Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Tập hợp các bài viết của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Ghi chép lang thang
  • Nhận bài mới qua email

Hội quán Các Bà Mẹ: Giao lưu với Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc về cuốn “Bông Hồng Cho Mẹ & Những Cảm Nhận Học Phật”

30/07/2022 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Hội quán Các Bà Mẹ:

Giao lưu với Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc về cuốn “Bông Hồng Cho Mẹ & Những Cảm Nhận Học Phật”

Ngày 17.7.2022

Cảm ơn Ng. Văn Quyền đã thực hiện một clip thật dễ thương cho buổi Trò chuyện thân mật giữa Đỗ Hồng Ngọc và các bà mẹ, các thân hữu tại Hội Quán Các Bà Mẹ, số 7 Nguyễn Thị Minh Khai, Quận 1, Tp HCM, ngày 17.7.2022.

Địa điểm nằm trong khung cảnh một Chợ quê, dưới bóng cây đa cổ thụ, giữa lòng Saigon ồn ào náo nhiệt trong một buổi sáng Chủ nhật, quả là không dễ tìm! Lại còn cái căn gác nhỏ, ọp ẹp, chật chội, không cả ghế ngồi… Nhiều bạn đến trễ, không lên gác được phải bỏ về, cằn nhằn mãi…

Hội quán CBM thì nói có chỗ khang trang, rộng rãi, bề thế hơn… nhưng lỗi tại bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc cứ đòi lấy một chỗ quê mùa, cũ kỹ, như chỗ một Bà Mẹ Quê ngày xa xưa đó vậy.

Mong thông cảm.

Đỗ Hồng Ngọc.

 

 

 

 

 

 

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Gươm báu trao tay, Phật học & Đời sống, Vài đoạn hồi ký

Dương Mình Trí: cảm nghĩ nhân đọc “Bông hồng cho Mẹ & Những cảm nhận học Phật”

19/07/2022 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

 

Vài cảm nghĩ nhân đọc

“Bông hồng cho Mẹ & Những cảm nhận học Phật”

của Bs. Đỗ Hồng Ngọc

 

Cách đây khoảng hai tuần, tôi nhận được cuốn sách này vào buổi học Phật chiều thư Bảy hàng tuần ở lớp Phật học & Đời sống (PH&ĐS) tại Chùa Phật học Xá Lợi. Nhìn thấy bác “khệ nệ” xách giỏ sách để phân phát cho các Phật tử “thấy mà thương”.

Tôi không có cơ duyên được bác chữa bệnh khi còn nhỏ và cũng không có nhiều cơ hội đọc thơ của bác, nhưng lại có may mắn được học Phật với bác một thời gian đủ để hiểu những vấn đề cơ bản trong Phật học. Một nhân duyên thiện lành.

Lần đầu tiên tôi biết đến bác, không phải được diện kiến dung nhan mà qua cuốn sách “Thiền và sức khỏe”. Nhớ lúc đó mỗi lần chở con đi học thêm Anh văn tại các trung tâm ngoại ngữ tôi thường mang theo nó để đọc trong khi chờ đợi con tan lớp. Một cuốn sách hấp dẫn.

Cơ duyên đưa đẩy tôi đến lớp PH&ĐS (lúc đó lớp chưa mang tên này) tại chùa XL cũng nhờ … bác. Nhớ lại buổi chiều hôm đó tôi có tham dự một buổi nói chuyện của bác về Thiền tại giảng đường Chánh Trí, khi kết thúc đi ra tình cờ thấy một tờ thông báo về lớp Phật học, thế là tìm hiểu và tham gia cho đến bây giờ. Một khởi đầu lạ lùng.

Đọc các bài viết của bác, một đặc điểm nổi bật mà tôi cảm nhận được là thường có lồng thêm những kiến thức về y học, tâm lý học và xã hội học như là một phương tiện khoa học nhằm minh họa, chứng minh thêm cho nội dung bài viết. Nhờ vậy ngoài nội dung bài viết, độc giả cũng có thêm những hiểu biết cơ bản của các lãnh vực trên. Một đặc điểm khác là bác viết những chủ đề về Phật học không bị lạc vào cách kiến giải hàn lâm, rắc rối mà rất đời thường, gần gũi, dễ nhớ nhưng cũng không lạc khỏi ý kinh. Lối viết như chơi với văn phong nhẹ nhàng, đôi lúc dí dõm nhưng cũng rất sâu sắc. Một cách viết thú vị.

Hãy cùng nhau đi dạo qua vài bài bác viết trong cuốn sách bác vừa tặng.

Trong bài “Cha mẹ và con cái”, bác đã đưa ra hình ảnh về tấm lòng bao la của cha mẹ đối với con cái từ khi con còn là một bào thai trong bụng mẹ cho đến khi con trưởng thành để nói về Tứ vô lượng tâm (Từ, Bi  Hỷ, Xả), bốn đức tính cao đẹp mà giáo lý nhà Phật thường hay đề cập. Thật là sống động, trực quan và gần gũi biết bao, đọc là cảm nhận được ngay. Bác kết luận: “Từ – Bi – Hỷ – Xả chính là cách mà cha mẹ đã dành cho con cái suốt cả cuộc đời đó vậy.”

Khi bắt đầu tìm hiểu về Thiền, tôi có thắc mắc “Tại sao lại dùng hơi thở làm đề mục chú tâm, quan sát mà không là một đối tượng khác? Tôi nghĩ đơn giản đối tượng nào cũng được vì mục đích là dừng cái tâm lăng xăng như con khỉ, con ngựa là được”. Trong bài “Thiền và Thở”, tôi đã thấy câu trả lời: “Thật ra thì quán sát cái gì cũng được cả, bởi tất cả đều là pháp- nhứt thiết pháp giai thị Phật pháp- nhưng quán sát hơi thở thì có điều kiện để thấy ‘ngũ uẩn giai không’ hơn, tức thấy vô ngã hơn. Vô ngã ở đây không còn là một ý niệm, một khái niệm mà là một trạng thái. Để thấy “vô ngã” thì tốt nhất là quán sát từ “ngã”, từ hơi thở là tốt nhất, một đối tượng sẵn có ngay trong bản thân mình. […] Hơi thở dễ quan sát nhất vì nó nằm ngay trước mũi mình, ngay dưới mắt mình! Lúc nào cũng phải thở. Ở đâu cũng phải thở. Cái hay nữa là quán sát nó thì không ai nhìn thấy, chỉ riêng ta biết với ta thôi! […] Hơi thở lại rất nhạy với cảm xúc. Trước một cảnh đẹp, ta “nín thở”. Lúc lo âu, ta hổn hển. Lúc sảng khoái ta lâng lâng. Lúc sợ hãi, hồi hộp ta thở nhiều kiểu khác nhau, muôn hình vạn trạng. Và nhờ đó mà thấy vô thường. Nhờ đó mà ta quán sát được cái tâm ta. Thở cũng gắn với các hoạt động cơ bắp. Khi mệt, ta mệt “bỡ hơi tai”, mệt đứt hơi, mệt hết hơi; khi khỏe, ta thở nhẹ nhàng sảng khoái! Nhờ đó mà ta quán sát được cái thân ta. Rõ ràng chỉ có hơi thở mới là một sợi dây nhạy cảm buộc vào thân vào tâm, là cái cầu nối giữa thân và tâm. Không chỉ thế, thở còn vừa là ý thức, vừa là vô thức. Như không cần ta. Như ở ngoài ta. Như không có ta. Quan sát thở, ta còn có dịp đào sâu xuống…vô thức. Ta thấy thở gắn với sự sống chết của kiếp người. Còn sống là còn thở, chết là hết thở, là tắt thở, là ngừng thở. Để ý một chút ta sẽ thấy đời người thực ra chỉ là… một hơi thở! […] Quán sát hơi thở do đó ta thấy đựơc sự sinh diệt”. Rỏ ràng cho thắc mắc của tôi rồi.

Trong bài“Trời cao đất rộng một mình tôi đi“, một kiến thức cơ bản về y học mà tôi học được: “Loài người có trí thông minh vượt trội là nhờ vỏ não phát triển, với hàng trăm tỷ tế bào thần kinh, hàng trăm nghìn tỷ tỷ các mối nối… dày đặc nhưng sự điều hành hô hấp của ta lại không nằm ở vỏ não. Nó nằm ở hành tủy, dưới vỏ não. Các trung khu hô hấp nằm ở đó, điều hành sự thở. Vì thế mà dù vỏ não không hoạt động (ngủ, hôn mê…) thì sự thở (hô hấp) vẫn được duy trì. Khi tập trung (sati) vào hơi thở là ta đã giải phóng cho vỏ não được nghỉ ngơi! ‘Tâm an’ nhờ đó”. Thực tế cho thấy khi quan sát một em bé đang ngủ say, ý thức không hoạt động nhưng cái bụng của bé vẫn phình lên, xẹp xuống đó thôi! Hơi thở vẫn vào ra đó thôi! Trong tình trạng vô thức này mình không làm chủ được hơi thở, nó như ở ngoài ta. Đó là vô ngã.

Trong nhà Phật, khái niệm sanh tử luân hồi nhằm để chỉ sự sống chết cứ xoay vần, nối tiếp nơi một chúng sanh, tức là một chúng sanh sau khi chết sẽ trở lại thế giới dưới một hình hài khác theo một trong sáu đường: thiên, nhân, Atula, ngạ quỷ, súc sanh và địa ngục. Nếu chỉ hiểu sống chết một cách đơn thuần theo kiểu thế gian thì chúng ta chỉ còn cách là tin như thế mà không thế thấy hoặc cảm nhận được gì. Trong bài “Luân hồi sanh tử”, Bác đã chỉ cho ta thấy: “Luân hồi sanh tử còn là tiến trình tâm trong mỗi sát-na. Từ sáng đến chiều, từ trưa đến tối ta đã… lang thang sáu nẻo biết bao lần. Hết thiên, nhân lại đến atula rồi ngạ quỷ súc sanh địa ngục xà quần không ngưng nghỉ. Sáng bảnh mắt ra, người sảng khoái, lâng lâng, quần là áo lượt có thua gì… tiên nhân đâu, vậy mà trưa nghe một cú điện thoại từ đâu đó bỗng đùng đùng nổi giận, đỏ mặt tía tai, bầm gan tím ruột, lọt tõm vào địa ngục… Chỉ một thoáng thôi, đã từ thiên đàng rơi xuống địa ngục, từ thiên nhân thành Atula, ngạ quỹ… Một thoáng thôi, tiến trình tâm đã trải qua muôn ngàn kiếp rồi vậy!“. À thì ra thế, trong một thời gian ngắn thôi tâm ta cũng đã luân hồi sanh tử biết bao nhiêu lần: tâm bình thường là đang ở cõi người, tâm vui như đang ở cõi thiên, tâm sân như đang đọa địa ngục, …rồi lại lặp đi lặp lại cứ như thế.

Là con người sống trong thế gian này, cũng có lúc chúng ta tự hỏi: “Ta từ đâu đến, sinh ra đời để làm gì và chết sẽ đi về đâu? “Ở đây không bàn về chuyện tâm linh sâu xa, có thể trả lời đơn giản theo kiểu thế gian: “Ta từ bụng mẹ chui ra, sinh ra đời để sống như bao nhiêu người khác và chết sẽ trở về với cát bụi. Thế là hết cuộc đời!”. Đây là hành trình của một đời người, sanh ra để mà chết và hành trình này đã được diễn giải rất rỏ, pha lẫn đôi chút dí dỏm trong bài “Chọn những nụ cười”: “Từ trứng và tinh trùng, ta hình thành một cái phôi phải nhìn dưới kính hiển vi mới thấy. Rồi rất nhanh, trở thành một thai nhi loi ngoi trong vũng nước ối, trong bụng mẹ. Không thở. Không ăn. Không ngủ. […]Thế rồi chín tháng mười ngày ta bung ra ngoài cứ y như cánh hoa phải xòe nở đúng thời đúng tiết vậy. Việc đầu tiên là… thở. […] Mệt mỏi rồi nhé! Từ đó đã phải lệ thuộc vào cái gì đó bên ngoài. Rồi phải bú nữa trời ạ. [..]. Cứ thế mà chùn chụt để nuôi thân. Rồi biết lật, biết ngồi, biết bò, biết đứng chựng, biết đi, biết chạy nhảy, leo trèo… Rồi biết nói năng, suy nghĩ. Nhớ, tiếc, giận hờn, giành giựt, đấu đá, ghen tuông, ích kỷ, thất tình lục dục đủ thứ không lúc nào ngưng. Và dĩ nhiên vẫn thở và vẫn ăn. Rồi nam tu nữ nhũ. Rồi chọn lựa. Rồi giao cấu. Rồi đẻ ra một lô một lốc chẳng biết từ đâu ra. Đến một hôm, ta từ hùng hục chạy, ta… lững thững đi, rồi chập chững đứng, vật vựa, nghiêng ngả, rồi ngồi một chỗ, mắt lờ đờ nhìn xa xăm, rồi lồm cồm, bò lê, bò lết… Từ chùn chụt, ngấu nghiến, ừng ực, dô dô 100%… ta bỏ ăn bỏ uống, thấy cái gì cũng rệu rạo, nhóp nhép vì xệu xạo răng cỏ. Rồi thở cũng cà giật, cà hước… Ta trở lại cái hồi thai nhi trong bụng mẹ, bây giờ là “mẹ Như Lai”, một vòng khép kín. Thì ra, ta đã từ đó mà đến để rồi loay hoay một vòng về lại chốn xưa”. Rồi bác nhận xét: “Nhìn suốt cuộc hành trình đó, có cái gì tức cười, vừa tàn nhẫn vừa thương tâm. Cái hiện hữu chỉ là thị hiện, trình hiện chút chơi vậy thôi. Nó giả. Nó tạm. Vậy mà sao ta cứ tưởng thiệt mới đáng thương làm sao. Gieo rắc và sinh sôi. Cứ vậy”.Đến đây lại nhớ nhà thơ Bùi Giáng: “Ta cứ ngỡ trần gian là cõi thực/ Thế cho nên tất bật tới bây giờ”.

“Độc cư”, một bài viết khác của bác. Độc cư có phải là sống một mình, không có ai chung quanh? Hãy xem bác diễn giải: “Ở một mình, ăn một mình, đi một mình, ngủ một mình mà đầu óc quẩn quanh biết bao hình bóng, biết bao câu chuyện, nhớ tiếc dĩ vãng, mơ tưởng tương lai thì không thật độc cư ! Dĩ vãng qua rồi. Quấn quít với nó mãi thì gánh nặng đeo mang bao giờ đặt xuống ? Tương lai chưa tới, Que sera sera. Biết ra sao ngày sau. Chuyện ngày mai của ngày mai. What will be will be. Tướng như vậy, tánh như vậy…bổn mạt cứu cánh nó như vậy…Vậy phải chăng an trú trong hiện tại, sống “hiện sinh” xả láng?Hiện sinh kiểu đó cũng chẳng phải hiện sinh chút nào! Độc cư không chỉ rời xa dĩ vãng, không đắm đuối tương lai mà hiện tại cũng phải nhìn bằng con mắt khác. Mắt tuệ: vô thường, khổ, không, duyên sinh, vô ngã…Độc cư và Thiền định không hai. Độc cư thứ thiệt thì nghe ngóng được vận hành của Như Lai trong từng sát na, là sống với Như Lai, sống cùng Như Lai, sống như lai. Và như vậy, người ta có thể sống ‘độc cư’ bất cứ ở đâu, giữa chợ đời, trong gia đình, dưới gốc cây, nơi rừng thẩm, … Cho nên càng sớm “độc cư” thì càng không cảm thấy cô đơn…”. Như vậy sống độc cư không phải là sống một mình mà sống an trú vững chải trong giây phút hiện tại và ý thức được những gì đang xảy ra trong hiện tại, không mắc kẹt vào quá khứ và cũng không bay bổng đến tương lai, nhờ vậy tâm không phóng dật và quay về bên trong chính mình.

Con người được cấu tạo bởi năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) và tưởng là một uẩn trong năm uẩn. Tưởng là sự nhận thức, nhận biết qua giác quan, nó còn được gọi là tri giác. Tưởng cũng giống như cặp mắt kính ta đeo để nhìn sự vật, nếu đeo mắt kính màu gì thì sẽ cảnh vật giống như màu đó. Chúng ta đau khổ hay hạnh phúc đều do cái tưởng này. Vậy muốn chấm dứt khổ đau, ta phải biết sửa đổi cách nhận thức của mình, tức là sửa lại cách tưởng của mình, tập bỏ dần những cặp mắt kính màu để nhìn trực tiếp sự vật. Trong bài “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác”, bác có viết: “Có tưởng là bắt đầu sinh sự. Tưởng vô vàn. Tưởng vô tận. Muốn thiên đàng có thiên đàng. Muốn điạ ngục có địa ngục. Cho nên tu là tu Tâm. ‘Nhất thiết duy tâm tạo’. Tất cả là do tâm bày vẽ ra. Phật từ thời Hoa Nghiêm đã nói rõ như thế. Hạnh phúc khổ đau từ đó. So sánh hơn thua, chém giết nhau từ đó. Tiếng Việt ta còn hay hơn: Tướng và Tưởng, chỉ khác nhau có mỗi cái dấu sắc, dấu hỏi… Mà đã ngàn trùng cách xa!”.

Tưởng cũng được nhắc đến trong bài “Quán Thế Âm Bồ Tát”: “Nỗi sợ của con người là ghê gớm nhất. Sợ chết, sợ khổ, sợ nghèo, sợ xấu xí, sợ bệnh hoạn, sợ già nua… Cho nên làm cho con người ta hết sợ là đủ để mang lại hạnh phúc, đủ để  ‘cứu vớt chúng sanh’. Nhưng vì đâu mà người ta sợ? Vì tưởng. Tưởng nên mới thấy sợi dây thành con rắn. Tưởng nên mới cho cái gì của mình cũng nhất thiên hạ. Tưởng nên vô thường mà thấy là thường, vô ngã mà thấy là ngã… Tưởng là của ta, là ta, là tự ngã của ta nên mới tính chuyện gồm thâu lục quốc, nhất thống giang hồ, muôn năm trường trị, trường sanh bất tử…”. Rồi tác giả chỉ ra thuốc đặc trị cái tưởng: ” ‘Một lòng xưng danh’ Quán Thế Âm Bồ tát, lập tức vô lượng vô số khổ não sẽ được xóa mất ngay vì Quán Thế Âm là vị Bồ-tát có khả năng “nghe được tiếng kêu của trần thế!” với lòng đại từ đại bi, sẵn sàng ra tay cứu độ. Có thể được ư ? Có thể được. Vì vỏ não ta một lúc không thể có hai ý tưởng cùng tồn tại. Các ý tưởng có thể nối tiếp nhau, dắt dây nhau, niệm này vừa dứt niệm kia đã sanh, chen chúc nhau thì có, nhưng cùng lúc thì không. Nếu đã ‘một lòng’ thực sự ‘xưng danh’ Quán Thế Âm thì không thể cùng lúc ‘xưng danh’ vị Bồ tát nào khác hay ý tưởng nào khác. Cái khó là ‘một lòng’, tức ‘nhất tâm’: nhất tâm bất loạn. Gọi tên, xưng danh Quán Thế Âm bởi vì chỉ có Quán Thế Âm mới có nghìn mắt nghìn tay, mới có nước cam lồ rưới tắt tất cả tham sân si của chúng sanh, mới có khả năng giúp ta hết sợ hãi với một pháp thí tuyệt diệu: vô úy thí!”. Tại sao hay như vậy? linh như vậy? Bác đã chỉ ra ẩn dụ, ẩn nghĩa trong đoạn trên:“Thì ra Quán Thế Âm Bồ tát chẳng phải ai xa lạ: Ngài chính là Quán Tự tại Bồ tát. ‘Quán Tự tại Bồ-tát hành thâm Bát Nhã Ba-la-mật-đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai Không, độ nhất thiết khổ ách’!  Một khi ‘Sắc tức thị Không/ Không tức thị Sắc’ thì lửa sao còn làm cháy được, nước sao còn làm trôi được, gió sao còn thổi bay được, dao gậy xiềng xích sao còn hung hăng được? Và tham sân si cũng đã không tồn tại nữa rồi, đã gaté, gaté, paragaté, parasamgaté rồi, đã “đáo bỉ ngạn”, đã qua bờ bên kia rồi… thì còn sợ hãi điều chi? “Vô úy thí” là vậy!”

Trong kinh Pháp Hoa, ngoài Bồ tát Quán Thế Âm kinh còn nói đến một vị Bồ tát khác cũng rất thú vị, có một pháp tu khá đơn giản và lạ kỳ. Hãy nghe bác nói đến pháp tu của Ngài trong bài viết “Thường Bất Khinh Bồ tát”: “Thường là luôn luôn, bất là không và khinh là coi nhẹ- Thường Bất Khinh là không bao giờ coi nhẹ, không bao giờ khinh người, nói khác đi luôn tôn trọng người, bất cứ là ai, ở đâu, không phân biệt. Bởi vì dưới mắt Thường Bất Khinh, ai cũng sẵn có Phật tri kiến, Phật tánh đó rồi, chẳng qua vì không thấy biết mà không rõ được sự thực, nên không tìm ra hạnh phúc đích thực của kiếp người mà quằn quại trong nỗi khổ đau, bất hạnh. […] ông chỉ làm mỗi việc: chắp tay xá lạy mọi người, bất kể là ai và nói với họ rằng : Tôi không dám coi thường ngài. Ngài chính là một vị Phật tương lai. Ngài sẽ thành Phật ! Nghe ông nói, ai cũng chưng hửng. Phật ư ? Thành Phật tương lai ư ? Còn lâu ! Giỡn chơi sao chớ. Chế giễu hả? Và người ta đánh đuổi ông, nguyền rủa ông, ném đá vào ông. Mặc kệ, ông vẫn kiên trì, không một chút nao lòng, vẫn cứ mỗi một câu nói đó : Tôi không dám khinh ngài, ngài sẽ là một vị Phật tương lai, ngài sẽ thành Phật. Nghe một lần hai lần thì nổi giận, nghe trăm lần ngàn lần thì giật mình, ngạc nhiên và sửng sốt. Rồi nhìn ngắm lại mình. Ủa, mà cũng dám lắm chớ. Ai cũng có hạt giống Phật mà, chịu khó tưới tẩm có ngày dám mọc lên một cây Bồ đề lắm chớ. Phật là chúng sanh đã giác ngộ còn chúng sanh là Phật sẽ thành đó thôi. Và từ đó, lòng tự tin trỗi dậy. Tín thì tấn, rồi niệm, rồi định rồi huệ. Con đường tất yếu nó vậy“.Liên hệ đến giao tiếp truyền thông giữa người với người trong cuộc sốngbácnhận xét: “Tôn trọng, đức tính thứ nhất để thiết lập truyền thông hiệu quả giữa người với người. Thiếu tôn trọng thì truyền thông lập tức gẫy đổ. Tôn trọng phải xuất phát từ lòng thành, nếu không chỉ là sự giả vờ, đóng kịch, không qua mắt được ai.Thường Bất Khinh bằng tất cả lòng thành nên mới nhẫn nhục và tinh tấn đến vậy”. Chúng ta thử áp dụng pháp tu của Ngài khi bị ai xúc phạm, ghét bỏ hay thậm chí muốn hãm hại xem sao!

Dân gian có câu: “Một trăm lần nghe không bằng một lần thấy” hay có thể suy ra “một trăm lần đọc về từ bi không bằng một lần thấy hành động từ bi nơi vị thầy”. Một vị thầy trong đạo dạy ta giáo lý qua khẩu giáo và giới đức qua thân giáo, chính thân giáo, tức hành động, nhân cách, giới phẩm và đức hạnh của vị thầy mới quan trọng, nó làm gương cho ta noi theo. Đây một bài học không lời. Hãy đọc đoạn bác viết trong bài “Với kinh Kim Cang Bát Nhã”: “Cái điều bỡ ngỡ và chưng hửng đầu tiên khi học Kim Cang là hy vọng được đọc, được nghe những lời hay ý đẹp, những khuôn vàng thước ngọc, những bài giảng uyên áo. Thế mà, trời ạ, Kim Cang lại đi kể ngay một chuyện rất đỗi bình thường, nếu không muốn nói là tầm thường nữa, chẳng ăn nhập vào đâu, đó là chuyện Phật tới giờ ăn, đói bụng, bèn mặc áo, ôm bình bát đi… khất thực, chẳng thèm nói lấy một tiếng! Nghĩ mà coi, giữa lúc có hàng ngàn người, cả các vị Đại Bồ tát, A la hán, các vị ‘chức sắc’ và các đại đệ tử thân tín ngồi hồi hộp chờ nghe những lời giáo huấn sâu xa thì Phật chẳng nói chẳng rằng, mặc áo, cầm bình bát, vào thành khất thực. Đến khi khất thực thấy vừa đủ rồi ung dung trở lại ‘hội trường’, bày ra ăn, ăn xong, thu dọn y bát đâu đó đàng hoàng rồi rửa chân sạch sẽ, ngồi xếp bằng… thở, nghĩa là… nhập định! Chẳng thèm nói lấy một tiếng. Chẳng thèm ban cho một chút huấn từ […]. Bỗng dưng, Tu Bồ Đề xuất hiện. Ngồi giữa đám đông như mọi người bỗng ông đứng phắt dậy, cung kính cúi chào đúng nghi lễ với bậc Thế Tôn rồi cất lời ca ngợi: ‘Thật là tuyệt vời! Thật là tuyệt diệu! Thật xưa nay chưa từng có! Thế Tôn đã khéo léo dạy dỗ, khéo léo trao truyền, khéo léo gởi gắm cho các vị đang có mặt tại đây hôm nay!’ Lúc đó thì quả thực mới bùng nổ bài học vừa được truyền trao mà chẳng ai ngờ! Lúc đó thì sự chưng hửng đã trở thành nỗi áy náy. Chết rồi, nãy giờ không để ý, không theo dõi kỹ bài giảng không lời kia của Đức Phật! May mà có Tu Bồ Đề phát hiện! Những người không để ý quan sát kỹ sẽ mất đi một cơ hội đáng tiếc”.Rồi bác nhận xét rằng:“Phật có cách dạy riêng của ngài: Không nói một lời mà chỉ làm cho coi. Đó là một phương pháp giáo dục rất mới mà bây giờ người ta gọi là “demonstration”, tức biểu diễn, làm gương, làm cho bắt chước, một lối dạy kỹ năng sống (life skills) rất hiện đại. Một lần nữa cho thấy học Phật, tu Phật là làm chớ không phải nói. Làm trước, nói sau. Hoặc cũng chẳng cần nói”.

 

Saigon 17/07/2022

Dương Minh Trí

(Thành viên lớp Phật Học & Đời Sống)

 

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống

Đỗ Hồng Ngọc với “Bông hồng cho mẹ và những cảm nhận học Phật”

17/07/2022 By Bac Si Do Hong Ngoc 2 Bình luận

 

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc với “Bông hồng cho mẹ và những cảm nhận học Phật”

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc chia sẻ kinh nghiệm học Phật đến bạn đọc
Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc chia sẻ kinh nghiệm học Phật đến bạn đọc
GNO – Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc vừa có buổi trò chuyện với người yêu sách nhân dịp giới thiệu tác phẩm mới “Bông hồng cho mẹ và những cảm nhận học Phật”, vào sáng nay 17-7, tại “Hội quán Các bà mẹ” (Q.1, TP.HCM).

TIN LIÊN QUAN

  • Đọc “Tôi học Phật” của Đỗ Hồng Ngọc
  • BS.Đỗ Hồng Ngọc với “Thư gởi bạn trong mùa Co-vi 19”
  • Tản mạn “Về thu xếp lại” của Đỗ Hồng Ngọc
  • BS.Đỗ Hồng Ngọc: “Đức Phật, bậc Y vương”
Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc với “Bông hồng cho mẹ và những cảm nhận học Phật” ảnh 1
Trò chuyện với bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc: “Bông hồng cho mẹ và những cảm nhận học Phật”

Trong buổi gặp gỡ, bạn đọc lắng nghe những chia sẻ thân tình của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc về con đường thi ca, nhân duyên với ngành y và cảm nhận ban đầu về Phật học của mình. Ông cũng chia sẻ thêm về những kiến thức cơ bản cho người mới đầu học đạo cũng như kinh nghiệm thực hành trong cuộc sống hàng ngày, giúp thân và tâm an lạc hơn.

Dịp này, mọi người có cơ hội tìm hiểu sâu hơn pháp môn “Thiền và Thở”, cách thức vận dụng nó để phòng, chữa các bệnh lý về thân, giảm các lo âu, stress trong công việc và mang lại an tịnh cho tâm hơn qua sự chia sẻ rất sinh động và thiết thực của vị bác sĩ này.

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc với “Bông hồng cho mẹ và những cảm nhận học Phật” ảnh 2
Tác phẩm “Bông hồng cho mẹ và những cảm nhận học Phật”

“Thân tâm của mình dường như được làm mới lại, trước đây thấy sự mất mát đó là một nỗi đau nhưng sau khi nghe bác sĩ chia sẻ thì nhận thấy, đôi khi nỗi đau đó là niềm may mắn để mình thể ngộ nhiều điều mới hơn trong cuộc sống bộn bề này”, bạn trẻ Hà Thúy Vi (26 tuổi, quận 8) xúc động khi nghe 4 câu thơ:

Con cài bông hoa trắng

Dành cho mẹ đóa hồng

Mẹ nhớ gài lên ngực

Ngoại chờ bên kia sông…

(Bông hồng cho mẹ – Đỗ Hồng Ngọc)

Tác phẩm “Bông hồng cho mẹ và những cảm nhận học Phật”, tập hợp 37 bài viết của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc trên Phật học Từ Quang tục bản (2012-2022), do Nhà xuất bản Hồng Đức ấn hành. Với Mùa Vu lan: Bông hồng cho mẹ, Thương nhớ đòn roi, Vè thiền tập, Nói thêm về thiền bụng, Luân hồi sanh tử, Quán Thế Âm Bồ-tat,… trong tác phẩm mới này gợi mở sự truyền thông về tình mẫu tử thiêng liêng và nhận thức về giáo lý Phật đà một cách nhẹ nhàng, dễ hiểu, dễ thực hành.

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc với “Bông hồng cho mẹ và những cảm nhận học Phật” ảnh 3
Niềm hoan hỷ trên khuôn mặt của nhiều người khi tham dự buổi trò chuyện

“Cuốn sách này ra đời nhân dịp Vu Lan sắp về, nó thể hiện nỗi nhớ về mẹ, cũng như cảm nhận về Phật học và một số trải nghiệm của tôi khi thực hành nó”, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc chia sẻ.

Đỗ Hồng Ngọc là tác giả của nhiều tác phẩm đã đi vào lòng người, với giọng văn nhẹ nhàng như lời tự sự, trong đó có nhiều tác phẩm liên quan Phật học đã tái bản nhiều lần, như Nghĩ từ trái tim, Gươm báu trao tay, Thiền và Sức khỏe, Gì đẹp bằng sen?…

Quảng Đạo/Báo Giác Ngộ

 

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Phật học & Đời sống, Thiền và Sức khỏe

Kỳ 3 Lớp An Cư Chùa Xá Lợi, 2022

13/06/2022 By Bac Si Do Hong Ngoc 1 Bình luận

 

Thư gởi bạn xa xôi,

Kỳ 3: Lớp An Cư chùa Xá Lợi, 2022

Ngày 10.6.2022

 

Mình thấy các thầy ít chịu tham gia, không mạnh dạn phát biểu, trao đổi, mà chỉ nghe, ghi chép, nên lần này mình thử thay đổi “phương pháp” cho lớp một chút vậy.

Các thầy được xếp ngồi thành một vòng tròn, điều này giúp các thầy được… nhìn thấy nhau, và quan trọng hơn, mọi người đều… bình đẵng, không phân biệt…!

Và sau đó, mình gởi mỗi thầy một mảnh giấy nhỏ, đề nghị viết lên đó 2 câu hỏi: một về vấn đề Sức khỏe thầy đang quan tâm và một về… những thắc mắc trong lãnh vực học Phật.

Thật bất ngờ. Nhiều câu hỏi rất hay. Những câu hỏi về bệnh lý được trả lời ngay. Còn về Phật học thì xin ghi lại đây để cùng suy nghĩ. Có nhiều câu chắc phải nhờ đến các vị Đại sư phụ trả lời! Thí dụ vấn đề “Xá Lợi”, Tại sao Ngài La Hầu La và Đại Ca Diếp nhập niết bàn ở cõi trời và trong động mà Xá lợi vẫn có trong cõi Ta-bà này? Chữa bệnh bằng Thiền tập có hiệu quả không? Dịch Covid 19 và sự đóng góp của Phật giáo trong hỗ trợ vật chất tinh thần cho người bệnh; Cộng nghiệp và biệt nghiệp; Tam giới? Khi quán một đề mục để hành thiền Tứ niệm xứ, vậy Tâm khi đó là tâm có hay tâm không? Nguyên nhân nào đưa bác sĩ tìm đến Đạo Phật? Đạo Phật có giúp gì được cho bác trong cuộc sống không?…

Nhân đó, tôi cũng nhắc lại buổi Nhóm Học Phật chùa Xá Lợi đến thăm Ni sư Liễu Pháp và các vị ở Thiền viện Viên Không Ni ngày Chủ nhật 05/ 06/ 2022 vừa qua ở Bà Rịa. Hôm đó, Ni sư Liễu Pháp cũng đặt cho tôi mấy câu hỏi như về Sự hủy thai (mắc bệnh di truyền) có phải là đã phạm giới sát sanh? Vần đế An tử (euthanasia)? vấn đế Nhân bản vô tính…

Những vần đề này cũng đã được nhiều vị bàn đến từ lâu như Bác sĩ Trịnh Đình Hỷ (Nguyên Phước), TS Nguyễn Tường Bách,  Trần Kim Đoàn v.v… vẫn là những vấn đề rất thời sự khi người ta đã nhân giống “thành công” từ Cừu Dolly 1996 đến 2 con khỉ (2018), và gần đây không cần dùng tế bào phôi mà dùng tế bào gốc (bất kỳ), từ ADN…

 

 

Lớp An Cư Kiết Hạ, chùa Xá Lợi, Tp HCM 10.6.2022

 

 

 

 

 

 

 

 

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc.

Thuộc chủ đề:Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống, Uncategorized

Bài đọc thêm: DƯỢC TÍNH TRONG TÂM…

09/06/2022 By Bac Si Do Hong Ngoc 2 Bình luận

 

Lớp An Cư chùa Xá Lợi, 2022

Bài đọc thêm (2)

 

DƯỢC TÍNH TRONG TÂM…

Bác sĩ Phạm Nguyên Quý

Tiến sĩ, bác sĩ Phạm Nguyên Quý hiện là bác sĩ điều trị tại Khoa Ung thư nội, Bệnh viện Trung ương Kyoto Miniren; nghiên cứu viên tại Khoa Y, Đại học Kyoto.

(Nguồn: https://vnexpress.net/duoc-tinh-trong-tam-4229978.html)

 

Tôi từng “khóc thầm” vì bài học mà bệnh nhân của tôi đã vô tình dạy bác sĩ.

Tôi vẫn nhớ như in lần khám với bệnh nhân 70 tuổi không may mắc ung thư tụy di căn phổi. Bà có nhiều dịch tích trong ngực, còn gọi là tràn dịch màng phổi, và cần chăm sóc giảm nhẹ. Bốn tháng trước, bà còn bị thêm di căn da – thành ngực, liên quan tới thủ thuật đặt ống thông để giảm dịch ngực ở một bệnh viện khác. Vì đau ở thành ngực, bà cũng đã được xạ trị vào khối u. Cơn đau được khống chế một thời gian, khi bị đau lại, bà được giới thiệu tới bệnh viện của tôi bởi gần nhà.

Chúng tôi nói chuyện thăm hỏi ban đầu khá vui vẻ, nhưng khi tôi sờ vào cục u trên da để thăm khám, bà đột nhiên bật khóc.

Tôi hơi hoảng, liền hỏi ngay tại sao?
“Bàn tay bác sĩ ấm làm tôi dễ chịu quá”, bà nói.

Bà thật tình kể tiếp một chuyện bất ngờ hơn. Đi khám ở các bệnh viện bốn tháng qua, bà không được ai chạm tới chỗ đau đó. Ở đâu, người ta cũng chỉ hỏi bệnh, kê đơn thuốc giảm đau, xem hình chụp CT (Computed Tomography Scan – CT Scan) rồi chỉ cho bà cục u trên màn hình máy tính.

Tôi vừa nghe chuyện vừa nghĩ tới cách giải thích để bênh vực cho những đồng nghiệp bận rộn của mình. Rằng khối u đã quá rõ ràng trên hình ảnh nên bác sĩ nghĩ rằng không cần phải chạm tới, hay bác sĩ bận rộn quá không thể chờ người bệnh kéo áo lên xem. Việc chạm vào cục u thường không thay đổi “chiến lược điều trị”, và có thể bác sĩ cũng đã không có thời gian nghĩ tới cảm xúc của bệnh nhân.

May thay, bà không khóc vì giận bác sĩ mà vì cơn đau dai dẳng tự nhiên mất đi không ngờ. Bà không biết rằng tôi cũng đã khóc thầm sau khi gặp bà, từ bài học mà bà đã vô tình dạy cho bác sĩ. Tôi khóc vì hóa ra bàn tay vụng về của mình lại có thể ý nghĩa đến vậy với một ai đó.

Mấy tháng sau, một bệnh nhân khác nói với tôi rằng cô cũng cảm thấy dễ chịu khi được bác sĩ thăm khám. Tôi thầm cảm ơn cô vì đã giúp các bác sĩ trẻ như tôi thêm động lực. Bệnh nhân vừa là người thầy của bác sĩ, vừa làm nghề thầy thuốc trở nên ý nghĩa.

Hầu hết bệnh nhân thật ra kỳ vọng khá lớn vào việc được bác sĩ thăm khám trực tiếp. Hầu hết họ vẫn nghĩ rằng bác sĩ phải sờ – nhìn – gõ – nghe hoặc ít nhất “sờ vào người” thì mới gọi là “đi khám”.

Cho dù các chỉ số như huyết áp, nhịp tim đã có y tá lấy bằng máy hoặc đo tự động, nhiều bệnh nhân ở Nhật nói với tôi rằng họ vẫn muốn được bác sĩ bắt mạch “truyền thống” dù chỉ vài giây. Trong bối cảnh phòng khám bận rộn, nhu cầu “kinh điển” này có thể khó thực hiện, nhưng tôi luôn tự nhắc mình để không làm bệnh nhân buồn lòng.

Lần khác, tôi có duyên gặp một bệnh nhân bị khó thở vì ung thư phổi kèm tràn dịch màng phổi. Các bác sĩ trước đó đã nói với bà rằng khó thở vì “phổi đã ngập nước”. Sau khi gõ và nghe tiếng phổi của bà, tôi cười, nói với bà rằng dịch chỉ chiếm 1/3 ngực và 2/3 còn lại “vẫn chạy tốt”. Bà bớt khó thở ngay chiều hôm đó.

Thật khó tin, một bệnh nhân vẫn than khó thở với thuốc an thần, morphine liều tối ưu lại khỏe hơn chỉ nhờ một câu nói.  Khó tin hơn, bà cũng đã là người nhận dự đoán “có lẽ chỉ còn sống tầm sáu tháng”, nhưng rốt cuộc sống lâu gấp bốn lần.

“Chính bác sĩ còn chưa biết chuyện gì sẽ xảy ra với họ vào ngày mai, sao có thể dự đoán chính xác thời gian sống của bà?”, bệnh nhân cười phá lên gật gù khi tôi nói tiếu lâm như vậy.

Bằng việc vực dậy niềm tin, tinh thần của bà đã cải thiện rõ rệt. Với một số biện pháp khác như thay đổi tư thế nằm, ngồi cho dễ chịu hơn, dùng thêm các dụng cụ hỗ trợ để bà tập trung vào hiện thực và tiếp tục sở thích đan len, chúng tôi đã giúp bà đã sống thêm một thời gian ý nghĩa.

Nói chuyện với bệnh nhân, nhất là người mắc ung thư giai đoạn cuối, là cả một nghệ thuật. Nhiều người hỏi rằng như vậy có gọi là nói dối bệnh nhân hay không?

Khi ly nước chỉ còn 1/3, tuyên bố “mất hết 2/3 rồi” hay “vẫn còn 1/3 đấy” không thay đổi sự thật phũ phàng, nhưng có thể thay đổi nhận thức về cuộc sống của người bệnh.  Bệnh nhân không chỉ đau khổ vì sự thật, mà còn đau khổ vì cách diễn giải sự thật đó.  Đôi khi đau khổ là do chính người bệnh hoặc người thân tự ám thị, tự liên tưởng mà bác sĩ phải là người nhận ra và giải quyết những khúc mắc thầm kín đó.

Một bác sĩ đàn anh nói với tôi rằng điều này đã được viết trong Kinh Dược sư từ mấy nghìn năm trước. Người thầy thuốc cần uốn lưỡi bảy lần khi nói chuyện, với tâm thanh tịnh cầu nguyện sự tốt lành cho bệnh nhân. Nghe thật mơ hồ, nhưng những điều Đức Phật dạy không phải không có lý.

Nhiều bệnh nhân ở Việt Nam nói với tôi rằng, cũng là loại thuốc đó nhưng khi gặp được bác sĩ ân cần quan tâm, giao tiếp bằng thân, khẩu, ý tốt đẹp thì họ thường tự tin hơn vào kết quả điều trị.

Đức Bồ tát Phổ Hiền từng nói với đồ đệ rằng: “hãy vào rừng, tìm những loại cỏ cây không phải là thuốc mang về đây cho ta”, ngụ ý rằng cái gì cũng là thuốc mà cũng không phải là thuốc. Tất cả phụ thuộc cách dùng và hiệu quả còn phụ thuộc vào “dược tính” trong tâm mỗi người.

Ai cũng có khả năng trở thành Phật được, chính là bởi dược tính trong tâm mình.  Tôi viết những dòng này khi thế giới đang hoang mang vì dịch bệnh. Trong thời buổi vật chất được ưu ái, thông tin lan tràn trên mạng, nhiều bệnh nhân dễ bị lung lạc bởi các “bài thuốc” hay “điều trị tiên tiến” qua Youtube, Facebook, Google hoặc nghĩ rằng phải chụp chiếu bằng máy móc hiện đại mới yên tâm.  Lời nói của bác sĩ nhiều khi không được xem trọng.  Tuy nhiên, tôi vẫn tin rằng sẽ có lúc người ta nhận ra, không gì thay thế được giá trị của “dược tính” trong mỗi người thầy thuốc.

“Tiền bạc, danh vọng có thể là mục tiêu mà nhiều người hướng đến trong thời gian ngắn, nhưng nuôi dưỡng được dược tính mới là yếu tố giúp bình an lâu dài”, thầy tôi, một người Nhật, nói với chúng tôi như vậy.
(PNQ)

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống

Hiểu thêm về “giả dược” (Placebo)!

09/06/2022 By Bac Si Do Hong Ngoc 1 Bình luận

 

Ghi chú: Trong bài giảng cho lớp An Cư vừa rồi, tôi có nhắc đến Placebo (giả dược).

Xin đăng lại bài này để làm tài liệu đọc thêm.

ĐHN

Lớp An Cư chùa Xá Lợi 2022

Bài đọc thêm (1)

 

Hiểu thêm về “giả dược” (Placebo)!

15/10/2009 (dohongngoc.com)

placebo.Lý thú trong “nghệ thuật” dùng thuốc chữa bệnh là giả dược (Placebo), hay còn gọi là thuốc vờ – thuốc giống y như thật nhưng không có tác dụng dược lý- chỉ tạo ra hiệu ứng Placebo đôi khi rất thú vị. Placebo thường được dùng trong nghiên cứu Y học, thử thuốc lâm sàng có đối chứng (controlled studies) hoặc dùng để chữa một số triệu chứng đặc biệt, và cũng có khi dùng để thoả mãn đòi hỏi của người bệnh ham uống thuốc, chích thuốc dù bác sĩ thấy không cần thiết. Placebo có đủ loại, thuốc uống, thuốc thoa và thuốc chích. Tên gọi Placebo đã có từ xa xưa và đến năm 1785, Placebo đã có tên trong tự điển Y học với nghĩa là “thuốc gây niềm tin” (make – believe medicine).

Nó là một chất trơ, không gây dị ứng, hoàn toàn vô hại, thế nhưng lại có tác dụng đặc biệt trên một số bệnh nhân, cả tốt lẫn xấu, gọi chung là hiệu ứng Placebo.  Các nghiên cứu cho thấy Placebo có hiệu ứng đặc biệt với một số ngừơi nhạy cảm. Những người này có một trạng thái tâm lý dễ tin, dễ cảm xúc và dễ bị thuyết phục hoặc dễ tự kỷ ám thị. Chuyện không lạ trong Y học. Thí dụ “Hội chứng áo choàng trắng” thường gặp ở một số người được bác sĩ đo huyết áp thì huyết áp tăng vọt. Chỉ cần bước chân vào bệnh viện, thấy nhân viên y tế với chiếc blouse trắng, ống nghe, người quá lo đã tiết ra nhiều chất adrénaline hơn người khác , chất này làm co mạch và huyết áp tăng vọt lên. Ở  trẻ con thì có hội chứng “Đau bụng sáng thứ hai” do sợ đi học và cũng thường gặp ở một số thí sinh mắc tiểu hoài khi bước vào phòng thi! Đây là lĩnh vực y khoa tâm – thể (médecine psychosomatique) ngày càng được quan tâm. Nghiên cứu sâu hơn, người ta phân chia ra nhiều týp hành vi của con người. Người thuộc nhóm hành vi này có thể sẽ dễ mắc một số bệnh nào đó mà nhóm khác không mắc.

Trở lại hiệu ứng Placebo, người ta thấy placebo có thể chữa được các “bệnh” như lo âu, căng thẳng, buồn bã, âu sầu, rối nhiễu tâm lý, các chứng đau, nhức đầu, ho, mất ngủ, say sóng, cảm, đau bao tử, nôn ói, cao huyết áp… Người ta ngạc nhiên thấy Placebo cũng gây “tác dụng phụ” (phản ứng thuốc) dù đó chỉ là thuốc vờ không phải thuốc thật như nôn ói, chóng mặt, buồn ngủ hoặc mất ngủ, uể oải, trầm cảm, ảo giác, hồi hợp, tiêu chảy, nổi ban… Thực ra tất cả những hiện tựơng đó đều do một sự tự phản ứng của cơ thể chớ không phải do Placebo. Sợ quá đến nỗi ruột thắt lại, gây tiêu chảy; lo quá đến chóng mặt, trầm cảm, hồi hộp vẫn là chuyện thường thấy.

Lạ lùng là có người “nghiện” Placebo nữa! Mỗi lần đi khám bệnh luôn đòi bác sĩ phải cho đúng thứ thuốc đã quen dùng, đúng bao bì mẫu mã đã quen nhìn!  Khi nghiên cứu mối quan hệ thầy thuốc – bệnh nhân, lời nói của bác sĩ cũng tạo nên hiệu ứng placebo. Giải thích cơ chế tác dụng này, người ta cho rằng chính nhờ có mối quan hệ tốt với bác sĩ, người bệnh tự tin hơn ở năng lực khỏi bệnh của mình, hợp tác tốt với bác sĩ, có hành vi sống lành mạnh hơn, nhờ đó mà khỏe ra. Tóm lại, Placebo không chỉ là thuốc mà còn là mối quan hệ, cách truyền thông hiệu quả giữa thầy thúôc và bệnh nhân.

Hiểu về Placebo, ta không ngạc nhiên khi thấy nhiều thứ quảng cáo “trời ơi”, thiếu cơ sở khoa học mà vẫn đựơc nhiều ngừơi tin dùng và truyền tụng như là một thứ thuốc thần, kết quả chỉ làm chậm trễ việc chữa trị và “tiền mất tật mang”.

BS Đỗ Hồng Ngọc

Thuộc chủ đề:Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống

Nguyễn Hiền-Đức: Tập tuyển CÀNH MAI SÂN TRƯỚC

31/01/2022 By admin Để lại bình luận

 

Thư ngỏ:

Năm 2006, cách đây 16 năm, Nhà xuất bản Văn Hóa Sài Gòn đã in của tôi cuốn Tuyển tập CÀNH MAI SÂN TRƯỚC, Dành Cho Người Có Tuổi. Cuốn sách được tái bản khá nhiều lần, và không ngờ đã “lọt” vào mắt xanh của một người “bạn trẻ” là Nguyễn Hiền-Đức. Anh đã từ 7 năm trước “gò lưng rị mọ” gõ lại từng trang, từng dòng… rồi còn góp nhặt, gom góp nơi này nơi khác những bài viết của tôi cũng như của các tác giả khác trong “khuôn khổ” Dành Cho Người Có Tuổi. Lúc đầu, chắc là anh có ý để dành, lâu lâu đọc lại cho bớt… già, rồi không biết sao hôm nay anh “bung ra” một Tập tuyển (tôi tạm gọi vậy) là cuốn Ebook bạn sắp đọc dưới đây, cũng ngộ, rất đáng quý một tấm lòng.

Năm nay, người “bạn trẻ” Nguyễn Hiền-Đức cũng hãy còn trẻ, mới lên 77 tuổi, bỗng nhiên cảm thấy mình cần chia sẻ với những bạn già chung quanh, ai nấy đều trên dưới 80 đôi điều cảm nhận, gom góp bấy nay của mình… để đọc trong buổi Xuân về, biết đâu có những niềm vui.   

Hãy đọc lời “Tường trình” dưới đây của Nguyễn Hiền-Đức vậy nhé:

(Cảm ơn Phùng Minh Bảo đã giúp chú Ngọc post lên ebook này).

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc.

(Saigon, 29 Tết, sắp đến Giao Thừa Nhâm Dần, 2022)

*   *   *

Nguyễn Hiền-Đức: 

Theo tôi, Cành Mai Sân Trước là một tuyển tập “hoành tráng” và “bề thế” của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Gọi vậy vì cuốn sách bìa cứng, giấy trắng loại tốt, được trình bày khá đẹp với rất nhiều hình minh họa của chính tác giả và thân hữu, gần 650 trang khổ 14,5 x 20,5cm.

Sau Lời Ngỏ, tác giả chia thành các tập:

Tập 1: Gió Heo May Đã Về,

Tập 2: Già Ơi… Chào Bạn!,

Tập 3: Nghĩ Từ Trái Tim,

Tập 4: Những Người Trẻ Lạ Lùng,

Tập 5: Thầy Thuốc Và Bệnh Nhân;

Tập 6: Như Ngàn Thang Thuốc Bổ (Chuyện cười sưu tập).

Tôi rất thích tuyển tập này, nên cách đây hơn 7 năm, sau khi chọn lọc được nhiều bài từ các cuốn sách/bài của ông như: Cành Mai Sân Trước, Gió Heo May Đã Về, Gìa Ơi… Chào Bạn!, Những Người Trẻ Lạ Lùng, Thư Gởi Người Bận Rộn, Nghĩ Từ Trài Tim, Gươm Báu Trao Tay, Ghi Chép Lang Thang, Nhớ Đến Một Người, Như Thị, Ăn Vóc Học Hay, Thư Cho Bé Sơ Sinh Và Những Bài Thơ Khác… tôi sắp xếp theo ý thích của mình để hình thành Tập tuyển Cành Mai Sân Trước này.

Tập tuyển có 2 phần chính:

Phần I: NHỮNG BÀI CỦA BÁC SĨ ĐỖ HỒNG NGỌC

+ Tôi đưa vào tập tuyển những bài đã in trong sách của BS Đỗ Hồng Ngọc, đó là

13 bài trong Gió Heo May Đã Về,

10 bài trong Già Ơi… Chào Bạn!

6 bài trong Nghĩ Từ Trái Tim

và nhiều bài trong Nhớ Đến Một Người, Ghi Chép Lang Thang và Thư Cho Bé Sơ Sinh & Những Bài Thơ Khác.

+ Chỉ đưa Lời Ngỏ Những Người Trẻ Lạ Lùng vì những bài trong cuốn này tôi đã đưa rải rác ở các Tuyển tập Đỗ Hồng Ngọc.

+ Tôi không đưa một số bài trong Thầy Thuốc và Bệnh Nhân vì đã có ở Tuyển tập Câu Chuyện Sức Khỏe. Tôi cũng không đưa những chuyện cười trong Như Ngàn Thang Thuốc Bổ vì tôi đã có trong các tuyển tập trước.

Ngoài ra, tôi cũng đưa thêm bài liên quan đến nội dung cuốn sách và những cảm nhận ngắn của một số tác giả về BS Đỗ Hồng Ngọc.

Phần II. NHỮNG BÀI LIÊN QUAN CỦA NHIỀU TÁC GIẢ

Theo bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, Cành Mai Sân Trước là một tuyển tập dành cho người có tuổi. Vì vậy, ở phần này tôi đưa nhiều bài viết, bài dịch mà tôi đã cố gắng chọn lọc. Những bài viết này của những danh sĩ, học giả, những văn nghệ sĩ nổi tiếng như Dale Carnegie, Dorothy Carnegie, André Maurois, Lâm Ngữ Đường, David Niven, học giả Nguyễn Hiến Lê, bác sĩ Nguyễn Ý Đức, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn và các nhà thơ Bùi Giáng, Tôn Nữ Hỷ Khương, Đỗ Trung Quân. Riêng Thầy Nguyễn Hiến Lê tôi chọn đến 11 bài mà vẫn còn muốn lấy thêm.

Kết hợp với những bài viết dung dị mà sâu sắc, nhỏ nhẹ mà tâm tình, dí dỏm mà từ bi của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc với những bài viết ở phần II Tập tuyển này mong là sẽ mang đến cho những người có tuổi nhiều niềm vui mới, nhiều bông hoa đẹp và những nụ cười tươi.

Tôi xin mượn lời của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc và mấy câu thơ của Bùi Giáng, Tôn Nữ Hỷ Khương để cung kính chúc những người gọi là có tuổi:

– “Thật vậy. Vẫn còn đó, nơi sân trước kia, đêm qua, một cành mai vàng rực rỡ đã nở, báo hiệu một sức sống mãnh liệt vẫn dâng trào… Vậy đó, mùa xuân dù đã phai, cành mai sân trước vẫn nở tươi thắm. Nụ cười vẫn lạc quan, cuộc sống vẫn tích cực, chủ động, và sáng tạo không ngừng nếu những người có tuổi được chuẩn bị trước để hiểu rõ sự đổi thay, để chấp nhận, để điều chỉnh, tưới tẩm những niềm vui cho chính bản thân mình, cùng với sự ý thức giúp đỡ của gia đình và xã hội thì sẽ giúp họ có một cuộc sống đầy chất lượng, nhiều hạnh phúc” (Đỗ Hồng Ngọc).

Xuân khứ bách hoa lạc

Xuân đáo bách hoa khai

Sự trục nhãn tiền quá

Lão tùng đầu thượng lai

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai…

(Mãn Giác thiền sư 1052-1096)

 

Xuân ruỗi trăm hoa rụng

Xuân tới trăm hoa cười

Trước mắt việc đi mãi

Trên đầu già tới rồi

Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết

Đêm qua sân trước một cành mai…

(Ngô Tất Tố dịch)

Mong rằng, nếu tôi lạc đường, thì cung kính mong BS Đỗ Hồng Ngọc “cười trừ” với tấm lòng rộng mở: “Tứ Vô Lượng Tâm” vậy.

…………………………………………………………………………………

Ghi chú: Tập tuyển này tôi đọc, gõ và dàn trang đã lâu lắm rồi. Nay đọc lại thấy cần phải chỉnh sửa nhiều; nhưng thôi hãy cứ giữ nguyên như vậy; xem như kỷ niệm của “Hồi Đó”. Kính mong Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc cười vui và lượng thứ cho những sai sót.

Santa Ana, California

(4 ngày nữa là đến Tết Nguyên Đán, Nhâm Dần rồi).

Kính trình,

Nguyễn Hiền-Đức

 

“CÀNH MAI SÂN TRƯỚC”

TUYỂN TẬP

ĐỖ HỒNG NGỌC

DÀNH CHO NGƯỜI CÓ TUỔI

Do Nguyễn Hiền-Đức sưu tập và trình bày.

Download tại đây

Thuộc chủ đề:Ghi chép lang thang, Già ơi....chào bạn, Góc nhìn - nhận định, Lõm bõm học Phật, Phật học & Đời sống, Thiền và Sức khỏe

Minh Lê: Học Phật qua thơ Đỗ Hồng Ngọc

01/08/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Học Phật qua thơ Đỗ Hồng Ngọc

Từ trước tới giờ, tôi ít đọc thơ vì tự thấy mình có chút thiếu “hồn thơ lãng mạn”. Dù vậy, tôi là người hâm mộ âm thầm nhiều năm của Bác sỹ Đỗ Hồng Ngọc, không chỉ với sách của Anh mà cả với các bài thơ Anh viết. Anh làm thơ cũng như viết văn, nghiêm túc mà dí dỏm, nhẹ nhàng mà sâu sắc, ngắn gọn mà vô số “ý ở ngoài lời”. Anh còn giảng và viết nhiều bài về Phật pháp rất hay, nhưng tôi thích học Phật qua thơ của Anh hơn.

Như bài “Nỗi nhớ” in trong tập Vòng quanh (NXB Trẻ 1997 tr. 38) chỉ có 6 câu:

“Thôi hết cồn cào

Thôi không quặn thắt

Chỉ còn âm ỉ

Chỉ còn triền miên

Thì thôi cấp tính

Thì đành kinh niên.”

Lần đầu đọc khi còn trẻ, tôi bật cười, nghĩ tác giả chắc “méo mó nghề nghiệp”, tả nỗi nhớ mà cứ như tả cơn đau thể chất vậy, nhưng tác giả cũng thật tài tình, chọn từ và vần điệu làm sao mà người đọc cảm nhận được từ cơn đau ít tới cơn đau nhiều, từ “bệnh” nhẹ tới “bệnh” nặng. Lần thứ hai đọc ở tuổi trung niên, tôi cảm thán tác giả “hiểu đời” ghê, bởi từng trải rồi mới biết “nhớ” cũng đau  “quặn thắt ruột gan” chớ không vừa. Lần thứ ba đọc, tôi liên tưởng tới bài hát “Đưa em tìm động hoa vàng” (nhạc Phạm Duy, lời Phạm Thiên Thư):

“Rằng xưa có gã từ quan,

Lên non tìm động hoa vàng ngủ say

Thôi thì thôi để mặc mây trôi

Ôm trăng đánh giấc bên đồi dạ lan

Thôi thì thôi chỉ là phù vân

Thôi thì thôi nhé có ngần ấy thôi.”

Nỗi nhớ của Phạm Thiên Thư dù nói “chỉ là phù vân, có ngần ấy thôi” sao vẫn có cảm giác day dứt luyến tiếc không đành lòng, dù lặp đi lặp lại “thôi” rất nhiều lần mà vẫn chưa “thôi” thật sự. Đúng là nghệ sỹ mà, cho nên mới… khổ! Ngược lại nỗi nhớ của Đỗ Hồng Ngọc rất tỉnh táo “rằng đau thì biết là đau”, chuyện xác nhận “thì thôi cấp tính thì đành kinh niên” cũng mang vẻ an nhiên. Chính nhờ chấp nhận nỗi đau đó sẽ ở với mình vĩnh viễn mà lòng mình trở nên bình tĩnh hơn để chuyển hóa “rác thành hoa, đau khổ thành an lạc”. Đây chẳng phải “chiếu kiến ngũ uẩn giai không” trong Tâm Kinh đó sao?

Anh Ngọc quê La Gi, còn tôi sinh Phan Thiết, lớn lên ở Nha Trang nên khi tình cờ đọc bài “Giả sử” của Anh, tôi sém chút la lên “ôi bài thơ của đời tôi”:

“Giả sử sóng thần ập vào Nha Trang
Ập vào Mũi Né
Anh chỉ kịp quẳng em lên một chiếc thuyền thúng
Vút qua những ngọn dừa
Những đồi cát trắng

Em nhớ mang theo đôi quả trứng
Vài nắm cơm
Vài hạt giống
Đừng quên mấy trái ớt xanh…

Biết đâu mai này
Ta làm An Tiêm
Trở về làng cũ
Nơi này ta sẽ gọi là Nha Trang
Nơi kia gọi là Mũi Né…

Cho nên
Sao chẳng sớm mà thương nhau hơn?”

                                                  (4/2011, đăng 13/9/2020 dohongngoc.com)

Hồi nhỏ nhà tôi ở sát biển nên tôi rất sợ sóng thần. Lâu lâu tôi lại nằm mơ thấy sóng thần ập vô cuốn trôi mọi thứ, nghĩ mà rùng mình. Sau khi đọc bài “Giả sử”, tôi viết email cám ơn Anh Ngọc đã giúp tôi hết sợ sóng thần. Anh đùa: “Hết sợ sóng thần vì đã sẵn thuyền thúng ở trong nhà và đã cụ bị sẵn các thứ, nhất là ớt xanh rồi phải không? Dân Phan Thiết có khác!” Trời, sao Anh đi guốc trong bụng tôi vậy? Thì Anh đã chọn mọi thứ chu đáo quá mà: đôi quả trứng đặng sau này còn nở ra gà con nè, vài nắm cơm vắt ăn đỡ đói lòng những ngày “lênh đênh” nè, rồi hạt giống để trồng lại vườn cây nè, có cả mấy trái ớt xiêm xanh – món “tủ” của dân Phan Thiết và Khánh Hòa nữa.

Nói nhỏ nghen, thiệt ra tôi tâm đắc nhứt câu cuối cùng “sao chẳng sớm mà thương nhau hơn?”. Lúc đó, tôi viết cho Anh cách hiểu của tôi như vầy: “Sóng thần, hay sóng cuộc đời có dữ dội cách mấy, mà có một người nắm tay đi với mình, thì có gì phải sợ phải không Anh?” Anh cười không trả lời. Giờ tôi mới nhận ra, cái “thương” mà Anh nói không chỉ là tình yêu trong gia đình mà chính là “tình thương của Bụt” – từ của thiền sư Nhất Hạnh. Đó là “từ bi hỷ xả”, gồm khả năng hiến tặng niềm vui, làm vơi nỗi khổ, tình thương mang lại hạnh phúc và tự do. Vậy sao không “sớm mà thương nhau hơn” thì đời sẽ thêm nhiều an lạc, đợi chi tới sóng thần?

Tháng 12/2020, Anh Ngọc viết bài “Biết rồi còn hỏi!”:

“Tôi ngồi trước tượng Phật

Viết lăng nhăng mỗi ngày

Để khi nào bí thì hỏi

Phật tủm tỉm cười

“Biết rồi còn hỏi!”

 

Sáng ra đường phố

Từng bước như đi dạo

Không thấy nở hoa sen

Ngước mắt nhìn lên

Một tấm biển to chữ đỏ

“Đồ ngu cao cấp”

Cửa hàng Fashion

Rơi dấu hỏi…

 

Đâu cần trốn ra khỏi cổng thành

Xóm nghèo nơi tôi ở

Bên phải là nhà bảo sanh

Bên trái là bệnh viện

Đằng kia lớp dưỡng sinh

Đằng nọ nhà quàn vô lượng thọ…

 

Hằng ngày nghe tiếng khóc trẻ con

Nghe tiếng rên người lớn

Tôi nhắc Phật đừng buồn

Không được quạu quọ, không được cau có

Không được nhăn nhó…

Phật cười

“Phải! Nó vậy đó”.”

(dohongngoc.com 4/12/2020)

Bài này dễ hiểu, nhưng hiểu hết lại không dễ. Mấy chỗ “bí thì hỏi”, mà Phật chỉ tủm tỉm “biết rồi còn hỏi!” nghe đơn giản chớ đúng phóc nha. Càng sống lâu càng có nhiều chuyện tưởng “bí”, thiệt ra mình đã “biết” rồi, chẳng qua tâm không đủ tịnh để “hiểu” thôi. Khổ thơ thứ hai chắc tác giả vừa viết vừa cười mím chi, té ra “thiếu dấu hỏi” thì thành “ngu”, mà đời này, thiếu gì chuyện thắc mắc mà không dám hỏi, nên mình chắc “ngu trường kỳ”. Khổ thứ ba tả “sinh, lão, bệnh, tử” – những cảnh ngay trước mắt ta đó thôi. Rồi khổ thơ cuối cùng, giữa “sinh, lão, bệnh, tử” vẫn giữ được tâm an, không “buồn, quạu quọ, cau có, nhăn nhó” thì thành “bụt” rồi, “bụt” là vậy đó! Từ ngữ bình dị, nhịp thơ thong thả, tự nhiên không gò bó nhưng âm điệu bằng trắc nhịp nhàng, láy vần rất duyên dáng. Đây là một trong những bài tôi thích nhứt trong thơ Anh Ngọc bởi nó đại diện cho sự đặc biệt hiếm thấy trong thơ: nội dung dí dỏm mà thâm thúy, từ ngữ, tiết tấu, âm vần đều được chọn rất nghệ thuật mà vẫn trôi chảy tự nhiên mới hay.

Người ta hay nói “thơ là tiếng lòng”. Đã là âm thanh thì phải có tần số, và cái radio trong mỗi chúng ta tùy theo tuổi tác, kinh nghiệm sống và tính cách mà “bắt” được những tần số khác nhau. May mắn thay, cái radio cọc cạch của tôi lại bắt được chút xíu “tần số” trong thơ Đỗ Hồng Ngọc, và từ đó học được chút xíu “suy nghĩ của Bụt” từ thơ Anh.

Mong Anh luôn khỏe, an lạc và tiếp tục sáng tác thêm nhiều “tiếng lòng” truyền cảm!

 

Minh Lê (Suối Tiên, 7/2021)

 

Thuộc chủ đề:Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống, Vài đoạn hồi ký

TẠP GHI (Lõm bõm… Kỳ 4b)

22/03/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

TẠP GHI (Lõm bõm… Kỳ 4b)

Mười Hạnh Phổ Hiền

(tiếp theo)

 

6. Thỉnh Phật chuyển pháp luân (To request the Buddhas to continue teaching).

Pháp luân là “Bánh xe pháp”. Bánh xe pháp vẫn phải luôn chuyển không ngừng bởi đời sống như dòng sông vẫn trôi chảy. Cũng vẫn Tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến đó thôi, cũng vẫn thất tình lục dục đó thôi, nhưng đã mỗi thời mỗi khác. Xưa cung tên giáo mác nay hỏa tiễn hạt nhân… Xưa bệnh tật khu trú từng vùng, nay lan tràn trong nháy mắt… Thế giới trong lòng bàn tay. Trái đất nóng lên. Môi trường chết ngạt. Thức ăn đầy độc chất. Tin tức đầy fake news, deepfake… Xưa, lên núi cao tìm thầy, vào hang sâu tìm kinh sách, chỉ một câu một chữ thôi đủ ngộ. Nay bấm cái nút, thiên kinh vạn quyển, tẩu hỏa nhập ma. Sinh học tạo  con người từ ADN, công nghệ gắn thêm AI (trí thông mình nhân tạo), robot điều khiển con người từ xa…

Duy-ma-cật nói: Phải nắm bắt thật đúng đối tượng thì “thuyết pháp” mới có hiệu quả. Phật dạy “Ta chẳng có pháp gì để thuyết cả!”.  Vì “Pháp thuận với không, tùy theo vô tướng, ứng với vô tác. Pháp lìa khỏi tốt và xấu, thêm và bớt, sinh và diệt… há thuyết diễn được sao?”.

Lục tổ Huệ Năng nói: “Thiện tri thức, đạo cần phải linh động, chớ nên làm cho ngăn trệ. Tâm chẳng trụ pháp thì đạo được linh động, tâm nếu trụ pháp, gọi là tự trói”.

Cho nên vẫn phải Thỉnh Phật chuyển pháp luân thôi.

7. Thỉnh Phật trụ thế (To request the Buddhas to remain in the world).

Người có “chứng ngộ” thường dễ thấy “phạm hạnh đã tròn đầy”, muốn “đặt gánh nặng xuống, bước vào cõi vô sanh, niết bàn tịch diệt…”. Nhưng, thế thì còn ai để lặn lội trong cõi Ta-bà đầy ô trược này mà “hóa độ” chúng sanh? Cho nên phải thỉnh Phật trụ thế.

Bồ-tát thì phải “bất tận hữu vi, bất trụ vô vi”. Hữu vi thì vô thường, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ như điện, giả tạm, hư vọng, dẫn đến nhàm chán, buông bỏ. Nhưng Bồ-tát thì không. Phải chịu khó ở lại giúp đời giúp người “hộ trì chánh pháp”. “Vào sinh tử luân hồi như vào vườn cảnh, đức tánh vô niệm, trí huệ thực tướng, nhưng chẳng bỏ pháp thế gian. Từ bi hỷ xả mà không phóng dật, tu học lẽ Không mà không chấp không, quán vô thường mà không chán cội lành, quán  phiền não mà không đoạn phiền não”.

Trí bất đắc hữu vô/ Nhi hưng đại bi tâm.    

8. Thường tùy Phật học (To follow the teachings of the Buddhas at all times).

Phật không dạy nhiều và thậm chí còn nói “Ta chẳng có pháp gì để thuyết cả”! Nhưng chư Phật đều nhắc nhở Chư ác mạc tác/ Chúng thiện phụng hành/ Tự tịnh kỳ ý (thị chư Phật giáo).  Nghĩa là việc ác đừng làm, việc thiện thì làm. Quan trọng nhất là phải “tự tịnh kỳ ý”. Cái mới khó! Thanh tịnh bổn nhiên/ Tùy chúng sanh tâm/ Chu biến pháp giới, ấy chẳng qua vì nghiệp mà thấy vậy, ra vậy. Phải làm cho tâm được trở về với cái “thanh tịnh bổn nhiên” ấy của mình vốn sẵn. Cái khó ở chỗ phải tự mình làm, tự mình “tịnh cái ý” của mình chớ không thể nhờ ai giúp được. Chỉ có thể quay về nương tựa chính mình thôi. Tuệ giác, Insight, là cái thấy bên trong. Tìm kiếm đâu xa.  Gia trung hữu bảo hưu tầm mích. Tóm lại, thường tùy Phật học là học chính mình, quay về bên trong mình. Luôn tự hỏi mình đang tham đó ư? đang sân (giận) rồi sao? mê muội đến vậy hả? Thôi nhé.

“Có bốn thứ ma, tám vạn bốn ngàn thứ phiền não làm cho chúng sanh nhọc nhằn, mỏi mệt, chư Phật dùng chính những thứ ấy mà làm Phật sự” (kinh Duy-ma-cật).

Học Phật được vậy thì “sự sự vô ngại”.

Thiện Tài đồng tử trải qua 53 “cửa ải”, ở đâu cũng học, cũng hành đúng pháp, sau cùng thì mới “thõng tay vào chợ” được vậy!

9. Hằng thuận chúng sanh (To accommodate and benefit all living beings).

Chúng sanh bệnh thì mình cũng bệnh như Duy-ma-cật. Đồng bệnh tương lân, mới thấu cảm nhau. Bồ-đề-đạt-ma đã vội xua đuổi, bỏ rơi Lương Võ Đế cũng đáng tiếc.

Huệ Năng khi đã giác ngộ: “Bổn lai vô nhất vật” rồi, đã thấy pháp thân rồi mà cũng mất 15 năm theo cùng nhóm thợ săn, săn thú, uống rượu, bán buôn… Hay là … ông cố tình xâm nhập để quan sát, học hỏi, tu tập? Nghe nói tuy sống chung với nhóm thợ săn 15 năm như vậy, ông chưa từng săn thú, ăn thịt, uống rượu?  Biết đâu ông cũng đã “độ” được năm ba. Huệ Năng nói: “Ngoài không dính mắc là thiền, trong không lay động là định…”.

Chúng sanh nào thì Bồ tát đó. Chúng sanh ở trong Bồ tát, Bồ tát ở trong chúng sanh. “Đồng nhi bất hòa”. Quán Thế Âm có 32 ứng hóa thân để biến hiện tùy cơ. Gặp vua quan thì vua quan. Gặp ốm đau bệnh hoạn thì ốm đau bệnh hoạn…  Mà bên trong vẫn là Bồ-tát Quán Thế Âm như như bất động, với bình cam lồ, với nhành dương liễu, với “vô úy thí”…

Tham vấn viên trong công tác xã hội ngày nay đóng vai kẻ mại dâm, người nghiện ma túy để hòa nhập với đối tượng, giúp họ giải thoát, bằng kỹ năng tham vấn với  tôn trọng, chân thành, thấu cảm, lắng nghe…

10. Phổ giai hồi hướng (To transfer all merits and virtues to benefit all beings).

“Hồi hướng” là chia sẻ. “Phổ” là cùng khắp, rộng lớn . Chia sẻ cái gì? Cái công đức. Phước đức cũng chia sẻ được, nhưng phước đức thì hữu lậu, như Lương Võ Đế đúc chuông lớn, xây chùa to, nuôi tăng đoàn… cũng chẳng có tí “công đức” nào bị Bồ-đề-đạt-ma quở. Có thể ông vua còn vênh váo, tự mãn, với cái ngã to đùng của mình thì càng đáng trách, trong khi công đức là cái tu bên trong, để có tuệ giác và vô ngã.  “Tu tánh” là công. “Tu thân” là đức.  Huệ Năng nói “chánh niệm không gián đoạn là công, tâm bình đẳng, chánh trực là đức”.

Có người hỏi Phật vậy chia sẻ cái phước có làm giảm bớt phước của mình đi không? Phật nói không. Phước như ngọn đuốc, càng “mồi” cho trăm ngàn ngọn đuốc khác để cùng sáng lên vẫn không làm tổn hao ngọn lửa của đuốc.

Công đức cũng vậy. Càng hồi hướng càng thêm công đức.

(Internet)

“Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử và chúng sanh

Đều trọn thành Phật đạo”.

 

Đỗ Hồng Ngọc

(21.03.2021)

 

………………………………………..

Ghi chú: Lời dịch “10 Hạnh nguyện Phổ Hiền” tiếng Anh dựa theo en.wikipedia.org/wiki/Samantabhadra

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Lõm bõm học Phật, Phật học & Đời sống

Tạp Ghi (lõm bõm… kỳ 4): Mười Hạnh Phổ Hiền

15/03/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc 2 Bình luận

 

TẠP GHI (Lõm bõm… kỳ 4a)

Mười hạnh Phổ Hiền

“Bốn lời nguyện rộng lớn” với vô biên, vô tận, vô lượng… gì gì đó chẳng qua cũng chỉ là nguyện, là ước, là mong… Nói khác đi, nó chỉ mới dừng lại ở “thái độ”, phải chuyển thành “hành vi” (hành động) mới có thể thành… chánh quả được (Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành)!

Con đường “thay đổi hành vi” từ Biết đến Muốn, rồi từ Muốn đến Làm không dễ chút nào (KAP = Knowledge/ Attitude/ Practice), rồi từ Làm đến… Duy trì… quả là gian khó. Mà Tu thì phải Hành, chớ không thì chỉ là cái “đãy sách”.

Nhưng, hành cách nào?

Phần lớn các chùa hiện nay thường thấy nơi chánh điện có tượng Phật Thích-ca đặt ở giữa, bên trái có Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, cưỡi sư tử, tay cầm kiếm; bên trái có Bồ-tát Phổ Hiền, cưỡi voi sáu ngà, tay cầm đóa hoa sen.

Ai nghĩ ra các hình tượng tượng trưng này thật là hay để nhắc học Phật là con đường của Từ-bi và Trí-tuệ. Văn-thù (Manjusri) là Bồ-tát của Trí-tuệ, tay cầm kiếm chặt đứt phiền não, tiếng rống sư tử làm tắt ngấm vô minh. Phổ Hiền (Samantabhadra) là Bồ-tát của Từ-bi, cưỡi voi sáu ngà, chở bao nặng nhọc của bước đường thực hành và hoằng pháp. Tại sao voi 6 ngà? Tượng trưng cho Lục Ba-la-mật: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí huệ.  Thú vị là tượng Văn-thù luôn ở bên trái còn Phổ Hiền thì luôn ở bên phải Phật Thích-ca. Khoa học bây giờ cũng thấy não trái là não của Trí tuệ, não phải là não của Từ Bi. Hồi xa xưa đó không ngờ đã phát triển nền Khoa học não bộ (Neurosciences) đến vậy!

(Internet)

Phổ là rộng, phổ quát (Universal) còn Hiền là Đức hạnh (Great conduct, Virtue, Goodness). Bồ tát Phổ Hiền đã làm một bảng Hướng dẫn thưc hành (Guideline in Practising Buddhism) gọi là Mười Hạnh Phổ Hiền rất cụ thể. Học 10 hạnh này, mỗi ngày một chút thôi cũng đủ rồi vậy.

 

  1. Lễ kính Chư Phật.(To pay homage and respect to all Buddhas).

« Chư » Phật, chớ chẳng phải chỉ có một vị Phật duy nhất. Phật nhiều vô kể. Phật khắp mười phương. Khắp tam thiên đại thiên thế giới, cả 3 thời quá khứ hiện tại vị lai, thời nào cũng có Phật, ở đâu cũng có Phật. Bởi ở đâu cũng có kẻ giác ngộ, lúc nào cũng có kẻ giác ngộ. Nhưng Phật Thích-ca vẫn là vị Phật lịch sử, vị đạo sư, kẻ dẫn đường, « bổn sư » của ta… Phật Thích-ca chẳng từng nói Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành đó sao ? Phật Thích-ca cũng đã… không quên giới thiệu cho chúng ta các vị Phật khác ở khắp Đông Tây Nam Bắc để ta lễ kính.

Kinh Pháp Hoa có Bồ-tát Thường Bất Khinh là vị Bồ-tát rất dễ thương, ông luôn vái lạy mọi người và nói với họ rằng: « Xin kính lễ Ngài, vị Phật tương lai ». Mặc cho người ta đánh mắng xua đuổi, ông cũng cứ lễ kính trân trọng chân thành như vậy, cho đến một hôm người ta giật mình nhìn lại, ừ đúng, sao không nhỉ ? Nếu ta tu tập đúng con đường Phật dạy, ta cũng có thể trở thành Phật lắm chứ ? Bài học: Đừng coi khinh mình, đừng coi thường mình, miễn là …

  1. Xưng tán Như Lai (To praise the Thus Come One- Tathagata).

Rất thú vị ở đây là không có chuyện « lễ kính » Như Lai mà chỉ là « xưng tán » (ca ngợi) Như Lai mà thôi. Nói khác đi, Như Lai không việc gì phải lễ kính ! Phật thì « lễ kính » còn Như Lai chỉ « xưng tán ». Lý do ? Như Lai là Như Lai, không phải Phật. Như Lai « vô sở tùng lai diệc vô sở khứ » (chẳng từ đâu đến, chẳng đi về đâu !): Thus come one- Tathagata. Nó vậy là nó vậy. Nhiều khi ta lầm tưởng Phật với Như lai. Nhìn con chim đầy màu sắc kia xem. Nhìn thiên nga và bầy vịt kia xem. Nhìn mây trôi nước chảy kia xem. Như Lai đó. Con ong cái kiến là Như Lai. Đóa hoa muôn màu muôn sắc là Như Lai. Và Phật cũng là… Như Lai khi đã giác ngộ, đã « thấy biết » và từ đó sống trong Như Lai, sống cùng Như Lai, sống với Như Lai. Ta vẫn gọi Phật bằng nhiều danh xưng với lòng tôn kính: Như Lai, Bậc Ứng cúng, Thế gian giải, Thiên Nhân sư…

Kinh nói «vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai » chớ không nói « Vào nhà Phật, mặc áo Phật… », cũng nói « Như Lai thọ lượng » chớ không nói « Phật thọ lượng » (Pháp Hoa).

Nhớ lễ kính chư Phật mà xưng tán Như Lai vậy.

  1. Quảng tu cúng dường (To make abundant offerings. (e.g. give generously)

Quảng tu là rộng tu. Tu mà bó hẹp, bịt mắt chỉ thấy một góc, một phía thì uổng lắm. Phật dạy lúc trước, lúc sau hay lúc giữa cũng chỉ có một, nhưng tùy theo « căn cơ » của đối tượng mà ứng biến, gia giảm cho phù hợp, nên đôi khi dễ tưởng là khác, là « mâu thuẫn ». Có lần trong một buổi thuyết giảng của Phật cả mấy ngàn người đã bỏ đi. Trước khi nhập Niết bàn, Phật còn dặn dò xưa nay Ta chưa hề giảng dạy điều gì cả, chưa hề giảng dạy cho ai cả. Hình như Phật biết trước, thời đại Internet, đầy những fake news. Cái thấy biết của Phật thì như cánh rừng Simsapa kia mà điều nói ra chỉ là nhúm lá trong tay. Phần không nói ra, rồi sẽ tự biết. Phật gợi ý để rồi tự ta phát hiện, tự chứng, tự nội.

« Nhất thiết chủng trí » rồi thì đã có Bình đẳng tánh trí, Diệu quan sát trí. Cúng dường là bố thí. Quảng tu cúng dường là bố thí rộng lớn. Bố thí là hàng đầu trong Lục độ (Bố thí, Trì giới…). Bố thí có tài thí, pháp thí và vô úy thí. Bố thí thân mạng mỗi ngày nhiều  như cát sông Hằng… là tốt nhất (Thiền). Dược Vương Bồ-tát tự đốt cả thân mình, đốt cả hai cánh tay (đốt ở đây là dập tắt tham sân si, mạn, nghi, kiến… để có thân vô ngã, pháp vô ngã) được các vị Phật khen là « món thí hạng nhứt ! »

  1. Sám hối nghiệp chướng (To repent misdeeds and evil karmas).

Chướng là trở ngại, gây phiền phức, gây rắc rối, không trơn tru. Cái gì gây trở ngại, gây chướng vậy ? Nghiệp!

Nghiệp là gì? Phật dạy nghiệp là tài sản của ta. Ta là kẻ thừa tự của nghiệp. Nói khác đi, ta “lãnh đủ” nếu ta tạo nghiệp. Dĩ nhiên đó là ác nghiệp. Thiện nghiệp thì sao? Thì ta không bị chướng, gì cũng thành tựu, tốt đẹp. Nhìn hôm nay biết nghiệp ngày xưa. Nhân hôm nay biết quả ngày sau. Nói khác đi, nó là kết quả, là nguyên nhân của đời sống ta, là hạnh phúc, là khổ đau của kiếp sống ta. Cải nghiệp được không? Được.  Nghiệp do thân khẩu ý mà sinh. Hành vi chỉ là thân và khẩu. Có Thân nghiệp, Khẩu nghiệp, nguồn gốc của sanh sự. Nhưng Ý nghiệp mới thật là ghê gớm. Ý dẫn đầu các pháp. Nhưng Ý thường làm bộ vô can. “Tác ý” là yếu tố chính xác định nghiệp. Người ta có thể tha thứ cho một sự vô tình, nhưng cố ý thì rắc rối to. “Như lý tác ý”, nghĩa là theo “lý” mà làm. Lý đây là cái thấy biết như thực, cái chánh kiến, chánh tư duy, từ đó mà có chánh ngữ, chánh nghiệp. Còn sám hối là hối lỗi, thấy biết chỗ sai quấy mà “từ nay xin chừa”. Ta là chủ nhân của nghiệp. Sám hối cái sai quấy thì không đi vào ác nghiệp và từ đó, nghiệp hết… chướng!

  1. Tùy hỷ công đức (To rejoice in others’ merits and virtues).

Là công đức do tùy hỷ mà có. Tùy hỷ là cái vui theo người. Người có chuyện vui thì mình vui theo. Dĩ nhiên chuyện vui đó phải là chuyện thiện. Nếu là chuyện xấu ác mà vui theo thì nguy. Tùy hỷ thực chất là để chữa trị bệnh đố kỵ, ghen ghét, là một trong những “bản năng” gốc của con người. Đố kỵ ghen ghét cũng vì tham, vì thấy thua sút người ta. Khi không còn tham sân si, khi vô ngã rồi thì không còn ganh ghét đố kỵ nữa. Tùy hỷ mà giả đò, tùy hỷ mà không thực lòng, tùy hỷ mà hùa theo thì không phải là tùy hỷ. Sẽ chẳng có “công đức” gì ở đây! Thứ tùy hỷ giả, nói theo, làm vui lòng người, khen bừa cho người vui thì chưa gọi là tùy hỷ. Nịnh càng không phải là tùy hỷ. Cho nên phải coi chừng tùy hỷ. Coi chừng lời tùy hỷ, kẻ tùy hỷ. Ái ngữ không phải là tùy hỷ. Chánh ngữ mới đúng. Có chánh kiến chánh tư duy thì mới có chánh ngữ. Quả là không dễ.

Đỗ Hồng Ngọc

(còn tiếp)

Thuộc chủ đề:Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định, Phật học & Đời sống

TẠP GHI (Lõm bõm…) kỳ 3

01/03/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc 1 Bình luận

 

TẠP GHI  kỳ 3

(Lõm bõm…)

 “4 lời nguyện rộng lớn”

 

Không biết ai là người đã viết nên “4 lời nguyện rộng lớn” (tứ hoằng thệ nguyện) này nhưng từ thời Lục tổ Huệ Năng (thế kỷ VII) đã thấy đề cập và cho đến nay hằng ngày các tu sĩ cũng như cư sĩ theo con đường của Phật đều tụng niệm như một lời nhắc nhở để… đừng bao giờ quên:

 

Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ

Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn

Pháp môn vô lượng thệ nguyện học

Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành

Chúng sanh thì “vô biên”, phiền não thì “vô tận”, pháp môn thì “vô lượng” còn Phật đạo thì “vô thượng”…

Chuyện kể có vị thiền sinh được thầy cho có một chữ làm “công án” để mà nghiền ngẫm suốt mấy năm trời: “Vô”! Đọc Bát-nhã Tâm Kinh thấy toàn… vô: “Vô sắc, vô thọ… vô nhãn nhĩ… vô vô minh, vô khổ tập diệt đạo, vô trí diệc vô đắc…”.

………………………………………….

Nhưng, tại sao chúng sanh thì vô biên?

Vô biên bởi vì không thể đếm, không thể đo được.

Sợi tóc trên đầu cũng đếm được, các ngôi sao trong vũ trụ cách xa hàng triệu năm ánh sáng cũng đo được… Còn chúng sanh thì chịu!

Bởi “chúng” “sanh” ở trong tâm. Mà tâm ở đâu thì không biết. Không ngằn mé. Không biên giới. Ngồi đây mà tức khắc đã có thể có mặt ở chân trời góc biển, ở bên kia nửa địa cầu, ở cả bên kia thế giới, với “những người muôn năm cũ”…

Vậy làm sao “độ” được? Dễ thôi. Trong kinh Kim Cang, Phật nói: “chúng sanh tức phi chúng sanh thị danh chúng sanh” (chúng sanh tức không phải chúng sanh, chỉ tạm gọi là chúng sanh). Và Bồ-tát thì phải “… diệt độ tất cả các loại chúng sanh, đưa vào vô dư Niết bàn” “mà thiệt ra không có chúng sanh nào được diệt độ cả”.

Nghĩa là chỉ cần làm “tắt ngấm” tham sân si (Niết bàn) thì chúng sanh đã được… diệt độ! Mà, lúc đó đâu còn “chúng” nào “sanh” ra nữa đâu, nên nói không có chúng sanh nào được diệt độ. Tóm lại, chúng sanh do ta bày ra, do ta vẽ ra… để tự làm khổ ta thì ta “tự diệt độ” lấy. Chả ai giúp mình đâu!

Lục tổ Huệ Năng nói gọn: “Tự tâm chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”.

…………………………………………..

Tại sao phiền não lại vô tận?

Vô tận nghĩa là không… dứt được, không hết được. Nó cứ liên miên… bất tận.  Thiệt ra phiền não cũng là một “pháp”, nó cũng “sanh trụ dị diệt”, nhưng nó liên miên là vì nó “phan duyên”, dắt díu nhau. Không ư? Khi xảy ra một chuyện phiền não nào đó thì nó dắt dây dắt nhợ, chuyện xưa chuyện sau… lải nhải hoài không dứt!

Nhưng phiền não… cũng rất cần thiết đó chớ! Phiền não là Bồ đề mà! Không có phiền não thì ta không nhận ra Bồ đề, ta cứ để mình “trôi lăn” mãi trong khổ đau thôi. Cũng như nhờ có đau bụng mà ta biết bị “viêm ruột thừa” để kịp thời đi mổ!

Có thể “đoạn” được không? Được. Cái khó là thấy biết nguyên nhân của phiền não. Thường thì do tham, sân, si… mà ra. “Đoạn” (cắt đứt) được không là tùy tâm ta mà thôi.

Lục tổ Huệ Năng bảo: Tự tâm phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.

…………………………………

Tại sao Pháp môn thì vô lượng?

Vô lượng nghĩa là vô số, nhiều đếm không xuể! Chi nhiều vậy? Là bởi vì mỗi pháp môn “trị” một thứ phiền não. Mà phiền não thì vô tận nên pháp môn cũng phải… vô tận. Có người chịu khó… đếm thử, thấy có tám vạn bốn ngàn pháp môn! Thế mà “thệ nguyện” học cho hết. Tẩu hỏa nhập ma là phải thôi! Tham quá mà. Thiệt ra, tùy theo căn cơ mỗi người mà chọn pháp môn cho phù hợp. Nói khác đi, tùy bệnh mà bốc thuốc. Cần thầy giỏi, chẩn đoán chính xác, chớ không phải thầy hù dọa làm cho người ta sợ hãi, lệ thuộc. Một “chứng” đau bụng có hàng trăm thứ bệnh,  một chứng nóng sốt có hàng trăm thứ bệnh… Vì thế mà có tám vạn bốn ngàn thứ thuốc… ở trong Pharmacy. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) phải đề ra một danh mục “Thuốc thiết yếu” chừng vài trăm món để hướng dẫn sử dụng… Một “hoạt chất” (principe actif) của thuốc gốc có thể có hàng chục loại tên thương mại khác nhau dễ làm quáng mắt. Thầy  thuốc có thể tùy tâm lý người bệnh mà ‘bào chế” sao cho phù hợp.

“Thuốc thiết yếu” ở đây là Tứ diệu đế, Bát chánh đạo, Thập nhị nhân duyên, Bát nhã, Lục Ba-la-mật… vậy.

Và nhớ, “Pháp môn” là cửa đi vào Pháp, để thấy Tánh.

Cho nên Lục tổ Huệ Năng dạy:

Tự tánh Pháp môn vô lượng thệ nguyện học.

……………………………………………

Tại sao Phật đạo lại vô thượng?

Phật chưa bao giờ nói đạo ta vô thượng, ta là giáo chủ… Chỉ nói ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành… Và dạy: Đừng vội tin ta, đừng vội tin ai cả. Hãy đến thử đi rồi biết.

Phật đạo vô thượng ở đây không có nghĩa là… cao nhất mà chỉ có nghĩa là “khó nhất”! Thật vậy. Kinh Duy Ma Cật có một câu hỏi hay? Thế nào là Phật đạo? Trả lời: Phật đạo là phi đạo! “Phi đạo” có nghĩa là ngược chiều, ngược lại con đường bình thường của nhân sinh. Giàu sang phú quý, vợ đẹp con khôn, công danh vinh hiển… chẳng phải là “con đường” của kiếp nhân sinh ư? Vậy mà Thái tử Tất-đạt-đa bỏ hết, đang đêm trốn ra khỏi cổng thành, lên rừng, sống đời khổ hạnh, nhịn đói, nhịn khát, nhịn thở, ngủ trong nghĩa địa… Tóm lại là lội dòng nước ngược. Người theo Phật đạo chấp nhận gian khổ, từ bỏ tham ái, chấp thủ… để giải thoát “luân hồi sanh tử”. Không dễ chút nào là vậy!

Phật đạo cũng là con đường để thành Phật.

Cho nên Lục tổ Huệ Năng nói:

Tự tánh Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

 

Đỗ Hồng Ngọc

28.2.2021

(còn tiếp)

……………………………………………………………………………..

Nguyên Giác (Phan Tấn Hải) góp ý thêm:

Hải góp ý thêm về chữ “pháp môn” — tức là “cửa pháp [để bước vào giải thoát]”. Bên cạnh nghĩa “phương pháp” thường hiểu, trong Thiền Tông còn có nghĩa của chữ “pháp” là “đối tượng của tâm” — tức là, “cửa vào từ đối tượng của tâm” — mà “đối tượng của tâm” thì là vô lượng vô biên, gọi tắt là “84.000 pháp môn”. 

Như thế, pháp môn (cửa pháp) có nghĩa là, “tất cả những gì được thấy, được nghe, được nếm…. được cảm thọ, được tư lường” và tất cả đều là cửa giải thoát. 
Kính chúc anh Ngọc sức khỏe an lành. Thân kính. Hải

 

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Lõm bõm học Phật, Phật học & Đời sống

Tạp Ghi (Lõm bõm kỳ 2)

23/02/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

TẠP GHI (kỳ 2)

(Lõm bõm)

 

Hơi thở

Tại sao phải thở? Thở ở đâu ra? Của ta chăng? Là ta chăng? Không. Nó ở ngoài ta. Nó tự động. Không khí, thứ ta hít thở đó ở đâu không biết, không thấy. Ngoài không gian, bao quanh Trái đất, gồm oxygen, nitrogen và một số khí hiếm. Nó tự động ùa vào phổi ta. Lý do: khi áp suất phổi âm (-) nó ùa vào, lấp đầy, rồi khi phổi đầy, áp suất dương (+) nó lại ùa ra. Nó cóc cần ta. Ta muốn hay không muốn thở nó cũng kệ. Nó cứ phình ra xẹp vào tự động vậy. Chỉ khi nào “lập trình” đã được thực hiện xong, nó… bèn từ giã, cuốn gói lên đường. Nhưng ta cần nó để sống. Thiếu nó, không có nó, chừng 4-5 phút ta chết ngắt. Nhưng hồi ở trong bụng mẹ, ta sống mà chẳng cần nó. Mẹ cho ta dưỡng chất sẵn để lớn nhanh như thổi. Vậy phải chăng có thể sống mà không cần hơi thở như ở trong “bào thai Như Lai”? Có loại sinh vật (vi khuẩn kỵ khí, yếm khí chẳng hạn) sống không cần O2. Cây cỏ (thực vật) cũng không cần oxy mà cần CO2. Có loài như vi khuẩn clostridium khi môi trường thiếu oxy thì nó gom tụ lại, vỏ bọc dày lên… “chịu đựng”, chờ khi có đủ oxy lại sống lại như xưa! Cái đó gọi là “bào tử” (spore). Phải chăng các thiền sư vào Samadhi thì “sống” với trạng thái bào tử, thân thể họ không bị hủy diệt, không bị oxyt hóa? Người ta có thể sống như… đang ở trong bụng mẹ không? Không bị oxyt hóa thì không bị hủy hoại?

Có hai điều chú ý về sinh học: 1. Cơ hoành là cơ chính của hô hấp. Hít thở bằng cơ hoành là thở bụng, một phương pháp rất tốt để chữa lành thân và tâm. 2. Trung khu hô hấp nằm ở hành tủy, bên dưới vỏ não. Phật dạy Anapanasati (Quán niệm hơi thở, An-ban thủ ý, Nhập tức xuất tức niệm) chính là một cách giải phóng vỏ não.

 

Thấy “như thật”

Thấy như thật là thấy cái ly là cái ly, cái chén là cái chén… Nhưng “thấy như thật” cũng lại là thấy cái ly không phải là cái ly, cái chén không phải là cái chén. “Tức phi/ thị danh” thôi – vậy mà không phải vậy, chỉ là “giả danh”. Vì cái tướng, cái danh là giả, cho nên phải thấy được “thực tướng” (vô tướng). Thực tướng là Không, là duyên sinh, là không có tự tánh riêng biệt. Chẳng qua do cái tâm ta gán cho nó, vẽ vời cho nó. “Biến kế sở chấp” là sự tưởng tượng của ta vốn vô cùng phong phú, dẫn tới cái tưởng sai lầm. “Y tha khởi” dẫn tới cái ý sai lầm vì cái danh, cái tên gọi nào đó, khiến ta tưởng thiệt, bị dụ, lầm chết. Cho nên “thấy như thực” phải có Chánh trí. Vượt ra. Vượt lên. Có chánh trí thì thấy Như như, thấy như thực. Nhưng như thực không phải chỉ là không, không gì hết. Thấy như thật là thấy nó là nó, không bị thành kiến ngăn che, không bị cái ngã của ta can thiệp, “phân biệt” nọ kia để rồi đấu đá, tranh giành. Thấy như thực còn có nghĩa là thấy trong một tiến trình sinh-trụ-dị-diệt, thành-trụ-hoại-không, cái “giả/tạm”.

Nhưng, Chân Không mà Diệu Hữu.

Đừng quên.

 

Cái thấy cái nghe

Cái thấy chỉ là … cái thấy.

Cái nghe chỉ là… cái nghe.

Trơ trụi vậy thôi. Không cần gì khác nữa.

Nghĩa là không có “cái ta” trong đó. Khi có cái ta (ngã) trong đó thì tức khắc mọi sự sẽ sinh chuyện. “Ta” thấy, ta nghe thì… khác với “nó” thấy nó nghe…! Mười người trăm ý. Bắt đầu chí chóe. Thượng cẳng tay hạ cẳng chân. Cung tên, giáo mác, hỏa tiễn… hạt nhân từ đó.

Trả cái thấy cái nghe về chính nó, cái sự thấy sự nghe trung tính đó.

Khi cái thấy cái nghe, sự thấy sự nghe trần trụi, được lột hết các lớp vỏ ý niệm khái niệm bọc nhiều tầng lớp quanh nó, nó sẽ tự sáng lên.

Bắt đầu thấy tánh. Tánh nghe. Tánh thấy. Phật đánh một tiếng chuông, hỏi nghe không? Dạ có nghe. Lúc sau, chuông im tiếng. Hỏi nghe không? Dạ không nghe. Lại đánh tiếng chuông lần nữa. Nghe không? Dạ có nghe. Phật cười: Tôi hỏi quý vị có “nghe” không chớ đâu hỏi “có nghe tiếng chuông” không? Lúc không có tiếng chuông các vị vẫn nghe “cái không nghe” đó chớ.

Nói khác đi, cái “tánh nghe” vẫn không… sanh không diệt, không nhơ không sạch, không thêm không bớt. Còn nếu chỉ chăm chăm lo nghe tiếng chuông thì sẽ khen hay quá, tuyệt quá, linh thiêng quá… (và ngược lại). Ý nghĩ trong đầu mỗi người mà được phát ra tiếng thì… sẽ có một cuộc đấu đá tưng bừng!

Vô ngã là Niết bàn ư? Thực ra cái thấy vẫn là cái ta thấy. Cái nghe vẫn là cái ta nghe. Vấn đề là ta không còn dính mắc, không còn tham ái, chấp thủ. Núi vẫn là núi, sông vẫn là sông đó thôi, dù sau 30 năm tu tập!

Khi Phật giơ cành hoa sen lên, mọi người sẽ phân tích tìm hiểu ý nghĩa của cành hoa sen và của sự giơ lên đó của Phật với bao nhiêu là “biến kế sở chấp” bao nhiêu là “y tha khởi”… trong khi chỉ có một mình Ngài Ca-diếp tủm tỉm cười. Thấy rồi. Nó vậy đó. Phật trao ngay “y bát” cho Ca-diếp.

 

Đỗ Hồng Ngọc

23.2.2021

(còn tiếp)

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Lõm bõm học Phật, Phật học & Đời sống

TẠP GHI (Lõm Bõm)

21/02/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc 1 Bình luận

 

Tạp Ghi

(Lõm bõm)

Tới tuổi 80 tôi mới thấy mình già thiệt. Trước đó chỉ là già giả. Giả bộ già.

Dấu hiệu đầu tiên (triệu chứng) của già thiệt là Quên. Quên khủng khiếp. Quên kỳ cục.

Dấu hiệu đầu tiên của Già thiệt là Nhớ. Nhớ khủng khiếp. Nhớ kỳ cục.

Cho nên, tôi nghĩ phải ghi chép lõm bõm, lai rai một chút những bấy nay ngẫm nghĩ, học hành về Phật pháp cho chính mình, và nếu có thể thì chia sẻ cùng bè bạn thân thiết.

Vậy nha,

Đỗ Hồng Ngọc.

 

Chúng sanh

Một vị Bồ Tát có lời nguyện: “Ngày nào còn một chúng sanh tôi nguyện không thành Phật?”

Vậy chẳng lẽ ông chế bom khinh khí, bom nguyên tử, bom vi trùng… tiêu diệt hết mọi loài để chỉ còn một mình mình trên thế gian này ư?

Vấn đề do đó phải hiểu “chúng sanh” là gì? “Chúng” là nhiều, “sanh” là sanh ra.

Cái gì do nhiều yếu tố (chúng) duyên hợp với nhau mà thành (sanh) thì gọi là… “chúng sanh”. Bản thân ta do ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) thì đó là một… chúng sanh.

Nhưng những ý tưởng trong đầu não ta cũng là những chúng sanh. Một niệm khởi lên là một chúng sanh. Ta bị cuốn hút vào đó, “phan duyên” mải miết không dừng được, không thoát được. Cho nên “diệt độ chúng sanh” là khi không còn khởi niệm. “Vô niệm”.

Ta mất ngủ, ta lo lắng, ta âu sầu, dằn vặt… khổ đau vì trăm mối tơ vò, là bởi “chúng” “sanh” ra nhiều quá đó!

Phải chăng thực hiện được lời nguyện dễ thương này của vị Bồ Tát thì sẽ được ngủ yên, bớt lo lắng, trầm cảm… vì không còn “chúng sanh” nào cựa quậy trong tâm ta nữa. Chẳng cũng khoái ru?

 

Bố thí thân mạng

“Bố thí thân mạng mỗi ngày nhiều như cát sông Hằng” được không?

Được. Nhưng thân mạng đâu mà nhiều thế?

Bố thí là xả, buông. Mỗi hơi thở vào ra của ta là một kiếp sống. Một “thân mạng”.

Mà ta có cả 3 “thân”: Báo thân, Ứng thân và Pháp thân.

Báo thân là cái thân xác của ta, hình thành từ muôn ngàn tỷ tế bào. Mỗi tế bào vốn là một sinh vật, cũng ăn cũng thở, cũng tạo năng lượng để sinh tồn, hoạt động, cũng tự hủy diệt và thay mới. Ta không muốn thay cũng không được. Nó quá date, nó hết xài, nó tự thay.

Ứng thân thì tùy cơ ứng biến, như Tôn Hành Giả nhổ sợi lông thổi phù một cái ra trăm ngàn Tôn Hành Giả múa may quay cuồng.

Pháp thân thì… thực chất là năng lượng, không chỉ là sóng là hạt…, mà phải vượt qua bờ bên kia (gate, gate, paragate…) để thấy “bổn lai vô nhất vật”…

Chừng ấy “thân mạng” không nhiều như cát sông Hằng ư?

Chỉ trong chánh định (samadhi) mới thấy cái sự bố thí, buông xả mênh mông đó.

 

Diệt tận định

“Diệt thọ tưởng định” còn gọi là “Diệt tận định” (cửu thiền, thiền thứ 9) là một thứ định có thể “diệt tận” cái thọ và cái tưởng. Sao phải vậy? Vì cái thọ, cái tưởng làm ta khổ. Muốn “diệt khổ”  thì phải diệt cho hết cái thọ cái tưởng đó.

Thọ và tưởng là hai yếu tố của ngũ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức hợp lại thành thân và tâm ta.

Không còn thọ tưởng thì cũng không còn hành thức.

Chỉ còn sắc, Vairocana (Đại Nhật Như Lai).

Trong “Tứ niệm xứ”: Thân thọ tâm pháp thì Thân sinh thọ mà Tâm sinh pháp (tưởng).

Diệt thọ tưởng định là thiền thứ chín (cửu thiền), vượt qua tám thứ thiền sắc và  vô sắc giới.

Từ tứ thiền “xả niệm thanh tịnh” thì có thể đi thẳng vào Diệt tận định. Vì “phi tưởng phi phi tưởng” vẫn còn có tưởng. Diệt thọ tưởng định coi như “đã hết”, chỉ còn hơi thở như sợi chỉ mong manh hoặc gần như ngưng hẳn. Cơ thể quen dần sống trong tình trạng yếm khí (thiếu oxygen), trở thành một “bào tử”.

 

Phật pháp

Pháp không phải do Phật làm ra, dù gọi là Phật pháp, hay như thường nói “Nhất thiết pháp giai thị Phật pháp” (Tất cả các pháp đều là pháp Phật).

Pháp có sẵn đó. Không có Phật thì cũng có pháp. Nó vậy đó. Nhưng ta mờ mịt không nhận ra.  Phật nhờ có cái “thấy biết” (tri kiến Phật) nên được giải thoát, không còn khổ đau và Phật chỉ dạy lại ta con đường (Đạo) giải thoát đó!

Là sao? Là Phật thấy mọi sự vật hiện tượng không phải như cái trình hiện của nó vậy. Cái trình hiện kia chỉ là “giả tạm”. Giả và tạm. Nó không thiệt. Bởi nó do nhiều thứ hợp lại mà thành. Nó có đó mà không phải có đó. Nói khác đi, nó chỉ là cái “tướng” giả (giả tướng)- chớ không phải thực tướng. Thực tướng thì… “vô tướng”.

Vì biết là giả nên nó ra sao kệ nó. Việc gì ta phải buồn lo, sợ hãi. Chẳng những giả, nó còn là “tạm”, nó thay đổi không ngừng. Sanh trụ dị diệt. Không có lúc nào đứng yên. Hãy đợi đấy. Nó sẽ diễn biến, sẽ tiêu vong, như đã lập trình sẵn. Thấy như vậy, Biết như vậy mới gọi là cái thấy biết “như thật” thấy biết chân chánh. Mọi thứ do duyên khởi, duyên sinh.

Chẳng phải lỗi ta, chẳng phải vì ta, cớ sao còn vật vã khổ đau?

Đỗ Hồng Ngọc

21.2.2021

(còn tiếp)

Thuộc chủ đề:Gì đẹp bằng sen?, Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống

Nguyễn Xuân Thiệp: VỴ ƠI…

19/02/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Thursday, February 18, 2021

VỴ ƠI…

nguyễnxuânthiệp
vỵ ơi
đã nhận được quán văn tôi gởi
tới đâu rồi
hãy là cánh bướm
bay trên đóa tường vy
tôi tặng bạn đó
bông tường vy mà tôi yêu quý
thôi gặp đức bồ đề đạt ma nhé
và nhìn chiếc hài cỏ
treo trên vầng trăng
tôi khóc bạn
như ngày nào tôi khóc đinh cường
NXT
Ngày bạn bè thăm Vỵ ở nursing home

Nguyễn Xuân Thiệp: Phovanblog.blogspot

……………………………………………………………………………….

 

Tiễn Bạn Hiền Nguyễn Lương Vỵ

Nguyễn Thị Khánh Minh

 

Nhạc trầm âm thấm buốt xương da
Không một ai thấy ta vừa chết…*

Anh nói
Tui một đời chỉ học tu thơ
Tim ban sơ nuôi hoài ánh lửa
Soi đêm đài. Điểm mặt ngu ngơ

Một bóng anh đi. Dặm trường con chữ
Từ hòn đất nâu. Bụi ớt quê nhà
Cánh chuồn mỏng kêu mưa. Trời cố xứ

Nơi khấp khểnh chân ra vào của mẹ
Chiều bên thềm. Xiên nắng quái trên vai
Hỏi, thằng Vỵ sao lâu rồi không thấy…

Anh hẹn
Nhất định tui phải về bên mẹ
Áo sờn vai hai bóng một vuông chiều
Như chưa từng, thưa mẹ! Biết bao nhiêu

Biết bao nhiêu! Trả lại đời hư ảo
Chiều mênh mông nghe sương khói mênh mông
Anh bay bổng. Con lần theo nếp áo…

Biết bao nhiêu! Hạt sương rung đầu cỏ
Một chấm ngàn thu. Người đi kẻ ở
Vô tận xa. Ơi vô tận hẹn về

Buổi tàn đông trời cuồng gió nổi
Lạnh nhân gian tung bao nhịp nối
Thôi xưa sau. Quên nhớ. Bước qua cầu

Thẫn thờ đêm sâu. Cong dấu hỏi
Ngẩn ngơ hạt lệ. Dấu than gầy!
Ly biệt ly tan đùa nhau vậy

Ngàn sương dấu hỏi dấu than bay…

Nguyễn thị khánh minh
Santa Ana, 18.2.2021

* Những chữ xiên là thơ Nguyễn Lương Vỵ

…………………………………………………………………………

 

GƯƠM BÁU

Nguyễn Lương Vỵ

 

Đỗ Hồng Ngọc & Nguyễn Lương Vỵ


Nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ coi ngầu vậy mà rất dễ thương, nhỏ hơn mình cả một con… giáp. Hẹn gặp để tặng mình tập thơ dày cộp 700 trang mới in của anh: Tuyển tập THƠ bốn mươi lăm năm (1969-2014). Thơ anh nhiều nét mới, đượm thiền. Tập thơ có nhiều nhận định của những người quen: Bùi Giáng, Cung Tích Biền, Du Tử Lê, Nguyễn Tôn Nhan, Nguyễn Thị Khánh Minh, Trịnh Y Thư, Võ Chân Cửu, Hồ Ngạc Ngữ…
Mình lại đưa Vỵ đến cái quán quen, từng ngồi cafe với Tùng Duyên, Nguyệt Mai dạo nào.

 

(https://www.dohongngoc.com/web/lom-bom-hoc-phat/guom-bau-trao-tay-viet-ve-kim-cang/tho-nguyen-luong-vy-guom-bau/)

GƯƠM BÁU

Nguyễn Lương Vỵ

Tặng Bs Đỗ Hồng Ngọc
Nhân đọc “Gươm Báu Trao Tay”

A! Gươm báu Kim Cang
Bát Nhã Ba La Mật
Tâm kinh hiện tánh Phật
Thấu Ngũ Uẩn Giai Không
Sương trong vắt mênh mông
Tuyết đỏ ngời diệu nghĩa
Hạt bụi trùm thiên địa
Giây phút hóa thiên thu

A! Ưng Vô Sở Trụ… (*)
Vạn pháp nụ sen cười
Phương Ý vẹn mười mươi
Tròn vành trăng thinh lặng
Chớp âm trên đỉnh nắng
Rền vang trong tịch liêu
Chiếc lá rụng trong chiều
Núi ngồi nghe đá hát

A! Quay về chơn tâm
Chuông đưa xanh linh ngữ
Bái vọng mây thiền tự
Tri ân tuệ nhãn kinh
Vượt lên bóng với hình
Như nhiên liền sáng tỏ
Đất trời trong lá cỏ
Đáy hồ reo thiên cao…

NLV
05.2015
(*)Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm (Ở cái nơi chẳng trụ vào đâu cả mà sanh tâm).
Trích từ kinh Kim Cang.

Thuộc chủ đề:Gì đẹp bằng sen?, Phật học & Đời sống

Truyện Phan Tấn Hải: QUÊN NHAU LÀ CHUYỆN KHÓ

12/02/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Quên nhau là chuyện khó

Truyện ngắn Phan Tấn Hải

 

Lần đó gặp lại cũng lạ. Có vẻ như những gì gặp gỡ và chia tay đều là tiền định. Lúc đó là khoảng năm 1999, hay 2000; nhiều người lên cơn sốt thiên niên kỷ gì đó, kiểu như sắp tận thế hay trời long đất lở gì đó. Tôi dự buổi thuyết pháp của Đức Đạt Lai Lạt Ma ở thành phố Pasadena, thuộc quận Los Angeles, và gặp lại cô nàng.
Nói cho đúng, chính cô nàng gặp lại tôi, vì trong đám đông nhiều ngàn người lúc rời hội trường, Mai đã gọi tên tôi và đưa tay lên thật cao để vẫy, ra dấu. Cũng lạ, làm thế nào sau nhiều thập niên xa nhau, tưởng như biệt tăm và cách mấy bờ đại dương, người ta lại có thể nhận ra nhau trong một đám đông nhiều ngàn người.
Tôi không nghĩ ra nổi; sau đó, tôi thú thật với cô nàng rằng tôi không thể nhận ra nàng trong đám đông như thế, tuy rằng nàng rất là độc đáo. Lúc đó, tôi nói với Mai, độc đáo nghĩa là em đẹp tuyệt vời, chỉ nhìn em thế này, anh quên hết những lời dạy của Đức Đạt Lai Lạt Ma mới nói hai tiếng đồng hồ vừa qua.
Từ Pháp hội Pasadena tới khi tôi viết những dòng này cũng đã mười mấy năm rồi, nhưng hình ảnh nàng vẫn đôi khi thoang thoảng hiện trong mơ, trong trí nhớ tôi mơ hồ như khói, phả lên một cặp môi son không đầy đặn, và đôi mắt nàng đầy các nỗi xao xuyến về cuộc đời. Cặp môi son và đôi mắt. Vâng, đúng vậy. Sau này tôi nghĩ, trong phim cũng không thể đẹp như hình ảnh tôi nhìn nàng sau Pháp hội đó.
Tôi lúc đó nói, có lẽ vì hôm đó tôi mặc một chiếc áo cũ kỹ, như dường sờn vai và khuỷu tay, nên dễ được nhận ra giữa những người chung quanh hầu hết mặc thứ trang phục để chụp hình – cần nói rằng, thời điểm đó, không có nhiều buổi thuyết pháp của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Những năm đó, Internet còn thô sơ, chậm rì, không nhiều trang mạng, cho nên tới dự thuyết pháp của Ngài cũng là cơ hội để viết những bản tin riêng.
Mai nhìn vào mắt tôi. Lúc đó, hai đứa rủ nhau vào một tiệm kem nơi lối ra phố chính Pasadena. Tôi nhận ra những nếp nhăn bên viền mắt nàng. Mai nói, trời ạ, anh phải biết rằng Mai ngó anh là nhận ra liền chứ, cho dù có đứng thật xa, có đứng nhìn anh xuyên qua trăm sông nghìn núi. Sau này, tôi chôm bốn chữ này của nàng, đưa vào thơ, chỉ làm cho khác một chút. Nhưng tôi biết, không thể đưa đôi mắt và cặp môi son này vào thơ nổi; có lần tôi nói, nếu đưa hình ảnh của em vào thơ được, chữ tới một lúc nào đó sẽ ngún lửa và thiêu rụi các tiệm sách. Xong rồi, tôi nói, giỡn mà.
Tôi thích kiểu nói “trăm sông nghìn núi” của nàng, kiểu chữ “nghìn” thay vì chữ “ngàn,” cho dù hai đứa đều sinh ra ở Sài Gòn. Giọng Bắc của cô nàng không đổi, nhưng tôi biết, giọng Sài Gòn của tôi là pha đủ thứ rồi.
Từ lâu rồi, tôi không thể nhìn xa, đúng ra là đã tập thói quen là không bao giờ bận tâm tới những chuyện chung quanh ở ngoài sự chú tâm của mình. Gọi đó là thiền cũng được; hay chỉ nên gọi đơn giản là thấy nghe hay biết cái quanh mình, và chỉ để ý trong một tầm nhìn rất ngắn thôi, và chỉ nghe cái gì cần nghe thôi. Ngoài ra là chẳng bận tâm làm chi, vì cuộc đời có đủ thứ chuyện, hơi đâu mà nghĩ ngợi, dòm ngó, nghe ngóng chuyện khác cho mệt.

*

Đó cũng là lần đầu tiên tôi lên Pasadena, cách nơi tôi ở khoảng một giờ đồng hồ lái xe. Nhưng chuyện phải đi thì đi; thêm nữa, có tấm vé tham dự đặc biệt từ một người đàn chị trong nghề báo tặng, bảo phải tham dự rồi về viết bài tường thuật buổi thuyết pháp của vị lãnh đạo Phật giáo Tây Tạng. Có vẻ như ai cũng mong đợi rằng tôi phải viết cái gì cho tử tế.
Tôi kể cho Mai nghe chuyện tôi có tấm vé mời đặc biệt, từ người đàn chị cũng là một học trò siêng năng của ngôi chùa Phật giáo Tây Tạng ở Long Beach. Thế là có cơ duyên gặp lại Mai. Cô nàng mặc váy xanh, phủ dài tới qua đầu gối. Tôi nghĩ thầm, thế là già hết rồi; hình ảnh của tôi về Mai trước đó là áo dài trắng học trò, đi xe đạp.
Tôi nói trong khi chồm người qua nửa cái bàn mặt kính của tiệm Dairy Queen, trên đó có sơn đủ thứ hình gì đó để hấp dẫn bọn con nít, như dường nói thầm với nàng rằng người ta mong đợi anh phải viết cái gì cho tử tế đấy, hay là anh làm thơ tặng Mai nhé.
Cô nàng cười, lộ một chút răng khểnh ra, nói lái xe từ San Diego lên Pasadena, nghe anh nói một câu như thế là bay biến hết mệt nhọc rồi.
Tôi nói, Mai đã phạm một điều không nên trong Pháp hội này của ngài Đạt Lai Lạt Ma.
Cô nàng chau môi lại, như dường suy nghĩ, và nói là dự Pháp hội với tâm mình thành kính là tốt rồi, mà có gì là không nên đâu.
Tôi nói, có chớ. Đi dự Pháp hội, mà tô môi son là không nên nhé. Nói xong, tôi nghiêng người ra khỏi bàn, ngó cặp chân của nàng rồi nói thêm, để xem Mai mang giày cao gót cỡ nào, xin nhớ rằng ngày xưa Đức Phật cấm ngồi, cấm nằm giường cao, nghĩa bây giờ là cấm mang giày cao gót nhé. Thực ra, hễ nghĩ tới Mai, tôi vẫn tự nhiên nhớ mơ hồ rằng hồi nhỏ, từ khi còn rất nhỏ, nàng đã ưa đi chân trần. Ngó bàn chân trần của cô bé nhảy cò cò ngoài sân cát là hay chớ. Sau này, tôi cứ lo mãi, hình ảnh đẹp của đời này tràn ngập trong trí nhớ của mình, làm sao tu giải thoát nổi.
Nàng cười. Như dường chưa có ai nói chuyện Đức Phật cấm các cô mang giày cao gót.
Tôi nói thêm, bước ra Pháp hội, không chịu suy nghĩ về lời dạy của Ngài, lại cứ ngó chung quanh để thấy là có một người bạn xưa này. Cũng hỏng nhé.
Nàng nói, Mai biết chắc là anh sẽ tới đây.
Lòng tôi vui kể gì. Thực ra, lúc mới đầu tới là thấy trở ngại rồi. Khi xếp hàng tới lúc vào cổng vào hội trường, nhân viên nơi đây bắt phải gửi máy ảnh, vì không cho ai mang máy ảnh vào hội trường. Hẳn là cảnh sát Mỹ sợ mấy anh gián điệp Hoa Lục ám sát ngài Đạt Lai Lạt Ma, tôi đoán thế. Tôi gửi máy ảnh vào một phòng đặc biệt ngoài hội trường. Sau Pháp hội, mới được lấy máy ảnh ra.
Thời đó, cũng cần nói rằng, chưa hề có smartphone gì cả, cho nên mọi thứ bấy giờ đều đơn giản như cổ tích. Đúng vậy, chuyện y hệt như cổ tích: hình ảnh cô nàng ngồi với tôi trong một tiệm kem ở Pasadena, vào buổi chiều vừa nghe Pháp từ ngài Đạt Lai Lạt Ma. Tôi nghĩ, chỉ thiếu lá vàng rơi thôi, là thành một cuốn phim lãng mạn.
Tôi hỏi chuyện đời riêng. Mai nói rằng nàng bây giờ độc thân, vì cuộc hôn nhân đầu tiên đã tan vỡ, khi chưa kịp có con, vì tính tình dị biệt quá.
Tôi nói, tôi là một nhà báo độc thân, vì tính cũng dị thường, chẳng gần ai được. Tuy nói thế, nhưng trong đầu tôi mơ hồ nghĩ là, phải chi nàng về với tôi cho tới ngày cùng nhau rời cõi trần gian này. Nhung rồi tôi tự cười mình, sao nghĩ mãi linh tinh.
Tôi chợt thấy một sợi tóc bạc bên viền tai bên trái của nàng. Tóc nàng cắt ngắn, nên đâu có giấu nổi. Hóa ra, hai đứa đều vào tuổi ngũ thập cả rồi. Tôi thảng thốt muốn nói lên, rằng ngũ thập tri thiên mệnh rồi đấy, nhưng lại thôi.

*

Vâng, phải kể cho câu chuyện có đầu đuôi một chút.
Mai kém tôi một tuổi. Hai đứa ở cùng xóm, nơi đầu cổng đề-pô đường Nguyễn Thông. Ba tôi và ba của nàng cùng làm cho Sở Hỏa Xa. Ba tôi là trưởng tàu, nên đi theo xe lửa gần như hàng ngày. Còn ba của Mai làm gì đó ở ngay nơi ga Hòa Hưng, nơi có nhiều đầu máy xe lửa đậu lại, có lẽ để sửa chữa hay nghỉ ngơi, nhiều bãi đất trống với cỏ tranh mọc lưa thưa.
Trong trí nhớ ngổn ngang của tôi, vẫn là hình ảnh những cột gỗ dài và những đà sắt nằm nhiều nơi trong khu đất rộng thênh thang, từ cổng đề-pô Nguyễn Thông chạy suốt tới ga Hòa Hưng, rồi tới khu để đầu máy xe lửa bên kia lối ra đường Lê Văn Duyệt, đường này bây giờ đổi tên rồi.
Bình thường đi học về, bọn nhóc cả xóm chúng tôi đi bộ từ ga Hòa Hưng băng đi xuyên qua các ngõ hẻm trong xóm để tới rạp hát Thanh Vân, rồi từ đây băng qua đường là tới trường tiểu học Chí Hòa. Bọn con gái ưa đi riêng với nhau, con trai cũng thế. Đó là một thời đi bộ mệt nghỉ, mang cặp, chứ chưa có kiểu ba-lô như bọn trẻ bây giờ.
Nhà tôi kế bên nhà Mai. Ba của Mai lần đó vắng mặt nhiều ngày, và trông Mai và mẹ rất là lo lắng. Ba tôi nói nhỏ với má tôi, tình cờ tôi nghe được, rằng cảnh sát bắt ông Côn, ba của Mai, vì nghi ngờ là ông rời bỏ Việt Minh nhưng vẫn bí mật hoạt động cho miền Bắc, nên giữ để điều tra. Đó là thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Vài tháng sau, ba của Mai được cho về đời thường, nhưng không làm việc ở ngành xe lửa nữa.
Mỗi buổi trưa đi học về, tôi đi ngang nhà Mai, lại thấy bác Côn ngồi nơi chiếc ghế, loại ghế lắc lư, chờ Mai. Lần nào cũng thế, tôi khoanh tay chào bác Côn, rồi mới băng qua để về nhà. Bác chỉ gật đầu trầm ngâm, tay lúc nào cũng không rời điếu thuốc lá Jade, phà khói liên tục; nhả khói ra cả mũi và miệng. Tóc bác hớt ngắn, hoa râm rồi. Tay bác gân guốc, trong khi điếu thuốc cầm ngắn ngủn làm lộ hẳn bàn tay quá khổ.
Phải nói rằng tôi lúc nào từ trường về nhà cũng đi nhanh, không có chuyện đi về tà tà như Mai và bọn con gái, cũng không kiểu la cà qua các xóm như bọn con trai khác. Bởi vì, tôi mê đọc kinh khủng, và má tôi tôi một tủ sách đủ thứ, từ Phong Thần, Tam Quốc Chí… cho tới Tự Lực Văn Đoàn. Lại nữa, vì ba tôi thường đi theo xe lửa, nên má tôi không muốn tôi đi học về trễ, cứ cho tôi đọc sách thoải mái; thường là má nói, có bài gì ở trường thì làm trước đi, rồi sau đó là bỏ mặc cho tôi ngồi với những cuốn sách trên gác. Do vậy, ngay từ thời lớp ba, lớp tư… tôi đã mang tiếng là khù khờ, vì không ưa la cà, hễ rời trường là thẳng một mạch về nhà.

*

Tôi cũng có một bí mật, nhưng không kể cho Mai biết làm chi. Những ngày cuối tuần, cô bé phải ra sân xi-măng phía sau nhà để giặt đồ, nấu cơm… Thời đó, con gái đã phải làm chuyện nhà đủ thứ, từ tuổi rất nhỏ. Tôi ngồi đọc sách từ trên căn gác, thỉnh thoảng ngó nghiêng xuống sân sau nhà nàng. Chẳng để làm gì cả, tôi cũng chẳng hiểu sao. Thực ra, lúc đó, tôi chỉ là tên nhóc tỳ, ưa ngồi đọc sách, ngó sang sau nhà một nhỏ bạn chỉ là vì cầm lòng chẳng đặng, nên phải ngó thôi.
Cũng trên căn gác gỗ này, một lần tôi bắt gặp ba tôi khóc. Đúng ra, chỉ là ứa nước mắt thôi. Trong những ngày nghỉ, không theo xe lửa, ba ưa ngồi trên căn gác này, vặn tới vặn lui chiếc radio hiệu Philips để nghe các đài BBC, VOA. Giờ phát thanh của các đài này thường là rạng sáng hay chập tối. Những lúc đó, ba ngồi nghiêng tai nghe chiếc radio đặt trên bàn, vặn âm thanh nho nhỏ thôi. Lúc đó tôi nghĩ, có lẽ chính phủ không cấm nghe đài nước ngoài, nhưng hẳn là ba không muốn bị hiểu nhầm như bác Côn hàng xóm. Đất nước chia đôi, nhiều chuyện cho người lớn bận tâm.
Ba tôi gốc người Hà Tĩnh, làm việc trên xe lửa, tới Nha Trang, gặp má tôi, cưới xong là đưa vào Sài Gòn ở. Đó là nhân duyên tôi sinh ra ở Sài Gòn. Thời đó, thỉnh thoảng tôi lại thấy ba nhận các tấm bưu thiếp. Đôi khi ba ứa nước mắt khi đọc bưu thiếp, và đôi khi ngồi nghe radio lại cảm động, nói tôi làm giùm ba ly nước trà; rồi ba chỉnh lại đôi mắt kính, ngó vào mặt số máy radio, dò tìm các làn sóng quốc tế. Có khi thời tiết khí hậu làm khó bắt sóng sao đó, ba lại đẩy chiếc radio hiệu Philips vào góc bàn, rồi lấy chiếc radio hiệu Sony ra dò làn sóng. Tôi chỉ cần nghe giọng ba bùi ngùi là biết đất nước đang có chuyển động gì đó.
Nhiều thập niên sau, sang Hoa Kỳ, tôi mới thấy mình cũng lây tính ưa cảm động đó. Tuy nhiên, chẳng có ai bắt gặp tôi trong các giây phút cảm động tương tự cả, phần vì tôi có mặt ngoài tỉnh táo trong mọi hoàn cảnh – nhà báo là phải thế; có lẽ, chỉ trừ khi đọc tin về Biển Đông mới lộ ra bực mình thôi.
Suýt nữa là quên nói bí mật này: tôi thích nhất là nhìn thấy hình ảnh “con bé Mai” khi làm xong các thứ, là đứng dậy nơi sàn xi-măng, nghiêng người, một tay túm nơi đầu gối hai ống quần, và tay kia cầm chiếc thau nhỏ múc nước tưới vào hai bàn chân rồi chà hai bàn chân vào nhau cho sạch cát đất.
Tôi không hiểu tại sao tôi ưa thích nhìn hình ảnh này. Không phải chuyện hư hỏng tầm bậy gì đâu. Tôi chỉ mơ hồ thấy rằng hình ảnh đó rất đẹp, mà không hiểu tại sao. Không phải vì hai bàn chân xương xẩu của nhỏ Mai; đứng từ gác cao nhìn xuống, làm gì thấy bàn chân xương xẩu được nhỉ. Cũng không phải vì nhỏ Mai nghiêng người để lộ ra cái gì đâu; trời ạ, đã nói là không có chuyện hư hỏng gì mà.
Về sau, nhìn tranh các danh họa thế giới, tôi nhận ra nhiều họa sĩ thích vẽ người phụ nữ đứng nghiêng người. Dĩ nhiên, một vài họa sĩ vẽ người phụ nữ khỏa thân nghiêng người, nhưng đó là chuyện khác. Tôi nghĩ, phải chăng mình cũng có khiếu về hội họa và ưa thích cái bố cục như thế. Chẳng biết.
Sau này đọc Kinh Phật, tôi nghĩ ra rằng chuyện mình ưa ngó hình ảnh nhỏ Mai nghiêng người rửa chân được sách gọi là “tùy phiền não” – nghĩa là, niệm cứ khởi đi, khởi lại về một thứ gì đó. Những khi nhớ ra như thế, tôi lại như mỉm cười, khi nghĩ rằng, có thể, và có lẽ, nếu một hôm nào đó, tôi đưa tay nắm lấy bàn chân của nàng, và khi tay nhận ra bàn chân nàng đầy xương xẩu gầy gò, hẳn là sẽ không bao giờ khởi lên các thứ hình ảnh như thế nữa. Cũng chẳng biết nữa.
Thế rồi bác Côn chết. Lúc đó, Mai học lớp tư, tôi học lớp năm, nghĩa là đều còn nhỏ, chẳng hiểu gì về tử vong ly biệt.
Ba tôi nói là bác Côn chết vì lao phổi, hút thuốc nhiều quá mà. Má tôi nói với ba, không phải đâu, bác Côn hồi ở tù bị đánh dữ quá, chắc mang bệnh hậu. Má của Mai thỉnh một vị sư từ ngôi chùa trong xóm tới làm tang lễ. Ai hỏi, bác gái cũng chỉ bùi ngùi nói là bệnh rồi chết. Câu nói này hẳn là đúng muôn đời cho hầu hết các trường hợp, bệnh thì chết chớ.
Điều tôi nhớ nhất những ngày đó là hình ảnh nhỏ Mai mang khăn tang, tự nhiên đẹp ra hẳn, tự nhiên như thành người lớn, trang nghiêm. Mai không khóc nhiều, nhưng khi nói gì, tự nhiên giọng nghẹn ngào. Cũng lạ, có lúc trên đường đi học, tôi hỏi sao Mai không khóc sụt sùi khi đưa tang ba nhỉ? Mai nói, chỉ vì thấy mọi chuyện như không có thật, giống như mọi chuyện chỉ là giả bộ thôi, giống như trong phim, hay như trong truyện.
Mai cũng kể, tự nhiên rồi thuộc câu thần chú vãng sanh để cầu nguyện cho ba Mai. Cái gì như “Nam mô a di đa bà dạ…”
Tôi nói như an ủi cô bé, nhìn Mai mặc áo tang, mang khăn tang thấy tức cười quá. Tôi ngu dễ sợ, sao lại nói chuyện gì như thế. Đúng ra, tôi không dám nói rằng, cô bé trong bộ tang phục trông đẹp tuyệt vời. Nhưng xin nhớ, chúng tôi lúc đó chỉ là nhóc tỳ, mà thời đó trai gái còn xa nhau kinh khủng: tôi và Mai hệt như các nhân vật trong cuốn truyện cổ tích nằm ở các trang cách biệt, khi trang sách này mở ra, là trang sách kia khép lại. Vậy đó, chúng tôi là hàng xóm, là bạn cùng trường, là bạn ngó xuống từ gác gỗ vườn sau… nhưng vẫn là “bạn trăm sông nghìn núi” – đúng chữ cô nàng ưa nói.
Trời Pasadena sẫm tối. Hai đứa chúng tôi rủ nhau đi bộ, lấy cớ ngồi nghe pháp xong, lại ngồi ăn kem, nên cần đi bộ. Tôi không nhớ là ai rủ ai đi bộ, nhưng dặn nhau là chớ đi xa, chỉ đi vài phút thôi, vì quay lại tìm xe sẽ mệt. Chúng tôi đi dọc trên đường E. Colorado Blvd. về hướng đường Wilson Ave. Cũng chẳng hiểu tại sao lại phải đi trên hướng này. Tôi vẫn nhớ tên đường, vì lúc đó chỉ sợ khi quay lại để lấy xe, mà quên tên đường là hỏng.
Tôi đi bên nàng, bóng ngả dài trên các vuông gạch hè phố. Gió hơi lạnh lạnh. Bất giác, tôi nghĩ, tại sao mình không ôm nàng nhỉ. Có lúc vai tôi chạm vào vai nàng. Tôi nghĩ, phải chi đứng dưới đèn đường, ôm hôn nàng là tuyệt vời nhỉ. Nhiều kiếp sau cũng không quên nổi. Tôi nghĩ, có lẽ vị hộ pháp hộ giới ngăn trở, vì lý do gì đó. Tôi nắm tay nàng, kéo vào nhà sách Barnes & Noble, nói để mua tặng Mai một cuốn sách nhé.
Giữa những hàng kệ sách, Mai nhìn lên các bìa sách. Có khi cầm ra một cuốn, lật vài trang nhìn.
Tôi nói với Mai, tôi muốn tìm tập thơ “Twenty Poems of Love and a Song of Despair” của Pablo Neruda để tặng nàng. Thơ Neruda hay, và bản dịch Anh ngữ của W.S. Merwin đẹp tuyệt vời.
Tôi nhìn vào mắt nàng, nói như thì thầm rằng đây là thơ Neruda nhé, “Tình yêu thì quá ngắn, quên nhau lại quá dài… Love is so short, forgetting is so long.”
Mai nói, anh nhìn thẳng vào mắt Mai nhé, chúng mình chưa từng yêu nhau thì phải.
Tôi lại thấy vài sợi tóc bạc trên đầu Mai. Tôi tự thắc mắc, không lẽ chỉ trong vài phút, tóc bạc mọc nhanh như thế; hay hồi nãy, mình nhìn nàng không kỹ…

*

Mai bước tới khu để thiệp của nhà sách, nhấc lên một tấm thiệp từ ngăn kệ.
Tấm thiệp chỉ có hình một dòng sông, và chiếc ghe không người đang neo nơi bờ.
Tôi nói, thiệp này không có chữ, sao Mai không tìm thiệp có chữ để đỡ mất công viết, mà tặng ai đấy.
Mai nói, thiệp này để tặng anh đấy.
Tôi nhìn dòng sông mở ra trên tay nàng.
Mai đưa tấm thiệp lên môi nàng, in làn son trên môi vào trang trắng trong thiệp, rồi đưa cho tôi.
Tôi cầm thiệp, chưa kịp nhìn kỹ, đã thấy nàng quay lưng, bước vội ra ngoài cửa tiệm sách. Tôi nói vói theo, để anh tìm tập thơ cho Mai đã… nhưng nàng đã mất hút ngoài cửa.
Tôi cầm tấm thiệp có vết môi son, tới xếp hàng nơi quầy, chờ trả tiền. Khi bước ra, nàng đã như biến vào hư vô.
Tôi lái xe từ Pasadena về nhà. Căn phòng đã vắng, như dường vắng thêm. Sách để đầy các góc nhà, đầu tủ, đầu giường, xếp cả bên giường tựa vào vách, nhưng như dường tất cả các cuốn sách đang thì thầm chế giễu tôi, một tên khù khờ, không nắm tay được cô nào trong đời quá một phút đồng hồ. Vào nhà xong, tôi mới nhớ ra là quên máy ảnh nơi tiệm Dairy Queen rồi.
Tôi đặt tấm thiệp môi son, dựng đứng trên bàn, nhìn thấy vết môi son mở ra. Gió từ phố Bolsa tạt từ cửa sổ vào. Người tôi run rẩy, cái lạnh này còn hơn là cái lạnh trăm sông nghìn núi, tôi nghĩ.
Bệnh rồi, tôi nằm trùm mền, ngủ vùi, ngập trong hình ảnh của nàng, mái tóc ngắn với vài sợi bạc, tay xương xẩu, bờ vai nhỏ, tà áo xanh, và vết môi son trên tấm thiệp. Tôi tự nhủ, trước khi thiếp vào giấc ngủ, hóa ra đời mình chưa từng ôm hôn một ai.

*

Hai hôm sau, một bình hoa giao tới tòa soạn, đề tên tôi. Người gửi là Mai, từ San Diego.
Kẹp giữa mấy cành hoa hồng vàng là tấm thiệp nhỏ, với dòng chữ viết tay:
“Cảm ơn anh. Ngày mai em về Việt Nam, xuất gia. Mai.”
Không có địa chỉ nào để tôi trả lời hay tìm tới. Tự nhiên, hình ảnh cô bé năm xưa mang khăn tang hiện ra trong trí nhớ tôi, rồi âm vang tiếng mõ, tiếng kinh tụng, rồi âm đọc giọng Miền Trung của vị sư già, “Nam mô a di đa bà dạ…”
Hình ảnh cô bé chân trần nhảy cò cò ngoài sân cũng hiện lên trong đầu tôi. Tôi tự nhủ, có lẽ, người ta không cần tới thuyền để qua dòng sông sinh tử đâu, cứ mãi nhảy cò cò trong chiếc sân cát tuổi thơ cũng sẽ qua bờ. Tôi nghĩ thế, nhưng không chắc là Phật pháp có ý nào như thế. Chỉ có điều khó hiểu, vì sao những bước nhảy cò cò cứ mãi in sâu trong hồn mình như thế.
Tôi hiểu điều này, và có lẽ kinh cũng nói nơi nào đó: khi đi bộ với nàng trên phố Pasadena, tôi không ôm nàng, không hôn nàng vì ngờ ngợ như có ai ngăn cản, hẳn đó là vị hộ pháp hộ giới. Vì với người phát tâm xuất gia như nàng, có khi chỉ một nụ hôn cũng có thể kéo nàng đi chệch thêm nhiều kiếp sau. Tôi chỉ đoán thôi, về giáo lý thì tôi mù mờ. Ánh đèn trên phố Pasadena vẫn hắt mãi trên trí nhớ của tôi, sau pháp hội của ngài Đạt Lai Lạt Ma.
Nhiều năm sau, khi làm một bài thơ Thiền Ca cho anh bạn Trần Chí Phúc phổ nhạc, tôi có viết câu:
… chờ em, chờ em son nhạt môi, ta lạnh buốt bên sông…
Hình ảnh nàng hiện lên trong dòng chữ đó. Hiện lên trên vết son môi nàng để lại trên tấm thiệp, trên đó chiếc thuyền không người lặng lẽ bên sông. Và để lại trong hồn tôi. Ngày và đêm.
Tôi không nhận được tin gì về nàng nữa, từ đó. Tôi vẫn cầu nguyện cho nàng khi bắt đầu các buổi thiền tập hàng ngày. Và biết rằng, sẽ rất lâu, sẽ còn rất lâu, hình ảnh nàng mới nhạt đi trong tâm mình. Kể cả vết son.

Phan Tấn Hải

(trích từ tập truyện Thiếu nữ trong ngôi nhà bệnh)

(Nguồn: tranthinguyetmai.wordpress.com)

 

Thuộc chủ đề:Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống

  • « Chuyển đến Trang trước
  • Trang 1
  • Trang 2
  • Trang 3
  • Trang 4
  • Interim pages omitted …
  • Trang 8
  • Chuyển đến Trang sau »

Thư đi Tin lại

  • Lịch “Trò chuyện, giao lưu…”
  • Lại đính chính: “SAIGON BÂY GIỜ”
  • ĐÍNH CHÍNH: BSNGOC không phải là BS ĐỖ HỒNG NGỌC
  • Đính chính: BS NGỌC không phải là Bs Đỗ Hồng Ngọc
  • bsngoc đã lên tiếng đính chính
  • Thư cảm ơn và Đính chính về FACEBOOK Bác sĩ NGỌC
  • ĐÍNH CHÍNH: Bài viết "TÀN NHẪN" không phải của Bs Đỗ Hồng Ngọc

PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG

Bs Đỗ Hồng Ngọc với Khoá tu “Xuất gia gieo duyên” tại Tu viện Khánh An.

Hỏi chuyện Học Phật với Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Bản dịch tiếng Đức “Một Ngày Kia… Đến Bờ”

CON ĐƯỜNG AN LẠC Bài 6: Học cách Phật dạy con

Minh Lê: Đọc và Cảm “Một ngày kia… đến bờ”

Thăm Sư Giới Đức Triều Tâm Ảnh

Nguyên Cẩn: Đọc “Một ngày kia… đến bờ “của Đỗ Hồng Ngọc

“MỘT NGÀY KIA… ĐẾN BỜ” Tuỳ bút Đỗ Hồng Ngọc

Từ góc nhìn “Phê bình sinh thái” về bài thơ “Rùng mình” của Đỗ Hồng Ngọc

MỘT NGÀY KIA…ĐẾN BỜ V2

Xem thêm >>

Chuyên mục

  • Một chút tôi
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy

Bài viết mới nhất!

  • PNB giới thiệu: Sách “bỏ túi” CON ĐƯỜNG AN LẠC.
  • Video Podcast: Học cách Phật dạy con
  • Video Podcast: Vận động ở tuổi già
  • Video Podcast: Đỗ Hồng Ngọc “GIÚP CHA MẸ VUI TUỔI GIÀ”
  • Video Podcast. Phùng Minh Bảo: Chia sẻ trải nghiệm Chăm sóc Mẹ già

Bài viết theo tháng

Ý kiến bạn đọc!

  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Một vài góp ý về Video Podcasts trên dohongngoc com.
  • NamPhuong Ngo trong Một vài góp ý về Video Podcasts trên dohongngoc com.
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Phòng mạch của chim
  • H.Tuyen trong Phòng mạch của chim
  • Phạm Anh Trang trong Lịch “Trò chuyện, giao lưu…”
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Nước Mắm Phan Thiết
  • QN trong Thư gởi bạn xa xôi
  • Nguyễn Lê Hải Minh trong Nước Mắm Phan Thiết
  • Trần Liên Hương trong “Sách bỏ túi” cho người cao tuổi: CON ĐƯỜNG AN LẠC
  • Minh Trí trong Giao Lưu-Ra Mắt Sách Chuyện Hồi Đó của Đỗ Hồng Ngọc (10.8.2025)

Cùng một tác giả

  • 0
  • 1
  • 1
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6

Thống kê

Nhà tài trợ

biệt thự vũng tàu
biệt thự vũng tàu cho thuê | biệt thự vũng tàu cho thuê theo ngày giá rẻ | cho thuê biệt thự vũng tàu có hồ bơi
© 2009 - 2016 Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Phát triển & Hỗ trợ kỹ thuật bởi SGC.
Trích dịch nội dung để dùng trong nghiên cứu, học tập hay dùng cho cá nhân đều được tự do nhưng cần phải chú thích rõ nguồn tài liệu và đối với các trích dịch với mục đích khác, cần phải liên lạc với tác giả.
  • Một chút tôi
    ?
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    ?
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    ?
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    ?
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    ?
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy
  • Nhận bài mới qua email