Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Tập hợp các bài viết của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Ghi chép lang thang
  • Nhận bài mới qua email

Nguyễn Hiền-Đức: “TIẾNG GỌI SÂU THẲM CỦA Y VƯƠNG”

05/09/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

 

ĐỖ HỒNG NGỌC –

TIẾNG GỌI SÂU THẲM CỦA Y VƯƠNG

 

NGUYỄN HIỀN-ĐỨC

 

* Thay Quà Tặng mừng Sinh Nhật 81 của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Tặng Bác sĩ Văn Công Trâm (Đức quốc)

NHĐ 

 

  1. Vì sao Đỗ Hồng Ngọc chọn ngành Y?

Đậu tú tài II xong, Đỗ Hồng Ngọc băn khoăn trước ngã ba đường: Vừa muốn học y, lại muốn học sư phạm, học văn khoa. Cuối cùng thì Đỗ Hồng Ngọc quyết định thi vào trường y.

Đỗ Hồng Ngọc chỉ thi vào trường y, theo tôi từ những nguyên do sâu xa, những “ám ảnh không rời” ngay từ quãng đời tuổi thơ côi cút của anh ở quê nhà:

– Nguyện vọng của gia đình;

– Thân phụ mất ở trong rừng vì thiếu thầy, thiếu thuốc. Nỗi đau và sự mất mát to lớn đó đã “đưa”, đã “đẩy” anh chọn nghề thầy thuốc.

– Vì mang đủ thứ bệnh nên mỗi ngày, anh vẫn thường qua lại bằng đò ngang để đến nhà thương thí chích thuốc! Riết rồi anh “ghiền cái mùi nhà thương.”

Tôi tin câu này, lời này của Đỗ Hồng Ngọc: “Riết rồi tôi ghiền cái mùi nhà thương!” Vâng, anh ghiền cái “mùi nhà thương” cũng như tôi đã ghiền cái mùi nhà in, nên tôi đã theo học nhiều khóa về kỹ thuật ấn loát và quản trị nhà in; rất say mê khi nhìn ngắm, tìm hiểu các loại máy in, các loại mực in, giấy in… Tôi mê cái không khí sôi động, ồn ào ở nhà in, mê mùi mực, mùi giấy… nên nhiều buổi trưa tôi nằm chèo queo ngủ ngon lành trên đống giấy vụn tại Ấn quán Đại học Vạn Hạnh sau những giờ chấm morasse bộ Trường Bộ Kinh, Trung Bộ Kinh do Ôn Thích Minh Châu dịch từ Pali ra tiếng Việt và nhiều tác phẩm khác về Phật học, thế học do Tu Thư Đại Học Vạn Hạnh xuất bản mà tôi thực hiện với trách nhiệm là Trưởng phòng Tu Thư. Đến nay, hơn bốn mươi năm sau, tôi vẫn luôn ghiền cái mùi nhà in, vẫn muốn tiếp tục học ngành in và làm thêm việc ở nhà in.

– Cuối cùng, chính lời khuyên chí lý, sáng suốt và trách nhiệm của cụ Nguyễn Hiến Lê mà Đỗ Hồng Ngọc đã quyết định thi vào trường y. Cụ Lê khuyên “nên học y để giúp đỡ cụ thể cho gia đình, nếu học giỏi sau này có thể làm “thầy giáo” và nếu có năng khiếu, cũng có thể viết lách được…!” Thế là Đỗ Hồng Ngọc học y, học thêm văn, thêm xã hội học… rồi viết lách, giảng dạy… suốt mấy chục năm nay.

Được học giả Nguyễn Hiến Lê khuyên nên anh đã nghe theo và bắt đầu dấn thân vào ngành học rất cực nhọc mà cũng rất nhân văn này.

Từ ngày tuyên thệ, đọc lời thề Hippocrates, Đỗ Hồng Ngọc trở thành một bác sĩ “mát tay”, đặc biệt ông ít dùng đến thuốc, luôn chú trọng đến việc chữa cả thân bệnh lẫn tâm bệnh nên trong các dịp lễ Tết, ông thường chúc mọi người: “Thân tâm thường an lạc!” là xuất phát từ cái thân tâm bất dị này.

 

  1. Học và hành nghề y

– Năm 1962, Đỗ Hồng Ngọc đậu vào trường y. Vốn là người ham đọc, ham học, có ý chí và biết tự học nên ngoài việc học y, ông cũng đã ghi danh học thêm ở Đại học Văn khoa, và xã hội học ở Đại học Vạn Hạnh.

Tóm tắt quá trình học và hành nghề y của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc như sau:

* 1962 thi đậu APM vào Đại học Y khoa Sài Gòn.

* Năm 1965 thực tập tại Bệnh viện Từ Dũ, đã đỡ được một ca đầu tiên mẹ tròn con vuông! Với lòng lâng lâng, ông lập bản “phúc trình”, viết ngay sau phần bệnh án một bài thơ nhỏ: Thư Cho Bé Sơ Sinh. Bài thơ khá nổi tiếng này được đưa vào tập thơ đầu tay của ông: Tình Người, xuất bản năm 1967. Có thể nói kể từ năm 1965, Đỗ Hồng Ngọc đã thực sự dấn thân vào lãnh vực Nhi khoa, nên có thể nói ông là một bác sĩ yêu trẻ và có nhiều kinh nghiệm về Nhi khoa.

* Năm 1967 và 1968 là Nội trú ủy nhiệm (Interne fonctionnel) của bệnh viện Nhi Đồng Sài Gòn.

* Năm 1969 tốt nghiệp Đại học Y khoa Sài Gòn.

* Năm 1970, bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ với đề tài “Bệnh Sốt Rét Ở Trẻ Em”, Đỗ Hồng Ngọc được nhận Văn bằng Tiến sĩ Y khoa Quốc gia.

* Năm 1971 là bác sĩ điều trị tại Dưỡng đường Nhi khoa Trần Bình Trọng, Chợ Lớn (GĐ Bs Trần Văn Còn).

* Năm 1972, xuất bản cuốn sách đầu tay: Những Tật Bệnh Thông Thường Trong Lứa Tuổi Học Tròdo học giả Nguyễn Hiến Lê đề Tựa. Trong tập này Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc chia sẻ với các bạn trẻ những kinh nghiệm về tổ chức việc học và cách học sao cho có hiệu quả ngoài các cách phòng tránh bệnh thường gặp ở lứa tuổi.

* Năm 1973, Đỗ Hồng Ngọc làm Trưởng phòng Cấp cứu Khu Ngoại chẩn Bệnh viện Nhi Đồng Sài Gòn

* Năm 1974, xuất bản cuốn Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng. Cuốn này được Giáo sư Phan Đình Tuân, Giám đốc Bệnh viện Nhi Đồng thời Đỗ Hồng Ngọc làm việc viết Lời Tựa. Chính Giáo sư Phạm Đình Tuân cũnglà người đã đỡ đầu luận án tốt nghiệp của Đỗ Hồng Ngọc và trong Lời Tựa cho cuốn sách này ông gọi là “sách gối đầu giường cho các bà mẹ.”

* 1977 Trưởng khu Phòng Khám và Cấp cứu Bệnh viện Nhi Đồng I (Bv Grall thành lập bệnh viện Nhi Đồng 2).

* Từ năm 1981, là Giảng viên thỉnh giảng Bộ môn Nhi, Đại học Y Dược. Trong thời gian công tác tại đây, ông đã đỡ đầu luận văn khoảng 10 đề tài cho các thầy thuốc trẻ. Ông còn viết nhiều cuốn sách y học phổ cập như Những Bệnh Nguy Hiểm Thường Gặp Ở Trẻ Em, Nuôi Con, Săn Sóc Con Ở Nơi Xa Thầy Thuốc.

* Từ những năm 1984 – 1986, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc triển khai các Chương trình “Săn Sóc Sức Khỏe Ban Đầu Cho Trẻ Em” ở Quận 6, để làm thí điểm phòng bệnh từ xa với một chiến lược mới, cần có sự tham gia của cộng đồng và sự phối hợp liên ngành. Ông được sự đồng tình ủng hộ của nhiều đồng nghiệp và trường Đại học Y Dược thành phố lúc đó đã gởi nhiều sinh viên theo học và làm luận văn về hướng Nhi khoa xã hội này. Và ông bắt đầu thực hiện các buổi nói chuyện trên Đài Truyền hình và Đài Phát thanh. Từ năm 1986 ông ở trong nhóm thực hiện Chương trình Săn sóc Sức khỏe Ban đầu cho xã Hiệp Phước, Nhà Bè

* Từ 1986, Giám đốc Trung Tâm Truyền Thông – Giáo Dục Sức Khỏe Thành phố Hồ Chí Minh.

* Ông triển khai hai bộ môn mới do ông làm chủ nhiệm là Bộ môn “Khoa học Hành vi và Giáo dục Sức khỏe” thuộc Trung tâm Đào tạo và Bồi dưỡng Cán bộ Y tế Thành phố (nay là Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch) và Bộ môn Sức khỏe Phụ nữ của Đại học Mở. Ông còn thực hiện “Chương trình Giáo dục Sức khỏe Phòng chống AIDS, Thuốc lá” v. v… dạy học, viết báo…

* 1993 Tu nghiệp Y tế công cộng tại Đại học Harvard Hoa Kỳ và 1997 Giáo dục Sức khỏe tại CFES Paris, Pháp.

* Từ năm 1989 đến năm 2000, ông giữ mục Phòng Mạch Mực Tím trên báo Mực Tím, một tờ báo dành cho lứa tuổi mới lớn để giúp các em giải tỏa những băn khoăn thắc mắc của lứa tuổi mình, những băn khoăn thắc mắc về phát triển tâm sinh lý, về bệnh tật… Trước 1975, ông đã viết cho các báo Tuổi Ngọc, Mây Hồng, rồi sau này là Khăn Quàng Đỏ, Mực Tím… những tờ báo dành cho tuổi trẻ.

Nhân dịp Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc nghỉ hưu (2006), Nhà xuất bản Tổng hợp thành phố đã tái bản cuốn Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng được cập nhật và bổ sung đầy đủ – gần 400 trang mà ông xem là một món quà nhỏ gởi đến các ông bố, bà mẹ trẻ mới sinh con đầu lòng…Một cuốn sách về y học mà được tái bản đến hơn 40 lần, quả là một kỷ lục. Năm 2008, cuốn sách này nhận “Giải Bạc Sách Hay”.

Trả lời câu hỏi của các học trò, trong một buổi giao lưu tại Trung tâm Truyền thông và Giáo dục sức khỏe:“Thưa thầy, kinh nghiệm của thầy khi đi nước ngoài, bài học thầy áp dụng vào ngành truyền thông – giáo dục sức khỏe của Việt Nam?”

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc chân thành chia sẻ:

“Thầy có không nhiều dịp đi nước ngoài, nên mỗi dịp đều là một cơ hội để được học thêm và rút kinh nghiệm đem về áp dụng những điều hay. Lần nào thầy cũng mang về một lô sách và tài liệu để sử dụng cho ngành mình và kể cả về đào tạo y khoa, như lần đi dự hội nghị về “Đào Tạo Chuyên Viên Phát Triển Sức Khỏe” của WHO tại Ai Cập (1988), thầy được mời tham gia trong nhóm sáng lập Trung tâm Đào tạo và Bồi dưỡng cán bộ y tế thành phố, sau này là Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch. Nhờ thời gian tu nghiệp ở Đại học Harvard (1993), thầy về triển khai Bộ môn Khoa Học Hành Vi và Giáo Dục Sức Khỏe cho trường. Lúc tu nghiệp ở CFES, Paris (1997) thầy thấy họ làm nghiên cứu về Giáo dục sức khỏe rất bài bản, dựa trên đó xây dựng các chương trình can thiệp có hiệu quả, khi về, thầy củng cố thư viện T4G, lập bộ phận tổ chức tư liệu (documentation) và đẩy mạnh các nghiên cứu khoa học trong lãnh vực giáo dục sức khỏe. Khi đi Ấn Độ dự Hội thảo quốc tế về HIV/AIDS (1996) thầy ứng dụng “truyền thông thay đổi hành vi” cho những lớp huấn luyện theo phương pháp giáo dục chủ động, tạo tham gia…

Tóm lại, học đối với thầy bao giờ cũng đi đôi với hành. Học mà không hành thì không thể nào “chín” được. Thầy cũng mong các em: đi học, nhất là du học không chỉ để lấy cái bằng cấp về treo, để “hù” thiên hạ… mà phải rút ra được bài học gì ứng dụng phù hợp vào hoàn cảnh nước ta với sự sáng tạo riêng của mình. Nhân dịp cũng nói thêm với các em rằng khi tiếp các đoàn chuyên gia quốc tế, đừng thụ động đối phó, lo trả lời những câu hỏi của họ đặt ra mà phải chủ động… đặt câu hỏi, đưa ra những ý tưởng của mình để tranh luận, từ đó mới có cơ hội học hỏi lẫn nhau…”

Đối với các bạn trẻ mong muốn chọn ngành y làm con đường nghề nghiệp, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc chia sẻ:

“Rất hoan nghênh các bác sĩ trẻ này. Đây là một ngành đang có nhu cầu rất lớn của xã hội. Nhưng chọn học y là chọn con đường gian nan, hằng ngày trực diện với những nỗi đau nỗi khổ của kiếp người (sanh, lão, bệnh, tử)… Phải thực sự yêu nghề và có năng lực. Nói chung, học y cần có một lý tưởng nhân đạo, một “tiếng gọi sâu thẳm” (vocation) của nghề nghiệp. Nếu học y để mong đầu tư… làm giàu trên bệnh nhân thì không nên! Thực ra học y cũng rất thú vị, nhiều thử thách đòi hỏi trách nhiệm cao. Luôn đứng trước lương tâm của mình. Hạnh phúc rất lớn khi thấy mình sống hữu ích cho gia đình, cho cộng đồng, cho xã hội. Bà con mình thường nói:“Cứu sống một mạng người bằng… lập năm bảy kiểng chùa” phải không”?

Trò chuyện, tâm tình, gởi gắm niềm tin vào các bạn trẻ đang học ngành y, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc nói:

“Để thành công, phải thực sự say mê, cần phải đi chuyên sâu về một lãnh vực nào đó nhưng đồng thời không quên mở rộng kiến thức văn hóa nói chung. Phải học hỏi không ngừng. Thầy thuốc là một sinh viên y khoa suốt đời. Không học thêm thì sau vài ba năm đã lạc hậu. Nghiên cứu, giảng dạy là cơ hội học tập tốt nhất. Đừng quên chia sẻ kiến thức của mình với người bệnh và luôn tôn trọng lắng nghe họ, sẽ học được rất nhiều từ họ.”

“Y khoa là một khoa học nhưng cũng là một nghệ thuật. Nó gắn liền với thân và tâm của con người. Mà cái gì đã liên quan đến con người thì luôn là một “nghệ thuật’’ chứ, phải không? Cho nên ngày nào y khoa trở thành hoàn toàn máy móc thì nguy cho con người lắm! Khi máy móc hóa hay thương mại hóa mối quan hệ “thầy thuốc – bệnh nhân’’ thì có nhiều vấn đề đặt ra.

 

  1. Đỗ Hồng Ngọc và những “sở đắc” về ngành y

Năm 1972, tức là chỉ ba năm sau khi tốt nghiệp Bác sĩ Y khoa Quốc gia, Đỗ Hồng Ngọc xuất bản cuốn Những Tật Bệnh Thông Thường Trong Lứa Tuổi Học Trò trong loại y học phổ cập. Theo Đỗ Hồng Ngọc:

“Cuốn sách đầu tay không những được các em học sinh mà cả các bậc phụ huynh cũng nồng nhiệt đón nhận. Nhà văn Trần Phong Giao – Tổng thư ký báo Văn lúc đó – đã bắt con mình học… thuộc lòng cả một chương trong sách! Nhà xuất bản Lá Bối của thầy Từ Mẫn độc quyền phát hành và chỉ vài tháng sau sách đã được tái bản”.

Trong lời Tựa cuốn này, học giả Nguyễn Hiến Lê viết:

“Tập này là tác phẩm đầu tay của ông. Ông dùng kinh nghiệm bản thân khi đi học và đi dạy (vì như một số sinh viên khác, ông phải tự túc), cùng những sở đắc trong ngành y để hướng dẫn các bạn học sinh trong việc giữ gìn sức khỏe, ngừa trước những bệnh thông thường và khi bệnh đã phát thì nên làm gì. Yêu nghề và có lương tâm, ông không mách thuốc bừa bãi như thỉnh thoảng chúng ta thấy trên một số báo, ông phản đối thái độ ‘vô trách nhiệm’ đó”.

Từ đó chúng ta có thể thấy, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc tuy mới ra trường 3 năm mà đã dùng kinh nghiệm bản thân khi đi học và đi dạy, cùng những sở đắc trong ngành y để hướng dẫn các bạn trẻ giữ gìn sức khỏe… Ông lại rất yêu nghề và có lương tâm. Tri thức chuyên ngành và lương tâm của người thầy thuốc ngày càng khẳng định “sở đắc”, tầm nhìn mới của ông trong ngành y.

Năm 1974, Đỗ Hồng Ngọc hoàn thành cuốn Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng, lúc ông đang làm việc tại Bệnh viện Nhi Đồng Sài Gòn và cũng vừa có 3 đứa con “đầu lòng”. Cuốn này được cụ Nguyễn Hiến Lê góp ý và “khen” Đỗ Hồng Ngọc là một thầy thuốc nhi khoa tốt, yêu trẻ con.

Tôi cảm kích và vui mừng về bước khởi đầu viết lách của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc khi đọc những nhận xét về tác phẩm này của những người đồng nghiệp, những bậc đàn anh, những người Thầy của Đỗ Hồng Ngọc. Trước hết là bài Tựa của Giáo sư, Giám đốc Bệnh viện Nhi Đồng Sài Gòn Phan Đình Tuân, cũng là người đỡ đầu luận án tốt nghiệp của Đỗ Hồng Ngọc. Bài Tựa có đoạn viết:

“Đọc quyển sách Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, các bà mẹ sẽ tìm thấy những lời chỉ dẫn ân cần về những vấn đề thiết thực, để bớt những bỡ ngỡ băn khoăn, lo lắng vô ích. Thêm vào đó, tác giả còn đả phá những thành kiến sai lầm, những tập quán nguy hiểm từ lâu vẫn lan tràn ở nước ta gây nhiều tai hại cho trẻ nhỏ… (…)

Một quyển sách về y học, dù là y học phổ thông, thường thường rất khô khan, ít ai muốn đọc, nhưng quyển sách của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc lại khác. Tác giả có lối hành văn trong sáng, nhẹ nhàng, thân mật, gần gũi, có chỗ dí dỏm nên thơ, đọc không biết chán.

Tôi mong rằng quyển sách này sẽ là sách gối đầu giường không những của các bà mẹ sanh con đầu lòng mà còn của tất cả các bà mẹ vậy.”

Tôi đọc 16 cuốn gọi chung là “Câu chuyện sức khỏe” từ tác phẩm đầu tay của ông xuất bản: Những Tật Bệnh Thông Thường Trong Lứa Tuổi Học Trò (1972),đến các tác phẩm mới nhất là Sức Khỏe Gia Đình, Ăn Vóc Học Hay và Thiền Và Sức Khỏe. Rồi đọc tiếp 18 bài Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc trả lời phỏng vấn trên nhiều tờ báo, chung quy ông cũng đề cập đến vấn đề giữ gìn sức khỏe, nâng cao sức khỏe và chất lượng cuộc sống theo định nghĩa về sức khỏe của WHO: “Sức khỏe là một tình trạng hoàn toàn sảng khoái (well being) về thể chất, tâm thần và xã hội chứ không phải chỉ là không có bệnh hay tật.”

Càng đọc nhiều sách loại này, tôi càng thấy rõ Đỗ Hồng Ngọc xem cuộc sống là một điều kỳ diệu, tôn vinh giá trị gia đình, xác quyết mối quan hệ thân – tâm không thể tách rời nhau. Ông hô hào mọi người hãy đầu tư cho chính mình để được hạnh phúc. Mỗi người hãy trở về với hải đảo của mình; hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi theo lời dạy của Đức Phật. Ông kêu gọi mọi người hãy sống tự tại hơn để hạnh phúc hơn, ông thành tâm cầu mong mọi người thân tâm thường an lạc. Ông chia sẻ những kinh nghiệm, trải nghiệm và thể nghiệm từ bản thân mình để xiển dương những lợi ích và lợi lạc của việc tập thở, tập thiền, hành thiền. Với ông tu là học và tu là hành… nhờ đó mà ông được nhiều người tin cậy và làm theo hướng dẫn của ông. Những bài trả lời phỏng vấn của ông về y học, vốn là chuyên ngành sâu, là nghề và nghiệp của ông nên ông viết luôn luôn rõ ràng, rành mạch, chính xác, với lời lẽ chân thành, thân ái, gần gũi, thấu cảm nên người đọc vừa tin yêu vừa phấn chấn. Làm được, viết được như vậy chẳng dễ tí nào! Những lời ông tâm tình, trao đổi, gợi ý, chia sẻ với các bạn trẻ, với những học trò cũ vừa chân tình vừa cảm động, vừa ý nhị sâu sắc, vừa thiết thực, cụ thể, có lúc nghiêm khắc nhưng đầy lòng khoan dung và khích lệ. Hơn 50 năm trước tôi đã đọc nhiều cuốn sách, có cuốn tôi gọi là “cuốn sách cứu người”, cuốn sách “làm thay đổi cuộc đời” của cụ Nguyễn Hiến Lê, thì nay đọc sách, đọc các bài viết về y, về Phật họccủa Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc tôi cũng có cảm nhận sâu sắc và chân thành như vậy. Xin hết lòng biết ơn Thầy Nguyễn Hiến Lê và Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc!

Trong các bài viết về chuyên đề sức khỏe, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc luôn cẩn trọng, khiêm tốn, vui vẻ. Ông luôn luôn dung dị mà sâu sắc, dí dỏm, hóm hỉnh, trí tuệ, thông minh, sắc sảo mà gần gũi và thân ái. Ông thể hiện tròn đầy lòng chân thành, sự thấu hiểu, thấu cảm nên mang tính thuyết phục cao đối với đông đảo người đọc. Tôi rất tâm đắc khi đọc những bài này của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc và xem nó là một trong những dấu ấn sâu đậm, đáng yêu và sống lâu bền trong lòng người đọc.

Ở đây, tôi xin phép được trích dẫn một số cảm nhận chân thành của bạn đọc để làm rõ thêm ý kiến mà chúng tôi đã nêu trên:

 

Yumi.multiply.com

(…) Ở đó, tôi không chỉ nắm bắt được những kiến thức khoa học để nuôi con mà còn gặp được tấm lòng một người cha vĩ đại. Ông kể chuyện của con mình, kể về nỗi buồn lo, ân hận của mình để mà truyền kinh nghiệm cho bạn, cho tôi. Khi con mọc răng nóng sốt, khi con quấy khóc, ốm đau, khi con chán ăn, khi con biết lẫy, biết bò… tôi đều giở sách ra, đôi khi không chỉ đọc để biết phải làm gì mà còn tìm trong đó một nguồn an ủi, vỗ về.Mỗi lần nâng quyển sách ấy trên tay, tôi không nghĩ mình đang đọc sách mà đang trò chuyện với ông, ấm áp và tin tưởng lạ thường!

 

blog.dongchay.com

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc không phải viết theo phong cách của một bác sĩ cho các đồng nghiệp, không phải cho thân nhân người bệnh, cũng không phải theo khuôn mẫu của một sách giáo khoa khô khan. Bác sĩ viết như người bạn viết cho người bạn, người anh, người chú lớn tuổi nhiều kinh nghiệm viết cho những người em bắt đầu làm bố, làm mẹ. Lời lẽ thân thiện, dễ gần, hình ảnh sống động, dễ hiểu, trình bày khoa học, dễ tra cứu. Quả thực, mẹ học được rất nhiều từ cuốn sách và cũng đã nhiều lần cuốn sách đã giải tỏa cho mẹ những ưu tư , rồi cả những hủ tục, những quan niệm sai lầm khi nuôi con của các bà mẹ ngày xưa.

Mẹ rất thích cuốn sách, đọc đi đọc lại nhiều lần, ngẫm nghĩ những điều nằm ngoài chuyên môn mà bác sĩ Ngọc đã gửi gắm. Mẹ cảm thấy việc sinh con, nuôi con ý nghĩa hơn. Mẹ cũng cảm thấy trách nhiệm của bố và mẹ lớn lao hơn khi giờ đây, bố mẹ là người cha, người mẹ và trước kia, bố mẹ cũng là những người con bé bỏng và ông bà nội ngoại đã phải vất vả ra sao mới có bố mẹ, có con như bây giờ…

 

Lê Uyển Văn says

 Vẫn là phong cách của Đỗ Hồng Ngọc, con chữ của Đỗ Hồng Ngọc – lấp lánh yêu thương  – sao như lần đầu được gặp, chúng tôi đọc mải miết, những kiến thức đã từng biết bỗng trở nên gần gũi và sống động lạ thường.

Không đúc kết nào gọn gàng hơn “ BUSĂC” – phổ biến những điều căn bản nhất để nuôi con sao cho khỏe mạnh. Không cách so sánh nào cụ thể, dễ nắm bắt mà xúc động hơn cách hướng dẫn làm dung dịch như Oresol tại nhà : “…pha xong nếm thử thấy nó y như nước mắt là được / Nước mắt ở đâu mà thử?/ Thì bà mẹ nào có con tiêu chảy cấp mà không khóc chứ?”. Cũng không gì thuyết phục hơn khi khuyên mẹ tự làm thức ăn cho con: “Bây giờ có nhiều thức ăn làm sẵn / Phải, nhưng không có thứ “tình thương” làm sẵn nào cả !”….

… “ Mẹ cứ kỳ vọng vào con đi”,“ Có hiểu mới thương”, “ Thương nhớ… đòn roi”… đều là những “Bài học quý giá” mà tôi, các con tôi đang rất cần. Có những điều, tôi không sao nói được với con mình thì tác giả đã nói hộ rồi, tôi chỉ cần hỏi “con đã đọc “bài học quý giá” của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc chưa?”, con đáp “dạ, rồi!”,tôi nghe như trút vài gánh đá, đọc rồi nghĩa là con hiểu con phải làm gì để đối diện với kỳ thi đang rất gần kề.

Với ông, y khoa là một khoa học nhưng cũng là một nghệ thuật. Kỹ thuật y khoa càng tiến bộ thì càng cần hơn tính nhân văn trong y học vì nó đứng trước cái sống, cái chết, cái đau, cái khổ của kiếp người. Y học ngày càng tiến bộ, kỹ thuật ngày càng cao, thuốc men ngày càng nhiều thì… bệnh tật cũng ngày càng phát triển, gia tăng, đôi khi đe dọa cả hành tinh…

Vì thế, ông hô hào: “Bớt kỹ thuật – Thêm nhân văn” và hãy đầu tư cho chính mình để được hạnh phúc. Ông quan tâm tới khía cạnh tâm lý xã hội của vấn đề chứ không đơn thuần ở góc độ bệnh lý. Ông khởi xướng và đã cùng với cộng sự, học trò tập trung nhiều công sức, tâm huyết, trí lực vào việc xây dựng và phát triển ngành Truyền Thông – Giáo Dục Sức khỏe và Nâng cao sức khỏe.

Ông cảnh báo về nguy cơ lớn nhất của ngành y là đi quá sâu vào kỹ thuật và tách hẳn cái thân ra khỏi cái tâm, thậm chí trong cái thân lại chẻ nhỏ ra thành những mảnh thân nhỏ hơn nữa để đi chuyên sâu. Ông cho rằng điều đó có lợi về mặt khoa học nhưng lại làm cho con người không còn toàn vẹn nữa vì thân và tâm không thể chia chẻ được và không thể nào có cái thân mà không có cái tâm và ngược lại: Hai cái đó vốn là một. Vì thế, một người thầy thuốc khi chữa bệnh cho bệnh nhân, nếu chỉ thấy cái thân bệnh, mà không thấy cái tâm bệnh, tức là chỉ thấy cái “đau” mà không thấy được cái “khổ” của họ thì không thể chữa thành công.

Ông băn khoăn, trăn trở trước nguy cơ kỹ thuật hóa, thương mại hóa ngành y. Có cách nào làm giảm bớt nguy cơ đó không? Có cách nào phục hồi tính nhân bản của ngành y như những “ngày xưa thân ái” không? Dĩ nhiên không thể trở lại thời kỳ y khoa phù thủy, nhưng cũng không thể đẩy đến bờ vực thẳm của y khoa kỹ nghệ… Trước thực trạng, y khoa ngày càng nặng về kỹ thuật., người thầy thuốc trẻ dần dần có khuynh hướng chạy theo kỹ thuật, xa cách dần với… con người. Nó làm cho người thầy thuốc trở nên bí hiểm… chẳng khác gì các phù thủy của những bộ lạc ngày xưa! Thế nhưng con người từ xưa đến nay vẫn không thay đổi: cũng những lo âu, phiền muộn, sợ hãi, cũng những ganh tị, ghen ghét, mừng vui, cũng vẫn già nua, tuổi tác, ốm đau bệnh hoạn…

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đưa ra một số giải pháp, theo tôi là mới mẻ, thiết thực và hiệu quả:

“Chỉ có cách là phá vỡ huyền thoại (démystification) về người thầy thuốc, về nghề y và nâng cao kiến thức của người dân để họ tự bảo vệ sức khỏe của mình và hợp tác với thầy thuốc một cách có ý thức. Bên cạnh việc thay đổi chương trình giảng dạy ở các đại học y khoa sao cho ngành y vừa kỹ thuật mà cũng vừa nhân văn, đưa các môn tâm lý, xã hội, nhân chủng, quan hệ thầy thuốc – bệnh nhân, y đức, nghĩa vụ luận… vào giảng dạy. Giáo dục sức khỏe là biện pháp cần thiết để nâng cao dân trí, thay đổi hành vi có hại sức khỏe của cá nhân và góp phần đề ra các chính sách nhằm nâng cao sức khỏe cộng đồng…”

Muốn giải quyết vấn đề bệnh ngày càng nhiều, bệnh viện quá tải…, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc thấy cần “phải giải quyết cái gốc từ xã hội, tức là phải giải quyết trên vấn đề sức khỏe toàn diện chứ không chỉ là vấn đề y tế đơn thuần. Y tế chỉ cung cấp dịch vụ chữa bệnh, còn sức khỏe bao gồm cả môi trường sống, môi trường xã hội và thiên nhiên, cho đến hành vi, lối sống của mỗi cá nhân. Đã đến lúc cần giải quyết trên một bình diện rộng. Một mặt, ngành y tế tổ chức lại hệ thống chăm sóc sức khỏe tốt hơn, mang tính dự phòng tích cực từ cơ sở, nâng cao dân trí để mọi người biết tự bảo vệ sức khỏe cho cá nhân mình, gia đình và cộng đồng. Mặt khác, xã hội phải coi trọng việc đầu tư chăm sóc sức khỏe người dân hơn là tập trung mở thêm nhiều bệnh viện để hứng bệnh tật, tức là chăm lo bảo vệ môi trường, quan tâm giáo dục từ tuổi ấu thơ nhằm thay đổi hành vi, lối sống với các chương trình nâng cao sức khỏe (health promotion).

Từ kinh nghiệm bản thân, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc cho rằng:

“Truyền thông trị liệu”, “Truyền thông thay đổi hành vi” không dễ tí nào! Nó là một khoa học, bao gồm cả tâm lý- xã hội – nhân chủng (văn hóa) ứng dụng vào ngành y, giúp cải thiện mối quan hệ thầy thuốc – bệnh nhân và nâng cao y đức. Làm sao người thầy thuốc thấy được nỗi khổ sau nỗi đau, để thấu cảm với người bệnh. Một lời nói, một cử chỉ của thầy thuốc có thể làm cho bệnh nặng hơn hay nhẹ đi, vơi đi. Những kỹ năng ứng dụng này phải bằng cái tâm của người thầy thuốc.” Và rằng: “Thầy thuốc không chỉ là một chuyên viên tư vấn (consultant) về y học mà còn phải là một chuyên viên tham vấn (counselor) về sức khỏe, bởi người bệnh đến với họ vì tin tưởng rằng người thầy thuốc ngoài việc chữa bệnh còn có thể an ủi, giúp đỡ họ. Người bệnh cũng rất nhạy cảm với những “truyền thông không lời” trong mối giao tiếp đặc biệt này. Chỉ cần nhìn nét mặt, cử chỉ, nghe giọng nói, cái vỗ vai, cái bắt tay… cũng được bệnh nhân hiểu bao nhiêu điều…”

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc mong muốn bản thân ngành y cần coi trọng vấn đề nhân sự của ngành, vì không chỉ cần có kỹ năng, có học thuật mà còn cần đến tấm lòng, vì đó là con đường của y đức và y đạo.” Ông cho rằng: “Nói y đức suông mà không có tay nghề thì… hại người ta nhiều hơn, làm người ta “đau” nhiều hơn. Còn giỏi kỹ thuật chuyên môn mà thiếu y đức thì làm cho người ta “khổ” nhiều hơn.

Riêng vấn đề y đức phải được quan tâm đúng mức, đặt trong hệ thống đào tạo người thầy thuốc tương lai. Rồi đây, quản lý bệnh viện dần dần sẽ là những doanh nhân chứ không phải là bác sĩ, các bác sĩ sẽ chỉ là người làm công tác ăn lương. Y đức như vậy phải được mở rộng cho giới doanh nhân “khai thác” ngành y.”

Đỗ Hồng Ngọc theo ngành Nhi khoa và thực sự “say mê” trẻ em. Vì vậy mà Đỗ Hồng Ngọc đi đến một kết luận đáng chú ý: “Tôi thấy rõ một điều là dù người thầy thuốc có “ba đầu sáu tay” cũng không thể cứu giúp được trẻ con nếu người mẹ, gia đình vẫn mắc phải những sai lầm tai hại. Từ đó tôi luôn quan tâm đến lãnh vực giáo dục sức khỏe, làm sao để giúp bà mẹ những kiến thức tối thiểu cần thiết để nuôi con khỏe mạnh, không ốm đau bệnh tật.” Ông cho rằng, bà mẹ mới thực sự là “trung tâm bảo vệ sức khỏe” của con mình chứ không phải là bệnh viện hay các Trung tâm y tế.”

Trong Lời Ngỏ cuốn Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc viết:

“… ở đây không có “ông bác sĩ” viết cho thân nhân trẻ bệnh mà chỉ có người bạn viết cho người bạn, chỉ có người trong gia đình viết cho anh chị em mình, cho nên tôi viết bằng một giọng thân mật và cố gắng tránh những lý thuyết, những danh từ chuyên môn dễ nhàm chán”. Và trong lời Viết thêm ông bày tỏ một cách chân tình với bạn đọc: “Cuốn sách là những lời tâm tình, chia sẻ của một người vừa là thầy thuốc, vừa là người cha những năm xưa, nay đã trở thành ông nội, ông ngoại của mấy nhóc nhỏ rồi! Thời gian trôi nhanh thật.”

Trong nhiều thập niên và mãi đến giờ, cuốn sách này đã trở thành cuốn “sách gối đầu giường”, là “bửu bối”, là “báu vật” theo cảm nhận chân thành của nhiều người mẹ qua nhiều thế hệ.

Đỗ Hồng Ngọc thổ lộ: “Không gì vui hơn khi các bà mẹ nói rằng nhờ cuốn đó mà họ đã nuôi con được khỏe mạnh, và đặc biệt đã làm cho họ vơi bớt nỗi lo âu. Đối với tôi, bà mẹ mới thực sự là “trung tâm bảo vệ sức khỏe” của con mình chứ không phải là bệnh viện hay các Trung tâm y tế.”

Sau hai cuốn sách chuyên ngành mang tính phổ thông, thiết thực và có ích đó được đông đảo người đọc đón nhận và yêu thích, Đỗ Hồng Ngọc vẫn luôn luôn âm thầm đọc, học, viết. Có thể nói ông đã kết hợp nhuần nhuyễn, tài tình, khéo léo, hiệu quả đối với công việc “bộ ba” của ông: truyền thông giáo dục sức khỏe – dạy học – viết lách. Ông đã nghiền ngẫm viết lách, giảng dạy, chia sẻ kinh nghiệm với người khác. Để làm được những điều đó ông phải đọc, học, trải nghiệm rất nhiều và ông cho rằng “Viết cũng là học”. Vào thời điểm này, ông đã có ba cuốn sách về lãnh vực nhi khoa được phổ biến khá rộng rãi và một số sách viết cho tuổi già; mảng sách viết về học… Phật.

Trong buổi giao lưu với học trò cũ, ông tâm tình và chia sẻ như sau:

“Những năm cơ cực sau 1975, thầy bận rộn suốt ngày với bệnh nhi ở phòng cấp cứu Bệnh viện Nhi Đồng, ở nhà trông cậy một mình cô nuôi dạy các con. Nhiều bữa thầy về nhà tối om, đem thịt cá được “Tổ đời sống” chia cho đã ôi thiu về, cô chỉ biết cười trừ…”

Tình cảnh khó khăn, bi đát như thế cộng với rất nhiều khó khăn khác chắc chắn là ông rất ít có thì giờ, sức lực, điều kiện để đọc, để học, để viết. Nhà thơ Đỗ Trung Quân cho biết:

“Một ngày của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc thật không còn chỗ thở: hội họp, giảng dạy, hướng dẫn chuyên môn, khám chữa bệnh ngoài giờ cho trẻ con. Anh là bạn thân của lứa tuổi Mực tím (Phòng mạch Mực Tím), là “ông ngoại” của những đứa nhỏ đang ốm sốt trong tay người mẹ trẻ. Việc viết lách, viết sách, làm thơ khi trời hừng sáng, dậy sớm, ngồi vào bàn computer gõ, để đó, khi nào rảnh mới xem lại, sửa chữa, sắp xếp. Sức làm việc thật dữ dội và tất nhiên cũng phải… chớm già thôi!’

Khó khăn, bận rộn là thế nhưng rồi ông đã vượt lên tất cả để viết và viết hàng loạt tác phẩm về y học như: Thầy Thuốc Và Bệnh Nhân, Săn Sóc Con Em Nơi Xa Thầy Thuốc (1986), Nuôi Con (1988), Nói Chuyện Sức Khỏe Với Tuổi Mới Lớn (1989), Sức Khỏe Trẻ Em (1991), Viết Cho Tuổi Mới Lớn (1994), Bỗng Nhiên Mà Họ Lớn, Bác Sĩ Và Những Câu Hỏi Của Tuổi Mới Lớn, Câu Chuyện Sức Khỏe (Tháng 6. 1994).

Nhà văn Nguyễn Lệ Uyên trong bài viết về  tác giả Đỗ Hồng Ngọc (Khói trời Phương Đông, 2012) đã viết: Câu nói “Làm thầy thuốc là để cứu người; làm nhà văn là để cứu đời” có lẽ rất đúng với trường hợp Đỗ Hồng Ngọc- với những tác phẩm đa dạng của ông trong văn thơ, y học và Phật học.

Ông quan tâm đến những chuyện mà nhiều người lo âu và chia sẻ:

“Nhắc lại, giấc ngủ rất quan trọng. Phải ngủ đủ. Khoảng 7 – 8 tiếng một đêm ở tuổi này. Khi nào buồn ngủ thì đi ngủ, không thì thôi. Bài viết Có Một Nghệ Thuật Ngủ của tôi được nhiều bạn bè chia sẻ. Nhà văn Hồ Anh Thái ở Hà Nội bảo đã photocopy ra khá nhiều để gởi cho bạn bè vì lúc này nhiều người mất ngủ quá! Trên thế giới thì thuốc ngủ vẫn là thứ thuốc bán nhiều nhất! Tuổi càng cao, càng cần ngủ, như pin điện thoại xài lâu, sạc phải càng lâu. Ăn thì rất đơn giản thôi. Có gì ăn nấy. Tôi thường tự chế biến thức ăn cho mình. Càng ngày tôi càng học tốt hơn hạnh “độc cư”, “kham nhẫn / tri túc”.

 

  1. Học với Y vương

Năm 1997, Đỗ Hồng Ngọc bị tai biến mạch máu não. Trong cái rủi có cái may, trong thất bại có mầm mống của thành công. Sau cơn bệnh thập tử nhất sinh này, Đỗ Hồng Ngọc đã “ngộ” ra nhiều điều. Ông đến với thiền, kết hợp phương pháp thở bụng của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện và nghiền ngẫm, “hành thâm” Bát Nhã Tâm Kinh. Rồi 5 năm sau là Kim Cang, 5 năm tiếp theo là Diệu Pháp Liên Hoa, hình thành mảng sách mới lạ, độc đáo, cuốn hút người đọc từ các vị cao tăng, Tăng Ni, Phật tử đến những người “mê” Đỗ Hồng Ngọc ở những tác phẩm: Nghĩ Từ Trái Tim, Gươm Báu Trao Tay, Thấp Thoáng Lời Kinh, Ngàn Cánh Sen Xanh Biếc, Cõi Phật Đâu Xa, Thoảng Hương Sen… mà ông đều ghi là: “Thấp thoáng lời kinh…”. Từ những “thấp thoáng” đó, ông “ngộ” ra lẽ huyền vi của “lấp lánh ánh vàng”. Những cuốn sách thuộc loại “thấp thoáng lời kinh” này thực sự là một “hiện tượng” mới lạ, sôi nổi và độc đáo trong sinh hoạt văn học nghệ thuật nước nhà và văn học Phật giáo trong nhiều năm qua. Tôi không cường điệu chút nào khi nghĩ và viết như vậy!

Tôi chợt nhớ lại, khi Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc lâm trọng bệnh có thể gọi là “thập tử nhứt sinh” (năm 1997) thì có người bạn dí vào tay ông cuốn Trái Tim Hiểu Biết dạng photocopy của NH. Đỗ Hồng Ngọc từ đó tìm hiểu, nghiên cứu sâu thêm, nghiền ngẫm và thực hành Tâm Kinh Bát Nhã… Sau đó ông viết cuốn Nghĩ Từ Trái Tim để chia sẻ với mọi người với phong cách và cái nhìn của một bác sĩ, mang tính “khoa học thực nghiệm”. Ông ngại ngùng, đắn đo và cân nhắc dữ lắm, nhưng rồi ông cũng viết và gởi bản thảo nhờ Ni Sư Thích Nữ Trí Hải đọc và góp ý. Đêm hôm đó chùa bị cúp điện, Ni Sư Trí Hải nói phải đốt đèn, ráng đọc “chữ bác sĩ”. Sáng sớm hôm sau, Sư gởi lại bản thảo với lời khuyên: “Bác sĩ nên cho xuất bản cuốn sách này đi vì sẽ rất có lợi lạc cho nhiều người”. Nghĩ Từ Trái Tim xuất bản lần đầu năm 2003 đến nay đã tái bản 15 lần (2020)!

Đến đây thì chúng ta có thể “đồng tình” với tạp chí Văn Hóa Phật Giáo rằng: “Có một Đỗ Hồng Ngọc là người viết văn, làm thơ, có một Đỗ Hồng Ngọc là người viết về Phật học, có một Đỗ Hồng Ngọc là bác sĩ và cũng là nhà tư vấn tâm lý và sức khỏe cho tuổi mới lớn, doanh nhân, người già… được nhiều người quý mến”.

Phương châm, phong cách của Đỗ Hồng Ngọc khi viết là chân thành, tôn trọng, thấu cảm, thấu hiểu người khác, nhất là về những nỗi mất mát, để tạo nên năng lượng hóa giải sự khổ. Đỗ Hồng Ngọc tâm sự:

“Viết cho tuổi mới lớn, thì tôi… ở tuổi mới lớn, sống cùng tuổi đó, sống với tuổi đó, nghĩ như họ, nói như họ. Tôi viết như mình đang được trò chuyện với họ, như họ đang ngồi trước mặt tôi. Khi viết cho tuổi chớm già… thì tôi đang ở tuổi chớm già… Tóm lại, phải “thấu cảm” (empathy) nghĩa là phải “sống với”, cho thấu suốt nguồn cơn…”. Ông nghĩ rằng: “Y khoa là một khoa học nhưng cũng là một nghệ thuật. Tiếp cận với những cảnh đời, những con người, cũng là một nguồn cảm xúc để cầm lấy cây bút”.

Đỗ Hồng Ngọc được nhiều độc giả quý mến, chắn hẳn do cách viết của mình. Ông chỉ viết những gì mình thực sự trải nghiệm. Ông viết để chia sẻ kinh nghiệm chứ không phải từ sách vở mà ra. Khi viết, ông luôn nghĩ rằng như có độc giả đang ở trước mắt mình và đang trò chuyện với mình. Có lẽ kiểu viết như thế làm cho người đọc cảm nhận được người viết và độc giả có sự gần gũi, chia sẻ, trao đổi một cách chân thành, không kiểu cách, xa lạ. Đỗ Hồng Ngọc được mọi người hiểu, cảm, yêu, mến, vì ông trải lòng mình để chia sẻ cùng người đọc. Ông cho rằng chuyện viết lách là cái tình. “Ta cũng nòi tình, thương người đồng điệu…” (Chu Mạnh Trinh.)

Qua cơn mổ sọ não vì tai biến mạch máu, Đỗ Hồng Ngọc đến với Thiền học, Phật học để tiếp nối hơn 40 năm gắn bó với ngành y, để “dấn thân” hết mình theo tiếng gọi sâu thẳm của Y Vương:

“Cũng vậy. Khi tôi bị một vố bệnh nặng – tai biến mạch máu não, phải mổ cấp cứu – sau đó tôi đã tìm cách tự chữa trị cho mình. Tôi biết trường hợp này thuốc men chỉ là phụ, cái chính là thay đổi nếp sống, thay đổi nếp nghĩ, nếp nhìn. Tôi tìm đến Thiền học, Phật học là vì thế. Mình là bác sĩ, bất quá chữa được một phần cái “đau” còn cái “khổ” mình không chữa được. Có một bậc thầy, một y vương là Phật, sao không học nhỉ? Lại có một Bồ tát rất dễ thương tên là Dược Vương – thuốc vua – sao không học nhỉ? Vậy là tôi học. Rồi chia sẻ, bàn bạc, trao đổi lẫn nhau giữa bạn bè anh em, những người đồng bệnh tương lân.”

Quý hóa thay và đáng kính thay cái trí, cái tài và cái tâm của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc!

Trong nhiều năm ở những bước đầu tập tễnh học Phật tôi may mắn được Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc chỉ dẫn, khích lệ, đặc biệt là những bài học “thân giáo” mà tôi cảm nhận được. Nhờ đó mà tôi đã làm xong Tuyển tập Tôi Học Phật. Nội dung chính của Tuyển tập này gồm 4 cuốn “cốt lõi” trải dài trong 20 năm nghiền ngẫm, “lõm bõm học Phật” mới có được của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Đó là:

 

     1. Nghĩ Từ Trái Tim (Viết về Tâm Kinh Bát Nhã),

2. Gươm Báu Trao Tay (Viết về Kim Cang),

3. Ngàn Cánh Sen Xanh Biếc (Viết về Pháp Hoa),

4. Cõi Phật Đâu Xa (Viết về Duy Ma Cật).

Theo Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc thì cuốn Cõi Phật Đâu Xa rất “quan trọng” vì nói lên vai trò của Cư sĩ, nhất là trong thời đại hiện nay (với cái nhìn khá mới mẻ). Và, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc cũng nói thêm rằng hai cuốn Thấp Thoáng Lời Kinh và Thoảng Hương Sen… là những bài học tự rút ra cho bản thân mình, những giải thích, nhận định… để làm sáng tỏ thêm nội dung của 4 cuốn “cốt lõi” đã nêu trên.

Tuyển tập này được các anh chị trong nhóm “Phật học và Đời sống” chùa Xá Lợi chào đón và Hòa thượng Thích Đồng Bổn, Trụ trì chùa Xá Lợi gởi tặng Trang Nhà Quảng Đức. Và sau đó là Trang nhà Thư Viện Hoa Sen, Rộng Mở Tâm Hồn, Chùa Hương Sen v.v…

Trong Lời Ngỏ tuyển tập“Tôi Học Phật” Bác Sĩ Đỗ Hồng Ngọc viết:

“Vào tuổi 80, tôi nghĩ đã đến lúc “về thu xếp lại”, đã đến lúc “nhìn lại mình…” như người bạn nhạc sĩ họ Trịnh kia đã nói. Về thu xếp lại, bởi “chút nắng vàng giờ đây cũng vội”, vì rất nhanh thôi, các tế bào thân xác kia đã có vẻ rã rượi, ù lì, và cũng rất nhanh thôi các tế bào thần kinh nọ cũng mịt mờ, mỏi mệt, nhớ trước quên sau… Đầu năm 2019, tôi gom góp in cuốn Về Thu Xếp Lạinhư một cột mốc, một hẹn hò, rồi cuối năm tiếp tục gom góp in thêm cuốn Biết Ơn Mìnhnhư một nhắc nhở… Bên cạnh đó, cũng đã tạm một tệp bản thảo Đi Để Học, Ghi Chép Lang Thang… chủ yếu là một dịp để giúp “Nhìn lại mình”… Tôi cũng mong gom góp, tập hợp được một số bài viết, một số quyển sách nhỏ những lời biên chép bấy nay trong lúc lõm bõm học Phật, thấp thoáng lời kinh, làm thành một tệp để ngẫm ngợi khi cần. Muốn thì muốn vậy, nhưng lực bất tòng tâm rồi. Duyên may lại đến…

“… Cái học y khoa, tâm lý học, xã hội học cũng đã giúp tôi thấy rõ hơn vai trò thầy thuốc, tham vấn viên của bậc Y vương qua hình tượng các vị Bồ tát Thường Bất Khinh, Dược Vương, Diệu Âm, Quán Thế Âm… để không chỉ học hiểu lời kinh mà còn vận dụng vào nghề nghiệp cho sáng tỏ hơn…  Ở Duy-ma-cật, học Bất nhị. Kinh mở ra một cách tiếp cận mới, sinh động, cho dòng chảy mênh mang rộng khắp.

“Chắc chắn Phật không muốn chỉ có các đệ tử ngồi thiền định dưới gốc cây, tới giờ đi khất thực và đợi ngày nhập Niết bàn. Phật cần có những vị Bồ-tát đem đạo vào đời, tự giác giác tha. Thế nhưng, các Bồ-tát đầu tròn áo vuông cũng khó mà “thõng tay vào chợ” giữa thời đại bát nháo này. Vì thế mà cần Duy-ma-cật. Một thế hệ cư sĩ tại gia, nhằm thực hiện lý tưởng của Phổ Hiền Bô-tát…!

“Rồi từ những điều học hỏi, nghiền ngẫm, thể nghiệm… bấy nay mà tôi mạnh dạn sẻ chia với “Thấp Thoáng Lời Kinh”,  “Thoảng Hương Sen”, “Thiền Và Sức Khỏe”, “Nếp Sống An Lạc”… như một ứng dụng Phật pháp vào đời sống. Khi được hỏi “kinh nghiệm” về học Phật, tôi nghĩ trước hết, cần nắm được các thuật ngữ, sau đó là hiểu được các ẩn dụ, ẩn nghĩa, hàm chứa trong lời Kinh và quan trọng nhất là thực hành, ứng dụng vào đời sống, ở đây và bây giờ…

“Những năm sau này, tôi có dịp cùng học với nhóm bạn tại Chùa Phật học Xá Lợi về Lăng Nghiêm, Viên Giác, Lăng Già… Con đường học Phật thênh thang như cánh rừng kia mà ta mới tiếp cận vài hạt bụi rơi từ nắm lá Simsapa dạo nọ.

Xin được thưa thêm rằng Tuyển tập “Tôi Học Phật” gồm 4 cuốn “cốt lõi” trải dài trong 20 năm nghiền ngẫm, “lõm bõm học Phật” mới có được của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Theo Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc thì cuốn Cõi Phật Đâu Xa rất “quan trọng” vì nói lên vai trò của Cư sĩ, nhất là trong thời đại hiện nay (với cài nhìn khá mới mẻ). Và, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc nói thêm rằng hai cuốn Thấp Thoáng Lời Kinh và Thoảng Hương Sen là những bài học tự rút ra cho bản thân mình, những giải thích, nhận định… để làm sáng tỏ thêm nội dung của 4 cuốn “cốt lõi” đã nêu trên.

Với tấm lòng khao khát học hỏi và trí thông minh sẵn có, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đã tiếp nhận rất bén nhạy nhanh chóng giáo lý vi diệu Phật Đà. Cũng có thể những tri kiến này được tích lũy từ nhiều kiếp trước, đã tiềm ẩn đâu đó trong Tạng Thức của ông nên những kinh sách ông học đã thấu đáo nghĩa lý. Kiến thức Phật Học của ông được nhiều bậc Tôn Đức, thức giả khen ngợi.

Khi Thầy Tuệ Sỹ tặng sách HUYỀN THOẠI DUY-MA-CẬT cho Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, Thầy đã ghi ở đầu sách, như một lời xác nhận cái trí tuệ đó:

“Quý tặng Duy Ma Cư Sĩ Đỗ Hồng Ngọc.”

 

Tôi vui mừng và hãnh diện về điều này.

Như vầy tôi nghe; thưa Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc!

 

Nguyễn Hiền-Đức

Santa Ana, tháng 3.2021

Sửa chữa, bổ sung tháng 7, tháng 9 – 2021

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Filed Under: Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

ĐỌC ĐỖ HỒNG NGỌC: TÔI HỌC PHẬT, PHIÊN BẢN 2

03/09/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

ĐỌC ĐỖ HỒNG NGỌC:
TÔI HỌC PHẬT, PHIÊN BẢN 2

Nguyên Giác

z bia sach Toi Hoc Phat phien ban 2_Do Hong Ngoc

Có những người làm gì cũng hay, viết gì cũng hay. Tôi luôn luôn kinh ngạc về những người như vậy. Họ như dường lúc nào cũng chỉ ra một thế giới rất mới, mà người đời thường như tôi có ngó hoài cũng không dễ thấy ra. Đỗ Hồng Ngọc là một người như thế.

Đỗ Hồng Ngọc là một bác sĩ; dĩ nhiên ai cũng biết, bởi vì anh nổi tiếng hơn rất nhiều bác sĩ khác, và được báo chí phỏng vấn thường xuyên. Nhưng anh cũng nổi tiếng làm thơ hay từ thời sinh viên. Thơ của anh nhiều đề tài, có cả thơ Vu Lan, thơ tặng mẹ, thơ tình, thơ tặng em bé sơ sinh, thơ tặng bà bầu, và đủ thứ. Trong khi tôi đọc, thưởng thức, và thán phục các vần thơ tuyệt vời của anh, nhưng tận cùng thích nhất vẫn là đọc Đỗ Hồng Ngọc viết về Kinh Phật. Chính nơi lĩnh vực này, họ Đỗ viết gì cũng hay, viết ngắn cũng hay, viết dài cũng hay, viết về Thiền thở cũng hay, viết về ngũ uẩn giai không của Tâm Kinh cũng hay, viết về ưng vô sở trụ của Kinh Kim Cang cũng hay, viết về Kinh Pháp Hoa cũng hay, viết về Kinh Duy Ma Cật cũng hay. Và tôi tin, nhiều thế hệ sau sẽ nhớ tới một Đỗ Hồng Ngọc viết về lĩnh vực này, đó là những gì anh đã đọc, đã hiểu, đã sống và đã ghi xuống các trang giấy trọn một pháp giới học Phật của anh.

Nhiều thế hệ tương lai sẽ không nhớ tới một bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, và cũng chẳng thắc mắc chuyên ngành của anh có phải tai mũi họng hay nhi khoa, hay nội khoa. Cũng như chúng ta bây giờ chỉ mơ hồ hình dung về một bác sĩ Lê Đình Thám, nhưng dễ dàng nhớ về một cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám đã dịch Kinh Lăng Nghiêm, Đại Thừa Khởi Tín Luận, vân vân… và cũng là người đã sáng lập Gia Đình Phật Hóa Phổ, tiền thân của Gia Đình Phật Tử. Vâng, đời sau hẳn là sẽ nhớ tới Đỗ Hồng Ngọc với tuyển tập Tôi Học Phật, một tuyển tập đã gom chung nhiều tác phẩm đã in rời trước kia: Nghĩ Từ Trái Tim (về Tâm Kinh), Gươm Báu Trao Tay (về Kinh Kim Cang), Ngàn Cánh Sen Xanh Biếc (về Kinh Pháp Hoa), Cõi Phật Đâu Xa (về Kinh Duy Ma Cật), Thấp Thoáng Lời Kinh,  Thoảng Hương Sen, Thiền Tập…

Làm thế nào Đỗ Hồng Ngọc viết hay như thế? Phước đức, học lực của một đời hẳn là không đủ. Hằn phải là nhiều đời. Tôi suy nghĩ về câu hỏi đó, khi đọc “Tôi Học Phật – phiên bản 2” của Đỗ Hồng Ngọc. Phiên bản 2, bản PDF dày 780 trang, là ấn bản họ Đỗ biên tập lại nhân dịp nằm nhà khi cả nước rơi vào mùa dịch, như lời anh giải thích khi qua email ngày 7/8/2021 khi gửi bản PDF để chia sẻ giữa những người học Phật thân cận:

“Cả gần 3 tháng nay nằm nhà. Tình hình Covi ở Saigon căng thẳng lắm như Hải đã biết. Trong suốt thời gian này, mình chỉ làm một việc là “biên tập” lại toàn bộ cuốn Tôi Học Phật, chủ yếu là một cách ôn tập cho bản thân. Nay tương đồi hoàn chỉnh bản thảo này, mình in ra một ít để kỷ niệm. Bìa do mình tự “dàn dựng”, cảm hứng từ Đặc san Liễu Quán (Huế), mang tính “lõm bõm” “lãng mạn” của mình…”

Cũng nên ghi nhận rằng, chưa phiên bản nào phát hành rộng rãi (trừ, in ra một ít để kỷ niệm, như tác giả cho biết), vì bản PDF của “Tôi Học Phật – Phiên bản I” (1) lưu hành trên mạng từ đầu năm 2020, cũng là lúc trùng hợp với khởi đầu đại dịch coronavirus toàn cầu. Lúc đó, nhiều nước trên thế giới chới với vì dịch, kể cả tại Hoa Kỳ; riêng Việt Nam lúc đó bình yên, ngăn chận kịp thời. Nhưng tới mùa hè năm 2021, đại dịch tràn ngập nhiều tỉnh, thành Việt Nam. Thê thảm là ngay ở thành phố Sài Gòn, nơi ngụ cư của tác giả Đỗ Hồng Ngọc. Đó là lý do nhà văn, và là bác sĩ họ Đỗ, mới biên tập lại, bổ túc thêm, để soạn thành “Tôi Học Phật – Phiên Bản 2.”

Đỗ Hồng Ngọc giải thích về cơ duyên học Phật sau 6 thập niên loanh quanh, trích: “Khi là sinh viên ở Saigon, tôi cũng đọc Bát Nhã, đọc Suzuki, Krishnamurti…nhưng đọc chỉ để mà đọc. Đến năm tuổi gần 60, sau một cơn bệnh thập tử nhất sinh, tôi thấy mọi sự khác hẳn đi. Tôi đọc Tâm Kinh thấy không khó nữa. Như vỡ ra. Và với Tâm Kinh, tôi thấy chỉ cần học một chữ thôi. Chữ không. Từ đó mà vô trụ, vô trí, vô đắc…” (Tôi Học Phật II, bản PDF, trang 15)

Đó là cơ duyên lớn của tác giả họ Đỗ. Vì có những người tụng Tâm Kinh cả đời, nhưng không hiểu được. Cũng như có người đọc chú giải Tâm Kinh từ nhiều thầy, nhưng lại không vào được. Có người sau nhiều năm không hiểu, lại ngờ vực Tâm Kinh. Rồi có những người chọn thái độ kính nhi viễn chi, dặn nhau là nên tìm những gì cho đơn giản, thích nghi với đời sống hơn, nói sai lầm rằng Tâm Kinh chỉ là kinh để tụng trong chùa. Hiển nhiên là trăm ngã rẽ. Hẳn là tùy cơ duyên.

Nếu chúng ta nhìn về không khí học Phật nơi thế giới Tây phương, cụ thể là tại Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Úc châu… Chúng ta có thể thấy 2 khuynh hướng lớn. Thứ nhất, khuynh hướng thế tục hóa Phật Giáo, làm cho Phật Giáo trở thành một ứng dụng đời thường, biến Phật Pháp thành một pháp mindfulness đơn giản để thư giãn, để chữa bệnh, để làm một liệu pháp nơi góc bệnh viện, thậm chí để làm một pháp tỉnh thức bổ túc cho các tôn giáo khác. Thứ hai, khuynh hướng xuất thế gian, học Phật để bước đi trên đường giải thoát của Phật Giáo, nơi đây lại chia ra ba tông phái lớn: Nam Tông, Bắc Tông, Kim Cang Thừa (Phật Giáo Tây Tạng).

Tuyệt vời nơi Đỗ Hồng Ngọc là chúng sinh muốn nghe chuyện gì thì anh nói chuyện đó. Muốn nghe chuyện ứng dụng thế gian, họ Đỗ trở thành một bác sĩ phân tích về sức khỏe thân và tâm. Muốn nghe chuyện giải thoát, họ Đỗ liền trở thành một người kể lại các kinh nghiệm học Phật mà ai cũng có thể học theo và tự chứng ngộ được.

Thí dụ, Đỗ Hồng Ngọc, trong tư cách bác sĩ, đã viết về chữa bệnh trong Tôi Học Phật: “…đặc biệt là phương pháp “thở chánh niệm” – mà Phật đã dạy từ những bài học đầu tiên sau khi giác ngộ – tôi thấy có thể có hiệu quả trong phòng ngừa và điều trị một số bệnh thời đại, những bệnh dịch không lây, nhưng rất nguy hiểm, gây khổ đau, tàn phế cho nhiều người mà Tổ chức Sức khỏe Thế giới (WHO) đã luôn cảnh báo trong những năm gần đây, làm giảm chất lượng cuộc sống của con người, chủ yếu do lối sống và môi trường sống đầy căng thẳng, bất an...” (THP 2, trang 30)

Như thế rất thực dụng, bất kỳ tín đồ tôn giáo nào cũng có thể áp dụng được. Phương pháp thiền tỉnh thức dùng trong các trường học, và trong các bệnh viện tại Hoa Kỳ hiện nay cũng dựa nhiều vào pháp thở chánh niệm. Khi Phật Pháp ứng dụng để dùng trong trường học và bệnh viện, tất cả yếu tố tín ngưỡng và tôn giáo đều phải gỡ bỏ.

Nơi mặt ngược lại, khi nói về giải thoát luận, Đỗ Hồng Ngọc đã chỉ ra những cách nhìn để xúc chạm sâu thẳm tới các pháp ấn: vô ngã, vô thường, khổ, không. Chúng ta có thể nhớ rằng, chư tổ ngày xưa lấy cỗ xe ra để giải thích lý vô ngã, để nói rằng không hề có cái gì gọi là xe nào trong cỗ xe, gọng xe, bánh xe… Và rất hiện đại hóa, Đỗ Hồng Ngọc lấy cái đồng hồ ra để giải thích về lý vô ngã:

“Bị bó rọ, bị thành kiến che khuất, lấp chặt, dần dần ta bị lệ thuộc, bị níu kéo, ta giữ lề, cho “xứng với ta”, với vai ta đóng và bản ngã ta sẽ ngày càng to, càng dầy ra, chính là nguồn gốc của khổ đau. Cái gì có “ta” trong đó thì tạo ra khổ đau. nhà ta, của ta, con ta, người yêu ta và thân ta… Mà cái ta đó, theo cái nhìn Bát nhã Tâm Kinh chỉ là sự kết hợp của những thành tố do duyên mà tụ lại, tương tác, tương sinh, tương hợp, cái này có là do cái kia có, quấn quýt chằng chịt lẫn nhau – như những thành tố tạo nên cái đồng hồ gồm kim, bánh xe, con lắc… và sinh ra tiếng “tích tắc”. “Tích tắc” vốn không có, thực không có, do kết hợp các thành tố riêng lẻ mà có. gỡ bỏ các thành tố ra để tìm lấy tiếng tích tắc (cái ngã) sẽ không thấy đâu nữa! Ráp lại thì có. Cái tiếng tích tắc, không mà có, có mà không, trống rỗng mà tràn đầy là sự vận hành tuyệt diệu của cái đồng hồ. “Chân không” cũng chính là “diệu hữu”. dừng lại ở “không” đơn thuần, như một xóa bỏ, từ chối, hư vô chủ nghĩa là một sai lầm tai hại.” (THP 2, trang 70-71)

Có thể tin rằng, những gì tác giả Đỗ Hồng Ngọc viết về học Phật sẽ lưu giữ rất lâu trong nền văn học Phật Giáo quê nhà, vì toàn văn tuy rời rạc, nhiều chủ đề, nhưng vẫn xuyên suốt là một tập luận thư để chú giải Kinh Phật. Điều rất khác giữa Đỗ Hồng Ngọc và nhiều vị tiền bối là từ chỗ rất lơ mơ trong 6 thập niên, chứ không phải vào chùa học Phật từ thời thơ ấu, cho nên văn phong của anh là một pháp giới xen lẫn của một nhà văn, một nhà thơ, và là một nhà khoa học. Đây cũng là chỗ độc đáo không chỉ của anh, mà là của rất nhiều người từ một thế hệ học Phật cùng thời. Nghĩa là, Sài Gòn đã là biển lớn, là nơi hội ngộ của những dòng sông tư tưởng. Từ các dòng nước mát này, một (và rồi nhiều) thế hệ đã tắm gội, đã uống, đã học và rồi lại cầm bút để làm cho các dòng sông tư tưởng ngày càng chảy lan ra khắp quê nhà.

Nơi đó, để Phật hóa cõi nhân gian, một thế hệ học Phật đã từ nhiều cõi nước hẹn nhau bước tới Việt Nam, để học, để tu, để dịch, để dạy và để viết — trong đó có Cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám, Thầy Minh Châu, Thầy Nhất Hạnh, Thầy Thanh Từ, Thầy Tuệ Sỹ, Giáo sư Lê Mạnh Thát, Ni Trưởng Trí Hải, Ni Trưởng Hải Triều Âm… Và nơi mặt khác, để thi hóa cõi trần gian đầy đau đớn này, để chỉ ra Khổ Đế nhằm làm tiền đề cho Đạo Đế hiển lộ, một thế hệ các văn nghệ sĩ đã hẹn nhau tới Việt Nam để sống và để viết lên những cõi thơ dị thường, trong đó có Bùi Giáng, Phạm Thiên Thư, Đỗ Hồng Ngọc, Thích Tánh Tuệ, Nguyễn Lương Vỵ…

Nói theo Phật Giáo Tây Tạng, họ là những bậc tái sinh. Dĩ nhiên, tác giả Đỗ Hồng Ngọc không đồng ý về nhận xét này. Vì họ Đỗ sẽ dẫn ra ngay rằng anh không hề thấy có cái gì gọi là “cái ta, cái của ta” trong thân ngũ uẩn, thì hà huống gì lại nói rằng có một chàng họ Đỗ hẹn tới Việt Nam để làm thơ, để viết văn, để chú giải Kinh Phật:

“Trong cái tánh “Không” đó, tất cả là Vô, hay nói khác đi, tất cả là không có! Không có hình thể, sắc tướng; không có cảm thọ – không có tưởng, hành, thức gì cả. Tóm lại, là vô ngã. Không có cái ta thực mà chỉ có cái ta giả tạm, bọt bèo, cái ta đang ăn uống, nói năng, huênh hoang, tự mãn, tự ti, tham lam, sân si, mê đắm… đủ thứ, đủ kiểu. Cái ta giả này làm khổ cái ta thật. Cái ta giả làm Tôn ngộ Không bị kim cô siết đau muốn chết, còn cái ta thật thì Tôn ngộ Không đã bay bổng biến ra vô số những Tôn ngộ Không khác rồi! Mà đã vô sắc (cái thân xác) thì đương nhiên sẽ vô nhãn (mắt), vô nhĩ (tai), tỷ (mũi), thiệt (lưỡi), thân (xúc giác), ý (suy tưởng). Toàn thân đã không có lẽ nào có từng thành phần?” (THP 2, trang 92)

Người xưa có nói, uống nước ấm lạnh chỉ tự biết, không nói ra được cho người khác hiểu được. Tương tự, cũng là các cảm xúc khi đọc Đỗ Hồng Ngọc. Đặc biệt, giới trẻ kém tiếng Việt có thể đọc phần tiếng Anh — “Handing Down The Precious Sword / Gươm Báu Trao Tay” —  do dịch giả Diệu Hạnh Giao Trinh dịch từ nguyên tác Gươm Báu Trao Tay của Đỗ Hồng Ngọc.

Cuối cùng, xin trích dẫn vài dòng cuối một bài thơ của Đỗ Hồng Ngọc, mà tác giả khiêm tốn gọi là “bài vè” để ghi nhận về pháp Thiền hơi thở, trích:

“…Hơi thở xẹp xì
Thân tâm an tịnh
Không còn ý tưởng
Chẳng có thời gian
Hạt bụi lang thang
Dính vào hơi thở
Duyên sinh vô ngã
Ngũ uẩn giai không
Từ đó thong dong
Thõng tay vào chợ
.” (THP 2, trang 228)

Độc giả muốn đọc đầy đủ bài “Vè cẩm nang Thiền” vừa dẫn có thể chờ cho sách “Tôi Học Phật – phiên bản 2” phát hành rộng rãi. Bài thơ hướng dẫn Thiền pháp này không có trong ấn bản “Tôi Học Phật – phiên bản 1.” (1)

Một điểm đặc biệt trong Tôi Học Phật của Đỗ Hồng Ngọc, và cũng hiếm thấy nơi các tác giả khác: bạn có thể ngưng ở bất kỳ trang nào, ở bất kỳ dòng chữ nào, để tự nghiệm những lời kinh được chú giải ngay trên thân và tâm của bạn. Bạn hãy đọc rất chậm và hãy nghiệm như thế, nơi từng hơi thở của bạn, nơi từng niệm và nơi từng cảm thọ của bạn. Những dòng chữ Đỗ Hông Ngọc viết xuống trong sách cũng là từ các thể nghiệm thực chứng của tác giả. Đó là những dòng trực giải Kinh Phật rất mực trang nghiêm, nơi đó từng dòng chữ đã trở thành những trận mưa hoa để cúng dường chư Phật. Nơi đó là hạnh phúc, là an lạc và là vô lượng công đức.

Nguyên Giác PHAN TẤN HẢI

02.09.2021

Nguồn: Thư Viện Hoa Sen

https://thuvienhoasen.org/a36490/doc-do-hong-ngoc-toi-hoc-phat-phien-ban-2

GHI CHÚ:

(1) Tôi Học Phật – phiên bản 1: https://thuvienhoasen.org/p46a33329/2/toi-hoc-phat

Filed Under: Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

Vài điều tâm đắc khi đọc TÔI HỌC PHẬT của Đỗ Hồng Ngọc

25/08/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc 2 Comments

 

Vài điều tâm đắc khi đọc Tôi học Phật của Đỗ Hồng Ngọc

Minh Lê

(Nha Trang)

Sau bài “Học Phật qua thơ Đỗ Hồng Ngọc”, Anh Ngọc thấy con nhỏ “có chí học hỏi” nên gởi tặng tập sách “Tôi học Phật” và dặn “em coi rồi có cảm nhận hay câu hỏi gì thì cho anh biết”. Trời, lúc đó tôi vừa mừng vừa… run, mừng vì được Anh Ngọc tặng sách, run vì chuyện Phật pháp mình chỉ võ vẽ chút rìa, sao hiểu được chuyện cao xa. Nhưng không thể phụ tấm lòng của Anh, tôi bèn… đẩy mắt kiếng lên, lọ mọ đọc, ngẫm và cảm nhận.

“Tôi học Phật” là tập hợp bốn cuốn sách giải thích kinh Phật và một “bộ sưu tập” những bài viết ngắn về Phật pháp. Để lĩnh hội hết ý nghĩa sâu xa của các bộ kinh thì hiển nhiên tôi không đủ sức, tôi sẽ làm “người mù sờ voi”, hiểu được chỗ nào nói chỗ đó, nếu có sai chắc Anh Ngọc sẽ thông cảm và không la đâu.

 

“Nghĩ từ trái tim” viết về Tâm Kinh Bát Nhã, đây là cuốn đầu tiên Anh Ngọc viết về kinh Phật. Tôi đã “thủ” cuốn này từ lâu trong tủ sách, khi nào lo, buồn, giận thì lấy ra lật một trang như… bói Kiều, rồi đọc. Nói đâu xa, mấy bữa trước xã tôi thông báo sẽ tới từng nhà test Covid-19, tôi nghe xong bắt đầu… lo. Trời ơi, lỡ mà test ra mình bị dương tính, thì sẽ “bị” test PCR. PCR cũng dương tính thì sẽ “bị” đi cách ly, nghe nói… đủ thứ chuyện không biết thật giả nhưng nghe xong sợ muốn chết. Chỉ trong mấy phút, trong đầu tôi, cuốn phim đã nhanh chóng “tua một vòng” từ chuyện ra test tới chuyện… ra nghĩa địa. Không được, mình phải bói… Tâm Kinh ngay lập tức. Lật ra, là trang có câu “viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh niết bàn”. Anh Ngọc viết: “Lòng mơ ước của cả kiếp người để tìm kiếm hạnh phúc với hết thành công này đến thành công khác, rồi khổ đau, rồi tuyệt vọng rồi hy vọng… và cứ xây đắp mãi, cao lên mãi, để rồi càng bám víu, càng lo âu, càng sợ hãi.” (tr. 106) Đúng quá chớ, nhưng mà làm sao cho đỡ lo, đỡ sợ?

Thì đây: “Chỉ cần chú ý vào hơi thở của mình thôi thì hình như thân ta cũng nhẹ nhàng vì cái duy nhất còn là cái hơi thở vào thở ra rất quan trọng mà ta vốn hay quên… Trên thực tế, nếu biết tập trung vào cái hơi thở đó thôi, ta vừa thở tốt hơn, hiệu quả hơn về mặt sinh lý mà còn làm quên đi những nỗi phiền muộn lo âu làm ta khổ đau, tức là được an vui cả về mặt tâm thần.” (tr. 50) Ủa, đơn giản vậy sao? Tôi làm liền, đầu tiên hơi thở còn ngắn, dồn dập nhưng từ từ hơi thở dài ra, sâu hơn. Đầu tôi cũng dần dần bình tĩnh lại, vì tôi chú ý tới hơi thở nên quên nghĩ tới chuyện khác. Anh Ngọc dặn tiếp: “Thở bụng, chú ý thở vào thở ra, bỏ mặc cảm xúc thì cảm xúc sẽ biến mất. Khi giận, khi sợ, khi cảm xúc mạnh lập tức tập trung vào hơi thở thì sẽ có lợi.” (tr. 52 – 53) Tôi thở được cỡ 15 phút thì bỗng nhận ra, trong suy nghĩ của mình trước đây, cái phần trăm có thể xảy ra rất ít, vậy mà mình cuống quít cứ như… nước đã tới chân rồi vậy. Vậy là tôi hổng thèm nghĩ tới nó nữa, hôm sau ra test, âm tính. May quá, nếu hôm đó tôi không bói Tâm Kinh, nghe lời Anh Ngọc thì tôi đã ăn không ngon ngủ không yên vì mấy cái “điên đảo mộng tưởng” của mình rồi. Té ra “niết bàn” cũng gần chớ đâu có xa như mình tưởng!

 

Cuốn thứ hai “Gươm báu trao tay” chú thích kinh Kim Cang Bát Nhã. Anh Ngọc nói ảnh “bỡ ngỡ, chưng hửng” khi đọc kinh này, nhưng tôi lại rất… hí hửng. Hí hửng vì qua lời phiên dịch của Anh Ngọc, tôi thấy bài học lần này dễ hiểu quá trời. Kinh kể “chuyện Phật tới giờ ăn, đói bụng, bèn mặc áo, ôm bình bát đi… khất thực… Đến khi khất thực thấy vừa đủ rồi ung dung trở lại “hội trường”, bày ra ăn, ăn xong, thu dọn y bát đâu đó đàng hoàng rồi rửa chân sạch sẽ, ngồi xếp bằng… thở, nghĩa là… nhập định!” (tr. 154) Thong thả, an nhiên, tự tại, chớ đâu như mình, đói vẫn chưa chịu ăn, đang ăn mà cứ nghĩ tới chuyện khác, ăn xong chưa kịp thở thì đầu óc đã chạy lung tung… Tôi vốn khoái ẩm thực nên nói tới chuyện… ăn là sẽ nói mê mải, lần này Phật dạy chuyện “ăn” nên đúng “tủ”. Rõ ràng mình ăn mà tâm chưa yên, nên mới ăn không ngon, mới đủ thứ bịnh. Dường như cũng nghĩ vậy nên trong Kinh, Ngài Tu Bồ Đề liền hỏi Phật “làm thế nào để hàng phục tâm?”

Phật thấy câu này quan trọng quá, nên chịu khó giải thích rất dài và chi tiết, như thầy giáo giảng bài hình học không gian cho một học trò mới vậy. Tôi vốn… dốt hình học không gian, nên nghe giảng thường như “vịt nghe sấm”, nhưng cuối cùng cũng thấy được một cái hình… tam giác ba chiều khi anh Ngọc cho cái đề tựa “đối cảnh vô tâm” (tr. 187) Cũng giống như khi nhìn vô một bài hình học không gian, bạn có thể “thấy” hoặc “không thấy”, không có khả năng thứ ba, tôi may mắn “thấy” chút gì đó qua đề tựa này. Tôi chợt nhớ tới mười bài thơ chăn trâu do Trần thị Lai Hồng phỏng dịch từ bản chữ Hán của Thiền Sư Phổ Minh (Trung Quốc) và bản tiếng Anh của Thiền Sư Kaku-An (Nhật) (“Mười tranh chăn trâu”, gio-o.com Tết 2009) Trong các bài thơ này, tâm được ví như con trâu, còn mình là người chăn trâu. Ai “chăn” cái con trâu – tâm này rồi thì biết, còn lâu mới “chăn trâu sướng lắm chứ”. Con trâu – tâm này nó cực kỳ ngang bướng, mình biểu đi đông thì nó chạy bên tây, mình kêu đi từ từ thôi thì nó lồng lên như con ngựa bất kham, tóm lại chăn trâu rất khổ! Cho nên tôi “diễn dịch” cái đề tựa của Anh Ngọc thành “cảnh còn, trâu mất”, không trâu thì hết… khổ!

Nhưng làm sao để con trâu… biến mất? Đầu tiên phải “thấy” nó, “lắng nghe” nó, “vỗ về” nó, kêu nó “thở” với mình:

“Túm chặt dây roi giắt bên người

ngại ngươi tuôn lấm bụi trần ai

vỗ về thân ái

nào dìu

nào dắt

hò rì hò tắt

ngươi thuần hòa theo sát chân ta.”  (bài số 5) (*)

Khi mình lắng nghe nó rồi, nó cùng mình “thở” rồi, thì nó sẽ dịu xuống, và mình có thể “cỡi lưng nó về nhà”. Về nhà mình dắt nó vô chuồng, cho nó ăn cỏ, còn mình:

“liệng dây

quăng roi

Ơ …ngươi đâu rồi?

Ờ …mà lòng ta lại thật thảnh thơi…” (bài số 7) (*)

Giờ thì con trâu thong thả ở trong chuồng, mà mình thì tung tăng ra đường:

“Ngực trần

chân không

bùn đất lội chợ đời

sảng khoái ngoác miệng cười

đâu cần thần tiên bí quyết

cành khô nẩy nụ tươi.”  (bài số 10) (*)

Bài số 10 là bài tôi thích nhứt, bởi nó minh họa hết sức sống động cho câu “đối cảnh vô tâm”. Thực ra, có tâm mà như vô tâm đó thôi!

 

Cuốn thứ ba trong Tôi học Phật là “Ngàn cánh sen xanh biếc” viết về Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Kinh này Phật chỉ “làm cách nào cho mau thành Phật” (tr. 349) Nghe hấp dẫn không? Kinh này vui lắm, vì một trong những nhân vật chính là Bồ tát Dược Vương, một vị Bồ tát  “ai thấy cũng vui, ai gặp cũng mừng”. (tr. 391) Và một trong những cách “mau thành Phật” là theo gương “chân thành” và “thấu cảm” của Bồ tát Dược Vương, hay Bồ tát Di Lặc, nói một cách khác là “tùy hỷ” (tr. 410) Anh Ngọc viết: “Hỷ là lòng vui, tùy hỷ là vui giùm người, vui theo người.” (tr. 414)

Hồi đọc cuốn Đắc nhân tâm – bí quyết để thành công, tôi nhớ cách đầu tiên Dale Carnegie nói trong 6 cách gây thiện cảm là “quên mình và thương người”. Ông đưa ra nhiều dẫn chứng thực tế để minh chứng cho câu: “Nếu bạn sốt sắng thành thật quan tâm tới người khác thì chỉ trong hai tháng sẽ có nhiều bạn thân hơn là hai năm gắng công bắt người khác quan tâm tới bạn.” (tr. 89) Có lần tôi đi mua vải may màn cửa, người bán là một cô mặt buồn thiu. Thường hễ gặp người bán mặt buồn là tôi đi thẳng, lần này tôi thử thực hành điều Carnegie khuyên. Tôi nói loại vải tôi cần, khen tiệm của cô có nhiều loại vải và hỏi sao cô lại chọn ngành vải này mà không bán vải may mặc như người khác? Cô thấy tôi thực sự muốn biết nên kể lý do của cô ra, sau đó chúng tôi nói chuyện rất vui vẻ, mặt cô cũng tươi lên hẳn. Ra về tôi thấy lòng rất vui vì đã giúp cô bán hàng có những phút vui vẻ. Đây chính là “tùy hỷ” chăng? Có lẽ khác ở chỗ “hỷ” của Bồ tát Di Lặc và Bồ tát Dược Vương là “không vụ lợi”, còn “hỷ” của Carnegie khởi đầu từ cái tâm “có vụ lợi”, nhưng nếu làm nhiều, bỏ dần cái tâm “vụ lợi” thì chắc sẽ đi tới được cái “hỷ” của Bồ tát như Anh Ngọc viết.

 

Cuốn cuối cùng “Cõi Phật đâu xa” kể về Kinh Duy-ma-cật. Duy-ma-cật là vị cư sỹ tại gia, có hiểu biết và kinh nghiệm thực hành Phật pháp sâu sắc. Khi ông bị bịnh, Phật kêu các đại đệ tử như thầy Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Ca Diếp, A Nan Đà,… đi thăm ông nhưng không ai dám đi vì đã từng tiếp nhận bài học từ ông. Ngay cả Bồ tát Di Lặc và Bồ tát Trì Thế cũng “thua” luôn, cuối cùng Phật nhờ Bồ tát Văn Thù Sư Lợi nổi tiếng “đại trí” đi giùm. Mọi người bèn theo chân Bồ tát Văn Thù tới nhà ông Duy-ma-cật. Hai bậc đại trí đối đáp với nhau rất uyên thâm, sau đó Phật cũng nói chuyện với ông Duy-ma-cật. Tôi chỉ “sờ voi” được có một điểm: Duy-ma-cật nói ông thấy Phật từ trong chính mình (chánh quán). Anh Ngọc chú thêm: “Cho nên Phật dạy: hãy nương tựa chính mình!” (tr. 608) Tôi hiểu là đừng tìm kiếm đâu xa ở bên ngoài, cứ tập thở sâu, chăn “trâu” cho tốt, “tùy hỷ”, tin tưởng ở Phật tính trong mình và trong người, rồi sẽ thấy “cõi Phật đâu xa, cõi Phật trong ta” (tr. 730).

 

Phần cuối sách tập hợp nhiều bài viết rải rác của Anh Ngọc trong khi “Lõm bõm học Phật” từ những năm 2000 cho tới nay. Văn phong Anh Ngọc lúc nào cũng vậy, giản dị, dí dỏm, tinh tế và rất thơ. Nếu ví các cuốn sách chú giải Kinh như những bản trường ca dài, hùng tráng và… đôi khi khó hiểu, thì các bài viết này như những đoản khúc ngắn giúp người nghe hiểu được các điểm đặc sắc và quan trọng nhứt trong Kinh.

Tuyển tập Tôi học Phật làm tôi thêm tin tưởng rằng Phật muốn trao truyền một triết lý sống hơn là một tôn giáo. Đâu có người sáng lập tôn giáo nào lại khẳng định “mỗi người các bạn đều sẽ thành ta”, hay dám hứa “bạn sẽ có cuộc sống an lạc ngay bây giờ và ở đây”? Nhưng Phật thì rất tha thiết mong mọi người đều thành Phật càng sớm càng tốt, để thế gian này không còn đau khổ nữa. Lời Phật dạy được ghi lại bằng tiếng Phạn, nhưng truyền bá ở Việt Nam đa phần qua chữ Hán, lúc giảng Phật cũng phải “tùy nghi” cho hợp với suy nghĩ thời xưa, nên có nhiều từ và cách nói khó hiểu với người thời nay. May mắn có người “học Phật” dễ thương như Anh Đỗ Hồng Ngọc, chịu khó giải thích lời Kinh theo cách thời nay. Mong Anh Ngọc sẽ tiếp tục “thả thêm nhiều chiếc lá Simsapa” (ý từ “Một chút tâm tình” và bìa sách) như những viên sỏi trắng đánh dấu đường đi trong chuyện cổ tích, cho tôi theo dấu về nơi an lạc!

………………………………

(*) theo Trần thị Lai Hồng

 

ML (Suối Tiên, 8/2021)

 

Sách trích dẫn:

  1. Đỗ Hồng Ngọc, Tôi học Phật, phiên bản 2 (2021) do Nguyễn Hiền-Đức và Đỗ Hồng Ngọc tuyển chọn.
  2. Dale Carnegie, Đắc nhân tâm – bí quyết để thành công, Nguyễn Hiến Lê và Phương Hiếu dịch, NXB Văn Hóa 1993.

3.Trần thị Lai Hồng http://www.gio-o.com/Tet/TranThiLaiHongChanTrauTet2009.htm

MƯỜI TRANH CHĂN TRÂU Thập Mục Ngưu Đồ

 

 

 

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Lõm bõm học Phật, Nghĩ từ trái tim

Ngô Tiến Nhân: Đỗ Hồng Ngọc học PHẬT – như tôi thấy 

23/08/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Đỗ Hồng Ngọc học PHẬT – như tôi thấy 

Ngô Tiến Nhân

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc vừa gởi cho tôi “ hợp tuyển “ Tôi học Phật sau cơ may “ cấm túc-nhập thất “ 3 tháng trong Sài Gòn giãn cách để “còng lưng edit “ và thiết kế trang bìa với yêu cầu xem trước và… có nhận xét !

Trước hết tập sách có trang bìa được Hoạ sĩ Ngọc.(tôi rất thích các ký họa của Anh chỉ vài nét mà lột tả được chân dung thần thái nhân vật) thiết kế công phu và gởi gắm nhiều thông điệp, mang chất lãng mạn của một tâm hồn Thi sĩ Đỗ Nghê cũng như cách học “Lõm bõm” đặc thù của Anh .

Hai bàn tay nâng niu 3 chiếc lá như đơm một đóa hoa mà hương thơm của nó đưa ta về rừng Simsapa cận tọa Thầy nghe giảng . Tôi thấy 3 cuốn kinh mà Anh chọn trong rừng kinh điển ( Bát nhã Tâm kinh – Kinh Kim Cang – Kinh Pháp Hoa ) đủ tối giản mà vẫn kết thành viên kim cương toả sáng dẫn đường ta đi tới Giác ngộ . Còn hai bàn tay kia phải chăng là hai bàn tay Bất nhị Đạo – Đời của Bồ tát Duy Ma Cật ?

Tất cả được chiếu soi trong gam màu của Hoài niệm của trầm tư song sau nó vẫn lung linh ánh hoàng kim một thủa !

Đấy là “ nhàn đàm” về hình thức , còn nội dung còn cấu tứ ?

Vụ này không dễ đâu !

Tôi quen biết và trở nên thân thiết với Anh Ngọc khoảng 20 năm , thời gian không dài song vì gặp nhau thường xuyên lại có nhiều mối quan tâm chung cũng đồng điệu vài chuyện nên có cảm giác gần gũi… từ kiếp nào . Chúng tội gặp nhau hàng tuần tại Chùa Xá lợi trong Nhóm học Phật ( nơi Anh làm Trưởng tràng ), lại cùng sinh hoạt tại Salon Văn hoá Càphê Thứ bẩy gặp nhau có hẹn hoặc không hẹn trong các hội thảo tọa đàm hay triển lãm … cũng thật tình cờ (hay không ?) chúng tôi có nhiều bạn hay người quen chung đặc biệt trong lĩnh vực liên quan đến Phật pháp !

Dài dòng một chút để nói rằng tôi có chút duyên để phần nào hiểu Anh còn Anh hình như có tin tôi đôi phần nên hỏi ý .

Lúc đầu do nông nổi nên tôi hăng hái trình bày về cấu trúc tuyển tập, về tổ chức bản thảo, về tầm quan trọng của dẫn luận … quên rằng Anh là dân cầm bút lão luyện lại có hai trợ thủ chuyên nghiệp bên tây !

Rồi Anh “ kích động “ kiểu gì mà tôi bồng bột ngồi xuống rị mọ gõ phần Dẫn luận ! Cũng may còn chút tỉnh táo nên tôi ngồi đọc kỹ lại phần Dẫn nhập Anh viết .

Ơn giời ! Hú vía ! Suýt nữa thì mình làm một việc dại dột !

Dẫn nhập do chính Anh tác giả viết với sự am tường sâu sắc, cấu tứ chặt chẽ với sự cẩn trọng vốn có và bút pháp dung dị duyên dáng là hoàn hảo rồi , còn chỗ nào cho tôi nữa !

Có chăng tôi chỉ có thể viết về một góc nhìn hay một cách tiếp cận Phật pháp mà tôi thấy qua Tôi học Phật của Anh mà thôi .

Hãy xem cách “ lõm bõm “ học Phật của Anh :

Trước rừng thiên kinh vạn quyển Phật học Anh chọn cho mình chỗ đột phá : Tâm kinh . Đây là cốt tủy của Bộ kinh Bát nhã 600 quyển rút còn 260 từ rồi rút nữa còn 4 từ ( ngũ uẩn giai không ) rồi kết tinh trong một chữ Không. Đây cũng là liễu nghĩa của Trung quán luận, là hạt nhân của Phật học, ai ngộ nhập được sẽ mở lối vào Phật đạo thênh thang, sẽ đến vô trí vô đắc vô ngã … thật dũng mãnh mà cũng thật sảng khoái !

Nhưng không “ túc duyên “ thì dễ gì ngộ nhập !

Rồi Anh tấn công vào Kinh Kim Cang để nhận biết thực tướng – vô tướng , để giải phóng mình ra khỏi mọi hệ quy chiếu (ưng vô sở trụ), mọi mô thức tư duy, mọi hình thái của não trạng để tự do trực nhận chân lý !

Anh chọn Kinh Pháp Hoa với tinh thần “ khai thị chúng sinh – ngộ nhập trí kiến Phật “

Thế là tạm đủ để Anh xây dựng một nền tảng vững chắc cho việc đi hết con đường Phật học !

Rồi nữa Anh chọn kinh Duy Ma Cật để thống nhất Đạo – Đời  để xây cầu Bất nhị để thấy đời không chỉ khổ đau mà còn phúc lạc để thấy cõi Phật đâu xa …

Lõm bõm như Anh mình chạy e không kịp !

Khi công phá một công án Anh tiếp cận đa ngành có hệ thống. Anh vừa có tư duy khoa học phân tích mổ xẻ của một bác sĩ y khoa vừa mở con mắt trực giác của một thiền giả cộng thêm sự nhạy cảm của một thi sĩ Đỗ Nghê. Đừng quên Anh có sự mẫn cảm về sinh tử qua các bài thơ viết hồi 67 hay Mới hôm qua thôi ở Canada, có kinh nghiệm cận tử nghiệp và tái sinh sau cơn bạo bạnh cùng kinh nghiệm làm truyền thông với kiến thức tâm lý học và xã hội học. Anh tiếp cận một vấn đề bài bản cả về bản thể luận lẫn phương pháp luận, thấy cả Thể – Tuóng  đặc biệt là Dụng của nó Anh đào từ hai đầu theo cách nói của Harari tác giả Lược sử loài người .

Tôi vốn lười biếng học Phật, chỉ theo kiểu lãng đãng tưng tửng nên thích cách học lõm bõm của Anh. Tôi và Anh có nhiều sở thích khác biệt tỷ dụ như tôi thích rượu Anh lại mê chè, cay ngọt khác nhau nhưng hình như rượu chè cũng có thể đi cùng nhau được .

Lại nói về Thấp thoáng lời kinh. Theo tôi kinh kệ như là di tích khảo cổ nếu ta khéo bóc tách đi những lớp bụi của thời gian, của văn hoá, của lịch sử, của Huyền thoại thì những hạt còn lại như những chỉ dẫn vẫn dẫn chúng ta về núi Linh thứu, nắm lá khô vẫn chỉ đường cho ta về rừng Simsapa nghe liễu nghĩa Uyên nguyên của Thầy .

Đừng bám chắc lời kinh ( vì thế là phỉ báng ) cũng đừng xa rời ( vì thế là lời Ma vương ) mà phải nắm được liễu nghĩa cái có thể nằm giữa nằm sau và nhiều khi siêu việt khỏi ngôn từ .

Thế nên vẫn phải miên mật văn tư tu, miên mật giới định tuệ, không phải chỉ tọa thiền mà sống thiền, không phải tụng Tâm kinh mà phải sống Tâm kinh trong từng sát na để rồi Gate gate paragate parasamgate …

Có phải không Anh Đỗ Hồng Ngọc?

Ngô Tiến Nhân

(Saigon, 14.8.2021)

 

Được gửi từ iPad của tôi

…………………………………………………….

Đỗ Nghê học Phật

Ngô Tiến Nhân

Tác hữu trần sa hữu…

Nhiều người hỏi : Thi sĩ Đỗ Nghê (Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc) học Phật từ Thầy nào ( mà uyên thâm thế ?) và học từ bao giờ ?
Anh ú ớ vì… nói không được !
Anh muôn giữ giới nhưng nói thật thì vừa dài lại khiến người ta nghi hoặc nên  thường đánh trống lảng hoặc cười… trừ !
Nhưng khi không thể né mãi  Anh đành bộc bạch qua bài thơ “Bổn sư”.

Nhưng để biết Anh học Phật từ lúc nào e rằng phải viện ra đây hai bài thơ , bài Thư  cho bé sơ sinh, viết lúc chàng thi sĩ 25 tuổi là sinh viên y thực tập đỡ đẻ ở Bênh viện Từ Dũ và bài thơ Mới hôm qua thôi, viết khi đi thăm Trại dưỡng lão ở Canada khi “chàng” ở lứa tuổi … tri thiên mệnh!
Những câu hỏi nhân sinh, những băn khoăn kiếp người, những hoang mang thời loạn, những âu lo cô đơn lạc loài (mất ID ) … được Anh chia sẻ … bình đẳng với em bé sơ sinh. Rồi những chiêm nghiệm cuộc đời, nỗi niềm trắc ẩn trước những hình hài đã đi hết kiếp nhân sinh, chẳng phải những điều phải học Phật mới “ ngộ “ được sao ? Thế nên việc học Phật thực ra không có khởi đầu mà cũng chẳng có kết thúc bởi vì ta đã bẩm sinh cùng nó. Với tâm hồn mẫn cảm với “đa tình là tâm Phật” thi sĩ Đỗ Nghê không Đến với Phật pháp mà Về với nó như một lẽ đương nhiên.

Còn tại sao Đỗ Nghê phải dùng thơ để giãi bày tâm sự ư ?
Đơn giản vì ngôn từ “dẫn con người ta đi trong mê lầm suốt 3 kiếp”, ngay cả cái gọi là “chân ngôn” cũng phải hết sức cẩn trọng. Thi ca cho phép chúng ta vượt thoát khỏi khuôn khổ ngữ nghĩa có tính cách “quy định” của ngôn từ, có những ẩn nghĩa ẩn dụ nằm giữa nằm sau và quan trọng hơn là siêu vượt lên trên ngôn từ – đến một miền cảm thức mới .
Khi diễn đạt những suy tư phóng khoáng trong dòng cảm xúc tuôn chảy hình như Đỗ Nghê không muốn bị ràng buộc vào những khuôn khổ hình thức mà chọn kiểu Thơ văn xuôi (kiểu như Khalil Gibran viết Tiên trí và Thiên sứ), khi mạch tư duy dòng cảm xúc tự nó đã tạo nên tiết tấu và giai điệu của thơ .
Bổn sư vừa là câu trả lời Ai là thầy cũng là phương pháp và quan niệm học Phật của Anh. Anh thấy Phật là Như Lai!
Tất nhiên Anh học Như Lai!
Nhưng Như Lai lại không chỉ là Phật! Anh thấy Như Lai trong vạn Pháp! (vạn pháp tri Tôn mà!). Anh học Phật học các vị Tôn túc, các bậc thức giả, học bạn bè … tôi đồ rằng Anh học cả từ em bé sơ sinh, từ ông già bất động trên xe lăn từ bông hoa nở trên hàng rào từ tiếng chuông chiều … nếu tất cả giúp Anh tỉnh thức , cho Anh tăng trưởng yêu thương …
Và quan trọng hơn cả Anh học từ chính mình! Anh đánh thức Vị Phật đang ngủ trong mình để rồi hai Thầy Trò cận tọa bên nhau miên mật sớm chiều …
Như Lai còn dạy!
Ta còn học!
Phật đạo thênh thang!
Đường đời bất tận !

NTN

(Saigon, tháng 8.2021)

Filed Under: Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

LƯƠNG THƯ TRUNG: VÀI NHẬN ĐỊNH TIÊU BIỂU VỀ TÁC PHẨM CỦA ĐỖ HỒNG NGỌC

22/08/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

 

 VÀI NHẬN ĐỊNH TIÊU BIỂU VỀ CÁC TÁC PHẨM CỦA BÁC SĨ ĐỖ HỒNG NGỌC

Lương Thư Trung

 

Tranh Thân Trọng Minh

Với tập thơ “Tình Người” xuất bản năm 1967, đến tuyển tập “Tôi Học Phật” (Phiên bản 2, 2021), như vậy trong vòng 54 năm, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc có cả thảy 57 quyển sách đã xuất bản, đủ các thể loại, gồm: Thơ, Văn (Tùy bút), Y Học Thường Thức, và Phật học. Cùng với số lượng các tác phẩm nhiều như vậy, sau khi đọc sách của Đỗ Hồng Ngọc, có rất nhiều tác giả tên tuổi viết bài nhận định về các tác phẩm ấy của ông; tôi thiển nghĩ, không riêng gì tác giả của “Tình Người”, của “Thơ Đỗ Nghê”, của “Tôi Học Phật”, vân.vân…, mà bất cứ người làm sách nào có được nhiều người quan tâm như vậy chắc chắn không gì vui và hạnh phúc cho bằng!

Ở đây, trong giới hạn của việc đọc và hiểu về sách vở, với cái nhìn thô thiển của một người đọc nhà quê già như tôi, tôi xin mời bạn đọc thử lại vài bài nhận định tiêu biểu của vài tác giả viết về các tác phẩm của ông mà tôi vừa chắt mót được, để coi các tác giả ấy nói gì về văn thơ của Đỗ Hồng Ngọc.

Dà, những bài nhận định này trải dài từ năm 1972 đến năm 2021, có thể bạn đã hơn một lần nhìn thấy nó quen quen ở đâu đó rồi, và dĩ nhiên, có thể nó rất xưa, rất cũ nữa; nhưng không sao, xin bạn đừng lo, bởi văn chương nào hay và giá trị mà không qua cái ải gạn lọc của thời gian bao giờ?

Vậy nhe, xin mời bạn. 

(Hai Trầu LTT)

 

I/ NGUYỄN HIẾN LÊ 

Lời “TỰA” cuốn “NHỮNG TẬT BỆNH THÔNG THƯỜNG TRONG LỨA TUỔI HỌC TRÒ”(Do nhà La Ngà xuất bản, Lá Bối tổng phát hành, 1972)

“Tôi được quen Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc từ mười mấy năm trước. Hồi đó ông là một thanh niên ít nói, đa cảm, thành thực, giản dị, có nhiệt tâm và yêu văn nghệ. Khi còn học y khoa, ông đã có thơ, văn đăng báo và ông đã là một trong những sinh viên tranh đấu kiên nhẫn nhất để tiếng Việt được dùng làm chuyển ngữ ở Đại học. Ông nghĩ rằng một nhà trí thức Việt Nam, ngoài công việc chuyên môn ra, phải phổ biến những kiến thức của mình trong đại chúng thì mới có thể gọi là làm tròn nhiệm vụ trong giai đoạn này được. 

Tôi mến ông ở điểm đó và hôm nay tôi mừng rằng ông đã bắt đầu thực hiện được chí hướng. 

Tập này là tác phẩm đầu tay của ông. Ông dùng kinh nghiệm bản thân khi đi học và đi dạy (vì như một số sinh viên khác, ông phải tự túc), cùng những sở đắc trong ngành y để hướng dẫn các bạn học sinh trong việc gìn giữ sức khỏe, ngừa trước những bệnh thông thường và khi bệnh đã phát thì nên làm gì.Yêu nghề và có lương tâm, ông không mách thuốc bừa bãi như thỉnh thoảng chúng ta thấy trên một số báo, ông phản đối thái độ “vô trách nhiệm” đó. 

Tôi không biết gì về y khoa, nhưng tôi thấy nhiều điều ông khuyên trong chương I (bệnh cận thị…), chương VIII (bệnh nhức đầu), chương IX (bệnh bón)… rất có lương tri, giá được biết từ hồi thiếu niên thì có lợi cho tôi lắm. 

Một điểm đáng khen nữa là ông không có thành kiến, cái gì không biết thì nhận là không biết, lại có công tâm, như khi nhận xét về phương pháp dưỡng sinh của Ohsawa… 

Chương tôi thích nhất, và theo tôi, cũng ích lợi nhất, là chương cuối: “Đi khám bác sĩ”. Từ lâu tôi vẫn mong có ai chỉ dẫn cho tôi hiểu tâm lý, trọng trách cùng nhiệm vụ của y sĩ, bệnh nhân nên có thái độ ra sao, khi đi y sĩ, nên “hợp tác” với y sĩ cách nào để cho bệnh mau hết, nên dùng thuốc ra sao v.v… và bây giờ mới thấy Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc trình bày rành mạch sơ lược những kiến thức thông thường cần thiết cho mọi người đó. Tôi mong rằng sau này ông sẽ đào sâu vần đề mà viết thành một tập riêng. 

Văn ông lưu loát, sáng sủa, giọng ông thân mật, nhiều chỗ dí dỏm: 

“Trừ một số ít được uống nước sâm trong những ngày học thi (và thường thì thi rớt) còn phần lớn các em phải đi làm thêm một buổi để có chút đỉnh tiền” (chương 18) 

Có chỗ mỉa mai chua chát một cách nhẹ nhàng: 

“Vì nếu thi rớt, ở thời đại chúng ta không phải em chỉ bị ăn ớt (thi không ăn ớt thế mà cay- Tú Xương) mà có khi còn bị ăn đạn!” (chương 22) 

Có chỗ lại nên thơ: 

“Tới một tuổi nào đó, ta quan tâm rất nhiều đến thân thể mình. Ta lắng nghe thân thể mình phát triển như chú dế mèn lắng nghe tiếng cỏ mọc trong đêm khuya…” (chương 17) 

Một bác sĩ mà lại là một thi sĩ thì luôn luôn làm cho chúng ta ngạc nhiên một cách thú vị… 

Sài Gòn Tết Nhâm Tý (1972)

Nguyễn Hiến Lê.

 

II/ LỮ KIỀU-THÂN TRỌNG MINH 

VÀI DÒNG SAU MỘT TẬP THƠ 

Đọc xong một tập thơ, cảm tưởng hoàn toàn tùy thuộc phía người đọc – cho nên, viết thêm vài dòng về tập thơ là công việc thừa thải. Xác định điều đó, tôi tưởng như vậy có thể từ chối viết về anh – anh bạn Đỗ Nghê. 

Tôi muốn anh đến với người đọc thơ anh một mình.Nhưng hôm nay, tập thơ anh đã thực hiện xong, Anh muốn tôi viết vài dòng.Công việc quả thật khó khăn với tôi.Viết về thơ anh? Tại sao phải viết về thơ anh, khi những dòng thơ đã ào ào muôn ý nghĩa – Tự nó nói lên từng thao thức của anh, nằm trong thao thức chung của thế hệ chúng ta?

Phải, thơ anh đã là một sự đầy đủ không cần bổ sung, nhất là với tôi – mà sự thân tình giữa chúng ta đã làm tôi trở nên chủ quan thái quá. 

Nhưng còn viết về đời sống của anh trong những năm anh làm tập thơ này?Đây là ý kiến của một người bạn khác.Có lẽ, trong một ý nghĩa nào đó, tôi có thể viết về đời sống ấy, cho dù điều đó có chạm đến tính khiêm nhường của anh. 

Đời sống của anh? Ta phải bắt đầu từ lúc nào nhỉ? Có lẽ từ tuổi hai mươi, khi chúng ta theo đuổi ngành Y khoa. Đó là năm 1963, trong buổi chiều nhạt nhòa ánh sáng, ở khu cơ thể học viện, tôi nhìn thấy anh đang lúi húi bên một xác chết, tay cầm dao, giải phẩu từng thớ thịt, từng đường máu, từng sợi gân. Bấy giờ chúng ta đang học về con người trong nghĩa đen của nó, tôi thấy anh đeo kính cận thị – khuôn mặt hồn nhiên, hơi mộc mạc giữa đám bạn bè – có lẽ vì màu da ngâm đen, mái tóc hơi quăn, rồi tôi nghe giọng anh nói, giọng nói vùng Bình Tuy hơi lạ tai, nhưng êm ái, không lớn, không nhỏ. Tôi nhìn thấy anh cười – không quá vui, không quá lộ, tôi cũng nhìn thấy anh nhíu mày nhìn xác chết – cái nhíu mày không quá xót xa, đau đớn. Tóm lại anh mang hình ảnh của một chàng sinh viên hiền lành, trầm tĩnh, tiết độ. Ấn tượng về sau để lại trong tôi một định kiến đặc biệt, và xác định với tôi một tĩnh từ mà tôi muốn dành riêng cho anh: Một người nghiêm túc. 

Hơn mười năm qua, tôi đã không nhầm về anh. Một người nghiêm túc. Và điều quan trọng là anh làm thơ. Thơ anh cũng giống người anh vậy.

Hình như chúng ta chỉ bắt đầu thân nhau, khi cùng làm báo Tình Thương; những bài thơ anh ký Đỗ Nghê xuất hiện trên tờ báo của trường, những bài thơ, thoạt đầu không gây một chú ý nào quan trọng. Nhưng về sau, những số báo thiếu thơ anh, cho tôi cái cảm tưởng trống vắng điều gì đó. 

Điều gì?Phải chăng là nét đặc thù của thơ anh. Tôi phải diễn đạt thế nào cho đúng?

Đầu tiên, anh là người tha thiết với quê nhà – anh sống và làm quen với Sàigòn là một điều không tự nhiên. Tuy nhiên, Sàigòn đối với chúng ta là một thực tế phải chấp nhận, cho nên chúng ta phải hòa mình với bạn bè, trường học, bệnh viện – Hòa nhi bất đồng, phải thế không anh? 

Những bài thơ anh làm thời 59-60 về Phan Thiết, về Lagi, về Rạng – Những bài thơ anh làm ở lứa tuổi chưa đầy hai mươi mà ngôn ngữ thi ca đã già cỗi như thời tam thập nhi lập, đã chứng cho điều đó. Chính anh cũng xác nhận những bài thơ đầu tiên của anh là những bài Đường luật! 

Và chính trong thời sinh viên, mà những biến động lịch sử đã vây đời ta tứ phía. Anh dự vào cuộc đấu tranh bằng tinh thần ôn hòa, trí thức, và nhất là trầm tỉnh. Lúc con người nghệ sĩ của anh tỏ rạng. Những cuộc xuống đường, hội thảo, gậy gộc, lựu đạn cay của thời 1966. Anh nhớ không, bao giờ chúng ta cũng có mặt, chúng ta cũng đã từng chạy vào những ngỏ hẻm Phan Đình Phùng để thoát thân, nhưng với anh, không bao giờ có sự phẫn nộ quá đáng, anh đưa tôi xem “Tâm sự Lạc Long Quân”, “Niềm tin”, “Lời ru”, “Cổ tích về ngôn ngữ”… những đêm cùng nhau trực gác ở Bệnh viện Nhi đồng, trong những đêm rất khuya, trên lầu 3 nội trú. Anh là một nghệ sĩ chứ không phải tay xách động. Rõ ràng như vậy. Nhưng những bài thơ anh, quả thật đã kích thích bạn bè lúc bấy giờ, gây cho họ một bầu máu nóng sôi sục. Càng đọc, càng chua cay, càng đọc càng muốn bạo động. 

Thời trẻ rồi qua đi. Đã đến lúc chúng ta phải nghiêm trang đặt vấn đề với lịch sử. Bài “Điệp khúc” của anh ra đời. Đó là những câu hỏi thành thật, thẳng thắn mà anh đặt ra với những bậc đàn anh của chúng ta… Có lẽ sự thể đã khác đi, nhưng tôi nghĩ – một lần cho xong, đặt những câu hỏi như vậy là một thái độ can đảm – nằm trong sự nghiêm túc của anh. 

Năm 1969 – Chúng ta rời mái trường Y khoa. Anh về một bệnh viện ở Nha Trang. Tôi ra một bệnh viện ở Đảo, giữa những người tù. Chính thời gian quân ngũ đã dạy cho ta nhiều điều. Những điều mà suốt bảy năm miệt mài nơi trường học, bệnh viện, các bậc thầy không dạy ta.Thời gian này anh bị bạo bệnh. Cơn loét dạ dày đã làm anh vật vả, đem anh đến gần cái chết. 

Từ đảo về, tôi tìm đến thăm anh ở bệnh viện, người anh xanh như tàu lá – quả thật anh đã cận kề với cái chết của chính anh, như tôi đã kề cận với cái chết của những tù binh ngoài đảo. Hình như hôm ấy chúng ta không nói gì, anh không còn hơi sức để nói, nhưng anh đã mỉm cười. Một nụ cười nồng thắm làm lòng tôi se sắt. Tôi biết, kề bên cái chết lòng yêu đời phục sinh ta! 

Tôi không nhầm – những bài “Niềm tin chưa mất”, “Bông hồng cho tuổi thơ” đã xác nhận với tôi điều đó. Phải rồi, anh là kẻ yêu cuộc đời này, dù bất hòa với nó.

Anh Lê Văn Ngăn nói đúng, có lẽ viết về anh, một dạng thức viết về tôi – là một điều dễ dàng. Nhưng thật sự thì nó chẳng soi tỏ được gì. Có lẽ nó là một thứ phụ đề vào thời gian tính của tập thơ anh.

Vậy một lần nữa, tôi thật ân hận nếu những dòng trên chạm đến tính khiêm tốn của anh.  Có nó, hay không có nó, anh cũng đã làm thơ, đã in thơ, và đã có nhiều người đọc thơ anh.

Vậy, anh hãy đến với họ một mình. 

Lữ Kiều-Thân Trọng Minh 

 (Sài Gòn, 1973)

[Lời “BẠT” cho thi phẩm “THƠ ĐỖ NGHÊ”]  

 

III/ NGUYỄN LỆ UYÊN

ĐỖ HỒNG NGỌC, KHÓI TRỜI PHƯƠNG ĐÔNG

 

“Thầy thuốc là để cứu người.

Nhà văn là để cứu đời”

(Nglu)

Với hơn 30 tác phẩm đã xuất bản từ năm 1967 đến nay, gồm nhiều thể loại: Thơ, tuỳ bút, tạp văn, y học và cả Phật học… không biết nên xếp Đỗ Hồng Ngọc vào hàng ghế nào cho thật chuẩn. Nhà thơ, thầy thuốc,  nhà nghiên cứu, nhà văn? Đối với ông, vị trí nào cũng chính xác. Bởi những gì ông viết, đã xuất bản và đến tay độc giả đều tròn đầy, khiến họ thích thú đến bất ngờ, vì ngoài cốt cách văn chương, những suy nghĩ của ông về các vấn đề xã hội, đời sống, không xa vời; nó gần gũi, quanh quẩn, ẩn núp đâu đó quanh ta mà ta chưa thể nhìn thấy; chỉ đợi khi ông viết lên, đọc lại, ta mới thấu lẽ, à lên một tiếng, vài ba tiếng, tùy theo tâm trạng mỗi người kèm với không gian, thời gian của người đọc: nó có đấy mà sao ta không thể nhìn thấy, ta không hề nghĩ ra được nhỉ? Những điều bình thường cũ rích, trong đời sống, qua ngòi bút của ông hoá ra quá đỗi mới lạ; nói theo ngôn ngữ Đỗ Hồng Ngọc là ngòi bút ông đã hoá giải, đã khải thị giúp ta từ những cách nhìn, nghĩ một cách hạn hẹp, quanh co cạnh ta thành rộng ra để ta “như thị”? 

Từ những bài tuỳ bút cho đến thơ, ông không hề đùa cợt với chữ nghĩa, thổi phồng mọi sự vật… để nhắn gửi cho mọi người, cho mai sau. Ông cẩn thận quan sát những hiện tượng quanh mình, trong chính cuộc đời mình y như người thầy thuốc chẩn đoán căn bệnh cho bệnh nhân. Mà đúng vậy, ngay trong quyển Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò (NTBTTTLTHT), La Ngà xuất bản năm 1972, ông đã giải mã những băn khoăn thắc mắc của lứa tuổi dậy thì, nào là phòng ngừa cận, viễn, loạn thị, trĩ, táo bón, đái dầm… bệnh biếng học cho tới những vấn đề tâm sinh lý thầm kín khó chia sẻ với cha mẹ… như thể tất cả những thứ tật bệnh ấy ông đã từng nếm trải, rồi tập hợp lại thành một kinh nghiệm sống cho các cô cậu ở tuổi học trò? Đã đành ông là bác sĩ nhi khoa, nhưng ngôn ngữ diễn đạt không phải là ngôn ngữ của một ông thầy thuốc khám bệnh, kê đơn mà là ngôn ngữ của một chàng nghệ sĩ vừa bóc tách sự thật trần trụi vừa xoa dịu nó bằng một thủ thuật của tiếng gió luồn lách trong những bụi tre buổi xế trưa. Hãy nghe ông viết về bệnh biếng học và cách điều trị: “… nếu có một ngày nào đó, em bổng nhiên thấy mình làm biếng kinh khủng, không còn muốn ngó ngàng gì đến sách vở, thì em hãy nghĩ ngay đến điều này: phải chăng em chán ngán sách vở, bài học vì đã “ứ” đến tận cổ? Vì trí óc em đã “saturé” không còn có thể nhồi nhét gì thêm… Tình trạng biếng học “cấp tính” này sẽ qua rất mau, với một thứ thuốc rất hiệu nghiệm – không phải là cà phê, trà lipton đâu nhé – mà là vứt sách vở đi, rong chơi ngoài đường một buổi chiều, câu cá cũng được, đá banh càng tốt… Sau đó ngủ một giấc cho đầy.Tỉnh dậy bảo đảm sẽ “ghiền” học trở lại”.(NTBTTTLTHT, trg 213-214, La Ngà, SG 1972).

Cũng trong tập này, ở chương 17, nói về Chiều cao, cân nặng, ông mở đầu còn hơn cả một đoạn thơ xuôi: “Tới một tuổi nào đó, ta quan tâm rất nhiều đến thân thể mình. Ta lắng nghe cơ thể mình phát triển như chú dế mèn lắng nghe tiếng cỏ mọc trong đêm khuya” (Sđd, trg 142). Điều này khiến người đọc không cảm thấy chán ngán, trái lại, tạo sự tò mò, dù tiếp sau đó là những con số thống kê, biểu đồ, toán học! Có đến 8 đầu sách ông viết cho tuổi mới lớn, mà quyển nào cũng bổ ích, cũng thiết thực trong đời sống của “lũ trẻ”. 

Tôi đã nhận những quyển sách ông tặng về đề tài này và đọc. Đọc một mạch, đọc với bao điều thích thú và sau đó “té ngửa” ra rằng mình hồi nhỏ cũng có lắm điều sai phạm với chính cơ thể mình! Hèn chi ngay cả học giả Nguyễn Hiến Lê, trong một bài tựa cho quyển NTBTTTLTHT của Đỗ Hồng Ngọc, đã viết: “Một bác sĩ mà lại là một thi sĩ thì luôn luôn làm cho chúng ta ngạc nhiên một cách thú vị”.

Với những người bạn nhỏ, ông đã chăm chút như thể chúng là người ruột thịt, còn với người lớn thì sao? Ông cũng sẻ chia, đưa ra một vài nhận xét nho nhỏ nhưng lại chính xác đến từng li mét. Lướt qua những tập Già  ơi… Chào bạn, Thư gửi người bận rộn hay Gió heo may đã về… người đọc sẽ thấy được tấm lòng chân thật của ông. Những điều ông viết ra, có thể đúng với người này, hơi đúng đúng với người kia và hơi sai sai với người nọ, vì cảnh sống có khác nhau, ý thích khác nhau, suy nghĩ không mấy giống nhau, nhưng tựu trung vẫn là những gì ta có thể nhìn thấy một chút hình bóng của chính mình ẩn hiện đâu đó trong từng câu, từng đoạn. Ngay từ lời ngỏ trong quyển Gió  heo may đã về (nxb Văn Nghệ Tp HCM, SG 1997), ông đã có lời thưa trước: “Vậy, hỡi những người bạn yêu quý của tôi, xin hãy vui với những dòng chữ chân tình này, và nếu có bực mình thì cứ tự nhủ làm gì có, hù doạ đó thôi… còn nếu có bắt gặp hình ảnh chính mình trong những dòng chữ này thì cũng hãy mỉm cười mà thứ lỗi… Vì sáng hôm nay, một chút gió heo may đã về, những chiếc lá vàng đã rơi lác đác trên những con đường thành phố, một mùi gió bấc quen thuộc đã len vào giữa những hàng cây…” (Sđd, trg 7). 

Ông viết những gì trong đó đến nỗi khiến ta phải “bực mình” hay “mỉm cười” khi mở từng trang sách? Thưa ngay, ông viết đủ điều, đủ loại, từ tâm lý, tình cảm đến vật chất, sinh lý.v.v. nghĩa là những “thứ” nó bắt đầu bám vào cái tuổi không còn “hườm hườm” mà đang trong thời kỳ “gió heo may đã về”, tức thị một phần tư chân ở bên mép “bất hoặc”, còn lại là những dấu hiệu sắp gặp gỡ, chung sống trong “thế giói đại đồng” dưới 3 thước đất! Cái thế giới ấy, nhìn chung rất hiếm người muốn gặp, dẫu là “đại đồng”, nhưng đọc để biết trước vẫn là điều hăm hở, thu hút; cũng chẳng phải vì tò mò mà, hơn hết là để biết đó có phải là sự thật hiển nhiên không. Tuổi “heo may” ấy, khốn nỗi không ai có thể cưỡng chống được. Phải chấp nhận như một qui luật tất yếu. Chúng ta hãy đọc thử một đoạn ngắn, khi ông cảm nhận một cách nhẩn nha mà thấu lý ở tuổi già cận kề: “Tuổi chớm già, ấy là tuổi của chuyển tiếp, của lúng túng, hoang mang, tuổi của những stress, của những lo âu và phiền muộn, của những mối hiểm nguy rình rập về sức khoẻ, về quan hệ gia đình, xã hội… dồng thời tuổi chớm già cũng là tuổi của thành tựu, của thành đạt… Cái người ta dễ thấy nhất là những thay đổi sinh lý: hết khả năng sinh sản, giảm đời sống tình dục. Rồi luyến tiếc dĩ vãng, nhớ cái thuở trẻ trung, cái thời nhan sắc. Một nỗi buồn man mác chợt đến dù không nói ra, dù gắng gượng quên đi…” (Sđd, trg 18).

Bạn không đồng ý với cách nhìn nhận về tuổi chớm già của Đỗ Hồng Ngọc ư? Sai sót chăng?Khiên cưỡng chăng?Trái lại và trừ phi các bậc thiền sư chân chính mới có phản biện, nhưng chưa hẳn đã là tuyệt đối. Nhưng để giải quyết một cách rốt ráo cho vấn đề vừa nêu trên, ông cũng chừa vài đoạn gọi là “lại quả”, ấy là: “Ở đàn ông còn thấy có hiện tượng “vùng lên”, vớt vát, tìm kiếm những cuộc tình dễ dãi, “bồ nhí”, “bia ôm”… để chứng minh chút nam tính còn sót lại của mình… Ở phụ nữ không phải là không có một giai đoạn gần như vậy, người ta vẫn thường gọi đó là tuổi “hồi xuân” (Sđd, trg 51). 

Ngày trước đọc Bonjour tristesse của F. Sagan trong bối cảnh chiến tranh lan rộng, tàn khốc, là đọc để giải toả những phiền muộn qua nhân vật nữ, là một cô gái thông minh, hoà nhập vào nếp sống hiện đại, thời thượng mang nhiều yếu tố hiện sinh, buồn chán, nó biểu tỏ một thái độ của một cá nhân trước xã hội, rộng ra là thời đại. Nay được đọc Đỗ Hồng Ngọc, cũng “chào” nhưng lại là Già  ơi… chào bạn, ở một thái cực khác: từ ngạc nhiên đến vui vẻ chấp nhận cái quy luật muôn thuở đến với con người một cách thanh thản, không thắc mắc, vướng bận. Có lẽ, do ông hiểu rất rõ những gì xảy ra với mình trong thời gian nằm ở bệnh viện An Bình sau khi mổ sọ não do tai biến mạch máu não, nên không băn khoăn đặt câu hỏi “tại sao” hay thế này thế nọ, như các nhà văn phương Tây. Đây cũng là thời kỳ ông “ngộ” ra lắm điều, dẫn đến việc ông nắm bắt được phần nào các bộ kinh Phật, đặc biệt là Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinh và chuyển cái sự hiểu đó đến người đọc, dẫu cho có nhiều chỗ cần phải bàn lại. Nhưng cốt lõi, theo ông: “Tôi thấy nó phóng khoáng, nó “lật đổ” tất cả những quan niệm hẹp hòi, đố kỵ; nó có khả năng hoà đồng, khả năng giúp cho mọi người có trách nhiệm hơn với chính mình, thương người, thương cuộc sống, biết thưởng thức … cuộc sống với một chất lượng cao hơn… có hạnh phúc hơn; biết tha thứ, biết buông xả… nó có thể giúp cho những người đang mang mặc cảm tội lỗi thoát ra khỏi chính mình…” (Nghĩ từ trái tim, trg 8 nxb tổng hợp tp. HCM, SG 2003). 

Trong chúng ta, những con người luôn chạy đua với áo cơm, mấy ai thấu triệt nghĩa lý Tâm Kinh chứ chưa nói là thực hành, mặc dù chỉ có vỏn vẹn 260 chữ?

Chỉ có vậy, không hơn, nhưng một khi đã “hành trì” vào Tâm Kinh, quán triệt nó đến tận cùng thì mới thấy vẻ đẹp uyên áo, những thâm hậu vi diệu của nó, bởi nó như một ngọn roi quất vào chỗ u nhược, làm đảo lộn mọi suy nghĩ hời hợt, phủ định mọi thành kiến về Phật, Thập nhị nhân duyên… như ông hiểu và nói ra.

 Với Tâm Kinh thì, không phải để “tri” mà để “hành”. Nhưng “ hành” như thế nào để “đáo bỉ ngạn” là điều không phải ai cũng “hành’ được. Khó và khó vô cùng. Nơi ai cũng muốn đặt chân đến và bỏ chân ra là thiên đàng và địa ngục. Có hai thế giới này thật không, nó ở đâu? Từ chiếu kiến ngũ uẩn giai không, Đỗ Hồng Ngọc đã chỉ ra: “Niết bàn hay địa ngục là do ta tự tạo ra cho mình, nó ở ngay trong ta thôi: Giận dữ, ngờ vực, sợ hãi, lo âu… tiêu hao của ta rất nhiều năng lượng, đốt cháy ta từ tầng này đến lớp khác chẳng phải là hình ảnh của địa ngục ư? Còn niềm vui, an lạc, hạnh phúc, vô uý… làm ta như chấp cánh bay lên, quên cả thời gian, không gian, chẳng phải là hình ảnh của thiên đàng, niết bàn ư?” (NTTT, trg 132). 

Đọc Nghĩ từ trái tim, gấp sách lại, ta thấy như mình vừa được kéo ra khỏi bóng tối lùng nhùng, đến nỗi GS. Trần Văn Khê cũng phải thốt lên: “Tâm kinh không chỉ đọc hiểu không thôi mà phải hành. Đỗ Hồng Ngọc nhờ tổng hợp được những yếu tố đó mà viết ra được quyển Nghĩ từ trái tim như thế này thì tôi cho đây là một tuyệt tác, nắm được tinh hoa của đạo Phật giảng ra một cách dễ hiểu, dễ dàng để cho người ta tìm thấy được mỗi chuyện làm ở trong đời…” 

Những điều ở bên ngoài đời sống, Đỗ Hồng Ngọc đã một phần nhìn ra giá trị của cái tầm thường, như câu chuyện ngày trước, một nhà sư khi nhìn thấy núi, thấy sông vẫn cứ là núi là sông, sau nhờ có bậc tri thức khai mở huệ nhãn thì thấy núi chẳng phải núi, sông chẳng phải sông, đến lúc thể nhập chốn tĩnh mịch, u nhàn, lại thấy núi là núi, sông là sông. Nói  chung là ông đã “như thị”. 

Trần Văn Khê đã đưa ra nhận xét: “Người bác sĩ này có cả tâm hồn hướng về con người nên đã viết cho trẻ con, cho những người già, người sản phụ, tìm hiểu căn bệnh để trừ bệnh, để giúp cho người ta bớt bệnh bớt khổ. Tâm tư đó là tâm từ đi tới bi. Người bác sĩ đó có được một tinh thần phóng khoáng, một tâm từ, còn là một nhà văn dí dỏm, một nhà thơ mộc mạc dễ thương nên hiểu được Tâm kinh như thế”. 

Hoá ra và bởi vì Đỗ Hồng Ngọc có được một tinh thần phóng khoáng, một tâm từ, còn là một nhà văn dí dỏm, một nhà thơ mộc mạc dễ thương nên hiểu được Tâm kinh như thế. Vậy thì chúng ta thử bước vào thế giới văn chương của ông:

Ông làm thơ trước khi viết văn. Tôi đọc những bài thơ đầu tiên ông đăng trên Bách Khoa năm 1960, chưa hề đọc một truyện hay một tuỳ bút, đoản văn nào của ông, mãi cho tới tận sau này (Ông có một truyện ngắn duy nhất, tựa là Người Thứ Hai, đăng trên báo Mai, 1965, sau này in chung trong tuyển tập truyện ngắn Cuộc đi dạo tình cảm, cùng với Lữ Quỳnh, Lữ Kiều, Hồ Thủy Giũ… nxb Trẻ, 1998; nhưng tôi cũng chưa hân hạnh được đọc!). Nhưng dẫu ông có viết ở thể loại nào, thì câu văn vẫn cứ mượt mà chất thơ, kiểu “văn trung hữu thi” vậy. 

Viết về Lữ Kiều, người bạn đồng môn của mình, Đỗ Hồng Ngọc có cái nhìn của một cụ đồ tài hoa: “Chàng nắn nót, nâng niu, đưa ngọn bút lông lên ngang tầm mắt, ngắm nghía từng sợi nhỏ, xoay tới xoay lui đôi ba bận một cách thuần thục mà ngập ngừng, rồi thè lưỡi liếm nhanh mấy cái như vót cho các sợi lông bút quấn quít vào nhau, cho nhọn hoắc lại như gom nội lực vào nhất điểm; rồi thận trọng, nhẹ nhàng chàng nhúng bút sâu vào nghiên mực đã mài sẵn, ngập đến tận cán, rút nhanh ra rồi chắt vào thành nghiên, ấn ấn xoay xoay lúc nặng lúc nhẹ cho mực túa ra nức nở, ào ạt rồi thưa dần, đến lúc sắc nhọn vừa ý, chàng phết nhẹ một nét lên tờ giấy đợi chờ, như để đo độ đậm nhạt, hít một luồng chân khí, định thần, lim dim, phóng bút…” (Tôi cũng tin vậy…, trg 61, Như Thị, nxb Văn Nghệ, SG 2007).Dẫn đoạn này, tôi chỉ muốn dẫn đôi dòng, nhưng không làm sao ngắt được.Cái mạch văn ấy cứ tuôn chảy, róc rách đẹp hơn suối reo, không ngăn được.Và liên tưởng ngay đến Chữ của người tử tù và Chén trà trong sương sớm của Nguyễn Tuân.  Đỗ Hồng Ngọc viết về người bạn nhưng cứ như chàng hoạ sĩ làm thơ!

Còn đoạn này nữa: “Cứ một dòng chữ viết tay nắn nót (bản thảo chép tay) lại hiện lên trong tôi sông ngòi biển cả, rừng núi ao hồ, trưa hè nắng cháy nhảy ùm xuống sông Dinh, đập đá Dựng, những ngày mưa lũ, nước cuốn trôi phăng cả nhà cửa trâu bò. Tôi cứ để lòng mình nhảy ùm như thế, cuốn trôi như thể khi đọc Biển Hát. Cả một dĩ vãng xưa ùa sống lại” (Biết bao điều thì thầm, trg 203, Như Thị). Xem ra Đỗ Hồng Ngọc đâu chỉ có tâm hồn trong sáng mà còn có cả tấm lòng, như Cao Huy Thuần nhận xét: “Anh nói những chuyện giản dị. Nhưng mầu nhiệm không nằm ở đâu khác hơn là trong chính những câu chuyện giản dị đó. Một đôi bài của anh khá đơn sơ, nhưng hồn nhiên là cái duyên của anh, anh làm thơ trước khi viết văn, cho nên đó cũng là những bài thơ” (lời trích ở bìa 4 Như Thị). 

Đỗ Hồng Ngọc làm thơ khi còn là học sinh trung học, mãi đến năm 1967, ông mới cho in tập thơ đầu tay Tình người, lúc đang là sinh viên trường Y. Những bài thơ này xuất hiện trên Bách Khoa (từ năm 1960) và Tình Thương (1964) do SV đại học Y khoa Sài Gòn chủ trương, trong đó có nhiều bài thơ theo trường phái Phi Phi (Phi Thi?). Tôi đọc chúng (thơ phi phi) nhưng chẳng hiểu gì. Và vì vậy, khi vớ phải những câu chữ gần gũi của Đỗ Hồng Ngọc với những cảm xúc chân thật, mộc mạc tôi cảm thấy như có cái gì đó quen quen, như khói củi trong bếp lửa buổi sáng sớm chớm đông. Sau đó, khi tạp chí Ý Thức dời về 666 Phan Thanh Giản, cùng viết chung trên đó tôi mới gặp ông bằng xương bằng thịt và quen nhau. Gần cuối năm 1974, từ toà soạn Ý Thức, ông mời tôi đi ăn bò vò viên chỗ xế bên rạp Đại Đồng trên đường Cao Thắng và tặng tập Thơ Đỗ Nghê do Ý Thức xuất bản. Trong đó đáng chú ý là bài thơ Tâm sự Lạc Long Quân. Có lẽ do nội dung của bài thơ này, bị kiểm duyệt nên cơ sở Ý Thức không thể in công khai tại Sài Gòn, mà lại in (lậu) trên Đà Lạt do Lữ Kiều coi sóc rồi mang lộn ngược về Sài Gòn. Năm 2010, ông muốn đưa lại bài này vào tập Thư cho bé sơ sinh & những bài thơ khác, nhưng cũng lâm vào hoàn cảnh tương tự như trước 1975, nghĩa là Tâm sự Lạc Long Quân vẫn là bài thơ không có “hộ khẩu”, lang thang trong tập Thơ Đỗ Nghê “phổ biến hạn chế trong vòng thân hữu” (thiếu 2 năm nữa là chẵn 40 năm dài). Những thao thức, băn khoăn, tấm lòng thành ông gửi gắm trong bài đã bị chối bỏ, là chính trị thời trước và thời sau không chấp nhận tấm lòng thành của ông xuất phát từ trái tim, nghĩ từ trái tim của ông. 

Khi ta đưa các con 50 người xuống biển

Và vợ ta đưa 50 đứa lên rừng

Lòng ta đã rất đỗi băn khoăn

Có một điều gì khiến ta linh cảm trước

(…) Nhưng bây giờ mọi sự xảy ra

Các con đều đã rõ

Những vết ô nhục trong lịch sử chúng ta

Các con đều đã rõ

(…) Đã cùng sinh ra trong một bọc

Thì hãy nghe ta

Đốt hết sách vở, xé hết cờ xí đi

Rồi đứng ôm nhau mà khóc

Nước mắt sẽ làm tươi lại cỏ cây

Nước mắt sẽ làm phì nhiêu mảnh đất

(Tâm sự Lạc Long Quân, Thơ Đỗ Nghê, trg 5-7, Ý Thức xb, 1974). 

Bài thơ này ông viết từ năm 1965, trong bối cảnh đất nước tương tàn! Nội dung bài thơ không mang ý thức phản kháng, gào rống mà, xuất phát tự trái tim ông, réo gọi tình đồng bào và thơ ông bật lên từ tấm lòng chân thật đó. Nhưng những kẻ làm chính trị thì không thể chấp nhận cái tấm lòng ấy, vì phe phía nào cũng tự nhận là chính nghĩa, bóp nát những mơ ước, hoài mong của tầng lớp thanh nên, trí thức. Chúng biến cái tinh thần dân tộc của giới trẻ trở thành hành vi phản trắc, biến lòng yêu đồng loại, nghĩa đồng bào thành tư tưởng phản bội! Sự dồn nén và ẩn ức ngày mỗi dày thêm, cao thêm: 

Rất nhiều đêm rất nhiều đêm

Tôi vỗ về tôi thủ thỉ

Ngủ đi con ngủ đi con

Ngày mai rồi khôn lớn

Cầm súng với cầm gươm

Ngủ đi con ngủ đi con

Ngày mai rồi khôn lớn

Giết bạn bè anh em

Ngủ cho ngoan ngủ cho ngoan

(Lời ru, Thơ Đỗ Nghê, trg 14) 

Thời ấy, khi đọc bài thơ này, tôi tưởng tượng cảnh bà mẹ quê ôm đứa con thơ vào lòng, giữa đêm khuya, nức nở than khóc người chồng là anh lính Việt Cộng hay Quốc Gia vừa chết trận. Âm thanh trong bài thơ không thịnh nộ, cứ ưu uất, nghẹn ngào, nức nở gây một ảo giác như chính bản thân ta đang chịu đựng cảnh khổ nhục đó vậy. Nó cứ rờn rợn như âm thanh trong bài Bà mẹ Gio Linh của Phạm Duy trong đêm bão!

Một bài thơ khác, Đoá hồng mùa xuân tuổi thơ, ông viết tặng con sắp chào đời cũng mang một tâm trạng u uẩn không kém, có thể coi là nỗi lòng của giới trẻ lúc bấy giờ: 

Có những người không có cơm ăn

Có những người không có áo mặc

Có những cánh đồng cháy đen

Có những xác người chồng chất

Con sẽ vô cùng ngạc nhiên

… Làm gì có Việt Nam đánh giết Việt Nam

Làm gì có đất nước hai miền

(Đoá hồng mùa xuân tuổi thơ, Thơ Đỗ Nghê, trg 66). 

Thực tế oan nghiệt đó đã bóp nát trái tim rất nhiều người, trong đó có ông. Vì vậy, có thể xem, Thơ Đỗ Nghê là một sự chọn lựa đúng đắn, là thái độ của của một thanh niên trí thức mẫn cảm trước thời cuộc và xã hội lúc bấy giờ. Đó là nỗi đau không cùng của những người chân chính, đúng như Lữ Kiều viết trong lời bạt cuối sách: “Đã đến lúc chúng ta nghiêm trang đặt những vấn đề, với lịch sử. Ví dụ bài “Điệp khúc” (Thơ Đỗ Nghê, trg 57, ghi chú của người viết bài này) là những câu hỏi thẳng thắn với đàn anh chúng ta thời 45. Những Bài vè thứ nhất, Bài vè thứ hai (Sđd, trg 48 và trg 52, nt) đặt vấn đề với thế hệ hiện tại, với những người mà ta gọi là Đồng Minh. Có lẽ, bây giờ sự thể đã khác đi, nhưng tôi nghĩ, trong tình thế ấy, đặt những câu hỏi như vậy là một thái độ can đảm, nằm trong thái độ nghiêm túc của anh” (Thơ Đỗ Nghê, trg 76, nt). 

Bài thơ Thư cho bé sơ sinh nơi trang 39 ông viết năm 1965 khi còn là SV thực tập tại bệnh viện Từ Dũ, sau này ông cho in lại trong tập Thư cho bé sơ sinh & những bài thơ khác (nxb Văn Nghệ, SG 2010) được Phat’s blog chuyển ngữ sang tiếng Anh tháng 11/2006, như là sự mở đầu tâm cảm của ông, nhìn về thế giới bên ngoài bằng trái tim chân thật, bằng cả tấm lòng của cá nhân có trách nhiệm trước một cá nhân khác. Bài thơ chỉ có hai nhân vật: anh và em. Anh là chàng SV năm 3 y khoa và em chỉ là đứa bé mới chào đời. Ông đã khắc hoạ sự tương phản ngược chiều trong thế giới đa cực của cuộc sống ồn ào, đầy dẫy những cạm bẫy, lo toan, mưu tính… Đó là tiếng khóc và nụ cười, mắt thực và tối đen, cô đơn và êm ấm, là cái bé nhỏ vô cùng và rộng lớn cũng vô cùng. Bài thơ cũng chính là tâm trạng của anh chàng sinh viên ngành y lần đầu tiên làm công việc đưa một sinh linh ra ánh sáng cuộc đời sẽ có nhiều ngọt bùi lẫn cay đắng chờ đón phía trước. 

Tính chất của bài thơ, trước hết là giải bày tâm trạng, bởi đây là lần đầu tiên ông nhìn thấy và nhận ra bản thể của mình qua hình hài bé bỏng kia, rồi nó sẽ phải trải qua những đoạn đường mà ông và bao con người đã bước qua cuộc đời có nhiều những khổ đau và hạnh phúc, của nụ cười và nước mắt, nói chung là “đời nhiều nhãn hiệu”.

Bài thơ không mang hơi thở ngôn ngữ bóng bẩy của thơ ca. Nó là những lời thầm thì, chia sẻ, là tâm tình của một con người với một con người trong mối quan hệ bình đẳng của người ra đời trước và người vừa chào đời sau; của người đã bị trói vào “đời” và người sắp bị “đời” trói chặt. Ông sử dụng ngôn ngữ nói, mộc mạc đến dung dị để chuyển tải nội dung lời thơ là thân phận làm người, mà rất nhiều các triết gia, học giả, nhà văn cả Tây lẫn Đông từng mang ra mổ xẻ. Vấn đề của Đỗ Hồng Ngọc đặt ra không rộng, không gian là phòng sinh, thời gian là một giờ khắc nào đó trong ngày. Ông chỉ ghi lại những cảm xúc và tâm trạng đối với công việc của mình trước một em bé vừa chào đời, bắt đầu cùng ông, gia nhập vào đời sống mà ông đang nếm trải, không hề thấy có một triết lý nào cao xa, chỉ nêu lên những sự việc có thật đang xảy ra và sắp sửa xảy ra với bé, bắt đầu tham dự vào “cõi người ta”. 

Khi anh cắt rún cho em

Anh đã xin lỗi chân thành rồi đó nhé

Vì từ nay em đã phải cô đơn

Em đã phải xa địa đàng lòng mẹ

(Thư cho bé sơ sinh & những bài thơ khác, trg 6). 

Nhiều người, khi đọc bài thơ này, cho rằng nhà thơ đã gửi đi một thông điệp cho mọi người hiện hữu trong đời sống muôn màu muôn vẻ. Tôi thì nghĩ, ông không hề có ý làm một công việc to tát đến vậy, mà hơn hết là từ tấm lòng, từ trái tim, là cái nhìn thấu triệt lẽ đời mà ông đã trải nghiệm, như một người đi trước, không phải là kẻ dẫn đường hay đưa đò. 

Thôi trân trọng chào em

Mời em nhập cuộc

Chúng mình cùng chung

Số phận

Con người… 

Ý hướng đích thực trong bài thơ là 3 câu cuối cùng này. Hai nhân vật anh và em sẽ hoà vào mẫu số chung: số phận con người! Và tinh tế hơn cả, là ông ngắt câu ở nhịp hai như một cú rơi từ trên cao, không có sự chọn lựa.

Đỗ Hồng Ngọc sống nhiều, đi nhiều, viết nhiều.Văn thì viết như thơ. Thơ thì như văn và thơ náu mình trong thơ.Đó là những gì tôi nhìn thấy, đọc ra từ cảm tính, rất chủ quan của mình. Ví dụ như mấy câu trong bài Mũi Né: 

Em có về thăm Mũi Né không

Mùa xuân thương nhớ má em hồng

Nhớ môi em ngọt dừa xứ Rạng

Nhớ dáng thuyền đi trong mắt trong

(Mũi Né, Thơ Đỗ Nghê, trg 8) 

Hay như thời gian tu nghiệp ở Pháp, ông nhớ nhà, nhớ quê, nhớ gia đình, bạn bè… Nỗi nhớ găm vào từng thớ vải. Câu thơ xếp đặt như câu nói, nhưng lại lột tả đến tận cùng nỗi nhớ nhung khói củi, đến nao nức: 

Anh hôn đằng sau/ Anh hôn đằng trước/ Anh hôn phía dưới/ Anh hôn phía trên/ Chiếc áo của em/ Món quà em tặng/ Chiếc áo lạ lùng/ Có mùi biển mặn/ Có mùi dừa xiêm/ Có mùi cát trắng/ Có mùi quê hương…

(Món quà, Thư cho bé sơ sinh…, trg 143). 

Ông có quãng đời niên thiếu sống ở La Gi (Phan Thiết), tắm mình trong mùi gió biển, thiên nhiên hoang sơ với những đồi núi chập chùng, những dãi cát trắng, sóng biển rì rào… đã ru ông, nuôi dưỡng tâm hồn ông để có được một Đỗ Hồng Ngọc có một cái Tâm trong veo như bầu trời không gợn chút khói mây.

Ông nhìn nhận cảnh quan theo vẻ đẹp mẫn tuệ nơi ông đã đành, nhưng đến những cảnh huống mà nhiều người nhìn thấy là xấu, khi lọc qua tâm hồn ông bỗng sáng rực như ánh sáng ban mai; ngôn ngữ diễn đạt cứ như những hạt sương long lanh trên cành lá biếc xanh. Ví dụ, từ trang 74 đến trang 80 là các bài La Ngà và La Ngà 1 đến La Ngà 5, là diễn tả tâm trạng và cảm xúc của ông trước cái chết của đứa con gái yêu quý, nhưng lời thơ không hề bộc lộ chất bi luỵ, đau thương. Ngược lại, cứ trong suốt như pha lê: 

“Mỗi năm/ Mỗi người/ Thêm một tuổi/ Chỉ mình con/ Mãi mãi tuổi đôi mươi” (La Ngà 3, Thư cho bé sơ sinh…, trg 78). Và bài kế tiếp: “Ba vun gốc trường sanh/ Mẹ đặt chùm vạn thọ/ Lên mộ con/ Giữa ngày mùng Một Tết” (La Ngà 4, Thư cho bé sơ sinh…, trg 79). 

5 bài thơ viết về La Ngà thực chất là viết về “nỗi mất”, là nỗi đau không cùng của các bậc cha mẹ. Nhưng cả 5, lời thơ vẫn bình thản chấp nhận, không u oán. Chỉ có những người đã tiếp cận với Thiền học, đã “thị” được ngũ uẩn giai không, thả những cảm xúc tâm linh chạm gần đến ngưỡng như Đỗ Hồng Ngọc mới có được cốt cách và phong thái của các hành giả phương Đông trên đường bước vào mép rìa của cái Đẹp. 

Ông đã từng thú nhận trong phần dẫn nhập và một chút lịch sử, ở ngay phần đầu Nghĩ từ trái tim, rằng “Viết với tôi là một bức xúc, là một cách “xả”! Tôi thấy nhẹ nhàng sảng khoái hơn khi được viết ra. Đó cũng là một cách tự chữa bệnh cho mình” (trg 9). Và: “Tôi nhớ hồi mới lên mười, trọ trong chùa, đêm đêm cũng nghe cô tôi tụng “ Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề, tát bà ha!” tôi chỉ thấy êm tai, ngủ ngon lành mà thôi” (trg 20). Như vậy, rõ ràng Thiền học đã thấm đẫm tâm hồn ông từ tuổi thơ, như chuyện thấy núi thấy sông của nhà sư viết ở đoạn trên. Chính vì vậy, nên ông mới có những câu thơ như thế này:

Hội An còn ngái ngủ

Mái chùa ôm vầng trăng

Giật mình nghe tiếng chổi

Gà gáy vàng trong sương (Hội An, Thư cho bé sơ sinh…, trg 99). 

Hay:

Lắng nghe hơi thở của mình/ Mới hay hơi thở đã nghìn năm xưa/ Một hôm hơi thở tình cờ/ Dính vào hạt bụi thành ra của mình/ Của mình chẳng phải của mình/ Thì ra hơi thở của nghìn năm sau 

(Thở, sđd, trg 196). 

Và một bài nữa:

Đất động ta cũng động/ Sóng thần ta cũng sóng/ Giật mình chợt nhớ ra/ Vốn xưa ta là đất!

(Đất, sđd, trg 197). 

Nếu làm công việc như các ông Đặng Tiến và Cao Huy Khanh thì có thể xếp dòng thơ Đỗ Hồng Ngọc vào dòng thơ Thiền được chăng?Tôi không mấy rõ, chưa thể biện biệt, kiến giải; chỉ thấy và hơn hết là cảm được rằng, thơ ông xuất phát từ Tâm Cảm, vượt trên những triền phược. Nó thô mộc mà sáng long lanh; lột tách những vết bụi bám; cũng đứng chung những “số phận thơ”, cũng sần sùi meo mốc như lát sắn mì để quên trong khạp, nhưng lại toả ra chút mùi thơm dịu dàng lấp lánh. Đó cũng là nét rất riêng, rất cốt cách của thơ Đỗ Hồng Ngọc. 

Tôi đã từng nghĩ: “Làm thầy thuốc là để cứu người; làm nhà văn là để cứu đời”, xem ra lại rất đúng, một cách trọn vẹn, với trường hợp Đỗ Hồng Ngọc: cứu người và cứu đời! 

Nguyễn Lệ Uyên

(Xứ Xương Rồng, tháng 3/2012)

 

IV/ NGUYỄN THỊ TỊNH THY (*)

YẾU TỐ BẤT NGỜ TRONG BÀI THƠ “BÔNG HỒNG CHO MẸ” 

Bông hồng cho Mẹ của bác sĩ – thi sĩ Đỗ Hồng Ngọc là một bài thơ hay về mẹ. Hay đến mức nào? Hay đến mức lặng người, lạnh người. Hay đến mức phải gọi đó là tuyệt tác. Và tuyệt tác này xứng đáng được hiện diện trong tang lễ của những bà mẹ. Bởi vì Bông hồng cho Mẹ là một cách viếng mẹ, khóc mẹ vô cùng đặc biệt – đầy uyên áo nhưng rất đỗi giản đơn. Bài thơ được viết theo thể tứ tuyệt ngũ ngôn, chỉ vẻn vẹn bốn câu, hai mươi chữ nhưng đủ để khiến người đọc có nhiều phức cảm buồn vui, thấu đạt lẽ sinh tử, cảm ngộ điều được mất… để có thể tỉnh thức, an nhiên trước sự nghiệt ngã của quy luật sinh ly tử biệt.

“Con cài bông hoa trắng

Dành cho mẹ đoá hồng

Mẹ nhớ gài lên ngực

Ngoại chờ bên kia sông…”

Toàn bài thơ, kể cả nhan đề, đề tài, hình ảnh đều rất đỗi thân quen đối với người dân Việt, đặc biệt là các Phật tử. Có thể nói, Mẹ, lễ Vu Lan, hoa hồng màu trắng, hoa hồng màu hồng và cả nghi thức cài hoa hồng lên ngực dường như đã trở thành những biểu tượng mang tính liên văn bản trong văn chương nghệ thuật, trở thành tập quán trong đời sống và tâm thức bao người. Vậy mà, nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc vẫn tìm ra được một tứ thơ lạ làm ta sững sờ, khiến ta bất ngờ. Đúng! Bất ngờ chính là yếu tố làm nên hồn cốt của bài thơ.

Bất ngờ đầu tiên là nghịch lý của hai câu thơ đầu:

“Con cài bông hoa trắng

Dành cho mẹ đóa hồng”

Lạ chưa! Con cài hoa trắng, nghĩa là con không còn mẹ. Theo lẽ thường, mẹ càng phải cài hoa trắng, vì mẹ của mẹ (bà ngoại) cũng không còn.Vậy mà, con cài bông hoa trắng – bông hoa của tang tóc, mất mát; nhường cho mẹ đóa hoa màu hồng – màu của diễm phúc, viên mãn. Hẳn bạn đọc sẽ không khỏi thắc mắc về nghịch lý này. Trong thưởng thức nghệ thuật, thắc mắc, hoài nghi, cảm thấy mâu thuẫn… là khởi đầu của mỹ học tiếp nhận. Bạn đọc chờ đón lời giải thích ở câu tiếp theo. Nhưng không. Câu thứ ba lại càng khẳng định sự vững chắc của hai câu đầu: “Mẹ nhớ gài lên ngực”. Lại thêm một tầng thắc mắc nữa: Mẹ đã mất, vậy mà có thể thực hiện động tác “gài” hoa lên ngực. Mà chắc là mẹ có thể làm được việc đó, nên con mới dặn mẹ là “nhớ gài”. Quả là nghịch lý chồng nghịch lý! Cho đến câu cuối cùng: “Ngoại chờ bên kia sông…”, tất cả mọi thắc mắc, nghịch lý đều được cởi bỏ. Cởi bỏ bằng một sự bất ngờ – bất ngờ đến mức khiến ta ngỡ ngàng, sững sờ, xúc động, rưng rưng…

Cấu tứ bất ngờ là nét độc đáo chuyển tải chủ đề của bài thơ. Kiểu cấu tứ này khiến cho bài thơ đảm bảo được nguyên tắc “mạch kỵ lộ” của thi pháp thơ Đường. Người làm thơ phải biết rằng, mạch thơ tối kỵ là bị để lộ, nhà thơ phải làm sao đó để đến câu cuối cùng, điều mình muốn ký thác, bộc bạch mới lộ ra, gây bất ngờ cho người đọc, thậm chí bẻ gãy được những đoán định của họ. Bất ngờ càng lớn, ý thơ càng sâu sắc, sức lay động càng mãnh liệt. Vì thế, câu cuối cùng thường là câu gánh vác nhiệm vụ thể hiện chủ đề của bài thơ. Cũng vì thế, nhiều người cho rằng, trong thơ Đường luật, những câu đầu dù nói nhiều điều, tả nhiều thứ, có thể bao quát cả không gian mênh mông vô tận và thời gian vô thủy vô chung thì vẫn chỉ là sự chuẩn bị cho sự xuất hiện của câu cuối. Làm thơ Đường, trong tâm tưởng của nhà thơ, câu cuối chính là câu khởi đầu.

“Ngoại chờ bên kia sông…”

Vậy là không còn nghịch lý nữa.Mẹ về với ngoại. Ngoại đã đi trước, và đón chờ mẹ ở bên kia sông. Ngoại đón con gái của ngoại, mẹ về trong vòng tay của mẹ mình. Tất cả mọi việc đều thuận chiều.Và vì thuận chiều như thế nên nỗi mất mát, chia xa bỗng trở nên nhẹ nhàng hơn.

Viết về cái chết, về nỗi đau tử biệt nhẹ nhàng như thế, nhà thơ đã thấm nhuần triết lý của nhà Phật. “Vô thường”, “sắc không”, “tứ khổ”, “diệt khổ”, “từ ái”… được chất chứa trong từng câu chữ giản dị tưởng chừng như không còn là thơ, không phải là thơ. Tất cả hai mươi chữ trong bài thơ tứ tuyệt này đều là từ thuần Việt, cả danh từ, động từ, đại từ…; cả hình ảnh, biểu tượng… cũng đều rất đời thường và dân dã đến mức người đọc, người nghe ở trình độ nào cũng có thể hiểu, có thể cảm, có thể xúc động. Mặc dù bài thơ đậm chất triết lý, nhưng chất triết lý ấy đến một cách đơn giản, không trau chuốt gọt giũa, không cao đàm khoát luận. Mọi cảm xúc, tình cảm trong bài thơ vừa như có, vừa như không; vừa rất nặng, vừa rất nhẹ; vừa hiện thực, vừa kỳ ảo. Tất cả đều tùy thuộc vào cách mà mỗi người cảm nhận về cái chết, về tình mẫu tử, về lẽ tử sinh. Sâu sắc và đa nghĩa như thế, Bông hồng cho Mẹ là cả một chân trời nghệ thuật mà ở đó, mọi đường nét nghệ thuật dường như tan biến trong tình cảm sâu nặng của người con đối với mẹ, để rồi lan tỏa đến người đọc. Khiến cho người đang nằm có thể bước đi, khiến cõi chết trở thành cõi sống, khiến âm dương cách biệt trở nên gần lại, đậm chất nghệ thuật nhưng không thấy dấu hiệu của nghệ thuật, như vậy là bài thơ đã đạt đến cảnh giới cao siêu của nghệ thuật: “áo của thợ trời không nhìn thấy đường may” (thiên y vô phùng). Chỉ trong hai mươi chữ, từ một tấm lòng, nhà thơ đã nói hộ muôn tấm lòng. Ước mong của tác giả là ước mong của mọi người, tiếng thơ của anh nhưng là tiếng lòng của tôi, của tất cả chúng ta.

“Ngoại chờ bên kia sông…” là hình ảnh mang tính biểu tượng, giàu sức gợi, chất chứa nhiều hàm nghĩa ý tại ngôn ngoại. Câu thơ tạc nên hình ảnh của người mẹ muôn thuở: yêu thương, dịu dàng, nhẫn nại, chở che, bảo bọc, hy sinh. Từ vị trí của người mẹ ở ba câu đầu, mẹ trở thành vị trí của người con ở câu cuối. Mẹ được về trong vòng tay yêu thương của ngoại, lại một lần nữa được làm con của ngoại, nghĩa là mẹ được tái sinh. Câu thơ còn toát lên một chân lý: có mẹ, dù ở bất cứ nơi đâu, dù ở cõi sống hay cõi chết, ta cũng sẽ được chở che, được bình an. Vì thế, dù “bên kia sông” là một thế giới vô cùng lạ lẫm thì mẹ cũng sẽ khỏi phải ngỡ ngàng, ngơ ngác, bơ vơ, lạc lõng. Có ngoại rồi, con yên tâm cho mẹ, con được an ủi rất nhiều khi nghĩ về bước chân cuối cùng của mẹ trong chuyến độc hành này.

Về với mẹ, về bên mẹ là một cách nói giảm nhẹ tuyệt vời để xua tan đi nỗi đau xé lòng, nỗi mất mát không gì bù đắp được. Câu thơ khiến ta bình tâm hơn, thanh thản hơn, thấu đạt hơn, an nhiên hơn khi đón nhận quy luật nghiệt ngã của tạo hóa. Câu thơ còn đặt ra vấn đề về cách nhìn nhận, đón nhận và lý giải những biến cố của đời sống. Trắng – hồng, sống – chết, được – mất, đi – về, sắc – không… ranh giới của những cặp đối lập ấy chỉ là tương đối. Sắc sắc không không, “có thì có tự mảy may, không thì cả thế gian này cũng không”, tất cả đều tùy thuộc vào cách chúng ta đón nhận sự việc. Nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc đã chọn cách nhìn thấy niềm vui trong nỗi đau, đổi chất trẻ thơ cho sự già nua, biến chia ly thành đoàn tụ, thay mất thành được, biến ra đi thành trở về.

Từ hình ảnh và ý nghĩa đẹp đẽ của câu cuối, đối sánh với ba câu đầu theo lối đọc ngược bài thơ từ dưới lên, ta sẽ thấy mọi ẩn số của nghịch lý đều được giải đáp tường tận. Vì mẹ được về với ngoại (câu 4) nên mẹ nhớ cài hoa hồng lên ngực (câu 3), con dành cho mẹ đóa hồng là hợp lý (câu 2), con nhận phần mất mát cho riêng mình, và con vĩnh viễn không còn mẹ trên đời (câu 1). Cũng từ câu 4, đọc lại câu 3, ta sẽ thấy câu thơ – lời dặn của người con – thấm đẫm nỗi niềm. “Mẹ nhớ gài lên ngực”. “Mẹ nhớ…”, nghĩa là mẹ đừng quên làm điều đó nhé, bởi đóa hoa hồng dường như là dấu hiệu để ngoại nhận ra mẹ, là tín vật để xác nhận hạnh phúc đoàn viên của mẹ và ngoại. Và con mong như thế, mong lắm thay! “Mẹ nhớ gài lên ngực”. Lời thơ như dặn dò nhắc nhở, như van xin cầu khẩn, như vỗ về dỗ dành, như an ủi động viên… trong giờ phút bịn rịn tiễn đưa. Lời nói ấy là tấm lòng, là nỗi âu lo, là yêu thương chan chứa bật lên từ nỗi đau nén chặt trong lòng. Khóc không nước mắt, nỗi đau lớn tựa càn khôn!

Mở đầu bằng những nghịch lý và kết thúc bất ngờ bằng những chân lý, Bông hồng cho Mẹ đưa chúng ta ra khỏi bến mê để bước vào bờ đạt ngộ.Dẫn dắt người đọc đi từ mê muội đến tỉnh thức về lẽ tử sinh như thế, quá trình nhận thức của bài thơ mang đậm dấu ấn của Thiền tông. Bài thơ là cái nhìn khác biệt và sống động về một trong “tứ khổ” sinh lão bệnh tử, thấm đượm chân lý về tình mẹ. Nếu có mẹ, được ở bên mẹ thì cõi chết cũng là cõi bình yên. Đối diện với cái chết bằng tâm thế ấy, ta còn sợ nỗi gì? Ai rồi cũng có ngày được về với mẹ, hãy nhẹ nhàng, nhẹ gánh mà đi. Rồi ta sẽ được mẹ ta đón bên kia sông. Hiểu là giải thoát. Vẫn biết như thế, nhưng sao nước mắt vẫn cứ chảy dài khi nghĩ đến ngày ngoại đón mẹ. Ta mê muội quá chăng?

———————————-

Nguồn: Đặc san LIỄU QUÁN, số 12, tháng 8.2017. Trung tâm Văn hóa Phật giáo Liễu Quán-Huế

(*) Nguyễn Thị Tịnh Thy, giảng viên Đại học Sư Phạm, Huế 

 

V/ TÔ THẨM HUY

ĐỌC THƠ NGẮN ĐỖ NGHÊ 

“Thơ Ngắn Đỗ Nghê là những bài thơ ngắn mà không ngắn chút nào. Mời đọc một bài. Lưỡng ngôn, tam cú. Cả bài thơ vỏn vẹn sáu chữ, tựa đề: Trái Đất.

Giữa đêm

Thức giấc

Giữa ngày…

Sáu chữ. Thinh không bỗng vang vọng lời kinh Bát Nhã:

Sắc bất dị không, không tức thị sắc. Thọ tưởng hành thức, thảy đều như thế…

Ngân nga lời đồng vọng:

Sáng bất dị đêm. Ngày tức thị tối. Viên bi vun vút, trong cõi vô cùng…

Sáu chữ. Ngắn. Mà dư âm ngân dài, bất tuyệt.

Đâu là điểm khởi đầu, điểm tận cùng, điểm đến, điểm đi, của vòng tròn?

Xin thư thả chép lại bài thơ, chép dưới lên trên, chép đầu xuống bụng, chép dọc thành ngang:

Giữa ngày, trái đất, giữa đêm.

 

 Thi sĩ Đỗ Nghê đã lấy con dao mổ của ông y sĩ Đỗ Hồng Ngọc ra rạch một đường, hé lộ cái lẽ thường hằng ở giữa nếp gấp song trùng nhị bội. Đâu là chân diện mục của quang âm tấc bóng? Của logos ban sơ nguyên khởi?

Bài thơ như một công án thiền.

Cái biên giới của sáng và tối, ngày và đêm đã tan biến. Đọc thơ đôi khi nên tắt cái máy lô gích trong đầu đi, kẻo không chỉ nhìn thấy là nửa bên này nắng gắt, nửa bên kia tối om, mà không thấy cái sự tình kỳ bí của nghìn năm mây trắng du du trên trái tinh cầu.

Thơ hay có khi là những bài thơ lớn. Hay vì ý tưởng lớn, hỗn mang bờ bãi. Lớn vì cánh hạc một thoáng vụt tung đã nghìn trùng bay mất. 

Thơ hay có khi lại là mấy bài thơ nhỏ. Hay vì ý tưởng như cây kim xuyên suốt nhất điểm thông, vì nó là lát cắt nóng hổi từ đời sống, nhịp tim vẫn đang đập trong từng lát cắt. Nó như lưỡi chuỷ thủ đâm thẳng vào hồn. Không băn khoăn, do dự, không suy nghĩ, đắn đo. Nó cấu điếng vào người. 

Mời đọc một bài hơi dài hơn bài trước. Những mười chữ:

Sóng

Quằn quại

Thét gào

Không nhớ

Mình

Là nước.

– Sự tình đã như vậy thì chừ phải làm răng cho sóng nhớ nó là nước?

– Thưa, chắc phải nhờ ông thi sĩ Đỗ Nghê chích cho nó một mũi thuốc, hay là nhờ ông y sĩ Đỗ Hồng Ngọc làm cho nó một bài thơ, rồi thả trôi trên sóng nước, ắt nó sẽ giác ngộ mà thôi quằn quại thét gào. 

Lại xin mời đọc một bài dài hơn chút nữa, mười bốn chữ, sáu tám: Đông Boston

Còn cây

trơ lại với cành

Với linh hồn lá

ngập ngừng trút qua… 

– Có cần phải bảo là còn cây hay không? Mùa đông thì cây nó cũng đứng đấy, chứ nó đâu có chạy đi đâu như đám lá vốn thích phiêu lưu bờ bãi kia, mà phải đặt bút bảo là nó vẫn còn? Nước thì nó cứ lững lờ trôi, chứ sông Hương nó có bao giờ đi đâu đâu, sao lại phải bảo là:

Dạ thưa xứ Huế bây giờ,

Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương? (BG) 

– Thưa đó là chỗ nhiệm màu của thơ, nó khiến thực tại trở về hiển hiện mỗi sát na. Phải mượn con mắt của thiền sư Vạn Hạnh lúc lâm chung nhắm mắt mới thấy hàng cây vẫn đang đứng đó ven bờ sông Hương núi Ngự. Thật là hạnh phúc xiết bao khi biết là núi Ngự vẫn còn đó. Hạnh phúc thật vô vàn khi biết là lúc mùa xuân trở lại thì cây cành vẫn đứng chờ đó để hồi sinh cho linh hồn lá đầu thai trở lại trần gian. Từ đó sẽ có thể nhậm vận thịnh suy vô bố uý. 

Không biết Đỗ thi sĩ của chúng ta làm gì, đi đâu, mà ngày nọ lại lặn lội đến miền Đông Bắc băng giá, lang thang giữa phố Tàu Boston, đứng nghe gió nó co mà ro lạnh. Hay là thi sĩ đi ngắm tuyết?

Tuyết bay

Bay nhẹ

Phố Tàu

Gió co

Ro lạnh

Phố

Đìu hiu

Theo.

Cách ngắt câu Gió co / Ro lạnh nghe lập cập hai hàm răng. Hay là gió nó cũng lạnh nên nó co lại? Thật thú vị !

Hay là thi sĩđi tìm kiếm một điều gì chăng?

Tìm kiếm

Anh không sống

Anh đợi sống

Anh để dành anh

Anh chắt mót em

Anh cắt xén niềm vui

Anh gậm nhấm nỗi buồn

Anh tìm kiếm

Một điều anh chẳng biết

Ông không sống, mà để dành.Ông đợi.Một điều gì ông không rõ. 

Cách nay nửa thế kỷ, một bài thơ trên tờ Bách Khoa có mấy câu nó theo đuổi tôi đến tận giờ:

Tôi làm thơ để lãng quên chờ đợi

Để đánh lừa năm tháng trước hư vô

Xin yêu tôi bằng tội lỗi bất ngờ

Bằng tất cả những giờ em có mặt

(Tạ Tỵ)

Ông hoạ sĩ Tạ Tỵ cũng đã chờ đợi.Ông chờ đợi điều gì chỉ mình ông rõ. Mà cũng có thể ông cũng không rõ. Nhưng cái cuộc chờ đợi ấy hẳn là ông chẳng hào hứng gì với nó lắm, nên ông muốn lãng quên là mình đang chờ đợi.Nên ông làm thơ để khỏi nghĩ đến chuyện ấy.Để đánh lừa năm tháng trước cái hư vô sâu thẳm. Đỗ thi sĩ thì muốn để dành anh, muốn chắt mót em. Tạ hoạ sĩ thì năn nỉ: xin yêu tôi bằng tất cả những giờ em có mặt. Cái cuộc chờ đợi này, cái cuộc đánh lừa này, liệu sẽ được nước Cam Lồ đền bù ngày em có mặt? Hay là cái ngày ấy sẽ không bao giờ đến? Và xin tiếp tục chờ đợi.Và lãng quên chờ đợi.

Và say đắm với tặng phẩm của đất trời tha hồ chờ đợi:

Món quà

Anh hôn đằng sau

Anh hôn đằng trước

Anh hôn phía dưới

Anh hôn phía trên…

Đỗ thi sĩ hôn gì mà lung tung thế?

Chiếc áo của em

Món quà em tặng

Chiếc áo lạ lùng

Có mùi biển mặn

Có mùi dừa xiêm

Có mùi cát trắng

Có mùi quê hương…

Ra là thế.

Rồi ông đưa em đi lễ:

Em tin có Chúa

Ngự ở trên cao

Còn anh tin Chúa

Ngự ở trong nhau

Đưa em đi lễ

Vầng trăng treo nghiêng

Em làm dấu thánh

Anh làm dấu em.

Thật là may mắn người con gái được ông đưa đi lễ. Tôi mong một ngày nào được ông dạy cho cách làm dấu ấy.

Ông làm dấu xong rồi thì ông giả sử:

Giả sử

Giả sử sóng thần ập vào Nha Trang

Ập vào Mũi Né

Anh chỉ kịp quẳng em lên một chiếc thuyền thúng

Vút qua những ngọn dừa

Những đồi cát trắng

Em nhớ mang theo đôi quả trứng

Vài nắm cơm

Vài hạt giống

Đừng quên mấy trái ớt xanh…

 Biết đâu mai này

Ta làm An Tiêm

Trở về làng cũ

Nơi này ta sẽ gọi là Nha Trang

Nơi kia gọi là Mũi Né…

Cho nên

Sao chẳng sớm mà thương nhau hơn?

Ông giả sử thật tuyệt vời. Ông hỏi như thế thì đến cả sỏi đá cũng dạt dào yêu thương.

Những câu thơ cuối bài của ông thường là những cú đấm nốc ao, bất ngờ. Ông có bài thơ tình đọc lên ắt hoả phải bốc:

Thơ tình

Anh đọc bài thơ tình

Em ngồi nghe lặng thinh

Anh đọc thêm bài nữa

Em vẫn ngồi lặng thinh

Anh buồn không đọc nữa

Em chồm lên hôn anh

Như đổ dầu vào lửa…

Thơ của Đỗ thi sĩ vốn hay bất ngờ chồm lên như thế, lắm lúc làm ta bàng hoàng, lại lắm lúc xui ta bật cười. Những lát cắt nóng hổi từ đời sống.

Có lúc ông như tự đặt ống nghe lên tim mình mà định bệnh: bệnh nhớ.

Nỗi nhớ

Thôi hết cồn cào

Thôi không quặn thắt

Chỉ còn âm ỉ

Chỉ còn triền miên

Thì thôi cấp tính

Thì đành kinh niên!

Ông lại còn nghe thấy cả tiếng chổi ở trên chùa?

Hội An Sớm

Hội An còn ngái ngủ

Mái chùa ôm vầng trăng

Giật mình nghe tiếng chổi

Gà gáy vàng trong sương

Không biết ông nghe bằng lỗ tai thi sĩ hay lỗ tai y sĩ? Trời gần sáng, mà trăng vẫn nằm trong vòng tay ôm của mái chùa thì hẳn phải là vầng trăng rằm. Và vì thế nên tiếng gà nó mới vàng trong sương. Kẻ tiểu sinh này đoán thế có đúng không, thưa Đỗ thi sĩ?

Cái lỗ tai ấy của ông nghe thật lắm điều thú vị. Nó nghe được cả tiếng thu. Không phải tiếng thu xào xạc của nai vàng ngơ ngác, mà là tiếng thu day dứt của bầy quạ:

Thu

Chiều thu

Nghe tiếng quạ

Giật mình

Nỗi xa nhà

Nhớ sao

Mà nhớ

Quá!

Tiếng quạ, hay tiếng “Quá”? Hay quạ tức thị quá?

Tôi cũng có lần nghe thấy tiếng quạ ấy cách đây bốn mươi mấy năm, cũng trong một buổi chiều thu bơ vơ bên con suối đã cạn ở Minneapolis, cũng ngập hồn nỗi thương nước nhớ nhà những năm mới tản cư. Xin chép ra đây như mấy lời đồng thanh dị cảm vậy:

…

Những viên sỏi đã nổi lên

Lộ những bộ mắt buồn như đưa đám

Tiếng quạ kêu chiều cuối thu nghe ảm đạm

Lòng hỏi lòng tiếng quạ hay tiếng mình

Tôi hỏi tôi tiếng quạ hay tiếng đồng bào tôi

Tôi hỏi tôi có bao giờ quạ khóc?

(Tô Thẩm Huy) 

Đã có bao nhiêu bài thơ viết về Mẹ, cho Mẹ, nhớ Mẹ. Những bài thơ nghe đã quá quen thuộc, đến độ chưa đọc mà như đã đọc rồi. Nhưng không phải lúc nào cũng thế. Mời quý vị chuẩn bị tinh thần đón đỡ một cú nốc ao đầy yêu thương, vỗ về săn sóc, đầy ngỡ ngàng, ngạc nhiên, sung sướng. Bài thơ viết về người Mẹ, mà nói thật nhiều về người con:

Nụ cười của mẹ

Mẹ tôi có nụ cười lạ lắm!

Lúc nào bà cũng nhìn tôi mà cười cười. Không nói.

Lúc tôi có vẻ vội vã chào lẻn đi đâu đó,

bà cười cười tha thứ.

Vậy hả con?

Lúc tôi lần khân thì nụ cười như biết rồi, khỏi nói.

Những lúc tôi mang chuyện bực mình

thì như thôi đi, đừng sinh sự!

Nhột nhất là khi bà cười như châm biếm

lúc tôi loanh quanh kiếm chuyện…

Mẹ tôi cứ vẫn cười cười như thế

suốt ba năm trên bàn thờ!

Ông thật may mắn có người mẹ không bao giờ ly cách. Hai mẹ con chẳng xa nhau ngày nào, dù ở đâu, trong hoàn cảnh nào. Và Mẹ ông hẳn phải thương yêu lắm người con hiếu tử, ngoan ngoãn, ý nhị ấy.

Lại xin mời đọc một bài thơ khác về Mẹ, để kết bài viết này ở đây.Bài thơ tuyệt diệu, dịu dàng, đẹp. Giản dị, nhưng thừa năng lực xoá tan mọi u buồn trên trần thế:

Bông hồng cho mẹ

Con cài bông hoa trắng

Dành cho mẹ đóa hồng

Mẹ nhớ gài lên ngực

Ngoại chờ bên kia sông…

Buổi trao hoa thật ân cần, âu yếm. Mẹ đang về với Ngoại ở bên kia sông, con gửi Mẹ đóa hồng. Mẹ cho con hoa trắng. Buổi vĩnh ly sao êm đềm, hạnh thục.

Ngoại chờ bên kia sông…

Thanh bình, thư thái, hân hoan.

Vì bên kia sông nơi Ngoại đang chờ là vườn tược cây trái, là khói lam chiều, là kinh nước ngọt. Là hai miền sinh tử đang tan hòa trong cõi trời thanh tịnh, bất sinh, bất diệt.

Chỉ năm chữ, mà gói cả tư tưởng của Kim Cang Bát Nhã kinh. Năm chữ hiền lành. An nhiên, tự tại. Năm chữ đã biến cái phù du ngắn ngủi của thân phận con người thành vĩnh cửu. Đã biến Thơ Ngắn Đỗ Nghê thành tiếng thơ dằng dặc đến vô cùng.

 

Tô Thẩm Huy

Houston, Tiết Thu Phân, 2018

 

VI/ NGUYỄN THỊ KHÁNH MINH

CÒN CHÚT ĐỂ DÀNH

Việc đầu tiên khi nhận được bản thảo Để Làm Gì là tôi in ra, với ý nghĩ, phải được cầm tập giấy ấy trên tay, nằm trên chiếc ghế mây ở ngoài hiên màđọc, cùng với tiếng gió thổi lùa qua lối vườn hẹp lao xao giọng lá, cùng tiếng nắng đi khẽ qua thềm, cùng tiếng lòng mình im nhưđám mây dường không tan trong màu xám rất gần kia, phải, mấy hôm nay mưa nên trời như thấp xuống. Vậy mới đủ bộđể cung kính những con chữ trên trang giấy thẳm. Khi có thơ, văn, trên trang giấy thì giấy kia bỗng sâu huyền, sống động lạ lùng. Nó như trời có mây, biển có sóng, suối có những hòn cuội lăn theo, sông có những con đò nhỏ lặng trôi, nó nhưđôi mắt nhìn mình thăm thẳm… nên chi mình thích lắm, đọc sách in giấy -hoài cổ-, anh Ngọc có nói và cười bình thản, để làm gì, không nhỉ.

Và như thế bên hiên mỗi sáng có người thiền với chữ, có cái gì đó tự nhiên thành, chả là dịch corona­virus khiến cầm chân mọi người ít dám đi đâu, giờ lại được làm con mọt sách gặm nhấm chữthơm. Thế chẳng phải làbất chiến mà cóđược thú vui ngàn xưa trong những ngày đầy lo lắng dịch bệnh này đó sao!

*

Và đọc, và đọc, vừa đọc vừa dè sẻn như sợ hết, rồi cảm xúc đòi đoạn…Anh Đỗ Hồng Ngọc gọi là tạp bút là tùy bút gì cũng lọt với Để Làm Gì. Vì có những bài đầy chất thơ (thêm, đẫm thiền vị) của tùy bút. Xen kẽ với mọi đề tài viết theo ngẫu hứng, rồi những bài cảm nhận về các tác giả, mà loại nào cũng đều được viết dưới lăng kính thơ mộng để chuyển tải những suy nghĩ uyên bác một cách rất thâm trầm nhẹ nhàng. Đó làđiểm đặc biệt của bút pháp Đỗ Hồng Ngọc. Lôi cuốn người đọc bằng sự hiểu biết sâu rộng mà không giáo điều, giáo khoa, chỉ làởđâu đó thì thầm to nhỏ…, như Emily Dickinson từng nói “thi nhân chỉ thắp lên những ngọn đèn, còn chính họ thì bước ra ngoài.” (Sakya Như Bảo dịch)

*

Khi tôi đọc đến trang cuối cùng, ngồi yên lặng một mình ngoài hiên với trời đang đổ mưa, cơn mưa đầu mùa báo hiệu mùa xuân đến. Nhìn những bong bóng nước vỡ tôi thấy mình quá thấm thía câu tùm tỉm, để làm gì. Có phải khi người ta bình yên nói để làm gìlà lúc người ta buông bỏ mọi mong cầu, là lúc người ta không còn đôn đáo với những mục tiêu mà mới đây thôi đã làđiểm cho họ hăm hở bước đến? Và chợt lúc nào đó nhìn hạt lệ mình rơi trên những con chữ một buổi “về thu xếp lại” thì cười một mình, Rồi lại cũng không thể không trầm ngâm ngẫm ngợi với “để làm gì”, với “sáng, trưa, chiều, tối”…(Lời Ngỏ, tr.2), có khóc có cười, có trầm ngâm ngẫm ngợi thì dường như biết để làm gì rồi, thưa anh.

*

Và có phải, khi hỏi, để làm gì, thì người biết sống đầy đủ từng phút giây, tiếp xúc trọn vẹn những kỳ diệu đang xảy ra chung quanh và trong mình, có phải vậy gọi là chánh niệm? Dường như là những năng lực của nuối tiếc của chờđợi đều dồn vào năng lực tỉnh thức sống với ở đây và bây giờ nên người đã cảm được triple cái mầu nhiệm phút hiện tiền? Đó là cảm nhận của tôi khi đọc những tình những cảnh, những nhận xét, những chiêm nghiệm, trong tập Để Làm Gì này.Tình thì chân thật, hóm hỉnh. Cảnh thì tâm và người quyến luyến nhau đến nao lòng. Chiêm nghiệm thì sâu lắng, bác học mà giản dị, và lạ thay giọng kể lại bình yên tự tại đến thế! Nhiều khi phải qua cái tuổi nào đó, thấm đẫm một chút cuộc đời, nghe được cái tiếng kêu ‘trần thế’ thì mới nhận ra sự thiết yếu của tự tại. (tr.6)

*

Khi đọc xong một bài nào tôi thường ghi chú ngay cảm nghĩ của mình, xin chép vào đây những ý nghĩ tản mạn đó, không phải là một bài viết mạch lạc về một tác phẩm, như thể tôi đang ngồi nghe người kể chuyện và tôi được nói ngay ý mình, vậy thôi, chẳng “để làm gì.”

Tôi đặc biệt thích những bài tả những cảnh nơi ông đãđi và đã sống, bạn ơi hãy đọc đi rồi có thấy như tôi, cái gắn bó nhân duyên của tình ấy và cảnh kia, cái “đối cảnh vô tâm” của người thật làảo diệu, cảnh có làm tâm quyến luyến nhưng lại chẳng thể buộc tâm. Phải chăng đó mới thật là thiền?

Ởđoạn cuối của bài An Lạc, thử”chiết tự” từ Hán Việt thì ra An là ‘dưới mái nhà có   người con gái’, còn Lạc là ‘ngôi nhà tràn đầy ánh sáng, có vườn cây xanh mát, có tiếng hát, tiếng đàn, tiếng dệt cửi, quay tơ…’. Rồi cùng mà cười. “Em lo gì trời gió/ em lo gì trời mưa…/ em cứ yêu đời đi/ như lúc ta còn thơ/ rồi để anh làm thơ/ và để em dệt tơ…” (Thoi tơ, thơ Nguyễn Bính, nhạc Đức Quỳnh) (tr.7) 

Tác giả nối ý nghĩa của An Lạc với những câu thơ khiến tôi vui quá thốt lên, hóa ra thi sĩ chân quê Nguyễn Bính nhà mình đã vẽ một cảnh An Lạc theo câu chúc “Thân Tâm thường an lạc” như nhà Phật rồi, mà chắc chắn là Nguyễn Bính lúc viết câu thơ này chưa học Phật, đúng không?

*

Cái thú vị khi đọc Đỗ Hồng Ngọc làở những chỗ kết nối rất thi vị này, như bài Nhớ Tiếng Thu Giữa Boston cũng thế, cùng ông nghe Thu.

Và tôi bỗng nghe. Vâng, lúc đầu tôi chỉ định dòm thôi nhưng tôi bỗng nghe, không phải là tiếng quạkêu quang quác thảng thốt, cũng không phải tiếng chim cu gù rúc rúc quyến rũ mà là một thứ tiếng lạ, tôi chưa từng nghe bao giờ, tiếng thu.

…Mà cũng không phải để nghe tiếng, dù là tiếng lá rụng mà để nghe mùa.Cái tiếng mùa đi, mùa về, cái tiếng đời của mỗi chúng ta. Nóở trong không gian dằng dặc, đùng đục thênh thang kia, vàở cả trong thời gian hun hút, héo hon rơi rụng nọ, một thứ“tiếng động nào gõ nhịp không hay” (Trịnh Công Sơn) đóchăng. Tôi bước đi từng bước nhẹdưới những vòm cây và nghe cho hết tiếng thu về.

Người nghe sống hết cái xao xác của lá vàng để rồi chợt ra, Lưu Trọng Lư! Mới tận tường: Có phải cái tiếng thổn thức, cái tiếng rạo rực của ai kia đãmột hôm thu làm cho chàng thi sĩtrẻtuổi trở thành một con nai, lang thang dẫm ngập lá vàng, hẫng bước đi mà chẳng biết vềđâu, vì sao…(tr. 17, 18)

Đường tơtiếng mùa đi bỗng nối kết hai tâm hồn đồng điệu, hẳn nơi rừng thu kia Chàng Nai Lưu Trọng đang đứng chờđể “high five” với chàng thơ họĐỗ một buổi thiên thu nào đó… Có người đọc cảm mình như mình thế này thì, chẳng là khoái ru, nhà thơ Lưu ơi?

*

Ở bài Tôi Cũng Tin Vậy, Đọc bản thảo Thử Bút của bạn, nhớ lời bạn dặn viết gấp mấy dòng màđắm và sợ.Như ngọn lửa ngún trong một gốc cây to, chỉcần thổi vài hơi làđủ bùng cháy. Bùi nhùi đâu mà sẵn sàng đến vậy? (tr.34)

Người Đọc và Văn như bùi nhùi và lửa, vậy mới đã đời tan nát tri âm! Đây là câu tôi viết dưới bài ngay sau khi đọc. Và không hiểu sao hình ảnh chiếc lá bàng đỏ ở cuối hành lang của một phòng thí nghiệm , làm tôi buồn bã vì nỗi hiu quạnh của phận người đến vậy, mỉm cười màánh mắt vời vợi xa xăm. Như một khung cảnh nào Đỗ Hồng Ngọc cũng nắm được cái đoạn trường mà lôi ra.Để Làm Gì.

*

Cóđiều này, đối với Đỗ Hồng Ngọc, Nghe cảnh chứ không Nhìn. Cái nghe của tâm hồn mẫn cảm, khiến những nơi chốn ông đi qua, kể lại, nó như mang một hồn vía khác, đem lại cho người đọc một cảm xúc mới lạ về một cảnh mà họđã biết.

Khi muốn kể cho cô bạn Susan nghe về cái hay của bài thơ Quê Hương của Đỗ Trung Quân, ông bối rối, Làm sao cho cô nghe được mùi hương cau của những đêm trăng tỏ(tr.26), muốn vậy, chắc phải mời Susan về quê mùa hoa cau, cùng nhau, thật yên lặng, dưới trăng tỏ, nói khẽ với Susan, nghe hương cau đi, chắc trong không khí đó Susan sẽ tự biết lắng lòng bắt nhịp được hơi thở của trăng, của thềm quê, thì nghe ra hương cau…, khi Đỗ Hồng Ngọc dùng chữ Nghe, tôi cảm thấy, ông sống bằng cách tan mình vào. Phải chăng là vô ngã?

Lại có cả cái Nghe này, Và để nghe cái Tết tuổi thơ thấm vào trong da thịt, trong nhớ nhung… (Tr.157),thế chẳng phải là tan ra đó sao?

*

Và tâm thái, kệ nó.

Máy bay êm như ru, hay tôi êm như ru, không biết. Kệ nó…Thì ra tôi đang bay về phía mặt trời. Thời gian ngắn lại. Tôi vặn đồng hồ thêm hai tiếng theo thông báo. Không cảm thấy mình mất đi hay được thêm.Bởi, làm gì có thời gian?Thời gian chỉ                      đựơc làm bởi không gian đó thôi. (tr.35)

Đỗ Hồng Ngọc luôn tự tại thong dong bởi cách nhìn mọi điều, nó là như vậy, và dù tâm và cảnh quấn quít nhau (sao lạnh như tiền được!), nhưng không vướng bận, cái sống bây giờ vàởđây của người thiền ở cốt lõi ấy. Tôi rất tâm đắc Không cảm thấy mình mất đi hay được thêm…, vẫn là thời gian ngay lúc này với hít vào, thở ra. Người ghi nhận mọi thứchung quanh thật tha thiết sâu sắc mà bình thản.

…Một loài hoa lạ.Rực rỡ, choáng ngợp mà lạnh lùng. Chen chúc mà riêng tư. Rộn ràng mà kín đáo. Mong manh. Thanh thoát. Bỗng dưng tôi nhận ra tất cả cái đẹp của vô thường! Hoa có vẻnhư không cómùi hương, hay không cần có mùi hương, hay hương rất thoảng vì đã pha trong màu mây, màu nắng, màu gió để rải đều khắp các rặng núi xa kia? (tr.37)

Tha thiết vì đang sống trọn vẹn hết tâm ý với đối tượng, và trọn vẹn nên nhận ra cái đẹp của vô thường. Thế nên, để làm gì là một tâm thái an nhiên, vô ngã. Kệ nó, Để rồi ung dung tự tại cười nụ niết bàn?

*

Cách sống đón nhận mọi thứ theo tùy duyên của ông cũng là một yếu tố khiến sự đổi thay, không tác động lên tình cảm, ví dụ,

Ôi vô số là thuyền thúng.Trước kia gọi là thúng chai. Nay sơn xanh đỏ coi cũng ngộ…Có thể ghéthăm nhà xưa của ngoại, giờ con cháu toàn trồng thanh long, phá hết cả vườn trầu cau, dừa chuối, bưởi cam… xinh đẹp ngày xưa, lấp cả giếng nước thiệt là quá uổng. Bù lại, giờđi hái thanh long cũng vui…(tr.139) …Chiều tôi lang thang ra bờ hồ. Xuân Hương giờ đã đẹp. Chút lòe loẹt. Chút diêm dúa.Thôi kệ.Tôi cũng tìm ra được một góc hoang.Thịtại môn tiền náo/ Nguyệt lai môn hạnhàn phải không?(tr.166)

…Buổi tối, nhằm ngày 14 âm lịch, sông Hoài trở nên sống động diệu kỳ với muôn màu sắc hoa đăng đằm thắm rực rỡ, với những chiếc thuyền lang thang xuôi ngược làm ta có cảm giác nhưđược sống trong huyền sử nào xa… Một nhóm thanh niên đàn hát quyên tiền làm từ thiện, một nhóm chơi trò chơi…đập niêu ầm ĩ. Có một cái chợ đêm trời ơi bán đủ thứ trên đời, quà lưu niệm, thức ăn các thứ… hết sức náo nhiệt. (tr.148,149),

Có thấy một Đỗ Hồng Ngọc như thế không, một tâm thái xuề xòa không quan trọng điều chi, phải dùng chữđộ lượng thìđúng hơn, tôi nghĩ cóđược là do đã trải qua bao kinh nghiệm thăng trầm của cuộc đời. Này thuyền thúng xưa kia là thúng chai, nay quết xanh đỏ, ừ, thìcoi cũng ngộ, cái giếng nước ngày xưa để tưới trầu tưới cau bị lấp, thiệt quá uổng, giờ bù lại đi hái thanh long, ừ, thìcũng vui. Hồ Xuân Hương lòe loẹt diêm dúa, ừ thì, thôi kệ.Và hình như chẳng động tâm buồn giận khi bên cạnh cái không khí nhưhuyền sử nào xa là cái chợđêm huyên náo, làm như người có thể vừa nghe cái ầm ĩkia lẫn tiếng tơ trầm lặng huyền sử nọ. Mới thấu cái nhìn đơn thuần của kẻ tu thiền, mới hay cái đạt đạo của đối cảnh vô tâm.

*

Trở lại Chỉ Ngần Ấy Thôi, đoạn tả hoa đào ở bài này rất tuyệt, chỉ muốn trích hết ra đây…, nhưng tôi muốn nhấn một ý nhưđã nói ở trên, Nghe, Nghe tiếng thì thầm nhựa chảy trong cây,

Rồi từđồi hoa xa lạấy lại bỗng gần gũi thơ Phạm Thiên Thư, Đỗ Hồng Ngọc thuộc nhiều thơ và kinh Phật, bất cứ một cảnh, một tình huống nào cũng được gắn kết với Thơ, với Kinh, và cảm nhận qua trung gian của cảm xúc Thơ, nên văn đẹp, siêu thực, và nội dung chứa nhiều ẩn dụ sâu sắc.

Đường chim bay hay đường đèo dốc, đường cóánh trăng trong lòng đáhay đường có nắng hoa đào?… Trên bãi nắng sân trường, cỏ xanh mượt, những cô sinh viên Nhật nhỏ nhắn xinh đẹp ngồi nép từng cụm dưới hoa, vừa sưởi nắng vừa ăn trưa. Cótiếng chim ríu rít rụt rèđâu đó.Cầm lòng không đậu, tôi cũng ngả lưng vào một cội đào để nghe cho hết tiếng thì thầm. Rằng xưa cógãtừquan. Lên non tìm động hoa vàng ngủ say (Phạm Thiên Thư). Tôi không phải là gã từquan, cũng không tìm động để ngủ. Tôi thức, thao láo thức. Tôi thửnâng một chùm hoa đào trên lòng bàn tay. Hoa tíu tít bám vào từng kẽ ngón.Hoa bám rất chặt, như níu lấy khiến tôi cũng giựt mình. Bỗng dưng từng cánh hoa run rẩy. Càng lúc run càng mạnh. Ô hay, chẳng lẽ?À, mà không, gió! Xin chứng giám, gió!(tr.38) Tủm tỉm mà cười với tác giả, cái gìđó rất người mà gió làm cho nó thơ mộng quá trời!

Cũng trong trang này có câu, Rụng làđể rụng vậy thôi như nở là để nở vậy thôi. Trong lúc nói chuyện qua viber, anh em chúng tôi có bàn, hoa có bao giờ hỏi nở để làm gì không, tôi trả lời hoa nở không để làm gì, ai đó cứ việc tận hưởng phút giây ngắm, và anh bảo, vô tác vô nguyện. thanh tịnh bổn nhiên/ tùy chúng sinh tâm/ chu biến pháp giới/ tòng nghiệp phát hiện…

Chỉ Ngần Ấy Thôi là một trong những bài tôi thích nhất.

*

Trong không khí Trà Đạo Nhật (tr.47), người sống hết Một hồn Nhật lâng lâng của những kawaba­ta, akutagawa… xa lắc xa lơ, để rồi thấp thoáng ảo diệu lời kinh Ly tướng thì thấy…

Khi nâng chén ngang mày, nghe thoáng mùi hương trà xanh tỏa ngát. Nếm. Không chát đắng. Tan loãng. Nghe ngóng. Ngập ngừng. Bàn tay nâng niu, bàn tay che chở. Bàn tay nào của Đức Phật mà Tôn Ngộ Không cân đẩu vân ngàn lần không thể vượt qua? Chậm rãi, từtốn, cẩn trọng.Để nghe cho hết từng tác động thân hành. Nghi thức chỉ là tướng. Ly tướng thì thấy. Thấy gì? Thấp thoáng bóng Trương Chi dưới đáy ngọc hay Duy Ma Cật giữa trùng vây? 

*

Ở Lời Ngỏ,

Không ngờ mà khi thu xếp, gom góp lai rai như vậy, tôi đã không cầm được nước mắt khi đọc lại “nỗi cô đơn uy nghi” của Võ Hồng, “người ta ở bển” của Trần Vấn Lệ, “gọi chiều nước lên” của Trần Hoài Thư, và“lắm nỗi không đành” của Võ Tấn Khanh…

Rồi cũng không thể không cười một mình với “làm mới thơ”, với “vơ vẩn cùng Mây” với “hỏi không đáp, bèn…”

Rồi lại cũng không thể không trầm ngâm ngẫm ngợi với “để làm gì”, với “sáng, trưa, chiều, tối”… (tr.2)

Tôi cũng rưng nghẹn khi đọc, “Bụi chuối nhà ai bên đường đã mọc/ Chuối mẹ chuối con, trời hỡi quê nhà!” …(Thơ Trần Hoài Thư). Hai tiếng “trời hỡi” mới “cải lương” làm sao! Nhưng nó đã làm tôi muốn rơi nước mắt! Cải lương thật tuyệt vời! Nó đập vào tâm can mình khiến giờ nhìn bụi chuối, vẫn hàng ngày đứng bên kia đường, thấy nó như có gì khang khác, nó như ấm áp hơn, mẹ hiền hơn với những tán lá như cánh tay xòe ra ôm tiếng kêu tha thiết trời hỡi quê nhàc ủa đứa con xa xứ. Cảm ơn Nhà thơ Trần Hoài Thư. Người bạn anh đã nhắc…gió bấc đã hiu hiu rồi đó Thư ơi! 

*

Và cả nỗi cô đơn uy nghi kia, cụm từ này diễm lệ quá, nó gợi một cách chính xác hình ảnh lẫn nếp sống của nhà văn nổi tiếng Võ Hồng, ông đã sống và sáng tác trong côđộc, một sự cô độc bận rộn như ai đóđã nói, nên cô độc mà không cô đơn, bởi, Vẫn căn gác nhỏ với một phòng chừng hơn chục mét vuông, vừa là chỗ ăn chỗ ngủ, chỗ làm việc, tiếp khách… lổn nhổn những sách vở, thư từ, bản thảo… tràn lan trên bàn, trên nệm, dưới gầm. (tr.72) từđó mà bao áng văn chương cống hiến cho đời. Nên hiểu vì sao là cô đơn uy nghi. Người ở đó nhìn vào nỗi cô đơn của mình, nhìn vào những con chữ vây quanh mình, và uy nghi nhất, đó là không gian và thời gian người trở về với mình, cõi tâm thanh tịnh bao la, và tôi hiểu phút giây không cầm được nước mắt của Đỗ Hồng Ngọc khi về thu xếp lại, có lẽ lúc ấy ông đã chạm vào cái tơ mành uy nghi thiên thu của Võ Hồng,

*

Cả cái không thời gian không gian của hai chàng trai trẻ Đỗ Hồng Ngọc và Trần Vấn Lệ, cảm động đến ngây thơ, (hay ngược lại?), có lẽ nước mắt này là mừng cho cảm xúc mãi thanh tân của nhau chăng?…có một cô răng khểnh,/ bẻ gãy sừng trâu,/ rất xinh/ đúng là người xưa của bạn/ nàng nhìn ta/ đôi mắt long lanh/ khi ta nhắc tên,/ nàng ôm chầm lấy ta rồi kêu to/ ngoại ơi ngoại ơi…/ trần vấn lệ/ ổng dìa nè! (tr.99), có nghĩa là người ở bển cũng mãi hoài cố nhân! Thương hết biết…

Chẳng khác là bao tâm trạng, Có một bài thơ không ngày tháng của Lữ Quỳnh như một nỗi hồi sinh, một lần cứu rỗi:… Tóc trắng mây bay lòng mới lớn/ Từ em anh chợt tuổi hai mươi (thơ Lữ Quỳnh) (tr.102), làm tôi nhớ Quang Dũng, em mãi là hai mươi tuổi/ ta mãi là mùa xanh xưa…Những tình nhân đời đời hai mươi tuổi ơi, Tình yêu vô hiệu hóa Thời Gian đó chăng.

Rồi Lắm Nỗi Không Đành kia khiến, thưa người lệ chẳng đặng đừng nên rơi…(NTKM), vậy đừng cho mình là mít ướt nữa nhe thiền huynh.

Tôi nghe trên những con đường trẻ trung mà những người bạn này đã đi qua, giờ này nó đang, Đường nhớ chân từng lớp cuội rang sầu (thơ Võ Tấn Khanh) (tr.113)…, Còn mấy ai trở về để được bâng khuâng tâm trạng, hoa đào năm ngoái…?

Phải nói là những trang viết về bằng hữu của Đỗ Hồng Ngọc, vừa được đọc những thơ hay, vừa cho thấy được một tình đáng quý ở đời, mà người xưa gọi là đạo, Mây phản chiếu ánh sáng mặt trời mà thành ráng, suối treo vào bờ đá mà thành thác. Cũng là một vật nhưng nương vào vật khác thì tên gọi cũng nhân đó mà khác đi. Đạo bạn bè sở dĩ quý là vì vậy. (Trương Trào, Huỳnh Ngọc Chiến dịch).

*

Và.Đồng điệu làm sao:

Nhiều người sợ rằng đến một lúc nào đóngười ta sẽ không còn ai đọc sách in trên giấy nữa, vì đã có CDRom, Ebook… tiện lợi hơn nhiều!

Thực ra, với những người yêu sách, mê sách, thì không có lý do gì để phải…hoảng sợ! Bởi vì sách không chỉ để đọc mà còn để nhìn, để ngắm, để ngửi, để nghe…(tr.40)

Ngay đầu bài tôi đã nói rồi, việc đầu tiên tôi nhận bản thảo là in nó ra để đọc, để nhìn chữ trên giấy. Và cũng giống nhau (có khác chút xíu, bút chì tôi gọt nhọn, không giắt mép tai).

…khi đọc, thường có cây viết chì cùn, giắt ở mép tai, thỉnh thoảng đánh dấu chỗ này chỗ nọ, ghi chú điều này điều khác. Tóm lại, người mê sách đã biến cuốn sách đâu đâu thành thân quen, gần gũi, riêng tư của mình… Vài chục năm sau, một hôm dọn dẹp nhà cửa, tình cờ đọc lại những dòng xưa, nét xưa… không khỏi ngậm ngùi!

Nên tôi đang rất mong cầm được tập sách Để Làm Gì thơm mùi giấy xưa để nhìn, để ngắm, để ngửi, để nghe. Để làm gì, tôi e rằng mình cũng sẽ như vậy, để còn sống được chút ngậm ngùi khi một buổi, một mình thu xếp lại, gặp bạn sách xưa mà rơi lệ…

Santa Ana, ngày mưa đầu mùa xuân, 12.3.2020

ntkm

 

VII/ PHẠM CHU SA 

ĐỖ HỒNG NGỌC: BÁC SĨ VIẾT TỪ TRÁI TIM 

Mười năm qua, sách của Đỗ Hồng Ngọc luôn nằm trong danh mục bán chạy nhất, được tái bản nhiều lần, được trưng bày trên các kệ trang trọng nhất trong các nhà sách. Đúng là một hiện tượng. 

Sách của Đỗ Hồng Ngọc không phải là những tiểu thuyết diễm tình, éo le, gay cấn, cũng chẳng phải là sách nhất thời “ăn theo” một sự kiện nào đó, hay những sách dạy làm giàu thời thượng… Đó là những tập tản văn về một nếp sống an lạc, về thiền như Nghĩ từ trái tim, Như thị, Cõi Phật đâu xa, Cành mai sân trước… Các tập tùy bút về sức khỏe viết cho người cao tuổi như Gió heo may đã về, Già ơi chào bạn, Thiền và sức khỏe, Nếp sống an lạc… Và cả những ký sự nhân vật như Những người trẻ lạ lùng, Nhớ đến một người, Một hôm gặp lại… viết về những người quen thân với tác giả, trong đó có nhiều trí thức, văn nghệ sĩ nổi tiếng. 

Cõi thơ của Đỗ Hồng Ngọc 

Nhiều người nghĩ Đỗ Hồng Ngọc là một bác sĩ làm thơ, viết văn và gọi anh là bác sĩ – nhà văn. Nhưng tôi vẫn thích gọi anh là thi sĩ – bác sĩ bởi Đỗ Hồng Ngọc có cốt cách thi sĩ trong con người bác sĩ.Anh làm thơ và có thơ in từ thời sinh viên – tập Tình người (năm 1967), ký bút hiệu Đỗ Nghê. Mấy năm sau khi ra trường là Thơ Đỗ Nghê (năm 1973). Tập thơ đã gây được tiếng vang trong văn đàn bấy giờ. Sau này anh trích một số bài trong hai tập thơ trên rồi in lại trong các tập thơ Giữa hoàng hôn xưa (năm 1993) và Thư cho bé sơ sinh và những bài thơ khác (năm 2010).

Bài thơ làm tựa chính Thư cho bé sơ sinh… Đỗ Hồng Ngọc viết năm 1965, khi còn là sinh viên y thực tập tại BV Từ Dũ: Khi em cất tiếng khóc chào đời/ Anh đại diện đời chào em bằng nụ cười/ Lớn lên nhớ đừng hỏi tại sao kẻ cười người khóc/ Trong cùng một cảnh ngộ nghe em…/ Khi anh cắt rún cho em/Anh đã xin lỗi chân thành rồi đó nhé/ Vì từ nay em đã phải cô đơn/ Em đã phải xa địa đàng lòng mẹ… Thôi trân trọng chào em/ Mời em nhập cuộc/ Chúng mình cùng chung/ Số phận con người. 

Tôi nhớ hình như khoảng sau ngày ký Hiệp định Paris (năm 1973) ít lâu, anh gửi tặng tôi tập Thơ Đỗ Nghê mới xuất bản. Tập thơ in ronéo nhưng trình bày khátrang nhã. Thơ Đỗ Nghê bàng bạc khát vọng hòa bình và cả nỗi ám ảnh của chiến tranh, đã gây được tiếng vang trong văn đàn bấy giờ. Anh ru con: Ngủ đi con ngủ đi con/ Rồi ngày mai khôn lớn/ Cầm súng với cầm gươm. Và anh ru vợ (hay người yêu?): Ngủ đi cưng, ngủ đi cưng/ Kề tai đây anh bảo/ Coi như mình chẳng có quê hương. 

Năm 1997 Đỗ Hồng Ngọc ra mắt tập thơ Vòng quanh, một “bút ký thơ” kèm những ký họa rất thú vị của chính tác giả vẽ lại những nơi chốn anh đã đi qua: Huế, Hà Nội, Boston, Montreal, Bắc Kinh… nhưng có lẽ ấn tượng nhất với thi sĩ là Paris. Một tâm hồn thi sĩ như Đỗ Hồng Ngọc mà lạc lối tới Paris giống như anh “trở về”. Vòng quanh ra đời sau chuyến đi Paris năm 1997. Thơ viết về Paris lan man gần phân nửa tập thơ: Paris với anh lạ mà không lạ/ Có cái gì đó rất thân quen/ Như sáng nay thăm lại tháp Eiffel… (Paris tháng Sáu). Hoặc: Ở Paris có thể/ Vào một quán cà phê quen/ Từ ba trăm năm cũ/ Làm một ly đen/ Với Voltaire, Bonapartre/ Hoặc Benjamin Franklin/ Khề khà cùng Jean Paul Sartre… (Café). 

Và cõi người của một bác sĩ 

Tác phẩm đầu tay viết về y học Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò anh ký tên thật bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, xuất bản năm 1972. Tôi nhớ lần đầu gặp Đỗ Hồng Ngọc khi anh mang tặng tôi cuốn sách này, nhờ tôi giới thiệu trên tuần báo Tuổi Ngọc (bấy giờ tôi là thư ký tòa soạn). Tuổi Ngọc là “tuần báo của tuổi mới lớn”, độc giả của báo cũng là đối tượng độc giả của cuốn sách. Tòa soạn là căn gác xép chật chội của nhà in nên anh và tôi ngồi ở quán cà phê trong con hẻm bên cạnh. Đỗ Hồng Ngọc là một người lịch thiệp, cử chỉ từ tốn, nói năng nhẹ nhàng, dễ gây cảm tình với người đối thoại. 

Hai năm sau Đỗ Hồng Ngọc viết cuốn y học thứ hai Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng. Cả hai cuốn sách viết về y học thường thức nói trên tái bản không biết bao nhiêu lần bởi cứ lứa tuổi học trò này lớn lên lại có lứa khác tìm đọc. Những bà mẹ này sinh con đầu lòng rồi lại có những bà mẹ sinh con đầu lòng khác. Những lời khuyên nhẹ nhàng cho lứa tuổi học trò hay các bà mẹ trẻ lần đầu sinh con với văn phong dí dỏm của Đỗ Hồng Ngọc rất hấp dẫn người đọc. Kể cả đến nay, sau 45 năm, hai tập sách y học thường thức ấy vẫn tiếp tục tái bản. Thế mới thấy cái duyên của BS Đỗ Hồng Ngọc. Học giả Nguyễn Hiến Lê khi viết tựa cho cuốn Những tật bệnh thông thường… đã viết: “Một bác sĩ mà là một thi sĩ luôn làm cho chúng ta ngạc nhiên một cách thú vị”. 

Năm 1997, Đỗ Hồng Ngọc cho ra đời một tập sách y học thường thức nhẹ nhàng Gió heo may đã về. Tác giả mượn một câu trong ca khúc Nhìn những mùa thu đi của Trịnh Công Sơn: “Gió heo may đã về/ Chiều tím loang vỉa hè/ Rồi mùa thu bay đi…” làm tựa tập tản văn viết cho lứa tuổi chớm già. Chỉ trong năm 1997 Gió heo may đã về đã tái bản đến ba lần, đủthấy sức hút của tác phẩm. Mặc dù đề tài viết về sức khỏe của tuổi già đã có nhiều bác sĩ tên tuổi viết như BS Nguyễn Ý Đức, một chuyên gia về lão khoa nổi tiếng ở Mỹ, hoặc GS Ngô Gia Hy đã viết nhiều cuốn về tuổi già. Thế nhưng Gió heo may đã về được viết dưới dạng tùy bút nhẹ nhàng như những lời tâm sự, người đọc dù khó tính mấy cũng sẽ mỉm cười thích thú khi đọc. Tác giả cũng khá bất ngờ khi tập tản văn nhận được sự đón nhận nhiệt tình của đông đảo bạn đọc – có lẽ hầu hết ở lứa tuổi chớm già như anh. 

Các tập ký sự nhân vật: Những người trẻ lạ lùng, Nhớ đến một người… Đỗ Hồng Ngọc viết về những cuộc gặp gỡ, những cuộc chia tay, những cuộc hạnh ngộ diệu kỳ. Anh nhớ những gương mặt, những cá tính, những tài năng không thể nào quên, như học giả Nguyễn Hiến Lê, một tấm gương kiên nhẫn, có ảnh hưởng không nhỏ trong cuộc đời anh. Hay bác sĩ – họa sĩ Dương Cẩm Chương, một bậc trưởng thượng cả trong y khoa và hội họa Việt Nam, hoặc nhạc sĩ Trần Văn Khê, nhà văn Võ Hồng, nhà văn Võ Phiến, bác sĩ – nhà văn hóa Nguyễn Khắc Viện… 

“Trái tim có cách nghĩ riêng của mình” 

Từ những tập sách viết về y học với một giọng văn nhẹ nhàng, các ký sự nhân vật như những lời tình tự đến những bài thơ trăn trở một thời tuổi trẻ hay những câu thơ lãng mạn ở tuổi chớm già, hình như Đỗ Hồng Ngọc không viết từ những nghĩ suy bình thường mà viết từ trái tim, dù trái tim không phải để suy nghĩ mà để yêu thương. Như trong tập Nghĩ từ trái tim (viết về Tâm Kinh Bát Nhã), Đỗ Hồng Ngọc đã viết “trái tim có cách nghĩ riêng của mình mà nhiều khi khối óc không sao hiểu được”. 

Đỗ Hồng Ngọc kể lúc anh dưỡng bệnh ở BV An Bình cuối năm 1997 sau khi mổ sọnão ở BV 115, anh đọc được Trái tim hiểu biết của thiền sư Nhất Hạnh viết về Bát Nhã ba-la-mật-đa Tâm Kinh do một người bạn cho mượn. Anh đọc và nghiền ngẫm. Trong lời dẫn nhập sách, Đỗ Hồng Ngọc viết: “Nghiền ngẫm rồi ngập ngừng. Rồi bức xúc, phải viết ra cho khỏi quên, để lâu lâu còn coi lại một mình. Ba năm nghiền ngẫm, sáu tháng viết và hơn hai năm ngại ngần, thỉnh thoảng đọc và sửa, nhờ vài bạn thâm giao chỉ thêm cho, rồi tìm tòi, tham khảo, loay hoay…”. Mãi đến sáu năm sau, cuối năm 2003, tập Nghĩ từ trái tim mới được ấn hành. Anh giới thiệu và giảng giải Tâm Kinh theo cách của anh, một bác sĩ, không ẩn dụ mà là những ví dụ, những từ ngữ dễ hiểu, dễ đi vào tâm thức người đọc. 

Nghiền ngẫm Tâm Kinh để chữa bệnh cho chính mình 

Đỗ Hồng Ngọc tâm sự: “Tôi tự nhiên mà khoái Tâm Kinh. Có thể là có duyên sao đó. Sau cơn mê, mổ xong tôi tỉnh dậy. Cười một mình.Ngu ơi là ngu. Đáng đời ơi là đáng đời.Rồi tôi lạ lẫm nhìn nắng chiếu qua khung cửa.Lạ lẫm nghe tiếng chim hót. Lạ lẫm thấy lá thông lắc lư trong gió…”. 

Đỗ Hồng Ngọc bảo anh viết những cảm nghĩ trong khi nghiền ngẫm Tâm Kinh cũng là để làm một phương thuốc chữa bệnh cho chính mình và chia sẻ cùng vài bạn bè thân hữu “đồng bệnh tương lân”. Và kể từ sau Nghĩ từ trái tim, những tập tản văn y học, tùy bút thiền, bút ký thơ, ký sự nhân vật của Đỗ Hồng Ngọc với văn phong thanh thoát, đầy chất thơ, nhẹ nhàng như gió thoảng liên tiếp được ấn hành rồi tái bản, tái bản.

Phạm Chu Sa

(Cập nhật ngày 09 tháng Tám, 2021,

[Nguồn https://vanvn.vn/do-hong-ngoc-bac-si-viet-tu-trai-tim/]

 

Thay lời kết:

Thưa bạn,

Với vài nhận định tiêu biểu của các tác giả viết về tác phẩm của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc (trong vòng năm mươi năm qua)mà tôi vừa chắt mót được, không có mục đích gì khác hơn là tôi xin mượn nó làm món quà mọn mừng sinh nhựt thứ 81 (tháng 8.2021) của ông, một tác giả mà lúc nào tôi cũng cố gắng học hỏi ở ông về cái đức giản dị và hiền hòa trong các trang sách ấy; cho dù ông viết về bất cứ lãnh vực nào, và bất cứ đề tài nào…, các trang sách của ông luôn luôn bàng bạc một tấm lòng!

 

Hai Trầu Lương Thư Trung

Houston, ngày 21 tháng 08 năm 2021.

 

————–

 

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Nguyễn Thị Khánh Minh: “REO TUỔI”, thư gởi Nguyệt Mai

05/08/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc 1 Comment

 

Ghi chú: Tháng Sinh Nhựt

(…) ai dè sáng nay 1/8, đã thấy trên trang nhà tranthinguyetmai  dọn hẳn một bữa tiệc sinh nhật thật hoành tráng đầy bất ngờ… với bao nhiêu là quà quý từ bạn bè anh em tặng Đỗ Hồng Ngọc “bát tuần”…!

(https://tranthinguyetmai.wordpress.com/2021/08/01/chuc-mung-sinh-nhat-bac-si-nha-tho-do-hong-ngoc/)

Và trong những món quà quý đó, có món “thư gởi Nguyệt Mai” của nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh…

ĐHN

 

Thư gởi Nguyệt Mai

“REO TUỔI”

 

NGUYỄN THỊ KHÁNH MINH

Nguyệt Mai gửi e-mail bảo, anh Ngọc đang ở sinh nhật 80. Ở là cư ngụ hả Mai. Ở là lúc, thời gian, phải không Mai. Em nói hay thật đấy, tôi đang hình dung những bước chân tuổi 80 hôn trên đất (sư Nhất Hạnh bảo thiền hành với những bước chân như là hôn mặt đất vậy), tôi đang tưởng thời gian đang bắt tay tuổi 80. Mà ai bắt tay ai trước, với bản chất như thế thì chắc là anh Ngọc nhà mình rồi, Mai đồng ý không? Bỗng nhiên tôi mở lại những hình của anh Đỗ Hồng Ngọc, hầu hết là anh cười, mà cười tủm tỉm, mỉm cười. Khi tôi đọc văn thơ của anh lần nào cũng thầm nói, anh Ngọc là vậy, cứ thế mà tủm tỉm đi tủm tỉm về tủm tỉm tới. Hình ảnh đúng như bao người nhận xét, hòa nhã, thong dong, từ từ, nghĩa là tất cả những hình ảnh nào mang tính dừng lại, thì là anh đấy! Anh là mỉm cười, là tủm tỉm, là dừng lại. Tóm lại, là tự tại. Khiến tôi nghĩ đến câu hỏi của Vô Tận Ý bồ tát: “Thế Tôn, Quán Thế Âm dạo đi trong cõi ta bà như thế nào?” Tôi thích nghĩa dạo chơi này lắm, anh Đỗ Hồng Ngọc qua mấy chục pho sách tung tăng cõi bụi độ thoát bao tâm tư thì quả là dạo chơi như thế đúng không hả Nguyệt Mai?

Trong sách Biết Ơn Mình, anh viết,

Xây dựng hình ảnh về chính mình (self-image) rất quan trọng, nếu đó là một hình ảnh tích cực nó sẽ giúp cho mình tự tin hơn và từ đó ảnh hưởng đến “môi trường” xung quanh; còn nếu là một hình ảnh tiêu cực thì sẽ rất không hay.

Tôi nhớ đã nghe trong một pháp thoại của thiền sư Thích Nhất Hạnh có nói, người đang mỉm cười là tỉnh thức, là chánh niệm, là lúc vững chãi thảnh thơi. Phải chăng anh Đỗ Hồng Ngọc luôn tự tại mỉm cười nên chi ba-con-nợ tham sân si kia chẳng có cửa mà vào? Thế có phải là Niết Bàn Lạc Trú như sư Nhất Hạnh giảng? Hình ảnh ấy đã để lại những tình cảm tích cực nơi người có dịp tiếp xúc anh hay tiếp xúc anh qua chữ nghĩa. Hình ảnh đó đối với riêng tôi như một nhắc nhở khi tôi lậm vào những thứ buồn bã linh tinh về cuộc sống về bịnh tật.

Nguyệt Mai bảo, anh Ngọc đang ở sinh nhật 80. Thì bây giờ chỉ nói cái gì liên quan đến cái tuổi thôi nhé Mai, mà nói về phạm trù này thì hầu như chiếm hết trong danh mục mấy chục cuốn sách của anh Đỗ Hồng Ngọc đấy, dám không! Tám mươi tuổi, nhìn dáng vẻ mặt anh thì thấy, ừ 80 thật (dạ thưa quả-táo-nhăn-nheo, can chi một chút eo sèo thời gian!), nhưng nghe anh nói chuyện, đọc văn anh thì ai cũng thốt lên, sao trẻ trung thế! Tôi nghĩ anh được phong thái như thế vì anh chấp nhận tuổi tác vui vẻ quá, đến tuổi nào thì reo tuổi ấy, đây là cách mà chị em mình nên bắt chước đó, Kim Quy, Duyên, Mai, Thu Vàng, Thanh Lương ơi, cái màu tóc bạc, cái da cổ nhăn nheo sẽ làm người ta quên ngó tới khi tiếp xúc với một ánh mắt ấm áp, một nụ cười thân thiện -nếu không tủm tỉm được thì cứ mở hết diện tích của cái miệng xinh, cũng tốt lắm-, khi nào đủ nội lực thì tức khắc tủm tỉm được thôi.

Mà anh đã vào mùa sinh nhật 80 ư anh Ngọc? Nhưng dường như ngày nào cũng là sinh nhật anh mà, nhớ câu thơ này không, Nguyệt Mai, khi em tổ chức sinh nhật anh Ngọc trên không gian ảo nên thơ của Những Tình Thân Ái?

 Anh không có ngày sinh nhật/ Nên mỗi ngày/ Là sinh nhật của anh… (Sinh Nhật)

… Mỗi ngày ta rơi rụng/ Mỗi ngày ta phục sinh (Vô Thường)

Ngày nào mở mắt ra cũng nhủ cười: -hôm nay sinh nhật mình- nên chi anh Đỗ Hồng Ngọc viết cả một loạt sách về cái nhân sinh quan reo tuổi -một võ công thâm hậu đủ sức mạnh để xoay sở với thời gian-. Đôi khi tôi nhìn những vết nhăn, vướng một bịnh nào đó của tuổi tác tôi cứ bị lôi về những kỷ niệm, làm sao tu để có được cái tuệ giác vô thường hầu ứng xử với những nỗi buồn ấy…

Ở đâu đó anh nói, đời người có ba hồi: Hồi trẻ, Hồi trung niên và Hồi đó. Cái Hồi đó này bao trùm cả ba hồi. Như giờ ai hỏi tôi đang ở hồi nào, chắc tôi trả lời, hồi đó, đúng lắm, vì ngay phút trả lời thì đã thành hồi đó rồi, nhưng không phải là hồi xưa đâu, là cái đã, vừa qua mà cứ lung linh rung rinh hiện tại. Thế thì em có hiểu thêm cái nghĩa của tủm tỉm không vậy, Nguyệt Mai? Anh lại bảo: … với tôi, tôi không hề biết mình đã có tuổi, tích tuổi, lúc nào tôi cũng thấy tôi đã già, và lúc nào tôi cũng thấy tôi còn trẻ (Thư Gửi Người Bạn Nhật Chưa Quen Biết). Bởi vậy mà tới tuổi nào anh cũng có vô số chuyện để đối thoại với chúng, và lúc nào cũng như đứng trước tấm gương tuổi mà hỏi, tôi bây giờ khác gì tôi xưa (Về Thu Xếp Lại), rồi tủm tỉm tay bắt mặt mừng với nó. Hẳn là thời gian cũng vui mừng khi có người bạn đồng điệu ngang cơ như thế. Luôn nhìn mình hỏi mình để thấy được từng lúc rơi rụng, phục sinh thì sao mà không vui vẻ với cái không ta để thảnh thơi mỉm cười?

Mai ơi, em có như tôi, vô cùng “gato” cái dũng ấy của anh không? Hùng lực ấy đến từ đâu? Thưa ở nơi cái nhìn rất nên thơ về các giai đoạn đời người. Nên thơ nên chuyển hóa được sợ hãi lo buồn.

Trong Thư Cho Bé Sơ Sinh, anh viết:

Khi em cất tiếng khóc chào đời
Anh đại diện đời chào em bằng nụ cười
… Khi người ta cắt rún cho bé thì từ đó cái lỗ rún trở nên một nơi chốn để nhớ về.

Khi vừa lìa khỏi êm ấm cõi lòng mẹ, thì có ngay sau đó hình ảnh lỗ rún như một quê hương để nhớ về. Anh đã nhìn nỗi chia lìa kia trữ tình làm sao!

Và khi đến tuổi hoang mang vô kể thì anh cho đó là một phép lạ:

Rồi khi người ta đến tuổi dậy thì, cũng một đợt “biến thái” đầy phép lạ nữa!… không chỉ thể xác mà cả tâm hồn! Người ta xa lạ cả với chính mình. Cao vọt lên, dài ngoằng ra, chỗ phình chỗ xẹp, chỗ lõm chỗ lồi, chỗ dư chỗ thiếu, làm người ta hoang mang vô kể! 

… Vậy đó bỗng dưng mà họ lớn (Huy Cận). Họ ở đây là… mình chớ không phải ai khác. Bỡ ngỡ xa lạ với mình ngày hôm qua, hôm kia… (Đỗ Hồng Ngọc)

Nếu Hồi đó có ai nói với tôi rằng, có một chiếc đũa thần gõ vào thân thể khiến nó thay đổi lạ lùng đến thế thì hẳn đã không phải “théc méc” lo sợ! Các cháu bây giờ thì đã có bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc giải thích rồi, mà nói kiểu của bác thì hẳn đa số các cháu nghe xong sẽ làm văn làm thơ… Bởi có cái nghe như thế này:

“Tới một tuổi nào đó, ta quan tâm rất nhiều đến thân thể mình. Ta lắng nghe thân thể mình phát triển như chú dế mèn lắng nghe tiếng cỏ mọc trong đêm khuya…” (Những Tật Bịnh Thông Thường Trong Lứa Tuổi Học Trò)

Nghe như thế thì hẳn chả lo sợ gì mà thay vào là nỗi hồi hộp thơ mộng, nghe má mình đang hồng lên, chờ một điều âm thầm nào đó đang khiến mình đẹp hơn lên… Nguyệt Mai ơi, phải mà mình được trở lại tuổi đó để được nghe như thế thì thú quá phải không Mai?

Rồi tới cái tuổi mà Đỗ Hồng Ngọc bảo: Khi 20 tuổi người ta băn khoăn lo lắng không biết người khác nghĩ gì về mình… (Một Chút Lan Man)

… Nhưng khi em biết thẹn thùng
Sẽ biết thế nào là nước mắt trong đêm
Khi tình yêu tìm đến…

Khi tình yêu tìm đến…vậy tất có cái hồi rất dài đó, anh Ngọc ơi, không chỉ tuổi hai mươi đâu, đó là Hồi yêu, nhìn lại những Reo Tuổi của anh xem, bất kể tuổi nào cũng có tình yêu hiện diện, sắc mầu biến hóa như chiếc kính vạn hoa. Lúc nào Đỗ Hồng Ngọc cũng nhận diện được Thương Yêu chung quanh mình. Nhận về rồi trao đi, rồi thủ thỉ với nhau, Ta đang ở cái tuổi nào thì nhất định tuổi đó phải là tuổi đẹp nhất rồi, không thể có tuổi nào đẹp hơn nữa! (Một Chút Lan Man)

Nguyệt Mai ơi, em bảo anh Ngọc đang ở sinh nhật 80. Nhưng với ý nghĩ lúc nào tôi cũng thấy tôi đã già, và lúc nào tôi cũng thấy tôi còn trẻ, thì tôi có kết luận rằng lúc nào ông anh nhà thơ lãng mạn của chúng ta cũng ở vào Hồi yêu. Yêu em, yêu người, yêu đời, yêu đạo.

Lúc tôi đọc Thơ Ngắn Đỗ Nghê, tôi có ghi chú dưới mấy bài thơ tình mấy chữ: trời ơi tình! Đã định bụng viết về mảng trời ơi này của anh, nhưng rồi lại xớ rớ đâu đó, giờ tôi xin chép lại đoạn viết ngắn ấy.

…
Thời gian chỉ còn là một đường tơ mong manh cho nỗi nhớ lay động. Hãy xem chàng làm gì để nguôi? Phải hét lên cho cây già hốt trẻ, phải gióng vang chuông trần cho ta bà biết nhớ…

Anh thương nhớ quá làm sao nói
Gọi tên em vang động gốc cây già…
… Nhớ ơi rung tiếng chuông trần
Em xa xôi biết có bần thần không?

(Quê Nhà)

Phải là tiếng chuông nhớ rất duyên nợ với rung động bần thần yểu điệu kia, nên Lá chín vàng / Lá rụng / Về cội / Em chín vàng / Chắc rụng / Về anh. (Lá 1994). Thế thì Thôi hết cồn cào / Thôi không quặn thắt / Chỉ còn âm ỉ / Chỉ còn triền miên (Nỗi Nhớ). Và bình yên. Có phải đã ước nguyện với nhau như thế?

Có thể nói tuổi cho tình yêu này?  Say mơ của tuổi hai mươi. Nồng nàn của tuổi ba mươi. Lắng thương sâu của tuổi bốn mươi. Và biến hóa nhiệm mầu của tuổi không tuổi…

Đưa em đi lễ
Vầng trăng treo nghiêng
Em làm dấu thánh
Anh làm dấu em.

(Đi Lễ 1997)

Anh hôn đằng sau
Anh hôn đằng trước
Anh hôn phía dưới
Anh hôn phía trên
Chiếc áo của em
Món quà em tặng
Chiếc áo lạ lùng
Có mùi biển mặn
Có mùi dừa xiêm
Có mùi cát trắng
Có mùi quê hương…

Paris 1997
(Món Quà)

Tinh nghịch, mộc mạc, giản dị, đằm thắm, cảm động. Em và quê hương giờ đây hòa vào nhau. Nhớ em là nhớ quê hương. Nhớ quê hương là nhớ em. Trời ơi là tình!

Cái tuổi nào mà có thể thủ thỉ những câu có thể đưa nhau tới nơi không sinh không diệt như vầy:

Cảm ơn em sợi bạc
Cảm ơn em sợi hung
Cảm ơn em năm tháng
Đã theo già cùng anh

(Theo Già)

Nguyệt Mai ơi, hẳn em cũng như tôi, đã rưng rưng khi đọc những câu thơ này, tôi cảm thấu được thời gian gắn bó đi theo màu tóc thủy chung của tình vợ chồng, của đạo vợ chồng. Chúng ta còn khóc huống chi là nhân vật Em kia, Mai nhỉ. Ai nói tuổi được của cái Đẹp?

Nguyệt Mai bảo, anh Ngọc đang ở sinh nhật 80. Tưởng tượng, một buổi sáng nắng rất đẹp hứa hẹn một dạo chơi Đường Sách, bỗng thấy anh mình ngồi trầm tư loay hoay giữa bộn bề sách vở thư từ tranh ảnh, ở mắt dường như có hạt thủy tinh, ngạc nhiên hỏi cớ vì sao, cái tủm tỉm cố hữu bỗng nghiêm trang, “Vào tuổi tám mươi, anh nghĩ đã đến lúc “về thu xếp lại”, đã đến lúc “nhìn lại mình…” Hơ, tôi thấy mắc cười quá, đồng ý việc thu xếp lại kia, nhưng “nhìn lại mình” thì anh lúc nào mà chẳng, mà thường trực nhìn lại mình cơ chứ, phải không Nguyệt Mai. Đọc xem: … tôi biết quý thời gian hơn, quý phút giây hiện tại, ở đây và bây giờ hơn. Nhờ vậy mà không có thì giờ cho già nữa! Hiện tại với tôi thì không có già, không có trẻ, không có quá khứ vị lai… (Một Chút Lan Man) Nhìn ra vậy chẳng phải là pháp tu của Người Biết Sống Một Mình? Thanh thơi với ở đây và bây giờ, chẳng phải là ta, chẳng phải của ta…

… Mà bất ngờ vì tôi chợt “nhìn ra” tôi. “Nhìn ra” khác với thấy. Nhìn ra là “quán”. Quán Tự Tại Bồ-tát hành thâm Bát Nhã chiếu kiến ngũ uẩn giai không… Quán là thấy rõ (chiếu kiến). Tôi bấy giờ không còn là tôi bây giờ. Tôi bấy giờ là tứ đại, là ngũ uẩn. (Tôi Chợt Nhìn Ra Tôi)

Và trong buổi ngồi thu lại những ký ức thời gian và xếp lại những vướng víu đa đoan ấy, anh đã tâm sự:

… Càng có tuổi, hình như tôi càng nhận ra có cái gì đó ở ngoài ý chí mình, can thiệp vào mình tùy hứng khiến mình đôi lúc không khỏi chưng hửng, ngỡ ngàng, thầm nghĩ “duyên” chăng? Nhưng duyên là gì không biết. “Nghiệp” chăng? Nhưng nghiệp là gì cũng không biết. Thôi thì, cứ để nó trôi chảy, tự nhiên, bởi nó có vẻ chẳng cần đến ta, chẳng phải là ta, chẳng phải của ta…

Nguyệt Mai có nhận thấy không từ cái thay đổi của tuổi mới lớn đến tuổi hơi già, già chút nữa, già thêm nữa đến…, anh Ngọc đều cảm nhận đó là những biến thái đầy phép lạ, diễn biến tuyệt vời, tôi gọi reo tuổi là vậy:

… Nó diễn biến tuyệt vời đến vậy, liên tục đổi thay đến vậy thì có gì đáng phàn nàn đâu, có gì mà không thể tủm tỉm cười một mình đâu. Cho nên nếu tôi có gì khác tôi xưa thì chính ở chỗ tôi có phần… khoái cái sự già nua tăng tốc đó của mình, tôi hồi hộp dõi theo nó, tôi cảm thấy nó… hợp lý, nói chung là… cũng dễ thương quá đó chớ! (Tôi Chợt Nhìn Ra Tôi)

Và “người không già không trẻ” này kể kinh nghiệm hưởng thụ cái dễ thương đó:

Một là thiếu bạn. Nhìn qua nhìn lại, bạn cứ rơi rụng dần… – Hai là thiếu… ăn. Không phải vì không có điều kiện ăn mà người già thường thích những món ăn kỳ cục, và phải lắng nghe mệnh lệnh của bao tử… – Ba là thiếu vận động! (Những Cái Thiếu Ở Người Già)

Nghe thì thấy anh Đỗ Hồng Ngọc chả thiếu cái nào, các bạn trong Gánh Hát Rong mở email từ hồi nảo hồi nao đến giờ có phải là anh thường xuyên ngao du sơn thủy cùng bạn hữu không? Lúc thì với hồng nhan tri kỷ của cuộc đời, lúc thì bạn cố cựu cỡ nửa thế kỷ như Lữ Kiều rồi thì Khuất Đẩu Lê Ký Thương Nguyễn Lệ Uyên Nguyên Minh Lữ Quỳnh… chưa kể một hàng dài người ái mộ xếp hàng chờ một chữ ký trên trang sách thơm, chưa kể ở khắp nơi có biết bao người đang cầm trên tay sách của anh, chưa kể Gánh Hát Rong còn có: Huyền Chiêu, Ngọc Vân, Kim Quy, Duyên, Thu Vàng, Nguyệt Mai, Thanh Lương, và Khánh Minh đây. Nói chung thì Người Trẻ Lạ Lùng Đỗ Hồng Ngọc kia lúc nào cũng có cái Bên Cạnh. Có khi thì em bé mò trai lượm ốc, có khi là người chủ quán cà phê, có khi thì cây bàng, tảng đá, có lúc là những thuyền thúng, còn không thì có nụ cười tủm tỉm trên môi. Đâu có thiếu bạn. Còn ăn ư, cũng không thiếu nốt, vì ngồi với bạn là có cái gì đó để cùng nhau nhâm nhi, thậm chí ngồi quán ăn xong thì có ai đó bí mật trả tiền rồi.  Mà đã đi lang thang hết núi tới rừng tới biển tới quê nhà thế thì sao thiếu vận động được, ôi chả trách người viết Biết Ơn Mình. Và chắc giờ đây sau khi Về Thu Xếp Lại và hỏi Để Làm Gì thì “Khi bạn hoàn tất việc sắp xếp lại căn nhà của mình, bạn sẽ thấy cuộc đời mình thay đổi một cách diệu kỳ.” Tôi cảm thấy cái diệu kỳ nhất, là nhận ra mình cần chậm lại, để nghe trái tim lên tiếng, để cảm nhận những chuyển biến dù nhỏ nhất xung quanh mình, trong bản thân mình” (Tìm Tết). Chậm lại, nghe tiếng trái tim, cho ta năng lực để thấm thía được hết những đau khổ và hạnh phúc, mới tu học được bốn tâm vô lượng mà Phật dạy để đối xử với người với mình trong hiểu và thương, phải vậy chăng?

Ở Hồi yêu ấy người-ta lại nói thêm, nghiên cứu cho thấy có vẻ như càng già người ta càng yêu nhiều hơn, yêu vội hơn và càng yêu thì càng sống khỏe sống vui hơn! Khi “chút nắng vàng giờ đây cũng vội” thì mới thấy còn có bao nhiêu thời gian để yêu thương và được yêu thương? Nguyệt Mai bảo anh Ngọc đang ở sinh nhật 80 đấy. Nhớ anh có bài thơ rất tình:

thì viết cho anh một lá thư tình
trên tờ pelure xanh
như thuở em mười lăm…
… thời gian qua nhanh
em nay lên bảy tám
cũng vừa mười lăm
anh vẫn đợi hoài lá thư màu xanh
đọc run thuở đó…

(Biết Làm Gì Đây, 2020)

Khi đọc bài thơ trên của anh, tôi có trả lời, em nghĩ ừ hay mình viết một lá thư tình cho ai (cho cố nhân hay cho thời gian) trong lúc đang shelter in place này bằng giấy pelure xanh chăng? Có vậy mới quên được bầy quỷ Covid-19 đang hoành hành, và tuyệt thay tôi nhận được câu trả lời của anh, mà em chưa tới bảy mươi viết thư tình hơi quá sớm chăng? Ừ, thì cứ như Đỗ Hồng Ngọc, như Quang Dũng, em mãi là hai mươi tuổi, ta mãi là mùa xanh xưa…

Và, Nguyệt Mai ơi hãy nghe cùng tôi những tế bào sinh sôi khi đọc: Cái tuổi đẹp nhất của đời người theo tôi có lẽ ở vào lứa 65-75. Đó là lứa tuổi tuyệt vời nhất, sôi nổi nhất, hào hứng nhất… Tuổi vừa đủ chín tới…” (Lời Ngỏ – Về Thu Xếp Lại). Như vậy thì tất cả trong Gánh Hát Rong mình đang là tuổi chín tới đấy, nghe cực lãng mạn phải không các bạn trẻ lạ lùng của tôi? Ơi Huyền Chiêu Ngọc Vân Kim Quy, ơi Duyên Thanh Lương Thu Vàng ơi…

Santa Ana, Jul 24, 2020
ntkm

……………………………………………………………

Lê Uyển Văn Hạnh phúc của người viết là nhận được sự đồng điệu nơi người đọc. Em nghĩ người viết Đỗ Hồng Ngọc hạnh phúc muôn phần khi nghe được khúc hòa âm từ tác giả Nguyễn Thị Khánh Minh.
Hơn tuần nay, em may mắn được đọc “REO TUỔI”, ngưỡng mộ vô cùng ngòi bút sắc sảo, uyên thâm mà dạt dào khôn tả; lại xuýt xoa với câu từ của chị Khánh Minh, thú vị và đẹp đẽ!
Đúng lúc hoang mang vì tuổi tác chất chồng, em cảm thấy an lòng đón thêm tuổi mới khi được đọc những dòng này!
Cảm ơn thật lâu với “Còn chút để dành”!

Filed Under: Chẳng cũng khoái ru?, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Minh Lê: Học Phật qua thơ Đỗ Hồng Ngọc

01/08/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Học Phật qua thơ Đỗ Hồng Ngọc

Từ trước tới giờ, tôi ít đọc thơ vì tự thấy mình có chút thiếu “hồn thơ lãng mạn”. Dù vậy, tôi là người hâm mộ âm thầm nhiều năm của Bác sỹ Đỗ Hồng Ngọc, không chỉ với sách của Anh mà cả với các bài thơ Anh viết. Anh làm thơ cũng như viết văn, nghiêm túc mà dí dỏm, nhẹ nhàng mà sâu sắc, ngắn gọn mà vô số “ý ở ngoài lời”. Anh còn giảng và viết nhiều bài về Phật pháp rất hay, nhưng tôi thích học Phật qua thơ của Anh hơn.

Như bài “Nỗi nhớ” in trong tập Vòng quanh (NXB Trẻ 1997 tr. 38) chỉ có 6 câu:

“Thôi hết cồn cào

Thôi không quặn thắt

Chỉ còn âm ỉ

Chỉ còn triền miên

Thì thôi cấp tính

Thì đành kinh niên.”

Lần đầu đọc khi còn trẻ, tôi bật cười, nghĩ tác giả chắc “méo mó nghề nghiệp”, tả nỗi nhớ mà cứ như tả cơn đau thể chất vậy, nhưng tác giả cũng thật tài tình, chọn từ và vần điệu làm sao mà người đọc cảm nhận được từ cơn đau ít tới cơn đau nhiều, từ “bệnh” nhẹ tới “bệnh” nặng. Lần thứ hai đọc ở tuổi trung niên, tôi cảm thán tác giả “hiểu đời” ghê, bởi từng trải rồi mới biết “nhớ” cũng đau  “quặn thắt ruột gan” chớ không vừa. Lần thứ ba đọc, tôi liên tưởng tới bài hát “Đưa em tìm động hoa vàng” (nhạc Phạm Duy, lời Phạm Thiên Thư):

“Rằng xưa có gã từ quan,

Lên non tìm động hoa vàng ngủ say

Thôi thì thôi để mặc mây trôi

Ôm trăng đánh giấc bên đồi dạ lan

Thôi thì thôi chỉ là phù vân

Thôi thì thôi nhé có ngần ấy thôi.”

Nỗi nhớ của Phạm Thiên Thư dù nói “chỉ là phù vân, có ngần ấy thôi” sao vẫn có cảm giác day dứt luyến tiếc không đành lòng, dù lặp đi lặp lại “thôi” rất nhiều lần mà vẫn chưa “thôi” thật sự. Đúng là nghệ sỹ mà, cho nên mới… khổ! Ngược lại nỗi nhớ của Đỗ Hồng Ngọc rất tỉnh táo “rằng đau thì biết là đau”, chuyện xác nhận “thì thôi cấp tính thì đành kinh niên” cũng mang vẻ an nhiên. Chính nhờ chấp nhận nỗi đau đó sẽ ở với mình vĩnh viễn mà lòng mình trở nên bình tĩnh hơn để chuyển hóa “rác thành hoa, đau khổ thành an lạc”. Đây chẳng phải “chiếu kiến ngũ uẩn giai không” trong Tâm Kinh đó sao?

Anh Ngọc quê La Gi, còn tôi sinh Phan Thiết, lớn lên ở Nha Trang nên khi tình cờ đọc bài “Giả sử” của Anh, tôi sém chút la lên “ôi bài thơ của đời tôi”:

“Giả sử sóng thần ập vào Nha Trang
Ập vào Mũi Né
Anh chỉ kịp quẳng em lên một chiếc thuyền thúng
Vút qua những ngọn dừa
Những đồi cát trắng

Em nhớ mang theo đôi quả trứng
Vài nắm cơm
Vài hạt giống
Đừng quên mấy trái ớt xanh…

Biết đâu mai này
Ta làm An Tiêm
Trở về làng cũ
Nơi này ta sẽ gọi là Nha Trang
Nơi kia gọi là Mũi Né…

Cho nên
Sao chẳng sớm mà thương nhau hơn?”

                                                  (4/2011, đăng 13/9/2020 dohongngoc.com)

Hồi nhỏ nhà tôi ở sát biển nên tôi rất sợ sóng thần. Lâu lâu tôi lại nằm mơ thấy sóng thần ập vô cuốn trôi mọi thứ, nghĩ mà rùng mình. Sau khi đọc bài “Giả sử”, tôi viết email cám ơn Anh Ngọc đã giúp tôi hết sợ sóng thần. Anh đùa: “Hết sợ sóng thần vì đã sẵn thuyền thúng ở trong nhà và đã cụ bị sẵn các thứ, nhất là ớt xanh rồi phải không? Dân Phan Thiết có khác!” Trời, sao Anh đi guốc trong bụng tôi vậy? Thì Anh đã chọn mọi thứ chu đáo quá mà: đôi quả trứng đặng sau này còn nở ra gà con nè, vài nắm cơm vắt ăn đỡ đói lòng những ngày “lênh đênh” nè, rồi hạt giống để trồng lại vườn cây nè, có cả mấy trái ớt xiêm xanh – món “tủ” của dân Phan Thiết và Khánh Hòa nữa.

Nói nhỏ nghen, thiệt ra tôi tâm đắc nhứt câu cuối cùng “sao chẳng sớm mà thương nhau hơn?”. Lúc đó, tôi viết cho Anh cách hiểu của tôi như vầy: “Sóng thần, hay sóng cuộc đời có dữ dội cách mấy, mà có một người nắm tay đi với mình, thì có gì phải sợ phải không Anh?” Anh cười không trả lời. Giờ tôi mới nhận ra, cái “thương” mà Anh nói không chỉ là tình yêu trong gia đình mà chính là “tình thương của Bụt” – từ của thiền sư Nhất Hạnh. Đó là “từ bi hỷ xả”, gồm khả năng hiến tặng niềm vui, làm vơi nỗi khổ, tình thương mang lại hạnh phúc và tự do. Vậy sao không “sớm mà thương nhau hơn” thì đời sẽ thêm nhiều an lạc, đợi chi tới sóng thần?

Tháng 12/2020, Anh Ngọc viết bài “Biết rồi còn hỏi!”:

“Tôi ngồi trước tượng Phật

Viết lăng nhăng mỗi ngày

Để khi nào bí thì hỏi

Phật tủm tỉm cười

“Biết rồi còn hỏi!”

 

Sáng ra đường phố

Từng bước như đi dạo

Không thấy nở hoa sen

Ngước mắt nhìn lên

Một tấm biển to chữ đỏ

“Đồ ngu cao cấp”

Cửa hàng Fashion

Rơi dấu hỏi…

 

Đâu cần trốn ra khỏi cổng thành

Xóm nghèo nơi tôi ở

Bên phải là nhà bảo sanh

Bên trái là bệnh viện

Đằng kia lớp dưỡng sinh

Đằng nọ nhà quàn vô lượng thọ…

 

Hằng ngày nghe tiếng khóc trẻ con

Nghe tiếng rên người lớn

Tôi nhắc Phật đừng buồn

Không được quạu quọ, không được cau có

Không được nhăn nhó…

Phật cười

“Phải! Nó vậy đó”.”

(dohongngoc.com 4/12/2020)

Bài này dễ hiểu, nhưng hiểu hết lại không dễ. Mấy chỗ “bí thì hỏi”, mà Phật chỉ tủm tỉm “biết rồi còn hỏi!” nghe đơn giản chớ đúng phóc nha. Càng sống lâu càng có nhiều chuyện tưởng “bí”, thiệt ra mình đã “biết” rồi, chẳng qua tâm không đủ tịnh để “hiểu” thôi. Khổ thơ thứ hai chắc tác giả vừa viết vừa cười mím chi, té ra “thiếu dấu hỏi” thì thành “ngu”, mà đời này, thiếu gì chuyện thắc mắc mà không dám hỏi, nên mình chắc “ngu trường kỳ”. Khổ thứ ba tả “sinh, lão, bệnh, tử” – những cảnh ngay trước mắt ta đó thôi. Rồi khổ thơ cuối cùng, giữa “sinh, lão, bệnh, tử” vẫn giữ được tâm an, không “buồn, quạu quọ, cau có, nhăn nhó” thì thành “bụt” rồi, “bụt” là vậy đó! Từ ngữ bình dị, nhịp thơ thong thả, tự nhiên không gò bó nhưng âm điệu bằng trắc nhịp nhàng, láy vần rất duyên dáng. Đây là một trong những bài tôi thích nhứt trong thơ Anh Ngọc bởi nó đại diện cho sự đặc biệt hiếm thấy trong thơ: nội dung dí dỏm mà thâm thúy, từ ngữ, tiết tấu, âm vần đều được chọn rất nghệ thuật mà vẫn trôi chảy tự nhiên mới hay.

Người ta hay nói “thơ là tiếng lòng”. Đã là âm thanh thì phải có tần số, và cái radio trong mỗi chúng ta tùy theo tuổi tác, kinh nghiệm sống và tính cách mà “bắt” được những tần số khác nhau. May mắn thay, cái radio cọc cạch của tôi lại bắt được chút xíu “tần số” trong thơ Đỗ Hồng Ngọc, và từ đó học được chút xíu “suy nghĩ của Bụt” từ thơ Anh.

Mong Anh luôn khỏe, an lạc và tiếp tục sáng tác thêm nhiều “tiếng lòng” truyền cảm!

 

Minh Lê (Suối Tiên, 7/2021)

 

Filed Under: Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống, Vài đoạn hồi ký

Thư gởi bạn xa xôi (1.8)

01/08/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Thư gởi bạn xa xôi (1.8.2021)

 

Bạn hỏi hỗm rày làm gì ư? Home Alone.

Cứ như “Vân Tiên cõng mẹ đi ra/ Đụng phải cột nhà cõng mẹ đi vô/ Vân Tiên cõng mẹ đi vô/ Đụng phải cái bồ cõng mẹ đi ra…”. Già cả rồi. Đi chỗ khác chơi thôi!

Ông bạn bác sĩ cũng hơi già, 79, than buồn quá. Không gặp được con cháu, trước đây hàng tuần cứ chủ nhật thì tụ tập vui cả nhà với nhau. Bạn bè cà phê cà pháo cũng không được. Lên vi tính thì đọc mờ cả mắt những chuyện buồn đau. Hôm rồi trước nhà cũng bị giăng dây, nghếch mũi, hả họng làm test…

Một ông bạn khác mới 76, nghĩ ra cách giải khoay là coi đá banh Olympic rồi còn viết bài nhắc lại một chuyến “phượt” nào đó lên rừng xuống biển… cho đỡ nhớ, hôm qua gởi mình bảo coi đi nè, nhớ không, mới thôi mà tưởng là xa xưa lắm!

Rồi hôm kia, một người bạn trẻ quen mà chưa biết từ Suối Tiên (Nha Trang) gởi email bài “Học Phật qua thơ Đỗ Hồng Ngọc” thật bất ngờ, nói để tặng anh ĐHN ngày sinh nhật. Ơ hay, mình thực sự không biết ngày sinh nhật, chỉ biết bà Má nói khoảng giữa tháng Tám, năm Canh Thìn, sanh ở nhà bảo sanh cô Mụ Bé dưới chân cầu sắt Phan Thiết. Sau này mình viết cho Nguyệt Mai, Km, d, TV… khi các cô hỏi Ngày sinh nhật của mình rằng: “Anh không có ngày sinh nhật/ Nên mỗi ngày là sinh nhật của anh/ Cảm ơn em/ Nhớ đến anh/ Ngày sinh nhật!”. Thế là mấy cô kêu trời, anh khôn thấy mồ, vậy là mỗi ngày đều phải… nhớ đến anh ư? Thôi thì ta làm “tháng sinh nhật” vậy. Ôi giời!

Tưởng chơi, ai dè sáng nay 1/8, đã thấy trên trang nhà tranthinguyetmai dọn hẳn một bữa tiệc sinh nhật thật “bất ngờ” linh đình và hoành tráng… với bao nhiêu là quà quý từ bạn bè đầy xúc động! Thì ra mọi người sực nhớ mình đã “bát tuần” nên cho một bữa ê hề để kỷ niệm đó thôi!

Rồi một bất ngờ nữa, “Bản thảo” Tôi Học Phật cũng vừa in xong mấy cuốn làm mẫu. Dự định sẽ chỉ in một ít để tặng “bạn đạo” trong Ban Phật học, Nhóm học Phật và Lớp Phật học và Đời sống ở chùa Xá Lợi Saigon  thôi, chớ sách này ai đọc? Cũng phải nói là nhờ 5 Hiền (Nguyễn Hiền-Đức) hai năm trước đã thu gom, chọn lọc bước đầu cùng Văn Công Tuấn tung ra cuốn Thấp thoáng lời Kinh, sau bổ sung thành Tôi học Phật, còn nhiều thiếu sót nên suốt 2 tháng nay vì Cô-vi phải nằm nhà, mình biên tập lại kỹ lưỡng một chút làm “Version 2” này đây. Cái hình bìa trông “văn nghệ” đúng kiểu “lõm bõm học Phật” của mình, lấy cảm hứng từ Đặc san Liễu Quán Huế “dàn dựng” lại một chút đó thôi.

Hẹn thư sau.

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc.

 

 

Filed Under: Ghi chép lang thang, Gì đẹp bằng sen?, Nghĩ từ trái tim

Nhớ Sài Gòn, Qua Bài Thơ “Mai sau dù có bao giờ” của Đỗ Hồng Ngọc

23/07/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Nhớ Sài Gòn, Qua Bài Thơ “Mai sau dù có bao giờ” của Đỗ Hồng Ngọc (1)

Lương Thư Trung

 

Giới thiệu chương trình nhạc chủ đề“Tình Ca Việt Nam” trên đài phát thanh Sài Gòn, vào đầu thập niên 1970, nhà văn Nguyễn Đình Toàn viết:

“Tình ca, những tiếng nói thiết tha và tuyệt vời của một đời người, bao giờ cũng bắt đầu từ một nơi chốn nào đó, một quê hương, một thành phố, nơi người ta đã yêu nhau.

Tất cả mùa màng, thời tiết, hoa lá, cỏ cây của cái vùng đất thần tiên đó, kết hợp lại, làm nên hạnh phúc, làm nên nỗi tiếc thương của chúng ta…”(2)

 

Vâng, đó là chương trình nhạc chủ đề mà hồi ấy, những “Ngày hai mươi tuổi, có những đêm chong đèn ngồi…” (3), chúng tôi rất mê và ghiền lời giới thiệu các bản nhạc trong chương trình này mà nhà văn Nguyễn Đình Toàn đã gởi đến thính giả; mà dường như cách nào đó, với Sài Gòn, nơi thành phố ấy của hơn nửa thế kỷ (55 năm) trước, chúng tôi có những lần hẹn hò với một cuộc tình rất tha thiết và nồng nàn mà giờ ngồi hồi tưởng lại đúng là thành phố ấy nó“làm nên hạnh phúc, làm nên nỗi tiếc thương của chúng ta…”

Đó là nhạc chủ đề, còn trong thơ ca thì sao? Xin mời bạn nghe Đỗ Hồng Ngọc (tức nhà thơ Đỗ Nghê), hơn bốn mươi năm trước, đã viết một bài thơ rất đằm thắm, thiết tha trong tâm trạng tiễn người bạn cũ giã từ để ra đi về “nửa vòng trái đất cõi người ta” trong bài thơ Mai sau dù có bao giờ…

Lâu nay đọc thơ Đỗ Hồng Ngọc, ít khi thấy ông “thiệt thà” bày tỏ nỗi lòng riêng tư, nhưng với mai sau dù có bao giờ ta thấy thêm góc khuất khác của nhà thơ Đỗ Nghê vậy.

“Cám ơn em đã đến giã từ
Dù sao năm tháng vẫn chưa phai
Em cười mà mắt còn đẫm ướt
Hình như tối qua trời không mưa”

Lần đó, họ không nói với nhau một lời nào, mà chỉ trao cho nhau những nỗi niềm bằng ánh mắt; bởi lẽ trong những hoàn cảnh như vậy lời nói nào đủ nghĩa yêu đương cho bằng ánh mắt thiết tha:

“Tôi hiểu – em đừng nói gì thêm
Những lời không đủ nghĩa đâu em
Tôi sẽ đưa em thăm thành phố
Em không ngại là tôi cũng ghen
 

Rồi họ cùng đi thăm lần cuối “một quê hương, một thành phố” nơi mà “cả mùa màng, thời tiết, hoa lá, cỏ cây của cái vùng đất thần tiên đó, kết hợp lại, làm nên hạnh phúc, làm nên nỗi tiếc thương”…

Thành phố – nơi ta đã lớn lên
Nơi ta hò hẹn buổi đầu tiên
Nơi ta hờn giận ta vui sướng
Thành phố – chân hôn mỗi bậc thềm!”
 

Vâng, với nhà thơ, Sài Gòn là cả một vùng kỷ niệm chập chùng với bến Bạch Đằng ngày ấy, (Bạn còn nhớ Nguyên Sa: “hãy đưa tôi ra bờ sông, để tôi nhìn dòng nước chảy, tôi nhìn tôi bơ vơ…” không?) và cả ngôi trường Trưng Vương với màu áo xanh của các nàng nữ sinh thướt tha trong nắng sớm sân trường, với khung trời Đại học của một thời sinh viên nhiều mộng đẹp nữa …; nhiều và nhiều lắm… Những chữ “lối xưa xanh áo”, “mờ rưng rưng”… rất thiết tha và gợi lại biết bao nỗi nhớ mà con tim và tâm hồn của những người trong cuộc không khỏi bồi hồi, ray rứt, bâng khuâng …

“Tôi sẽ đưa em ra bờ sông
Sông Sài Gòn mà bến Bạch Đằng
Lối xưa xanh áo Trưng Vương đó
Mái trường Đại học mờ rưng rưng”

Nhắc tới Sài Gòn là nhắc tới những con đường tình rợp lá me bay như đường Gia Long, đường Lê Thánh Tôn và nhứt là con đường Nguyễn Du trong bài thơ, nhưng không thể không nhắc tới cái nắng của Sài Gòn, những cơn nắng làm “hanh đôi má” nàng, và “mồ hôi mặn”, nhưng với họ, những đôi tình nhân gắn bó ấy thì lúc bấy giờ họ không lấy gì làm khó chịu với cái nắng nóng ấy, mà còn “thấy thương ghê”… Mấy chữ “rợp mát bóng me che” trong câu thơ tả cảnh con đường Nguyễn Du dưới đây, thiệt là hết ý!

“Tôi sẽ đưa em ghé Nguyễn Du
Con đường rợp mát bóng me che
Cái nắng Sài Gòn hanh đôi má
Giọt mồ hôi mặn thấy thương ghê”

Qua con đường Nguyễn Du, một trong những con đường tình tiêu biểu của Sài Gòn, và dĩ nhiên Sài Gòn không chỉ có thế, mà Sài Gòn ai đã đến đó và ở đó dù lâu, dù mau đều nhận ra rằng Sài Gòn bên cạnh những con đường lớn, những tòa nhà cao, những khu mua bán sầm uất, nó còn có rất nhiều con hẻm nhỏ mà ở đó nhà nhà, người người chen chúc nhau kiếm sống lây lất qua ngày, dù tất bật, nhưng không thiếu tình chòm xóm, tình lân láng, tình người…: 

“Tôi sẽ đưa em về Bàn Cờ
Xóm nghèo nho nhỏ đường quanh co
Tình người thắm đượm từng nếp áo
Bà mẹ ngày nao em nhớ chưa”
 

Nhớ lại hồi cách nay năm mươi lăm năm về trước, chúng tôi còn nhiều lắm những kỷ niệm qua bao lần nơi ghế đá công viên, những quán nước bên đường, những cà phê gốc me vào mùa mưa tháng Sáu của Sài Gòn; những rạp xi nê với các phim thời tài tử Alain Delon ăn khách một thời, nào rạp Rex, nào Eden, nào quán Tre quán Trúc nơi thương xá TAX thuở nào… với những hẹn hò mà chúng tôi không “làm sao quên” được, như nhà thơ muốn nói với người thương của mình: 

“Tôi hiểu em còn muốn đi thêm
Một đời chưa đủ phải không em
Chân bước đi mặt còn ngoảnh lại
Xao xuyến hồn ta – làm sao quên!”
 

Ở đây, nếu bạn để ý một chút, trong đoạn thơ trên chúng ta sẽ bắt gặp tác giả không cố ý làm cho câu thơ cao siêu, bóng bảy; trái lại ông rất khéo léo dùng một chút tâm sự của “kẻ ở người đi” trong sách Quốc văn Giáo Khoa Thư mà có lẽ ai ai trong chúng ta cũng có lần đã đọc qua mà có khi vì dòng đời tất bật quá, rồi lại quên:“Chân bước đi, mặt còn ngoảnh lại: từ cái mái nhà, cái thềm nhà, cái lối đi, cho đến bụi cây, đám cỏ, cái gì cũng làm cho tôi quyến luyến khác thường!”(4). Cái hay của ý thơ vừa rồi là nó rất gần, rất quen mà gợi đúng cái tâm trạng của “kẻ ở người đi” trong một lần từ giã. Là một người đã hơn một lần “giã từ” Sài Gòn, hơn một lần“giả từ” người thân yêu của mình, tôi rất thấm thía câu thơ này của tác giả, nó nói lên được tấm lòng của người ở lại lo cho người thân của mình, rồi ra ở nơi “Nửa vòng trái đất cõi người ta” ấy, em sẽ sống thế nào và em sẽ phải làm gì với đất trời xa lạ ấy?

“Thôi nhé từ nay em sẽ xa
Nửa vòng trái đất cõi người ta”

Giữa chập chùng những ý nghĩ vừa lo lắng, vừa ái ngại ấy, rất may, tác giả không quên nuôi trong lòng niềm hy vọng, như một niềm an ủi cho chính mình và cho người thương yêu của mình:

“Mai sau dù có bao giờ nữa
Thành phố – lòng mẹ vẫn bao la”

Cái hay ở câu thơ “Mai sau dù có bao giờ nữa”, một phần rất Kiều (5), và một phần rất Đỗ Hồng Ngọc! Ở chữ “nữa” của Đỗ Hồng Ngọc, vốn là một trạng từ, mà tác giả cho vào cuối câu Kiều, nó vừa là niềm tin yêu và hy vọng, nó vừa là nỗi bịn rịn không rời như “nữa mai”, “nữa rồi”, “nữa khi”, “nữa là”…mà bàng bạc một tấm lòng! Chính những chữ “nữa” ấy là những chữ làm gợi dậy tấm chơn tình trong tình yêu thương có lẽ chưa bao giờ dứt được… Nó vừa nhẹ nhàng mà thân ái, nó vừa tha thiết mà nồng nàn, nó làm tim gan người trong cuộc nhiều khi muốn đứt ruột nhưng vẫn giữ cho lòng chút hy vọng một ngày nào đó còn có dịp gặp lại nhau dù cho bao lâu sau đi chăng“nữa”!!!


Vâng, với Sài Gòn, với thành phố ấy với những đôi tình nhân đã yêu nhau cách nay hơn năm mươi lăm năm ấy, rồi ra, vớichúng tôi, tôi chợt nhớ lại qua những kỷ niệm ngày nào quả quá đúng như nhà văn Nguyễn Đình Toàn nói “làm nên hạnh phúc, làm nên nỗi tiếc thương của chúng ta…”! Và với nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc, khi tuổi đời giờ không còn trẻ trung gì, và đọc được bài thơ “Mai sau dù có bao giờ” này của ông, rồi tôi có dịp hồi tưởng lại những nơi chốn hẹn hò của những “Ngày hai mươi tuổi, có những đêm chong đèn ngồi…” với những con đường tình của Sài Gòn một thời, và nhìn lại lòng mình, tôi thấy ông nói quả quá đúng, không sai chút nào được khi ông viết:“Mai sau dù có bao giờ nữa!” thì Sài Gòn lúc nào cũng“Xao xuyến hồn ta – làm sao quên!

 

Hai Trầu Lương Thư Trung

Houston, ngày 21.07.2021 

 

Phụ chú:

1/ “Mai sau dù có bao giờ” của Đỗ Hồng Ngọc (1980)

(trích từ tập thơ Giữa hoàng hôn xưa, Đỗ Hồng Ngọc, nhà xuất bản Trẻ, 1993)

[Theo trang nhà Trần Thị Nguyệt Mai, ngày 16.07.2021]

2/ Trích CD Nhạc Chủ Đề Tình ca Việt Nam 1970 của Nguyễn Đình Toàn.

3/ “Ngày hai mươi tuổi, có những đêm chong đèn ngồi…” )[Trích trọng “Trên Đồi Là Lô Cốt” Lữ Kiều-Thân Trọng Minh, Thư Ấn Quán xuất bản, Hoa Kỳ, năm 2006]

4/ Trích “Kẻ ở người đi”, Quốc Văn Giáo Khoa Thư (Lớp Sơ đẳng) của Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc và Đỗ Thận, nhà xuất bản Thanh Niên tái bản, năm 2000. 

5/ Truyện Thúy Kiều của Nguyễn Du do Bùi Kỷ và Trần Trong Kim hiệu khảo, bản in lần thứ bảy (năm 1925). Nhà xuất bản Đại Nam (Hoa Kỳ) tái bản, (không thấy ghi năm).

 

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Trần Vấn Lệ: Làm Sao Chải Được Rừng Xanh Lá

20/07/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Làm Sao Chải Được Rừng Xanh Lá

Mình sẽ làm chi cho hết ngày?
Mình đi lên núi…hứng mây bay?
Mình vô rừng kiếm con chim lạc
nó đứng gọi bầy trên ngọn cây?
Đà Lạt cao nguyên, biển mịt mùng
Đường về Ninh Chữ rất mông lung
Lâm Viên dõi mắt không nhìn thấy
chỉ thấy quanh co núi chập chùng…
Mình sẽ làm chi cho hết sáng?
hết trưa, rồi hết buổi chiều hôm…
Tà huy đâu cũng vàng như nghệ
Sương cũng vàng nha những lũng sương!
Em ơi em ngả cái đầu, đi
như rất là xưa mới dậy thì
vén tóc mà nghe như tóc ướt
mưa rừng gió thoảng tóc bay bay…
Mình sẽ làm chi cho hết ngày
Anh người lính lạc mất thời trai
Trường Sơn tưởng chỗ mình yên giấc
Ai khiến cho mình giạt tới đây?
Mơ về Đà Lạt mấy mươi năm
Tuổi mới lòng xưa lệ chảy ngầm
Cha mẹ, bà con, bè bạn…hết
rồi mình cũng hết ước mơ chăng?
Mơ ước xưa nay là cái ảo
Tóc thề em chải vẫn ngang vai…
Làm sao chải được rừng xanh lá
chải gió cho bay nhỉ áo dài?

Trần Vấn Lệ

Filed Under: Gì đẹp bằng sen?, Nghĩ từ trái tim

Đỗ Trung Quân: Mẹ Ta Trả Nhớ Về Không

11/07/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Mẹ Ta Trả Nhớ Về Không

Thơ Đỗ Trung Quân

ngày xưa chào mẹ, ta đi
mẹ ta thì khóc , ta đi thì cười
mười năm rồi lại thêm mười
ta về thì khóc, mẹ cười lạ không
ông ai thế ? Tôi chào ông
mẹ ta trí nhớ về mênh mông rồi
ông có gặp thằng con tôi
hao hao…
tôi nhớ…
nó …người …như ông.
mẹ ta trả nhớ về không
trả trăm năm lại bụi hồng…
rồi..
đi…

ĐỖ TRUNG QUÂN

(phovanblog)

Filed Under: Nghĩ từ trái tim

Cao Huy Thuần: “Xa làm sao được quê hương!”

02/07/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Xa làm sao được quê hương!

 

Sen thơm nắng hạ quê mình

Đọc tập tản văn Sen thơm nắng hạ quê mình (Khai Tâm và Nxb Tri Thức) của Cao Huy Thuần, với tôi, hay nhất là  Người đưa đò – câu chuyện của Lucien de Samosate (120-180), gần 2000 năm trước được tác giả chọn dịch và sáng tác thêm phần “ngoại truyện”.

Tác phẩm là cuộc trao đổi giữa thần Mercure và Charon- người đưa đò chở người chết qua sông chia cách âm dương… Charon than phiền có những xác chết nặng chình chịch, làm đò chìm, người chết phải rơi vào địa ngục và có những xác chết nhẹ tênh… Mượn chuyện xưa nói chuyện nay là tài của Cao Huy Thuần. Người đời có hai hạng, hạng sống mà không thấy Charon lúc nào cũng đứng chực sẵn một bên, tham sân si, lúc chết thì cũng ôm quá nặng, đò chìm. Chỉ một số ít khác nhẹ tênh, nhờ thấy cái gì trên đời cũng nhẹ nhàng, cũng đẹp, cũng đáng ngạc nhiên, nhìn đâu cũng thấy ân huệ của cuộc sống…

Tôi có hơi tiếc một chút: giá mà anh dịch theo giọng xưa của 20 thế kỷ trước thì nỗi đau sẽ càng đau hơn, nhưng anh có lý của anh, dùng ngôn ngữ hiện đại cho ai cũng hiểu.

Trong nhiều tản văn đầy tính triết học uyên thâm, Giao thừa, Chữ của tôi, Trí tuệ và lòng tin,Sóng và biển, Mẹ tôi, Thúy Kiều và… tôi… là những trang viết ấn tượng; riêng Thì thầm bàn về “Bát Nhã”, “Bát bất”, về “Có Không” viết rất khéo, rạch ròi và thuyết phục, thấm đẫm “Trí bất đắc hữu vô/ Nhi hưng đại bi tâm” (Trí chẳng đắc có không/ Mà hưng khởi tâm đại bi).…

Nhưng Quả trứng (Thay lời tựa) mới đúng là Cao Huy Thuần. Như một gởi gắm, một tạ từ, bởi “chút nắng vàng giờ đây cũng vội…”.

Bỏ qua một bên chuyện “sứ mệnh văn nghệ” xa vời, bỏ qua một bên giảng đường đại học, giờ đây còn một chút này:

“Xa xôi, lữ thứ, cuối đời nghĩ lại quả trứng ngày xưa, cái hạnh phúc vô biên được cắn vào quả trứng đầu tiên trong đời nghèo khó, mơ màng tưởng như cắn cả buổi trưa, cắn cả phố chợ, cắn cả nguồn cội, cắn cả quê hương…”

Bởi từ những ngày thơ dại ai mà chẳng nghêu ngao Trong đầm gì đẹp bằng sen/ Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng…Thế rồi khi dấn bước vào đời ta đã quên bài học cũ, mải mê tìm kiếm một búp sen vàng sen bạc rực rỡ hào quang ở tận chân trời góc biển. Cho đến một hôm giật mình: thì ra cái Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng kia rốt cuộc cũng chỉ là Nhị vàng bông trắng lá xanh đó thôi. Chẳng thêm chẳng bớt. Đóa sen của thiên thu vẫn lung linh giữa gió và nước, giữa đất và bùn, vẫn tủm tỉm cười, vẫn ngát hương thơm…

Cao Huy Thuần viết:“Tôi tương tư mùi đất ruộng. Tôi tương tư làng tôi. Tôi tương tư nước tôi. Càng già, càng trở về với quả trứng. Càng thấy mình mắc nợ với đứa bé ngày xưa, với gốc gác của nó. Một món nợ không trả được vì nó đã cho mình tất cả, từ trái tim đến máu thịt. Nó cho cả hơi thở, vì đôi lúc một làn gió vô tình thoảng vào mũi mùi gì như mùi lúa nảy đòng đòng. Xa làm sao được quê hương?”

“Cho nên tôi yêu, như đã yêu từ trong trứng, mọi cái tầm thường. Cho nên tôi thấm đạo. Hạnh phúc, đâu phải tìm ở đâu xa. Nó ở ngay nơi mọi cái tầm thường xung quanh tôi. Và nếu mọi cái tầm thường làm nên cái hằng ngày của ta, thì ngày nào chẳng là hạnh phúc?” (Quả trứng).

May cho anh, không như Thôi Hiệu “Nhật mộ hương quan hà xứ thị” bởi anh còn có Quả trứng, “quả trứng” của Âu Cơ.

Đỗ Hồng Ngọc.

(Saigon, 7.2021)

 

Báo TUỔI TRẺ ngày 2.7.2021

 

 

 

Filed Under: Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định

Ghi chép lang thang: Nếp Sống An Lạc (tái bản lần thứ 3)

22/06/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Nếp Sống An Lạc

(tái bản lần thứ 3)

Chuyện trò cùng Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc về
“Nếp Sống An Lạc”,
tái bản lần thứ 3. Tháng 6.2021

 

Ghi chép lang thang: Nhớ buổi “giao lưu” ở Đà Nẵng  

Đề tài được chọn là Một nếp sống hạnh phúc, an lạc chẳng qua là một cái “cớ” cho một chuyến hành hương về miền Trung… “miền thùy dương bóng dừa ngàn thông thuyền ngược xuôi suốt một dòng sông ư.ư… dài” mà thôi! Bởi làm gì có “một nếp sống hạnh phúc, an lạc” để mà nói năng?  Nói làm sao được một thứ “bất khả thuyết” như thế chứ? Chẳng qua là một cơ hội để gặp gỡ bạn bè, trò chuyện loanh quanh, bấy nay chỉ quen nhau qua trang sách.

(…) Một không khí đầm ấm, thân thiết khó thấy ở đâu.  Chưa từng gặp mà quen đã từ lâu. Tay bắt mặt mừng. Chụp ảnh kỷ niệm. Rồi xin chữ ký… thật vui và thật cảm động. Có người ôm nguyên một chồng sách cũ đã “sưu tập” của ĐHN bấy nay đến xin chữ ký, kêu ghi giùm tên và ngày tháng hẳn hòi để kỷ niệm…

MC không phải ai xa lạ: Cát Tiên, chị của ca sĩ Lê cát Trọng Lý. Cát Tiên cũng là một ca sĩ, cùng bạn bè thành lập một thư viện tại gia và một phòng trà nho nhỏ thật dễ thương mà ở Đà Nẵng ít người không biết.

(…) Một bác 82 tuổi lúc ra về nói: Hôm nay tôi rất hạnh phúc bác sĩ nè, khi nghe bác sĩ nói về “vô thường” về phiền não với bồ đề, về khổ đau với an lạc!

Một chị ở Mỹ về tình cờ đến nghe nói “Tôi nhớ nhất câu bác sĩ bảo mình đang ở tuổi nào thì tuổi đó là tuổi đẹp nhất”.

Còn cô giáo “bỏ giờ” đi nghe thì bảo: “Em thực sự thấy hạnh phúc vì đã sống… ở đây và bây giờ buổi sáng hôm nay đó”…

(Đà Nẵng, 12, 2012)

 

Và vài comments sau đó:

Phương Chi (Đà Nẵng):

Nhân duyên đã giúp em biết và đọc sách của Bs. Nhờ đó em đã bình tâm trước nhiều điều bất như ý trong cuộc sống, bớt tham lam hơn, nhìn đời và nhìn người vị tha hơn. Em hiểu ra rằng những khó khăn, bất hạnh xảy ra với mình không gì khác hơn là thử thách của chính mình. Nhờ đó mình bớt kiêu hãnh đi, nhún mình lại và chịu khó nhìn lại để sửa mình.
Gặp Bs hôm rồi em thực sự vui, dù những gì minh trao đổi về « Một nếp sống hạnh phúc » không có gì xa lạ đối với em. Những gì Bs đề cập hôm đó em đều đọc nhiều lần trong các tác phẩm hoặc các bài viết cua BS trên các báo.(…) Em mang sách Bs ký tặng và hình chụp cùng Bs về khoe với hai đứa con, con gái của em năm nay 22 tuổi nói em rằng: « Me teen qua chừng, trốn đi làm bệnh viện, đi gặp idol xin chữ ký với lại xin chụp hình mới ghê chứ » . Em thấy đúng là mình trẻ con, nhưng lại thấy rất hài lòng…

Lê Uyển Văn (Trà Vinh):
“Đọc bài của LVD, thấy hạnh phúc đến rưng rưng, hạnh phúc bởi sự đồng cảm, sự chan hòa mà tình người mang lại cho nhau. Em như hình dung được không khí đó, vui cùng niềm vui của mọi người.
Rồi em chợt nghĩ, thật không quá đáng khi Đỗ Hồng Ngọc đi đến một nơi nào đó mà được đón nhận hơn cả những ngôi sao… Cái chính là sức lan tỏa và lay động đến tâm hồn mọi người thật lâu bền từ những cuộc chuyện trò dung dị ấy”.

Lưu Hà (Đà Nẵng)

Bác Ngọc ơi,
Vợ chồng cháu thật may mắn đã được gặp bác. Từ bữa đó về chúng cháu đều cố gắng ăn cơm “chánh niệm”, nói chuyện cũng “chánh niệm”… không vừa ăn vừa xem ti vi, không mất tập trung. Rồi sau đó mới nghỉ ngơi nói chuyện. Kì lạ là từ sau đó chúng cháu thấy vợ chồng gần gũi nhau hơn, chia sẻ tình cảm, suy nghĩ nhiều hơn sau một thời gian dài vật lộn với 2 em bé sinh đôi mà quên mất nhau. Hihi
Cháu có ghi lại cuộc trò chuyện của bác để làm “Cẩm nang” khi cần. Cháu xin gửi lại bác, phòng khi có ai cần đọc. Cháu cảm ơn bác nhiều. Vợ chồng cháu chúc bác mạnh khỏe và hạnh phúc.
Cháu Lưu Hà.

 

***

Năm 2017, lại Đà Nẵng:

Hội Sách của Phương Nam tổ chức tại Hải Châu Đà Nẵng với hàng trăm gian hàng sách và những đêm giao lưu giữa độc giả – khán giả với cả ngàn người tham dự.

Buổi “giao lưu” với độc giả Đà Nẵng, tháng 4.2017 tại Hội Sách Hải Châu.

Đợt này, cuốn “Chuyện trò cùng Bs Đỗ Hồng Ngọc về Nếp Sống An Lạc” được giới thiệu chính thức tại Hội sách với một buổi giao lưu khá đông. Hôm đó còn có ca sĩ Thu Vàng hát mấy bài thiệt hay và người dẫn chương trình là MC Ngân Hoa.

Cuốn sách phát hành lần đầu năm 2017, đến nay, 2021 đã tái bản lần thứ 3 rồi đó.

“Nếp Sống An Lạc” quả là không dễ giữa thời buổi Cô-vi này vậy.

 

Xin cảm ơn tất cả.

Đỗ Hồng Ngọc

(Saigon, 06.2021)

 

 

 

Filed Under: Ghi chép lang thang, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

“MỘT THỜI ĐỂ YÊU VÀ MỘT THỜI ĐỂ NHỚ”

21/06/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

LÊ KÝ THƯƠNG. “MỘT THỜI ĐỂ YÊU VÀ MỘT THỜI ĐỂ NHỚ”

Nguyễn Hiền-Đức

 

 

Thưa rằng…

Mãi đến nay, tôi chưa một lần được “diện kiến” anh Lê Ký Thương, nhưng tôi đã “quen”, đã “biết” và đã yêu thích những sáng tác của Anh từ lâu. Xem như tôi có cơ duyên được gặp gỡ Anh ấy vậy! Số là khi lang thang trên mạng, khi được bạn gởi cho những bài của anh, hoặc của các Tác giả viết về Anh tôi đều chăm chú đọc sau khi đã dàn trang (mis-en-page).

Bây giờ  tôi nghĩ cần phải làm một điều gì đó về Anh theo sự mách bảo từ tâm cảm tôi. Thế là có được “tệp” này. Đây chỉ là một sự tập họp bước đầu những sáng tác của Lê Ký Thương và một ít bài viết về anh. Việc làm này chỉ là bước khởi động và còn ở phía trước.

Nội dung “Tệp” này gồm 3 phần chính:

Phần Dẫn Nhập: Bài viết của Đỗ Hồng Ngọc, Phan Vũ, Hai Trầu (2 bài), và Lời giới thiệu Tạp bút Lê Ký Thương của Trang Nhà Văn Việt.

Phần II: Lê Ký Thương: Trang Văn – Trang Đời

Tôi xin thưa trước điều này:

– Tôi chỉ gọi là Lê Ký Thương. Trước họ tên anh không có danh xưng nào. Gọi như thế người Quảng Nam chúng tôi gọi là “nói trỗng”, là thiếu tôn trọng, thậm chí là vô lễ. Nhưng tôi nào dám thất lễ đối với một người mà tôi cảm phục về tài, trí và tâm như Lê Ký Thương; chẳng qua là vì gọi Lê Ký Thương – Nhà Văn? Lê Ký Thương – Nhà Thơ? Lê Ký Thương – Họa Sĩ? Lê Ký Thương – Nhà Báo? Lê Ký Thương – Dịch giả?  v.v… và v.v… tôi thấy nó thiếu thiếu cái gì đó, bởi vì tôi vẫn nghĩ Lê Ký Thương là sự tổng hợp nhuần nhuyễn, khắn khít, tài hoa và thơ mộng của những “Nhà” đó; rằng “Nhà” nào ở anh và của anh, đều xinh xắn, khang trang và mời gọi cả.

– Tôi rất thích đọc những trang viết thắm đẫm về Quê Nhà của anh, đó là những trang viết dạng hồi ức rất “nhớ cố hương lưu luyến tấc lòng” rất cô đọng và sâu sắc của anh. Rồi đến giai đoạn từ năm 1969, anh vào Sài Gòn lập nghiệp và tỏa sáng qua nhiều sáng tác của anh.

– Khi xem bản thảo “nháp” tệp này, ca sĩ Thu Vàng nhiều lần bảo rằng: “Anh Lê Ký Thương vẽ đẹp hết biết. Trước nay em thích tranh của họa sĩ Bé Ký và thời gian gần đây em rất thích xem tranh của anh Lê Ký Thương.”

– Tôi thấy cần ghi thêm ở đây rằng tôi là người lo bản thảo Tiếng Hát Thu Vàng -đã nhờ anh Lê Ký Thương chuyển lời cám ơn và biết ơn Chị Cao Kim Quy vì bài  viết cực hay của chị về Thu Vàng.

– Câu kết trong bài “Nhớ Gió Tuy Hòa: Đúng là một thời để yêu và một thời để nhớ.” Vâng, “Một thời để yêu và một thời để nhớ” đó nó xuyên suốt, bàng bạc, ẩn hiện trong trang văn, trang thơ, trong các họa phẩm của Lê Ký Thương.

Phần III: Một Thời Ý Thức, Một Thuở Bạn Văn

Tôi rất muốn sưu tầm thêm nhiều bài về Tạp chí Ý Thức. Chắc chắn là tôi sẽ trở lại về chủ đề này vì với tôi, Ý Thức là một tạp chí sáng giá về nhiều mặt được thực hiện bởi những người mới vào tuổi đôi mươi, của một thời hoa niên thơ mộng. Một thời của tuổi trẻ “dấn thấn” đến với ngôi nhà thiêng Văn học Nghệ thuật, trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động của đất nước.

Nhân đây xin cám ơn Nguyễn Thị Khánh Minh và Trần Thị Nguyệt Mai đã viết bài và gởi cho một số bài về Tạp chí Ý Thức mà tôi rất cần. Khánh Minh viết hay quá: tài hoa, sâu lắng, tinh tế và “cốt lõi” đến lạ! Đó là cảm nhận chân thành của tôi khi đọc 2 bài mới nhất của Khánh Minh viết về Nguyên Minh và Huỳnh Ngọc Chiến.

– Xin thưa thêm lời cuối này: Tôi không dám gọi đây là một Tuyển tập. Vì rằng, tôi thử gắng sức viết Thay Lời Vào Tập khoảng 20 trang, sau rút lại còn 14 trang. Đọc lại tôi thấy bài này thô vụng quá nên đã xóa sạch dù có tiếc công sức, có vỗ về những cơn đau cột sống khi tôi rị mọ làm “tệp” này. Tôi nhớ lại một đoạn trong bài viết của BS Đỗ Hồng Ngọc:

“Mới đây, Quán Văn số 53 giới thiệu ”Lê Ký Thương”, anh được mời lên sân khấu ngồi nghe và cười… trong im lặng.”

Vâng, Lê Ký Thương “ngồi nghe và cười… trong im lặng”.

Tôi liên tưởng đến “Niêm hoa vi tiếu” của Đức Phật Thích Ca và nụ cười của thị giả Ca-Diếp. Cũng chính vì điều này mà tôi đã bỏ bài “Đôi Điều Cảm Nhận Về Lê Ký Thương” vì thấy cần để Anh yên lặng và mỉm cười thôi.

Cuối bài, tôi xin mượn lời của anh Hai Trầu – Lương Thư Trung”

“Chính cái “đức thành thật”, óc quan sát tỉ mỉ, cách dùng chữ tinh xác và thuật miêu tả vừa phải mà tự nhiên trong những trang hồi ức của Lê Ký Thương, tác giả đã làm cho tôi thích thú và cảm động; và tôi tin chắc rằng, nếu bạn may mắn đọc được những trang văn ấy của tác giả, bạn sẽ đồng ý với tôi về nhận xét ấy và rồi bạn cũng sẽ thích thú và cảm động như tôi vậy!”

Anh Hai Trầu luôn tẩn mẫn, tỉ mỉ, chu đáo và chân thành với bạn văn nên tôi rất vui mừng và chia sẻ với anh về cảm nhận trên đây và đi theo anh và cùng với anh để đến với anh Lê Ký Thương.

Sáng nay, 14/06/2021 tôi nhận được bài “Trò Chuyện Với Nhà Văn Lê Ký Thương” của anh Hai Trầu. Tôi vui quá liền đưa vào Tệp này và vội vã gửi đi để mong được chia sẻ với các Sư huynh và các Bạn.

Tôi muốn đọc lại “tệp” này ít nhất là 2 lần nữa để sửa lỗi chính tả và kỹ thuật nhưng vì những cơn đau cột sống tôi chưa làm được, Vậy kính mong các Sư huynh và các Bạn thân thiết của tôi lượng thứ và sửa lỗi giúp cho.

Tôi đã, đang và sẽ tiếp tục làm nhiều tuyển tập nữa để mong thực hiện một phần nào lời dạy kín đáo và tế nhị của Thầy Nguyễn Hiến Lê và Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, rằng: “ĐỌC ĐỂ HỌC”.

Tôi đọc và xem những sáng tác của anh Lê Ký Thương trong tệp này cũng là cách tôi Học vậy!

Santa Ana, ngày 14 tháng 06 năm 2021

5 Hiền – Nguyễn Hiền-Đức

Cẩn bút

 

LÊ KÝ THƯƠNG: ”HÀNH TRÌNH NGHIỆP THƠ”

ĐỖ HỒNG NGỌC

Lê Ký Thương làm thơ trước khi làm họa sĩ, dịch giả… Năm 1974, anh ra mắt tập thơ: Bếp lửa còn thơm mùi bã mía ở Phan Rang và từ đó đăng nhiều thơ văn trên các báo ở Sài Gòn. Anh cũng là người làm maquette đầu tiên cho tờ Ý Thức, tạp chí Văn học nghệ thuật những năm 70 của nhóm anh em Nguyên Minh, Lữ Kiều, Châu Văn Thuận, Lữ Quỳnh, Trần Hoài Thư, Nguyễn Mộng Giác, Đỗ Nghê, Lê Ký Thương…

Mấy năm trước, anh bị một cơn stroke, liệt nửa người phải, nhờ tích cực tập luyện với một ý chí cao nên phục hồi khá tốt. Thế rồi, một hôm đạp xe đi bơi, anh bị té gây chấn thương sọ não… Anh nói bây giờ chỉ với một tay, anh dư sức lo cả… gia đình!

Đi lại, nói năng hơi khó, nhưng lạ, trí nhớ tuyệt vời. Như một cuốn tự điển bách khoa về ”văn học nghệ thuật”. Anh nhớ vanh vách ai, làm gì, ở đâu… đời sống riêng tư ra sao! Thiệt lạ.

Mới đây, Quán Văn số 53 giới thiệu ”Lê Ký Thương”, anh được mời lên sân khấu ngồi nghe và cười… trong im lặng.

Anh vừa in một tập thơ dày đến 250 trang: “Trò Chơi Trời Cho. Hành Trình Nghiệp Thơ” *. Tự design, tự layout… còn sửa morasse đã có Kim Quy phu nhân lo (nhưng nghe nói giờ chót chàng không cho sửa…!), và in ấn thì đã có Nguyên Minh.

Xin giới thiệu với bạn bè.

Lê Ký Thương, nói chung, là một người hiền lành, còn nói riêng thì hổng biết…!

Đỗ Hồng Ngọc

 

 

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Lắng nghe âm thanh của yên lặng

20/06/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Lắng nghe âm thanh của yên lặng

Bs Hồ Đắc Đằng 

Một buổi sáng mùa đông năm nọ, một hiện tượng kỳ lạ, chưa từng thấy đã xảy ra ở thác Niagara, NY. Hoàn toàn yên lặng. Một trong ngũ đại hồ, hồ Erie bị đóng băng không còn đổ nước xuống thác được và cả Niagara trở thành một tường đá đong cứng. Cái tiếng động ầm ỉ của thác đổ ngàn năm hôm đó nhường chỗ cho yên lặng hoàn toàn. Điều nầy không có nghĩa là cái yên lặng đó đã không có từ trước mà chì mới sinh ra buổi sáng mùa đông năm đó. Nó đã có từ lúc thác Niagara mới hình thành từ ngàn năm. Chỉ có điều người ta không ai để ý lắng nghe nó; Nó bị một chuỗi dài tiếng động che giấu nó. Bạn làm gì khi bạn đi kinh hành (walking meditation)?  Bạn chú tâm vô cái động tác bước , hay cái tiếng động làm ra bởi cái bàn chân khi nó chạm sàng gỗ hay thảm?  Cái chú tâm nầy nó liên tục hay nó có lúc nó gây ra tiếng động, làm cho bạn hay biết bước nhanh hay chậm ; và không có lúc bàn chân bạn còn chưa đụng sàn ? Dĩ nhiên là liên tục, cả chân đụng sàn hay chưa đụng sàn. Du khách của thác Niagara không phải hành giả kinh hành. Họ chỉ nghe được khi có tiếng động và có cái ảo tưỏng là cái gì không làm ra tiếng là không có.

Lắng nghe, hay biết mà không nghe gì cả

Khoảng 400 bác sĩ chăm chú nghe một thuyết trình viên hôm đó ở một buổi hội thảo CME tại Harvard năm 2015. Tôi là một trong nhóm ngồi nghe. “ Khi tôi hỏi quí vị có nghe không thì quý vị trả lời nhé”. Deepak Chopra báo cho toàn thính giả.

  • Quý vị nghe không?
  • Nghe “. Chúng tôi hớn hở la to
  • Bây giờ hãy nghe cho kỹ. Khi tôi hỏi “ Quý vị nghe không ?” thì khoang trả lời. Hãy lặng thinh, chờ cho đến khi tôi đưa ngón tay trỏ phải lên trời thì chừng đó mới trả lời nhé “. Sau đó thì ổng hỏi
  • Quý vị nghe không? Toàn thể im phăng phắc, hoàn toàn im lặng trong thính đường. Chúng tôi tuân lệnh, chăm chú nhìn ổng. Khoảng chừng 90 giây đồng hồ sau, ổng chỉ ngón tay trỏ phải lên trời. Chúng tôi đồng thanh la to:
  • Nghe”

Deepak Chopra tuyên bố: “ Cái khoảng thời gian 90 giây đó là pure awareness “.

Tôi hiễu ổng muốn nói tôi đã lắng nghe một cái hoàn toàn tĩnh lặng. Cả không có chấn động của âm thanh trong không khí mà cũng không có dao động trong ý tưởng. Yên lặng bên ngoài là một sự vắng mặt của tiếng động âm thanh. Định là một sự đứng lại của ý tưởng. Đó là Samadhi, hay còn gọi là stillness.

Hôm lễ Phật đản 26/5 vừa rồi, thiền sư Ajahn Amaro, đệ tử của Ajahn Chah, được mời giảng Dharma tại trụ sở Liên hiệp quốc tại NY.

Người thế tục hay xưng tán mấy cái mầu nhiệm lúc đức Phật đản sanh, như mới sanh đã đi 7 bước và có 7 đoá hoa sen nở dưới chân ngài. Cái mầu nhiệm thật sự mà đức Phật đã cống hiến cho nhân loại là cái ngài tìm thấy có sẵn trong tâm thức của mỗi người. Một cái hiện tượng hết sức bình thường mà không ai để ý. Đó là: “the feeling arises and passes away; The perception arises and passes away “.

Khoảng yên lặng giữa hai tiếng động và khoảng trống không giữa hai niệm.

Cái yên lặng đầy ý nghĩa của thác Niagara đóng băng  là cái tương đương của chú tâm, lắng nghe lệnh giơ ngón tay của Deepak Chopra trong 90 giây đồng hồ.

Cái ngàn năm yên lặng của Niagara không ai hay . Chỉ hay biết là nó có thật trong hai ngày . Sau đó lại chìm đắm trong thế giới của âm thanh. Hay biết < awareness > cái khoảng trống không , emptiness, giữa 2 niệm, cái trước đã qua mà cái kế tiếp chưa đến, là cái khả năng nghe được cái đứng yên, dừng lại của vô niệm mà Đỗ Hồng Ngọc nói. Nghe cái không động của Deepak Chopra làm thí nghiệm. Nghe cái Samadhi của các thiền sư như Dipa Ma. Nghe cái “ Stillness speak” của Ekkhart Tolle.

(HĐĐ)

8.6.2021

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Gươm báu trao tay, Nghĩ từ trái tim

  • « Go to Previous Page
  • Go to page 1
  • Go to page 2
  • Go to page 3
  • Go to page 4
  • Go to page 5
  • Interim pages omitted …
  • Go to page 46
  • Go to Next Page »

Thư đi Tin lại

  • Lịch “Trò chuyện, giao lưu…”
  • Lại đính chính: “SAIGON BÂY GIỜ”
  • ĐÍNH CHÍNH: BSNGOC không phải là BS ĐỖ HỒNG NGỌC
  • Đính chính: BS NGỌC không phải là Bs Đỗ Hồng Ngọc
  • bsngoc đã lên tiếng đính chính
  • Thư cảm ơn và Đính chính về FACEBOOK Bác sĩ NGỌC
  • ĐÍNH CHÍNH: Bài viết "TÀN NHẪN" không phải của Bs Đỗ Hồng Ngọc

PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG

Nguyễn Hiền-Đức: Tập tuyển CÀNH MAI SÂN TRƯỚC

Minh Lê: Học Phật qua thơ Đỗ Hồng Ngọc

TẠP GHI (Lõm bõm… Kỳ 4b)

Tạp Ghi (lõm bõm… kỳ 4): Mười Hạnh Phổ Hiền

TẠP GHI (Lõm bõm…) kỳ 3

Tạp Ghi (Lõm bõm kỳ 2)

TẠP GHI (Lõm Bõm)

Nguyễn Xuân Thiệp: VỴ ƠI…

Truyện Phan Tấn Hải: QUÊN NHAU LÀ CHUYỆN KHÓ

Thêm một Tuổi Mới

Xem thêm >>

Chuyên mục

  • Một chút tôi
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy

Bài viết mới nhất!

  • Mười Hạnh Bồ-Tát PHỔ HIỀN
  • Trần Thị Trúc Hạ: TÌNH BẠN
  • Nhớ Nhà Văn VÕ HỒNG với nỗi… “Cô Đơn Uy Nghi”
  • Quán Văn: NHỚ VÕ HỒNG
  • LÊ KÝ THƯƠNG VÀ NHỮNG NGƯỜI BẠN VĂN CHƯƠNG

Bài viết theo tháng

Ý kiến bạn đọc!

  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Buổi trò chuyện về Thiền “Quán Niệm Hơi Thở”
  • Cao Huy Khiem trong Buổi trò chuyện về Thiền “Quán Niệm Hơi Thở”
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong “Xả”… stress !
  • “Xả”… stress ! | suonglamportland trong “Xả”… stress !
  • Phan Công Khương trong Nguyễn Mậu Pháp: CẢM NHẬN  “VỀ THU XẾP LẠI…”
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Có một “nghệ thuật”… ngủ!
  • Ngọc Trâm trong Có một “nghệ thuật”… ngủ!
  • Sách mẹ đọc - Thư gởi người bận rộn - Bs. Đỗ Hồng Ngọc - Blog Nuôi Dạy Con trong Chữ “NHÀN”
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Thư gởi bạn xa xôi (4): LỤC BÁT
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Hãy vui với tuổi vàng của mình

Cùng một tác giả

  • 0
  • 1
  • 1
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6

Thống kê

Nhà tài trợ

biệt thự vũng tàu
biệt thự vũng tàu cho thuê | biệt thự vũng tàu cho thuê theo ngày giá rẻ | cho thuê biệt thự vũng tàu có hồ bơi
© 2009 - 2016 Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Phát triển & Hỗ trợ kỹ thuật bởi SGC.
Trích dịch nội dung để dùng trong nghiên cứu, học tập hay dùng cho cá nhân đều được tự do nhưng cần phải chú thích rõ nguồn tài liệu và đối với các trích dịch với mục đích khác, cần phải liên lạc với tác giả.
  • Một chút tôi
    ?
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    ?
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    ?
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    ?
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    ?
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy
  • Nhận bài mới qua email