Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Tập hợp các bài viết của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Ghi chép lang thang
  • Nhận bài mới qua email

Thư gởi bạn xa xôi (1.8)

01/08/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Thư gởi bạn xa xôi (1.8.2021)

 

Bạn hỏi hỗm rày làm gì ư? Home Alone.

Cứ như “Vân Tiên cõng mẹ đi ra/ Đụng phải cột nhà cõng mẹ đi vô/ Vân Tiên cõng mẹ đi vô/ Đụng phải cái bồ cõng mẹ đi ra…”. Già cả rồi. Đi chỗ khác chơi thôi!

Ông bạn bác sĩ cũng hơi già, 79, than buồn quá. Không gặp được con cháu, trước đây hàng tuần cứ chủ nhật thì tụ tập vui cả nhà với nhau. Bạn bè cà phê cà pháo cũng không được. Lên vi tính thì đọc mờ cả mắt những chuyện buồn đau. Hôm rồi trước nhà cũng bị giăng dây, nghếch mũi, hả họng làm test…

Một ông bạn khác mới 76, nghĩ ra cách giải khoay là coi đá banh Olympic rồi còn viết bài nhắc lại một chuyến “phượt” nào đó lên rừng xuống biển… cho đỡ nhớ, hôm qua gởi mình bảo coi đi nè, nhớ không, mới thôi mà tưởng là xa xưa lắm!

Rồi hôm kia, một người bạn trẻ quen mà chưa biết từ Suối Tiên (Nha Trang) gởi email bài “Học Phật qua thơ Đỗ Hồng Ngọc” thật bất ngờ, nói để tặng anh ĐHN ngày sinh nhật. Ơ hay, mình thực sự không biết ngày sinh nhật, chỉ biết bà Má nói khoảng giữa tháng Tám, năm Canh Thìn, sanh ở nhà bảo sanh cô Mụ Bé dưới chân cầu sắt Phan Thiết. Sau này mình viết cho Nguyệt Mai, Km, d, TV… khi các cô hỏi Ngày sinh nhật của mình rằng: “Anh không có ngày sinh nhật/ Nên mỗi ngày là sinh nhật của anh/ Cảm ơn em/ Nhớ đến anh/ Ngày sinh nhật!”. Thế là mấy cô kêu trời, anh khôn thấy mồ, vậy là mỗi ngày đều phải… nhớ đến anh ư? Thôi thì ta làm “tháng sinh nhật” vậy. Ôi giời!

Tưởng chơi, ai dè sáng nay 1/8, đã thấy trên trang nhà tranthinguyetmai dọn hẳn một bữa tiệc sinh nhật thật “bất ngờ” linh đình và hoành tráng… với bao nhiêu là quà quý từ bạn bè đầy xúc động! Thì ra mọi người sực nhớ mình đã “bát tuần” nên cho một bữa ê hề để kỷ niệm đó thôi!

Rồi một bất ngờ nữa, “Bản thảo” Tôi Học Phật cũng vừa in xong mấy cuốn làm mẫu. Dự định sẽ chỉ in một ít để tặng “bạn đạo” trong Ban Phật học, Nhóm học Phật và Lớp Phật học và Đời sống ở chùa Xá Lợi Saigon  thôi, chớ sách này ai đọc? Cũng phải nói là nhờ 5 Hiền (Nguyễn Hiền-Đức) hai năm trước đã thu gom, chọn lọc bước đầu cùng Văn Công Tuấn tung ra cuốn Thấp thoáng lời Kinh, sau bổ sung thành Tôi học Phật, còn nhiều thiếu sót nên suốt 2 tháng nay vì Cô-vi phải nằm nhà, mình biên tập lại kỹ lưỡng một chút làm “Version 2” này đây. Cái hình bìa trông “văn nghệ” đúng kiểu “lõm bõm học Phật” của mình, lấy cảm hứng từ Đặc san Liễu Quán Huế “dàn dựng” lại một chút đó thôi.

Hẹn thư sau.

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc.

 

 

Filed Under: Ghi chép lang thang, Gì đẹp bằng sen?, Nghĩ từ trái tim

Ghi chép lang thang: Nếp Sống An Lạc (tái bản lần thứ 3)

22/06/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Nếp Sống An Lạc

(tái bản lần thứ 3)

Chuyện trò cùng Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc về
“Nếp Sống An Lạc”,
tái bản lần thứ 3. Tháng 6.2021

 

Ghi chép lang thang: Nhớ buổi “giao lưu” ở Đà Nẵng  

Đề tài được chọn là Một nếp sống hạnh phúc, an lạc chẳng qua là một cái “cớ” cho một chuyến hành hương về miền Trung… “miền thùy dương bóng dừa ngàn thông thuyền ngược xuôi suốt một dòng sông ư.ư… dài” mà thôi! Bởi làm gì có “một nếp sống hạnh phúc, an lạc” để mà nói năng?  Nói làm sao được một thứ “bất khả thuyết” như thế chứ? Chẳng qua là một cơ hội để gặp gỡ bạn bè, trò chuyện loanh quanh, bấy nay chỉ quen nhau qua trang sách.

(…) Một không khí đầm ấm, thân thiết khó thấy ở đâu.  Chưa từng gặp mà quen đã từ lâu. Tay bắt mặt mừng. Chụp ảnh kỷ niệm. Rồi xin chữ ký… thật vui và thật cảm động. Có người ôm nguyên một chồng sách cũ đã “sưu tập” của ĐHN bấy nay đến xin chữ ký, kêu ghi giùm tên và ngày tháng hẳn hòi để kỷ niệm…

MC không phải ai xa lạ: Cát Tiên, chị của ca sĩ Lê cát Trọng Lý. Cát Tiên cũng là một ca sĩ, cùng bạn bè thành lập một thư viện tại gia và một phòng trà nho nhỏ thật dễ thương mà ở Đà Nẵng ít người không biết.

(…) Một bác 82 tuổi lúc ra về nói: Hôm nay tôi rất hạnh phúc bác sĩ nè, khi nghe bác sĩ nói về “vô thường” về phiền não với bồ đề, về khổ đau với an lạc!

Một chị ở Mỹ về tình cờ đến nghe nói “Tôi nhớ nhất câu bác sĩ bảo mình đang ở tuổi nào thì tuổi đó là tuổi đẹp nhất”.

Còn cô giáo “bỏ giờ” đi nghe thì bảo: “Em thực sự thấy hạnh phúc vì đã sống… ở đây và bây giờ buổi sáng hôm nay đó”…

(Đà Nẵng, 12, 2012)

 

Và vài comments sau đó:

Phương Chi (Đà Nẵng):

Nhân duyên đã giúp em biết và đọc sách của Bs. Nhờ đó em đã bình tâm trước nhiều điều bất như ý trong cuộc sống, bớt tham lam hơn, nhìn đời và nhìn người vị tha hơn. Em hiểu ra rằng những khó khăn, bất hạnh xảy ra với mình không gì khác hơn là thử thách của chính mình. Nhờ đó mình bớt kiêu hãnh đi, nhún mình lại và chịu khó nhìn lại để sửa mình.
Gặp Bs hôm rồi em thực sự vui, dù những gì minh trao đổi về « Một nếp sống hạnh phúc » không có gì xa lạ đối với em. Những gì Bs đề cập hôm đó em đều đọc nhiều lần trong các tác phẩm hoặc các bài viết cua BS trên các báo.(…) Em mang sách Bs ký tặng và hình chụp cùng Bs về khoe với hai đứa con, con gái của em năm nay 22 tuổi nói em rằng: « Me teen qua chừng, trốn đi làm bệnh viện, đi gặp idol xin chữ ký với lại xin chụp hình mới ghê chứ » . Em thấy đúng là mình trẻ con, nhưng lại thấy rất hài lòng…

Lê Uyển Văn (Trà Vinh):
“Đọc bài của LVD, thấy hạnh phúc đến rưng rưng, hạnh phúc bởi sự đồng cảm, sự chan hòa mà tình người mang lại cho nhau. Em như hình dung được không khí đó, vui cùng niềm vui của mọi người.
Rồi em chợt nghĩ, thật không quá đáng khi Đỗ Hồng Ngọc đi đến một nơi nào đó mà được đón nhận hơn cả những ngôi sao… Cái chính là sức lan tỏa và lay động đến tâm hồn mọi người thật lâu bền từ những cuộc chuyện trò dung dị ấy”.

Lưu Hà (Đà Nẵng)

Bác Ngọc ơi,
Vợ chồng cháu thật may mắn đã được gặp bác. Từ bữa đó về chúng cháu đều cố gắng ăn cơm “chánh niệm”, nói chuyện cũng “chánh niệm”… không vừa ăn vừa xem ti vi, không mất tập trung. Rồi sau đó mới nghỉ ngơi nói chuyện. Kì lạ là từ sau đó chúng cháu thấy vợ chồng gần gũi nhau hơn, chia sẻ tình cảm, suy nghĩ nhiều hơn sau một thời gian dài vật lộn với 2 em bé sinh đôi mà quên mất nhau. Hihi
Cháu có ghi lại cuộc trò chuyện của bác để làm “Cẩm nang” khi cần. Cháu xin gửi lại bác, phòng khi có ai cần đọc. Cháu cảm ơn bác nhiều. Vợ chồng cháu chúc bác mạnh khỏe và hạnh phúc.
Cháu Lưu Hà.

 

***

Năm 2017, lại Đà Nẵng:

Hội Sách của Phương Nam tổ chức tại Hải Châu Đà Nẵng với hàng trăm gian hàng sách và những đêm giao lưu giữa độc giả – khán giả với cả ngàn người tham dự.

Buổi “giao lưu” với độc giả Đà Nẵng, tháng 4.2017 tại Hội Sách Hải Châu.

Đợt này, cuốn “Chuyện trò cùng Bs Đỗ Hồng Ngọc về Nếp Sống An Lạc” được giới thiệu chính thức tại Hội sách với một buổi giao lưu khá đông. Hôm đó còn có ca sĩ Thu Vàng hát mấy bài thiệt hay và người dẫn chương trình là MC Ngân Hoa.

Cuốn sách phát hành lần đầu năm 2017, đến nay, 2021 đã tái bản lần thứ 3 rồi đó.

“Nếp Sống An Lạc” quả là không dễ giữa thời buổi Cô-vi này vậy.

 

Xin cảm ơn tất cả.

Đỗ Hồng Ngọc

(Saigon, 06.2021)

 

 

 

Filed Under: Ghi chép lang thang, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Thơ Phạm Thiên Thư “Mười con nhạn trắng về tha”

12/06/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc 4 Comments

 

Thư gởi bạn xa xôi

11.6.2021

“Mười con nhạn trắng về tha”

(Động hoa vàng, Phạm Thiên Thư)

 

Câu hỏi của bạn hơi “ác” đó nha. Đây là 4 câu thơ mở đầu của bài thơ Động hoa vàng của Phạm Thiên Thư, bài thơ dài tới 100 khổ, mỗi khổ 4 câu lục bát đẹp như mơ mà ai cũng biết… Cho đến nay đã có hàng trăm bài viết về Phạm Thiên Thư với Động hoa vàng này đó. Mà hình như chưa có ai hỏi như bạn đã làm khó mình hôm nay. Bạn biết đó, mình chẳng phải nhà phê bình văn học, nhất là phê bình thơ… Bởi thơ là để cảm nhận, để rung động… chớ không phải để phân tích, để bình giảng… Nói thì nói vậy chớ người yêu thơ vẫn cứ vừa cảm nhận, vừa rung động vừa bình giảng… để thấy cho hết cái đẹp cái hay, để rồi được rung động 6 cách “nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý” cũng chẳng khoái ru?

Mười con nhạn trắng về tha

Như lai thường trụ trên tà áo xuân

Vai nghiêng nghiêng suối tơ huyền

Đôi gò đào nở trên miền tuyết thơm…

Bạn hỏi mình tại sao nhạn trắng, tại sao mười con mà không phải tám chín con hay trăm con? Tại sao “về tha”? Tha ai? Tha cái gì? Tại sao tha?

Rồi “Như lai thường trụ” là sao? Vô thường, vô ngã, “vô sở trụ” mà sao còn trụ?

Rồi bạn cho rằng “Vai nghiêng nghiêng suối tơ huyền/ Đôi gò đào nở trên miền tuyết thơm” thì ai cũng hiểu cả rồi. Mái tóc huyền óng ả chảy mượt như suối của nàng thiếu nữ xinh đẹp. Làm nhớ “vai gầy guộc nhỏ” của Trịnh Công Sơn! Còn “Đôi gò đào nở trên miền tuyết thơm” đâu cần phải giải thích thêm! À, nhưng mà “miền  tuyết thơm” ở đâu vậy? Có trời mới biết, ủa không, có nhà thơ mới biết. Làm nhớ Văn Cao: “Chúng em xin dâng hai chàng trái đào tiên…”.

Tóm lại là bạn chỉ “quay” mình vài chỗ “bí hiểm”: Mười con nhạn trắng về tha là sao?Tại sao mười, tại sao tha…? Và tại sao Như Lai thường trụ?

Ối trời. Mình bí quá. Bèn phải mượn “quyền trợ giúp”.

Phạm Thiên Thư (PTT) bây giờ không xài Điện thoại, chẳng có email, giữa mùa Cô-vi giãn cách này cũng không trực tiếp đến gặp được. Lại nghe nói ông bắt đầu quên nhiều sau mấy lần tai biến.

Mình liền hỏi nhà thơ Trụ Vũ, vốn chỗ thân thiết với PTT. Ông trả lời ngay:  “Tha” ở đây là “khác”, phương khác. Câu này có nghĩa là mười con nhạn trắng bay về phương khác…

Không yên tâm lắm, mình bèn hỏi Lam Điền, nhà báo, nhà thơ, ở báo Tuổi Trẻ. Lam Điền khuyên: “Tranh thủ lúc tác giả còn sống nên hỏi trực tiếp cho chắc đi bác ơi, mọi suy đoán về thơ thường do không còn tác giả để hỏi”. Chí lý. Nhưng có trường hợp như TTKH, không biết tác giả là ai thì biết đâu mà hỏi! Có khi tác giả Alzheimer quên hết rồi thì sao?

Bèn hỏi Linh Thoại, nhà báo, phụ trách mảng văn học báo Tuổi Trẻ. “Dạ con cũng không rõ ý nhà thơ chú ơi, để con hỏi thầy Huỳnh Như Phương”.

Huỳnh Như Phương là nhà phê bình văn học nổi tiếng, đã nghiên cứu về PTT kỹ chắc chắn phải biết rồi. Hy vọng.

Thầy HNP trả lời Linh Thoại: “Thầy chịu thua. Thiền sư Đỗ Hồng Ngọc mà không giải thích được thì làm sao mình giải thích. Chờ qua dịch gặp ông PTT hỏi ông. Mà có khi ông cũng không giải thích được!”.

Mình đùa với Linh Thoại: Ông PTT chắc cũng sẽ biểu về hỏi “thiền sư” ĐHN đi! Bởi ông cũng quên hết rồi! Dĩ nhiên chú Ngọc giải được quá đi chớ! “Thiền sư” mà!

Linh Thoại cười: Vậy chú giải cho con nghe với. hihi.

Mình “cầu cứu” nhà thơ Đỗ Trung Quân. Quân ơi, cho anh hỏi chút nhe: PTT trong bài thơ Động hoa vàng có câu đầu tiên: “Mười con nhạn trắng về tha…” nghĩa là sao, nhất là chữ “tha” khó hiểu quá?

ĐTQ trả lời liền: Theo em cảm nhận thì mười con nhạn trắng PTT chỉ 10 ngón tay hoa vẽ trên luân chuyển tiết mùa, nhưng chỉ là cảm nhận vì em không nghiên cứu Phật học…

Mắt mình sáng ra: À há! Rất hay rồi đó!

ĐTQ thêm: Câu sau hình như là “vai nghiêng nghiêng suối tơ huyền/ Đôi gò đào nở trên miền tuyết thơm…” cái nhìn Phật học cũng lại là ẩn dụ của suối- mây- rừng… em nghĩ thế.

Mình mừng rỡ: Hay lắm ĐTQ! Anh nghĩ anh bắt đầu giải được rồi đó! Cảm ơn em.

Dù vậy, mình cũng thử hỏi nhà thơ Phật tử thuần thành Tôn Nữ Hỷ Khương xem sao, chị bảo “Bs Đỗ Hồng Ngọc mà không biết thì Hỷ Khương làm sao biết được!”.

Ối giời!

Thôi thì hỏi thêm nhà thơ Khánh Minh ở tận nửa vòng trái đất bên kia, người cũng rất thân quen PTT. Khánh Minh trả lời: “Anh Ngọc ơi, anh mà không biết thì em biết… chết liền! Xưa em rất thân với PTT, phải gọi bằng chú, nhưng em không đọc Động hoa vàng. Em chỉ thích tập thơ 4 chữ thôi. Tại sao là “mười”, tại sao “về tha” và Như-lai thì sao “thường trụ”?

Khánh Minh thắc mắc nữa!

Tóm lại, góc độ “thơ” thì không xong rồi. Còn góc độ “thiền” thì sao?

Mình hỏi chuyện tu hành của PTT cho rõ nguồn cơn, Google trả lời:

Đi tu, thực ra với ông không hẳn là tìm một chốn nương náu, mà ông ngộ ra một điều, ông đã tự tìm cho mình một cõi riêng, một kiểu tu hành riêng…

Ông viết Động hoa vàng những ngày đầu ngấm giáo lý nhà Phật, như đánh dấu mình vào một cõi của chính mình trong thi đàn. Dĩ nhiên, Động hoa vàng chưa hẳn là tác phẩm xuất sắc nhất trong đời viết của Phạm Thiên Thư, nhưng nó đã làm nên một “thương hiệu” của Phạm Thiên Thư. Những câu thơ đẩy cái đạo đời bềnh bồng trên cõi Phật, làm hiện hữu cái cuộc đời đáng sống trên cái mênh mang bao la của phù vân hư ảo.

Nhiều người đã cho rằng Phạm Thiên Thư đi tu mà lòng vẫn hướng về cõi tục. Ông chỉ cười: “Tôi tu theo cách của mình, tu để sống cuộc đời của mình, nuôi dưỡng lối tư duy và trí tuệ của mình”. Quả thực là từ cõi Phật, ông đã làm được những điều đáng nể: thi hóa kinh Phật, sáng tác những thi phẩm hay và đẹp thuộc diện hiếm hoi trong văn học Việt Nam…Thơ của ông được nhiều người có tên tuổi trong giới và rất nhiều bạn đọc mến mộ… (//vi.wikipedia.org/wiki).

 

Tìm hiểu sâu hơn về PTT không gì bằng tham khảo nhà văn Nguyễn Thu Trân, người đã có những buổi tiếp xúc , gặp gỡ, trao đổi trực tiếp với nhà thơ nhiều năm qua (trích). Thu Trân viết:

“Từ Động hoa vàng, người yêu thơ Phạm Thiên Thư cũng mờ mờ ảo ảo với “tu sĩ lãng mạn” Thích Tuệ Không bởi những dòng tự bạch:

Hỏi con vạc đậu bờ kinh

Cớ sao lận đận cái hình không hư

Vạc rằng thưa bác Thiên Thư

Mặc chi cái áo thiền sư ỡm ờ…

 

Hỏi: Thưa, ở đây là nhà thơ hay nhà sư ỡm ờ?

Đáp: Cả hai, từ ỡm ờ ở đây có nghĩa tôi ra đi từ đời và trưởng thành từ đạo. Trong tôi, đạo và đời là một. Trong 9 năm ở chùa (1964-1973), tôi- tức nhà sư Thích Tuệ Không đã tiếp cận tư tưởng nhà Phật và triết lý Phật giáo là phần lớn tinh thần sáng tác của tôi. Triết lý Phật giáo cũng không ngoài những hạnh phúc, khổ đau của con người. Một đời sống hoà bình, thanh thản với cái thiện luôn đẩy lùi cái ác… cũng là mục đích thơ Phạm Thiên Thư hướng đến. Phật giáo khi hòa nhập vào cuộc sống thì đã trở thành một giá trị văn hóa chứ không đơn thuần là tôn giáo.

Hỏi: Vì sao cậu học trò Phạm Kim Long lại trở thành nhà sư Thích Tuệ Không?

Đáp: Tôi sinh năm 1940, quê Thái Bình nhưng đã là người Sài Gòn từ năm 1954. Thời sinh viên mê văn chương thơ phú, tôi sáng lập và tụ tập bạn bè vào Học hội Hồ Quý Ly. Việc lập hội đoàn này khiến tôi luôn bị cảnh sát chế độ Sài Gòn chú ý, thế là để được yên thân, tôi đã ẩn vào chùa để tu. “Tu bất đắc dĩ” mà ngộ ra kinh Phật, ngộ ra chuyện thiền rất nhanh nên tôi thấy mình là người may mắn, tôi sớm nhận ra điều, nhà chùa không phải là nơi tôi nương náu để qua cơn bỉ cực mà là một cõi riêng, rất riêng để tôi tha hồ bay bổng từ những điều ngộ ra chính mình và cuộc sống chung quanh.

Hỏi: Sau kinh kệ, thơ nhạc… rồi đến hớt tóc, bán tạp hóa, bán cà phê kiếm sống; thi sĩ Phạm Thiên Thư còn nổi tiếng nhờ tài chữa bệnh?

Đáp: Tôi nghiệm ra phương pháp chữa bệnh điện công Phathata từ những cách tham thiền, vận nội công và yoga. Những tiền đề này tôi tích lũy được từ những ngày học võ (bố tôi là thầy thuốc dạy võ) và thời gian tầm sư học đạo ở Thất Sơn (Bảy Núi-An Giang); cũng không thể không kể thêm ở đây sự kết hợp với võ Bình Định, gồng Châu Quý, thiền Mật Tông… Phathata là phương pháp tập luyện nhân điện; tự điều chỉnh bế tắc, rối loạn cơ thể và tâm lý thông qua khả năng siêu ý thức. Tôi cũng đã tự chữa bệnh cho mình bằng phương pháp Phathata (có kết hợp cùng các phương pháp khác). Hiện tôi vẫn tham gia câu lạc bộ chữa bệnh miễn phí cho mọi người bằng phương pháp Phathata…

Ngày của thi sĩ Phạm Thiên Thư bây giờ cũng nhẹ nhàng như gió như mây. Dưới bóng cây xanh đầy hoa nắng của quán cà phê gia đình với tên gọi Hoa Vàng trên đường Hồng Lĩnh (quận 10-TP.HCM), ông thường ngồi hàng giờ để hoài niệm về màu hoa vàng cùng bóng áo thoát tục năm xưa, để thấy mình đã sống bảy mươi năm không hoài không phí giữa nhịp đời sắc sắc không không:

Gối tay nệm cỏ nằm say

Gõ vào đá tụng một vài biến kinh

Mai sau trời đất thái bình

Về lưng núi phượng một mình cuồng ca… 

(Nguồn: Đương Thời, http://cntyk2.free.fr/vannghe/tho/)

Bài phỏng vấn của nhà văn Nguyễn Thu Trân đã thực hiện hơn 10 năm trước, khi PTT mới 70 tuổi, ta được biết thêm ngoài tu Phật, làm thơ, ông còn là một thầy thuốc chữa bệnh với phương pháp Phathata.

 

Bây giờ ta thử nghe Võ Phiến nhận xét về thơ tình của PTT:

“Phạm Thiên Thư chỉ đóng trọn vai tuồng xuất sắc khi ông trở về với chính mình, tức một tu sĩ đa tình. Và trong vai tuồng ấy ông thật tuyệt vời, đáng yêu hết sức.

Thử tưởng tượng: Nếu Phạm Thiên Thư sớm tối miệt mài kinh kệ, một bước không ra khỏi cổng chùa, không biết tới chuyện hẹn hò, không hề lẽo đẽo đưa em này đi rước em nọ về v.v… thì nền thi ca của chúng ta thiệt thòi biết bao. Lại thử tưởng tượng Phạm Thiên Thư quanh năm suốt tháng chỉ những em này em nọ dập dìu, nhớ thương ra rít, mà không màng tới kinh Hiền kinh Ngọc, không biết chuông biết mõ gì ráo, thì trong kho thi ca tình ái của ta cũng mất hẳn đi một sắc thái đặc biệt chứ.

Cho nên ông cứ ỡm ờ thế lại hay. Có tu mà cũng có tình. Cái tình của một người tu nó khác cái tình của người không tu, nó có nét đẹp riêng”.

“Tình yêu của ông thật tội nghiệp. Không phải nó tội nghiệp nó đáng thương vì ông bị hất hủi, bị bạc tình, bội phản, vì ông gặp cảnh tuyệt vọng v.v… Không phải thế. Tội nghiệp là vì bên cạnh các mối tình vời vợi của ông lúc nào cũng thấp thoáng cái ám ảnh của kiếp sống mong manh, của cuộc thế vô thường, của cảnh đời hư ảo.

Vả lại không phải chờ đến một cái chết mới đối diện Hư Vô, ngay cả khi đôi trẻ hãy còn đủ trên đời ông vẫn ý thức rõ ràng cái nhỏ bé chơi vơi của tình yêu:

“Cõi người có bao nhiêu

Mà tình sầu vô lượng

Còn chi trong giả tướng

Hay một vết chim bay.”

Rồi Võ Phiến khẳng định, thơ tình của PTT là thứ thơ tình “Tuyệt nhiên không thịt da”:

“Thơ tình của chàng là thứ thơ tình không có nụ hôn. Người tình của chàng là thứ người tình không da thịt. Đố thiên hạ tìm ra trong thơ chàng một nụ hôn, tìm ra những cặp môi mọng như quả nho, gò má ửng hồng như trái đào, những sóng mắt đắm đuối, ngực tròn phập phồng v.v…, đố như thế là đố khó quá… Không mọng đỏ, không no tròn, không phập phồng, không đắm đuối, không long lanh v.v… Tuyệt nhiên không thịt da”.

Ông dẫn nào Xuân Diệu, nào Vũ Hoàng Chương, nào Bạch Cư Dị, ông nào ông nấy cũng “ca tụng thân xác” (chữ Nguyễn Văn Trung)… và chỉ riêng thơ tình PTT là “Tuyệt nhiên không thịt da”!

(chusalan.net: Võ Phiến  Từ Ngày xưa Hoàng Thị… tới… Đưa em tìm động hoa vàng…)

“Không phải đâu là không phải đâu”! Võ Phiến lầm chết! Tưởng tượng xem, một tu sĩ đa tình, 9 năm ngồi ngắm trăng suông bên bờ suối, nhìn vách đá ngẩn ngơ chẳng thua gì 9 năm diện bích của Bồ Đề Đạt Ma… một hôm sực nhớ đóa hoa vàng (khổ 99- Động hoa vàng)

 Vào hang núi nhập Niết bàn
Tinh anh nở đoá hoa vàng cửa khe


“Thiền sư” hiểu rõ lẽ vô thường, rõ cái chơi vơi của “cõi người có bao nhiêu/ mà tình sầu vô lượng” nên một khi đã phập phồng, đã đắm đuối, đã long lanh thì hết phương … cứu chữa!

Anan là đệ tử đẹp trai nhất của Phật, một hôm đi khất thực, gặp người đẹp Ma-đăng-già quyến rũ sắp…, Phật vội vàng kêu đại đệ tử Xá-lợi-phất mang lá bùa đến cứu. Lá bùa đó là Chú Lăng Nghiêm. Bây giờ các tu sĩ sáng nào cũng phải tụng!

Cho nên 9 năm ngồi nhìn vách đá, ngắm trăng suông, miệt mài kinh kệ,  một hôm biệt thầy giã bạn xuống núi, thõng tay vào chợ thì choáng váng, háo hức, hừng hực…không lạ!

Nhưng để hiểu cho rốt ráo “mười con nhạn trắng về tha” này, ngày 9.6.2021, mình viết thư hỏi nhà văn Nguyễn Thu Trân. Cô liền gọi phone ngay cho nhà thơ và trả lời mình:

Gửi anh Đỗ Hồng Ngọc,

Em đã gặp nhà thơ Phạm Thiên Thư nhiều lần, nhưng thật ra chưa thắc mắc về từ “tha” trong câu đầu của thiền ca Động hoa vàng. Chú cháu ngồi với nhau chỉ nói về cõi thiền vô ưu dữ dội của Động hoa vàng thôi. Thắc mắc của anh quá hay, khiến em phải thắc mắc rằng, tại sao mình không thắc mắc điều này với nhà thơ. Em có gọi chú PTT bằng số điện thoại từ lâu rồi nhưng tổng đài bảo số này không có thật (chắc chú đã đổi số). Không chắc bây giờ ông già còn khoẻ và minh mẫn. Thuở em gặp, ông già cũng đã mơ màng với cái điện công Phathata lắm rồi. Thôi thì, em cũng liều mình suy diễn trên tinh thần đã trao đổi về Động hoa vàng với nhà thơ PTT, anh xem thử coi có hợp lý không nhé- nếu không hợp lý thì anh cho em ý kiến khác vậy.

Chúc bác sĩ luôn vui khoẻ trong mùa dịch covid.
Thu Trân

9.6.2021

.

Mười con nhạn trắng về tha

Như Lai thường trụ trên tà áo xuân

Vai nghiêng nghiêng suối tơ huyền

Đôi gò đào nở trên miền tuyết thơm

 

“Tha” có lẽ phải hiểu ở đây theo nghĩa Hán- Việt, chứ không thể là “tha thứ” hoặc

“tha đi, mang đi”- suy diễn hơn một chút, càng không phải là “bê tha”.

Trong tiếng Hán, “tha” có 3 nghĩa:

– “Tha” đại từ chỉ ngôi thứ ba số ít: anh ấy, chị ấy, ông ấy, bà ấy (nam nữ cách viết

khác nhau nhưng phát âm giống nhau).

– “Tha” tính từ có nghĩa thư thả, ung dung tự tại.

– “Tha” động từ có nghĩa gánh vác, chở che.

 

Trong bối cảnh “Mười con nhạn trắng về tha” là câu đầu của “thiền ca” Động hoa

vàng 100 khổ thơ lục bát của Phạm Thiên Thư, có lẽ “tha” trong trường hợp này là

tính từ (thư thả, ung dung tự tại) là phù hợp nhất. Động hoa vàng đẹp như mơ, hư

hư thật thật với đàn chim nhạn “mở màn” thì thái độ ung dung tự tại (vô ưu) rất phù hợp cho 3 câu sau đó:

Như Lai thường trụ trên tà áo xuân

Vai nghiêng nghiêng suối tơ huyền

Đôi gò đào nở trên miền tuyết thơm

 

Và kết nối khổ thơ đầu với khổ thơ cuối, ta sẽ thấy “sự suy diễn” này phù hợp:

 

Hoa vàng ta để chờ anh

Hiện thân ta hát trên cành tâm mai

Trần gian chào cõi mộng này

Sông Ngân tìm một bến ngoài hoá duyên

 

Chỉ có sự vô ưu của một loài chim sang trọng, đẹp đẽ như chim nhạn mới có thể

“gánh” hết những gì huyền ảo trong cõi thiền mà rất đời, mà rất sex của tu sĩ Phạm Thiên Thư thôi.

(Thu Trân, 9.6.2021).

………………………………………………………………………………………….

 

Thiền sư thi sĩ đa tình “huyền ảo trong cõi thiền mà rất đời, mà rất sex ”, Thu Trân nói về PTT rất đúng đó vậy. Nhưng tại sao “về tha”? Thu Trân viết có lẽ “tha” trong trường hợp này là tính từ (thư thả, ung dung tự tại) là phù hợp nhất. Mình không nghĩ vậy. Phải tìm trong hướng khác: Y học chẳng hạn. Đừng quên, PTT không chỉ thiền sư thi sĩ mà còn là một thầy thuốc.

PTT xuất thân trong một gia đình làm nghề đông y, từ nhỏ ông đã nghe quen mùi thuốc, ba chén sắc còn 6 phân, dao cầu, thuyền tán các thứ… để chữa thân bệnh. Lớn lên đi tu… lại học được Phật pháp, chữa cả tâm bệnh, vì thế vào đời, ngoài chuyện làm thơ, ông sáng tạo một phương pháp dùng nhân điện chữa bệnh như phim kiếm hiệp Kim Dung, đưa hơi xuống huyệt đan điền, truyền công lực qua các huyệt đạo trên thân thể, PTT đặt tên phương pháp mình là Phathata (viết tắt của Pháp-Thân- Tâm). Ta thấy “Pha” là PHÁP, “Tha” là THÂN và “Ta” là TÂM. Phải đặt tên bí hiểm một chút thì pháp mới linh nghiệm chớ!  Có lúc ông còn quả quyết Phathata của ông chữa trị được cả bệnh HIV-AIDS, Ung Thư các thứ…!

Về Phathata, ông bảo rằng ông “nghiệm ra phương pháp chữa bệnh điện công Phathata từ những cách tham thiền, vận nội công và yoga. Những tiền đề này ông đã tích lũy được từ những ngày còn trẻ (cha là thầy thuốc kiêm thầy võ) và thời gian tầm sư học đạo ở Thất Sơn (An Giang) khoảng 1964-1973 đã hình thành nên phương pháp ông đặt tên là Phathata này.

Như vậy, phải chăng “về tha” ở đây là “trở về với cái Thân xác”, về với cái Sắc trong ngũ uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Hành giả khi “hành thâm Bát Nhã, chiếu kiến ngũ uẩn giai Không” thì vượt hết mọi khổ đau ách nạn. (PTT vốn là Thích Tuệ Không!).  “Thân tâm nhất như” là nguyên tắc của Phật học và của Y học ngày nay (holistic medicine), nên ông muốn đem Phathata chữa bệnh giúp đời nhưng hiệu quả ra sao lại là vấn đề khác!

Tóm lại, “về tha” có thể là về với cái Thân xác, về với con người trần tục; và “mười con nhạn trắng” là mười ngón tay hoa miệt mài…

Phật giáo khuyên ly dục, ly tướng. “Ly nhất thiết tướng tức kiến Như Lai”. Nhưng tu sĩ thì hiểu bản thể Như-lai là vô tướng, thường trụ, bất nhị. “Chư pháp tùng bổn lai/ thường tự tịch diệt tướng”. Thị chư pháp không tướng: Bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm (Tâm Kinh). Cho nên “Như Lai thường trụ” là đúng. Cái hay ở đây là “Như lai thường trụ… trên tà áo xuân” nhé.

Thi sĩ Quách Thoai, một hôm thấy-biết Như Lai ở những bông bụp ngoài hàng giậu và giật mình sụp lạy, cúi đầu:

Ðứng im ngoài hàng giậu
Em mỉm nụ nhiệm mầu
Lặng nhìn em kinh ngạc
Vừa thoáng nghe em hát
Lời ca em thiên thâu

Ta sụp lạy cúi đầu.

(QT)

Ở phần kết Động hoa vàng, PTT viết:

Vào hang núi nhập niết bàn
Tinh anh nở đoá hoa vàng cửa khe
Mai sau thí chủ nào nghe
Tìm lên xin hỏi một bè mây xanh


Hoa vàng ta để chờ anh

Hiện thân ta hát trên cành tâm mai

Trần gian chào cõi mộng này

Sông Ngân tìm một bến ngoài hoá duyên

 

Hy vọng bạn đã… hài lòng phần nào.

Thân mến,

 

Đỗ Hồng Ngọc

(11.6.2021)

………………………………………………………

Xin chia sẻ một vài Comments

 

Một người bạn:

Theo tôi, hồi đó ông PTT chưa nghĩ ra chuyện PHATHATA đâu.

Tôi thiên về cách hiểu “tha” là động từ.

Về tha cũng là tha về, thả về. Về đâu? Về động hoa vàng. Câu thơ tạo nên một không gian vừa đạo vừa đời, vừa huyền bí, ẩn mật, vừa cụ thể, trần tục. Mười con nhạn trắng hay trăm con nhạn trắng cũng vậy thôi, là những sứ giả đem niềm vui hạnh ngộ về động hoa vàng, cho gã từ quan tưởng xa đời mà vẫn không quên đời. Gã có thành thiền sư chuẩn bị nhập Niết Bàn thì cũng không buông bỏ nụ hoa vàng ngoài khe suối. Cũng như không bỏ được suối tơ huyền, đôi gò đào nở…

 Hai Trầu

Đọc phần dẫn chuyện của anh Đỗ Hồng Ngọc từ người đặt câu hỏi tới người giải đáp câu hỏi vừa mạch lạc vừa hồi hộp mà hấp dẫn với những bí hiểm trong từng phần của mỗi câu thơ càng lúc càng đi vào con đường…hổng cách gì hiểu nổi thi sĩ muốn gởi gắm điều gì qua những vần thơ và cách dùng chữ của ông…

Khánh Minh

Anh Ngọc ơi, em đã đọc bài viết về mười con nhạn trắng… thật là đầy đủ ý kiến của “võ lâm ngũ bá” rất thú vị và em cũng mở rộng tầm nhìn, mỗi người cảm nhận 4 câu thơ mở đầu Động Hoa Vàng theo cảm xúc riêng của mình làm thơ PTT thêm giàu ý nghĩa. Đó thực là thơ, anh đồng ý không?

Riêng km thì km không hiểu mười con nhạn trắng là mười ngón tay hoa… như nhà thơ Đỗ Trung Quân và anh đồng tình,  km nghĩ mười ở đây chỉ là một thi ngữ, nó không mang ý nghĩa một con số xác thực 1,2,3,4…, để làm đẹp lời thơ, thi hoá một số lượng nào đó.

Và “mười con nhạn trắng về tha” thì km đồng ý với cách giải thích của nhà thơ Trụ Vũ, tha là phương khác. Vì km nhớ lại  một kỷ niệm cách đây hơn bốn chục năm, lúc đó km thường cùng ba mẹ và cô Tuệ Mai ( cố nữ sĩ Tuệ Mai) họp ở nhà chú PTT đang sống cùng mẹ của ông, căn nhà mà ông gọi là Động hoa vàng, trước ngõ là một giàn hoa vàng anh mà tới thì như phải đi chậm lại vì cái đẹp của nó, ở đó một lần trên căn gác thơ, km đã nghe ông bảo: km nhìn ra cửa sổ xem, km thấy gì? Một cảnh tượng rất đẹp, cả đàn cò trắng trên cánh đầm cạn trong nắng chiều. Đẹp lắm, nhất là đối với một con bé thành thị ít dịp thấy cò. Ông nói, đó là thi hứng của ông “và km biết không cả khi chúng bay đi thì hình ảnh đó vẫn lung linh ở đó…”,  do ông nói vậy mà em cảm nhận hai câu thơ đầu, cò đuọc thi hoá bằng nhạn để liên tưởng đến mùa Xuân và cho dù đàn nhạn có bay đi thì màu trắng kia là “Như lai thường trụ” sắc Xuân.

Cũng nói ở đây ý của em, vì với thời gian quen thân và cũng nói đến thơ nhiều nên em hiểu với tính cách của ông, hai câu tiếp theo cũng chỉ là hình ảnh thơ  mộng ẩn dụ của mùa xuân chứ không mang hình ảnh hiện thực nào, vì như vậy, nó sẽ không đủ sức để mở đầu và chở cả nội dung Động Hoa Vàng. Đó là trực cảm của em không giải thích được, e rằng sẽ rơi vào phân biệt. Chỉ biết rằng nếu hỏi em

Mười con nhạn trắng về tha

Như lai thường trụ trên tà áo xuân 

có hay không, thì em sẽ gật đầu ngay. Hỏi vì sao hay thì em sẽ trả lời không biết. Thế là hay, phải không thưa anh?

ĐHN

Cảm ơn Km. Đúng vậy. Thế mới là thơ. Như họa. Mỗi người tùy cảm nhận riêng của mình mà “thấy” “nghĩ” khác nhau. Cái đó nó do những “tập khí” tích lũy từ trong Alaiya thức, chuyển qua Mạt-na thức với cái “ngã” của mình xen vào trong đó. Nhờ vậy mà cõi Ta-bà trở nên thú vị phải không?

Một nhà ngôn ngữ học:

Ý kiến của Thu Trân không thuyết phục: (1) Tha trong tiếng Hán có 22 chữ khác nhau (mà riêng 差 đã có 20 nghĩa), nói có 3 nghĩa, thì khó chấp nhận; (2) Cho dù muốn gán tha trong câu thơ Phạm Thiên Thư có nghĩa là “thư thả, ung dung tự tại”, tức là chữ 佗, thì không phải đã ổn: đây là chữ Hán, chỉ có trong tiếng Hán, chứ không phải Hán Việt, tức là loại chữ Hán có mặt trong kho từ vựng tiếng Việt. Quả vậy, trong tiếng Việt, không xuất hiện bất kỳ từ nào có tha với nghĩa là “thư thả, ung dung tự tại” cả.

Ý kiến của Đỗ Hồng Ngọc cũng thế: (1) Động hoa vàng xuất bản năm 1971, của một Phạm Thiên Thư thi sĩ, chứ không phải một Phạm Thi Thư thầy thuốc với môn dưỡng sinh điện công Phathata sau này; (2) Mà cho dẫu người đọc cố hiểu tha ở đây là là viết tắt của thân đi nữa, thì không khỏi đối mặt với câu hỏi: Có thật Phạm Thiên Thư khi viết Mười con nhạn trắng về tha / Như Lai thường trụ trên tà áo xuân / Vai nghiêng nghiêng suối tơ huyền / Đôi gò đào nở trên miền tuyết thơm là muốn nhìn người con gái trong con mắt của một thầy thuốc (dùng nhân điện) cứu người? Hay là của một thi nhân tu sĩ, tôn sùng vẻ đẹp cơ thể của người con gái, có làn tóc như “suối tơ huyền” sau bờ “vai nghiêng nghiêng”, và trên “miền tuyết thơm” là bộ ngực tròn đầy “đôi gò đào nở”, đến nỗi nghĩ rằng “trên tà áo xuân” bao giờ cũng hiện thân Đức Phật “Như Lai thường trụ”?

Mình nghĩ tha ở đây là “mang” (như trong thành ngữ Kiến tha lâu cũng đầy tổ), gốc Hán 佗 (lưu ý viết cùng tự dạng như chữ tha với nghĩa là “thư thả, ung dung tự tại”). Nhưng tha gì? “Tha Như Lai”. Tức phải hiểu đây là trường hợp thơ vắt dòng (enjambment). Mười con nhạn trắng “tha Như Lai” để ngài “thường trụ trên tà áo xuân”!

Hy vọng góp được một kiến giải mới, có ích.

ĐHN 

  1. Mười con nhạn trắng về tha. Bạn bảo “Tha Như Lai” để về “thường trụ trên tà áo xuân…” (tội nghiệp Như Lai hết sức!). Bài thơ Động hoa vàng PTT làm năm 1971, thời đó đã có nhiều thơ “vắt dòng” ở VN chưa nhỉ? Và không lẽ PTT chỉ “vắt dòng” mỗi một lần đó thôi sao?
  2. Mình nghĩ PTT đã chịu ảnh hưởng cách chữa “thân bệnh” từ nhỏ (với người cha là thầy thuốc bắc), rồi đi tu (1964-1973) thì chịu ảnh hưởng thêm cách chữa “tâm bệnh” từ Phật giáo, từ đó mà đề ra phương pháp chữa bệnh Phathata (kết hợp Pháp-Thân-Tâm), đã có thể hình thành rất sớm, trước khi viết Động hoa vàng (1971) chăng?

Dù sao, bài thơ rất hay, bay bỗng… (thử đọc thêm đoạn kết) của nhà thơ rất… “ỡm ờ, rất thiền mà rất sex” này như Thu Trân nhận định.

Một người bạn:

Đọc thơ mà chỉ vụ vào từng chữ thì khó cảm nhận ý nghĩa lắm. Ví dụ, cứ truy từ điển rằng “tha” là khác, là thư thả rồi đoán mò thì rất dễ suy diễn. Nhỡ như một lúc nào đó tìm được bản gốc thấy tác giả viết là “về qua” hay “về thu”, mà nhà in in nhầm, thì phá sản hết.

Hiểu là “tha Như Lai” thì cụ thể, lộ bài quá, mà hơi vô lễ nữa. Mà hình như ông PTT cũng chưa lần nào dùng thủ pháp enjambement (dù thủ pháp này đã phổ biến từ thời Thơ Mới 1932-1945 với Thế Lữ, Xuân Diệu…)

Vì đây là câu thơ đầu bài nên phải ráng cắt nghĩa, chứ các ông nhà thơ nhiều khi viết cũng tùy hứng lắm (Ví dụ, Nguyễn Đình Chiểu: Vợ Tiên là Trực chị dâu).

Mình vẫn giữ cách hiểu “ấn tượng”: bầy chim nhạn trắng “về tha” là đem về, mang về cái hình ảnh của Đạo. Và Như Lai thường trụ trên tất cả cảnh vật ấy, cả trong hình ảnh của mười con nhạn trắng.

Một người bạn:

Mình hiểu hơi khác. Tu sĩ Phật giáo thì một trong những giới cấm đầu tiên là sắc dục. Thế mà tu sĩ Phạm Thiên Thư nhìn cô gái trong con mắt đắm đuối (thị dục) như thế, thì “tha Như Lai thường trụ trên tà áo xuân” chính là điểm nhất quán của thơ, là cái hay của bài thơ. Nhưng trong ý kiến của hai bác có một điểm hợp lý, buộc mình phải kiểm tra lại: Phạm Thiên Thư có lần nào khác làm thơ vắt dòng không?

ĐHN

1.”Nhỡ như một lúc nào đó tìm được bản gốc thấy tác giả viết là “về qua” hay “về thu”, mà nhà in in nhầm, thì phá sản hết”.

Bạn viết câu này làm mình giật mình! Trong cõi văn chương đã xảy ra không ít trường hợp nhờ sai “bản vỗ” mà câu thơ bỗng hay hơn!

  1. Về thủ pháp “vắt dòng” thời Thơ Mới chỉ là một cách “lạ hóa” chớ chưa phải là một trường phái Tân hình thức như ngày nay.
  2. Cái “sex” (tính dục) trong mấy câu thơ này… không chỉ là “thị dục”.

 Nguyễn Lệ Uyên

Hình như triết lý nhân sinh luôn bàng bạc trong thơ PTT, nhuốm đầy màu sắc thiền tính, phả hơi thở sâu thăm thẳm vào thơ… và đã làm cho những câu thơ lung linh hơn, đẹp hơn.

Anh Ngọc này,

Theo tôi, thơ PTT không phải là thơ tình như DTL, NTN… ở đó, là những tâm cảm phóng ra từ những rung động khi chạm nhẹ vào những hốc khuyết, những tròn căng “Anh theo Ngọ về/ Chiều mưa nho nhỏ“…

Vai nghiêng nghiêng suối tơ huyền 

Đôi gò đào nở trên miền tuyết thơm

chứng tỏ PTT đứng trên hiện sinh thường ngày khi nhìn thấy, cảm thụ và thốt ra đôi gò đào nở, trên bình diện gần như một công án (thầy tu cõng thiếu phụ qua sông mùa lũ xiết).

Tóm, đời thường bên ngoài, từ thiếu nữ, bông hoa, cô gái lên chùa, những em… trong thơ PTT đều bay lên tầng cao thẳm từ cái Tâm đã được định, không lung lay, xao động.

Nhật Chiêu

Theo tôi, “THA” ở đây là “tha ngộ” (khác với “tự ngộ”). Mười con nhạn trắng là mười phương cõi Phật đã giúp thi sĩ “ngộ” ra Như Lai (Tathata) vẫn “thường trụ” trên tà áo xuân, trên suối tơ huyền, trên đôi gò đào nở…

T.T

Chỉ một từ “tha” mà anh “bóc trần” được thi sĩ, tu sĩ PTT rồi. Bài dạng nghiên cứu đọc hay, vui, lý thú.

…………………………………………………….

 

Chân thành cảm ơn các bạn.

Tôi nghĩ rằng, đây cũng là dịp để những bạn yêu thơ đọc lại Pham Thiên Thư!

Đỗ Hồng Ngọc

Mùa giãn cách Cô-vi

Saigon, 15.06.2021

 

Đỗ Hồng Ngọc và Phạm Thiên Thư, 2/2011 tại Cafe Hoa Vàng, Quận 10 Tp.HCM. (Ảnh Đặng Văn Hiệp)

Filed Under: Ghi chép lang thang, Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định

Mùa Côvi: Nhắc chuyện Độc cư/ Thiền định/ Kham nhẫn/ Tri túc

02/06/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc 1 Comment

Ghi chú: Một người bạn nơi xa đề nghị mùa Côvi hoành hành này hãy post lại bài Độc cư/ Thiền định/ Kham nhẫn/ Tri túc… nhắc nhau nhé.

Nên 3 chén sắc còn 7 phân vậy.

Thân mến,

ĐHN.

 

Độc Cư

 

 

Lúc dịch bệnh tràn lan như vầy thì lời khuyên tốt nhất là nên “ở nhà một mình” (Home Alone, nhớ không?). Mọi người nên “Stayhome” trong “Homestay” của mình. Bất đắc dĩ mới phải ra đường khi thật sự cần thiết.

Độc cư nhiều khi dễ căng thẳng, buồn chán, dễ gây lộn, dễ “phá thành sầu” bằng chai alcool (không phải để sát khuẩn) mà để sinh sự cho sự sinh.

Phật giảng một bài rất hay trong kinh “Người biết sống một mình”. Đó là người sống với cái Tâm tĩnh lặng, trong sáng, không bị “trôi lăn” (cuốn) vào dĩ vãng hay tương lai bởi “dĩ vãng đã qua rồi/ tương lai thì chưa tới”. An nhiên tự tại với “ở đây và bây giờ” (here and now).

Một người chui vào phòng kín, nhập thất, hoặc lên núi cao cất cái chòi nhỏ… để sống mười năm chưa chắc đã là “độc cư” khi trong lòng còn mang mang : quân tử trả thù mười năm chưa muộn…

 

Thiền định

 

(internet)

 

“Nếu không đi ra ngoài được thì hãy đi… vào trong”

Lục tổ Huệ Năng bảo: Ngoài không dính mắc là Thiền/ Trong không lay động là Định.

Vậy thì đi đứng nằm ngồi gì cũng thiền cũng định.

Còn Trần Nhân Tông thì bảo:

Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền

Trước cảnh mà tâm vẫn an, vẫn tịnh, thì chẳng cần hỏi chi tới Thiền!

Cho nên để có thể có tâm an tịnh, thiền là một cách thế trong rất nhiều cách thế. Ngày nay, y học và tâm lý trị liệu… cũng nghiên cứu ứng dụng Thiền để chữa trị những thứ bệnh thời đại. S.A.D (Stress: căng thẳng; Anxiety: Lo âu, sợ hãi; Depression: trầm càm), nghiện ngập, rối loạn chuyển hóa, rối loạn thần kinh thực vật, rối loạn hành vi… đã mang lại nhiều kết quả khả quan. Dĩ nhiên, đó chỉ mới là một phần ứng dụng của Thiền, chưa phải là thiền Phật giáo.

Dù sao, thiền cũng là cách giúp mình được an nhiên, tự tại… trong tình hình đầy hoang mang căng thẳng lúc dịch bệnh đang hoành hành.

 

Kham nhẫn 

Kham là chịu, nhẫn là nhịn.

Trong các yếu tố khiến “kham không nổi” thì “khẩu” (Lời nói) là yếu tố quan trọng nhất. Đã đành “ý dẫn các pháp”, nhưng ý chưa thể hiện thành hành vi. Khẩu mới ầm ỉ, náo nhiệt, là đầu mối sinh sự, gây chiến! Cho nên Phật dạy con mình là La Hầu La rất kỹ về “khẩu nghiệp”: Không nói dối, không nói thêu dệt, không nói hai lưỡi, không nói lời hung ác… Rồi dạy con phải học hạnh của Đất để “nhẫn”: ném một thỏi vàng hay một đống rác xuống đất, đất vẫn « như như bất động »…

Nhưng “kham nhẫn” trong lời khuyên của Phật thì không chỉ là sự chịu đựng, “nhịn nhục” với cái đáng giận, đáng ghét mà còn phải “kham nhẫn” cả với những đường mật, mê say vì dễ dẫn ta tới tham ái, chấp thủ.

“Kham nhẫn” với giận với hờn còn dễ hơn kham nhẫn với nhớ, với thương, phải không?

 

Tri túc

Tri túc là Biết đủ. Nhưng thế nào là đủ? Làm sao để biết đủ?

Lòng tham vốn không đáy. Lúc nào cũng muốn muốn muốn. Nào vạn tuế vạn vạn tuế, nào muôn năm trường trị, nhất thống giang hồ, trường sanh bất tử…

Mà càng tham thì càng thấy thiếu. Người đẹp muốn đẹp hơn. Người giàu muốn giàu nữa. Người quyền chức thì muốn càng cao thêm mãi.

Nguyễn Công Trứ bảo: Tri túc tiện túc, đãi túc hà thời túc? Biết đủ thì đủ! Đợi đủ bao giờ mới đủ? Bao giờ nghĩa là… còn lâu!

Ưng Bình Thúc Giạ Thị thì bảo:

Biết đủ dầu không chi cũng đủ

Nên lui đã có dịp thì lui… 

Cho nên Tri túc luôn đi đôi với Thiểu dục. Thiểu dục Tri túc. Bởi người it ham muốn thì may ra mới thấy là đã đủ, nghĩa là thôi, đủ rồi đó!

Nhưng, nói thì dễ, mà làm thì không dễ chút nào bạn ơi!

 

Đỗ Hồng Ngọc.

(2.6.2021)

 

Filed Under: Ghi chép lang thang, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

Hồ thị Hoàng Anh: “Bà mẹ nuôi con khỏe”

21/05/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Ghi chú: Loạt bài Mỹ nhân xứ Huế của Thái Lộc trên báo Tuổi Trẻ kỳ 5 viết về Hồ thị Hoàng Anh…

Một người bạn gởi lại tôi bài viết “Bà Mẹ nuôi con khỏe” này của Hồ thị Hoàng Anh đã đăng trên www.dohongngoc.com, nhân buổi Hội ngộ – Tâm tình về cuốn Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng do HQCBM tổ chức tại nhà GS Trần Văn Khê (2012).

Xin chia sẻ.

Thân mến,

ĐHN

 

“Bà mẹ nuôi con khỏe”

Hồ thị Hoàng Anh

 

Mấy ngày nay Hoàng Anh đang ở Mỹ, sáng nay lang thang vào trang web của Việt Nam tình cờ thấy bài của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc “ Vài chuyện kể về cuốn sách viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng”. Đọc đến đoạn cuối bs Đỗ Hồng Ngọc có nhắc về cuộc thi  “Bà mẹ nuôi con khỏe” cấp thành phố năm 1985 tại hội trường bệnh viện Từ Dủ. Mà lần đó Hoàng Anh cùng con trai là Nguyên-Giáp dự thi rồi được giải nhất. Thật là một kỷ niệm vui.
Ở gần chùa nên khi nào rảnh là Hoàng Anh xin vào thư viện chùa để đọc sách , mới biết rất nhiều tập san Phật Giáo Việt Nam ở đây có đăng bài của bs Đỗ Hồng Ngọc. Đặc biệt trong số báo Phật đản xuất bản cách đây mấy ngày có đăng bài “ Nói không được”.
Mấy năm trước khi qua làm việc ở Nhật Bổn thì thấy sách của bs Đỗ Hồng Ngọc dịch ra tiếng Nhật được nhiều độc giả người Nhật đón nhận . Rồi đến khi Hoàng Anh đến Mỹ thì thấy sách bs Đỗ Hồng Ngọc xuất hiện nhiều trong các thư viện của người Việt ở đây. Chứng tỏ có nhiều thế hệ độc giả người Việt ái mộ tác giả vừa là bác sĩ vừa là nhà văn tài hoa này…
Khi nào nghĩ về cuộc thi “bà mẹ nuôi con khỏe” lần đó Hoàng Anh cũng hân hoan, rồi cũng có chút chút “ngưỡng mộ” về mình : là tại sao hồi đó mình còn rất trẻ mà đã rành rọt biết cách chăm sóc con đến vậy?
Thật ra “ bí mật” để làm được điều kỳ diệu đó chỉ vì Hoàng Anh là độc giả lâu đời của tác giả Đỗ Hồng Ngọc! Là con gái Huế chính tông,  Kể từ khi bắt đầu “nứt vỏ” để lớn lên bên giòng sông Hương núi Ngự trở thành o thiếu nữ là tâm hồn đã biết rung cảm với ca từ và giai điệu của âm nhạc Trịnh Công Sơn, cũng là lúc Hoàng Anh biết bắt đầu say sưa với cuốn “ Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò”. Khi đến tuổi lập gia đình có con thì nghiền ngẫm “ Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng”. Khi con lớn vào đai học rồi thì nhâm nhi “ Gió heo may đã về”. Bây giờ con tốt nghiệp đại học rồi, có thời gian hơn thì thong thả với “ Như thị”, với” Nghĩ từ trái tim” bs Đỗ Hồng Ngọc viết về Bát Nhã Tâm Kinh…
Cuộc thi “ Bà mẹ nuôi con khỏe” lần đầu hồi đó vào những năm đất nước còn khó khăn, xã hội ít tổ chức những sự kiện văn hóa lớn. Nên cuộc thi” Bà mẹ nuôi con khỏe” cấp thành phố hồi đó là một trong những sự kiện sôi nổi .
Nhìn lại những tấm hình trong cuộc thi. Hoàng Anh thấy mình hồi đó còn rất trẻ mà cũng hơi xinh xinh. Đã 26 tuổi và là mẹ của hai đứa con rồi mà vẫn còn vương nét sinh viên, rất khỏe khoắn trong trang phục quần jean xanh- áo sơ-mi vải màu trắng, dưới chân thì giản dị đeo đôi guốc mộc, trên đầu là một mái tóc dài xanh ngời bối thành củ tỏi vắt sau ót .
Khi Hoàng Anh vác trên vai đứa bé trai bụ bẩm khóc oe oe lên nhận giải trên sân khấu, hình ảnh đó làm cả hội trường cười òa. Phóng viên thì tha hồ tác nghiệp phỏng vấn bà mẹ và quay phim chụp hình em bé đọat giải.
Vì là bà mẹ thi được điểm cao nhất nên Hoàng Anh hân hạnh được người thầy thuốc mẫu mực là Viện sĩ,Tiến sĩ Dương Quang Trung trao giải thưởng tận tay. Rồi trong thùng quà thưởng to tướng, bên cạnh nhiều vật dụng xinh đep dùng cho trẻ em thì có card viết tay chúc mừng của bác sĩ Dương Quỳnh Hoa hồi đó làm giám đốc Trung tâm Nhi thành phố. Khi được phỏng vấn “làm sao trả lời giỏi vậy?” Hoàng Anh nói “là nhờ đọc sách của bs Đỗ Hồng Ngọc đó”.

Bà mẹ Hoàng Anh, Bs ĐHN và "bé" Nguyên Giáp trong buổi Hội ngộ, Tâm tình về cuốn VCCBMSCĐL do HQCBM tổ chức tại nhà GS Trần Văn Khê (2012).

Bà mẹ Hoàng Anh, Bs Đỗ Hồng Ngọc và “bé” Nguyên Giáp trong buổi Hội ngộ, Tâm tình về cuốn “Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng” do Hội quán Các Bà Mẹ tổ chức tại nhà GS Trần Văn Khê (2012).

 

Em bé Nguyên-Giáp bụ bẫm ngày nào, nay đang rất bận rộn với công việc của một cậu sinh viên trường Y năm cuối. Là tất bật với bài vở,với những môn thi, với những đêm thực tập thức trắng ở bệnh viện…
Cuộc thi “ Bà mẹ nuôi con khỏe” năm nào, chớp mắt thôi đã 1/4 thế kỹ! Cũng mới thôi!

 

(03/06/2010)

Filed Under: Ghi chép lang thang, Vài đoạn hồi ký, Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng

Thư gởi bạn xa xôi (tiếp)

23/04/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc 1 Comment

Thư gởi bạn xa xôi

Một chuyến về thăm quê ngoại,

Anh Hai Trầu, Nguyệt Mai, Khánh Minh… và mấy bạn bên đó ai dè đã đọc ngay thư gởi bạn xa xôi về chuyến đi Xuyên Mộc mừng tuổi 91 của anh Trụ Vũ, và riêng anh Hai Trầu còn bảo sẽ kể chuyện ngày xưa mấy lần về Phan Thiết quê mình cho nghe nữa! Còn ông bạn GS Nguyễn Thế Hùng ở Đàlạt kêu sao không gọi cho anh đi với, vì anh rất quý ông Trụ Vũ. KMM ở Dran, DT… ở Cà Ná cũng đã đọc… Tóm lại, hóa ra lâu nay cứ nghĩ thời buổi này ai còn có thì giờ mà đọc… những chuyện “linh tinh” là một sai lầm lớn! Nói khác đi, cứ nên tiếp tục lai rai cho vui.

Mình mới về quê nội, Lagi (Hàm Tân xưa), rồi ghé về thăm quê ngoại ở Tam Tân, Phong Điền, Hiệp Nghĩa (nay là Tân Thuân, Hàm Thuận Nam) không xa lắm. Gởi bạn vài tấm hình với lời chú thích thôi nhe.

Với Phùng Minh Bảo ở Sông Xoài, Châu Đức. Bảo và Thùy Linh, cặp vợ chồng trẻ đã sớm tìm đường về… quê làm vườn thay vì mấy năm nay bươn chãi làm ăn ở phố thị. Hình như có một “phong trào” các bạn trẻ (trên dưới 40) bỏ phố về quê sống với tháng năm thanh bình… Bảo & Thùy Linh 12 năm trước đã bế con còn đang bú đến gặp “chú Ngọc”, đề nghị giúp chú làm một trang Web để lưu trữ và chia sẻ cùng bạn bè… Vậy mà đã 12 năm rồi đó. Cô bé bú mẹ năm nào giờ cao lớn hơn mẹ. Cậu con trai thì sắp thi tốt nghiệp PT. Giai đoạn đầu, đã phải nhờ Bảo-Linh chăm sóc www.dohongngoc.com, sau học hỏi dần rồi mình cũng tự làm được các thứ, kẹt lắm mới phải hỏi…

 

 

 

 

 

 

 

 

Vườn rau của Phùng Minh Bảo & Thùy Linh ở Sông Xoài, Châu Đức (gần nhà cũ của Nguyễn Minh Tiến).

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Bến Ván, Láng Găng (Bình Châu). Những năm 7,8 tuổi, mình từng sống vùng này (tản cư từ Lagi). Những địa danh Láng Hàng, Giếng Ngự, Bưng Riềng, Rừng Khỉ, Hồ Tràm… không xa lạ, cũng như bệnh Sốt rét rừng, suy dinh dưỡng vốn rất thân quen… Đi về phía Nam thì Xuyên Mộc, Bà Rịa với hồ Bà Tô, phía Bắc thì có Suối nước nóng Bình Châu giờ là khu du lịch có tiếng. Người bạn thân cùng tuổi cùng thời nơi đây là nhà văn Trần Yên Thảo (Trần Ngọc Minh), giờ gặp nhau vẫn nhắc “hồi đó…” chuyện hơn 70 năm trước!

 

Farmstay của Trí & Đông tại Cam Bình, Lagi. Thanh bình, yên tĩnh. Hồ nước đen ngòm vì vùng đất này rất nhiều titan (*).

 

 

 

Chiếc cầu tre dẫn vào khu tập thiền, yoga thanh tịnh.

 

Dốc Trâu, Bàu Giòi (Lagi), với hàng ngàn chiếc thuyền thúng. Vùng này nơi xưa có Giếng Nguồn Chung do nhóm Hướng đạo sinh xây năm 1944.

 

Không lần nào về quê mà không ghé Đập Đá Dựng. Xưa còn có một ngôi nhà thủy tạ phía trên đâp, đã sụp đổ. Quán càphê có nước dừa tươi rất ngon.

 

 

 

 

Đập Đá Dựng, Lagi

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Một mình trên bãi biển mênh mông quê ngoại. Mõm Đá Chim (Ngãnh Tam Tân). Xa thật xa là “Hòn Bà nên thơ giữa sóng trùng dương, mấy kiếp gió sương… Lagi tay chài tay lưới có những mùa trăng sáng cát trắng đẹp bờ vai…” (Bình Tuy, ca khúc của Trúc Phương).

 

Cậy hàu là một… nghệ thuật, rất dễ bị đứt tay.

 

 

 

Và mùa đầy rêu xanh…

 

Tam Tân, sinh quán của cậu Nguyễn Hữu Ngư (nhà văn Nguiễn Ngu Í) cũng dần đô thị… hóa! Tìm nhà Bà Năm, má cậu Năm Chi có cái giếng nước ngọt nổi tiếng cả vùng này cũng không còn dấu vết…

 

 

Một chiếc gant tay của người đẹp tiền sử khổng lồ nào bỏ quên trên bãi cát mênh mông… (Ngãnh Tam Tân)

 

 

 

 

 

 

 

Đường làng về nhà ngoại hôm nay (Phong Điền, Hiệp Nghĩa, thuộc Hàm Thuận Nam). Ngày xưa là con đường đất nhỏ hẹp, quanh co, cỏ ngập hai bờ, với những rặng tre kẽo kẹt có nhiều ma gáo… nhiều chỗ phải ù té chạy rợn tóc gáy…

 

Giếng nhà ngoại, một giếng nước ngọt cả vùng gánh về uống, nay đời cháu chắt đã phá bỏ, xây thành cái hồ chứa nước rộng để tưới thanh long… Xưa nơi này là một khu vườn dừa, cau, chuối rập rạp, nay trống huơ trống hoắc, chỉ còn… thanh long là thanh long (làm kinh tế). Xa xa kia là núi Tà Cú, nơi có Linh Sơn Trường Thọ Tự, sắc tứ thời Tự Đức. Mình ở đây lúc 10 tuổi, đi học trường Gò Ông Nồm (Nam Bình), hàng ngày Mợ Năm (Nghê Nhã Ý, em ruột của Mẹ) gói cho một nắm cơm mo cau với một con cá khô nướng, trưa ăn ở trường bên cạnh các hầm trú ẩn chữ V chữ U… để khi có máy bay đến thì kịp nhảy xuống tránh bom.

 

May thay còn có cây khế ngọt để nhớ “quê hương” (ĐTQ). Khắp nơi thanh long là thanh long, chẳng còn dừa, cau, chuối, bưởi, cam, quít… gì nữa cả! Làm sao không chút ngậm ngùi chốn xưa?

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Hẹn thư sau,

Đỗ Hồng Ngọc

(23.4.2021)

…………………………..

(*)  Titan hay titanium là một nguyên tố hóa học, một kim loại, có ký hiệu là Ti và số thứ tự trong bảng tuần hoàn là 22. Titan là một kim loại chuyển tiếp, tỉ trọng thấp và độ bền cao, không bị ăn mòn trong nước biển, nước cường toan và clor. (theo Wikipedia). Bình Thuận là tỉnh có nhiều khoáng sản Titanium.

Filed Under: Ghi chép lang thang, Góc nhìn - nhận định, Uncategorized, Vài đoạn hồi ký

Thư gởi bạn xa xôi,

20/04/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc 1 Comment

Thư gởi bạn xa xôi,

Nhà thơ, nhà thư pháp Trụ Vũ, mừng tuổi 91

 

 

Sáng nay báo Tuổi Trẻ có mấy dòng tin ngắn về buổi Họp mặt mừng tuổi 91 của nhà thơ, nhà thư pháp Trụ Vũ tại Xuyên Mộc, Bà Rịa – Vũng Tàu. Một người bạn từ phương xa đã hỏi thăm. Một vài bạn còn trách sao lâu quá, chẳng thấy thư từ gì cả, chẳng thấy cập nhật gì mới trên dohongngoc.com cả vậy!…

Phải xin lỗi bạn thôi. Thú thiệt, từ ngày bước vào tuổi 80, mình ngày càng biếng nhác  thấy rõ từng ngày, từng ngày. Khớp bắt đầu đau, không còn lên xuống cầu thang dễ dàng như trước, mà phải chân này giúp chân kia… T, một người bạn thân hẹn đi cà phê, phone xin lỗi, “mặc quần không được” vì co chân khó qúa. M, kêu tay trái giơ lên mặc áo cũng khó. Bạn nữa quên ngày giờ hẹn… Còn mình, từ ngày viết Để Làm Gì thì cứ luẩn quẩn mấy chữ “để làm gì” trong đầu đó vậy!

Cái gì vậy? Thì ra, chuyện bình thường của lứa bọn mình đó thôi. Cho nên nghe 5 Hiền bớt đau lưng đã ngồi được vào máy để gõ. Mừng. Thấy Hai Trầu loanh quanh  săm soi mấy trái bưởi trái khế trong vườn. Mừng. Phạm Văn Nhàn viết meo cho hay vừa nghe đọc trên đài Long An một truyện ngắn đặc sắc của anh… Mừng.

Anh Trụ Vũ kêu con gái Út, Linh Thoại gọi điện cho chú Ngọc để rủ đi Xuyên Mộc chơi với Ba một chuyến, nhân các bạn “văn nghệ” học trò anh tổ chức một đêm ca nhạc mừng tuổi 91 của anh, có Bs Võ Văn Thành, có nhà giáo Đoàn Văn Điện, có nhà thơ Hạnh Phương từ Long Khánh, nhà phê bình văn học Đăng Lan từ Saigon, Ni cô Trung Hiếu từ Bình Long… Vậy thì đi chớ, sao không!

Phải nói buổi Họp mặt mừng tuổi Trụ Vũ thiệt vui và thiệt cảm động. Anh Trụ Vũ hơn mình có 9 tuổi, Đoàn Văn Điện hơn mình 4 tuổi (anh xưng tên là “Điên nặng”, dân gốc Tuy Hòa, bạn của Trần Huiền Ân và thế nào cũng họ hàng với Đoàn Hùng- nhà văn Nguyễn Lê Uyên). Bs Võ Văn Thành thì tuổi Sửu, nhỏ hơn mình… 9 tuổi, Hạnh Phương tuổi Tí… Khi người ta già thì người ta hay hỏi tuổi của nhau như vậy. Với mình, hỏi còn là để học tập kinh nghiệm sống, kinh nghiệm giữ gìn sức khỏe, chia sẻ về cái ăn, cái ngủ, cái tập rèn thể lực, tu tâm dưỡng tánh… Bs Thành thì thở bụng, Gs Điện thì ngàn cái phất tay dịch cân kinh… Đại khái vậy.

Anh Trụ Vũ, bị tai biến 3 năm trước mà nay đã đi lại được, nói năng hơi khó, nghe càng khó. Thiên Anh con gái, kề tai anh… phiên dịch những gì cần thiết cho nghe. Vậy mà trên chuyến xe, anh còn viết thơ Nhất Hạnh tặng Bs Thành, bàn về thơ Phạm Thiên Thư, đọc cuốn sách mình mới tặng Như không thôi đi được (Những bài viết về thơ Đỗ Hồng Ngọc)… Anh mở đọc ngay bài Nguyễn Thị Khánh Minh, bài Nguyễn Thị Tịnh Thy v.v… Thiệt không ngờ một ông lão trên 90! Hình như nhờ có thơ có văn mà người ta hạnh phúc vậy. Những lúc yên lặng, thấy ông quơ quơ tay lên không thì Linh Thoại giải thích Ba đang làm thơ hoặc viết thư pháp gì đó chú Ngọc ạ.

Thôi, mình sẽ gởi theo đây ít hình ảnh (và chú thích) để bạn xem vui thôi nhe.

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc

(20.4.2021)

 

 

 

 

 

 

 

Ông già 91 tuổi ngồi trên xe hơi đang chạy mà vừa viết vừa đọc ngon lành, thiệt là đáng nể phục.

 

Hội trường khá đông, có trên 60 người đến từ nhiều nơi vì yêu mến nhà thơ, nhà thư pháp Trụ Vũ, tối 17.4.2021 tại Xã Phước Tân, Xuyên Mộc, Bà Rịa-Vũng Tàu.

Hàng đầu từ trái: Hạnh Phương, Đoàn Văn Điện, Võ Văn Thành, Trụ Vũ (ảnh ĐHN)

 

Xuân Thế, người “ca thơ” Trụ Vũ (ảnh ĐHN)

 

 

 

Rất nhiều ca khúc đã được trình bày đêm đó, ngoài những bài hát phổ thơ Trụ Vũ,  còn có Tình Hoài Hương, Gửi gió cho mây ngàn bay, Ô mê ly, Nguyệt Cầm… Từ 8h đến hơn 11 giờ đêm mới vãn!

 

Ca sĩ Bảo Thuyên (ảnh ĐHN).

 

 

Nhà phê bình văn học Đăng Lan nói về thơ Trụ Vũ.

ĐHN tặng “quà” cho Trụ Vũ. Mấy dòng chữ viết vẽ về Trụ Vũ 20 năm trước không ngờ được Thiên Anh còn giữ kỹ đến hôm nay.

 

Các bạn trẻ yêu thơ, thư pháp Trụ Vũ đã không quên “Mừng Tuổi” ông hôm nay.

Một bài thơ của ĐHN do Trụ Vũ viết thư pháp (2005): Hôi An sớm/ Hôi An còn ngái ngủ/ Mái chùa ôm vầng trăng/ Giật mình nghe tiếng chổi/ Gà gáy vàng trong sương (ĐHN)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Viết thêm:

Lâu lâu mới có dịp về Phước Bửu, Xuyên Mộc nên mình đã không quên đưa mấy người bạn ra hồ Bà Tô uống cà phê và nước dừa tuyệt ngon (trước khi vào buổi Giao lưu mừng tuổi anh Trụ Vũ).

Hình từ trái: Đoàn Văn Điện, Hạnh Phương, Đỗ Hồng Ngọc, Võ Văn Thành.

Gởi hình cho nhớ nhe.

 

Filed Under: Ghi chép lang thang, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Trần Doãn Nho: Lạnh lùng Texas!

25/02/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Lạnh lùng Texas!

Trần Doãn Nho

 

Ghi chú: Sáng nay tôi nhận được email của anh Trần Doãn Nho, kèm bài viết rất cảm động này của anh về những ngày “Lạnh lùng Texas” nên đã xin phép anh post lại, chia sẻ cùng bạn bè.

Anh Trần Doãn Nho ơi,

“Thật không tưởng tượng nổi. Còn nhiều gia đình chắc khốn khó hơn! Đọc mà cứ sợ tuyết làm kẹt xe anh đang chạy ngoài đường lúc tìm xăng, đọc mà thấy anh đã gần “ngộ” như một tu sĩ khi chẽ tượng Phật bằng gỗ đang thờ trong chùa để đốt sưởi ấm… 

Và đặc biệt đoạn này:

Khung cảnh nhỏ bé này đẩy tôi lùi về hàng chục thập niên trước, bắt gặp lại hình ảnh tưởng như đã đi vào quên lãng: bếp lửa gia đình. Chao ôi, cái thời xa xưa ấy! Không bếp điện, bếp ga, không nồi cơm điện, không soong, không chảo. Thế giới kỹ nghệ chưa có mặt trong bếp lửa. Tất cả dụng cụ và đồ đạc nấu nướng đều toàn bằng đất sét: ba cục gạch nung châu vào nhau, nồi đất, siêu đất, trách đất. Ngay phía trên bếp là một cái giàn treo chất những cành, nhánh phơi khô để dành từ mùa nắng. Chung quanh bếp, tro than vương vãi. Khói bốc lên làm đen cả phần vách đất che tạm tránh gió, đen hết trần nhà, đen cả cái cụi (tủ) gỗ đựng thức ăn. Sờ tay vào đâu cũng dính phải bồ hóng đen nhẻm. 

Anh nhớ “… ơi bếp hồng sưởi ấm, bếp hồng tươi…” không? (Về dưới mái nhà).

Anh làm tôi nhớ thời trên giàn bếp luôn treo tòng teng bao nhiêu là bó bắp khô, và cả các thứ khác để hong khói… với một bồ lúa bên cạnh để tránh mối mọt của nhà bà Ngoại tôi hồi đó…

(ĐHN)

………………………………………………………..

 

Lạnh lùng Texas

Trần Doãn Nho

Cứ hễ đến cuối năm, mỗi người lại thắp lên niềm hy vọng khi nhìn về những tháng ngày trước mặt: Năm Mới. “Mới” là an khang thịnh vượng, là phát tài phát lộc, là vạn sự như ý, là hạnh phúc, là bình an. Giữa tang thương đại dịch, “Mới” còn là một ước mơ “cháy bỏng”: được sống lại cái “bình thường” của ngày tháng cũ, lúc mà chuyện giãn cách xã hội hay khẩu trang hay vân vân không hề có chỗ đứng trong cuộc sống hàng ngày. Mới mà cũ!

Ấy thế mà, vừa bước ra khỏi năm Canh Tý có ba ngày thì toàn tiểu bang Texas lần này được “thưởng thức” một cái “Mới” rất cũ và tràn đầy tai ương: bão mùa đông (winter storm). Có nơi thì là “bão tuyết” (snow storm), có nơi thì là “bão đá” (ice storm). Gần như suốt ba, bốn ngày, từ đêm Chúa Nhật (14/2) đến thứ Tư (17/2), Texas trở thành Bắc Cực. Bão tuyết, vốn đã là điều hiếm hoi ở tiểu bang thuộc vùng nhiệt đới này (nơi mà mùa hè, nhiệt độ lên đến 110 độ F/43 độ C) mà bão đá (ice storm) lại càng lạ hơn. Bão đá, hay đúng hơn “bão nước đá”, là một tiến trình thời tiết đặc biệt diễn ra khi những bông tuyết từ trên cao rơi qua một vùng ấm, biến thành mưa; những hạt mưa này gặp phải lớp không khí “supercooling” (siêu lạnh, nhiệt độ dưới 32 độ F) ở gần mặt đất, chuyển thành “freezing rain” (mưa đông đá). Đó là những hạt mưa bị đông lại nhưng vẫn còn dưới dạng lỏng và khi những hạt mưa này đột ngột va chạm mạnh vào các bề mặt (surfaces), chúng liền chuyển biến ngay thành nước đá  tạo nên một lớp vỏ càng lúc càng dày thêm bọc quanh các vật thể như thân cây, cành nhánh, dây điện, cột điện, hàng rào kim loại. Theo ước tính của những nhà khí tượng học, đường kính của những dây cáp điện bọc nước đá có thể dày đến 5 cen-ti-mét. Như thế, chúng nhận thêm khoảng từ 15 đến 30 kilogram trên một mét chiều dài. Sức nặng đó cộng thêm với gió và cây ngã đè thêm lên, khiến chúng không chịu đựng nổi, đứt ngang, làm xáo trộn hoặc cắt đứt toàn bộ hệ thống cung cấp điện.

Tôi cư ngụ ở một thành phố nhỏ thuộc quần thể đô thị Dallas-Fort Worth, miền Bắc-Texas. Vùng này, may mắn, không có bão đá, chỉ có bão tuyết. Nhưng lạnh là lạnh. Quá lạnh. Gần một tuần lễ, nhiệt độ chỉ quanh quẩn từ 25 độ F (âm 4 độ C) trở xuống, nằm dưới mức đông đá. Và trong vòng mấy ngày từ Chúa Nhật (14/2) đến thứ Ba và thứ Tư (17/2), nhiệt độ ban đêm và sáng sớm tụt xuống từ 1 đến 5 độ, có lúc chỉ còn 0 độ F (-18 độ C). Tất cả cuộc sống hoàn toàn bị đông cứng.

Sáng thứ Hai, đang còn ngái ngủ, thì điện phụt tắt. Qua trang mạng của thành phố, thì được biết, công ty điện lực quyết định thi hành biện pháp “rolling blackouts” (cắt điện luân phiên) để tiết kiệm năng lượng nhằm đối phó với đợt giá lạnh kéo dài nhiều ngày. Mỗi khu vực sẽ lần lượt bị cắt điện từ 30 phút đến một giờ. Tôi yên tâm, lần lượt làm một số công việc cần thiết để giữ hơi ấm trong nhà: chèn các khe hở ở các cửa lớn, cửa sổ, đóng hết các phòng không sử dụng, đốt đèn cầy để ở nhiều nơi, nấu nhiều nồi nước sôi…Nhưng rồi một giờ trôi qua, hai giờ trôi qua, điện vẫn chưa trở lại. Gọi điện thoại qua đường dây khẩn cấp của thành phố, đường dây liên tục bận.  Ba giờ rồi bốn giờ, vẫn không có gì. Không điện, không vào được Internet. Lại gọi điện thoại, nhưng lần này điện thoại hết pin. Làm sao giờ đây? Sực nhớ điện xe hơi, liền vội vàng mặc ba, bốn lớp áo lạnh, bươn bả lội tuyết ra xe. Cắm dây, bật máy. Chao ơi, xe cạn xăng. Không cần suy nghĩ, vội vàng lái xe đi. Tuyết rơi càng lúc càng nhiều. Đường lầy lội, trơn trợt. Đèn giao thông ngừng hoạt động. Không điện, các trạm xăng đóng cửa. Đành phải chạy tiếp đến khu thương mại khác, vừa chạy vừa lo xe hết xăng dọc đường. Thấy có trạm xăng lớn mở, mừng quá, chạy vào, nối đuôi, chờ. Nhưng khi đến phiên mình, trạm hết xăng. Lại chạy tiếp. May làm sao, rốt cuộc, cũng tìm ra một trạm xăng nhỏ, đổ đầy bình.

Trở lại nhà, điện vẫn còn cúp. Đã sáu tiếng đồng hồ rồi. Không khí lạnh tràn đầy căn nhà, thấm dần vào cơ thể. Mất điện, tất cả trở thành vô ích và vô dụng. Mất điện, con người hoàn toàn bị cô lập. Tôi ngao ngán nhìn không gian rộng rãi của căn nhà. Về mùa hè, cái rộng, cái thoáng chia đi cái nóng. Bây giờ, cái rộng cái thoáng cướp mất cái ấm. Đành phải đốt lò sưởi lên thôi. Cũng may, đây là lò sưởi dùng gas, và hệ thống cung cấp gas vẫn còn hoạt động. Từ ngày chuyển về ở căn nhà này, thấy lò sưởi lớn nằm ngay giữa phòng khách, đôi lúc tôi tự hỏi chẳng biết ở xứ nhiệt đới như thế này, xây thêm lò sưởi để làm gì, vừa choán chỗ vừa mất thẩm mỹ. Nhưng lúc này đây, nó là cứu tinh. Cái vô dụng trở thành hữu dụng.

Châm lửa. Ba ngọn lửa cháy phừng phực, hòa cùng ánh sáng mấy cây đèn pin cắm trại (camping lanterns), sáng cả một góc nhà. Cả nhà quây quần trước lò, chia nhau hơi ấm. Nhưng sau những phút sung sức lúc đầu, ba ngọn lửa dịu lại, yếu dần đi. Hơi nóng tỏa ra chỉ đủ ấm khi ngồi gần. Xa một chút, lạnh vẫn hoàn lạnh. Thế là, phải chạy ra vườn sau, vườn trước bắt đầu vơ vét hết tất cả những cành, nhánh, gốc cây nằm vương vãi suốt mùa hè, mang vào. Ba đứa cháu giành nhau ném từng khúc củi vào lò. Củi ướt quằn quại bắt lửa, kêu lách tách. Được tiếp sức, lửa bừng bừng reo vui. Lửa nhuộm hồng da thịt. Lửa tỏa hơi ngào ngạt ấm. Bọn trẻ vừa chơi bài, vừa đọc, vừa ăn uống, cùng nhau thưởng thức cái ấm cúng rất gia đình hiếm khi có được. Tôi cảm động nhìn lò sưởi, như được gặp lại cố nhân. Chả là, mười ba năm trước đây, khi còn ở xứ lạnh Boston, gia đình chúng tôi cũng đã từng quấn quýt nhau ba ngày ba đêm trước lò sưởi như thế này, khi cơn bão đá dữ dội trút xuống tiểu bang Massachusetts vào năm 2008. Khung cảnh nhỏ bé này đẩy tôi lùi về hàng chục thập niên trước, bắt gặp lại hình ảnh tưởng như đã đi vào quên lãng: bếp lửa gia đình. Chao ôi, cái thời xa xưa ấy! Không bếp điện, bếp ga, không nồi cơm điện, không soong, không chảo. Thế giới kỹ nghệ chưa có mặt trong bếp lửa. Tất cả dụng cụ và đồ đạc nấu nướng đều toàn bằng đất sét: ba cục gạch nung châu vào nhau, nồi đất, siêu đất, trách đất. Ngay phía trên bếp là một cái giàn treo chất những cành, nhánh phơi khô để dành từ mùa nắng. Chung quanh bếp, tro than vương vãi. Khói bốc lên làm đen cả phần vách đất che tạm tránh gió, đen hết trần nhà, đen cả cái cụi (tủ) gỗ đựng thức ăn. Sờ tay vào đâu cũng dính phải bồ hóng đen nhẻm.

Hết củi, lò lửa yếu dần. Giật mình, trở lại với hiện thực. Đã gần một ngày trôi qua, điện vẫn bặt vô âm tín. Căn nhà mỗi lúc một lạnh hơn. Tuyết vẫn rơi. Thời tiết càng lúc càng lạnh, từ 0 (không) độ vào buổi sáng nhích lên bảy, tám độ. Đốt lò sưởi lên, cũng chỉ là để chờ đợi điện. Điện không có, đành phải sống với lò sưởi thôi, không còn chọn lựa nào khác. Tôi cùng đứa con lại chạy quanh kiếm củi. Không còn gì ngoài vườn, chúng tôi phải lục trong kho. Nhặt nhạnh bất cứ cái gì có thể đốt được, từ những thanh gỗ nằm lăn lóc đâu đó cho đến mấy tấm pallet, ghế cũ, bàn cũ, rồi cả giường cũ. Rút kinh nghiệm, chúng tôi tằn tiện từng khúc, từng miếng. Suốt đêm, cả nhà nằm quanh lò sưởi, ai nấy quấn chặt vào người năm, bảy lớp vừa chăn, mền vừa áo quần và túi ngủ. Đêm dài trôi qua lạnh lẽo, căng thẳng. Nhìn ánh lửa bập bùng trong lò sưởi như nhìn hơi thở của chính mình. Củi, điện, điện, củi. Điện, củi là năng lượng, là cuộc sống.

Hôm sau, vừa thấy trời hửng sáng là vội vã đi kiếm củi. Lái xe chạy loanh quanh, hết cửa tiệm này đến cửa tiệm khác, từ siêu thị cho đến Home Depot, Lowe’s. Chẳng còn gì. Tuyệt vọng, trở về nhà. Nhìn quanh nhìn quất, chỉ còn một cái nhà chơi trẻ con khá lớn dựng sau vườn. Thế là, khỏi cần suy nghĩ, chúng tôi tháo, chặt ngay ra từng khúc mang vào đốt. Nhà chơi rồi cũng biến thành tro bụi! Buổi trưa, lại lái xe chạy quanh; lần này đi xa hơn, đến các nông trại ngoài thành phố. Không kiếm được gì. Hết đường, chúng tôi trở lại Home Depot chọn giải pháp cuối cùng: mua hàng chục thanh gỗ làm nhà (lumber), yêu cầu họ cưa ra từng khúc ngắn. Trong tình thế này, gỗ nào cũng là gỗ. Gỗ nào đốt cũng cháy. “Lumber” là “firewood”. Gỗ là củi. Lửa, lửa là tất cả! Chỉ có lửa mới chống được lạnh.

Lò sưởi lại được dịp cháy phừng phực. Đốt gỗ mà như đốt tiền.

Mãi đến tối, sau hai ngày và một đêm căng thẳng, điện mới trở về. Có điện, có sự sống.

Hỡi điện thân thương, ta yêu mi biết chừng nào!

 

TDN

(Đầu năm Tân Sửu, 2021)

 

Filed Under: Ghi chép lang thang, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

Thư gởi bạn xa xôi (Tân Sửu, 2021)

12/02/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Năm mới, tháng Giêng, Mùng một Tết

Còn nguyên vẹn cả một mùa Xuân…

(Nguyễn Bính)

Ghi chú: Nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp ở bển (chữ TVL) có nhã ý mời ĐHN viết một bài cho báo TRẺ, Xuân Tân Sửu 2021. Loay hoay mãi, không biết viết gì đây, thời gian lại gấp rút, lòng cũng muốn góp một chút gì đó cho vui với bạn bè, bèn thôi, trích đoạn những ghi chép lang thang đây đó gởi làm quà, như nhắc nơi xa một chút tình quê…

ĐHN.

 

Thư gởi bạn xa xôi

Lang thang mấy ngày Tết

 

Bạn nhớ đúng rồi đó. Đó là mấy câu trong bài thơ Mũi Né của mình viết năm 1970, đã đăng trên báo Bách Khoa thời đó, tính ra cũng đã nửa thế kỷ rồi chớ ít gì! Mới thôi.

Em có về thăm Mũi Né không?

Hình như trời đã sắp vào xuân

Hình như gió bấc lùa trong Tết

Những chuyến xe đò giục bước chân…

(…)

Mũi Né ơi người xưa đã xa

Mùa ơi gió bấc nhớ không ngờ

Năm nay người có về ăn Tết

Có ngậm ngùi nghe chút ấu thơ…

(ĐHN, 1970) 

Gió bấc. Nhớ không? Thứ gió rất lạ, thốc qua người, dán sát vào da người như có chút hỗn xược ớn lạnh làm nhớ cơn sốt rét rừng thường thổi mạnh trong Tết, quyện với hương cốm hộc, mứt gừng, mứt bí… rồi bánh căn, bánh xèo, bánh kẹp, cơm gà, bánh canh chả cá… của một vùng biển mang mang mùi nước mắm, những ai nghe quen thì đâm ghiền nặng… rồi sông Cà Ty, ga Mường Mán, con đường Gia Long đi mãi không cùng, và Trưng Trắc Trưng Nhị ôm sát dòng sông. Nhớ không?

Cho nên với mình, gió bấc là gió Tết, là tuổi thơ, là Phan Thiết, là Mũi Né, là Rạng, là Lagi, là Kê Gà, là Tà Cú…

Mùa xuân mừng tuổi thơm tho áo

Nắng cũng vàng phai ngày cũng xa

Anh thương nhớ quá làm sao nói

Gọi tên em vang động gốc cây già

Hái đóa hoa màu biển biếc

Chợt thương khung trời xa

Núi mờ trong mây trắng

Em mờ trong dáng hoa

Gió bấc mùa thơm ngát

Bâng khuâng một mái nhà

Biển xanh lùa sóng bạc

Cát vàng hoàng hôn xưa…

(…)

(Quê Nhà, Đỗ Hồng Ngọc)

Vậy đó. Cho nên về Phan Thiết, Mũi Né, La Gi… mấy ngày chẳng qua để tìm thứ gió quen mà lạ đó. Và để nghe cái Tết tuổi thơ thấm vào trong da thịt, trong nhớ nhung…

Phải khởi hành sớm. Lang thang mà. Đi quốc lộ 51 về hướng Bà Rịa, Vũng Tàu, đến xã Tóc Tiên thì quẹo trái vào thăm Thiền viện Viên Không núp sau một hòn núi nhỏ. Con đường quanh co len chân núi Dinh, lát đá thô rất đẹp, thỉnh thoảng có ao bông súng nhô ra. Những ngôi tịnh xá mọc rải rác, len lỏi giữa rừng cây thưa.

Rời thiền viện, xe qua cánh đồng cỏ mượt có những bầy cừu trắng rất dễ thương, .  cùng mấy con ngựa nhởn nhơ làm nhớ quá cảnh “thả ngựa chăn dê” thuở nào xa trên thảo nguyên… của Kiều Phong với A Châu!

Qua Bưng Riềng, vượt khu rừng Nguyên sinh từng có nhiều voi, cọp… ngày xưa. Ghé ăn sáng, cafe ở quán Vên Vên nhiều cây cao bóng cả, suối róc rách, gặp vị chủ nhân ngồi thiền mòn tảng đá bên bờ suối…

Rồi theo đường biển Hồ Tràm, Suối Nước Nóng, Láng Găng, Rừng Khỉ, qua Phò Trì ghé bãi Cam Bình, ở đó, nếu có thì giờ, làm một chuyến xe bò dạo biển cũng hay!

Đến La Gi (Bình Tuy xưa) thì phải tạt qua Đập Đá Dựng để biết tại sao đá lại dựng đứng như vậy. Ngồi đó, nhấm nháp cafe bên dòng sông Dinh tung tóe nước và nghe mình kể chuyện hồi nhỏ tắm truồng cùng bè bạn trên dòng sông này.

Từ đó, đi ngang Bàu Giòi về Dinh Thầy Thím hoặc đi dọc biển, ngang khu vực Nước Nhỉ, nơi có Giếng Nguồn Chung xưa của nhóm hướng đạo La Gi (giờ chẳng còn dấu vết!). Ghé Dốc Trâu ăn trưa. Ôi vô số là thuyền thúng. Xa xa là Hòn Bà.

Về Tam Tân, ghé thăm mộ Nguiễn Ngu Í. Đã thấy núi Tà Cú xa xa với Linh Sơn Trường Thọ Tự, nổi tiếng với tượng Phật nằm dài 49m được đặt từ năm 1960.

Từ đó, đi về hướng Kê Gà, có Hải đăng xưa nhất, cao nhất vùng nam Trung bộ này. Đường dọc biển qua vùng Đá Nhảy. Đá cứ nhảy chồm chồm lên mới lạ chứ! Đá “nhảy” thế nào mà cũng sinh nhiều đá con bò lổm ngổm?

Đến Phan Thiết rồi đó. Đừng quên bánh căn. Đừng quên chè Mộng Cầm. Đừng quên dốc đá có “Lầu Ông Hoàng đó…” (Trần Thiện Thanh) nhe.

Từ Phan Thiết, theo quốc lộ 28, qua Ma Lâm, leo đèo lên Đà Lạt chỉ hơn trăm cây số. Đà Lạt giờ lạ lắm “phố phường chật hẹp người đông đúc”. Hết rồi cái thuở “… thành phố nào vừa đi đã mỏi/ đường quanh co quyện gốc thông già…” (Lam Phương). Nhưng rốt cuộc mình cũng tìm được một nơi hẻo lánh. Suối Vàng có làng Cù Lần cũng ngộ.

Lúc mẹ mình còn sinh tiền, bà hay nói mình cù lần, “ngu nhất thiên hạ”, mình cãi, con chỉ dám “ngu hạng nhì” thôi! Rồi hai mẹ con “tranh luận” sôi nổi. Mình làm vậy thực ra là để cho bà có dịp luyện tập não bộ, đừng để sớm bị Alzheimer. Ái ố hỷ nộ… quý biết mấy bạn ơi!

Chiều lang thang ra bờ hồ Xuân Hương. Chút lòe loẹt. Chút diêm dúa. Thời thượng. Thôi kệ.

Một gánh hàng rong bán đủ thứ từ khoai nướng, bắp nướng… đến các thứ lai rai trên đời… Một con ngựa lơ ngơ. Anh xà ích hít thở. Mình mua mấy củ khoai nướng. Chị hàng rong dễ thương, gói cho mấy củ… Mở ra thấy toàn cháy đen cháy khét. Thì ra từ sáng giờ không bán được cho ai. Mình vừa đi vừa nhai vừa cười tủm tỉm. Chắc chị đang vui vì gặp ông cù lần. Mình vui vì chị vui. Thú vị bất ngờ là mình cũng đang cần một chút charcoal cho ấm bụng. Tối qua bị… Tào Tháo rượt. Ở đời, vậy đó bạn ơi!

Rời Đà Lạt, mình “xuống núi”. Về Miền Tây. “…Có ai về miền tây/ lúa mùa thơm, thơm mãi/ dừa xanh nghiêng chênh chếch/ cá ngược dòng sông đầy…/ Có ai về miền tây/ mái nghèo nhưng mà đẹp/ má gầy nhưng mà xinh… (Y Vân). Nhớ không?  .

Lần này đi Lai Vung. Lai Vung không chỉ có nem nổi tiếng mà còn có quít hồng rất đẹp. Đặc biệt vào mùa Tết.

Sadec thì mình đi lại đã nhiều lần, qua Lai Vung chỉ dừng ăn Nem chớ chưa lần nào vào sâu trong vườn quít.

Ghé Mỹ Tho trước. Ra tận bờ sông Tiền ăn hủ tiếu Mỹ Tho thứ thiệt vừa ngắm dòng sông Cửu Long. Nhớ Trang Thế Hy, xưa ở bên kia cầu Rạch Miễu, từng có một truyện ngắn Mỹ Thơ rất hay và bài thơ Quán Bên Đường độc đáo (Phạm Duy phổ nhạc) !

Rồi ghé thăm khu Di tích Rạch Gầm – Xoài Mút, nơi Quang Trung đại phá quân Xiêm. Dọc theo tả ngạn sông Tiền về phương Nam, hướng Cai Lậy, Cái Bè, giữa những khu vườn cây trái xum xuê Vĩnh Kim, với nhiều quán lá đơn sơ bày bán trái cây các loại. Chưa có vú sữa, xoài, măng cụt… nhưng nhiều sa-pô-chê, sầu riêng cũng rất ngon.

Qua cầu Mỹ Thuận quẹo phải thì về Sadec. Đi ngang Nha Mân, vùng nổi tiếng con gái rất đẹp. Theo truyền thuyết thì vua Gia Long lúc còn bôn ba vùng này đã “bỏ” lại nhiều mỹ nữ (lúc đó chưa gọi là phi tần!).

Ủa mà sao chẳng thấy người nào đẹp nào hết trơn vậy? Mình hỏi. Mấy người đẹp ở trong vườn chớ ai đứng đây cho ông thấy! Ai đó lên tiếng.

Từ Sadec về Lai Vung khoảng mười cây số, từ đó đi sâu vào tận xã Long Hậu, ngang chợ Long Thành, dọc theo những dòng kênh chằng chịt. Vùng này Long nhiều quá. Địa danh toàn Long. Thì ra vì vua Gia Long từng bôn ba ở đây khá lâu, cho nên vùng này bây giờ con gái… cũng rất đẹp! Xe quanh co qua mấy cây cầu ngang hẹp lé, một loại cầu khi… mở rộng, vừa đủ cho một chiếc xe lắc lư. Con kênh chính Long Hậu đây rồi. Kênh Cán Cờ. Sao lại cán cờ? theo Sơn Nam (?) thì lúc chạy đến đây, vua Gia Long bị gãy cán cờ, phải thay cán mới!

Anh Hai Quan, chị Bạch Huệ, là những người bạn thân thiết của Thân Trọng Minh. Sau bữa cơm… thịnh soạn, mọi người mời nhau xuống thuyền dạo chơi. Một trận mưa như trút nước. Có áp thấp nhiệt đới sắp thành bão. Mình không dám đi. Thuyền đi được một lúc rồi cũng phải vội quay về. Nhớ năm xưa, mình từng đi thuyền trên sông Hương, nửa chừng thuyền lủng lổ, nước vào ào ào. May kịp lội lóp ngóp vào bờ phía Kim Long. Lần đó có Thái Kim Lan, Tôn Nữ Hỷ Khương, Tường Vân, Như Mai, Như Ngân, Lê Gia Phàm… Ôi, nhớ đời.

Bữa cháo gà chiều rất ngon. Mấy ông bạn mình nói “nhớ nhà” quá, bèn xách ghế ra sân… hút thuốc! Thì ra “Nhớ nhà châm điếu thuốc”… là vậy!

Hôm sau đến giờ phải lên đường vì còn ghé thăm mấy nơi ở Sadec. Thăm chùa Kim Huê, xưa thầy Thích Trí Tịnh từng trú ngụ mấy năm, thăm ngôi nhà “Người Tình” của  Huỳnh Thủy Lê bên bờ Sa giang.

Trên đường về ghé Xẻo Mây ở Cái Bè. Một điểm khá đẹp. Ở vùng này, nhiều “Xẻo”, chỗ sông ăn sâu vào trong đất liền thành một cái vũng (mà ở biển thì gọi là vịnh?). Cái Bè có Xẻo Mây, Đồng Tháp có Xẻo Quít…

Mua mấy trái sầu riêng bán ven đường rồi ghé vào một quán nhỏ ở ngã ba sông mà nhìn dòng nước chảy… Một người đàn ông đứng tuổi trên chiếc ghe thương hồ đậu gần đó cỡi trần nhảy ùm tắm táp, xong leo lên thuyền mở bánh tét ra ăn bên cạnh chai rượu đế và một bình hoa vạn thọ…

Về Saigon lại nhớ gió bấc: Đi giữa sài gòn/ Phố nhà cao ngất/ Hoa nở rực vàng/ Mà không thấy tết/ Một sáng về quê/ Chợt nghe gió bấc/ Ơ hay xuân về/ Vỡ òa ngực biếc…(ĐHN). Lại chuẩn bị một chuyến về Mũi Né, La Gi…

Vậy đó bạn ơi.

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc

(TRẺ, Xuân Tân Sửu 2021)

 

 

 

Filed Under: Chẳng cũng khoái ru?, Ghi chép lang thang, Vài đoạn hồi ký

LaGi, chốn xưa

07/02/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

 

LaGi, chốn xưa

Đỗ Hồng Ngọc

Từ Saigòn, theo quốc lộ 1 về Phan Thiết, cách Phan Thiết khoảng 50 cây số, rẽ phải, về phía biển Đông là thị xã Lagi (trước thuộc huyện Hàm Tân), tỉnh Bình Thuận. Như một cái túi treo tòng teng trên quốc lộ 1, không để ý thì khó mà nhận ra, Lagi – Hàm Tân dựa lưng vào núi, hướng mặt ra biển, gắn Bình Thuận với Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu, nối liền núi đèo cheo leo hùng vĩ của miền Trung với đồng bằng cây ngọt trái lành của miền Nam nên Lagi vừa có núi cao, có biển rộng, lại có ruộng đồng xanh mướt, sông Dinh ngoằn ngoèo lững lờ theo con nước đầy vơi bên những động cát trùng điệp, những truông đèo hoang sơ huyền bí…Xa xa là Hòn Bà, một cù lao nhỏ chơ vơ bơi lạc giữa biển khơi, như còn đang vẫy tay về phía Núi Ông lạnh lẽo phía dãy Trường Sơn xa tít: Chuyện xưa rằng phút yếu lòng/Tách mình đứng giữa mênh mông đất trời/ Để nghe gió lộng trùng khơi/ Và nghe sóng mãi hát lời thiên thu (Thanh Trúc)

Nhiều người vẫn bỡ ngỡ sao lại Lagi? Có người cho là Phân Ly- do sự tích Hòn Bà chia tay cùng Núi Ông, một mình trôi dạt về biển – mà thời Tây người ta đã đọc trại đi thành địa danh Lagi bây giờ? Hỡi em Lagi là gì? Là thiên di thuở hàn vi đất trời? (Phạm Tường Đại). Tôi thì không nghĩ vậy. Hẳn Lagi phải có họ hàng gì đó với dòng họ La, nào La Ngà, La Ngâu, La Gàn… của vùng miền này, nối liền Đồng Nai, Lâm Đồng, Bình Thuận, cùng một giuộc đất từ thuở cha ông đi mở nước còn lưu dấu. Nhưng dù có “La” gì đi nữa thì Lagi – một vùng đất nghèo nàn hẻo lánh đó vẫn như một “vương quốc” cho những hồn thơ với núi non hùng vĩ, ruộng đồng bát ngát, sông nước lững lờ, Đá Dựng nên thơ, Đồi dương vi vút với bãi cát mênh mông đầy rau muống biển và lông chông vèo vèo giữa mùa gió lộng dưới nắng vàng rực rỡ, mặn nồng. Đêm đêm, những chiếc thuyền thúng câu mực lập loè như những thiên hà xa xôi … Một miền quê nghèo mà tươi ngon ai đến cũng gần, ai đi cũng nhớ : Là muôn chim đến hội bày/ Xây thành tổ ấm từ ngày hoang sơ/ Là con thuyền chở ước mơ/ Vượt phong ba đến bến bờ vinh quang (Phạm Tường Đại). Lagi còn có những đình miếu, cổ tự quằn theo tháng năm, những nóc giáo đường cao vút giữa hoàng hôn và những chốn linh thiêng như Dinh Thầy Thím nườm nựơp kẻ đi về, trên đường lên Tà Cú, Kê Gà. Cho nên không thể không thành thơ. Cho nên không thể không thành nhạc. Có lẽ là từ thuở cha ông khai sơn phá thạch, Lagi đã là một nơi sớm hình thành những nhóm thi ca tài tử, và một thi xã, Lagi Thi xã, đã ra đời gần trăm năm trước bây giờ vẫn còn đọng lại những vần thơ tao nhã của người xưa. Cho nên không lấy làm lạ là hôm nay được tiếp nối với Câu lạc bộ thơ ca Lagi hoạt động khá sôi nổi, không chỉ khu trú mà còn mở rộng giao lưu với các Câu lạc bộ thơ ca của Vũng Tàu, của Thành phố Hồ Chí Minh tạo thành một không khí đầm ấm của một vùng đất cổ xưa mà luôn mới mẻ…

Tôi sinh ra và lớn lên ở Lagi, tuổi thơ thả diều đá đế, tắm sông trần truồng cùng bè bạn, đen đẻm vì ngâm nước biển mặn, đuổi bắt còng gió bỡ hơi tai, nửa đêm chờ cá lưới sẩm, ruốc tươi xào xúc bánh tráng rau sống, rồi cá nục hấp, cá mòi nướng, cá ngoéo luộc với thứ ớt cay xé họng, thơm lừng… Rồi là những năm tháng lao đao tản cư trong rừng sâu nước độc, sốt rét triền miên, hết Phò Trì, đến Giếng Ngự, Láng Hàng, Bưng Riềng, Rừng Khỉ, rồi Hồ Tôm, Bàu Lời, Nước Ngọt, Ba Hòn, Bưng Cò Ke… Cho nên làm sao mà không rưng rứt với những câu thơ của một Trần Yên Thảo: Thương ai từ dạo tản cư/ Mắt nhìn đắm đuối mà như hửng hờ/ Thuỷ chung còn tới bây giờ… hay một Cao Hoàng Trầm: Những ngày Phước Lộc Hàm Tân/ Bom thù dội nát bao lần hoang sơ/ Đình chùa giặt đốt chơ vơ/ Tuổi xanh mang cả ước mơ lên đường…

Rời quê hương gần nửa thế kỷ, Lagi vẫn là nơi tôi thường tìm về vì ở đó còn là mồ mả ông bà và người cha thân yêu, ở đó còn có những thân quyến và bè bạn từ ngày thơ dại. Lagi, nơi tôi biết dõi mắt nhìn theo những tà áo mà bâng khuâng, để rồi như một Hứa Minh Tánh: Hình như trong biển có em/ Cho nên giọt mặn giọt mềm môi anh… để rồi Hình như chỉ hình như thôi/ Cớ sao cuối đất cùng trời xôn xao… Bỗng dưng hôm nay đựơc bạn bè ở quê hương gởi cho tập bản thảo thơ, Biển Hát, mà bảo viết đôi lời. Tôi đọc thơ mà như không đọc. Tôi thả lòng mình trôi giạt vào thơ. Bởi chỉ mới nghe những địa danh thôi mà lòng đã rưng rưng, tôi làm sao còn có đủ sáng suốt để đọc thơ của bạn bè, cha chú, lớp trước lớp sau, người quen kẻ lạ. Cứ mỗi một dòng chữ viết tay nắn nót (bản thảo chép tay) lại hiện lên trong tôi sông ngòi biển cả, rừng núi ao hồ, trưa hè nắng cháy nhảy ùm xuống sông Dinh, đập Đá Dựng, những ngày mưa lũ, nước cuốn trôi phăng cả nhà cửa trâu bò. Tôi cứ để lòng mình nhảy ùm như thế, cuốn trôi như thế khi đọc Biển Hát. Cả một dĩ vãng ùa sống lại. Rồi Lagi của bây giờ tôi mỏi gót qua cũng lạ như một Trần Kim Trung: Xóm nhỏ ngày nào tôi vẫn quen/ Hôm nay rực rỡ dưới hoa đèn/ Phố chiều mỏi gót qua cũng lạ/ Đường mới rộng dài xe bước chen hay như lời thì thầm của nhà thơ Hoàng Hương Trang, người khách “viễn phương” mới đặt chân tới Lagi đôi lần cũng đã kịp nhận ra: Biết bao điều muốn nói/ Vỏ ốc giữ trong lòng/ Biết bao điều thì thầm/ Vỏ ốc ơi giữ lấy!

Saigon có xa cách gì với Lagi đâu, vậy mà những người Lagi sống ở Saigon vẫn canh cánh bên lòng nỗi nhớ quê: Đêm đêm vỗ mộng về quê mẹ/ Nhặt nắng chiều hoang tắm biển xuân (Châu Anh). Lạ lùng biển mặn trời xanh có cái gì đó da diết, ray rứt, cứ như chất muối ngấm dần trên sớ thịt lằn da, và gió bấc nữa, gió bấc lạ kỳ chỉ nghe thôi đã thấy mùi cốm Tết, nhất là khi gió bấc thổi qua những cánh bướm tan trường. Nhớ nghĩ về Lagi, tôi bàng hoàng đọc Trần Yên Thảo: Hãy còn dáng đứng kiêu sa/ Đường truông thăm thẳm về qua Đá Hàng/ Trăm năm đâu đã muộn màng/ Ta còn ôn lại chuyện ngàn năm xưa.

Đỗ Hồng Ngọc

………………………………………………………………….

 

 

 

 

 

 

 

Filed Under: Ghi chép lang thang, Già ơi....chào bạn, Vài đoạn hồi ký

Thư gởi bạn xa xôi (1.2021)

25/01/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Thư gởi bạn xa xôi 

Những ngày gần Tết

Bạn biết đó, gần Tết thì mình cũng thường lu bu. Thứ tư 20.1.2021 thay vì Nhóm Học Phật của bọn mình có buổi học kinh Lăng Già như thường lệ thì mình đề nghị đi thăm Tu viện Khánh An của Thầy Trí Chơn ở quận 12. Các bạn “OK” ngay.

Xin gởi vài hình ảnh như thường lệ thôi nhe.

Tu viện Khánh An, Quận 12. (ảnh Internet)

 

Đây là ngôi chùa mình đã có dịp đến trò chuyện với quý vị Phật tử vài lần. Một lần về Thiền và Thở dưới góc độ khoa học, một lần về Ăn và Chay trong “Một ngày sống tỉnh thức” được tổ chức hàng tháng tại Tu viện. Các đề tài này đã được quay video clip đưa lên youtube để chia sẻ rộng rãi đến bà con.

 

Thầy Trí Chơn tiếp mọi người ở nhà Thanh Lương, và mọi người đã có một buổi trà đàm thân mật nhân có thầy Mãn Pháp từ Hà Nội vào.

 

Ngoài Nhóm Học Phật còn có các bạn trẻ của Lớp Phật học & Đời sống cùng nhóm của Phật tử Lệ Mai (đệ tử thầy Trí Chơn) tham dự.

 

Mình đưa các bạn đi thăm Ao sen rất đẹp của Tu viện. Đã có lần Thầy Trí Chơn đích thân chèo thuyền cho mình đi dạo trên hồ sen…

 

…Và một cung đường thiền hành quanh hồ ngập hoa vàng… mùa Tết.

 

Một tấm hình kỷ niệm chuyến về Khánh An  (20.1.2021).

 

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc.

(25.1.2021)

 

 

Filed Under: Ghi chép lang thang, Gì đẹp bằng sen?

Thư gởi bạn xa xôi (1.2021)

23/01/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Thư gởi bạn xa xôi (1.1.2021)

Năm nào cũng vậy, Tết (tây) là mình đi một vòng, lang thang đây đó một chút để “thay đổi không khí”, mặc dù bây giờ ở cái tuổi này thì… ngày nào cũng là Tết.

Như bạn đã căn dặn, làm biếng viết thì cũng nên chia sẻ mấy tấm hình coi cho vui. Vậy nha.

Trưa 1.1.2021 về đến Lagi. Cafe với các bạn văn thân thiết quê nhà…

 

Nhà thơ Trần Kim Trung, 91 tuổi, vài ba năm gần đây, năm nào cũng in vài tập thơ. Anh nói, nhờ có thơ mà anh sống… dai và vui khỏe vầy!

 

 

 

 

Rồi ký tặng sách cho nhà thơ Cao Hoàng Trầm…

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Và Thái Anh, Dũng Nguyên, Đỗ Ái Liên…

Gặp Huỳnh Thục Oanh, tác giả bài “Thăm Nước Nhỉ, nhớ Nguien Ngu I, một cây viết trẻ đầy tiềm năng của quê nhà.

Phan Chính đang ở Nha Trang. Lê Ngọc Trác bận đi đâu đó… Cùng nhắc La Thụy, Ngô Văn Tuấn, Nguyễn Huỳnh Sa, Đỗ Hồng Sa, Nguyễn Văn Mỹ v.v…  Từ xa xưa, xứ Lagi vốn đã có Lagi thi xã tiếng tăm với nhiều nhà thơ lớp trước.

Đi đường dọc biển để ghé thăm khu vực Nước Nhỉ có giếng Nguồn Chung ngày xưa (1944).

Nơi đây, xưa um tùm dứa dại. Nước ngọt nhỉ từ trong động cát ứa ra. Khách bộ hành đi giữa bãi biển trưa gắt nắng mà có ngụm nước mát dưới mấy bụi dứa chẳng khác đi trong sa mạc gặp ốc đảo. Người đi đường thường lấy mấy mảnh vỏ sò to hoặc gáo dừa làm muỗng múc nước uống. Một nhóm thanh niên Lagi, Tam Tân, Hiệp Nghĩa… đã chung tay xây một cái giếng gạch, đặt tên là giếng Nguồn Chung, theo gợi ý của Nguien Ngu Í. (Năm 1960, Cậu Ngu Í và Mợ Thoại Dung cùng ĐHN ghé thăm thì chỉ còn là đống gạch vụn…)

 

Hóa ra nước dã nhỉ từ những hồ nước sau đồi cát. Tưởng gần, ai dè đến vài ba trăm mét qua đụn cát trắng mênh mông này… 

 

Buổi tối, không gì ngon hơn ngồi lề đường ăn bánh xèo làng quê… để nhớ những ngày thơ ấu!

 

 

Và sáng sớm thì lang thang bên bờ biển vắng Mũi Né…

bãi Mũi Né… và những bé thơ (ảnh Do Hong Ngoc, Mũi Né 2.1.2021)

 

Chúc vui, và An lành luôn nhé!

Hẹn thư sau,

Do Hong Ngoc.

Filed Under: Ghi chép lang thang, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Thăm Nước Nhỉ, nhớ Nguiễn Ngu Í

23/01/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Thăm Nước Nhỉ, nhớ Nguiễn Ngu Í

Huỳnh Thục Oanh

 

Khi tôi nói, La Gi có địa điểm mang tên Nước Nhỉ, cô dạy cùng trường lắc đầu, nói: “Làm gì? Nhà chị ở đây bao năm có nghe ai nói tới Nước Nhỉ đâu!”. Còn ông giáo dạy ở một trường miền núi, lâu nay cứ hay chọn giờ khuya gọi tôi, cá biệt có  hôm, sau khi uống thuốc liều còn hẹn gặp hàn huyên tâm sự, à ôm: “ Nước Nhỉ, anh biết ở dưới chân núi Nhọn quê em. Chỉ gần núi, có nước mới nhỉ ra gọi là Nước Nhỉ. Đường đến đó thế nào cũng cúc dại ( sơn cúc, cúc núi) mọc dày hai bên đường, rất đẹp để làm mấy Pô ảnh. Anh tình nguyện chở em đi”.

Anh ta còn bảo thêm sẳn sàng phi đến chỗ tôi ngay lập tức.Tôi cười he he trong điện thoại rồi thêm: “Có ma le mới đi với ông” và cúp máy.

 

Sau những câu chuyện ấy, tôi vẫn không mảy may thay đổi ý định đi tìm Nước Nhỉ vì ba tôi, một người bảy mươi tuổi, siêng đọc sách hay nói: “ Nước Nhỉ,cái tên hay hay. Ba chưa đến, nhưng biết nó nằm trên cung đường biển La Gi đi Ngãnh Tam Tân. Thử đến đó một lần đi con. Một khi cố gắng tìm, con lại thêm hiểu biết”.  Ba tôi đọc sách tìm niềm vui, nhưng khi phát hiện điều gì cần thiết cho con, cho cháu, ông đều mong bọn trẻ thực hiện,  bởi ông nói:  “Cái sàn khôn mỗi con người có nhiều con đường tích luỹ… Đi cũng là một phương cách!”

Tôi đã nhiều ngày tìm hiểu Nước Nhỉ cho đến khi tôi gặp vợ chồng chú Hai Nhàn, sống trong căn nhà có phần biệt lập, cách nơi tôi dạy học không xa.

Vợ chồng ngoài 60,nom khoẻ mạnh. Riêng chú Hai tựa cây lim già tuổi, rắn rỏi, không  hề có bụng, đi lại  nhanh nhẹn.

Chú Hai Nhàn chỉ nơi Nước Nhỉ, giếng Nguồn Chung ngày xưa (ảnh HTO)

Chú Hai Nhàn nói: “Thời trẻ vợ chồng tui  sống bằng nghề kéo lưới rùng. Biển La Gi này đoạn nào vợ chồng tui không tới. Nước Nhỉ cách đây vài cây số.Có thể tới đó bằng hai con đường. Một, từ bãi biển Bàu Dòi (Hiệp An) đi ngược về Nam. Hai, từ chỗ công ty du lịch mới mở, có con đường chạy thẳng ra biển, từ đó đi ngược lên”.

Khi tôi nói  đã xác định được Nước Nhỉ, ba rất vui. Hai cha con  hẹn với chú Hai Nhàn sang nhà, nhờ dẫn đường.

Chúng tôi khởi hành từ chỗ con đường chạy ra biển của công ty du lịch, rồi men theo bãi đi lên, cho tới khi một triền đất lài lài hiện  ra. Chú Hai bảo đó là Nước Nhỉ. Điểm nhận biết  là  cái triền đất chạy lan ra sát bãi biển.

Chú Hai Nhàn kể: “Nước Nhỉ ngày trước um tùm cây bụi. Sau dứa dại là dương già. Trên dương là cát trắng, còn có tên gọi là Động Trâu. Ở về phía bên kia động, hướng ra đường cái có bàu sen rộng, cá nhiều. Ngày trước,  nơi này, quanh năm nước ngọt từ trong động cát nhỉ ra. Chỉ cần dùng tay đào một hố rộng, chờvài phút, nước đã đầy.

Từ lúc chú Hai xác định đến Nước Nhỉ, ba tôi như người đang phiêu du với điều riêng tư nào đó. Hết quay mặt ra biển, lại nhìn vào triền cát. Triền cát vào tháng năm này, sau khi rừng bị phá, chỉ còn mấy cây dương nhỏ, xơ xác gió biển ngày đêm thổi…

Không hề có dấu tích nước ngầm trong cát, thay vào đó đầy rác biển.

Nếu không có người dẫn đường, bạn sẽ không  hình dung  nơi nầy những người kéo lưới rùng từng lấy nước ngọt nấu cơm ăn, nước uống, trong thời gian hành nghề. Tôi đang định nói: “ ba lên chỗ cây dương cho đỡ nắng” thì ba bất ngờ ngồi bệt xuống cát.

Tôi nói sẽ rất nắng nhưng ông chẳng hề để ý điều đó. Ông nói: “Khi Ba theo bà nội con vào La Gi, đất này lắm rừng.  Cọp beo có đủ. Có con đường chạy xuyên qua rừng đến tận Núi Cú, nhưng không mấy người đi lại. Nếu đi, phải đông người. Trước 1945, người ở  làng Tam Tân(nay thuộc xã Tân Tiến),  và Hiệp Nghĩa (nay thuộc Hàm Thuận Nam), đi La Gi thường chọn đường biển. Hôm nay cha con mình biết: Nước Nhỉ chỉ cách bãi biển Đồi Dương,Tân Bình khoảng 6 km, nhưng với người đi giữa nắng trời, tay xách, nách mang, gánh nặng, mũi bàn chân cứ phải lao về phía trước nhằm lấy đà thì quả là xa, cần giải lao dưỡng sức. Đường dài, bên biển, bên đồi cát, tìm thấy một nơi có nước ngọt quả là tuyệt vời.

Năm 1944, một nhóm thanh niên Lagi, Tam Tân, mang vật liệu tới Nước Nhỉ, xây cái giếng gạch đặt tên là Nguồn Chung dành cho người đi đường. Giếng sau này đi vào thơ ca và một trong số người  có công ấy là ông Nguyễn Hữu Ngư, nhà văn, nhà báo, nhà thơ  với bút danh: Nguiễn Ngu Í. Ngoài bút danh ấy, ông còn ký: Trinh Nguiên, Tân Fong Hiêb, Phạm Hoàng Mĩ, Nghê Bá Lí, Lưu Nguiễn …”(1)

Mấy năm trước ba tôi có đọc lại cuốn sách cũ cho biết: thân sinh nhà văn là cụ Nguyễn Hữu Hoàn, còn có tên Nguyễn Hữu Sanh, Nguyễn Văn Hợi, sinh năm 1887 ở xã Phụng Hoàng (Hà Tĩnh), thi Hương một kỳ rồi bỏ hẳn khoa cử. Cụ Hoàn tham dự phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, và Duy Tân. Trên đường vào Nam , cụ dừng bước ở làng Tam Tân khi ấy thuộc tổng Phong Điền (Bình Thuận). Thân mẫu nhà văn là cụ bà : Nghê Thị Mĩ, người Tam Tân. Nhà văn sinh năm 1921 và như ông  kể trong bài viết trên tạp chí Bách khoa số xuân năm 1965: Năm 7 tuổi phải rời  thầy mẹ đi học xa. Từ đó đến năm 24 tuổi, mỗi năm về thăm cha mẹ một tháng.

Nguyễn Hữu Ngư có tài thơ văn. Bắt đầu tham gia làng văn năm 1939 trong loại sách Ngày Xanh dành cho thiếu nhi miền Nam Việt Nam . Nhà văn có một số năm tham gia cách mạng tại quê hương và cả khi ra Bắc, vô Trung. Từng làm thư ký đầu tiên UBND  cách mạng xã  nhà năm 1945.

Những năm sau này, do thần kinh không ổn định, có lúc ông phải dưỡng bệnh… nhưng  vì là người của công việc, tạm hết bệnh, ông lại lao vào viết, dạy học. Trong hầu hết  tác phẩm của nhà văn như: “Lịch sử Việt Nam”, “Hồ Thơm- Nguyễn Huệ- Quang Trung”, “Sống và viết với…”, “Suối bùn reo”, “Qê hương”… Tình yêu đất nước, tinh thần sống có trách nhiệm với quốc gia dân tộc, thương yêu đồng bào ruột thịt, yêu thương người thân… hiện ra  một cách đằm thắm trong nhiều trang sách.

Đúng vào lúc  ba kể chuyện, chú Hai Nhàn cũng ngồi xuống bên cạnh. Họ nói với nhau về con đường rừng La Gi- Tam Tân, và nhân đó ba đọc bài thơ “Về quê ai tết đầu sau khi ngưng chiến (1955)”của Nguiễn Ngu Í cũng in trong số xuân  Bách khoa.

 

“Gần đến nơi rồi em thấy chưa?

Đường đi lúc lắc, nắng lưa thưa

Có gì man rợ trong cây, đá

Em sợ  giờ đây, ngĩ cũng vừa….( 2)”

 

Ba nói với chú Hai: “Trong bài thơ này tác giả đi đường rừng. Song cũng có lúc tác giả đi đường biển. Trong một bài viết của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, cháu gọi nhà văn bằng cậu, cho hay: Năm 1960, nhà văn và vợ cùng ông đi đường biển về quê. Đến Nước Nhỉ, ông dừng lại.  Sau một lúc trầm tư, ông cảm tác bài thơ có những câu:

 

“Nằm đây mà ngó lên trời

Lá cây dứa đã mấy đời đong đưa

Nằm đây mà nhớ mơ hồ

Những xanh tóc ấy bây giờ về đâu?”…

 

Giọng thơ buồn man mác, nỗi buồn của nhớ nhung, luyến tiếc và có phần bất lực. Đây là đoạn thơ nhiều người nhớ.

Ba  tôi lại quay sang chú Hai Nhàn : Anh à, cuộc đời này, mọi cái đều không đứng yên, bất dịch. Con đường biển ngày xưa, giờ mình đang ngồi nhìn ra đây, nói với chúng ta về một thời gian khổ đã qua. Và nhờ đó mà nhiều người trưởng thành.Con đường này và  Nước Nhỉ gắn với tên tuổi Nguiễn Ngu Í vì ông từng tham gia xây giếng Nguồn Chung, cũng như đi lại trên đường. Thời gian sẽ phủ mờ tất cả. Thế hệ tương lai có dịp đi lại trên con đường ven biển La Gi- Tam Tân, nếu không ai nhắc, chắc gì biết đến Nước Nhỉ ? … Vì vậy, nếu dựng một tấm  bia ghi: “Nơi đây-  Nước Nhỉ, giếng Nguồn Chung- một thờï là điểm cung cấp nước ngọt cho người đi lại ven biển và tàu thuyền…” chắc chắn  sẽ có người tìm hiểu, trở thành câu chuyện về tình người.

Không dừng đó, Ba tôi đọc hai câu mà ông bảo mang nhiều tâm sự của nhà văn, nhà thơ, nhà báo quê La Gi:

“Bao nhiêu chí trẻ rồi tro bụi

Một thoáng tình xa cũng ngậm ngùi”. 

Chuyện của hai người lớn làm tôi thầm nhủ :Nước Nhỉ là câu chuyện sinh động về lịch sử, địa lý quê hương. Một hôm nào đó có thể đưa học trò mình đến Nước Nhỉ trong giờ lịch sử văn hóa địa phương?

(HTO)

 

—————————————————————————

Ghi chú: ( 1, 2): Trong bài có một số chữ giữ nguyên cách viết của nhà văn.

…………………………………………

Đọc thêm:

Đỗ Hồng Ngọc trả lời câu hỏi của một độc giả trên dutule.com (2013)

(nguồn www.dohongngoc.com)

Mẹ tôi và ông Nguyễn Hữu Ngư (Nguiễn Ngu Í, 1921-1979) là chị em Cô cậu ruột. Mẹ ông họ Nghê nên ông còn có bút hiệu là Ngê Bá Lí, với cách viết “đặc biệt” của ông. Tôi gọi ông bằng cậu, gần gũi và thân thiết. (…)

Ông viết văn, làm báo, có nhiều bút hiệu: Trinh Nguiên, Tân Fong Hiệb ( ghép điạ danh quê nhà Tam Tân, Phong Điền, Hiệp Nghĩa), Ngê Bá Lí, Trần Hồng Hừng, Ki Gob Jó Cì, Fạm Hoàn Mĩ… Bút danh Nguiễn Ngu Í được nhiều người biết đến, nổi tiếng là một ký giả chuyên phỏng vấn các vấn đề văn học nghệ thuật cho tạp chí Bách Khoa thập niên 60 tại Sài gòn.

Ông có lối viết tiếng Việt rất đặc biệt, rất riêng, gây ít nhiều tranh cãi, ít nhiều khó chịu cho người đọc, nhưng vẫn có cái lý riêng của ông. Thí dụ ông thấy không hợp lý khi ta viết NGA, nhưng lại NGHE (ông sửa lại NGE), GA nhưng GHE (ông sửa lại GE…).

Ông có một vài tác phẩm về sử, đặc biệt về Quang Trung và về Hồ Quý Ly trong thời gian dạy sử ở vài trường trung học, ký Fạm Hoàn Mĩ; ông cũng có vài cuốn tiểu thuyết như “Suối Bùn Reo”, “Khi người chết có mặt” v.v… Nhưng tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là “Sống và Viết với …”, do Ngèi xanh xuất bản (1966), tập hợp các bài phỏng vấn trên báo Bách Khoa với các nhà văn nổi tiếng đương thời Nhất Linh, Đông Hồ, Bình Nguyên Lộc, Nguyễn Hiến Lê, Hồ Hữu Tường, Sơn Nam, Doãn Quốc Sĩ….(sau này Xuân Thu in lại ở nước ngoài). Ông cũng chuẩn bị ra mắt các cuốn “Sống và Vẽ với…” phỏng vấn các hoạ sĩ, và “Sống và Đàn với…” phỏng vấn các nhạc sĩ. Tiếc thay ý nguyện chưa tròn. Ngoài ra ông còn có một tập thơ “Có những bài thơ”, do Trí Đăng xuất bản, 1973.

Trong thời gian nằm ở Dưỡng trí viện Biên Hòa vì bệnh thần kinh, ông cùng các “bạn điên” có ra một tập thơ, lấy tên là “Thơ điên thứ thiệt” rất thú vị, do ông làm chủ biên. (có mấy bài của Bùi Giáng). Thời đó, ngoài thuốc men, các bác sĩ ở Dưỡng trí viện Biên Hòa còn khuyến khích bệnh nhân làm thơ, vẽ tranh, đánh cờ, lao động tay chân v.v… như một liệu pháp chữa trị tâm bệnh. Khi được hỏi vì sao gọi là “Thơ điên thứ thiệt”, thì ông cười bảo vì lúc này có nhiều người làm thơ giả điên quá!

Ông thường xuyên ra vào các nhà thương điên Biên Hòa và Chợ Quán:

Cũng tưởng một đi không trở lại

Nào ngờ duyên nợ lại dằng dai

Bỗng nhiên sực tỉnh nằm trong “khám”

Khám của lòng ai, ai của ai…

(Bài thơ tái ngộ Dưỡng trí viện, 1966)

 

Trong một bài thơ khác, ông viết:

 

Ta đi lang thang

Ta nói tàng tàng

Ta cười nghinh ngang

Ta chửi đàng hoàng

…

(Bài thơ tự giết, 1966)

”Chửi đàng hoàng” quả không phải là chuyện dễ, nhưng với ông thì ông làm được. Hỏi chửi ai? Ông nói: ”Chửi cả và thiên hạ, trong đó có mình”!

 

Ông có nhiều bài thơ hay. Bài thơ viết cho Mẹ rất cảm động:
“Má ơi con má điên rồi
Má còn trông đứng đợi ngồi mà chi…”

Năm 1960, tôi có dịp đi với ông trên bãi biển từ Lagi về Ngãnh Tam Tân (Bình Thuận) đến Nước Nhỉ, ông dừng chân nghỉ và nằm lim dim trên đống cát gạch vụn, dưới bóng mát của các bụi dứa gai um tùm nhìn lên trời mây… Một lúc ông gọi tôi đến và đọc cho nghe bài thơ vừa làm xong. Tôi còn nhớ mấy câu:

Nằm đây mà ngó lên trời

Lá cây dứa đã mấy đời đong đưa

Nằm đây mà nhớ mơ hồ

Những xanh tóc ấy bây giờ về đâu…

 

Thì ra ông nhớ mấy người bạn cũ, trong đó có Ba tôi (Đỗ Đơn Trì, các cậu tôi là Nghê Nhã Ý, Nghê Cộng Hòa, Trần Minh Di…) đã cùng nhau xây cái giếng Nguồn Chung ở Nước Nhỉ này cho khách bộ hành qua đường nghỉ ngơi, uống bụm nước ngọt, nhỉ ra từ động cát, giữa trưa nắng gắt trên đường dọc biển mênh mông đầy nắng và gió.

Cuộc đời ông nhiều truân chuyên, tài hoa nhưng mắc bệnh không thể chữa được. Tuổi lớn, cơn điên ngày càng nhặt. Có lần ông nằm giữa xa lộ Biên Hòa cho xe Mỹ cán, nhưng họ kịp dừng, chở thẳng vào nhà thương điên. Có lần ông trốn viện, bắt đom đóm làm đèn đi trong giờ giới nghiêm cũng bị bắt lại…

Trước đó, hình như ông biết trước cái chết của mình, viết một bức thư như là một di chúc cho bà. Ông ước ao được thả trôi trên một chiếc thuyền nhỏ, đục thủng đáy, nhét nút lại, rồi để thuyền trôi lênh đênh trên biển Thái Bình Dương, để được nhìn trời mây nước cho thoả thích, rồi rút nút cho thuyền chìm dần và chết trong bụng cá, cho “Ngư về với Cá”. Thế nhưng ông chết với lửa. Ông được hoả táng ở An dưỡng địa Phú Lâm và đưa về đặt kề ông bà và dì Nga ở Ngãnh Tam Tân.

Tôi vẫn nhớ hai câu thơ từ lâu của ông:

Bao nhiêu chí trẻ rồi tro bụi
Một thoáng tình xa cũng ngậm ngùi.

Ông là bạn cùng lớp, cùng trường Pétrus Ký với Trần văn Khê, Lưu Hữu Phước… Gia đình có làm một tập tư liệu về ông: Ngu Í Nguyễn Hữu Ngư, qua ký ức người thân, do mợ tôi, bà Nguyễn Thị Thoại Dung thực hiện (1996), gồm các bài viết của Bà Tùng Long, Trần Văn Khê, Lê Ngộ Châu, Lê Phương Chi, Phan Chính, Hoàng Hương Trang, Hồ Trường An, Trần Huiền Ân, Tô Dương Hiệp, Đỗ Đơn Chiếu, Phan Khắc Khoan, Đỗ Hồng Ngọc…

Sau này (1990), khi về Lagi-Tam Tân, tôi có một bài thơ viết cho ông:

Đêm trên biển Lagi

( tặng cậu tôi, Nguiễn Ngu Í )

Sóng cuốn từng luồng trăng lại trăng
Đêm Hòn Bà dỗ giấc ai nồng
Phẳng lì bãi cát buồn hiu ngóng
Cao vút hàng dương quạnh quẽ trông
Đá cũ mòn rêu hoài đá Ngãnh
Nguồn xưa cạn nước vẫn Nguồn Chung
Về đâu mái tóc xanh ngày ấy
Câu hỏi ngàn năm có chạnh lòng…

                                   Đỗ Hồng Ngọc

                                                 (1990)

……………………

Dưới đây là nguyên văn bài thơ Nguiễn-Ngu-Í (NGÊ-BÁ-LÍ) viết về “giếng Nguồn Chung” với chú thích về “sự tích” hình thành giếng Nguồn chung năm 1944 ở Nước Nhỉ, Lagi. (Bài thơ viết năm 1960, in trong cuốn …”QÊ HƯƠNG”…, 1969 – chữ QÊ, kiểu viết NNI) với Lời giới thiệu của Nguyễn Hiến Lê. Trong cuốn sách mà Nguyễn Hiến Lê gọi là “kỳ thư” này, tôi viết bài “dẫn nhập” tựa Viết về Bình Tuy, với bút hiệu Giang Hồng Vân.

Đỗ Hồng Ngọc.

(Saigon, 24.1.2021)

(Nguồn: …”Qê Hương”… Nguiễn-Ngu-Í, Saigon 1969)

 

 

 

 

 

Filed Under: Ghi chép lang thang, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Sách Ở Trên Đường

08/01/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc 2 Comments

 

9.1. 2021

Kỷ Niệm 5 Năm Đường Sách Sài Gòn

 

(“Nhà Dài”, Đường Sách Saigon, ảnh ĐHN 2021)

 

Sách ở trên Đường

tặng Mây Hồng

 

Tôi mê Sách ở trên Đường nên sau này mê cả Đường Sách.

Tuần nào gần như tôi cũng có mặt ở Đường Sách.

Làm gì ư? Không làm gì cả. Chỉ để dòm, để ngửi, để nghe, để ngóng…

Và… để nhớ. Nhớ gì? Nhớ những ngày mới lên mười, sống trong một ngôi chùa nhỏ với Cô tôi ở Phan Thiết. Cô tôi bị thương tật gãy cả hai chân vì tai nạn xe lửa trong thời chiến tranh. Hàng ngày tôi có nhiệm vụ đi qua đò mượn sách bên kia sông Cà Ty hoặc đến một nhà cho mướn sách nào đó ngoài phố. Cô cấm tôi đọc sách vì con nít mê sách sẽ làm biếng học. Tôi đành vừa đi vừa đọc trên đường, hoặc ngồi dưới bóng me, góc chùa, đọc hết cả cuốn mới về đến nhà…

Tôi lại nợ Sách trên Đường. Một lần về Saigon, lang thang trên đường Trần Hưng Đạo, trước rạp hát Eden, ai đó bày ra cả một… đường sách mênh mông, tôi vớ phải cuốn  Kim Chỉ Nam Của Học Sinh (Nguyễn Hiến Lê, 1956), để rồi từ một cậu bé thất học, tôi… bơi vào bể học.

Tôi biết ơn sách và đặc biệt biết ơn Sách ở trên Đường. Tôi quen Quách Tĩnh với Hoàng Dung, Vô Kỵ Triệu Minh… trên đường Cao Thắng, Lê Văn Duyệt… Tôi biết Cửu âm bạch cốt trảo với Giáng long thập bát chưởng, Lăng ba vi bộ, Vô chiêu thắng hữu chiêu… từ ngày còn là một sinh viên trường thuốc.

Rồi sau 1975, đường sách cũ Đặng Thị Nhu là nơi tôi loanh quanh không mỏi mỗi chiều, vì nơi đó, ngoài sách, tôi còn được gặp biết bao bạn bè thân thiết, nào họa sĩ Cù Nguyễn, nào nhà thơ Trần Yên Thảo, nào… nào…

Khi viết sách lai rai, tôi nghiệm rằng sách vốn là… thuốc, viết sách là bào chế thuốc, bán sách là bán thuốc, đọc sách là uống thuốc, không phải  chuyện chơi nhưng vẫn nhớ mãi sách trên đường…

Nên không thể không mê Đường Sách.

Năm năm nay có một cái Đường Sách rất dễ thương ở Sai Gòn. Nó dễ thương vì nó nhỏ xíu, nó làm cho mọi thứ trở nên thân mật và ấm cúng. Tôi luôn coi nó là một cái Nhà Dài nơi xứ Thượng, lợp bằng lá me, gia đình  toàn là những người kỳ cục, nam phụ lão ấu đều như bị một thứ bùa mê… qua lại có khi va vào nhau, không cần xin lỗi vì mắt mũi cứ dòm ngó đâu đâu!

Thỉnh thoảng có những dây con nít được mấy cô mẫu giáo xinh đẹp dẫn đi cho ngửi mùi sách làm quen, có những bà đầm hở rún dắt ông tây bụng bự, có những  người đẹp trình diễn xuyên thấu…, có cụ già trên chín chục, xách laptop ra gõ những dòng thơ tình đắm đuối, có những bạn bè phương xa, vừa xuống máy bay đã kéo lê cả vali túi xách chạy về Nhà Dài cho đúng hẹn…

Còn có những buổi trò chuyện ngoài trời ở Nhà Dài cho ông đi qua bà đi lại lõm bõm nghe. Có nhà văn trẻ ký tên tặng sách mỏi cả tay, năn nỉ xin nghỉ vài phút để vào restroom…!

Nhà Dài theo tôi còn có vẻ nghiêm trang quá, bày biện trang trí kiểu cọ quá, thiếu chút bừa bãi dễ thương như Sách ở trên Đường ngày xưa, hay như dãy nhà dài dọc sông Seine ở Paris. Đặc biệt Nhà Dài thiếu các tủ kính bày chân dung cùng trang sách viết tay, bản sửa morasse ngoằn ngoèo… của những nhà văn, nhà thơ, triết gia, thi sĩ… Và còn thiếu những giỏ cần-xé to đùng đựng đầy sách… biếu tặng, mặc ai muốn lấy cuốn nào thì lấy…

Nhắp một ly capuchino ở một quán café Book quen thuộc nơi Nhà Dài, lặng nhìn từng cánh lá me bay bay và ngó những người bị “quỷ ám” lang thang, khệ nệ ôm một túi sách trên tay đủ để hạnh phúc cho một ngày ở Đường Sách hôm nay đó vậy.

Đỗ Hồng Ngọc.

 

Sách cũ bên bờ sông Seine, Pháp (ảnh Internet)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Hàng sách cũ Đặng Thị Nhu, Saigon (ảnh Internet)

 

 

 

 

Sách Đỗ Hồng Ngọc cũng có mặt ở quày sách cũ trên Đường Sách… hôm nay.

……………………………………………………………………..

Đọc bài “Sách Ở Trên Đường” của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Hai Trầu Lương Thư Trung (Houston, 8 Jan 2021)

Không biết sao, khi tôi đọc “Tôi mê Sách ở trên Đường nên sau này mê cả Đường Sách.”, tôi nghe như đó là điệp khúc của một bản nhạc, “sách ở trên đường” rồi “đường sách” nó hòa vào nhau thành một, rồi nó trườn lên nhau như đợt sóng này trườn mình lên đợt sóng khác nơi bãi biển Nha Trang cách nay hơn nửa thế kỷ mà có lần tôi đã ngồi bên hàng dương với cát trắng mịn dưới chân, nhìn biển chập chùng…

Rồi tác giả lại viết: “Tôi lại nợ Sách trên Đường. Một lần về Saigon, lang thang trên đường Trần Hưng Đạo, trước rạp hát Eden, ai đó bày ra cả một… đường sách mênh mông, tôi vớ phải cuốn  Kim Chỉ Nam Của Học Sinh (Nguyễn Hiến Lê, 1956), để rồi từ một cậu bé thất học, tôi… bơi vào bể học.”

(…)

Đặc biệt khi tác giả viết:

“Tôi biết ơn sách và đặc biệt biết ơn Sách ở trên Đường.”

Cảm động quá! Là một người nhà quê già và cũng có chút chút mê sách trên đường vì hồi đó sách bán trên đường gọi là sách bán “son” (solde) giá rất rẻ nên hợp túi tiền con nhà nghèo, nên tôi cũng lang thang qua những đường sách và cũng để dòm dòm ngó ngó coi chơi cho vui chớ đâu có tiền để mua dù sách giá rất rẻ ấy.

Với tác giả, một người già giặn, lão luyện trường đời đã nhận ra sách không chỉ là sách trong các nhà sách lớn khang trang trùng trùng điệp điệp như nhà sách Khai Trí, nhà sách Tự Lực trên đại lộ Lê Lợi, hay nhà sách Xuân Thu trong thương xá Eden (Sài Gòn) …, mà còn là sách trên đường với giá rẻ mà vẫn quý và từ đó, tác giả nghiệm ra rằng:

“Khi viết sách lai rai, tôi nghiệm rằng sách vốn là… thuốc, viết sách là bào chế thuốc, bán sách là bán thuốc, đọc sách là uống thuốc, không phải chuyện chơi nhưng vẫn nhớ mãi sách trên đường…

Nên không thể không mê Đường Sách.”

Với đường sách Sài Gòn, tác giả dí dỏm ví nó như nhà Dài của người Thượng vùng cao nguyên dù nó đang nằm giữa chốn đô thành:

“Tôi luôn coi nó là một cái Nhà Dài nơi xứ Thượng, lợp bằng lá me, gia đình  toàn là những người kỳ cục, nam phụ lão ấu đều như bị một thứ bùa mê… qua lại có khi va vào nhau, không cần xin lỗi vì mắt mũi cứ dòm ngó đâu đâu!”

Tâm trạng này thì tôi có cái cảm được qua hai lần ghé ngang qua đường sách Sài Gòn mà anh gọi là Nhà Dài lợp bằng lá me nhỏ xíu ấy, nó rất đẹp và lãng mạn…

Lần đầu, vợ chồng tôi ghé ngang đường sách này với mục đích duy nhứt là để hy vọng tìm lại được chút gì về cái chất Sài Gòn xưa nó nằm trên những quầy “sách cũ”, ở đó có tuổi trẻ của tụi tôi hồi mới quen nhau rồi mãi tới những ngày dạo phố Sài Gòn vào những ngày cuối tuần hoặc chợ hoa giáp Tết cách nay hơn năm chục năm! Lần thứ hai, tôi trở lại đường Sách Sài Gòn qua hẹn gặp tác giả để ngồi nhăm nhi ly cà phê, như anh đã viết:

“Nhắp một ly capuchino ở một quán café Book quen thuộc nơi Nhà Dài, lặng nhìn từng cánh lá me bay bay và ngó những người bị “quỷ ám” lang thang, khệ nệ ôm một túi sách trên tay đủ để hạnh phúc cho một ngày ở Đường Sách hôm nay đó vậy.”

Vâng, đọc bài “Sách ở trên đường” của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc hôm nay (Saigon, 9.01.2021), tôi đã thấy được cái vui trong đôi mắt của tác giả mà cũng là dịp mình bắt gặp lại chính mình có một thời cũng mê tìm sách cũ, sách xưa và “sách ở trên đường” để biết mình cũng có một thời biết mê những con đường bán sách “son” (solde) ngày cũ nữa!

 

Hai Trầu Lương Thư Trung

Houston, ngày 08.1.2021

…………………………………………………………………

Cảm “Sách ở trên đường”

Minh Lê (Suối Tiên, Nha Trang)

10.1.2021

Đọc bài “Sách ở trên đường” của Anh Đỗ Hồng Ngọc, rồi bài cảm nghĩ của Anh Hai Trầu Lương Thư Trung, tôi thấy tôi bị “cảm” mất rồi. Ấy, “cảm” đây không phải cảm cúm của Covid-19, mà là đồng cảm và cảm kích.

Anh Ngọc mê Sách, nợ Sách, biết ơn Sách và trân trọng Sách, rõ ràng Anh coi Sách là người tri kỷ. Mỗi cảm xúc sâu nặng với Sách còn được “chứng minh” ngắn, rõ, sinh động, tiết tấu nhịp nhàng như một bài thơ. Anh còn nhấn mạnh “Sách ở trên đường”, vậy Sách-ở-trên-đường khác Sách-ở-trong-tiệm chỗ nào? Tôi cảm thấy sách ở trên đường gần gũi hơn, tự do hơn, lại thêm cái cảm giác “đãi cát tìm vàng”. Ai mê sách mà không từng có một thời hàn vi “vẫy vùng” trong những chồng sách cũ, kiếm ra được một cuốn mình thích thì mừng tới mức…khỏi ăn cơm? Nên dù kỷ niệm khác nhau, cảm nhận với Sách vẫn tương đồng.

Anh Ngọc mê “Sách ở trên đường”, nên mê luôn… “Đường Sách”. Tới đây phải cảm ơn Anh Hai Trầu Lương Thư Trung, hình dung của Anh về sự hòa lẫn của hai cụm từ này “như đợt sóng này trườn mình lên đợt sóng khác nơi bãi biển Nha Trang” rất sinh động và chính xác. Cũng bởi tôi là dân Nha Trang nên càng “cảm nặng” hơn một chút. Và vì Anh Ngọc mê Đường Sách, nên mới có mấy góp ý thiệt đáng giá cho Đường Sách. Tôi không ở Sài Gòn nên chỉ được ghé qua Đường Sách vài lần, vẫn thấy thiếu thiếu chút gì, giờ đọc xong liền thấy trúng ý quá. Nhứt là cái đề nghị “bày chân dung cùng trang sách viết tay, bản sửa morasse ngoằn ngoèo… của những nhà văn, nhà thơ, triết gia, thi sĩ…” và “chút bừa bãi dễ thương” trong việc trang trí và sắp xếp. Hai việc này, một gợi cho người ta nhớ tới người “mang nặng đẻ đau” ra Sách, một giúp tạo không khí thân mật và thoải mái trong Đường Sách để người ta càng lưu luyến. Nếu Sách là tri kỷ, thì Anh Ngọc ước mong Đường Sách sẽ thành chốn tri âm cho những người yêu sách.

Cuối cùng, ngoài bài viết rất “Đỗ Hồng Ngọc”, tôi còn khoái mấy bức hình minh họa, nhứt là hình chụp bộ sách của Anh Ngọc ở quầy sách cũ, mà bên dưới là cuốn sách lộ ra hai chữ “bụi đời”. “Cảm” thêm lần nữa! Giữa cõi trần ai mịt mù, mỗi lần đọc sách Anh Ngọc là một lần thấy lòng nhẹ nhàng, “bụi đời” dường như rơi xuống, lắng lại, để tâm thanh tịnh hơn. Hèn chi, Sách là thuốc, mà cái bịnh từ “bụi đời” mà ra này, chắc cũng chỉ có thuốc là Sách thôi.

Cám ơn Anh Đỗ Hồng Ngọc và Anh Hai Trầu Lương Thư Trung! Trời Suối Tiên (Khánh Hòa) giờ đang rất lạnh, nhưng có hề gì, bởi đã có nắng ấm từ lòng người “thiên lý hữu duyên”.

(ML)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Filed Under: Ghi chép lang thang, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

Chuyến về Đà Lạt cùng Quán Văn

14/12/2020 By Bac Si Do Hong Ngoc 2 Comments

 

Thư gởi bạn xa xôi (12.2020)

Chuyến về Đà Lạt cùng Quán Văn

 

Bạn biết rồi đó. Bậy giờ sao làm biếng tổ rồi. Ngay cả chỉ muốn chuyển hình cho bạn coi chơi cũng làm biếng.

Giờ thì chọn ít hình ảnh coi vui thôi nhe.

Tạp chí Quán Văn của Nguyên Minh thường tổ chức hằng năm vài chuyến đi tỉnh này tỉnh nọ, giới thiệu sách, báo hoặc một “chân dung văn học” tại địa phương cho vui. Lần này chọn Đa Lạt, mùa lạnh.

Mình thì nhiều lần ngại không đi. Tuổi già sức yếu sợ làm phiền “Ban tổ chức”, mặc dù Mỹ Lệ và Đình An rất giỏi, rất chu đáo. Dù sao mình vẫn là người… già nhứt. Sau đó là Nguyên Minh, “chủ xị”, nhỏ hơn một tuổi. Lần này còn có Thân Trọng Minh, Lê Ký Thương, Lê Triều Điển… cũng già bộn rồi. Lại có Hiếu Tân , Nguyên Cẩn… những người từng trải qua những cuộc mổ tim khá … kinh khủng nên chắc đồng bệnh tương lân cả thôi!

Thú vị, lượt đi thì mình được An Bình chuyển cuốn Cảm tạ Văn Chương rất cảm động của Trần Hoài Thư gởi về ĐHN; lượt về thì được Tịnh Thy gởi cuốn Đối thoại giữa Mật giáo và Hiển giáo  do Nguyễn Phố dịch. Dọc đường có sách đọc quên cả đường dài phải không?

À này, bạn nhớ không, cái hình bìa 4 cuốn Cảm tạ văn chương của Trần Hoài Thư là cuộc gặp gỡ giữa “Ngưu Lang Chức Nữ” thời Covid mà mình đã viết mấy câu Cảm đề tặng Thư và Yến từ hôm nọ:

Người đi marchette

Người ngồi xe lăn

Gần nhau gang tấc

Mà như ngàn trùng

Lời lời khấn nghẹn

Sương nhòe mù tăm…

(ĐHN)

 

Phải nói, chuyến về Đalạt lần này (7-10/12/2020) thiệt vui. Có đến gần 50 người chớ ít đâu. Văn nghệ sĩ, cộng tác viên và cả gia đình nên Nguyên Minh gọi là “Gia đình Quán Văn” cũng phải. Có người từ Vũng Tàu, có người từ Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Tiền Giang…

Đến Đalạt chiều 7.12, mưa ào ào. Bỏ chuyến tham quan Cầu Đất Farm, cả nhóm vào Cafe Tùng cho đỡ nhớ.

Nhà trọ Sơn Cước nhìn xuống hồ Xuân Hương.

 

 

Nhiếp ảnh gia MPK nổi tiếng của Dalat… nay mới được người ta chụp ảnh cho vui lắm (ảnh ĐHN)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Ra mắt Quán Văn: Duyên nợ Đà Lạt khá đông.

 

 

 

 

 

 

 

 

Bất ngờ cả bọn nhận được cú phone từ nơi xa xôi gọi về của Lữ Quỳnh. Cảm ơn Internet. Từ trái: Đỗ Nghê, Lê Ký Thương, Lữ Kiều, Nguyên Minh, Ban Mai, Kim Quy (đứng).

 

Buổi tối, chương trình “văn nghệ” rất vui: Lần đầu tiên, Nguyên Minh “xuất tướng” hát “Anh còn nợ em” mà… không khóc! Từ trái: Vân thị Dung, Hiếu Tân, Nguyên Minh, Nghĩa (đứng sau), Quách Mạnh Kha, Đình An (nhạc sĩ) và Ban Mai…

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Tuy chuong trình dày đặc, mình cũng “tranh thủ” đến Trà đàm một chút với Nhóm Thiền ca Hoa sen Dalat (nhạc sĩ Thuần Nhiên Nguyễn Đưc Vinh, người đã phỏ nhạc bài thơ Sông Ơi Cứ Chảy mình viết cho La Ngà dạo nọ).

 

Chịu khó đi xa xa một chút, Đa Lạt vẫn còn đó những nét quyến rũ riêng.

 

Đập Suối Vàng ANKROET. Nhiều bạn trẻ lang thang dưới chân đập, chắc là có một lời nguyền nào chăng?

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Từ trái: Trúc Hạ, Tịnh Thy, Đỗ Hồng Ngọc, Nguyên Cẩn… cafe Hòa Bình trước khi rời Đà Lạt để người về Huế, người về Đà Nẵng, người về Saigon… Hẹn tái ngộ.

 

Bữa cơm chiều với Thân Trọng Minh, Thanh Hằng, Kim Kê, Hiếu Tân, Lê Ký Thương, Kim Quy, Nguyên Minh, Đỗ Hồng Ngọc… Hai bạn già ngồi hong lửa… Tối còn ghé qua Palace nghe Võ Chí Hiền đàn và Thân Trọng Minh thổi Harmonica!

 

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc

(14.12.2020)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Filed Under: Ghi chép lang thang, Vài đoạn hồi ký

  • « Go to Previous Page
  • Go to page 1
  • Go to page 2
  • Go to page 3
  • Go to page 4
  • Interim pages omitted …
  • Go to page 36
  • Go to Next Page »

Thư đi Tin lại

  • Lịch “Trò chuyện, giao lưu…”
  • Lại đính chính: “SAIGON BÂY GIỜ”
  • ĐÍNH CHÍNH: BSNGOC không phải là BS ĐỖ HỒNG NGỌC
  • Đính chính: BS NGỌC không phải là Bs Đỗ Hồng Ngọc
  • bsngoc đã lên tiếng đính chính
  • Thư cảm ơn và Đính chính về FACEBOOK Bác sĩ NGỌC
  • ĐÍNH CHÍNH: Bài viết "TÀN NHẪN" không phải của Bs Đỗ Hồng Ngọc

PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG

Kỳ 3 Lớp An Cư Chùa Xá Lợi, 2022

Bài đọc thêm: DƯỢC TÍNH TRONG TÂM…

Hiểu thêm về “giả dược” (Placebo)!

Nguyễn Hiền-Đức: Tập tuyển CÀNH MAI SÂN TRƯỚC

Minh Lê: Học Phật qua thơ Đỗ Hồng Ngọc

TẠP GHI (Lõm bõm… Kỳ 4b)

Tạp Ghi (lõm bõm… kỳ 4): Mười Hạnh Phổ Hiền

TẠP GHI (Lõm bõm…) kỳ 3

Tạp Ghi (Lõm bõm kỳ 2)

TẠP GHI (Lõm Bõm)

Xem thêm >>

Chuyên mục

  • Một chút tôi
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy

Bài viết mới nhất!

  • Vài ngày về thăm Lagi, Phan Thiết…
  • Ngày của Cha – Happy Father’s Day
  • Kỳ 3 Lớp An Cư Chùa Xá Lợi, 2022
  • Bài đọc thêm: DƯỢC TÍNH TRONG TÂM…
  • Hiểu thêm về “giả dược” (Placebo)!

Bài viết theo tháng

Ý kiến bạn đọc!

  • Tùng Phạm trong Bài đọc thêm: DƯỢC TÍNH TRONG TÂM…
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Giới thiệu
  • Đinh Hà Duy Linh trong Giới thiệu
  • Hồng trong Song Thao: GIÀ KHÚ ĐẾ
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Buổi trò chuyện về Thiền “Quán Niệm Hơi Thở”
  • Cao Huy Khiem trong Buổi trò chuyện về Thiền “Quán Niệm Hơi Thở”
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong “Xả”… stress !
  • “Xả”… stress ! | suonglamportland trong “Xả”… stress !
  • Phan Công Khương trong Nguyễn Mậu Pháp: CẢM NHẬN  “VỀ THU XẾP LẠI…”
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Có một “nghệ thuật”… ngủ!

Cùng một tác giả

  • 0
  • 1
  • 1
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6

Thống kê

Nhà tài trợ

biệt thự vũng tàu
biệt thự vũng tàu cho thuê | biệt thự vũng tàu cho thuê theo ngày giá rẻ | cho thuê biệt thự vũng tàu có hồ bơi
© 2009 - 2016 Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Phát triển & Hỗ trợ kỹ thuật bởi SGC.
Trích dịch nội dung để dùng trong nghiên cứu, học tập hay dùng cho cá nhân đều được tự do nhưng cần phải chú thích rõ nguồn tài liệu và đối với các trích dịch với mục đích khác, cần phải liên lạc với tác giả.
  • Một chút tôi
    ?
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    ?
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    ?
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    ?
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    ?
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy
  • Nhận bài mới qua email