua sự vụ đó mà hãy tập xách dép theo ông đi bắt châu chấu, chuồn chuồn giữa thảo nguyên bao la của tư tưởng, để cùng Tăng Điểm “dục hồ Nghi, phong hồ Vũ Vu, vịnh nhi quy. 浴乎沂,風乎舞雩,詠而歸。” Đọc Bùi Giáng, bỗng dưng ta muốn xa lánh cõi học thuật trường trại sáo mòn mà chỉ thích rủ nhau “tắm sông Nghi, hóng gió nền Vũ Vu, rồi ca hát mà về.” là vậy. Chỉ những tay tài tử tuyệt thế như Bùi Giáng, Lý Bạch, Omar Khayyam, Tô Đông Pha v.v… mới đem lại cho ta cảm giác mênh mang phiêu dật đó mà thôi.
Ta thử nghe Bùi Giáng nói về Heidegger :
.. nói về bọn thiên tài tư tưởng trong cõi nôm na triết học, thì cổ kim chỉ có ông Heidegger mà thôi. Nhưng nếu căn cứ vào những thứ gì lâu nay ta đọc và hiểu về sách vở ông ấy viết ra, thì không sao hiểu rõ ông cụ già ấy trác việt đến trình độ nào….. Heidegger khoác nhẹ một nửa bàn tay đủ lật nhào hai ngàn năm rưỡi tư tưởng triết học Tây phương, và dựng lên một cõi gì chưa có danh hiệu chỉ định. (Con Đường Ngã Ba, tr.47).
Bùi Giáng cũng vậy. Ông đã khoác nhẹ một nửa bàn tay đủ đẩy toàn bộ những công trình biên khảo sách triết học theo thể lệ giáo khoa vào trong bóng tối, và đem Truyện Kiều dựng thành một tòa Tân Thanh lặng lẽ giữa cõi tư tưởng hiện đại để mở rộng tâm thức nhân gian. Tôi linh cảm rằng ông chính là hóa thân của Tố Như đi về giữa trận đồ tư tưởng hiện đại để dùng Truyện Kiều dìu dắt phương Đông đi vào cuộc đối thoại với phương Tây qua Heidegger. Cho nên “nếu căn cứ vào những thứ gì lâu nay ta đọc và hiểu về sách vở Bùi Trung Niên Thi Sỹ viết ra, thì không sao hiểu rõ ông cụ già ấy trác việt đến trình độ nào.”
Khởi đầu với Mưa Nguồn, thơ Bùi Giáng đã tự thành một cõi riêng biệt phiêu bồng. Nhưng ông làm thơ là để phụng bồi cho ngôn ngữ[3], và viết sách về triết học chỉ là để quãng diễn tư tưởng cho những kẻ đăng đường. Cũng như Heidegger, sau một thời gian viết những pho sách đồ sộ để lận đận lý luận với các triết gia phương Tây, lại âm thầm quay về chú giải thơ Hoelderlin. Và điều vô cùng may mắn là Bùi Giáng đã tặng cho chúng ta một bản dịch giải vô tiền khoáng hậu những lời chú giải đó qua Lời Cố Quận và Lễ Hội Tháng Ba , bằng ngôn ngữ du hý thượng thừa. Đó là tặng vật kỳ diệu trong cuộc hôn phối giữa Thi Ca và Tư Tưởng. Khi nghe những bản symphony của Beethoven, piano sonata của Mozart hay violin concerto của Paganini, nocturne của Chopin, đôi khi ta có cảm giác như chúng không phải là âm nhạc của thế gian này, mà như đến từ một cõi khác. Đọc Lời Cố Quận và Lễ Hội Tháng Ba, ta cũng có cảm giác đó. Âm nhạc đó, ngôn ngữ đó hoàn toàn không có dấu tích của sự dụng tâm, mà dường như chúng vọng đến từ một cõi khác. Cõi khác đó có thể là cõi ngoài của một “Giác Duyên vâng dặn ân cần, Tạ từ thoắt đã rời chân cõi ngoài”. Các tay tài tử tài hoa tuyệt tục đó như những con thần long phiêu hốt, ngẫu nhiên ghé về trần gian, đem thơ nhạc làm tặng vật cho cõi người ta rồi phiêu nhiên nhi khứ, như Phong Thanh Dương xuất hiện bất ngờ để truyền Độc Cô Cửu Kiếm cho Lệnh Hồ Xung, rồi tiếp tục cuộc chơi ở cõi ngoài.[4] Cõi ngoài đó là nơi chốn để Khổng Tử “dục hồ Nghi, phong hồ Vũ Vu, vịnh nhi quy.” cùng Tăng Điểm, để Trang Tử rong chơi cùng cánh bướm với “Trang Sinh hiểu mộng vi hồ điệp”, để Tô Đông Pha “Nghi thượng dĩ thành Tăng Điểm phục” với cõi thơ hãn hữu cổ kim, để Bùi Giáng du hý phiêu bồng với “Anh điên mà dzui dzẻ thập thành, Còn chúng tôi tỉnh mà đành buồn thiu” trong cõi Thái Bình Điên Quốc, nên mọi lời công kích hay ngợi ca họ cũng đều như những nhát kiếm chém vào hư không, và mọi thứ lý luận bác học nhì nhằng cũng chẳng khác nào giấc mơ tiêu lộc.
Gần đây, Thư viện Huệ Quang đã làm một công việc đáng trân trọng là cho in lại hầu hết những tác phẩm quan trọng của ông, những tác phẩm gần như đã “tuyệt tích giang hồ” mà nhiều người mong đợi từ lâu. Đó là dấu hiệu đáng mừng của Tư Tưởng đang phục sinh, trong một thời buổi mà Heidegger gọi là : “Điều đáng suy tư nhất trong thời đại đòi hỏi phải suy tư của chúng ta, đó là chúng ta chưa hề biết suy tư! ”
Ta thử nghe ông nói về Heidegger:
Nếu bây giờ chúng ta thử bỏ ra khoảng chín mươi chín năm đọc lại Heidegger, ắt là chúng ta sẽ dần dà nhận thấy rằng: cái hạt giống mong manh mà Heidegger đã gieo vào mảnh đất Siêu Hình Học Âu Châu, cái hạt giống bé bỏng đó quả thật đã manh nha mọi thứ cây cối đồ sộ, mà về sau thiên hạ sẽ thi đua nhau về leo trèo hái ngắt mọi thứ hoa quả và có thể tưởng lầm rằng hoa quả ấy là của riêng mình trồng trọt ra, chứ chẳng phải của ông Heidegger hoặc Martin gì ráo! (Thi Ca Tư Tưởng, tr.42−43).
Ta có thể dùng những lời đó để nói về chính Bùi Giáng :
Nếu bây giờ chúng ta thử bỏ ra khoảng chín mươi chín năm đọc lại Bùi Giáng, ắt là chúng ta sẽ dần dà nhận thấy rằng: cái hạt giống mong manh mà Bùi Giáng đã gieo vào mảnh đất thi ca tư tưởng Việt Nam, cái hạt giống bé bỏng đó quả thật đã manh nha mọi thứ cây cối đồ sộ, mà về sau thiên hạ sẽ thi đua nhau về leo trèo hái ngắt mọi thứ hoa quả, và có thể tưởng lầm rằng hoa quả ấy là của riêng mình trồng trọt ra, chứ chẳng phải của ông Giáng, hoặc ông Bùi gì ráo!
Bùi Giáng đã khai mở một thông đạo dị thường cho tư tưởng để giúp ta đón nhận được nhiều dư hưởng mênh mông khác từ bốn phương vọng lại, nếu ta thực hiện được “cỗi nguồn trường mộng ở nội tâm” bằng những suy niệm chân thành. Đọc ông, ta thấy tất cả những tư tưởng kim cổ Đông Tây, vốn tưởng chừng như “rạc rời vó ngựa quá quan” trong các cuốn sách biên khảo, đều được quy về một mối, qua những lời bàn lúc thì trầm ổn, lúc thì phiêu hốt, lúc thì bỡn cợt bông đùa, lúc thì bàng bạc chất thơ; giống như kiếm pháp vô chiêu của Ðộc Cô Cầu Bại, tưởng chừng như không có khuôn khổ nhất định nhưng lại thâu hóa được tất cả kiếm pháp trong thiên hạ vào một mối để biến thành những chiêu thức của chính nó. Bùi Giáng đã thổi hồn vào những trang sách bằng trí tuệ phi thường, nên đọc ông, nhiều lúc ta có cảm giác như đang tận hưởng buổi đại yến của âm nhạc trong những bản symphony của Beethoven, dưới bàn tay điều khiển của nhạc trưởng Karajan. Trong giàn nhạc vĩ đại đó, mỗi nhạc cụ đều chơi theo giai điệu riêng, nhưng tất cả đều được kết hợp hòa hài trong bản Giao Hưởng Tư Tưởng Vĩ Đại. Những viên sỏi, hòn đá tầm thường trong tay ông cũng dễ dàng biến thành châu ngọc. Thế nhưng :
Định mệnh của những tư tưởng hoằng viễn xưa nay, vẫn mãi mãi là như thế. Những kẻ gieo giống chả bao giờ thấy cây mọc, chẳng bao giờ thấy đâm hoa kết quả, chẳng bao giờ thu hoạch mùa màng. Họ chỉ phụng bồi cho cuộc gieo hạt, và hơn nữa, phụng bồi cho cuộc soạn sửa gieo hạt mà thôi. (ibid.)
Bùi Giáng “chỉ phụng bồi cho cuộc gieo hạt, và hơn nữa, phụng bồi cho cuộc soạn sửa gieo hạt”, đó cũng là thể điệu hoằng viễn “thuật nhi bất tác” của Khổng Tử, hay “chung thân ngôn vị thường ngôn” của Trang Tử. Và tập tiểu luận này cũng liều lĩnh thử gieo thử một vài hạt mầm xuống những luống đất màu mỡ mà ông đã khai phá cho cuộc gieo hạt, như một niềm thâm tạ. Và mong chờ nhiều hạt mầm khác phong phú hơn nữa sẽ gieo xuống, trong mai hậu.
Đầu xuân 2018
________________________________________
[1] Cf. “Nói một đường, bạn bè nghe ra một lối. Rồi giận, rồi cười, rồi chế giễu, rồi ngợi khen. Rồi sau rốt chạy ra bốn ngõ kể lại cho nhau nghe những cái mẩu giẻ rách ta gọi là mẩu “giai thoại” về họ, lúc để chế giễu, lúc để ngợi ca.” (Martin Heidegger và Tư Tưởng Hiện Đại, tập 1, tr.339). Xin xem thêm bài “Bùi Giáng và nỗi đau hội thoại” trong tập tiểu luận này.
[2] Xem Lễ Hội Tháng Ba, tr. 91.
[3] Cf. “Khi lịch hành đến cuối đường, tư tưởng sẽ biến thành thơ nhạc mênh mông, còn ngôn ngữ đứng trước hiểm hoạ lập ngôn sẽ tự thân biến thành chi ngôn trong những nếp gấp riêng biệt thượng thừa của nó để tựu thành cái vô ngôn, cái l’impensé trong tư tưởng.” (Huỳnh Ngọc Chiến, Trúc Thanh Tập, tr.84, nxb Thời Đại, Sài Gòn, 2011)
[4] Xin xem truyện ngắn Người Tử Sinh, ở cuối tập tiểu luận này.

NGÃ BA NGÔN NGỮ

HUỲNH NGỌC CHIẾN

(Kỷ niệm 10 năm ngày mất của thi sĩ Bùi Giáng 7.10.1998 – 7.10.2008)
Điều suy tư của một nhà tư tưởng chỉ được vượt qua khi mà phần vô ngôn,
phần vô suy tư trong tư tưởng của ông ta
được trả về chân lý sơ nguyên của nó[i].
(M. Heidegger, Was heißt Denken?)

Với nhan đề bài viết này, tôi không muốn góp thêm một “ngã ba” nữa cho cuốn Con đường ngã ba vốn chứa quá nhiều “ngã ba” của Bùi Giáng, nghĩa là cái Dreiweg của Heidegger, theo kiểu “họa xà thiêm túc”, mà chỉ muốn ghi lại một vài suy tưởng nho nhỏ khi đọc sách của hai tác gia này. Tôi vốn là kẻ ngoại đạo về triết học, nên chỉ thích đọc sách thuộc lĩnh vực này theo thể điệu ngẫu nhĩ lai rai của một layman.
Mọi trang sách triết học nếu không chạm đến ta trong tận cùng sâu thẳm của tâm hồn để làm nó rung động với những cảm xúc vi tế nhất; cũng như mọi kiến thức, dù là kiến thức hàn lâm uyên bác được thu thập từ những tư tưởng gia vĩ đại cổ kim đi nữa, nếu nó không đem lại cho ta một tâm thức bình yên để sống giữa cõi đời, và một tinh thần vô úy để một mình đối diện với cái chết, thì suy cho cùng đó cũng chỉ là những thứ hý luận phù phiếm và vô nghĩa, chỉ dùng để giải trí chơi giữa cõi Ta Bà.
Tôi có một người bạn thân suốt đời không hề đọc sách, song mỗi lần trò chuyện cùng anh, tôi lại thấy lý thú và học hỏi được rất nhiều điều, vì trong những gì anh nói, tôi đều nghe ra hơi thở thực sự của cuộc sống. Đây là điều chúng ta hiếm khi tìm thấy trong các sách biên khảo về triết học. Trong đó, tất cả đều được phu diễn một cách rất ư là công phu trên bề mặt ngữ nghĩa, hết tham chiếu chỗ này lại tham khảo chốn nọ. Song khi đọc, sao ta vẫn thấy cảm thấy dửng dưng, ngay cả khi chúng đề cập đến những vấn đề thiết thân của cõi nhân sinh. Đơn giản chỉ vì đó chỉ là những thứ kiến thức phù hoa, và những suy tư lạnh lùng vô hồn của lý trí, mà thiếu đi tiếng nói đằm thắm của tâm tình. Ta có cảm tưởng như đang nghe Thúy Vân thay mặt Thúy Kiều ngồi kể lể và phân tích chuyện đời dâu bể! Dù có đầm đìa nước mắt đi nữa thì nó vẫn hời hợt và vô vị.
Chỉ có những trang sách của các tác gia có suy tư chân thành và tư tưởng phóng dật thênh thang mới có thể làm rung động được lòng người, vì họ đã truyền được tâm lực và trí lực vào ngòi bút. Bút lực đó mang một dạng năng lượng tế vi, tương tự như khái niệm “Ojas” trong tư tưởng Ấn Độ[ii]. Đây là một điều mà chúng ta dễ dàng nhận thấy trong các trang kinh Phật cũng như các tác phẩm của Trần Trọng Kim, Kim Định, Bùi Giáng, Krishnamurti, Vivekananda, Nietzsche, Trang Tử, Whitman, Heidegger v.v… Chính những tác gia này mới cho ta thấy sức mạnh của ngôn ngữ.
Đọc Bùi Giáng, ta dễ dàng nhận thấy bút lực cuồn cuộn của một người đã rong chơi du hý trong cõi ngữ ngôn để lần ra đầu mối “nhất dĩ quán chi” xuyến suốt mọi bờ bến tư tưởng kim cổ Đông Tây. Ông là người duy nhất đã thực hiện được một cuộc phục hoạt trùng tân (Widerholung) đối với Nguyễn Du, như Heidegger đã làm với các triết gia tiền Socrates, theo tinh thần:
“Chúng ta hiểu phục hoạt trùng tân một vấn đề căn cơ là sự mở phơi những khả tính uyên nguyên của nó, những khả tính mà từ lâu đã bị chìm khuất trong quên lãng. Thông qua việc triển khai này, vấn đề căn cơ đó sẽ chuyển dời bình diện, và do đó, sẽ được giữ gìn phần nội hàm đáng được đặt thành vấn thoại. Tuy nhiên giữ gìn một vấn đề có nghĩa là để nó được tự do và đánh thức được sức mạnh nội tại, sức mạnh có khả năng biến nó thành vấn thoại trong căn cơ của Hiện Tinh Thể (Wesen) của nó”.[iii]
Có ai đã làm được điều đó như Bùi Giáng đã làm với Nguyễn Du? Những phần vô ngôn thăm thẳm nào của Nguyễn Du đã được Bùi Giáng khơi dậy trong tinh thần tân thanh tái tạo và buộc chúng ta phải đọc lại Nguyễn Du bằng đôi mắt khác? Và từ đó nhận ra chân dung của Heidegger và Khổng Tử?
Bùi Giáng đã làm điều kỳ diệu nào khi dùng ngôn ngữ Truyện Kiều để bắc nhịp cầu nối liền hai bờ cõi Đông Tây, nối liền hai dòng ngôn ngữ hoàn toàn khác biệt nhau là Đức ngữ và Việt ngữ? Để hiểu hết được sự hoằng viễn của Bùi Giáng, khi cưỡng bức ngôn ngữ để triển khai phần vô ngôn trong tư tưởng, ta hãy suy tư xem giữa ngôn ngữ Tây phương và tiếng Việt có mối hòa thanh tương ứng nào không?
Ta hãy thử xem câu đầu tiên của Đạo đức kinh là “Đạo khả đạo phi thường Đạo 道可道非常道” khi được dịch ra ngôn ngữ phương Tây thì nó lóng ca lóng cóng như thế nào? Tôi xin trích một số câu tiêu biểu:
1. Der Sinn, der sich aussprechen läßt, ist nicht der ewige Sinn (Richard Wilhelm).
2. Quand on La nomme la Voie n’est plus la Voie (không rõ người dịch).
3. TAO called TAO is not TAO (Stephen Addiss, Stanley Lombardo: 1993).
4. Nature can never be completely described, for such a description of Nature would have to duplicate Nature (Archie J. Bahm: 1958).
5. The Way that can be described is not the absolute Way (Sanderson Beck: 1996).
6. The Way (Dao) that can be “Wayed” is not the constant Way (Alexander J. Beecroft).
7. The Tao that can be expressed is not the eternal Tao (Alexander J Beecroft).
8. There are ways but the Way is uncharted (R. B. Blakney: 1955).
9. Existence is beyond the power of words to define (Witter Bynner: 1944).
10. The way that can be told is hardly an eternal, absolute, unvarying one (Tormod Byrn: 1997).
11. The Tao that can be told of is not the eternal Tao (Wing-tsit Chan: 1963).
12. Tao that can be spoken of, Is not the Everlasting Tao (Ellen M. Chen: 1989).
13. The Tao that can be followed is not the eternal Tao (Charles Muller).
14. The Tao that can be trodden is not the enduring and unchanging Tao (James Legge).
Tôi nêu một loạt các câu văn dịch để bạn đọc xem kỹ và hãy tự hỏi: liệu người phương Tây, qua các bản dịch đó, có nắm được tinh thần câu văn mở đầu của Đạo đức kinh như người Trung Quốc hoặc người Việt chúng ta? Hay là các chữ “Sinn”, “La Voie”, “sich aussprechen läßt”,“Tao”, “can be Wayed”,“can be trodden”, “can be spoken of”,“can be followed”… trong các câu văn dịch đó, đối với người Tây phương đều lớ ngớ như cảnh gà con mất mẹ? Vậy mà chúng ta cứ hồn nhiên cho rằng như thế là dịch sát! Chỉ một chữ “Đạo” đơn giản thôi đã khiến người phương Tây lúng ta lúng túng đến thế, thì còn có thể bàn gì đến toàn văn, hay cõi đạo Đông phương?
Bây giờ hãy thử trở lại với một câu văn của Heidegger. Ngôn ngữ của Heidegger cực kỳ phong phú và khó dịch. Mảnh đất siêu hình học đầy gai góc của mấy ngàn năm của Tây phương không cho phép ông lập ngôn đạm nhiên như những bậc chân nhân Đông phương, nên ông phải đem thiên tài ra cưỡng bức ngôn ngữ Đức để làm mở phơi, hiển lộ được cái Hiện Tinh Thể (Wesen) của ngữ ngôn. Chỉ riêng một từ Dasein của ông cũng đã đẩy các ngôn ngữ Âu châu vào chỗ bế tắc. Các cách dịch l’Être–là, Being–There, l’Être-le-Là rõ ràng đều không ổn thỏa.
Chúng ta thử dịch một câu đơn giản và quen thuộc của Heidegger ra Việt ngữ. Câu đó như vầy: “Die Sprache ist das Haus des Seins: Ngôn ngữ là ngôi nhà của Hữu Tính”[iv]. Đây là câu nói nổi tiếng của Heidegger trong trang đầu tiên của tác phẩm Brief über den Humanismus (Thư về chủ nghĩa nhân bản), thường được trích dẫn rất nhiều trong các bài biên khảo về ông, kèm theo đủ thứ các kiến thức minh giải hàn lâm. Câu nói đó có nghĩa là gì? Thực chất, trên bình diện văn phạm, chúng ta có thể hiểu và dịch nôm na là: “Ngôn ngữ LÀ ngôi nhà của CÁI LÀ” (với LÀ thứ nhất là động từ LÀ đã chia, còn CÁI LÀ sau là động từ LÀ nguyên mẫu!) Như vậy, với câu “Die Sprache ist das Haus des Seins”thì người đọc sẽ đón nhận và hiểu nó như thế nào trong bản Việt ngữ? Liệu họ có cảm nhận được gì không, hay rốt cuộc cũng chẳng khác gì người phương Tây lắng nghe Đạo đức kinh, nghĩa là cũng chỉ có thể nắm một đống khái niệm ù ù cạc cạc và suy diễn theo những sở tri tích lũy trong trí não? Trong câu nói đó của Heidegger, cho dù ta có dịch chữ Sein là Tính, Tính thể, Tồn lưu, Chân tính, Hữu thể, Tồn thể, Hằng thể, Vĩnh thể, Thường thể, Tồn tại, Tồn hữu, Hữu tính v.v… và dù có nỗ lực “giải minh”,“thông diễn” câu nói đó bằng vô số kiến thức hàn lâm thì tất cả cũng đều cùn nhụt và bế tắc như nhau. Vì đó đơn thuần chỉ là sự thay đổi từ này bằng từ khác, dù ta có truy đến tận gốc của từ nguyên để cho rằng từ này sát nghĩa hơn hơn từ kia.
Rõ ràng từ “Ngôn ngữ” trong câu nói đó của Heidegger không thể chỉ cho mọi ngôn ngữ bất kỳ nào, cho dẫu đó là ngôn ngữ Âu châu. Các bản dịch tiếng Anh và tiếng Pháp “Language is the place for Be[ing]” hay “La langue est la maison de l’Être” nghe vẫn lạc lõng và rời rạc. Có phải rằng từ “Ngôn ngữ” trong câu nói đó chỉ có thể là tiếng Đức hoặc tiếng Hy Lạp mà thôi? Có phải nó mang một điểm đặc dị thù thắng nào như chữ “Đạo” trong tiếng Trung Quốc?
Giữa chữ Đạo 道 và các chữ Voie, Tao, Way, Path có khoảng cách bất khả tư nghì nào mà người phương Tây khó lòng thể hội? Nó có giống với khoảng cách giữa tiếng Đức và tiếng Việt? Đặc biệt là tiếng Đức của Heidegger? Nếu cho rằng dịch chỉ đơn thuần là đi tìm sự tương phối giữa những chữ tương đương về ý nghĩa và kết hợp chúng lại với nhau theo các quy luật về ngữ pháp, thì tại sao chữ Weg trong tác phẩm về sau của Heidegger lại mang một tố chất và âm hưởng mênh mang nào mà ta khó lòng cảm nhận qua các chữ Path, Way, Chemin trong các bản dịch Anh, Pháp ngữ, mà lại cảm thấy nó gần như chữ Đạo phương Đông? Và tại sao Heidegger lại khẳng định chỉ ngôn ngữ Hy Lạp, và chỉ có ngôn ngữ Hy Lạp thôi mới là logos[v], và vì sao ông cho rằng chỉ có tiếng Đức mới nói lên được Hữu Tính (Sein) còn mọi ngôn ngữ khác đều chỉ nói về Hữu Tính? “The German language speaks Being, while all the others merely speak of Being.[vi] Toàn bộ sự khác biệt nằm ở chữ VỀ (of). Các ngôn ngữ Âu châu, những đứa con cùng cha khác mẹ của tiếng Đức, còn bế tắc như thế trước một chữ Sein trong Đức ngữ, thì thử hỏi đứa con ngoại tộc là tiếng Việt sẽ làm thế nào để dìu được cái phần hồn của Sein vào trong Việt ngữ? Hiểu được điểm đó thì chúng ta mới có thể hiểu được sự cưỡng bức ngôn ngữ của Bùi Giáng khi ông dịch các tác phẩm triết học phương Tây, đặc biệt là Heidegger. Cũng như Heidegger, Bùi Giáng là người thâm cảm được sự bế tắc của ngôn ngữ quy ước khi diễn đạt cảnh giới của nội tâm. Nếu Hegel buộc triết học phải nói bằng tiếng Đức thì Bùi Giáng buộc triết học phải nói bằng tiếng Việt, và hơn thế nữa là nói bằng thơ lục bát Việt Nam!
Heidegger đạm nhiên bảo:
“Không bao giờ và trong bất kỳ ngôn ngữ nào, điều được diễn tả lại là cái cần được nói ra” (Nie ist das Gesprochene und in keiner Sprache das Gesagte. – Aus der Erfahrung des Denkens).
Bùi Giáng thơ mộng hơn:
“Thưa em ngôn ngữ quặt què
Làm sao nói hết nghiệp nghề người điên”
Trong kinh điển Phật giáo, đức Phật không ngớt nhắc nhở các môn đồ rằng ngôn thuyết không bao giờ diễn đạt được Thực Tướng, tức Đệ nhất nghĩa đế.
Thử hỏi, về mặt ngôn ngữ, sự chi phối của các chữ Sein (Be, Être) và Seiende (Being, Étant) trên dòng triết học Âu châu có giống như thể cách của chữ Là, chữ Đạo đối với người phương Đông? Rõ ràng điều này hoàn toàn không có. Thậm chí ý nghĩa của Sein/Seiende trong tiếng Đức cũng không hoàn toàn tương đồng với Be/Being trong tiếng Anh hoặc Être/Étant trong tiếng Pháp. Ngay cả các nhà nghiên cứu ở phương Tây như F. H. Heinemann vẫn phải tự hỏi:
“Liệu sự phân biệt giữa Sein và Seiende có thật sự … mang một ý nghĩa quan trọng … có tính căn cơ, hay chỉ dựa trên một điểm đặc thù ngẫu nhiên trong tiếng Đức? Nó không thể được dịch sang tiếng Anh một cách chính xác đã đành, mà dịch sang tiếng Pháp cũng rất khó khăn”.[vii]
Nêu hai ví dụ đơn giản về chữ Đạo và chữ Sein như thế để làm gì? Để thấy rằng muốn bắt được nhịp cầu từ ngôn ngữ này qua một ngôn ngữ khác, từ một cõi suy tư này sang cõi suy tư khác thì con đường tư tưởng của chúng ta phải chuyển dời bình diện, chứ không thể bám cứng một cách nô lệ và máy móc vào chữ nghĩa, nếu muốn vượt qua được lớp vỏ ngôn ngữ để đến được với phần tinh mật bên trong. Suốt mất ngàn năm qua, câu nói “Bất dĩ từ hại ý” của Mạnh Tử vẫn đồng vọng như một lời cảnh tỉnh.
Làm thế nào để ngôn ngữ thực sự là ngôi nhà cho Hữu Tính, để Die Sprache thực sự là das Haus des Seins? Chỉ còn cách lắng nghe và chiêm nghiệm ngôn ngữ trong viễn tượng thơ. Phải khơi rộng dòng thơ để dìu hồn Hữu Tính đi vào trong xoang điệu của tân thanh để lắng nghe được phần vô ngôn trong ngôn ngữ. Đó là chỗ mà Bùi Giáng đã nối bước Nguyễn Du để thực hiện trong tất cả các tác phẩm của ông. Theo tôi, đó mới thực sự là tinh thần của cái gọi là “hermeunetics”. Đem thơ Nguyễn Du làm phương tiện nhiếp dẫn người đọc vào cuộc đối thoại với Heidegger, Bùi Giáng đã thực hiện một cuộc “Wiederholung” tuyệt trù vô tỷ đối với Truyện Kiều. Chỉ có trực giác thiên tài của một nhà thơ mới có thể đưa ông đi vào trong cảnh giới bất khả tư nghì đó để làm “băng nhân” cho cuộc hôn phối kỳ diệu giữa hai bờ cõi Đông Tây.
“Nếu ta không thực hiện nổi cỗi nguồn trường mộng ở nội tâm, thì không bao giờ triết học tiếp xúc được với căn cơ chân chính của nó, dù ta có líu lo trong học hiệu phù hoa với bao nhiêu giọng điệu”.[viii]
Chính nhờ “Cõi nguồn trường mộng ở nội tâm” đó mà ông thừa thãi thông tuệ để nhiếp dẫn triết học Heidegger về hội thoại với Tố Như. Đoạn gặp gỡ giữa Kim Trọng và Thúy Kiều, khi Kiều đi tìm lại cành thoa, được ông minh diễn như cuộc đối thoại hy hữu giữa Sein và Dasein, đã nói lên được phần vô ngôn thăm thẳm nào trong tư tưởng Tố Như và của Heidegger?[ix]
Theo chân Bùi Giáng đi ra từ cõi rừng huyền bí Đông phương, chúng ta sẽ không còn bỡ ngỡ nhiều chi lắm trước ngôn ngữ kỳ bí của Heidegger. Vì Heidegger bảo tất cả tác phẩm của mình chỉ là sự chuẩn bị cho phương Tây có đủ tư cách để mở được cuộc hội thoại với phương Đông trong mai hậu.
Các nhà nghiên cứu đôi khi chỉ trích cách dịch của Bùi Giáng một cách khắt khe mà có khi nào họ tự hỏi: ngôn ngữ Việt đòi hỏi nguyên tác phải chuyển dịch theo yêu sách nào để cái phần vô ngôn tinh mật, hay cái Ungedachte trong suy tư, mới lọt được vào cái Nghe của người đọc? Nền Phật học Trung Quốc với Thiền tông há chẳng phải là “bản dịch” tuyệt diệu của Phật giáo Ấn Độ đó hay sao? Thử đối chiếu các bản dịch của Bùi Giáng về Heidegger với nguyên tác, người đọc có thể cảm nhận được sự sáng tạo phi phàm của ông, dù đôi khi ông có đùa rỡn quá trớn qua lối hý lộng ngữ ngôn. Song đó cũng chỉ là yêu sách của lập ngôn, bởi vì “Điều suy tư của một nhà tư tưởng chỉ được vượt qua khi mà phần vô ngôn, phần vô suy tư trong tư tưởng của ông ta được trả về chân lý sơ nguyên của nó”.
Mai sau, nếu còn một chút gì đáng kể trong những trang viết về Heidegger bằng tiếng Việt thì đó chỉ có thể là những trang sách của Bùi Giáng mà thôi.
Sài Gòn 07.2008
________________________________________
[i] Das Gedachte eines Denkers läßt sich nur so verwinden, daß das Ungedachte in seinem Gedachten auf seine änfangliche Wahrheit zurückverlegt wird. (M. Heidegger, Was heißt Denken? Max Niemeyer Verlag Tübingen, 1954, t.22)
[ii] The Yogis claim that of all the energies that are in the human body the highest is what they call “Ojas”. Now this Ojas is stored up in the brain, and the more Ojas is in a man’s head, the more powerful he is, the more intellectual, the more spiritually strong. One man may speak beautiful language and beautiful thoughts, but they do not impress people; another man speaks neither beautiful language nor beautiful thoughts, yet his words charm. Every movement of his is powerful. That is the power of Ojas. (Vivekananda, Raja Yoga).
[iii] Unter der Wiederholung eines Grundproblems verstehen wir die Erschließung seiner ursprünglichen, bislang verborgenen Möglichkeiten, durch deren Ausarbeitung es verwandelt und so erst in seinem Problemgehalt bewahrt wird. Ein Problem bewahren, heißt aber, es in denjenigen inneren Kräften frei und wach halten, die es als Problem im Grunde seines Wesens ermöglichen (M.Heidegger, Kant und das Problem der Metaphysik, Frankfurt am Main: Vittorio Klostermann, 1973, t. 198.) Lâu nay, các bản Anh ngữ dịch “Wiederholung” là Retrieve; Retrieval, Repitition, Recovery hoặc bản Pháp ngữ dịch là Répetition đều không thể diễn tả được hết nội dung của thuật ngữ này. Nhà thơ Bùi Giáng dịch là “trùng phục thu hồi ”, tôi cũng chưa thật thỏa mãn, dù tôi vô cùng kính phục dụng ngữ phi thường của ông. Tôi đề nghị dịch chữ Wiederholung là “phục hoạt trùng tân” 復活重新 nghĩa là làm sống dậy và làm mới lại một nội dung cũ theo tinh thần tái tạo của hai chữ “tân thanh”.
Wesen của Heidegger thường được dịch sang tiếng Anh là “Essence”, hoặc dịch theo nghĩa “coming to presence”. Tôi dùng “Hiện Tinh Thể ” để dịch Wesen vì đối với Heidegger, Wesen là phần tinh mật, chỉ cái đương thể (whatness) trì tồn trong sự hiển lộ tinh anh.
[iv] Tôi dùng từ “Hữu Tính” hoặc “Tính” để dịch Sein (Being, Être). Dịch là “Hữu Tính” khi Sein mang nghĩa đối lập lại Không Tính (trong tinh thần Phật giáo) hay Vô Thể (Nitchs, Nothingness, Néant), còn dịch là Tính khi Sein mang nghĩa đối lập với Thể; và dùng từ Hữu Thể, Hiện Thể, Vạn Hữu để dịch Seiende (Beings, Étants).
[v] … die griechische Sprache keine bloße Sprache ist wie die uns bekannten europäischen Sprachen. Die griechische Sprache, und sie allein, is logos (… ngôn ngữ Hy Lạp không chỉ đơn thuần là một ngôn ngữ quen thuộc với chúng ta như các ngôn ngữ Âu châu khác. Ngôn ngữ Hy Lạp, và chỉ có ngôn ngữ Hy Lạp, mới là Logos – Heidegger, Was ist das – die Philosophie?, Gunther Neske Pfullingen, 1956, t.12).
[vi] http://www.brainyquote.com/quotes/quotes/m/martinheid395938.html
[vii] Is the distinction between Sein (to be) and Seiendem (being) really of….basic importance … or is it based on a chance peculiarity of the German language? It cannot be properly translated into English, and only with difficulty into French.” (trích theo Julius Seelye Bixler, The Failure of Martin Heidegger, The Harvard Theological Review, Vol. 56, No. 2. (Apr., 1963), t. 121-143).
[viii] Bùi Giáng, Martin Heidegger & Tư tưởng hiện đại, Tập 1, 1962, t.147.
[ix] Bùi Giáng, Thúy Vân và Tam Hợp đạo cô, NXB Võ Tánh, Sài Gòn, 1969, các tr. 13-23.

TỪ PHUSIS HEIDEGGER
ĐẾN “TỒN LƯU” BÙI GIÁNG

HUỲNH NGỌC CHIẾN

C’est seulement dans la mot, dans la langue, que les choses deviennent et sont. C’est pourquoi aussi le mauvais usage de la langue dans la simple bavardage, dans les slogans de la phrasésologie, nous fait perdre la relation authentique aux choses. (Chỉ trong từ, trong ngôn ngữ mà sự vật mới trở thành và hiện hữu. Cũng vì lẽ đó mà sự lạm dụng ngôn ngữ trong cuộc ba hoa thuyết thoại thuần tuý và trong các khẩu hiệu ngữ cú giảng bình khiến ta đánh mất đi mối tương quan chân thực với sự vật )[1]

Nếu cô nàng Thiên Nhiên muốn cảm tạ người đã đem hết thiên tài bạt tuỵ của mình ra để phụng hiến cho nàng, trả lại cho nàng cái chân dung sơ thuỷ, cái bản lai diện mục, vốn đã lắm phen bị triết học kinh viện nhà trường bôi cho lem luốc, thì có lẽ nàng phải ngỏ lời thâm tạ Martin Heidegger, một triết gia – nghệ sĩ kì ảo ở thế kỉ 20. Tôi chưa đọc ông nhiều chi cho lắm. Thế hệ chúng tôi phần lớn không thể tìm được và không thể đọc nổi sách ông trong nguyên tác Ðức văn nên đành phải đọc lai rai qua các bản dịch Pháp văn như Introduction à la Métaphysique, L’Être et Le Temps v..v.. Và chủ yếu chúng tôi vẫn phải tìm chân dung ông qua các tác phẩm, dịch phẩm của Bùi Giáng: Lễ hội tháng ba, Lời cố quận, Ðường đi trong rừng, Sương Bình nguyên, Trăng Châu thổ, Sương tỳ hải… và đặc biệt là cuốn Martin Heidegger và Tư tưởng hiện đại. Nhưng cần gì phải đọc nhiều? Ðến với các tác phẩm thiên tài bằng cả tấm lòng và bằng suy tư chân thành, ta sẽ nhận ra nhiều dư hưởng mênh mông khác. Ði sâu vào một tức là đi thẳm vào mười. Nhất tức nhất thiết là vậy.
Bùi Giáng là một trong những người tiên phong đã dày công dẫn nhập triết học Heidegger vào nền văn hoá Việt nam bằng các công trình biên khảo cũng như các dịch phẩm tuyệt diệu của mình. Và chỉ duy Bùi Giáng là người đủ công lực thượng thừa, đủ thông tuệ để nhiếp dẫn triết học Bà-la-mật Heidegger từ cõi nguyên thuỷ sơ khai Hy Lạp tiếp cận với suối nguồn uyên nguyên của triết học phương Ðông. Ngôn ngữ Bùi Giáng khơi dẫn được những vùng sương bóng mênh mông của nền triết học phương Ðông vốn bị lãng quên quá lâu qua mấy ngàn năm suy tư duy lí. Ông đã dịch và diễn giải Heidegger theo một phong cách cực kì tài hoa bằng ngôn ngữ riêng biệt đầy sáng tạo mà tôi tin rằng, trong tương lai, bất kì người nào muốn tìm hiểu triết học Heidegger đều phải lấy đó làm kim chỉ nam! Do những hạn chế về khuôn khổ của bài viết cũng như kiến thức của người viết, nên tôi chỉ xin dựa vào vài trang của Heidegger trong cuốn Introduction à la Métaphysique (Siêu hình học nhập môn) để cố gắng khơi dẫn được mối tương quan giữa Phusis (fusis) của Heidegger và Tồn Lưu của Bùi Giáng theo những suy niệm riêng của mình.
Kể từ L’Être et le Temps về sau, trong các phẩm của mình, ông Heidegger thường dành nhiều trang sâu thẳm để khôi phục lại chân dung uyên nguyên của Thiên Nhiên (fusis- phusis). Và để hé mở cho chúng ta cái gương mặt thật của nàng, ông già nước Ðức tuyệt vời đó đã khổ công dọn dẹp sạch hết mọi gai góc um tùm của mấy ngàn năm triết học phương Tây.
Từ buổi khai mở sơ thuỷ và có tính quyết định của triết học phương Tây nơi người Hy lạp, qua đó việc tra vấn về hiện thể như là thế trong toàn thể, cuộc vấn thoại về vạn hữu như nhiên khởi đầu cuộc lịch hành chân chính của nó, mở đầu buổi khai đoan chân thực, thì trong giai đọan đó hiện thể được gọi là fusis (Phusis).
A l’époque du premier ef décisif déploiment de la philosophie occidentale chez les Grecs, par lequel le questionner sur l’étant comme tel en totalité prit son véritable depart, on nomait l’etant fusis. p21.
fusis chỉ sự trì ngự của cái mở phơi, khai lộ, và cái trì cửu tại tồn bởi sự trì ngự đó. Trong cuộc trì ngự kia, cuộc trì ngự kéo dài trong giữa lòng vạn hữu mở phơi, ta còn thấy bao hàm cả ý nghĩa của biến dịch và bất biến (hắng thể lưu tồn) hiểu theo nghĩa hẹp của sự trì cửu bất động.
fusis désigne la perdominance de ce qui s’épanouit, et le demeurer (Wahren) per-dominé (durchwaltet) par cette perdominance. Dans cette perdominance qui perdure dans l’épanouissment se trouve inclus aussi bien le “devenir” que “l’être” au sens restreint de persistance immobile p.23.
Người Hy lạp đã không khởi đầu bằng cách y cứ vào các hiện tượng tự nhiên để thể hội fusis mà trái lại chính nhờ y cứ vào nền tảng của một thể nghiệm căn cơ trầm tư thơ mộng về Tồn Lưu mà họ thấy khai mở trước mắt họ cái mà họ gọi là Phusis fusis.
Les Grec n’ont pas commencé par apprendrre des phénomènes naturels ce que c’est la fusis , mais inverssement: c’est sur la base d’une experience fondamentale poétique et pensante (dichtend-denkend) de l’être, que s’est ouvert à eux ce qu’ils ont du nommer fusis. p.22
Hạc vàng đi mất từ xưa
Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay
(Thôi Hiệu – Tản Ðà)
Vũ trụ đã được người xưa quan chiêm trong viễn tượng mênh mông, như là sự đấu tranh và hoà điệu vĩnh cửu giữa hai thế lực đối kháng của hai nguyên lí âm và dương, và con người Tại thể (Dasein) đứng ra làm băng nhân cho cuộc hôn phối giữa đất trời theo thể điệu Tam tài.
Trăng lên trong lúc đang chiều
Gió về trong lúc ngọn triều mới lên
(Huy Cận)
Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng
(Kiều – Nguyễn Du)
Ðó là linh hồn Phusis mở phơi, và tâm hồn kẻ tài hoa mở rộng để đón nhận những viễn tượng kì diệu của Thiên Nhiên trong bóng vàng khói biếc, trong ngọn triều lên. Tại phương Tây, chính Ki tô giáo đã đem bi kịch của linh hồn thay thế cho sự trầm tư về thiên nhiên và vũ trụ, đến độ Albert Camus phải than thở: “Kể từ Dostoievski về sau, chúng ta luống công tìm kiếm phong cảnh thiên nhiên trong văn chương lớn của Âu châu”[2].
Khi ngôn ngữ La tinh dịch từ Hy lạp Phusis thành Natura thì ý nghiã nguyên thuỷ của nó đã bị đánh mất hoàn toàn. Natura trong ngôn ngữ La tinh có nghiã là “sinh ra”, “sự sản sinh”. Và chính trong cuộc diễn dịch ra ngôn ngữ La tinh đó, người ta đã làm chuyển hướng nội dung nguyên thuỷ của từ trong tiếng Hy lạp khiến cho sức mạnh hoán gọi chân chính mang tính triết lí cuả nó đã bị phá vỡ.
On utilise la traduction latine natura, ce qui signifie proprement “naitre”, “naissance”. Mais, par cette traduction latine, on s’est déjà détourné du contenu originaire du mot grec fusis, l’authentique force d’appelation philosophique du mot grec est détruite. p21.
Cuộc diễn dịch từ tiếng Hy lạp sang La tinh tưởng chừng như vô hại đó lại khởi đầu cho một tiến trình khép kín co ro trong vỏ ốc, tiến trình tha hoá xa lạ với tố chất cấu thành nên tinh thể tinh yếu uyên nguyên trong triết học Hy lạp.
Cette traduction du grec n’est indiférente ni anodine, c’est au contraire la première étape du processcus de fermeture et d’anéliation de ce qui constitue l’essence orginaire de la philosophique grec. p22
Cách diễn dịch đầy tai hại từ tiếng Hy lạp ra La tinh đó (không chỉ mỗi một từ fusis mà còn rất nhiều từ thiết yếu khác của nền triết học Hy Lạp ban sơ) về sau này lại chi phối Ki tô giáo và thời Trung cổ Ki tô giáo. Rồi triết học hiện đại phương Tây dùng các khái niệm đó để suy diễn và lãnh hội buổi ban sơ của triết học phương Tây, và cứ ngỡ rằng mình đã vượt xa tổ tiên, và cái cỗi nguồn ban sơ huyền bí kia được xem như cái gì đó đã bị bỏ qua lại đàng sau từ lâu lắm!
La traduction romaine fit ensuite autorité pour la christianisme et le Moyen Age chrétien….. Ce commencement est considéré comme quelque choses que les gens d’aujourd’hui sont censés avoir dépassé et laissé depuis longtemps derrière eux p21.
Cái suối nguồn Hy lạp uyên nguyên thăm thẳm kia đã bị sương giăng u ám không còn ai nhìn rõ chân dung, luôn ngóng vọng về cõi ban sơ phương Ðông để tìm chút hoà âm vọng hưởng. Mãi đến nửa cuối thế kỉ 20, triết gia Heidegger mới chậm rãi chỉ ra sự sai lầm tai hại của mấy ngàn năm triết học phương Tây và nỗ lực mở ra một cuộc hội thoại chân chính với phương Ðông. Trong khi đó tại phương Ðông, trừ một vài nhân cách đặc biệt, các thức giả, do choáng váng trước nền khoa học phương Tây, lại vội vã vất bỏ tất cả kho tàng minh triết phương Ðông, hối hả chạy theo các trào lưu triết học vong bản phương Tây và cứ cho rằng mình tiên tiến lắm!
Quay về với phương Ðông, bàn về thiên nhiên, bàn về lẽ biến hoá của vũ trụ, có lẽ không gì bằng kinh Dịch. Bản thân chữ Dịch 易, gồm hai chữ nhật 日 và nguyệt 月 (dạng biến thể) ghép lại. Chữ nhật (mặt trời) tượng trưng cho sự bất biến và nguyệt (mặt trăng) tượng trưng cho sự biến dịch, đổi thay. Cho nên trong chữ Dịch ngoài nghĩa là biến dịch, thay đổi vẫn hàm ý sự bất biến nữa. Trong thiên nhiên, giữa lòng thác đổ của vạn hữu, giữa dòng sinh sinh hoá hoá vô tận của Thệ giả như tư phù! Bất xả trú dạ (Khổng Tử), vẫn có một cái làm chủ tể cho mọi biến dịch, làm nền tảng cho mọi thay đổi của sum la vạn tượng như là pháp tắc thường hằng. Nói theo ngôn ngữ Phật giáo thì trong lưu chuyển giới vẫn tồn tại một Niết bàn giới thường hằng bất biến[3].
Và Phusis lại chính là Être, nhờ đó mà vạn hữu trở nên quán sát được và và duy trì được khả năng có thể quán sát đó. La fusis est l’être même, grâce auquel l’étant devient observable et reste observable. p.22
Être (Sein, Being) thường được dịch là Hữu thể, Chân tính, Tính thể, Hằng thể v.v.. nhưng các từ đó thường bị ngộ giải theo các phạm trù triết học phương Tây, nên vẫn thiếu sắc thái linh động cần thiết để diễn tả được những gì hàm ẩn trong Être. Có lẽ Tồn Lưu là từ hay nhất để diễn dịch khái niệm này. Tồn có nghĩa là tồn tại, nhưng độc đáo nhất vẫn là chữ Lưu. Viết Tồn Lưu theo tiếng Hán thì lại không đúng như nghiã trong tiếng Việt. Nếu viết lưu theo nghĩa lưu chuyển, lưu động, luân lưu thì chỉ sự trôi chảy, chuyển động, linh hoạt, nếu viết theo nghiã lưu trụ, lưu thủ thì lại hiểu theo nghĩa tồn lập, trì tồn (demeurer). Trong tiếng Hán chỉ có thể viết được chữ Lưu bằng một trong hai cách. Bản thân chữ Lưu trong từ Tồn Lưu tiếng Việt lại hàm hỗn mang được ý nghĩa của cả hai í trên. Ấy chính là nội dung của Dịch, của fusis vậy.
Ông Suzuki khi bàn về thế giới Hoa Nghiêm sự sự vô ngại pháp giới, một thế giới chỉ có thể kiến chiếu bằng trực giác tâm linh, đã nói:
” Trực giác tâm linh…. là thời gian mà cũng là không gian, nó động với thời gian động, nó trụ với không gian trụ; lúc nào nó cũng chớp nhoáng, cũng thoát trôi, cũng “chuyển” mà không hề lìa chỗ ban sơ, vẫn “hằng”…. Hằng mà chuyển: chừng như nó đứng im một chổ, vĩnh viễn trụ ở hiện tiền mà vẫn lưu chuyển không ngừng, từng phút trong giờ từng giây trong phút”[4].
Nhìn trên một bình diện khác, đoạn văn trên của ông Suzuki xem như một đoạn chú giải về fusis của Heidegger và Tồn Lưu của Bùi Giáng!
Chính ông Bùi Giáng cũng nói:
“Ngoài tiếng Tồn Lưu ra quả thật tôi chẳng thể nào gẫm ra một tiếng nào thơ ngây khác khả dĩ nhiếp dẫn được một dòng tương ứng giữa hai bờ hai cõi hai vũ trụ hai thời gian… Tiếng nào khác thảy thảy đều vướng vào một cái khối ù lì nào đó. Thực thể, Tồn thể, Thể tính, Chân tính… vân vân… đều không lung linh bài động ôn tồn cho một dòng phi tuyền khả dĩ thành tựu một cuộc Trùng Phúc Qui Hồi có tính khơi dẫn một mạch ngầm đã bị vùi lấp từ trên hai ngàn năm” [5]
Từ Phusis trong buổi bình minh tư tưởng Hy lạp đến Tồn Lưu của Bùi Giáng có khoảng cách của mấy ngàn năm triết học, nhưng chúng lại tương ứng một cách vô cùng tinh diệu và khai mở lại một thông đạo để thế hệ mai sau có thể tìm về với cõi Hi Lạp Sơ Nguyên và Ðông Phương Sơ Thủy.
Tái bút: Tôi viết bài này do cảm hứng về hai chữ Tồn Lưu khi gần đây đọc lại tập Sa mạc trường ca của Bùi Giáng. Tôi xin ghi lại bài thơ mà tôi ngẫu hứng làm sau khi đọc xong tác phẩm, để mong cùng bạn đọc chia sẻ cảm hứng khi cơ duyên run rủi tìm đọc được những tác phẩm của Bùi Giáng cùng những bài viết về ông trong khắp cõi bể dâu.
Cảm ứng Sa Mạc Trường Ca 感應沙漠長歌
Lao tâm khổ tứ mịch Lưu Tồn, 勞心苦思覓流存,
Lão chí phương tri tổng thị không.[6] 老至方知總是空.
Huy thủ thi thành lưu diệu ngữ, 揮手詩成留妙語,
Trường ca sa mạc nhậm phiêu bồng. 長歌沙漠任飄蓬.
Bình nguyên cô nguyệt ưng hồi chiếu, 平原孤月應回照,
Châu thổ hàn sương quyện lữ hồn. [7] 州土寒霜倦旅魂.
Tiếu mạo tại thiên nan vấn tấn, 笑貌在天難問訊,
Bệnh Duy Ma Cật tiện vô ngôn. 病惟魔詰便無言.
________________________________________

[1] Introduction à la Métaphysique, p.22. Tất cả các đoạn Pháp văn trong bài viết ngắn này đều được trích dẫn từ cuốn Introduction à la Métaphysique của Heidegger, qua bản dịch của G.Kahn, NXB Epiméthé, 1958. Các đoạn văn trích đó đều được dịch và diễn giải đầy đủ thông qua các đoạn văn khơi dẫn.
[2] Sương tỳ hải, NXB An Tiêm, tr.46
[3] Ðại thừa Phật giáo tư tưởng luận, Kimura Taiken, Thích Quảng Ðộ dịch, Tu thư Vạn hạnh 1969, tr. 200
[4] Cốt tuỷ của đạo Phật, Suzuki, Trúc Thiên dịch, nxb An Tiêm, 1968, tr. 120
[5] Thuý Vân và Tam hợp đạo cô, nxb Quế Sơn, 1969, tr.63
[6] Thơ Bùi Giáng : Báo đêm thao thức thật thà, Sưu tầm chân lý té ra tầm ruồng
[7] Sương bình nguyên và Trăng châu thổ là tên hai tác phẩm đặc dị của Bùi Giáng bàn về thi ca và tư tưởng.

 

NẮNG CHIÊM BAO

Kỷ niệm 6 năm ngày mất
TRỊNH CÔNG SƠN –
(1.4.2001 – 1.4.2007)

HUỲNH NGỌC CHIẾN

Hôm nay tôi lại viết về anh, không phải để viết về một nhạc sĩ được đời hết lời xưng tụng, mà chỉ ghi lại những cảm xúc mơ hồ chợt đến chợt đi để, qua âm nhạc của anh, nhớ lại những thương yêu ngậm ngùi cùng tình yêu của một thời đã mất. Tôi yêu nhạc anh chỉ vì nó đã gắn liền với những tháng ngày thương yêu đẹp nhất trong đời.
Thời gian qua, nước dưới chân cầu cứ chảy, và con người ngậm ngùi bao xiết, khi “nhìn lại mình đời đã xanh rêu”. Thời gian và tình yêu! Thời gian và vĩnh cửu! “Ngày tháng nào đã ra đi khi ta còn ngồi lại”. Ngày tháng nào? Vienne la nuit sonne l’heure, Les jours s’en vont je demeure! (G.Appolinaire). Đêm đã về, tiếng chuông đã ngân vang, ngày tháng cứ trôi đi và ta còn ở lại. Ở lại với những kỷ niệm đã thành tượng giữa thời gian. Và những kỷ niệm đó sẽ mãi mãi thắp sáng trong tâm hồn con người ngọn lửa tinh khiết thiêng liêng mà thời gian trôi qua, bão giông đời vẫn không làm cho tắt được. Nghe lại nhạc anh, tôi như thấy lại một thời hoa nắng đã trôi vào cõi “xa lắc muôn trùng”, nơi mà tuổi trẻ của chúng tôi, một thời, cứ trôi bồng bềnh như những đám mây vô định. Với tình yêu và thân phận làm người.
Nói về nhạc anh, đúng hơn là ca từ của anh, là người ta nói đến nắng, như nói về thơ Hàn Mặc Tử là người ta nói đến trăng. Nắng và Trăng. Nắng mênh mông của nhạc và Trăng huyền ảo của thơ. Tôi cũng muốn nói đến nắng, nhưng không phải là nắng của “Nắng thủy tinh”, của “Như cánh vạc bay” hay của “Hạ trắng”…vì tôi cảm nhận được rằng những nắng đó, trong ca từ của anh, không thể và không bao giờ là nắng thực, mà chỉ là một thứ ánh sáng ảo huyền trong cõi mộng. Nắng chiêm bao!
“Từng người tình bỏ ta đi như những giòng sông nhỏ, ôi những giòng sông nhỏ, lời hẹn thề là những cơn mưa”. Tôi dù chưa từng được nghe một lời thề hẹn, những vẫn thấy được bao mất mát ngậm ngùi, khi có những “dòng sông nhỏ” cứ trôi qua đời mình để rồi khuất chìm trong những bờ bến xa xôi.
“Môi nào hãy còn thơm cho ta phơi cuộc tình, tóc nào hãy còn xanh cho ta chút bình yên”. Thuở đó, còn bao mái tóc xanh và những nụ môi hồng, nhưng không cho tôi “chút bình yên” nào cả, mà chỉ đem lại bao nhiêu là hoang mang bối rối, bao nhiêu là cuống quít ngại ngần. Phương trời xưa sao lại có quá nhiều gió lạnh, khiến sương đêm cứ phủ ướt bờ vai của kẻ lang thang trong những đêm rất khuya của một thị trấn buồn tênh, để đi tìm hoài một bóng hình đã biền biệt, như ”bóng chim cuối đèo”. “Đôi khi nắng qua phố xưa làm tôi nhớ, đôi khi có mưa giữa khuya, hồn tôi bỗng vu vơ”. Con phố xưa vẫn còn đó. Như hình tượng cây đa bến đò trong tiếng ca dao. “Đôi khi nắng qua phố xưa làm tôi nhớ, đôi khi bỗng nghe bước chân về đâu đó của em”. Bước chân nào? Không có bước chân nào ngoài chính tiếng bước chân tôi cứ từng đêm lại vang âm thầm trên những con phố nhỏ. Và những bước chân đó cứ vang vọng mãi trong tôi như những kỷ niệm dấu yêu của một thời trẻ dại.
“Đôi khi ta lắng nghe ta, nghe sóng âm u dội vào đời buốt giá, hồn ta gió cát phù du bay về”. Gió khuya rất lạnh, làm giá buốt thêm nỗi cô đơn. Thuở vào đời, khi yêu một người, dường như tôi không thật sự yêu một con người, mà yêu hình bóng do chính tôi tạo ra về người đó. Tôi chỉ muốn, qua tình yêu, chạy trốn nỗi cô đơn của thời mới lớn và đi tìm sự thăng hoa để hướng trái tim của tuổi thanh xuân về với Vô Biên và Tuyệt Đích. Em là biểu tượng của ngàn đời xa vắng, em là tiếng ca đã biền biệt muôn trùng, để rồi hóa thân thành khói thành mây, thành hòn đá cuội nằm lẻ loi bên dòng sông vu vơ chảy, rồi hóa thành “sợi tóc nào bay trong trí nhớ nhỏ nhoi”. Đã có những sợi tóc nào bay trong trí nhớ mơ hồ? Và tôi đã tìm được điều này trong ca từ của anh. “Sợi tóc em bồng, trôi nhanh trôi nhanh, ôi giòng nước hiền, ngày chủ nhật buồn …”. Tất cả đều bồng bềnh hư ảo, như giai điệu của một phúc âm buồn. “Gọi nắng cho tóc em dài đường xa áo bay, nắng qua mắt buồn lòng hoa bướm say …. Gọi em cho nắng chết trên sông dài”. Con sông quê tôi cũng dài lắm, và đã bao chiều tôi say đắm ngồi nhìn bóng chiều chết lịm trên những hàng sưa để nghe ”Xin đứng yên trong chiều lao xao từng bóng hoàng hôn, Xin đứng yên trong chiều treo tình trên chiếc đinh không ….”. Ánh chiều tím thoi thóp trên những cánh sưa vàng, trông mênh mông và ảo huyền như tình yêu của tuổi trẻ. Tình yêu, trong âm nhạc anh, đã biến cõi đời thành một cõi mộng huyền ảo, mà mãi đến hôm nay, tôi vẫn đi với mái tóc nhuốm sương mà vẫn không tìm được bờ bến nơi đâu.
Một đêm, lang thang trên phố khuya về, tôi hát nhạc anh để tìm Tình Yêu trong tiếng Guitar, và ghi vào nhật ký ở tuổi 16 : “Không có tình yêu, cuộc đời bỗng như sa mạc và ta như tên du tử run sợ trước những cơn thịnh nộ của đất trời”! Ơi, thương và nhớ biết bao nhiêu là cái tuổi 16 thần tiên vụng dại. Rồi nằm mộng thấy mình như tan đi trong cõi hư không ngập tràn ánh nắng. Nắng đó không “hồng như đôi môi em”, màu nắng đó cũng không phải là “màu mắt em” mà là một màu nắng rất lung linh huyền ảo. Và từ đó, tôi nghe đời mình như cứ mãi trôi đi trong màu nắng ấy, một màu nắng rất dịu dàng và rất buồn giữa một cõi chiêm bao!

 

ĐỖ HỒNG NGỌC

HUỲNH NGỌC CHIẾN

Trước 1975, là một bác sĩ nhi khoa, nhưng anh vẫn nổi tiếng với tư cách là thi sĩ : nhà thơ Đỗ Nghê. Những thập niên sau 1975, anh lại được biết đến như vị thầy của nhiều bác sĩ. Nhưng giờ đây, khi nhắc đến tên anh thì một Đỗ Hồng Ngọc thuộc loại “trưởng lão” của y khoa miền Nam dường như có phần lu mờ dưới một Đỗ Hồng Ngọc – nhà nghiên cứu Phật giáo, đặc biệt là Thiền! Tạo vật hà như đồng tử hý!
Không biết vào thời điểm nào và do cơ duyên nào mà anh gác việc chẩn đoán thân bệnh của nhi đồng để chuyển sang chẩn đoán tâm bệnh cho thiên hạ. Từ y đàn anh bước sang văn đàn nhẹ nhàng như môn Yến Song Phi của Hồng Thất Công. Những bài viết của anh nhanh chóng nổi tiếng trên văn đàn, và ảnh hưởng của chúng cũng nhanh chóng lan rộng khiến người đọc quên đi mất một nhà thơ Đỗ Nghê hay một bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Chưa bao giờ câu “le style, c’est homme” lại đúng như thế đối với Đỗ Hồng Ngọc. Với anh, văn đúng là người. Ở ngoài đời, anh trầm ổn túc mục, nhưng lại bình dị, giống như văn anh vậy. Loại văn chương đó luôn mang hơi thở nhẹ nhàng của cuộc sống, tức cái “bình thường tâm thị đạo” của thiền sư Nam Tuyền, mà anh luôn muôn biểu đạt trong các tác phẩm của mình. Tất cả những gì anh viết đều là những điều sở đắc từ trải nghiệm của bản thân nên luôn có Cái Riêng của một Đỗ Hồng Ngọc. Mà trong văn chương nghệ thuật thì chính Cái Riêng đó mới thực sự giá trị, và là cái làm cho một tác giả luôn được là mình. Nói một cách khệnh khạng thì đó là cái “sở dĩ vi” của một tác giả.
Tôi với anh có chút duyên thơ ca. Nên mỗi khi đọc xong mỗi cuốn sách anh tặng, hoặc đọc một bài viết nào đó của anh là tôi hay làm thơ để đùa. Sau khi đọc cuốn Gươm Báu Trao Tay bàn về Kinh Kim Cương của anh, tôi gởi hai bài để đùa anh:
Tưởng đã ưng vô sở trụ,
Rong chơi tâm ý siêu nhiên,
Em phô xác thân tứ đại,
Hoang mang rớt cả gậy Thiền.

*
Mấy pho ngữ lục Thiền tông,
Đọc mòn con mắt cũng không thấy Thiền.
Nhìn em xỏa tóc bên hiên,
Khiến ta đại ngộ, hoát nhiên, mới kỳ!
Tôi bảo có thể anh đã “ưng vô sở trụ”, có thể tâm ý đã du hý phiêu bồng, còn tôi thì đành chấp nhận “hoang mang rớt cả gậy Thiền.” Anh đọc xong, cười tôi ba lơn.
Khi nhận được cuốn “Nghĩ Từ Trái Tim” của anh tặng, tôi viết một bài đăng báo Giác Ngộ, chọc anh là “một người không xuất thân từ chốn thiền môn, quanh năm không hề rau dưa kinh kệ, mà lại ‘dám’ theo chân chư Tổ để khám phá thêm những ẩn ngữ của Tâm kinh!”, rồi làm câu thơ đùa :
Chắc chi thiên hạ đời nay,
Mà đem Bát Nhã làm rầy Tâm Kinh?
Đọc bài Hãy Từ Bi Với Chính Mình của anh, tôi lại làm thơ đùa :
Anh từ bi với chính mình,
Em từ bi với cuộc tình ngẫu nhiên.
Anh bày thiên hạ tu thiền,
Em vui với cõi thiền quyên phiêu bồng.
Dám xin hỏi bác Đỗ Hồng
Ngọc! Thiền so với má hồng đâu hơn?
Anh làm hai câu trả lời :
Bởi anh không được như em,
Nên lòng ấm ức muộn phiền bấy lâu!
Có lẽ đó là một trong những lần hiếm hoi mà anh làm thơ đùa. Anh ít đùa bởi có lẽ do anh mắc một “khuyết điểm” trầm trọng là không hề biết nhậu! Uống cà phê với anh giống như ngồi bàn Dịch Cân Kinh với Phương Chứng đại sư của Tiếu Ngạo Giang Hồ! Bởi vậy, chắc suốt đời, tôi không thể nào có dịp cùng anh Lai Rai Chén Rượu Giang Hồ.
Hôm 05-07-2020, anh ra mắt cuốn Để Làm Gì tại văn phòng nhà xuất bản Tổng Hợp TP.HCM, tôi và một người bạn có đến dự. Khi được mời phát biểu, tôi toan nhắc lại câu : “Dám xin hỏi bác Đỗ Hồng, Ngọc! Thiền so với má hồng đâu hơn?” để “làm khó” anh chơi, nhưng lại thôi, vì nghĩ đây là vấn đề “lưu hành nội bộ”, nên chuyển qua đề tài khác!
Và có lẽ cho đến tận bữa nay, anh vẫn còn nợ tôi một câu trả lời cho thiệt chuẩn. Mà câu trả lời đó phải là một bài thơ của nhà thơ Đỗ Nghê viết giùm cho nhà nghiên cứu Đỗ Hồng Ngọc!

Huỳnh Ngọc Chiến
21.7.2020

 

TẢN MẠN CÙNG “NGHĨ TỪ TRÁI TIM”
VỚI ĐỖ HỒNG NGỌC

HUỲNH NGỌC CHIẾN

Thật khó lòng tưởng tượng khối năng lượng khổng lồ được giải phóng từ hai quả bom nguyên tử kinh người tại Hiroshima và Nagasaki lại bắt nguồn từ công thức vật lý chỉ có vỏn vẹn năm ký tự E=mc2. Cũng thế, thật khó lòng tưởng tượng toàn bộ khối kinh sách đồ sộ trong hệ tư tưởng Bát nhã Phật giáo, nói về trí huệ siêu việt thượng thừa thù thắng làm kinh động tất cả tam thiên đại thiên thế giới, lại bắt nguồn và được khoáng diễn từ một chữ KHÔNG, rồi lại được cô đọng trong bài Tâm kinh chỉ vỏn vẹn có 260 chữ. Đủ thấy bản thân mỗi chữ trong Tâm kinh đều hàm ẩn một dạng năng lượng khổng lồ E=mc2 như thế nào rồi! Diệu dụng của chữ KHÔNG thật vô bờ bến.
“Sắc bất dị Không, Không bất dị sắc; sắc tức thị Không, Không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị. Xá-Lợi-Tử! Thị chư pháp Không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố Không trung, vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới, vô vô-minh diệc, vô vô-minh-tận, nãi chí vô lão-tử, diệc vô lão-tử-tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc”.
Toàn bộ thế giới vật lý và tâm lý với lục căn, lục trần, lục thức, cho đến thuyết Tứ diệu đế và Thập nhị nhân duyên nền tảng của Phật giáo đều bị quét sạch trong cơn lốc phủ định toàn triệt của hai chữ BẤT và VÔ. Bởi vậy, không ngạc nhiên gì khi chư Phật không ngớt khuyến cáo thính chúng đừng sợ hãi khi nghe thuyết giảng kinh Bát Nhã. Không kinh hãi sao được khi mà mọi chỗ an tâm lập mệnh, mọi sở trú của con người đều bị phủ định vì “Tứ đại giai không, ngũ uẩn phi hữu” và con người dễ có cảm giác như bị rơi tõm vào cõi hư không mù mịt giữa cõi Ta bà?
Thế nhưng, phủ định toàn triệt là thể cách vi diệu để đưa đến sự khẳng định toàn triệt trong cảnh giới tự do tuyệt đối. Tuy Chân Không mà lại là Diệu Hữu. Có lẽ để hậu thế dễ tiếp cận hơn với tư tưởng KHÔNG, nên toàn bộ kho tàng kinh sách Bát Nha khổng lồ, đặc biệt là 600 cuốn Đại Bát Nhã, đã được cô đọng trong bản Tâm kinh. Chung quanh Tâm kinh vẫn luôn là những huyền thoại với những năng lực siêu nhiên cùng với bước chân hành hương của nhà chiêm bái vĩ đại Huyền Trang, hiểu theo nghĩa nó là “đại thần chú, đại minh chú, vô thượng chú, vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư”. Tâm kinh vẫn mãi mãi là một huyền án đối với những ai quan tâm đến Phật học và luôn chờ những lời chú sớ. Trong tác phẩm “Thiếu Thất lục môn”, mà theo tương truyền là của Tổ Bồ Đề Đạt Ma, có chú giải về bản Tâm kinh này, với cửa thứ nhất là “Tâm kinh tụng”. Muốn vào được động Thiếu Thất phải lọt qua cửa ải Tâm kinh. Song bản chú giải “Tâm kinh tụng” theo kiểu bình tụng trong “Thiếu Thất lục môn” cũng khó hiểu như nguyên bản cần được chú giải bởi vì chư Tổ giải minh Tâm kinh từ cảnh giới giải thoát bất khả tư nghì của mình, khiến những độc giả sơ cơ như chúng ta khó lòng tiếp cận. Đó là cách đem ẩn ngữ trùm thêm lên ẩn ngữ, khiến cho nó càng “huyền chi hựu huyền”, nên xưa nay nhiều Phật tử thường chỉ học thuộc lòng suông Tâm kinh với thái độ “kính nhi viễn chi ”. Nói đúng ra là chư Tổ không muốn phu diễn (vulgariser) nội dung Tâm kinh bằng ngôn ngữ quy ước trong thế giới khái niệm. Các ngài không chú giải Tâm kinh mà chỉ ghi lại kinh nghiệm thực chứng của mình từ Tâm kinh bằng những lời bình tụng, cũng như người xưa thích “chú giải” một bài thơ bằng cách làm một bài thơ khác! Đây là thể cách thường thấy trong lịch sử văn hóa phương Đông, đặc biệt là ở Trung Quốc.
Chỉ khi nào đạt đến cảnh giới của chư Tổ, chúng ta mới mong chia sẻ kinh nghiệm của các ngài qua các lời bình tụng đó, vì trong thực tế lắm khi do sự bất toàn của ngôn ngữ quy ước, lời bình chú dễ vướng vào vấn nạn “démystifier pour mieux mystifier” , theo Dominique Duvivier, nghĩa là muốn giải thích rõ ràng một sự việc thì ta lại càng làm cho nó trở nên khó hiểu. Theo cách nói của ngôn ngữ Thiền tông, đó là “Tuyết thượng gia sương” (Trên tuyết lạnh lại đổ thêm sương).
Trong giới Thiền tông, dường như chỉ có Thiền sư Động Sơn Lương Giới, khai tổ tông Tào Động, mới đặt ra nghi vấn về nội dung Tâm kinh. Ngữ lục Thiền tông ghi lại rằng thuở nhỏ, sư theo thầy tụng Tâm kinh đến câu “vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý ”, sư chợt lấy tay sờ lên mặt mà hỏi thầy:
– Con có đầy đủ mắt, tai, mũi, lưỡi, cớ sao trong kinh nói là không?
Vị bổn sư lấy làm kinh ngạc, bảo:
– Ta chẳng phải thầy của ngươi.
Và giới thiệu sư đến núi Ngũ Tiết làm lễ xuất gia với Thiền sư Linh Mặc.
Câu hỏi của Thiền sư Lương Giới là cách trì tụng Tâm kinh đúng nghĩa, vì sư không muốn nắm bắt huyền nghĩa Tâm kinh bằng khái niệm. Hôm nay, có một người không xuất thân từ chốn thiền môn, quanh năm không hề rau dưa kinh kệ, mà lại “dám” theo chân chư Tổ để khám phá thêm những ẩn ngữ của Tâm kinh. Đó là bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc với tác phẩm “Nghĩ từ trái tim” qua lời tự bạch:
“Tác giả viết cuốn này là để tự chữa bệnh cho mình và cũng giúp cho vài bạn bè trang lứa, đồng bệnh tương lân. Cái nhìn về Tâm kinh trong Nghĩ từ trái tim là cái nhìn của một người thầy thuốc, một bác sĩ, có thể rất khác với những người khác và mong được chia sẻ” (Lời cuối sách).
Có lẽ nhờ vậy mà người đọc dễ dàng bị cuốn hút bởi những suy nghĩ nhẹ nhàng không nặng về học thuật. Tâm kinh, qua cái nhìn của một thầy thuốc với những kinh nghiệm hành trì thực sự, bỗng nhiên trở nên nhẹ nhàng dễ hiểu. Nó hòa nhập và mang hơi thở bình dị của cuộc sống đời thường một cách thật dễ dàng. Theo lời tâm sự trong sách, tác giả đã “ngộ” ra Tâm kinh sau một cơn đau thập tử nhất sinh. Do thân bệnh mà thấy được tâm bệnh. Nhờ chữa bệnh của thân mà chữa luôn được bệnh của tâm. Quả là một cơ duyên hy hữu để thể nghiệm được cảnh giới “Tuyệt hậu tái tô” trong cõi “Nhân thân nan đắc, Phật pháp nan phùng”. Tôi cảm nhận được rất rõ điều này khi đã một lần tìm về cõi Sinh từ cõi Tử. Lúc đó, chỉ có những gì giúp ta một mình đối diện với cái chết bằng tinh thần vô úy mới thực sự có ý nghĩa, ngoài ra ta sẽ thấy tất cả mọi thứ trên đời đều vô nghĩa và phù phiếm. Tâm kinh có lẽ là một hành trang cần có cho chúng ta trên đường về cõi Chết, một khi ta cảm nhận được rằng “vô lão-tử diệc vô lão-tử-tận”. Tôi tin rằng tác giả “Nghĩ từ trái tim” phải có những kinh nghiệm nhất định khi trì tụng Tâm kinh mới có thể viết được những trang sách bình dị mà sâu sắc đó.
“Tâm kinh ở đây là một loại” chân kinh” cần phải được rèn luyện, thực tập, thực hành, thực chứng… chớ không lý thuyết suông, không để học hỏi tụng niệm thuộc lòng…” (tr.19).
Mọi thứ văn chương biên khảo với tất cả các ngôn ngữ quy ước đều phù phiếm và bất lực, một khi nó không dựa trên kinh nghiệm thực. Huống gì là lời bình giải cho bản Tâm kinh. Lúc đó kiến thức sẽ nhường bước cho kinh nghiệm và sự hành trì. Tôi ghi nhận điều này qua bài viết “Ngã ba ngôn ngữ”, và biết bài viết của chính mình vẫn chứa quá nhiều yếu tố bất toàn về ngôn ngữ, nên đã có lần nói với anh: “Có lẽ mọi ngôn ngữ quy ước đều bế tắc. Có khi viết nghiêm túc một cách cà rỡn như Bùi Giáng hoặc viết nhẹ nhàng như anh mà lại hóa hay”. Nghĩa là cứ viết bằng sự cảm nhận những điều tưởng chừng huyền mật từ hơi thở bình dị của cuộc sống đời thường. Tác giả Đỗ Hồng Ngọc phần nào đã làm được điều này, theo cách của riêng anh.
Đọc Tâm kinh, “hành thâm Bát nhã” suy cho cùng cũng chỉ là cách học tập để an trú trong cõi đời bằng một thể cách khác. Cực lạc cũng là đây mà A-tỳ-địa-ngục cũng chính là đây. Thử hỏi trong đời có gì xấu xí bằng hình ảnh ngọ ngoạy của con sâu, và có gì đẹp bằng hình ảnh phất phới bay của con bướm màu sặc sỡ? Nhưng hai con chỉ là một từ trong bản chất. Đó là điều huyền mật nhất giữa trần gian. Sinh tử hòa nhập với Niết bàn, tội lỗi trộn lẫn với thanh cao, giác ngộ ẩn tàng trong vô minh, bóng tối chan hòa cùng ánh sáng, tất cả đều chỉ là một. Đáo bỉ ngạn là vượt qua sông để đến với bờ bến bên kia. Bên kia là Bồ đề, là giác ngộ. Nhưng đến bờ bến bên kia là để trở lại bên này, và:
“… làm cách nào thực hiện được Tâm kinh trong đời sống hàng ngày của một người bình thường, giúp họ thay đổi thái độ, có cái nhìn mới mẻ về cuộc sống, về cõi người, về vũ trụ và nhờ đó thấy cuộc sống đẹp hơn, quý giá hơn, sống có trách nhiệm hơn với thiên nhiên, với đời, với người, với bản thân…; làm việc hiệu quả và năng suất cao hơn, góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn, nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi thành viên… (tr.34-35)”.
Cuốn “Nghĩ từ trái tim” được tái bản đến lần thứ tám, một điều cực kỳ hiếm hoi đối với một cuốn sách dạng biên khảo, khi mà cái học thực dụng thô thiển đã biến sự đơn bạc về tình cảm, sự hời hợt trong tư duy trở thành một nét đặc trưng đau xót trong xã hội hiện nay. Nhưng khi đọc xong thì tôi hiểu. Văn chương thực chưa chắc đã hay, nhưng văn chương muốn hay thì phải thực. Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc không suy nghĩ từ khối óc mà “nghĩ từ trái tim”. Tất cả những gì anh viết đều là những điều cảm nhận từ kinh nghiệm hành trì của bản thân, cũng như từ những suy tư bình dị và chân thành của trái tim. Mà những gì phát xuất từ trái tim chân thực đều dễ dàng đi vào tận trong sâu thẳm lòng người.

Huỳnh Ngọc Chiến
Nguồn: Trang Nhà Huỳnh Ngọc Chiến

 

MỘT CHÚT LÁ RƠI

HUỲNH NGỌC CHIẾN

Từng ngày, từng ngày qua, chúng ta như một lữ khách đi trong cõi đời, thỉnh thoảng ghi vội vàng và vắn tắt những điều nho nhỏ và bình dị giữa cuộc sống : một đứa bé chào đời, một cuộc gặp gỡ tình cờ, một chiếc lá rơi, một cuộc chia ly, một nỗi buồn bất chợt. … Ghi lại như một một vài ký chú nho nhỏ trong một trang nhật ký. Như một dấu mốc vu vơ nào đó trên con đường đời, rất dài mà cũng có thể là rất ngắn. Và những dòng chữ không cần dụng công đó –ngay trong cả những dòng thơ ghi lại những điều thương nhớ ngậm ngùi – lại vang lên giai điệu nhẹ nhàng của thơ ca, nhẹ nhàng như hơi thở, vì nó mang rất nhiều hơi thở của cuộc sống.
Đọc tập thơ “Thư cho bé sơ sinh” của bác sĩ Đỗ HồngNgọc, tôi có cảm giác đó. Như đọc một tập nhật ký bằng thơ, qua lối viết bình dị với những con chữ rơi nhẹ nhàng. Như bông tuyết:
Tuyết bay
Bay nhẹ
Phố Tàu

Gió co
Ro lạnh
Phố đìu hiu
Theo (Tuyết)
Đó là tuyết rơi trong đôi mắt của một người muốn mơ màng nhìn đời qua một trang cổ tích:
Em đi lạc
Giữa đường quen
Còn anh
Đi lạc
Giữa
Ngàn năm
Xưa …(Đi lạc)
Tuyết rơi hay lá rơi?
Lá chín vàng
Lá rụng
Về cội

Em chín vàng
Chắc rụng
Về anh …(Lá)
Nhưng những vần thơ anh viết cho đứa con gái đã nằm xuống đã khiến tim tôi nghe đau nhói :
Mỗi năm
Mỗi người
Thêm một tuổi

Chỉ mình con
Mãi mãi
Tuổi đôi mươi …
Biết bao nhiêu ngậm ngùi trong những câu thơ đó? Chỉ một mình con mãi mãi tuổi đôi mươi! Một phần đời của người cha đã chôn vùi trong lòng đất, và trong nước mắt, nấm mồ con còn tươi mãi tuổi thanh xuân.
Ba dạy con
Mỗi ngày
Một chút

Không bài học nào
Như ba đã học
Nỗi mất!
Anh có làm thơ đâu? Anh đang ngồi tâm sự. Với chính mình, với đứa có gái yêu muôn đời vẫn “mãi mãi tuổi đôi mươi! Những vần thơ bình dị, quá đỗi bình dị kia nghe mênh mang một nỗi đau rưng rức. Dường như chính những điều bình dị nhất của thơ lại dẫn con người đi vào những cảm xúc mênh mông nhất. Nhưng những nỗi đau, những sự mất mát trong đời có khi là cơ duyên để ta hiểu cuộc đời hơn. Sau một lần nằm bệnh, có lẽ anh đã nhận thấy cuộc đời mang một gương mặt khác, nghe ra cuộc đời đang vang một giai điệu khác, và chợt:
Thấy ai cũng tội nghiệp
Như ta
Đã bao lâu ta không sống với mình
Ta có ta mà quên ta phứt
(Xin cám ơn, cám ơn)
Cơn bệnh, nỗi đau sẽ đến và đi. Như giấc mơ. Để khi tỉnh lại sẽ thấy đời tươi hơn, lá thắm hơn, con người đáng yêu hơn. Để rồi nguyện sẽ :
Chắt ra cho hết
Giọt hơi cuối cùng
Thả mình như lá
Rơi vào hư không
Tràn vào khắp ngã
Đất trời mênh mông
Nhẹ như không có
Có mà như không!
(Có không)
Vì đã hiểu ra rằng :
Lắng nghe hơi thở của mình
Mới hay hơi thở đã nghìn năm xưa
(Thở)
Chiếc lá kia sẽ rụng. Hơi thở ta sẽ tàn. Cửa tử sẽ khép lại, chôn dấu tất cả những nỗi buồn, xóa đi dấu vết một quãng đời. Nhưng cửa sinh sẽ mở một chân trời khác trong tiếng khóc chào đời :
Thôi trân trọng chào em
Mời em nhập cuộc
Chúng mình cùng chung
Số phận
Con người
(Thư cho bé sơ sinh)
Anh hay tôi, tất cả chúng ta rồi sẽ phải lìa bỏ cuộc chơi cùng tất cả những buồn vui cay đắng, để người khác nhập cuộc theo dòng chảy bất tận của cuộc sống vô tận vô biên. Và có lẽ khi “cùng chung số phận con người” thì hãy nhìn cuộc đời như chiếc lá rơi lặng lẽ trên dòng nước xanh rêu, trước một gian nhà thủy tạ, bên tách cà phê, buổi sáng!
Sài Gòn 2007
Tái bút : Bs Đỗ Hồng Ngọc tặng tôi mấy tập thơ, khi ngồi uống cà phê cùng anh trong gian nhà thủy tạ của quán Đông Hồ, cuối đường Cao Thắng, Một buổi chiều anh alo , cười, bảo : “HNC đọc thấy thích thì viết vài lời đăng báo cho vui.”. Ban đầu, tôi lưỡng lự vì quá bận nên chưa có thời giờ đọc kỹ. Nửa đêm, mở ra đọc, đến bài thơ anh viết cho đưa con gái đã mất :
Mỗi năm
Mỗi người
Thêm một tuổi
Chỉ mình con
Mãi mãi
Tuổi đôi mươi …
Tôi thấy ứa nước mắt vì mình cũng có hai đứa con gái, nên cảm nhận được nỗi đau đớn đó. Bèn thức khuya viết bài này, Sáng hôm sau gởi đăng báo Văn Hóa Phật giáo.

(04.2020)

 

TRẦN XUÂN KIÊM

HUỲNH NGỌC CHIẾN

Anh là một thi sĩ tài hoa mà uyên bác, thuộc nòi Tô Mạn Thù của miền Nam. Không biết trong đời anh có một Tuyết Mai hay một Tĩnh Tử nào như Tô Mạn Thù hay không để anh có thể viết nên những dòng thơ cháy bỏng tâm can.
Về thăm nhà cũ ở Blao
Đêm qua mưa lũ ta về
Đứng im như tượng bên hè nhà xưa
Một hồn rũ rượi trong mưa
Nhớ ơi ngọc trắng ngày chưa cát lầm
Cỏ cây vườn cũ lạnh căm
Quỳ hôn còn thấy xa xăm dáng người
Bài thơ Thuở xa người của anh cũng quá nổi tiếng, và đã được Bùi trung niên ngợi ca hết mực, nên tôi chẳng thể nói được gì hơn, chỉ biết trích ra đây.
Thuở xa người
Một sớm người đi theo mây bay,
Ta say nằm lạnh suốt đêm dài.
Tỉnh ra thấy cụm hoa đầu ngõ,
Ta vẫn còn hay nỗi tàn phai?

Nửa đêm tỉnh dậy thấy sao rơi,
Ta nghĩ người đang ở cuối trời.
Ơi những đám mây còn lãng tử,
Xin để hồn chùng trong đêm khơi.

Ôi má người từ nay thôi hồng,
Gió cũng trầm thương tóc thôi hong.
Mai sau thoảng nhớ mây vườn cũ,
Ta yêu người bằng mối tình không.
Đôi lúc tôi muốn phổ nhạc hai bài thơ này, nhưng mỗi lần uống rượu say, cầm cây guitar, đọc lên lại thấy ngậm ngùi khôn tả, đành phải để tơ chùng theo “hồn chùng trong đêm khơi.”
Bản dịch Zarathustra đã nói như thế của anh từ năm 1972 đến nay vẫn như một tòa cổ lâu sừng sững giữa nền văn học miền Nam. Nó khơi dẫn được những dòng ẩn lưu trong tiếng Đức, giúp người đọc hồn nhiên thể hội được mạch ngầm thơ mộng bàng bạc trong ngôn ngữ của Nietzsche.
Có một lần tôi cùng anh và các anh Lê Nguyên Đại, Nguyễn Khắc Nhượng đi nhậu ở một quán trên đường Nguyễn Thông, quận 3. Gần tàn, bỗng cô chủ quán đến tại bàn góp vui, hát bản Tình Anh Bán Chiếu. Tiếng hát của cô chủ quán đêm hôm đó nghe sao buồn như tiếng đàn tỳ bà trên bên Tầm Dương. Hôm đó không hiểu sao tôi lại ngẫu hứng đệm guitar theo được để cô hát trọn bài. Hát xong, tự nhiên cô ngồi khóc. Tiếng khóc không lớn nhưng nghe não nùng hơn tiếng đàn “trùng khai yến” của người thương phụ thổn thức cùng vị quan Tư Mã Giang Châu. Tiếng khóc như muốn thố lộ hết những nỗi niềm ai oán. Tôi nghe mà lặng cả người. Hôm sau, anh Kiêm sáng tác bài thơ Ca nhân xuất thần.
Ca nhân
Một chàng tóc trắng bó đuôi ngựa
Hát Boléro, nhạc Trịnh, Phạm Duy
Một chàng râu đen ngồi im lìm
Mộ nàng thiếu nữ chôn trong tim

Một chàng mường tượng anh bán chiếu
Ngu ngơ ngốc nghếch tình đơn phương
Một chàng lầm lì ngồi nốc rượu
Chuyện tình thoang thoảng tựa làn hương

Ca nhân môi thắm thơm mùi cỏ
Ánh mắt thê lương thả giọng buồn
Tiếng đàn đau nhói theo lời hát
Miệng bỗng thèm nâng ly rượu suông

Quanh bàn là những tay bạt mạng
Chưa từng đặt bước đến phương Nam
Chỉ ta vài bận qua Phụng Hiệp
Theo bảy dòng kinh cuộn cát lầm

Lần trước nghe ca tình đứt ruột
Lần nầy môi ngọt thả lời đau
Trong những lòng ly nay đã cạn
Trùng trùng tâm sự của ngàn sau

Ca nhân, ca nhân, sao nàng khóc,
Tình anh bán chiếu có gì đâu?!
Hai chữ “ca nhân” nghe sao mà hay đến vậy? Chỉ hai chữ đó thôi cũng đủ làm bừng sáng những dòng đầu trong Gentajali của Tagore.
When thou commandest me to sing it seems that my heart would break with pride; and I look to thy face, and tears come to my eyes …
Khi người ban lệnh cho tôi ca hát, điều đó tựa hồ như khiến trái tôi như vỡ toang vì kiêu hãnh; tôi nhìn lên gương mặt người và những dòng lệ dâng trào lên đôi mắt. …
Cô chủ quán “ca nhân” với điệu buồn Tình Anh Bán Chiếu đã ban lệnh cho nhà thơ cất tiếng khiến lòng anh như vỡ toang vì kiêu hãnh! Những dòng lệ không trào lên mắt anh mà dâng trào trong đôi mắt của ca nhân. Như hoàng hậu Gertrude đem những đóa hoa xinh đẹp rắc lên nấm mộ của nàng Ophelia kiều diễm, Sweets to sweet!, nhà thơ Trần Xuân Kiêm cũng muốn làm “ca nhân” đem những lời thơ tuyệt diễm tặng cho một “ca nhân” ai kia với những giọt nước mắt trĩu nặng tâm tư trong cõi phong trần.
Lần trước nghe ca, tình đứt ruột
Lần nầy môi ngọt thả lời đau
Trong những lòng ly nay đã cạn
Trùng trùng tâm sự của ngàn sau

Ca nhân, ca nhân, sao nàng khóc,
Tình anh bán chiếu có gì đâu?!

….
Ôi má người từ nay thôi hồng,
Gió cũng trầm hương tóc thôi hong.
Mai sau thoảng nhớ mây vườn cũ,
Ta yêu người bằng mối tình không.
….
Một hồn rũ rượi trong mưa
Nhớ ơi ngọc trắng ngày chưa cát lầm
Dường như tôi trích dẫn lộn lời ? Không hề gì. Ta vẫn như nghe ra một dòng ẩn lưu ngầm lưu chuyển trong mạch thơ để mang tâm tình nối kết những bờ bến xa xôi.
Có lần tôi đi chơi bằng ghe nhỏ trên con sông ở một vùng quê hẻo lánh miền Tây Nam bộ, nghe người bạn hát cải lương có câu : “Má ơi đừng gã con xa, Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu.”, tự nhiên thấy thấm thía hai chữ “sinh ly” và nghe trong lòng chua xót rưng rưng. Ai thường chê cải lương là “sến”, là … “cải lương”, xin hãy một lần về miền Tây, ngồi trên chiếc ghe trôi theo con sông nhỏ ở một vùng quê, nghe người dân miền Tây uống rượu gạo, hát cải lương, nghe tiếng chim bìm bịp kêu ven sông thì sẽ hiểu thế nào là nỗi buồn sông nước, thấm thía thế nào là “trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.” Hôm đó, nghe lại bản Tình Anh Bán Chiếu , tôi tưởng chừng như còn thả hồn trôi theo chiếc ghe nhỏ trên sông nước. Đến bây giờ, đã hơn 4 năm qua, cảm giác tiếng đàn, tiếng hát đêm hôm đó vẫn còn mãi trong tôi. Tình anh bán chiếu giờ về đâu? Ta yêu người bằng mối tình không.
Năm 1972, nhà xuất bản An Tiêm của Thầy Thanh Tuệ xuất bản tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du, do cố thi sĩ Quách Tấn dịch, với nhan đề Tố Như Thi. Bìa do anh Thi Vũ trình bày, có hình một bàn tay phụ nữ trắng ngần tuyệt đẹp, khiến người đọc không khỏi liên tưởng đến bàn tay kỳ lạ trong tác phẩm Tố Thủ Kiếp của Ngọa Long Sinh. Gần đây, anh Trần Xuân Kiêm mới cho tôi hay đó là bàn tay của ni cô Trí Hải, người đã đi vào thế giới thi ca của Bùi Giáng qua hình tượng “Mẫu thân Phùng Khánh”. Tôi bình sinh không có duyên để được gặp ni cô Trí Hải, nhưng qua thơ ca Bùi Trung niên và hình ảnh bàn tay, tôi hình dung được đó là một ni cô có dung nhan tuyệt tục, một Viên Tính của Hồ Phỉ hay một Alissa của Jerome. Chẳng trách họ Bùi suốt đời điên đảo thần hồn.
Tôi cảm hứng làm một bài thơ :
Kiến ni cô tố thủ,
Tâm ý hà mang mang.
Điên đảo vô sở trụ,
Hựu huống đối ngọc nhan!
見妮姑素手,
心意何茫茫。
顛倒無所住,
又況對玉顏。
Anh Kiêm đọc xong, bỡn: “Bài thơ này của Huỳnh Ngọc Chiến nên đem đốt vào hư không! Thiện tay! Thiện tai!”
Tôi không muốn đốt bài trên, mà muốn đốt bài Ca nhân của anh để thả bay bàng bạc trong tiếng khóc của một cô chủ quán xa lạ trong cõi người ta, và trên sông nước miền Nam giữa tiếng bìm bịp kêu chiều.
04.2020
(Mùa cô- vi)

 

04.2020

(Mùa cô- vi)

 

 

 

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Thư gởi bạn xa xôi (05.06.2021)

05/06/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Thư gởi bạn xa xôi (05.06.2021)

Vài nét về Huỳnh Ngoc Chiến

Trước hêt, cảm ơn anh 5 Hiền (Nguyễn Hiền-Đức), nhà thơ Khánh Minh, ca sĩ Thu Vàng, Nguyệt Mai, bác sĩ Thân Trọng Minh, Ngô Tiến Nhân, Phan Binh, Thịnh… và các bạn)

Sáng mai, đưa đám Huỳnh Ngọc Chiến tại Tam Kỳ Quảng Nam rồi. Tôi vừa nhắn Thịnh (bạn thân của Chiến) thay mặt bạn bè đánh 3 tiếng chuông tiễn đưa HNC thay vì thắp 3 cây nhang như HNC đã dặn dò khi đến viếng tang anh trước đó.

HNC không xa lạ. Từ nhiều năm trước, anh đã nổi tiếng với Lai rai chén rượu giang hồ, tiểu luận về Kiếm hiệp Kim Dung…, bản dịch Tánh Không, và nhiều bài viết trên báo Giác Ngộ (mà gần nhất là bài Bất Không Thành Tựu Như Lai)… và một cuốn sách dịch SUZUKI Nghiên cứu kinh Lăng Già (Diệu Nghĩa Kinh Lăng Già) vừa xuất bản. Nhưng bản dịch nổi tiếng của anh là U Mộng Ảnh của Trương Trào được rất nhiều bạn bè khen ngợi.

Chưa đầy một năm trước, anh bị Ung thư thực quản, mổ ở Chợ Rẫy. Sau khi hóa trị xạ trị các thứ xong tưởng đã tạm ổn, anh quyết định lui về quê Tam Kỳ Quảng Nam nghỉ dưỡng, tiếp tục dịch Lăng Già kinh.

Ngày 31.3.2021, anh viết cho tôi:

 

Anh đọc cuốn Diệu Nghĩa Kinh Lăng Già đó thấy ổn phải không? Cũng là công trình tâm huyết của em. Bản dịch Kinh Lăng Già sắp in cũng là một công trình tâm huyết nữa. Anh đọc sẽ thấy sự khác biệt với các bản kinh đang lưu hành.  Em cũng thấy tạm thoả mãn trước khi…. viên tịch :> :> :>

Rồi một thư khác:

Cám ơn anh quan tâm. Em chính thức  “tái xuất giang hồ” cách đây 5 ngày để uống cà phê với mấy người bạn Tam Kỳ. Hy vọng kiếp nạn sẽ qua! Có lúc em tưởng đã không thể qua khỏi!

Cách đây 2 hôm, bác sĩ đã rút ống sonde, em thấy khỏe. Đã bắt đầu ăn uống bình thường nhưng ăn loãng và ít, chia làm nhiều bữa vì bao tử chỉ còn 1/3! Từ từ bao tử chắc sẽ ổn định trở lại.

Body em bây giờ chắc trở thành niềm mơ ước của bao phụ nữ vì sút đến 20 kí,,  đang trở thành siêu mẫu và siêu mỏng :> :> nhưng em lại thấy người nhẹ nhàng, thoải mái hơn trước đây dù yếu hơn. Có lẽ càng có tuổi, thân hình chúng ta cũng nên gầy lại để khung xương đang lão hoá của chúng ta đỡ vất vả. Cái vụ này thì anh quá rành bài rồi! :>

Em Vẫn còn ở Tam Kỳ để chờ vết mổ ở cổ lành hẵn. Hy vọng ngày “lai rai chén rượu giang hồ” sẽ không còn xa.

Rồi anh còn làm thơ trêu tôi và Ngô Tiến Nhân:

Năm nào cũng gặp Hoa Sưa (*)

Sát na nào cũng chơi đùa hân nhiên

Hà thời tích trượng tương huề khứ

Nhậm tánh tiêu dao bất học Thiền!

Đâu như các bậc lão niên

Lăng Già, Bát Nhã liên miên dùi mài

Hãy đi vào chợ, thõng tay…

(HNC 31.03.2021)

(*) tên một bản nhạc của HNC,

 

Nhưng ngày 05.05.2021 anh viết:

Tình hình không ổn rồi anh Ngọc. Siêu âm cách đây 2 tuần đã di căn qua gan. Đau âm ỉ lâu nay nhưng em vẫn trụ được.  Đêm qua bụng đau dữ dội. Sáng nay vẫn tiếp tục đau. Phần bụng chỗ gan đã cứng quá nhanh. Chắc sẽ không kéo dài bao lâu nữa đâu. Em vẫn tỉnh táo và đang cố hoàn thành bài BẢN LAI VÔ NHẤT VẬT.

Ngày 06.05.2021 anh viết Lời Cuối trên trang web huynhngochien.com

LỜI CUỐI

Và sau đó anh thông tin cho biết “Có người làm video đưa LỜI CUỐI lên YouTube. Thiệt bất ngờ”

https://m.youtube.com/watch?v=JtT49SOG760&feature=youtu.be

Thì ra của một người bạn tên là Thuan PHAN NGOC. Xin phép anh Thuan Phan Ngọc chia sẻ nơi đây.

Nhà thơ Khánh Minh trước đó nói vẫn tụng kinh Dược Sư cầu nguyện cho HNC; Ca sĩ Thu Vàng bảo vậy là em mất một người bạn rất quý… Tôi chỉ nhắn các bạn vài chữ: Huỳnh Ngọc Chiến, “Một Đời Tài Hoa!”.

…………………………………………………………..

Theo báo Thanh Niên:

(https://thanhnien.vn/van-hoa/nha-nghien-cuu-huynh-ngoc-chien-tu-gia-chuyen-xe-doi-1392966.html)
Nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Chiến có chuyên môn thạc sĩ công nghệ thông tin nhưng từng tự nhận “sinh sống bằng nghề viết sách, dạy học, dịch thuật” với các bút danh: Hoàng Ngọc, Liêu Hân. Tác phẩm đáng chú ý của ông gồm: Lý Hạ, quỷ tài – quỷ thi (2001), U mộng ảnh (dịch, 2007), Đạo Phật và khoa học (dịch, 2009), Chu Dịch thiền giải (dịch, 2012), Di sản phương Đông (dịch, 2014), Phản triết học nhập môn (dịch, 2020), Diệu nghĩa Kinh Lăng Già (dịch, 2020)…
Huỳnh Ngọc Chiến còn nổi danh với các tiểu luận về kiếm hiệp Kim Dung, in trong cuốn Lai rai chén rượu giang hồ (NXB Văn học xuất bản lần đầu năm 2002). Ông dịch Bạch mã khiếu tây phong, Uyên ương đao, Việt nữ kiếm (Kim Dung tinh tuyển, 2007). Một số tác phẩm khác: Trúc thanh tập (tập tiểu luận về Phật giáo, 2012), Rong chơi cùng U mộng ảnh (2020)… Ông cũng là nhạc sĩ sáng tác, có tuyển tập ca khúc Cung trầm (2012). Đêm nhạc Cung trầm của ông được bạn bè tổ chức rất ấm cúng tại TP.Tam Kỳ hồi cuối năm 2019.

 

 

 

Filed Under: Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Mùa Côvi: Nhắc chuyện Độc cư/ Thiền định/ Kham nhẫn/ Tri túc

02/06/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc 1 Comment

Ghi chú: Một người bạn nơi xa đề nghị mùa Côvi hoành hành này hãy post lại bài Độc cư/ Thiền định/ Kham nhẫn/ Tri túc… nhắc nhau nhé.

Nên 3 chén sắc còn 7 phân vậy.

Thân mến,

ĐHN.

 

Độc Cư

 

 

Lúc dịch bệnh tràn lan như vầy thì lời khuyên tốt nhất là nên “ở nhà một mình” (Home Alone, nhớ không?). Mọi người nên “Stayhome” trong “Homestay” của mình. Bất đắc dĩ mới phải ra đường khi thật sự cần thiết.

Độc cư nhiều khi dễ căng thẳng, buồn chán, dễ gây lộn, dễ “phá thành sầu” bằng chai alcool (không phải để sát khuẩn) mà để sinh sự cho sự sinh.

Phật giảng một bài rất hay trong kinh “Người biết sống một mình”. Đó là người sống với cái Tâm tĩnh lặng, trong sáng, không bị “trôi lăn” (cuốn) vào dĩ vãng hay tương lai bởi “dĩ vãng đã qua rồi/ tương lai thì chưa tới”. An nhiên tự tại với “ở đây và bây giờ” (here and now).

Một người chui vào phòng kín, nhập thất, hoặc lên núi cao cất cái chòi nhỏ… để sống mười năm chưa chắc đã là “độc cư” khi trong lòng còn mang mang : quân tử trả thù mười năm chưa muộn…

 

Thiền định

 

(internet)

 

“Nếu không đi ra ngoài được thì hãy đi… vào trong”

Lục tổ Huệ Năng bảo: Ngoài không dính mắc là Thiền/ Trong không lay động là Định.

Vậy thì đi đứng nằm ngồi gì cũng thiền cũng định.

Còn Trần Nhân Tông thì bảo:

Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền

Trước cảnh mà tâm vẫn an, vẫn tịnh, thì chẳng cần hỏi chi tới Thiền!

Cho nên để có thể có tâm an tịnh, thiền là một cách thế trong rất nhiều cách thế. Ngày nay, y học và tâm lý trị liệu… cũng nghiên cứu ứng dụng Thiền để chữa trị những thứ bệnh thời đại. S.A.D (Stress: căng thẳng; Anxiety: Lo âu, sợ hãi; Depression: trầm càm), nghiện ngập, rối loạn chuyển hóa, rối loạn thần kinh thực vật, rối loạn hành vi… đã mang lại nhiều kết quả khả quan. Dĩ nhiên, đó chỉ mới là một phần ứng dụng của Thiền, chưa phải là thiền Phật giáo.

Dù sao, thiền cũng là cách giúp mình được an nhiên, tự tại… trong tình hình đầy hoang mang căng thẳng lúc dịch bệnh đang hoành hành.

 

Kham nhẫn 

Kham là chịu, nhẫn là nhịn.

Trong các yếu tố khiến “kham không nổi” thì “khẩu” (Lời nói) là yếu tố quan trọng nhất. Đã đành “ý dẫn các pháp”, nhưng ý chưa thể hiện thành hành vi. Khẩu mới ầm ỉ, náo nhiệt, là đầu mối sinh sự, gây chiến! Cho nên Phật dạy con mình là La Hầu La rất kỹ về “khẩu nghiệp”: Không nói dối, không nói thêu dệt, không nói hai lưỡi, không nói lời hung ác… Rồi dạy con phải học hạnh của Đất để “nhẫn”: ném một thỏi vàng hay một đống rác xuống đất, đất vẫn « như như bất động »…

Nhưng “kham nhẫn” trong lời khuyên của Phật thì không chỉ là sự chịu đựng, “nhịn nhục” với cái đáng giận, đáng ghét mà còn phải “kham nhẫn” cả với những đường mật, mê say vì dễ dẫn ta tới tham ái, chấp thủ.

“Kham nhẫn” với giận với hờn còn dễ hơn kham nhẫn với nhớ, với thương, phải không?

 

Tri túc

Tri túc là Biết đủ. Nhưng thế nào là đủ? Làm sao để biết đủ?

Lòng tham vốn không đáy. Lúc nào cũng muốn muốn muốn. Nào vạn tuế vạn vạn tuế, nào muôn năm trường trị, nhất thống giang hồ, trường sanh bất tử…

Mà càng tham thì càng thấy thiếu. Người đẹp muốn đẹp hơn. Người giàu muốn giàu nữa. Người quyền chức thì muốn càng cao thêm mãi.

Nguyễn Công Trứ bảo: Tri túc tiện túc, đãi túc hà thời túc? Biết đủ thì đủ! Đợi đủ bao giờ mới đủ? Bao giờ nghĩa là… còn lâu!

Ưng Bình Thúc Giạ Thị thì bảo:

Biết đủ dầu không chi cũng đủ

Nên lui đã có dịp thì lui… 

Cho nên Tri túc luôn đi đôi với Thiểu dục. Thiểu dục Tri túc. Bởi người it ham muốn thì may ra mới thấy là đã đủ, nghĩa là thôi, đủ rồi đó!

Nhưng, nói thì dễ, mà làm thì không dễ chút nào bạn ơi!

 

Đỗ Hồng Ngọc.

(2.6.2021)

 

Filed Under: Ghi chép lang thang, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

Sách hay nên đọc của Nguyễn Tường Bách (*)

31/05/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Tái bản bộ sách đặc biệt của tác giả Nguyễn Tường Bách

(https://nguoidothi.net.vn/tai-ban-bo-sach-dac-biet-cua-tac-gia-nguyen-tuong-bach-28810.html)

Những tác phẩm hòa quyện tri thức, tuệ giác và giá trị văn chương của tác giả Nguyễn Tường Bách vừa được chọn tái bản với diện mạo mới đầy tao nhã và trau chuốt.

Là một giáo sư vật lý nổi tiếng tại Đức lại là một nhà nghiên cứu Phật học, Nguyễn Tường Bách dùng văn chương như một cây cầu nối giữa sự tinh thông Phật học và tri thức khoa học hiện đại. Và không chỉ đúc kết các chiêm nghiệm riêng, có khi ông còn là một hành giả, một khách lữ hành ghi chép thực địa, mở ra những cuộc đối thoại với tôn giáo, triết học trong một tinh thần khiêm cung và minh triết.

Các tác phẩm, dịch phẩm đầy uyên thâm, phóng khoáng và thức tỉnh của ông được độc giả tiếng Việt trên khắp thế giới không ngừng đón nhận trong hơn 20 năm qua.

Trong dịp này, Phanbook chọn tái bản ba tác phẩm tiêu biểu nhất của ông: Mùi hương trầm, Lưới trời ai dệt và Đêm qua sân trước một cành mai.

Đêm qua sân trước một cành mai bao gồm tám mẩu chuyện nhỏ, có không khí của những công án Thiền, tỏa nguồn năng lượng tinh tấn và bình an. Trong những mẩu chuyện, các danh nhân như Nguyễn Công Trứ, Issac Newton, Albert Einstein… cho đến con người bình dị, những loài vật bình thường được đặt trong một thế giới tràn đầy tinh thần Pháp lạc.

Lưới trời ai dệt? in lần đầu năm 2004, là tập tiểu luận về những điểm giao thoa, nhất quán đầy bất ngờ giữa tri thức khoa học vật lý cơ bản, triết học hòa điệu trong thế giới quan Phật giáo. Bằng một lối viết tiểu luận văn chương sâu sắc và bay bổng, Nguyễn Tường Bách mang đến cho độc giả những hiểu biết về một vũ trụ nhất nguyên, vận động hài hòa.

Những khái niệm vật lý cơ bản không còn khô khan, những bản kinh cổ Phật giáo không còn xa xăm diệu vợi, mà được kéo gần với những trải nghiệm, sự thông đạt vi diệu. Con người không đơn độc khi nhận ra mình là một phần của bản hòa âm diễm tuyệt của tự nhiên.

Mùi hương trầm là hành trình khám phá những mảnh đất nguồn cội văn hóa tâm linh trên thế giới. Nguyễn Tường Bách trong vai một hành giả, khám phá chi tiết, chân thực văn hóa, lịch sử, cộng đồng Ấn Độ, Nepal, Tây Tạng, Trung Hoa và trở về quê hương Việt Nam. Cuốn sách là một ánh văn du ký-hành hương tuyệt đẹp với sự kết hợp giữa không gian ngôn ngữ hiện đại và cổ kính, giữa sự tái hiện khung cảnh và những chiêm nghiệm nội tâm.

Ngoài ba tác phẩm tái bản lần này, vào năm 2018, Phanbook cũng đã ấn hành tập tùy bút Mộng đời bất tuyệt của Nguyễn Tường Bách.


Nguyễn Tường Bách sinh năm 1948 tại Thừa Thiên – Huế, du học Đức năm 1967 và hiện sinh sống tại Đức. Ông là nhà khoa học, nhà văn nổi tiếng với nhiều tựa sách. Các tác phẩm của Nguyễn Tường Bách do Phanbook phát hành gồm: Mùi hương trầm, Đêm qua sân trước một cành mai, Mộng đời bất tuyệt.

Ngoài ra ông còn là dịch giả của: Con đường mây trắng (Anagarika), Đối diện cuộc đời (Jiddu Krishnamurti), Sư tử tuyết bờm xanh (Surya Das), Thiền trong nghệ thuật bắn cung (Eugen Herrigel), Đạo của vật lý (Fritjof Capra)…


PV

(*) dohongngoc

Filed Under: Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định

Thư gởi bạn xa xôi (5.2021 tiếp theo)

18/05/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

 

Thư gởi bạn xa xôi

(5.2021, tiếp theo)

Ghi chú: Thư gởi bạn xa xôi vừa rồi của mình về chuyện làm SÁCH NÓI có nhắc đến cuốn Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng thì liền được một bạn đọc gởi cho đường link “reviewsach.club”. Thiệt bất ngờ với những nhận xét hết sức thú vị của các “bà mẹ, ông bố” về cuốn sách này… Xin phép được trích một vài comments để chia sẻ cùng bạn bè thân thiết hôm nay.

Trân trọng,

Đỗ Hồng Ngọc

………………………………………………………………….

 

Calo

… Mình là sinh viên Y. Tình cờ được bạn giới thiệu cuốn sách này, đọc thử thấy hay quá nên mua luôn. Những kiến thức y học thường thức bổ ích và thiết thực được BS. Đỗ Hồng Ngọc giải thích một cách rất hóm hỉnh, thú vị, dễ hiểu và dễ nhớ cho các bà mẹ nữa. Mình cũng học được cách diễn giải kiến thức chuyên môn của Bác và áp dụng khi tiếp xúc với bệnh nhân và người nhà bệnh nhân. Đây là một cuốn sách rất tâm huyết, và mình nghĩ tất cả các bạn trẻ nên đọc từ trước khi làm cha mẹ.

Nguyen Hang

… Mình rất thích giọng văn hài hước của tác giả khi viết về các bệnh và các truyền thuyết thường gặp trong dân gian. Nội dung quyển sách tập trung vào các bệnh thường gặp của trẻ nhỏ, cách xử trí và những cách dân gian thường làm nhưng không còn đúng và không nên làm ngày nay. Quyển sách vừa khoa học, vừa dí dỏm, vừa thực tế, bổ ích.  Và đây sẽ là quyển sách bổ ích không chỉ cho các bà mẹ sinh con đầu lòng mà cả các mẹ có con nhỏ nói chung.

Nguyễn Thị Phương Trinh

… Sách tuy dày, nhìn thì thấy hơi ngán nhưng giọng văn của bác sỹ Ngọc rất dí dỏm, gần gũi, như đang trò truyện với mình vậy, nhiều lúc đang đọc còn phì cười không nhịn được nữa cơ.

Phạm Thị Thu Trang

… Tâm trạng hoang mang và kiến thức là tờ giấy trắng khi mang thai con đầu lòng.  Giữa lúc đó vác bụng lang thang nhà sách và chọn quyển sách này và vài cuốn sách khác của tác giả nước ngoài. Nhưng có lẽ quyển sách này gần như đầy đủ, thân thiện và gần gũi vô cùng. Người bác sĩ của gia đình, người cha, ông nội, ông ngoại của con mình. Không quá hiện đại như mình nghĩ nhưng rất phù hợp với bản sắc Việt. Tự tin, thoải mái, xem con như bạn, chăm con trong sự chủ động và hạnh phúc. Cảm ơn tác giả, người bên tôi và con những tháng năm đầu đời, cậu bé 1,5kg và hiện tại 4 tuổi, nặng 27kg, chắc nịch, ngoan tuyệt vời, ý thức như người lớn, chưa 1 ai phàn nàn bé không ngoan, đi học đi chơi ai cũng thích. Những tháng ngày vừa ấp Kangaroo, vừa đọc sách, vừa nghe nhạc nhẹ, nhạc giao hưởng…hát ru, trò chuyện, matxa cho con mãi không bao giờ quên được…

Nguyễn Thảo

… thật tuyệt vời khi biết đến cuốn sách này, hệt như một bí kíp truyền dạy vậy, những kiến thức cơ bản nhất để chăm sóc con cái, cách giải quyết các tình huống cấp bách, trình bày chi tiết, có khoa học, nội dung chuyên môn, có thể thấy rõ sự tận tâm và lòng nhiệt huyết trong đó! Cám ơn bác sỹ Đỗ Hồng Ngọc.

Đỗ Thúy An

… Cách trình bày và giải thích rất rõ ràng, tôi nghe giọng văn rất thâm ý, có chút ấm áp đến lạ, hình như người viết đã dồn hết mọi tình yêu thương cho mỗi đứa trẻ trên đời này để viết nên tác phẩm! Thực sự cảm kích tấm lòng ấy!

Nguyen Trang

Một cuốn sách rất hay và chân thành như một lời tâm tình ấm áp đến những bà mẹ trẻ. Mang đến những kiến thức y khoa vô cùng quan trọng giúp đỡ không chỉ người mẹ mà còn cả người cha, cả gia đình trong việc chăm sóc thiên thần nhỏ của mình.
Đôi khi trong việc chăm trẻ có những mâu thuẫn thế hệ thì cuốn sách này như một cầu nối để kết nối và cảm thông giúp gia đình hạnh phúc và dễ dàng hơn trong việc chăm sóc em bé.

Nguyễn

…  có thể nói mình là fan của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, vì thích cách viết bài dí dõm không hề khô khan và rất dễ hiểu của tác giả. Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng là một trong những cuốn sách mình rất thích về nội dung mà tác giả cung cấp, thật sự rất hữu ích. Xin gửi lời cảm ơn chân thành đến tác giả.

Thanh Giang

… tình cờ tôi được giới thiệu cuốn sách này của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Là một cuốn sách y học thưởng thức dành cho các bà mẹ trẻ. Nhưng không khô khan, khó hiểu, cuốn sách tràn ngập tình yêu thương, bằng một giọng nói ấm áp, dịu dàng, toả ra một khí chất làm cho người lần đầu tiên làm mẹ thấy yên tâm đến lạ. Xin cám ơn bác sĩ.

Phạm Trang

Tôi mua quyển sách này vì tác giả là Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc- một tác giả gắn liền với thời còn đọc Mực tím, Hoa học trò – và tác phẩm đã không phụ sự mong đợi của tôi. Vì vợ chông tôi dự định sinh mà không có người thân bên cạnh chăm sóc nên tôi mua khá nhiều sách để tham khảo, nhưng đây là cuốn tôi thích đọc nhất vì ngoài những thông tin hữu ích thì cách viết rất nhẹ nhàng, tình cảm. không phải cảm giác như đang tìm hiểu thông tin mà như đang nghe một lời tâm tình từ một người quen vậy, khiến tôi cảm thấy rất gần gủi, ấm áp.

Hứa Kim Nguyên

Một đoạn trong sách mà tôi rất thích : “Tình mẹ thường không có ngay tức khắc, lúc bé sinh ra đời, tình mẹ dâng lên từ từ như sữa mẹ, nhưng sữa mẹ có thể cạn dần, còn tình mẹ càng lâu càng đầy với thời gian, thấm dần trong huyết quản, trong tim, óc mẹ và truyền qua cho đứa con.”

Cầm quyển sách trên tay, lần giở từng trang sách, đọc được những điều bác sĩ viết làm tôi thấy nhẹ nhõm và thậm chí còn có thể bật cười (tôi cứ nghĩ mình phải cáu gắt, bực mình và lo lắng suốt cho đến khi con được 3 tuổi mới thôi). Ông nói rằng trẻ sơ sinh mong manh lắm nhưng không đến độ dễ vỡ như chúng ta đã nghĩ (thời kỳ còn đang mang thai, tôi vẫn tưởng tượng đến ngày ẵm con, tôi cứ sợ mình sẽ làm rớt bé, vì ai cũng nói lúc mới sinh các bé nhỏ tí như con mèo con). Cuốn sách có tất cả mọi thứ tôi cần tìm hiểu về sức khỏe con mình nó như 1 bách khoa toàn thư mini về trẻ con mà tôi có thể đọc đi đọc lại nhiều lần…

Nguyễn Đăng Quỳnh

Tôi rất bất ngờ với những tổng hợp tình huống trong sách, một cuốn từ điển hữu dụng theo suốt bé từ lúc mới sinh đến bé lên 3 được tổng hợp chi tiết và đầy đủ. Đặc biệt là cẩm nang quan sát bé và phòng chống bệnh cho bé (chương 15 trở đi).
Thực sự quý báu khi có một kho tàng kiến thức về chăm sóc bà bầu cùng em bé được gói gọn trong một quyển sách như vậy.

Nguyễn Thi

Quyển sách là tập hợp những kinh nghiệm quý báu và thiết thực của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc về cách chăm sóc những bà mẹ mới sinh con và trẻ sơ sinh ở Việt Nam. Giữa sự bủa vây những kinh nghiệm dân gian truyền miệng và sự thiếu sót, bỡ ngỡ của người làm mẹ đối với đứa con bé bỏng thì kiến thức y khoa và khoa học của bác sĩ là một chiếc phao cứu sinh đúng nghĩa.

nguyen ngoc hanh

Đây là quyển sách mình đọc đầu tiên từ lúc có con đầu lòng và đến giờ vẫn còn đọc khi đã có đứa thứ hai. Đọc xong mà vẫn chưa thỏa mãn, phải đọc đi đọc lại rất nhiều lần, và sau này mỗi khi con gặp sự cố về sức khỏe thì đây đúng là liều thuốc để giúp con tìm ra nguyên nhân vì sao con không khỏe… Nội dung sách rất nhẹ nhàng nhưng thấm sâu vào tận suy nghĩ của những người mẹ trẻ, nhiều lúc mình còn đọc lại nội dung trong sách cho mẹ mình nghe vì đúng là những người lớn có cách chăm sóc con cái sai khoa học mà mình không tài nào giải thích được.

Chu Minh Hằng    

Quyển sách mang lại những thông tin bổ ích, trình bày rõ ràng theo từng mục bằng một giọng văn hóm hỉnh, bình dân, gần gũi của một bác sĩ có kinh nghiệm viết sách từ những trải nghiệm thực tế của mình.
Đọc sách mới Ồ ,à ra nhiều điều mà trước giờ mình cứ đinh ninh là đúng nhưng thực tế làm như vậy sẽ là hại bé.
Một quyển sách hay để gối đầu giường hay làm quà tặng cũng rất ý nghĩa, thiết thực.

Đỗ Ngọc

Mình cũng đã mua rất nhiều cuốn sách nói về nuôi dạy và chăm sóc em bé, nhưng đều là sách dịch nên có 1 số điều ở bên nước ngoài có nhưng không phù hợp với VN cho lắm, còn cuốn sách này có lẽ do bác sĩ viết nên mình cảm thấy rất gần gũi và thực tế, lời văn không giáo điều hay dùng những thuật ngữ khoa học gì mà rất giản dị, bình dân, dí dỏm, dễ nhớ… Nói chung mình nghĩ các bà mẹ dù cho sinh con đầu lòng hay thứ 2,3 đi nữa thì cũng nên mua cuốn này về đọc, thật sự rất bổ ích và cần thiết đấy.

Dung Duong

Đây là cuốn sách đầu tiên tôi lật giở mỗi khi bé nhà tôi có triệu chứng bệnh. Cuốn sách như một vị bác sĩ tại gia giúp tôi không quá hốt hoảng mỗi lần con bệnh…v.v.

Thuận Ánh Nguyễn

Đỗ Hồng Ngọc là một người viết văn (ông là tác giả của nhiều cuốn tản văn, sách viết về sức khỏe… được yêu thích, có cả website riêng trên mạng) đồng thời là một bác sĩ nhi khoa nên cuốn sách này vừa bảo đảm tính khoa học, vừa tràn đầy cảm xúc.
Đối với tôi thì cuốn này là bách khoa thư trong “sự nghiệp nuôi con” lúc bé 0-3 tuổi, sách giải đáp gần như mọi vấn đề mà tôi gặp phải (Sữa mẹ, sữa bò, thực phẩm, vệ sinh cho bé, chiều cao, cân nặng, răng, mắt, mũi, ngủ, khóc, giật mình, đổ mồ hôi, gầy ốm, biếng ăn, ăn không tiêu, thiếu tháng, tai nạn, các loại bệnh, chủng ngừa, sinh tố Y, cách “đối phó” với bà nội, bà ngoại và… bà hàng xóm…). Tôi đọc khá nhiều sách về nuôi dạy con khá đầy đủ thông tin nhưng chỉ đơn thuần là kiến thức khô cứng. Còn cuốn sách này thì như mình đã nói ở trên, là tác phẩm của một bác sĩ viết văn và viết tốt, nên có nhiều đoạn có thể làm cho trái tim nhiều bà mẹ… tan chảy.

(http://reviewsach.club/review-viet-cho-cac-ba-me-sinh-con-dau-long-tai-ban-2013/)

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

  • « Go to Previous Page
  • Go to page 1
  • Go to page 2
  • Go to page 3
  • Go to page 4
  • Go to page 5
  • Go to page 6
  • Interim pages omitted …
  • Go to page 46
  • Go to Next Page »

Thư đi Tin lại

  • Lịch “Trò chuyện, giao lưu…”
  • Lại đính chính: “SAIGON BÂY GIỜ”
  • ĐÍNH CHÍNH: BSNGOC không phải là BS ĐỖ HỒNG NGỌC
  • Đính chính: BS NGỌC không phải là Bs Đỗ Hồng Ngọc
  • bsngoc đã lên tiếng đính chính
  • Thư cảm ơn và Đính chính về FACEBOOK Bác sĩ NGỌC
  • ĐÍNH CHÍNH: Bài viết "TÀN NHẪN" không phải của Bs Đỗ Hồng Ngọc

PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG

Kỳ 3 Lớp An Cư Chùa Xá Lợi, 2022

Bài đọc thêm: DƯỢC TÍNH TRONG TÂM…

Hiểu thêm về “giả dược” (Placebo)!

Nguyễn Hiền-Đức: Tập tuyển CÀNH MAI SÂN TRƯỚC

Minh Lê: Học Phật qua thơ Đỗ Hồng Ngọc

TẠP GHI (Lõm bõm… Kỳ 4b)

Tạp Ghi (lõm bõm… kỳ 4): Mười Hạnh Phổ Hiền

TẠP GHI (Lõm bõm…) kỳ 3

Tạp Ghi (Lõm bõm kỳ 2)

TẠP GHI (Lõm Bõm)

Xem thêm >>

Chuyên mục

  • Một chút tôi
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy

Bài viết mới nhất!

  • Vài ngày về thăm Lagi, Phan Thiết…
  • Ngày của Cha – Happy Father’s Day
  • Kỳ 3 Lớp An Cư Chùa Xá Lợi, 2022
  • Bài đọc thêm: DƯỢC TÍNH TRONG TÂM…
  • Hiểu thêm về “giả dược” (Placebo)!

Bài viết theo tháng

Ý kiến bạn đọc!

  • Tùng Phạm trong Bài đọc thêm: DƯỢC TÍNH TRONG TÂM…
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Giới thiệu
  • Đinh Hà Duy Linh trong Giới thiệu
  • Hồng trong Song Thao: GIÀ KHÚ ĐẾ
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Buổi trò chuyện về Thiền “Quán Niệm Hơi Thở”
  • Cao Huy Khiem trong Buổi trò chuyện về Thiền “Quán Niệm Hơi Thở”
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong “Xả”… stress !
  • “Xả”… stress ! | suonglamportland trong “Xả”… stress !
  • Phan Công Khương trong Nguyễn Mậu Pháp: CẢM NHẬN  “VỀ THU XẾP LẠI…”
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Có một “nghệ thuật”… ngủ!

Cùng một tác giả

  • 0
  • 1
  • 1
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6

Thống kê

Nhà tài trợ

biệt thự vũng tàu
biệt thự vũng tàu cho thuê | biệt thự vũng tàu cho thuê theo ngày giá rẻ | cho thuê biệt thự vũng tàu có hồ bơi
© 2009 - 2016 Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Phát triển & Hỗ trợ kỹ thuật bởi SGC.
Trích dịch nội dung để dùng trong nghiên cứu, học tập hay dùng cho cá nhân đều được tự do nhưng cần phải chú thích rõ nguồn tài liệu và đối với các trích dịch với mục đích khác, cần phải liên lạc với tác giả.
  • Một chút tôi
    ?
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    ?
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    ?
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    ?
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    ?
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy
  • Nhận bài mới qua email