Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Tập hợp các bài viết của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Ghi chép lang thang
  • Nhận bài mới qua email

NT KhánhMinh: Cười Với Nắng Một Ngày Sao Chóng Thế (Tuệ Sỹ)

20/12/2023 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

Cười Với Nắng Một Ngày Sao Chóng Thế (Tuệ Sỹ)

Nguyễn Thị Khánh Minh


Thầy Tuệ Sỹ, nơi bàn làm việc tại chùa Già Lam
Photo by nt khánh minh (2009)

Vâng, chóng đến nỗi tôi nghĩ đó là giấc mộng, giấc mộng thiện hảo quý báu quá khiến tôi tiếc ngẩn ngơ sao chóng đến vậy.

Đó là buổi ra mắt tập thơ của tôi tại quán cà phê Du Miên. – Chỉ với 50 ấn bản Bùa Hương do Ý Thức Bản Thảo ấn hành 2009 – với sự có mặt của các anh chị Đỗ Hồng Ngọc-Ngọc Bích, Lê Ký Thương-Kim Quy, anh Nguyên Minh và anh Lữ Kiều, và tôi. Bảy người, đối với riêng tôi, số 7 khiến tôi liên tưởng đến bảy sắc cầu vồng, bảy nốt trong âm nhạc, thất bảo, của một buổi sáng tuyệt vời.

Và bản quý duy nhất, Bùa Hương, được ấn chứng bằng những chữ ký thân tình. Buổi sáng đẫm hương bằng hữu. Nó không chỉ chấm dứt vào buổi trưa khi chia tay. Nó kéo dài cho tới bất cứ lúc nào hồi ức tôi lay động.

Sau buổi sáng, anh Lữ Kiều bảo, giờ anh sẽ đưa em đến chùa Già Lam, – Thầy Tuệ Sỹ ạ? – Ừ, mình cùng đi với Giai Hoa.

Lòng tôi vừa bồi hồi vừa lâng lâng khó tả. Run run. Vì sắp được gặp một người mà mình nghĩ rằng khó có cơ hội được diện kiến. Chùa Già Lam. Có đóa sala rụng ở sân chùa, cầm trong tay thơm ngát. Ép vào sách, đến giờ giở ra còn nghe thơm. Thơm phút giây nhặt nó ở sân chùa, thơm vì nó cùng tham dự với tôi buổi trưa độc nhất ấy, nơi có vị sư của những lời thơ Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ/ Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn… (Tuệ Sỹ, Không Đề) Đã bao trăng tàn bên chiếc lan can này nghe Sư nói chuyện một mình? Hai bóng sáng hòa âm trong đêm, để lại cho đời những lời thơ bất hủ, theo mãi trong lòng người hình bóng một vị chân tu.

Chúng tôi ngồi ở đó, ban công trước phòng Sư, trông xuống một vườn cảnh nhỏ, gió buổi trưa hiu mát, trái tim tôi như chiếc lá bay. Sư và anh Lữ Kiều, Giai Hoa đang bàn về chương trình buổi ra mắt tập thơ Những Điệp Khúc Cho Dương Cầm, tập thơ tôi được Sư tặng sau đó.

Tôi tặng Sư tập thơ Bùa Hương, và tôi có được chữ của Sư trong bản duy nhất kia. Chữ của Sư, chữ Hán lẫn Việt, lấp lánh dưới nắng trưa: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn/ Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về. Nét chữ có linh hồn của sự cương nghị bất khuất và u ẩn một điều cưu mang…

Mỗi khi giở xem lại nét chữ ấy lòng run run như đang mở xem điều gì đó vô cùng quý báu.

– Giai Hoa là người phụ đạo piano cho thầy-. Anh Lữ Kiều nói. Rồi, chúng tôi được nghe và thấy Sư ngồi đàn, một Nhà Thơ gõ trên phím những nốt nhạc của tâm hồn, Sư ngồi đó, Sư đang ở đó, như vừa mới đến, như vừa ra đi trong âm ba tiếng nhạc. Không gian thời gian như nhập lại một dòng trôi vi diệu vô thường…

Năm tháng vẫn như nụ cười trong mộng… ôi, Như Lai đâu có đi có đến…

Thời gian tiếng dương cầm, giờ như đang đọng từng hạt vàng trong nắng Già Lam. Đó Ngày Mộng của tôi. Ngày mộng khởi duyên cho bao thiện lành trong từng bước tu hướng về Người…

ĐỈNH ĐÁ NÀY VÀ HẠT MUỐI ĐÓ CHƯA TAN
(Tuệ Sỹ, Khung Trời Cũ)

Tôi kính ngưỡng nỗi u ẩn trong tình tự hạt muối chưa tan. Ôi biển đời kia xô động…

Cũng vì vậy, đọc thơ Tuệ Sỹ, tôi cứ thấy hình ảnh con đường dài, và muôn dặm bóng cô lữ một khung trời viễn mộng dằng dặc nỗi ưu tư,

Trời viễn mộng đọa đày đi mấy thuở
Mộng kiêu hùng hay muối mặn giữa trùng khơi

(Những Điệp Khúc Cho Dương Cầm)

Bước độc hành như sương hạt rơi khuya, như tiếng mõ trầm trầm hun hút ở rừng thẳm, ở núi cao… nhưng khó làm sao để tường tận cái chấp chới của vạt áo tỳ khưu đẫm ánh trăng đêm, của một vì sao bên khoé miệng rưng rưng, thấp thoáng ẩn hiện. Hiện lên Người và ẩn một cõi thơ tịnh tĩnh. Khó làm sao lọt được vào cõi im lặng tủy đá ấy…

Có chăng, tôi lần theo bằng nhịp đập của trái tim thơ khởi đi từ hạt lệ mở đường,

 Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn…

Cô quạnh và tự tại của hạt lệ đèn hòa thanh ánh trăng, và câu chuyện gì khiến thế gian nhỏ lệ? Đọc thơ Người thấy mình nhỏ bé quá dưới cái huyễn lộng, hay chỗ nào, vì sao hay, hỏi như hỏi mây xanh bay, theo như đuối dòng nước trôi hoài kia. Chuyện trăng tàn là chuyện gì, chưa nghe thấu nỗi đã rúng động. Trăng tàn giật mình sững sờ cái núi lạnh biển im, tấm lòng băng khiết?

Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan…

Hỏi, tại sao, vì đâu lòng muối kiên định… để bất khuất chưa tan?

Tưởng chỉ là Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ, bỗng vầng trăng vụt sáng mới hay Lãng du ai ngỡ cô liêu bạc đầu! (Tóc huyền) Cô liêu tóc trắng ấy cũng ngang ngửa với cái cô quạnh nghìn năm viên đá cuội. Nghe quá cảm khái trong câu hỏi hồn tôi đâu…

Viên đá cuội mấy nghìn năm cô quạnh
Hồn tôi đâu trong dấu tích hoang đường?

(Dạ Khúc)

Hay đó là mênh mang sầu của cánh mỏng về đâu, là chiếc lá xa mùa đau lòng phận nước?

Con bướm nhỏ đi về trong cánh mỏng
Nhưng về đâu một chiếc lá xa mùa…

(Mưa cao nguyên)

Tôi sứ giả hư vô
Xin gởi trong đôi mắt bà
Một hạt cát

(Hạt cát)

Sứ giả của hư vô, gửi vào đôi mắt một hạt cát, để khơi lệ huyễn mộng rực rỡ không dấu chấm hết? Một hạt cát chứa vô biên không gian thời gian.

Tất cả câu hỏi về thơ Người, chỉ có thể tìm được câu trả lời qua những bước chân cô độc kiên trì trên con đường dài Người đã đi, qua tấm lòng băng khiết Người đã sống với Đạo với Đời, qua nếp sống giản dị thanh bạch của hạt cát tinh tuyền, giờ hạt cát ấy đã lồng lộng hư vô, nhưng âm thanh của cát vẫn vang động. Nếu chúng ta cùng nghe được âm vang của một hạt cát thì sứ giả hư vô ấy là trái tim son sắt của Người.

NHỚ BUỔI NGHE SƯ ĐÀN

Cùng nhà thơ Lữ Kiều và Giai Hoa, 20.9.2009, tại cốc của sư trong vườn chùa Già Lam

Buổi trưa ngồi nghe sư đàn
Trăm con lá rớt. Tình tang cõi ngoài
Mùa đâu hốt đã thu phai
Một phương viễn mộng. Đọa đày*. Bao thu

Viên đá cuội nghìn năm*. Ru
Niềm cô quạnh. Dấu biệt mù. Âm xưa
Trăng tàn nhỏ lệ đèn khuya
Hắt con bóng dựng đá chờ nước non

Áo tỳ khưu. Dặm mỏi mòn
Trùng khơi. Hạt muối đó còn chưa tan…

Nguyễn Thị Khánh Minh
9.2020

* Thơ Tuệ Sỹ: Trời viễn mộng đọa đày đi mấy thuở/… Viên đá cuội mấy nghìn năm cô quạnh/ Hồn tôi đâu trong dấu tích hoang đường…

(Nguồn: tranthinguyetmai.wordpress.com)

Thuộc chủ đề:Gì đẹp bằng sen?, Nghĩ từ trái tim

Thư gởi bạn xa xôi (tháng 12.2023)

11/12/2023 By Bac Si Do Hong Ngoc 2 Bình luận

Thư gởi bạn xa xôi (tháng 12.2023)

BÀY ĐẶT VẼ… VỜI

Bạn hỏi đang làm gì ư? Thì làm biếng chớ làm gi nữa! Nhiều bạn cùng lứa U90 kêu giờ chả biết gì, chỉ biết già! Vậy mà có anh Hai Trầu, ít hơn mình vài tuổi vẫn tự hào cái sự “già khú đế” của anh. Già khú đế gì mà một lúc vừa tung cuốn Người đọc & Người viết IV, liền quảng cáo tiếp cuốn V, VI…  sắp ra nữa, rồi còn hẹn tái bản một lô một lốc sách xưa nay của anh nữa trời ạ!

Mình lúc này hay đi về quê ở Lagi, cách Saigon chừng 160km, nay có cao tốc đi vài giờ thôi. Về ăn bánh căn, tắm biển, đi xe bò… rồi nằm võng đu đưa dưới bóng dừa cũng hay.

Cao hứng, bày đặt vẽ… vời nữa chớ! Mua hộp sơn dầu (thứ của trẻ con), rồi lấy ngón tay quẹt quẹt, bôi bôi, trét trét một lúc là xong một bức tranh… “trời ơi” ngay! Các bạn hoạ sĩ thứ thiệt của mình đừng la rầy chi nhe.

À, mà thú vị. Cũng là một cách “chánh niệm tỉnh giác” rất Thiền đó nhe. Chừng một lúc đã vào… Tứ thiền hổng hay đó chớ chẳng chơi!

Không dám cho ai coi. Vừa rồi, một nhà “phê bình” tình cờ xem, đã kêu lên: “Anh có một cái bàn vẽ thật đẹp!”. Vậy đó. Thôi kệ.

Kỷ niệm chuyến đi về Cao nguyên Đá ở Hà Giang, Đồng Văn, Mèo Vạc đó nhe.

Gởi bạn vài bức coi vui,

 

Lagi 2023

 

 

 

 

 

 

 

Đường đi Mèo Vạc

Đèo thẩm mã

Tam giác mạch

Sông Lô (Hà Giang)

 

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc.

 

Thuộc chủ đề:Chẳng cũng khoái ru?, Già ơi....chào bạn

Thư gởi bạn xa xôi (tiếp theo)

16/11/2023 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Thư gởi bạn xa xôi (tiếp theo)

Một Ngày Ở Hà Nội

Từ Mèo Vạc, trở về Đồng Văn tính ghé Sông Nho Quế, tiện thì đi thuyền trên dòng sông tuyệt đẹp giữa hai vách núi dựng đứng đó nhưng sương mù dày đặc, đành uống Cafe ở Panorama mà nhìn Nho Quế mờ mờ nơi xa… Tiếc quá! Thời gian lại gấp rút, phải về Hà Nội ngay trong đêm. Đến Hà Giang còn bị kẹt đường vì núi lở, phải đợi. Trên đường, ghé Seo Mẩy mua ít quà bánh làm bằng Tam giác mạch về tặng bạn bè.

 

Đến Hà Nội đã gần nửa đêm. Oải, rả rời. Thế mới biết “già mà ham” leo đồi leo núi ỏ Cao Nguyên Đá cho đã đời là vậy! Tuy vậy, sáng Chủ nhật 5.11.23 khi nghe tiếng chuông Nhà thờ lớn đổ lúc 6h30, cũng vội vả đến Nhà Thờ lớn thăm chút, rồi ghé Chùa Bà Đá cũng gần đó. Thả dọc ra bờ hồ Hoàn Kiếm. Đã nhộn nhịp. Quán cafe Lạc Thuỳ ở bờ hồ đã đông đúc. Vài bà đẩy xe bán bánh cam, cốm vòng… và những cô nàng quang gánh cốm vòng mùa thu đợi khách như cái thuở trong tiểu thuyết của Hà nội 36 phố phường quen thuộc ngày xưa… nhờ đọc Tự lực văn đoàn hồi còn nhỏ! Gởi bạn vài hình ảnh sinh hoạt coi vui nhe.

Thân mến

Đỗ Hồng Ngọc

 

Bờ hồ Hoàn Kiếm

 

 

Cốm Vòng

Cầu Thê Húc.

Các bé thực hành tiếng Anh với du khách nước ngoài

Các bạn trẻ rất thích xăm hình

 

Vẽ chân dung

 

 

 

Mình đến phố Đinh Lễ, khu sách cổ (thiệt ra sách loại nào cũng có!) tình cờ bước vào Sách Mụ Hoa. Sách chồng chất từ sàn nhà lên tới nóc, chừa lối đi hẹp lé, mua cuốn nào trên cao thì nữ gia chủ trèo thang lên lấy, đúng ngay cuốn đó! Giỏi thiệt!

Rồi thăm hỏi. Chị kêu: Ối là  bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, “Già sao cho sướng” đó à? Tôi thì thấy chả có ai là già cả! Ở đây tôi có đến 30 tựa sách của anh rồi đó. Mình hỏi tại sao chị lấy tên “Mụ Hoa” có phải muốn ví mình là Cô Mụ, nâng đỡ và chăm sóc cho sách không? Chị cười to: “Đúng vậy đó, nhưng không dám nói ra. Nay mới thấy anh nói đó…!”.

Mình bèn tặng bà cuốn Bản thảo: “Một ngày kia… đến bờ” và bà không quên tặng lại một gói Cốm Vòng thiệt to! Vậy đó.

Thuộc chủ đề:Ghi chép lang thang, Góc nhìn - nhận định

Vài cảm nghĩ nhân chuyến đi Đồng Văn, Mèo Vạc (Hà Giang)

11/11/2023 By Bac Si Do Hong Ngoc 2 Bình luận

 

Thư gởi bạn xa xôi (11.2023)

Vài cảm nghĩ nhân chuyến đi Đồng Văn, Mèo Vạc (Hà Giang)

Y như là có “thần giao cách cảm”. Đang loay hoay chọn vài hình ảnh để kể cho bạn xa xôi nghe về chuyến “phiêu lưu” về thăm Đồng Văn, Mèo Vạc (Hà Giang) của mình thì được ngay thư của anh Hai Trầu. Lạ thiệt.

“Dà, anh Ngọc ơi, anh chị dạo này có đi chơi đâu hông? Đang mong “Thư gởi bạn xa xôi tháng 11…” của anh Ngọc đây. Lương Thư Trung (11.11.2023)”

Muốn làm biếng cũng không được nữa rồi!

MÌnh vừa viết “chuyến phiêu lưu”  thì bạn hiểu rồi đó. Tuổi mình mà còn tính chuyện leo Cao Nguyên Đá Đồng Văn, Mèo Vạc, thăm Dinh vua Mèo, thăm nhà  Pao, dốc Thẩm Mã, sông Nho Quế… thì không phải “phiêu lưu” chớ là gì? Già cả lụm cụm rồi, khớp bắt đầu sinh sự rồi, huyết áp trồi sụt bất thường rồi, thế mà nghĩ lại, bây giờ mà không đi một chuyến… thì còn chờ đến bao giờ nữa…! Nhân có thằng con nghỉ phép mấy ngày chịu “dẫn đường” cho Ba Má thì còn gì hay hơn. Dặn trước, chỗ nào khoẻ, đủ sức thì đi, chỗ nào mệt thì thôi. Do vậy, mình cũng không thể đi theo “tua” cùng mấy bạn trẻ (dưới 80) được nữa rồi. Phải tự tổ chức “tua” riêng mà thôi.

Bạn nhớ Sông Lô không? Nhớ Trường ca Sông Lô của Văn Cao không? Sông Lô sóng ngàn Việt Bắc bãi dài ngô lau núi rừng âm u/ Thu ru bến sóng vàng từng nhà mờ biếc chìm một màu khói thu… Và Tiếng hát Sông Lô của Phạm Duy Trên nước sông Lô, thuyền tôi buông lái như xưa/ Sau lúc phong ba, thuyền tôi qua bến qua bờ … mà ngay từ hơn 70 năm trước bọn mình đã nhớ lõm bõm, nay thì Sông Lô đây rồi, mênh mông, xanh mướt. Cứ tưởng Sông Lô chỉ có ở Phú Thọ, Việt Trì, ai dè Sông Lô dài dằng dặc, xuyên suốt các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Phú Thọ, Vĩnh Phúc…

Sông Lô (Hà Giang)

Lạ, ở TP Hà Giang có Cột mốc “Cây số 0 Km” được nhiều du khách chụp hình kỷ niệm. Mình hơi ngạc nhiên, không biết Cây số 0Km này nghĩa là sao. Ở Mũi Cà Mau, cực Nam, mình cũng có đến Cây số 0 Km, là đánh dấu cột mốc biên giới. Xưa, ở tả ngạn sông Bến Hải, cũng có Cột cây số 0 Km, lúc chia đôi hai bờ Nam Bắc. Hỏi ra mới biết Cột số 0 Km này chỉ có nghĩa là trung tâm Thành phố Hà Giang, từ đó toả đi các nơi. Nghe nói Hà Nôi cũng sẽ có Cây số 0 Km ở Hồ Hoàn kiếm thì phải?

Nghỉ đêm ở khách sạn Yên Biên, rất đẹp. Nhìn núi non tầng tầng lớp lớp. Núi vắt qua mây, núi bay trên mây… thật khác những nói khác, mây bay lửng lờ trên núi.

Hà Giang 2.11.2023

Thú vị, Hà Giang có Yên Biên, thì Kiên Giang có An Biên, An Giang có Tịnh Biên… Quả là niềm mơ ước lớn!  Lạ nữa, ở Tiền Giang có Xẻo Mây (Cái Bè), thì ở Hà Giang có Seo Mẩy! Trời đất. Nơi  Xẻo Mây, nơi Seo Mẩy. Thiệt là dễ thương hết sức!

Đi ngang Tuyên Quang, còn di tích thành Nhà Mạc, thế kỷ 15. Chỉ còn chút kỷ niệm.

Đã quá trưa, ghé vào một quán ven đường: cá suối, tôm sông, gà đồi, cua đay, rau luộc… tuyệt vời! Xôi thì xôi ngũ sắc, chè cũng chè ngũ sắc…

Đường sá ở Hà Giang nghe nói đã khá nhiều lắm rồi đó. Mà đi vẫn rợn người. Đèo cao, vực sâu, hun hút. Sương mù giăng mắc khắp nới. Núi “tai mèo” nhô lên trùng trùng điệp điệp, còn hở chút hẻm đất đá nào thì trồng bắp, trồng tam giác mạch (Kiều mạch). Có những khu vườn Tam giác mạch rực rỡ mùa  hoa. Tuyệt đẹp.

Hoa tam giác mạch (Kiều mạch)

 

Đèo Thẩm Mã có lẽ là đèo đẹp nhất, lãng mạn nhất. Nghe nói xưa, là nơi thử sức ngựa.

Đèo Thẩm Mã

Núi đôi ở Quản Bạ là một kỳ quan. Bắt đầu thu rồi, hình như núi đôi cũng bớt khoe sắc.

 

 

 

 

 

Mã Pì Lèng xuống sông Nho Quế sương mù dày đặc. Đành chịu, đứng nhìn từ quán Cafe Panorama.

Đến Đồng Văn đã tối. Mọi người dùng món đặc sản Lẩu gà đen. Mình chịu. Chỉ quen ăn cháo buổi tối. Rồi “tranh thủ” đi tham quan Phố Cổ Đồng Văn vào ban đêm. Có vẻ như… massage chân là đông khách nhất. Nhậu, nhảy nhót, ca hát… từng bừng. Những ngày Chủ nhật, Rằm… nghe nói nhiều chương trình đặc sắc lắm.

Phố cổ Đồng Văn

 

 

Sáng sớm, đi Mèo Vạc. Con đường đèo cam go, nay đã được mở rộng, nhưng vẫn rất… rùng rơn.

 

Pả Vi, H’mong là một khung cảnh đẹp.

 

 

 

 

 

 

Ngày thứ 3, từ Mèo Vạc về Đồng Văn rồi về lại Hà Nội, gần đến nửa đêm. Khá vất vả.

Hẹn thư sau nhe.

Thân mến.

Đỗ Hồng Ngọc

(11.11.2023)

Thuộc chủ đề:Ghi chép lang thang, Góc nhìn - nhận định

Tuệ Sỹ: “Chén trà lão Triệu mà chưng hoa ngàn”

13/10/2023 By Bac Si Do Hong Ngoc 2 Bình luận

Chén trà lão Triệu mà chưng hoa ngàn

Đỗ Hồng Ngọc

Thị giả của Thầy Tuệ Sỹ nhắn tin tôi: Thầy Tuệ Sỹ đang ở Sài Gòn. Mời Bác đến Hương Tích chơi. Tôi đến. Tuệ Sỹ gầy ốm, xanh xao lắm. Nhưng vui vẻ, hoạt bát, thông tuệ như bao giờ!

Thầy Tuệ Sỹ và Đỗ Hồng Ngọc (ảnh Quảng Ngộ, 9.2023)

Thầy viết tặng tôi tập Thơ song ngữ: Dreaming the Mountain do Nguyễn Bá Chung và Martha Collins dịch (2023), cùng với cuốn Phạm Công Thiện của Nohira Munehiro (Võ Thị Vân Anh dịch) và Phật Học Luận Tập, số mới nhất.

Phần tôi, gởi tặng Thầy bản thảo “Một ngày kia… đến bờ” vừa mới viết xong. Trong đó tôi viết: Phật cũng già, cũng bệnh và… cũng chết; viết về Phật là Như Lai nhưng… Như Lai không phải Phật; về Thiền và những hormones hạnh phúc; về “Chất lượng cuộc chết” v.v…

Thầy đưa tôi coi mấy phiếu xét nghiệm và cười, nói: “Chỉ còn một nửa”. Đúng. Chỉ còn một nửa. Hématocrite chỉ còn 17%, Hémoglobine còn 7g/dL…

Mấy ngày sau tôi nghe sức khoẻ thầy đang rất yếu. Đã phải vào bệnh viện và được truyền 3 đơn vị hồng cầu lắng.

Trong bản thảo “Một ngày kia… đến bờ”, tôi có nhắc Je pense donc je suis của Descartes: Tôi tư duy, vậy có tôi. Vậy không tư duy là không… có tôi! Ta cũng có thể nói như một thầy thuốc: “Tôi thở, vậy có tôi”. Nghĩa là tôi không thở thì không có tôi. Nhưng cái thời tôi còn ở trong bụng mẹ, tôi cũng không thở mà vẫn có tôi đó thôi. Vậy phải chăng cái thời tôi… hết thở, tôi ngừng thở, thì tôi không còn nữa? Còn chứ! Tôi lúc đó lại trở về bào thai Mẹ, bào thai Như Lai (Tathagata-garbha) đó chứ!

Tuệ Sỹ viết trong Tổng quan về Nghiệp (2021), Thời kinh nói: “Thời gian đến, chúng sinh chín muồi; thời gian đi, chúng sinh bị hối thúc. Thời gian thức tỉnh chúng sinh…” Đây là tri giác về thời gian theo chu kỳ sống chết của sinh loại. Tri giác về thời gian cũng là tri giác về sự chết. Thời gian được biết đến từ tri giác về sự sinh thành và hủy diệt của một đời người.

Rồi khép lại hàng mi về cõi mộng

Như sương mai, như bóng chớp, mây chiều. 

Thì ra là lời của kinh Kim Cang đó:

Nhất thiết hữu vi pháp

Như mộng, huyễn, bào, ảnh

Như lộ diệc như điện.

Ưng tác như thị quán!

 

Thành ngữ kālaṃ karoti, “nó tạo tác thời gian”, nghĩa là nó chết. Đây không phải là tri giác mà là ám ảnh về thời gian như một thứ định mệnh không thể tránh, rồi ai cũng phải chết. Cho nên, về mặt ngữ nguyên, kāla, nghĩa là thời gian mà cũng có nghĩa là màu đen tối, màu của đêm tối, của sự chết. Kāla cũng được hiểu là do gốc động từ kal (kalayati) thúc giục, hối thúc, sự chết đang hối thúc ta (Tổng quan về Nghiệp,Tuệ Sỹ).

Lửa đã tắt từ buổi đầu sáng thế

Một kiếp người ray rứt bụi tro bay 

(Ngồi giữa bãi tha ma)

Trong bài “Phương nào cõi tịnh”, Tuệ Sỹ viết từ cảm hứng khi đọc cuốn “Cõi Phật Đâu Xa” của tôi về Kinh Duy Ma Cật (2017), ông dẫn 4 câu thơ, trích từ Giấc Mơ Trường Sơn:

Ta hỏi kiến nơi nào Cõi Tịnh,

Ngoài hư không có dấu chim bay?

Từ tiếng gọi màu đen đất khổ,

Thắp tâm tư thay ánh mặt trời. 

(Giấc Mơ Trường Sơn)

Phải, chỉ có Trí Tuệ (thắp tâm tư thay ánh mặt trời) mới có thể Từ Bi giúp ta vượt thoát màu đen đất khổ đó vậy!

Tuệ Sỹ cho rằng, “vì trình độ ngôn ngữ và năng lực tư duy của chúng ta vốn hữu hạn, cho nên bằng con đường nghệ thuật mà đi vào ngõ đạo có thể tương đối dễ hơn” (Phương nào cõi tịnh), ông chủ trương thơ, nhạc, vũ, kịch… có thể là “ngõ đạo”.

Ông thường nói về vở nhạc vũ kịch Duy Ma Cật, ở đó có hình tượng một Thiên nữ rải hoa trời tán thưởng một lời không nói (của Duy Ma…) và cõi của một lời không nói đó chính là cõi thơ.

Giữa thế giới Ta-bà và cõi Phật Chúng Hương, tòa sư tử và thành Tì-la-da, cái vô cùng lớn đến trong cái vô cùng nhỏ, và cái nhỏ đi vào trong cái lớn: đây cũng là cặp phản diện bối cảnh làm lộ rõ thể tính tồn tại của thế gian, vũ trụ. Bằng hình ảnh đó mà tập luyện cho tư duy vượt ngoài khuôn sáo ước lệ, vượt qua thế giới thường nghiệm để vươn lên cảnh giới siêu nghiệm, bất khả tư nghị.

Như thế, đọc Duy-ma-cật sở thuyết như đang xem một kịch bản, với những nhân vật và bối cảnh phản diện, với những biến cố mang đầy kịch tính, đó là cách tự huấn luyện và tự trang bị cho mình một công cụ định hướng tư duy để vươn lên chiều cao của giác ngộ.

Da mồi tóc trắng, chính là cảnh giới của Duy Ma. Cảnh giới đó là cõi đối biện thượng thừa; cõi im lặng vô ngôn bát ngát của cư sĩ Duy Ma Cật. Và cũng là cõi tịch mặc nhưng tráng lệ của thi ca.

Cười với nắng một ngày sao chóng thế

Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng

Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ

Bụi đường dài gót mỏi đi quanh 

(Khung trời cũ)

 

Tâm Thiền thì không có ngôn ngữ gì khác biệt với ngôn ngữ thường tình. Nhưng còn ngại rằng khi đã cạo tóc mà tình thơ vẫn còn. Thôi thì, thiền đạo và thi ca là đồng hay là khác, cũng chớ nên nghi ngờ mà tra hỏi.

Có lẽ “Những phím dương cầm” là bài thơ rất tình của ông tay em run trên những phím lụa ngà, anh trĩu nặng núi rừng trong đáy mắt, nhưng ông đã dặn “chớ nên nghi ngờ mà tra hỏi” rồi đó!

Tự hôm nào suối tóc ngọt lời ca

Tay em run trên những phím lụa ngà

 

Lời em ca phong kín nhụy hoa hờn

Anh trĩu nặng núi rừng trong đáy mắt

 

Mờ phố thị những chiều hôn mái tóc

Sóng ai ngồi so phím lụa đàn xưa 

(Những phím dương cầm)

Bởi theo ông, đạt tới cõi thượng thừa của Thơ, như người học Thiền chứng chỗ Không tịch của Đạo; cái đó vừa khó vừa dễ. Học Thiền ba mươi năm, ba mươi năm đày đọa thân tâm, mà không thành. Phẫn chí, bỏ đi; bất chợt thấy một cánh hoa rơi, cõi Không tịch cũng hoát nhiên, đột ngột mở ra. Chỗ ảo diệu đó, khó giảng cho thông! Muốn cho lời thơ tuyệt diệu, thì phải là đừng gò ép, vừa Không và vừa Tĩnh. Tĩnh cho nên thâu tóm hết mọi vọng động. Không cho nên bao hàm vạn cảnh. Ngắm nhìn sự đời, bôn ba giữa đời, mà thấy mình như nằm trên chóp đỉnh mây cao. Đủ hết các thứ mặn nồng, chua chát; trong đó có cái hương vị tuyệt vời. Thơ và Pháp (Đạo) không chống trái nhau, không hại nhau. (Tô Đông Pha, những khung trời viễn mộng, Tuệ Sỹ)

Đọc thơ Tuệ Sỹ, tôi thường ngẫm ngợi tại sao thơ ông thường nhắc đến ngày hội lớn, cung trời hội cũ?

Đôi mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũ

Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang 

(Khung trời cũ).

 

Người mắt biếc ngây thơ ngày hội lớn

Khóe môi cười nắng quái cũng gầy hao 

(Một thoáng chiêm bao)

Ngày hội lớn đó ở đâu? Cung trời hội cũ ở chỗ nào đó vậy? Sao nghe thấy quen quen!

A, có phải buổi hôm đó, dưới cội Bồ đề nơi Đức Phật thành đạo, Ngài nói đó là “quả an vui”, ở Hội thứ nhất của Avatamsaka, một thế giới hoa tạng mở ra bát ngát, Như Lai đã hiện tướng thành một vị Phật mắc biếc, ngây thơ, tủm tỉm cười… như hồi còn là chú bé 7, 8 tuổi ngồi xem Lễ Hạ Điền mà nhập định không hay?

Còn cung trời hội cũ kia phải chăng là Hội thứ chín, nơi rừng Thệ Đa, khi người ta nhập pháp giới, đi vào cuộc Lữ, để thấy được pháp giới thể tính mà thõng tay vào chợ?

Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở

Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan 

Trên đỉnh Hy-mã-lạp- sơn kia là những vỏ sò và dưới đáy biển sâu thẳm nọ là những hạt muối lâu đài thành quách…

 

Cõi thơ, có đến và có đi, nhưng không hề có dấu vết. Một cánh chim Nhạn, một cánh chim Hồng ngoài ven trời vạn dặm.

Tôi vẫn nghĩ, chính cõi thơ “không hề có dấu vết” kia đã “cứu rỗi” Tuệ Sỹ, một cánh chim Nhạn, một cánh chim Hồng ngoài ven trời vạn dặm, để ông được trở về với mái nhà tranh quen thuộc của mình mà “nâng chén trà lão Triệu”. (Phương nào cõi tịnh, Tuệ Sỹ).

Đỗ Hồng Ngọc

(Saigon, tháng 9.2023)

 

 

Thuộc chủ đề:Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Đỗ Hồng Ngọc: Thi Sĩ và Hơi Thở “Pranasati”

04/10/2023 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Đỗ Hồng Ngọc: Thi Sĩ và Hơi Thở “Pranasati”

Ngân Hà

 

Có lần lên thăm Thầy Thích Phước An trên Đồi Trại Thủy ở Nha Trang, Thầy nói: “Thi ca là một con đường khác để mình có thể đi vào trong chiều sâu của Phật Pháp”. Một vị cao tăng nói như vậy thì hiểu theo trải nghiệm của mỗi người chứ không nhất thiết là phải tranh luận thêm, và tôi vẫn tập tành trên con đường này để được trở về bên trong mình. Cho đến khi lớn lên, bỗng một ngày gặp thêm một vị đã tìm vào Phật Pháp bằng cả hai con đường: Y Khoa và Thi ca: bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc.

 

  1. Cái “thật tướng” mới đẹp làm sao

Trong số 7 cuốn thi ca và hơn 60 đầu sách về 3 lĩnh vực Y, Văn và Phật của tác giả Đỗ Hồng Ngọc, tôi đọc được khoảng… một phần ba các tác phẩm này thôi, còn thì đọc thêm trên trang nhà dohongngoc của ông nữa cũng lai rai thì không tính. Nhưng hễ có đầu sách mới ra là tôi chờ đợi, tò mò, mong được khám phá “Như Lai Tạng” của ông, các “Pháp” của ông biện biệt trong thi ca hay từng trang ông viết về sức khỏe thân tâm. Đọc ông viết về Phật Pháp dưới góc nhìn của một bác sĩ thì thấy được cái “điên đảo mộng tưởng”. Đọc ông viết về Phật Pháp dưới góc nhìn của một thi sĩ thì “còn nhớ trên đầu một chữ Như”. Đọc ông viết về Phật Pháp mà dưới góc nhìn của con người với tổng hòa các mối quan hệ xã hội thì “Hóa ra chỉ có một sự chân thành từ một tấm lòng mới đến được với tấm lòng”. Cuối cùng đi từ biện biệt để đạt đến một sự thinh lặng như không, chẳng còn lời giải thích nào nữa, là Thiền.

Ông cũng viết về Thiền và hành Thiền, và ông nắm nguyên tắc Thiền Anapanasati với câu chú tự trong ông miên mật “Thả lỏng toàn thân, thả lỏng chưa?”. Sau đó là bài vè mà ông sáng tác có tên “Pranasati” đúc kết các kỹ thuật Thiền:

Thả lỏng toàn thân/ Như treo móc áo/ Ngồi xếp bằng tròn/ Vai ngang lưng sổ/ Dõi theo hơi thở/ Như mượn từ xa/ Khi vào khi ra/ Khi sâu khi cạn/ Chú tâm quãng lặng/ Pranasati/ Hơi thở xẹp xì/ Thân tâm an tịnh/ Không còn ý tưởng/ Chẳng có thời gian/ Hạt bụi lang thang/ Dính vào hơi thở/ Duyên sinh vô ngã/ Ngũ uẩn giai không/ Từ đó thong dong/ Thõng tay vào chợ…

Định nghĩa về sức khỏe của ông cũng là một sự đúc kết từ chính cuộc đời mình mà ông đã tự bạch trong bài viết “Tôi bây giờ” năm 2023: “Khỏe là một trạng thái hoàn toàn sảng khoái (well-being) về thể chất, tâm thần và xã hội”. Nghe có vẻ rất… dễ hiểu đấy, nhưng mà sống chất lượng như thế thì phải luyện rèn chứ không thể chỉ nói suông và nghe suông. Trải nghiệm là lối đi của người trí đến với huệ, của tia chớp đạt ngộ khi nhận ra “cái thật tướng ấy mới đẹp sao” thì mới thấy “Tất cả mọi sự ở đời như giấc mộng, như huyễn, như bèo bọt, như ảo ảnh, như sương mai, như điện chớp…” nhận ra để không còn bám chấp hay ảo vọng thì mới thật có đời sống “Well-being”.

Người học Thiền ngày càng nhiều, đi hành Thiền ngày càng đông, nhưng để chuyển hóa thành thi ca với cái tên gọi riêng từ tiếng lòng mình đặt ra thì có lẽ tôi mới có biết được mỗi một mình ông.

 

  1. “Ở đó, ta có quãng lặng”

Nhà thơ William Blake đã có 4 câu thơ được truyền tụng đến ngày nay: “Thấy thế giới trong một hạt cát nhỏ/ Và thiên đường trong mỗi đóa hoa tươi/ Giữ Vô hạn trong bàn tay hé mở/ Và Thiên thu trong khoảnh khắc cuộc đời”, nhưng ít ai đọc được điều này từ Blake: “Trong vũ trụ, có những thứ đã được biết đến, và những thứ chưa được biết đến, và ở giữa, có những cánh cửa”.

Có lẽ thi sĩ Đỗ Hồng Ngọc cũng đã tìm ra con đường của mình để đi vào những cánh cửa ở giữa đó: “Và tôi, nhờ cái vốn y học, đã tìm trong Cơ thể học, Sinh lý học, Thần kinh học, Tâm lý học… từ đó mà thấy con đường rất khoa học Phật đã dạy cho Thiền Định: Anapanasati, Quán niệm hơi thở… Từ đó tôi nghiền ngẫm thực hành và đặt một từ cho riêng mình: “Pranasati”: đặt Niệm vào khoảng trống ở giữa hai hơi thở vào và hơi thở ra. Khi vào Định thì không còn “nhớ nghĩ” gì đến hơi thở nữa… Đó có thể coi là một bardo, trung gian giữa hai hơi thở vào và hơi thở ra. Ở đó, ta có quãng lặng, không thở, ngưng thở, một “quãng chết ngắn”. Đó là cách “tập chết” hiệu quả mỗi ngày mà có lẽ các hành giả Mật thừa trải nghiệm quá trình sự chết, học tập sự chết… Pranasati cũng được người xưa coi là “Nguồn sống” ấy là cõi không thở, cõi trước khi thở… Đây cũng chính là giai đoạn người ta sống trong bào thai mẹ, hay trở về bào thai Như Lai, Như Lai tạng”.

Cái “quãng lặng” ấy thật vi diệu và sâu thẳm tận cùng. Trong âm nhạc, quãng lặng để cảm xúc được giữ lại ngưng đọng rồi vọt trào. Trong hội họa, quãng lặng là những tiếng thở cuối cùng đọng lại khi ta rời khỏi tác phẩm. Trong thi ca, khoảng lặng chính là “đêm tối với khoảng trống trần gian” của Rilke. Trong quãng lặng của Đỗ Hồng Ngọc, ta chẳng thấy gì nữa khi đã thực sự bước qua bờ bên kia nhờ “Nguồn sống” Pranasati.

Trong kinh Luận Vãng Sanh mà tôi từng đọc trong những ngày đầu sau người thân lìa đời, bài kinh dài với nhiều từ ngữ liệt kê, tôi nhận ra mình đã vô cùng kinh ngạc khi đọc câu: “Cái không” không thể nào hủy diệt “cái không”. Chính lời này đã giúp cho tôi và người đã ra đi được an lành đến cõi sáng.

Đó phải chăng chính là khởi sự cho sự chết bắt đầu bằng sự sống quy hồi vĩnh cửu?

Chỉ trong khoảng vài trăm chữ ngắn ngủi, nhưng bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đã mô tả rõ ràng về cái chết và sự tái sanh liền kề trong chứng nghiệm của riêng ông. Nếu một y sĩ mà không đi vào các Pháp bằng con đường của thi ca, thì ông sẽ chứng nghiệm thế nào? Đó là câu hỏi mà tôi dành lại cho sự chứng nghiệm của các bạn đọc, bởi vì tôi, sau khi đọc những dòng trên thì đã tự trả lời cho riêng mình rồi.

 

  1. Hạt bụi và cánh bướm

Mở đầu tác phẩm “Triết học về Tánh không”, thầy Tuệ Sỹ ghi vài dòng lời của triết gia Martin Heidegger mà tôi tạm dịch là: “Vào một ngày hè, con bướm đậu trên bông hoa và khép cánh, đung đưa theo gió đồng cỏ nội” (Aus der Erfahrung des Denkens – Kinh nghiệm Tư tưởng)

Tác phẩm này Ôn Tuệ Sỹ viết ở tuổi hai mươi lăm với câu kết “Nếu ta coi nó như là ngón tay chỉ mặt trăng, vậy thì mặt trăng đang lơ lửng nơi phương nào?…”

Tôi đọc một câu mang tư tưởng triết lý mà nghe ra trong đó có thi ca, âm nhạc và cả hội họa. Hình ảnh cánh bướm, sự tĩnh tại khi đong đưa đôi cánh theo hơi thở đồng nội thanh tân. Tôi càng cảm khái hơn khi đọc những dòng tác giả Đỗ Hồng Ngọc trong bài “Con đường trung đạo”, ông ghi lại hình ảnh Đức Phật lúc mới khoảng 10 tuổi, theo vua cha làm lễ Hạ Điền đầu năm, “ngồi dưới bóng cây giữa cánh đồng mát mẻ, không bị “dính mắc” gì với buổi lễ Hạ điền dưới kia, lúc đó Ngài chẳng biết gì về tham thiền, nhập định hay tứ thiền bát thiền gì cả vì hãy còn rất nhỏ, chỉ biết hồn nhiên, trong sáng, vậy là đã ly dục, ly tầm ly tứ, vào sự sảng khoái lâng lâng gọi là hỷ lạc và đã thực sự thanh tịnh… Nếu sống hồn nhiên như một em bé thảnh thơi, thanh tịnh thì đã vào Tam muội Phổ Hiền rồi vậy!”.

Cho nên, đối nghịch với cái ngây thơ trong sáng tĩnh lặng thảnh thơi ấy, con người tự đọa mình vào những “hì hục từng bước từng cấp, tu đến “xì khói” với bao mong cầu ước nguyện…, “Ngã” cứ ngày càng to đùng ra, nào chùa to Phật lớn, nào lên chức lên lon, huênh hoang màu mè diêm dúa, rồi hù dọa chúng sanh để vinh thân phì gia… thì không còn hành trì Chánh pháp nữa”, bác sỹ Đỗ Hồng Ngọc viết.

Bài viết cuối cùng trong tập bản thảo Một Ngày Kia Đến Bờ, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đặt tựa “Tôi bây giờ”, còn tôi thì mạo muội thêm vào vế sau “chính là Như Lai – Nó đến vậy đó” như nguyên nghĩa của “như lai”. Và tôi thấy ông đang có đời sống trẻ thơ “Từ tuổi 60 đến giờ bệnh lai rai. Tôi kệ nó. Tôi không thích mấy thứ xét nghiệm nọ kia. Và rất hạn chế dùng thuốc. Nhất là không ưa mấy thứ quảng cáo bổ dưỡng này nọ, theo tôi, không bằng ăn cơm với cá kho, với khô nướng, rau luộc, khoai lang, bắp và chè các thứ…”. Mà lại càng đúng bởi đã sống sau một lục thập hoa giáp, thì từ sáu mươi trở đi là trở về lại làm đứa trẻ hát ca lang bạt kỳ hồ cho đến một ngày kia đến bờ… gaté gaté paragaté parasamgaté bodhi svaha” thôi chứ còn tham sân si với hỉ nộ ái ố làm chi. Đã biết sống hạnh phúc “well-being” thì sẽ rời đi trong niềm vui “well-dying”.

Như cánh bướm mùa hè yên lặng đong đưa trong gió đồng nội thổi tới của Heidegger, như W. Blake “thấy thế giới trong một hạt cát nhỏ và Thiên đường trong mỗi đóa hoa tươi”, thì thi sĩ Đỗ Hồng Ngọc đã trở mình với “Hoàng hôn sóng vỗ bên trời biếc/ Sóng vỗ trong hồn ta ngẩn ngơ…” (trích Thơ Đỗ Nghê).

Cánh bướm, hạt bụi, hoàng hôn, sóng vỗ… trong cõi vô cùng vô tận của vũ trụ càn khôn này, có phải chăng cũng chính là ưu tư về Tánh Không Luận của Tuệ Sỹ đã tự đặt câu hỏi và trả lời ở tuổi hai mươi lăm: “Trong tư tưởng, mọi sự trở thành cô liêu và lững thững”.

Còn tôi thì xin tặng bài “vè” này cho tác giả Đỗ Hồng Ngọc:

Thì giờ đây mọi sự đã rõ rồi
Tôi là tôi, Tôi Bây Giờ là tôi
Tôi là Nó cùng đến như vậy đó
(Tịnh Thủy)

 

Ngân Hà

(phatviet.info 3.10.2023)

.

 

Thuộc chủ đề:Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định, Thiền và Sức khỏe

Thư gởi bạn xa xôi (9.2023 tiếp)

27/09/2023 By Bac Si Do Hong Ngoc 1 Bình luận

 

Thư gởi bạn xa xôi (9.2023 tiếp)

Bạn thân mến,

Thứ bảy rồi, 23.9.23 mình có buổi “Trò chuyện” cùng các bạn trong Lớp Phật học & Đời sống ở chùa Xá Lợi, Tp. HCM. Lớp được Thầy Đồng Bổn trụ trì chùa Phật học Xá Lợi cho phép thực hiện từ 2017, đến nay cũng đã được 6 năm rồi chớ ít gì! Trước kia, tuần nào mình cũng có một buổi trao đổi rất “sôi nổi” vói các bạn, với sự trợ giúp của Cư sĩ Minh Ngọc và Cư sĩ Trí Tâm (Tô Văn Thiện). Các buổi thảo luận Phật pháp “ứng dụng” vào Đời sống này còn được Nguyễn Văn Quyền quay video clip đưa lên youtube với hơn 50 buổi để chia sẻ cùng bạn bè ở xa hoặc chưa có cơ hội đến lớp. Lúc đầu mình đặt tên lớp là “Lớp Lỏng Lẻo”, nghĩa là ai muốn học thì đến, cùng học, cùng chia sẻ với nhau, không ghi danh, không học phí… vậy mà cũng khá đông các bạn tham gia tích cực. Vài năm nay mình đã “già yếu”, không còn đến Lớp thường được như xưa, anh em bạn bè nhắc…

 

Buổi sinh hoạt Phật học & Đời sống ngày Thứ bảy 23.9.2023 tại chùa Phật học Xá Lợi.

Mình đọc một bài Thơ của Thầy Thích Từ Thông, Như Huyễn Thiền sư để các bạn cùng thảo luận. Thầy Từ Thông, sinh 1927 tại Trà Vinh, nay đã 96 tuổi, ở Lâm Đồng. Xưa, có lần được gặp Thầy ở Tân Uyên, Bình Dương lúc thầy hãy còn trẻ, ngoài 70. Lần đó thầy bảo sách của thầy đầy tủ, muốn lấy cuốn nào thì lấy. Lúc đó mình ôm cũng chừng 5,7 cuốn “Trực Chỉ” của Thầy, giảng kinh rất sâu sắc mà phóng khoáng. Thầy đã từng là Hiệu trưởng Trường Phật học Trung Cấp nhiều năm.

Thầy có bài thơ gần đây rất thú vị, nói về chuyện “tụng”:

Ta và Nó (Lời than của Phật)

Ta nói Kinh cho chúng nó nghe

Ai dè chúng Tụng bắt Ta nghe

Tuổi già tám chục nghe gì nữa?

Chín tiếng ngồi trân sụm bánh chè!

(Như Huyễn thiền sư).

Phật “nói” ra thì đã thành Kinh sách. Nói để dạy Đạo, dạy cách sống, giải thoát khổ đau cho kiếp người. Khi Phật nhập Niết bàn, được các đệ tử ghi chép lại thành Kinh. Bây giờ thiên hạ “tụng” không ngớt và mỗi lần Tụng kinh thì “thỉnh Phật” chứng giám. Đã mấy ngàn năm qua, người ta vẫn tụng, vẫn thỉnh Phật để Phật cùng “nghe”. Tuổi 80, Phật nhập Niết bàn, vẫn phải tiếp tục ngồi nghe… đến bây giờ!

Thầy Như Huyễn Thiến Sư gốc Trà Vinh, lời thơ có những từ rất Nam bộ như “bắt Ta nghe”, “sụm bánh chè” rất thú vị. Ngồi “trân” là ngồi ngây đơ,cứng ngắt, đứng dậy sụm đầu gối…

Vấn đề thảo luận là nên đọc Kinh cách nào cho hữu ích? Nhớ rằng, nhờ đọc kinh ê a mà tâm lắng đọng, nhờ đọc kinh to tiếng mà Huệ Năng nghe trộm câu Kinh “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” mà giác ngộ. Nhưng nếu đọc Kinh mà thành mê tín, dị đoan, vì không hiểu ẩn nghĩa, từ ngữ trong Kinh thì chỉ thêm mệt mỏi, đau ốm rồi “đổ thừa” Phật. Trước khi nhập Niết bàn Phật nói, ta chưa hề nói điều gì, ta chưa dạy ai điều gì, bởi vì Phật biết sau này có Internet, có AI… dễ bị xuyên tạc, làm sai, rồi đổ thừa lắm!

Trong tập Như Huyễn Thiền Sư Thi Tập, trang 320, có khác vài chữ. Trực Chỉ là lời giải của Thầy.

NHƯ HUYỄN THIỀN SƯ THI TẬP (TRỌN BỘ) – HT.TỪ THÔNG 

TA VÀ NÓ.
(Lời than của Phật)

Ta nói kinh nhằm dạy nó nghe,
Nào ngờ nó lại bắt ta nghe.
Tuổi già tám chục nghe gì nữa?
Chín tiếng ngồi trân sụm bánh chè!

TRỰC CHỈ.

Kinh :Gọi đủ là KHẾ KINH. Kinh là dùng văn tự ghi chép lời Phật dạy, do hàng đệ tử Phật kiết tập sau này. Sinh tiền Phật chỉ nói chớ chẳng thèm ghi. Bởi vì, những gì Phật nói không phải của Phật. Đó là tài sản chung của loài người, là tánh vốn có của vũ trụ thiên nhiên.

Tụng kinh, đọc kinh, nghe kinh, học kinh cốt để biết, để nhớ, để ứng dụng qua đời sống thực tiễn của con người. Ứng dụng lời Phật, ý kinh con người sẽ cởi mở, buông bỏ, gột rửa những nguyên nhân và quả khổ ràng buộc, bức bách , khổ đau trong cuộc sống. Chủ đích của sự tụng nghe, học kinh là ở đó.

Tụng kinh không cần thỉnh Phật nghe, Phật thuộc rồi mới nói ra, đệ tử ghi lại đó chứ. Tám mươi tuổi rồi. Từ khi viên tịch đến thế kỷ XXI này, hơn hai ngàn năm rồi. Vậy mà mời Phật dự những buổi tụng kinh 8, 9 tiếng đồng hồ, hãy tưởng tượng Như Lai chịu sao cho nổi? Mà Như Lai nghe để làm gì? Như Lai nghe để khen và ban phước ư? Như Lai không làm được điều đó!

Tu học Phật cốt yếu là “sửa” mình, sửa thân, khẩu , ý. Mong chờ ở đạo Phật cái gì khác sẽ thất vọng cho đến lúc vĩnh biệt trần gian.

NHTS.

…………………………………………….

Rồi nhớ tháng trước, mình có dịp đi cùng các bạn trẻ thăm Sư Viên Minh. Hôm đó Thầy tặng mình cuốn Thi kệ của Thầy, và thầy đọc cho mọi người nghe mấy câu thi kệ ở trang 330.

Bỏ Tông, về lại chính mình

Bỏ Dòng, bỏ Phái, bỏ Kinh ngôn từ

Ngay đây thấy pháp vốn như

Tuyệt không sở đắc: Vô Dư Niết-bàn!

Sư Viên Minh

 

Bạn nghĩ thế nào?

 

Thăm Sư Viên Minh ở Chùa Bửu Long, Q9,

Một bài kệ của Thầy Viên Minh trong cuốn Thi kệ Chân Như Thực Tại, trang 330

 

 

 

 

 

 

Vậy nhé,

Chúc An Vui,

Đỗ Hồng Ngọc.

Thuộc chủ đề:Ghi chép lang thang, Lõm bõm học Phật, Vài đoạn hồi ký

Thư gởi bạn xa xôi (9.23): Lagi mùa nước nổi

26/09/2023 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Thư gởi bạn xa xôi (9.23)

Thân gởi bạn,

Đã lâu. Thật có lỗi. Người hiền lành như anh Hai Trầu mà cũng phải cằn nhằn. “Tui mong Thư gởi bạn xa xôi của anh để biết anh… còn khoẻ không và đang làm gi, mà mãi chẳng thấy…”. Khoẻ không thì mình cũng hổng biết anh Hai à. Chỉ thấy bây giờ thường uể oải khi thay đổi thời tiết. Làm biếng. Mưa bão triền miên. Saigon ngập lụt. Đà Lạt cũng ngập lụt, lún sụp, sạt lở…

Lúc này có dịp thì chạy về Phan Thiết, Lagi quê mình chơi, thường đi cùng mấy người bạn, tìm chỗ yên tĩnh, cụng cà phê, cụng dừa…

Dịp này mình cũng “ra mắt” tập Bản thảo Tuỳ bút: “Một Ngày Kia… Đến Bờ” vừa in ít mẫu pretesting.

(https://thuvienhoasen.org/a40038/mot-ngay-kia-den-bo)

Gởi bạn vài hình coi vui nha.

Cafe Cánh Đồng Lagi 9.2023

 

Cocobeach Ngô Tiến Nhân và ĐHN

 

 

Đập Đá Dựng (từ trái) Thanh Nguyên, Đỗ Hồng Ngọc, Trần Phi Hùng, Diệu Viên (Mai Thuý), Ngô Tiến Nhân (Nhóm Học Phật chùa Xá Lợi Sàigòn)

 

Cafe sáng với nhà văn Nguyễn Lệ Uyên bên hồ nước

 

Vườn cau, ao cá. Tối ếch kêu, sớm gà gáy, đầy tiếng chim…

 

Đỗ Hồng Ngọc, “nhà quê thứ thiệt” và một chốn thân quen.

 

Vậy nhe,

Thân mến

ĐHN

Thuộc chủ đề:Ghi chép lang thang, Thiền và Sức khỏe, Vài đoạn hồi ký

Nguyễn Thị Khánh Minh: MƯA BAY THEO THỜI GIAN

25/09/2023 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

MƯA BAY THEO THỜI GIAN

Nguyễn Thị Khánh Minh
Hoa phượng sân trường
 
     *tặng Duyên.
Những con đường nắng gọi. Leng keng tiếng chuông người đưa thư reo ngát cổng hoa sứ. Những lá thư hẹn hò năm tháng. Ta yêu nhau tuổi hai mươi. Trời sài gòn rất thơ. Nắng Sài Gòn rất lụa. Nên em hoài áo trắng. Nên anh yêu mầu áo ấy vô cùng.* Ơi thi sĩ nhịp tim dịu mềm cỏ mật.
Những con đường mưa xanh. Trời sài gòn rất nhạc. Nhạc sài gòn rất mộng rất điên mơ… thà như giọt mưa rơi trên mặt duyên em tóc ngắn học bài ngoan bên cửa sổ người từ trăm năm về ngang trường Luật chút đong đưa tiễn người mai xa phố, mộng mị hành trang nhớ hạt mưa thơm Sài Gòn hút bóng đường xa thương người thơ cô độc.**
Thảng thốt cánh phượng mùa Hè. Trời tung gió chướng. Giấc mơ sai bè thanh xuân cụt giọng đồng ca những nốt ngày rụng rơi bóng tối. Trời Sài Gòn phượng tan mùa nắng lửa. Đường Sài Gòn cuồn cuộn biển đưa chân. Ta chạy mòn hơi. Mưa khô trên tượng đa*** những duyên Sài Gòn những hạt mưa trong…
Run rẩy thời gian nghe thanh xuân chớm chở nhánh thu đông. Lá thư xưa giấy mềm như bụi những hẹn hò chờ mãi lãng quên. Mầu áo lụa phai rồi sắc nắng lời thơ người khô tượng đá xanh. Hạt mưa còn thơm trên mặt duyên để nghe Sài Gòn âm vang điệu thanh bình cũ ơi đâu rồi nước mắt mỏng tơ sương?
Con bọ cam trên chiếc lá đầy gai sáng nay gọi mặt trời thức dậy. Khóa Sol búng mình nhấp nháy. Một vòng mùa đệm mới những bổng trầm reo khúc hát thanh tân, những nốt nhạc long lanh hạt mưa trong ngày ấy. Ơi duyên những hạt mưa qua mùa. Sống sót. Ngân thời gian lệ vĩnh cửu hồn nhiên.
Em thấy anh trên con đường bình minh. Nắng tháng 3 anh đem tới. Mùa Xuân mở vàng daffodil. Và em. Vừa qua giấc ngủ đông. Mọc lên trái tim thanh khiết.
Trở lại. Cùng tháng năm. Mùa Xuân khoan thai khúc dạo đầu. Ta cũng vừa kịp tới. Rất đúng nhịp. Mưa mùa xuân rất trong. Trời Calif. rất xanh.
22.3.2017
NGUYỄN THỊ KHÁNH MINH
(Nguồn: sangtao@org)
* Nguyễn Thị Khánh Minh
** Thơ Nguyên Sa.
*** Thơ Nguyễn Tất Nhiên, nhạc Phạm Duy
(nguồn: Nguyễn Xuân Thiệp phovan)

Thuộc chủ đề:Ghi chép lang thang, Nghĩ từ trái tim

Trần Vấn Lệ: Bây Giờ Ngày Nửa Ngày Thôi

22/09/2023 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Bây Giờ Ngày Nửa Ngày Thôi

Bây giờ… ngày nửa ngày thôi:  sáng e ấp nắng, trưa trời âm u.  Sẵn sàng để đón mùa Thu, lá xanh đang úa rồi từ từ rơi…
Bây giờ, ngày nửa ngày thôi.  Dẫu còn một nửa hơn ngồi phủi tay?  Triệu người đi đó đi đây, sống tha hương để thấy ngày tha hương!
Dĩ nhiên ai cũng nói buồn, may ra đám trẻ đến trường thì vui?  Chiếc xe bus vàng thả hơi khói xanh mấy cọng chút bùi ngùi bay…
Hôm nay tôi nói về ngày:  chút gang tấc đủ ngất ngây it nhiều! Mai không có sáng, còn chiều, mùa Thu, Đông vẫn cố phiêu phiêu bồng!
 
Em à, thương chẳng nên đong… bởi bao nhiêu nhớ ở cùng tóc xanh!  Bờ sông gió có rập rình đủ khuây khỏa nhé lòng mình xót xa! 
 

Trần Vấn Lệ

Thuộc chủ đề:Ghi chép lang thang, Vài đoạn hồi ký

Từ góc nhìn “Phê bình sinh thái” về bài thơ “Rùng mình” của Đỗ Hồng Ngọc

15/09/2023 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Từ góc nhìn “Phê bình sinh thái”

về bài thơ “Rùng mình” của Đỗ Hồng Ngọc

Đỗ Thị Thanh Nga

(Học viên Cao học K31. Trường ĐH Sư Phạm Huế)

 

Rùng mình… 

                                  Tùng địa dũng xuất (Kinh Pháp Hoa)

Người rùng mình hỏi vì sao động đất sóng thần

cứ triền miên hết ngày này sang ngày khác?

Vì sao núi lửa cứ phun trào?

Vì sao băng tan vì sao bão táp…?

Vì sao trẻ con người già bị cuốn trôi bị thiêu đốt

thành phố tan hoang cửa nhà đổ nát

như món đồ chơi của một đứa trẻ đang giận dữ

Vì sao và vì sao?

 

Nhưng hãy lắng nghe

Dù trong giây lát

 

Trái đất cũng đang rùng mình tự hỏi

vì sao những ngọn núi cứ triền miên đổ sập?

vì sao những dòng sông nghẽn tắt?

vì sao những mủi đao cứ ngày đêm xoáy sâu vào lòng đất?

Vì sao chim rừng cá biển không chốn nương thân

Vì sao cổ thụ mầm xanh bị tận diệt

Vì sao lúa bắp phải cấy ghép gen người?…

Vì sao và vì sao?

 

Ta nương tựa vào nhau.

Nay có vẻ đã không còn cần nhau nữa!

Đất rùng mình phận đất…

Người rùng mình phận người…

 

(Tạp chí sông Hương, 4/6/2018)

 

Đỗ Hồng Ngọc (bút danh Đỗ Nghê) là một bác sĩ, thi sĩ, một nhà văn tận tụy với

nghề và tận tâm với đời. Nói như Nguyễn Hiến Lê: “…Một bác sĩ mà lại là một

thi sĩ thì luôn luôn làm cho chúng ta ngạc nhiên một cách thú vị…”. Thơ của ông

vừa hồn nhiên, mộc mạc, pha chút lãng tử hiện đại; lời thơ ngẫu nhiên không theo

một khuôn khổ, nhưng người đọc lại tìm được một khoảng không bình yên. Ông

từng chia sẻ: “Tôi viết sách là những thể hiện riêng tư và chiêm nghiệm của tôi.

Khi mới ra trường, tôi viết cho học trò như người bạn, người anh viết cho bạn

mình, em mình. Khi tôi có con, tôi viết cho những bà mẹ sinh con đầu lòng. Đến

50 tuổi, tôi cảm thấy chút heo may và tôi viết “Gió heo may đã về”. 60 tuổi về

hưu, tôi viết “Già ơi chào bạn”…

 

Thơ tại sao mà làm ra? Là bởi “như không thôi đi được” (Chu Hy). Những người

làm thơ trên cõi nhân gian đều “không thôi đi được”. Không thể thôi đi tiếng nói

trước cuộc sống. Đó là tiếng nói được bật lên khi tâm hồn va chạm với những vấn

đề đau đớn của cuộc đời, những trằn trọc suy tư về phận mình, phận người và thế

giới xung quanh. Thế giới vốn bình yên bỗng dưng bị sụp đổ, môi trường bị tàn

phá, thiên tai dữ dội hơn… Bức xúc và đau đớn, lo âu và bất bình, mẫn cảm với

vấn đề môi trường có ý nghĩa toàn cầu, cũng có nghĩa là tính mệnh con người bị

đe dọa, những tiếng nói tự phát bằng văn nghệ đã cất lên. Trong dòng văn học

sinh thái của nước ta phải kể đến những tác giả như: Nguyễn Huy Thiệp, Lê Văn

Thảo, Nguyễn Ngọc Tư, Võ Diệu Thanh, Trương Gia Hòa, Mai Văn Phấn, Đặng

Bá Tiến, Trần Anh Thái…. Thơ “sinh thái” của Đỗ Hồng Ngọc viết chưa nhiều

nhưng đã góp tiếng nói riêng trong dòng văn học sinh thái. Một số bài thơ “sinh

thái” của ông như: Nước, Giỗ một dòng sông… Nhưng hay hơn cả có lẻ là bài thơ

“Rùng mình”. (In trên Tạp chí Sông Hương ngày 4 tháng 6 năm 2018).

 

Thiên nhiên trong thơ ông vốn giản dị, trong sáng, bình thản như hơi thở, như khí

trời. Nước, gió, trăng, sao, sông, sóng…vô thủy, vô chung, an nhiên tồn tại từ

ngàn năm trước đến ngàn năm sau:

 

Nước từ đâu đến

Nước trôi về đâu

Từ con suối nhỏ

Từ dòng sông sâu

Từ khe núi lở

Từ dưới nhịp cầu

Từ cơn thác lũ

Từ giọt mưa rơi…

Nước vẫn muôn đời

Không đi chẳng đến

Ai người nỡ hỏi

Nước đến từ đâu

Ai người nỡ hỏi

Nước trôi về đâu…

(Nước, Vòng Quanh, NXB Trẻ 1997)

 

Sông ơi cứ chảy

Cứ chảy về trời

Cứ về biển khơi

Cứ làm suối ngọt

Cứ làm thác cao

Cứ đổ ầm ào

Cứ làm gió nổi

Cứ làm mây trôi…

(Giỗ một dòng sông, Thơ Ngắn Đỗ Nghê, NXB Văn hoá – Văn nghệ, Tp.HCM 2017)

 

Vạn vật bình đẳng, sự hòa điệu giữa con người và vũ trụ mang lại cho người đọc

cảm nghiệm mới về thời gian, về sự sống trong guồng quay của tạo hóa. “Nó

thôi thúc con người ý thức về mối quan hệ của cá nhân và vũ trụ, để kết nối, để

sống hết mình trong sự sống chứ không phải để thở than nhân sinh như mộng”

(Tịnh Thy) Nhưng đến với bài thơ “Rùng mình” mối quan hệ giữa vạn vật và con

người không còn là mối quan hệ tương hổ, hài hòa mà là mối quan hệ đổ vỡ:

Người rùng mình hỏi vì sao động đất sóng thần cứ triền miên hết ngày này sang

ngày khác? Vì sao núi lửa cứ phun trào? Vì sao băng tan vì sao bão táp…? Vì sao

trẻ con người già bị cuốn trôi bị thiêu đốt thành phố tan hoang cửa nhà đổ nát

như món đồ chơi của một đứa trẻ đang giận dữ Vì sao và vì sao?…

Những hình tượng sinh thái chỉnh thể bị phá vỡ cấu trúc nên nảy ra bao tai họa:

động đất sóng thần, núi lửa, băng tan, trẻ con người già bị cuốn trôi bị thiêu đốt

thành phố tan hoang cửa nhà đổ nát như món đồ chơi…Con người “rùng mình”

hỏi – hỏi trái đất, hỏi vạn vật, hỏi thế giới xung quanh nhưng lại không tự hỏi

chính mình. Hướng ra bên ngoài với hàng loạt câu hỏi không có câu trả lời, con

người giận dữ như một đứa trẻ giận dữ? Những câu hỏi dồn dập như là một sự

thắc mắc, oán thán, hờn trách, đau đớn và bất lực trước những tai họa mà thiên

nhiên đã và đang mang đến. Nhưng có lẽ con người vẫn cứ vô tâm, vô tình, vô ơn

đến mức không nhận ra chính mình đang hủy hoại chính ngôi nhà của mình. Khi

mà những câu hỏi ai oán, đau đớn, dằn vặt, buồn thương và cả xót xa bật lên

nhưng không một lời đáp trả thì nhà thơ như một nhà khoa học, nhà sinh học, nhà

địa lí, nhà xã hội học đã yêu cầu ta hãy lắng nghe- lắng nghe tiếng nói của trái đất:

 

Nhưng hãy lắng nghe

Dù trong giây lát

 

Lắng nghe để thấy không chỉ con người kêu gào, đau đớn và tuyệt vọng mà cả trái

đất cũng đang “đau” đang “sợ”, đang “rùng mình” “tự hỏi”:

Trái đất cũng đang rùng mình tự hỏi vì sao những ngọn núi cứ triền miên đổ sập?

vì sao những dòng sông nghẽn tắt? vì sao những mũi đao cứ ngày đêm xoáy sâu

vào lòng đất? Vì sao chim rừng cá biển không chốn nương thân Vì sao cổ thụ

mầm xanh bị tận diệt Vì sao lúa bắp phải cấy ghép gen người?… Vì sao và vì

sao?

Ngay từ khi sinh ra, con người đã có tương quan mật thiết với môi trường sống.

Nhưng họ được dựng nên, được đặt vào trong thế giới với lời nhắn nhủ đong đầy

thương yêu: “Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời và mọi giống vật bò trên mặt

đất”. Thời gian thấm thoát trôi nhanh, con người ít nghĩ tới, và chẳng mấy quan

tâm về mối tương quan với sinh thái. Nguy hại hơn, chính những hành động “bá

chủ” quá mức và thiếu ý thức của con người khiến cho Trái đất phải gánh gồng

nỗi đau, phải lâm cảnh hiểm nguy đến độ đang kêu gào than khóc.

Khi sáng tạo trời đất, Thiên Chúa chúc phúc và làm cho mọi sự đều tốt đẹp. Vẻ

đẹp tuyệt mỹ của của Ngôi nhà chung khiến thánh Phanxicô thành Assisi không

thể kìm lòng mà hát lên: “Con xin chúc tụng Chúa, lạy Chúa của con”. Ngôi nhà

chung ấy sẽ mãi luôn tuyệt đẹp nếu như những ngọn núi không triền miên sụp đổ,

những dòng sông không tắc nghẽn…. Nếu con người kêu gào trong đau đớn và

tuyệt vọng thì trái đất cũng kêu gào trong đau đớn và tuyệt vọng. Trái đất vốn là

nhà, con người và vạn vật nương tựa, tương giao và bình đẳng. Giờ đây, trái đất

và con người vẫn nương tựa vào nhau nhưng cứ thờ ơ, vô cảm, và bỏ mặc nhau:

 

Ta nương tựa vào nhau.

Nay có vẻ đã không còn cần nhau nữa!

Đất rùng mình phận đất…

Người rùng mình phận người…

 

Dù đau đớn thì nỗi đau ấy cũng là nỗi đau riêng. Con người không hiểu vì sao

mình gặp tai họa, và tiếng khóc của trái đất cũng không ai nghe thấu để tất cả đều

“rùng mình”, đều sợ hãi, đều đổ vỡ. Vì sao?

Phải chăng vì sự cẩu thả, vô đạo, vô ơn mà gây nên thảm họa sinh thái. Nhà thơ là

người nói hộ cho tự nhiên và thay lời cho nhà khoa học: Trái đất cũng đang rùng

mình tự hỏi vì sao những ngọn núi cứ triền miên đổ sập? Là vì mũi đao cứ xoáy

sâu vào lòng đất và tất nhiên cũng là do rừng bị phá, núi đồi bị trọc hóa.

Từ đề tài cho thấy chủ đề sinh thái của bài là thái độ quan tâm, tôn trọng môi

trường – trái đất, là phải nhận thức con người với trái đất song hành quyền lợi và

tồn tại: Ta nương tựa vào nhau

 

Theo Laurence Buell (Anh): Văn học sinh thái là văn học viết vì một thế giới lâm

nguy nên cảm hứng cơ bản của thơ sinh thái là cảm hứng phê phán. Phê phán thói

cẩu thả, vô đạo, vô ơn của con người gây nên những thảm họa sinh thái. Từ cảm

hứng và chủ đề, bài nói riêng và văn chương sinh thái nói chung góp tiếng nói

phản biện để lay gọi, thức tỉnh thái độ, thay đổi tư duy của con người về môi

trường.

Từ cảm hứng phê phán mà các tác phẩm đượm chất bi ca, dư âm của tác phẩm là

nỗi buồn đau khắc khoải, là niềm sám hối của lương tri con người. Chất bi ca này

biểu hiện qua những hình ảnh sống động giàu tính khái quát: động đất, sóng thần,

núi lửa, băng tan, núi sụp đổ, dòng sông tắc nghẽn, chim rừng cá biển không chốn

nương thân…. dội lên từng hình ảnh sinh thái là một niềm đau nhức nhối:

Chất bi ca còn biểu hiện qua giọng điệu. Thơ Đỗ Hồng Ngọc vốn giản dị và hồn

nhiên. Nhưng trong bài thơ này lại là giọng điệu day dứt, dằn vặt, buồn đau.

Giọng điệu buồn đau đắng đót ấy đã phản ánh thời đại bi kịch của chúng ta: khoa

học phát triển nhưng bệnh tật thì nhiều hơn. Có thể nói nội hàm văn học sinh thái

có ý nghĩa giáo dục bằng con đường phản cảm. Văn học phải cất lên tiếng nói

đánh động ý thức, thay đổi quan niệm về sinh thái để cân bằng bảo vệ môi sinh và

thời gian không chờ đợi.

Đọc “Rùng mình” ta nhận thấy có cái tôi trải ra ba chiều không gian để lắng nghe

lời than thở, đắng cay của sông, đất, nước… Tư tưởng sinh thái nâng đỡ mà cái

tôi (cũng là tiếng nói của cái ta) lớn lao mang tầm vóc thời đại.

 

Thơ ca sinh thái đã xuất hiện tại Việt Nam gần ba thập niên trở lại đây, đạt được

những thành tựu cơ bản về nội dung tư tưởng song về thi tứ và bút pháp thì vẫn

chưa thật rõ rệt hoặc nổi bật sắc thái. Nhưng với bài thơ “Rùng mình” của Đỗ

Hồng Ngọc nhà thơ đã góp một tiếng nói trong đấu tranh bảo vệ môi trường cũng

chính là bảo vệ ngôi nhà của chúng ta.

(ĐTTN, Trường ĐHSP Huế)

9.2023

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Phật học & Đời sống

MỘT NGÀY KIA…ĐẾN BỜ V2

11/09/2023 By admin 1 Bình luận

Tải sách (file pdf) , bấm vào đây

Thuộc chủ đề:Phật học & Đời sống

LỜI BẠT viết cho cuốn Tuỳ bút “MỘT NGÀY KIA… ĐẾN BỜ” của Đỗ Hồng Ngọc. 

06/09/2023 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

LỜI BẠT viết cho cuốn Tuỳ bút “MỘT NGÀY KIA… ĐẾN BỜ” của Đỗ Hồng Ngọc. 

Nguyễn Minh Tiến

Tôi nhận được bản thảo này của anh Đỗ Hồng Ngọc với lời nhắn gửi thân tình:
“Anh nhờ em ĐỌC giùm, và viết cho anh một lời Bạt.” Chữ “đọc” anh cố ý viết in
hoa làm tôi hơi… sợ. Với một bậc đàn anh đa tài mà tôi luôn kính trọng, tôi tự biết
việc đọc và viết lời Bạt cho tập sách đặc biệt này của anh quả thật không dễ. Tôi
không dám chắc rằng mình có thể đọc hiểu đúng và đủ những ý tưởng độc đáo của
anh để có thể viết ra một lời Bạt đúng nghĩa.

Nhưng rồi hôm nay vẫn phải mở sách ra đọc để cố gắng viết một lời Bạt như lời
anh dặn, cũng là lúc một trong những người đàn anh thân thiết đã vĩnh biệt chúng tôi
để ra đi “về cõi hoang sơ” như lời thơ anh ấy nói. Có vẻ như khi mái tóc đổi màu
thì chúng ta càng có nhiều cơ hội hơn để cảm nhận những bài học về vô thường.

Anh Đỗ Hồng Ngọc là người từ lâu tôi quý mến, và anh cũng xem tôi như đứa em
thân thiết, nhưng không phải vì thế mà tôi dám dễ duôi tự cho phép mình quên đi
việc anh là một “cây đại thụ” trong thế hệ những người đi trước mà tôi may mắn
được biết tên. Tôi từng đọc Nguyễn Hiến Lê viết về anh: “Một bác sĩ, lại là một thi
sĩ thì luôn làm cho chúng ta ngạc nhiên một cách thú vị…” Tôi biết, không có
nhiều nhà thơ hay nhà văn đương thời tạo được ấn tượng tốt đẹp với lời ngợi khen
như vậy từ một người uyên bác và nghiêm túc như Học giả Nguyễn Hiến Lê, và
bọn hậu sinh như chúng tôi không thể không vui mừng khi may mắn có được tấm
gương sáng như anh để noi theo, trong sự học tập cũng như khi tập tành viết lách.
Và bây giờ thì anh đã cho tôi thêm một sự ngạc nhiên thú vị nữa qua tập sách này,
khi anh còn là một tấm gương sáng trong sự tu tập Phật pháp. Tôi bỗng dưng muốn
lặp lại nhận xét của Học giả Nguyễn Hiến Lê, tất nhiên là với một chút “cải biên”
của riêng tôi: “Một nhà văn, bác sĩ, lại là một thiền sư thì luôn làm cho chúng ta
ngạc nhiên một cách thú vị…”

Tôi biết là anh không muốn và thậm chí có thể sẽ trách nhẹ tôi vì đã gọi anh là
“thiền sư”, nhưng tôi không… sợ. Vì tôi tin là tôi có thể chứng minh rằng tôi nói
đúng. Sự kết hợp những phẩm tính của nhà văn, bác sĩ và thiền sư trong anh đã hòa
quyện, biểu lộ rất rõ với tập sách này.

Ngay cái tựa đề “Một ngày kia đến bờ” mà anh mượn trong ca từ nhạc phẩm Phôi
pha của Trịnh Công Sơn cũng đã cho thấy cái tố chất mơ màng lãng mạn của một

nhà văn. Nhưng trong khi Trịnh Công Sơn gây cho chúng ta một nỗi buồn man
mác khi nhìn lại “đời người như gió qua” thì Đỗ Hồng Ngọc lại chuẩn bị cho “một
ngày kia đến bờ” với tinh thần tích cực của một người học Phật và hiểu Phật, cho
một cuộc viễn du với tấm thông hành đóng dấu “well-dying”.

Và khi nghe anh bàn về “well-being” với “well-dying” thì chúng ta không còn nghi
ngờ gì điều đó nữa. Anh nói về những chuyện này với tư cách là người trong cuộc,
không giống như bàn chuyện người khác. Những gì anh nói, ta có thể thấy rõ đều
là những cảm nhận, những trải nghiệm của riêng anh, bằng chính cuộc đời mình.
Anh đã “well-being” ngay cả trong nhiều hoàn cảnh khắc nghiệt, bệnh tật, thiếu
thốn… từ thời thơ ấu, và tiếp tục “well-being” cho đến nay vào độ tuổi U90, độ tuổi
của những chiếc lá vàng hiếm hoi cùng thời với anh còn sót lại. Vì thế, chúng ta có
đủ căn cứ để tin rằng những gì anh nói, anh làm, hoàn toàn có thể bảo đảm cho anh
một viễn cảnh “well-dying” tốt đẹp như dự tính.

Nhà Thiền có câu “sinh tử sự đại”, nay anh đã đối diện, giải tỏa và vượt qua được
cái ngưỡng “sự đại” đó thì chuyện “một ngày kia đến bờ” hẳn cũng là một lẽ
đương nhiên, và chắc chắn rồi sẽ đến trong sự thản nhiên của một “người vô sự”
theo đúng tinh thần của nhà Thiền.

Điều đáng nể phục nơi anh là ở độ tuổi vào bậc huynh trưởng của hàng “cổ lai hy”
nhưng ngòi bút của anh vẫn không mất đi nét dí dỏm, hài hước xưa nay vẫn thường
gặp ở giọng văn anh. Cái chất hài hước nhẹ nhàng ấy như bàng bạc trong mọi tác
phẩm của anh, dù là khi anh viết về chuyện sức khỏe, chuyện văn chương hay ngay
cả về Phật học. Tôi đã gặp không ít người trì tụng hoặc tìm hiểu kinh Pháp Hoa,
nhưng đọc kinh Pháp Hoa mà nhìn thấy được Phật Thích-ca bước vào bảo tháp
“tay bắt mặt mừng” với Phật Đa Bảo thì duy nhất chỉ có anh. Những vấn đề khô
khan trong y học, phức tạp và siêu hình trong Phật học, qua ngòi bút của anh đều
trở nên nhẹ nhàng, vui vui, dễ tiếp nhận.

Và lần này, giọng văn hài hước của anh không ẩn giấu nữa mà khởi đầu ngay từ
tiểu mục “Nghĩ tức cười”, ấy là anh muốn công khai nêu ra những cái “tức cười”
trong cuộc tồn sinh của vạn hữu từ muôn triệu năm nay (hay còn lâu hơn nữa?)…
mà thật ra ai cũng nhìn thấy nhưng lại chẳng biết cười như anh. Bây giờ nghe anh
nói rồi thì thấy đúng là thật “tức cười”.

Nhưng với Đỗ Hồng Ngọc thì cười không chỉ để… mà cười. Cái cười của anh thật
ra là thâm trầm, sâu lắng, khởi đi từ manh mối của sự “Nhìn lại mình”, vốn là khởi
đầu cốt yếu của mọi pháp môn tu tập trong Phật pháp. Không “nhìn lại mình” thì
có bỏ nhà lên núi tu hành miên mật năm bảy chục năm cũng không mong gì đạt
được sự giải thoát hay giác ngộ. Bởi vậy, anh cười như kiểu “vui thôi mà” nhưng
lại bật ra một câu hỏi làm nhiều người choáng váng: “Có kiếp sau không?”
Choáng váng là vì đối với những con người còn đầy tham chấp hỷ nộ ái ố, vất vả
lắm mới quên đi được câu hỏi ấy để sống vui thì bỗng dưng anh khơi lại vấn đề
khiến họ không thể nào vui sống.

Mà thật ra thì anh cũng chỉ đùa thôi. Bởi anh không hỏi để tìm câu trả lời, mà chỉ
để gợi ra những phương thức rất tuyệt vời giúp mọi người vui sống. Đó chính là rõ
biết và chấp nhận “bốn thứ ma” (bởi không nhận thì chúng cũng đang có đó) và
“bắt tay làm hòa”, vui sống với chúng. Nhưng thử nghĩ mà xem, làm được như anh
nói chẳng phải đã là một thiền sư “thõng tay vào chợ” rồi đó sao? Đâu còn bận
lòng gì với tử sinh, sinh tử?

Nhưng rồi anh quá rõ biết tâm niệm “chúng sinh” nên tuy nói vậy mà vẫn ân cần
giải thích. Hẳn anh biết là rất nhiều người trong chúng ta vẫn còn luôn ưu tư, thắc
mắc. Anh nói về “nghiệp”, về “bản ngã” và rồi cuối cùng chỉ ra một sự thật để ta
thấy rằng mỗi người chỉ có thể nỗ lực tự tu tập để cứu lấy chính mình, bởi vì “Phật
cũng già, cũng bệnh”, và tất nhiên là rồi… cũng chết.

Chỉ qua mấy đoạn văn ngắn với cách đề cập “vui vui” rất đặc thù của riêng anh,
người đọc như bừng tỉnh để nhìn lại chính mình và tự thấy ra cái “cuộc đời như
gió qua” này thật không đáng để chúng ta ôm giữ mãi quá nhiều khổ đau mà hầu
hết đều do chính mình tạo ra. Một cái nhìn nhẹ nhàng nhưng sáng rõ về cuộc đời sẽ
giúp cho cuộc sống của chúng ta cũng tự nhiên trở nên nhẹ nhàng hơn. Phải chăng
đây là định nghĩa thiết thực và dễ hiểu nhất của sự giải thoát?

Tập sách khá mỏng nhưng anh đã đề cập đến hầu hết các phần giáo lý quan trọng
từ những bộ kinh quan trọng của Phật giáo như Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Kim
Cang, Duy-ma-cật… Đây thật đúng như tinh thần mà anh tự bộc bạch: “Tôi chỉ học
lõm bõm ít kinh Phật…, và cũng chỉ học lấy cái ‘cốt lõi’”.
Thì quả đúng vậy. Những kinh anh đã đọc qua và nhắc đến, nếu so với số lượng
Kinh điển Phật giáo hiện còn trong hai tạng Nam truyền và Bắc truyền thì quả thật

là quá ít. Nhưng hai chữ “lõm bõm” của anh thì tôi thật không khỏi hoài nghi, bởi
lời anh nói là “chỉ học lấy cái cốt lõi” thì quả thật không phải ai cũng làm được.
Bởi muốn làm được cái việc “đãi cát chọn vàng”, từ vô số những ngôn từ phương
tiện Phật đã thuyết trong kinh mà trích xuất ra được “cái cốt lõi” thì phải hết sức
thông thuộc, am hiểu thấu đáo mới có thể làm được.

Tuy nhiên, cũng nên lưu ý rằng “cái cốt lõi” mà anh rút ra từ Kinh điển là “cái cốt
lõi” cho riêng anh, anh không hề có ý đưa ra để làm khuôn mẫu cho ai khác. Chính
cái tinh thần tự khai phá, tự tìm tòi trong sự tu tập của anh mới là tấm gương sáng
để chúng ta noi theo. Anh nói rõ: “Có tới 40 đề mục để thiền quán, tôi chỉ chọn
một…” Với tôi, chính sự chọn lựa này có thể đã quyết định phần lớn khả năng
thành công trong tu tập. Rất nhiều người khi mới đến với thiền phải loay hoay rất
lâu giữa các lựa chọn khác nhau, bởi không biết chắc được mình thích hợp với đề
mục nào, phương pháp nào. Khi hành giả xác định được một chọn lựa thích hợp
cho chính mình, sự tu tập sẽ dễ dàng và hiệu quả hơn rất nhiều, bởi có thể tập trung
toàn bộ tâm ý vào đề mục đó mà không bị phân tán bởi các lựa chọn khác.
Tôi cũng thực sự thán phục khi đọc qua những tiểu mục anh nêu đại lược chặng
đường anh tìm đến và đi qua nội dung những bộ kinh lớn.

Tôi có cảm giác anh như một nghệ sĩ tài hoa đang ngắm nhìn và cảm thụ một bức
tranh đẹp, không mất nhiều thời gian cho những họa tiết, phông nền… mà có thể dễ
dàng nhận biết ngay những đường nét chính yếu, những ý nghĩa ẩn tàng mà tác giả
muốn thể hiện. Bởi vậy, những bộ kinh đồ sộ đối với nhiều người trong chúng ta
thì qua mô tả của anh trở nên gần gũi, dễ tiếp nhận hơn, nhưng không vì thế mà
mất đi phần tinh túy. Tôi cũng từng đọc Pháp Hoa, Duy-macật… như anh, nhưng
tôi chưa bao giờ có được khả năng “tóm lược” một cách rõ ràng các điểm tinh yếu
của giáo pháp theo cách như anh.

Một sự “ngạc nhiên thú vị” khác cần đề cập đến ở đây là anh cũng “tóm lược” cả
cuộc đời mình từ ấu thơ cho đến… U90 một cách mạch lạc, dễ hiểu nhưng đầy đủ,
cũng như điểm qua được hầu hết những thành tựu từ ngòi bút của anh trong cả ba
lãnh vực: văn chương, y học và Phật học. Anh chỉ điểm “sơ sơ” thôi mà có đến 7
tập thơ, hơn 60 đầu sách… Những con số hẳn là phải gây ấn tượng với bất kỳ người
cầm bút nào.

Sự “đầy đủ” trong những tóm lược của anh nên được hiểu theo ý nghĩa do chính
anh nêu ra, “bởi chính đó là một trong những yếu tố của ‘chất lượng cuộc chết’”,
và nếu nói theo thuật ngữ chuyên ngành cũng do anh đề nghị thì đó là “well-
dying”. Hẳn độc giả sẽ không khỏi ngạc nhiên đầy thú vị khi thấy hành trình cả
một đời người rồi sẽ chi phối như thế nào đến “chất lượng” của chuyến đi xa cuối
đời.

Có 26 tiểu mục được anh đưa vào tập sách, với những chủ đề dàn trải hầu như đề
cập đến tất cả những vấn đề quan trọng trong sự tu tập, từ sự nhận hiểu tinh yếu
giáo pháp cho đến kinh nghiệm thực hành. Độc giả có thể từ từ, thong thả “nhâm
nhi” từng tiểu mục ngắn trong sách này, mà theo tôi rất nên đọc lại nhiều lần để
thấy hết được sự tài tình của anh khi biến mọi vấn đề khô khan hay trừu tượng,
siêu hình trở nên gần gũi, dễ hiểu, thiết thực và… hấp dẫn. Nhưng đối với riêng tôi,
những phần “hấp dẫn” nhất chính là khi anh chia sẻ “vài kinh nghiệm riêng”,
những điều không thể tìm thấy trong bất kỳ bài thuyết giảng hay luận văn Phật giáo
nào. Đó là những điều theo tôi hoàn toàn thể hiện được “dấu ấn Đỗ Hồng Ngọc”.

Chẳng hạn, anh chia sẻ một câu “thần chú” chưa từng có ai tụng đọc trong Phật
giáo, nhưng đúng là sẽ rất ư “linh nghiệm” đối với nhiều người. Câu thần chú đó là
“thả lỏng toàn thân thả lỏng chưa” mà anh thường “tụng” khi ngồi xuống bắt đầu
thiền tọa.
Thật ra, “thả lỏng” hay “buông thư” là điều mà bất cứ vị thầy nào khi hướng dẫn
thiền tập cũng đều nhắc đến, nhưng chia sẻ quan trọng của anh ở đây là sự nhấn
mạnh phải “thả lỏng toàn thân” cũng như tính chất quyết định của việc này, mà
anh cho rằng nếu không làm được thì sẽ “hỏng bét”.
Dù vậy, không phải ai cũng may mắn có được khả năng “thả lỏng toàn thân” ngay
tức khắc khi ngồi xuống bắt đầu thiền tập. Một số người, thật ra là đa số, tuy vẫn
muốn làm thế nhưng chưa thể làm được. Điều này cũng bình thường thôi, vì cần
phải có công phu luyện tập qua thời gian. Nhưng nguyên tắc chung được áp dụng
cho mọi trường hợp là thân và tâm luôn tương quan chặt chẽ với nhau. Do vậy, nếu
khi bắt đầu thiền tập mà toàn thân chưa buông thư hoàn toàn thì cũng không nên lo
lắng, chỉ cần tiếp tục giữ tâm an tĩnh, chú ý vào đề mục thiền đã chọn thì sau một
thời gian, chắc chắn mọi việc sẽ tốt hơn. Khi tâm an tĩnh thì thân cũng sẽ dần dần
đi vào trạng thái buông thư, cơ bắp giãn ra, không còn “căng cứng” nữa. Tuy nhiên,

vì điều này thực sự rất quan trọng nên việc “tụng thần chú” như anh nói để
nhắc nhở chính mình khi bắt đầu thiền tập là rất hữu ích.

Một chia sẻ quan trọng khác của anh cũng hết sức thú vị là mối tương quan giữa
tình trạng thiếu oxy kinh niên (chronic hypoxia) của não với trạng thái hỷ lạc, lâng
lâng sảng khoái của thiền giả. Anh giải thích theo cách nhìn của khoa học thì có
thể là do tình trạng thiếu oxy làm cơ thể tạo ra các hormone liên quan đến trạng
thái hạnh phúc, sảng khoái đó. Anh cũng liên kết hiện tượng này với kinh nghiệm
riêng của anh sau những cơn bệnh sốt rét và cho rằng có thể việc thiếu hồng cầu
khiến cơ thể thiếu oxy đưa đến trạng thái sảng khoái sau mỗi cơn sốt rét hồi nhỏ. Và anh
cũng đưa ra giả định rằng các thiền sư thường tìm lên núi cao để dễ tu tập vì trên
đó không khí loãng, tỷ lệ oxy thấp, như vậy tất nhiên hành giả dễ rơi vào tình trạng
thiếu oxy, từ đó có được trạng thái thiền duyệt, sảng khoái.

Tất nhiên, đây là những dữ kiện rất lý thú và chắc chắn cần được nghiên cứu thêm
trước khi có thể vận dụng vào thực tiễn. Nhưng người học thiền cũng nên dè dặt
với những mối liên kết giả định như vậy. Việc hạn chế cung cấp oxy cho cơ thể
qua việc kiểm soát hơi thở là điều mà người tập thiền hoàn toàn có thể làm được,
nhưng nếu như có ai muốn thử nghiệm dùng cách này để đạt được thiền duyệt thì
chắc chắn là không nên, thậm chí còn rất nguy hiểm. Khi thiền giả đi sâu vào định
thì hơi thở sẽ chậm dần đi cho đến lúc gần như chỉ còn duy trì ở mức tối thiểu.
Nhưng đó là một hiện tượng tự nhiên do nhu cầu oxy của cơ thể giảm mạnh chứ
không phải do thiền giả cố ý tạo ra, và tình trạng cơ thể khi đó tiêu thụ rất ít oxy
chứ không phải thiếu oxy. Đỗ Hồng Ngọc cũng nhắc trong thiền tập phải hết sức
thận trọng, không nên “nín thở” để mong được mau vào thiền vào định!

Tuy nhiên, việc đề cập đến mối tương quan “thân – tâm” này quả thật vô cùng lý
thú. Điều này cũng cho thấy rằng thiền tập chẳng những thiết yếu cho một cuộc
sống hạnh phúc mà còn luôn mang lại cho mỗi chúng ta những khám phá mới,
những điều mới mẻ và cuốn hút.

Tôi đã đọc say mê cả tập sách này không một lần dừng lại, không chỉ bởi lối văn
nhẹ nhàng mà hấp dẫn của anh, mà còn phần lớn là do cách anh trình bày những
vấn đề rất độc đáo, rất ư là… Đỗ Hồng Ngọc, nghĩa là không thể nhầm lẫn với ai
khác.

Lời cuối cùng muốn nói ở đây là tôi mong gặp lại anh biết bao! Từ lần cuối ghé
nhà thăm anh đến nay e cũng đã gần chục năm rồi chưa gặp lại, và giờ thì tôi với
anh ở hai đầu… trái đất. Mặc dù thường liên lạc với anh qua email, qua điện thoại,
nhưng tôi vẫn luôn muốn gặp lại để được ngắm nhìn khuôn mặt anh, khuôn mặt
như lúc nào cũng ẩn chứa một nụ cười hoan hỷ và sẵn sàng nở ra để lan tỏa niềm
vui sống đến với người đối diện.

Cảm ơn anh rất nhiều đã một lần nữa cho tôi “những ngạc nhiên đầy thú vị”.
Mong cho tập sách này sớm ra đời và đến tay bạn bè thân hữu, để một lần nữa “có
dịp chí chóe cho vui” như lời anh nói.

Quế Minh Đường (Westminster), California
Tháng 9 – 2023
Nguyễn Minh Tiến

………………………………………………………………………………………….

Có thể đọc Ebook “Một Ngày Kia… Đến Bờ” V2 ngày 11.9.2023 trên dohongngoc.com

Thuộc chủ đề:Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Nhân mùa Vu Lan, đọc lại bài thơ Bông hồng cho mẹ của Đỗ Hồng Ngọc

29/08/2023 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Nhân mùa Vu Lan, đọc lại bài thơ Bông hồng cho mẹ của Đỗ Hồng Ngọc …

Nguyên Hậu

Năm 2013, khi đang tìm hiểu về thơ miền Nam giai đoạn 1954-1975, tôi có dịp gặp gỡ nhà thơ Đỗ Nghê (bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc) tại Sài Gòn và được ông tặng cho tập thơ đầu tay mang tên Tình người (xuất bản năm 1967). Tôi đọc tập thơ và ấn tượng nhất là bài thơ Thư cho bé sơ sinh. Khi biết ông là một bác sĩ, viết bài thơ đó khi còn là một thực tập sinh tại bệnh viện Từ Dũ sau khi hoàn thành ca hộ sinh đầu tiên trong cuộc đời y nghiệp, tôi vừa khâm phục, vừa xúc động. Khâm phục vì một bác sĩ lại có thể làm một
bài thơ với những ý tứ chân thành, sâu sắc đến thế. Còn cảm động vì những điều mà vị bác sĩ nhắn chủ đến em bé sơ sinh lúc đó. Thông điệp mà ông nhắn đến em có lẽ cũng là thông điệp ông dành cho tất cả chúng ta, vì ai cũng từng lớn lên từ một đứa trẻ, còn xúc động là khi đặt bài thơ vào bối cảnh ra đời, những thập niên 60 của thế kỷ XX tại miền Nam, khi mỗi số phận được sinh ra đều phải đối mặt với chiến tranh, chết chóc, hiện thực phi lý mỗi ngày. Cuộc gặp gỡ ngắn ngủi, trọn vẹn chỉ trong một buổi sáng, tại một quán cà phê nằm trong một con hẻm nhỏ trên đường Cao Thắng, bây giờ tôi cũng không nhớ rõ quán tên gì. Đó là lần duy nhất tôi có dịp gặp gỡ ông. Sau này, tôi được nhìn thấy ông trong một vài buổi ra mắt sách dạy về thiền, hoặc giao lưu về một chuyên đề y khoa nào đó. Vẫn là ông với phong thái nhẹ nhàng, nụ cười thường trực trên gương mặt phúc hậu, ông nhanh chóng thu hút được nhiều khán giả tham dự.

Sau khi hoàn thành đề tài nghiên cứu liên quan đến thơ miền Nam, tôi chuyển sự quan tâm sang vấn đề khác nên không còn chú ý đến những sinh hoạt văn nghệ như vậy, tôi cũng ít khi về Sài Gòn. Công việc cá nhân làm tôi xao nhãng, không thường xuyên lên đọc các bài viết trên Blog cá nhân của ông. Thế rồi một hôm, tình cờ tôi vào trang Blog cá nhân ông (https://www.dohongngoc.com/) và đọc được bài thơ Bông hồng cho Mẹ. Bài thơ này được ông sáng tác vào mùa Vu Lan năm 2012, in trong tập Thơ Đỗ Hồng Ngọc – Thư cho bé sơ sinh và những bài thơ khác (2013) nhưng phải vài năm sau tôi mới được đọc. Tôi đã không thể kiềm được nỗi xúc động, nói đúng hơn là một “chấn động” nho nhỏ trong lòng. Có lẽ đây là bài thơ thứ hai của Đỗ Hồng Ngọc đã chiếm trọn lòng tôi ngay từ khoảnh khắc đầu tiên như thế. Tôi đã gửi bài thơ cho một số người bạn cùng đọc.
Đó cũng là lúc trên trang cá nhân của ông có rất nhiều độc giả văn chương gần xa (trong nước và hải ngoại) gửi bài viết chia sẻ cảm nhận về bài thơ. Tôi cảm nhận được sức lan tỏa, lay động của bài thơ lúc bấy giờ là rất lớn. Thế nên tôi đành giữ những cảm xúc mà tôi có được sau khi đọc bài thơ cho riêng mình qua vào dòng ghi chép và lưu vào máy tính.
Cách đây vài tháng, trong quá trình dọn dẹp chiếc máy tính cũ, tôi tình cờ gặp lại những dòng cảm nhận mà tôi thảo ra từ mấy năm trước. Đọc lại bài thơ, và, vẫn vẹn nguyên cảm xúc, thậm chí lúc sau này có phần mạnh mẽ hơn, tôi bật khóc.

Có lẽ sau bao nhiêu năm, trải thêm nhiều biến cố trong cuộc đời, tôi lại càng thấm thía hơn ý tứ trong bài thơ và cả những gì bàng bạc phía sau bài thơ ấy.

Con cài bông hoa trắng
Dành cho mẹ đóa hồng
Mẹ nhớ gài lên ngực
Ngoại chờ bên kia sông

(Bông hồng cho Mẹ, 2012, Đỗ Hồng Ngọc)

Chỉ có bốn câu thôi nhưng ý tứ và thông điệp truyền tải thì mênh mông. Đã có rất nhiều người cảm nhận, phê bình bài thơ nhưng với riêng tôi, bài thơ hiện lên thật đẹp, thật bất ngờ, thật linh diệu, như một đóa hoa… Nó đã lay động, đánh thức lòng tôi thật mãnh liệt. Bốn câu thơ mà chứa trong đó cả ba thế hệ, một dòng chảy uyên nguyên, bất tận: ngoại, mẹ, con và một sự hóa thân tuyệt đẹp: từ bông hoa trắng đã hóa thành đóa hồng. Đặc biệt hơn là, phải có bông hoa trắng dành cho con thì mới có đóa hồng dành
cho mẹ; từ cảm thức đau buồn, mất mát lập tức hóa hiện thành niềm hạnh phúc, sum vầy.
Quả là một tứ thơ đẹp và lạ đến bất ngờ! Đọc xong cứ thấy lòng đau nhói, vì chưa lần nào ta đã nghĩ cho mẹ như cách nhà thơ đã làm. Với Bông hồng cho mẹ, Đỗ Hồng Ngọc đã làm cho ta ngộ ra nhiều điều…
Từ khi mẹ là mẹ của ta, ta lúc nào cũng nghĩ cho ta, chưa bao giờ ta nghĩ cho sự hoán vị và nỗi mất mát của mẹ: mẹ từ một người con trở thành một người mẹ, mẹ đã hy sinh bớt phần hạnh phúc được làm con để toàn tâm làm mẹ của ta. Vậy mà chẳng bao giờ ta nghe mẹ thổ lộ điều đó. Nước mắt chảy xuôi là vậy. Trong những lần chỉ có mẹ và con, mẹ thường nói rằng mẹ sợ một ngày mẹ ra đi, chúng tôi sẽ buồn khổ lắm. Lúc ấy tôi chưa
thể hình dung được nỗi buồn khổ mà mẹ nói là gì, vì chúng tôi vẫn đang hạnh phúc khi có mẹ cơ mà. Và lại càng không biết rằng mẹ đã lấy lòng mình để nghĩ cho các con. Mẹ đã chịu kiếp mồ côi từ khi còn rất nhỏ…

Mẹ! Một từ gọi lên nghe thật ấm ám, tự nó đã viên mãn, đong đầy yêu thương. Thế nhưng số lần mẹ được gọi từ đó ít hơn rất nhiều lần so với chúng tôi. Bây giờ tôi cũng đã làm mẹ, đã hiểu thế nào là mẫu tử thiêng liêng, đã thấu hiểu và yêu thương mẹ hơn rất nhiều lần, tình yêu thương được bồi đắp nhiều lên đến từ sự đồng cảm, thấu hiểu, không giống với tình yêu mẹ khi còn là một đứa trẻ, yêu mẹ, giữ mẹ như của báu. Và khi
càng yêu ta càng sợ mất. Hồi nhỏ, mỗi lần thấy một ai đó mất mẹ, ta chỉ hiểu đơn giản là từ đây họ mất đi tình yêu thương của mẹ, mất đi một người thân. Lớn lên, ta hiểu rằng mất mẹ là mất đi nguồn thương, mất đi cái đặc ân mà đất trời ban tặng cho ta. Nói tóm lại, quẩn quanh cũng chỉ nhìn thấy khía cạnh của sự mất mát, vẫn là nghĩ cho bản thân mình.
Từ khi đọc bài thơ của Đỗ Hồng Ngọc, tôi mới thấy thêm một chiều kích khác của sự ra đi ấy.

Con cài bông hoa trắng
Dành cho mẹ đóa hồng

Ngày mẹ rời khỏi vòng tay ta là ngày mẹ trở về làm con bên ngoại. Thấy được điều đó, tự nhiên cảm giác mất mát trong ta vơi đi phần nào. Từ nay mới đúng thật là ta thương mẹ. Và từ bây giờ, tôi đã có thể tập cách chấp nhận một cách nhẹ nhàng khi nghĩ đến một ngày mẹ rời xa chúng tôi.
Đó là phần của con. Còn phần mẹ:

Mẹ nhớ gài lên ngực
Ngoại chờ bên kia sông

Mẹ ơi, từ nay mẹ hãy nghĩ cho mẹ, mẹ đừng buồn gì khi phải xa chúng con. Mẹ rời xa chúng con cũng là lẽ tất yếu. Mẹ hãy vui lên vì ngoại đang chờ đón mẹ về, ngôi nhà của riêng ngoại và mẹ, mẹ có quyền được tận hưởng tình cảm của ngoại, tận hưởng niềm hạnh phúc vô biên của tình mẫu tử. Trần gian bao cảnh đã chia cách ngoại và mẹ, nhưng ở “bên kia sông” sẽ không còn trần ai, không còn điều gì khiến ngoại và mẹ phải
xa cách nữa. Ngoại đã chờ đợi mẹ từ rất lâu rồi. Mẹ hãy vui lên đi.

Lời thơ dung dị nhưng thật minh triết, thật dịu hiền, như lời của Bụt. Nhà thơ nhắc chúng ta về lẽ tuần hoàn của tạo hóa mà chúng ta chưa hiểu, hoặc có khi đã hiểu nhưng vì quá yêu mẹ, quá yêu mình mà quên đi mất. Lời thơ tỏa ra một năng lượng lành giúp xoa dịu nỗi đau, sưởi ấm tâm hồn cả người ra đi và người ở lại. Còn gì tuyệt vời hơn: Mẹ vui, con ấm lòng. Rồi đến một ngày, mẹ cũng sẽ chờ đón con “bên kia sông”, con sẽ không
còn lý do gì để buồn tủi nữa.
Bài thơ Bông hồng cho Mẹ của Đỗ Hồng Ngọc đã cho ta thấy được sự vi diệu, tính đa chiều kích của đời sống. Trong cùng một bối cảnh, niềm vui và nỗi đau cùng tồn tại, chuyển hóa cho nhau, cái ta nhìn thấy đều do góc nhìn của mỗi chúng ta. Cái chết, nhìn từ đứa con thì đó là nỗi mất mát, chia ly còn nhìn từ người mẹ thì đó là sự sum họp, hạnh phúc, hoặc cũng là hoa hồng, nhưng trên ngực con là hoa màu trắng, trên ngực mẹ là đóa
hồng tươi nguyên. Phải chăng mọi thứ trong cuộc sống này vốn dĩ là như vậy, có những việc tưởng như là nghịch lý nhưng nếu hiểu đến tận cùng thì không còn nghịch lý nữa vẫn là sự cân bằng, như muôn đời vẫn vậy. Nhà thơ là người đã hiểu, đã nắm bắt được chân lý ấy và truyền đến cho chúng ta. Và, ai biết được quy luật này, người ấy sẽ an nhiên…

(MH, Đh Thủ Dầu Một)

 

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

HỌC PHẬT QUA THƠ ĐỖ HỒNG NGỌC

27/08/2023 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

HỌC PHẬT
QUA THƠ ĐỖ HỒNG NGỌC
(Minh Lê)

do hong ngocTừ trước tới giờ, tôi ít đọc thơ vì tự thấy mình có chút thiếu “hồn thơ lãng mạn”. Dù vậy, tôi là người hâm mộ âm thầm nhiều năm của Bác sỹ Đỗ Hồng Ngọc, không chỉ với sách của Anh mà cả với các bài thơ Anh viết. Anh làm thơ cũng như viết văn, nghiêm túc mà dí dỏm, nhẹ nhàng mà sâu sắc, ngắn gọn mà vô số “ý ở ngoài lời”. Anh còn giảng và viết nhiều bài về Phật pháp rất hay, nhưng tôi thích học Phật qua thơ của Anh hơn.

Như bài “Nỗi nhớ” in trong tập Vòng quanh (NXB Trẻ 1997 tr. 38) chỉ có 6 câu:

“Thôi hết cồn cào
Thôi không quặn thắt
Chỉ còn âm ỉ
Chỉ còn triền miên
Thì thôi cấp tính
Thì đành kinh niên.”

Lần đầu đọc khi còn trẻ, tôi bật cười, nghĩ tác giả chắc “méo mó nghề nghiệp”, tả nỗi nhớ mà cứ như tả cơn đau thể chất vậy, nhưng tác giả cũng thật tài tình, chọn từ và vần điệu làm sao mà người đọc cảm nhận được từ cơn đau ít tới cơn đau nhiều, từ “bệnh” nhẹ tới “bệnh” nặng. Lần thứ hai đọc ở tuổi trung niên, tôi cảm thán tác giả “hiểu đời” ghê, bởi từng trải rồi mới biết “nhớ” cũng đau  “quặn thắt ruột gan” chớ không vừa. Lần thứ ba đọc, tôi liên tưởng tới bài hát “Đưa em tìm động hoa vàng” (nhạc Phạm Duy, lời Phạm Thiên Thư):

“Rằng xưa có gã từ quan,
Lên non tìm động hoa vàng ngủ say
Thôi thì thôi để mặc mây trôi
Ôm trăng đánh giấc bên đồi dạ lan
Thôi thì thôi chỉ là phù vân
Thôi thì thôi nhé có ngần ấy thôi.”

Nỗi nhớ của Phạm Thiên Thư dù nói “chỉ là phù vân, có ngần ấy thôi” sao vẫn có cảm giác day dứt luyến tiếc không đành lòng, dù lặp đi lặp lại “thôi” rất nhiều lần mà vẫn chưa “thôi” thật sự. Đúng là nghệ sỹ mà, cho nên mới… khổ! Ngược lại nỗi nhớ của Đỗ Hồng Ngọc rất tỉnh táo “rằng đau thì biết là đau”, chuyện xác nhận “thì thôi cấp tính thì đành kinh niên” cũng mang vẻ an nhiên. Chính nhờ chấp nhận nỗi đau đó sẽ ở với mình vĩnh viễn mà lòng mình trở nên bình tĩnh hơn để chuyển hóa “rác thành hoa, đau khổ thành an lạc”. Đây chẳng phải “chiếu kiến ngũ uẩn giai không” trong Tâm Kinh đó sao?

Anh Ngọc quê La Gi, còn tôi sinh Phan Thiết, lớn lên ở Nha Trang nên khi tình cờ đọc bài “Giả sử” của Anh, tôi sém chút la lên “ôi bài thơ của đời tôi”:

“Giả sử sóng thần ập vào Nha Trang
Ập vào Mũi Né
Anh chỉ kịp quẳng em lên một chiếc thuyền thúng
Vút qua những ngọn dừa
Những đồi cát trắng

Em nhớ mang theo đôi quả trứng
Vài nắm cơm
Vài hạt giống
Đừng quên mấy trái ớt xanh…

Biết đâu mai này
Ta làm An Tiêm
Trở về làng cũ
Nơi này ta sẽ gọi là Nha Trang
Nơi kia gọi là Mũi Né…

Cho nên
Sao chẳng sớm mà thương nhau hơn?”
(4/2011, đăng 13/9/2020 dohongngoc.com)

Hồi nhỏ nhà tôi ở sát biển nên tôi rất sợ sóng thần. Lâu lâu tôi lại nằm mơ thấy sóng thần ập vô cuốn trôi mọi thứ, nghĩ mà rùng mình. Sau khi đọc bài “Giả sử”, tôi viết email cám ơn Anh Ngọc đã giúp tôi hết sợ sóng thần. Anh đùa: “Hết sợ sóng thần vì đã sẵn thuyền thúng ở trong nhà và đã cụ bị sẵn các thứ, nhất là ớt xanh rồi phải không? Dân Phan Thiết có khác!” Trời, sao Anh đi guốc trong bụng tôi vậy? Thì Anh đã chọn mọi thứ chu đáo quá mà: đôi quả trứng đặng sau này còn nở ra gà con nè, vài nắm cơm vắt ăn đỡ đói lòng những ngày “lênh đênh” nè, rồi hạt giống để trồng lại vườn cây nè, có cả mấy trái ớt xiêm xanh – món “tủ” của dân Phan Thiết và Khánh Hòa nữa.

Nói nhỏ nghen, thiệt ra tôi tâm đắc nhứt câu cuối cùng “sao chẳng sớm mà thương nhau hơn?”. Lúc đó, tôi viết cho Anh cách hiểu của tôi như vầy: “Sóng thần, hay sóng cuộc đời có dữ dội cách mấy, mà có một người nắm tay đi với mình, thì có gì phải sợ phải không Anh?” Anh cười không trả lời. Giờ tôi mới nhận ra, cái “thương” mà Anh nói không chỉ là tình yêu trong gia đình mà chính là “tình thương của Bụt” – từ của thiền sư Nhất Hạnh. Đó là “từ bi hỷ xả”, gồm khả năng hiến tặng niềm vui, làm vơi nỗi khổ, tình thương mang lại hạnh phúc và tự do. Vậy sao không “sớm mà thương nhau hơn” thì đời sẽ thêm nhiều an lạc, đợi chi tới sóng thần?

Tháng 12/2020, Anh Ngọc viết bài “Biết rồi còn hỏi!”:

“Tôi ngồi trước tượng Phật
Viết lăng nhăng mỗi ngày
Để khi nào bí thì hỏi
Phật tủm tỉm cười
“Biết rồi còn hỏi!”

Sáng ra đường phố
Từng bước như đi dạo
Không thấy nở hoa sen
Ngước mắt nhìn lên
Một tấm biển to chữ đỏ
“Đồ ngu cao cấp”
Cửa hàng Fashion
Rơi dấu hỏi…

Đâu cần trốn ra khỏi cổng thành
Xóm nghèo nơi tôi ở
Bên phải là nhà bảo sanh
Bên trái là bệnh viện
Đằng kia lớp dưỡng sinh
Đằng nọ nhà quàn vô lượng thọ…

Hằng ngày nghe tiếng khóc trẻ con
Nghe tiếng rên người lớn
Tôi nhắc Phật đừng buồn
Không được quạu quọ, không được cau có
Không được nhăn nhó…
Phật cười
“Phải! Nó vậy đó”.”
(dohongngoc.com 4/12/2020)

Bài này dễ hiểu, nhưng hiểu hết lại không dễ. Mấy chỗ “bí thì hỏi”, mà Phật chỉ tủm tỉm “biết rồi còn hỏi!” nghe đơn giản chớ đúng phóc nha. Càng sống lâu càng có nhiều chuyện tưởng “bí”, thiệt ra mình đã “biết” rồi, chẳng qua tâm không đủ tịnh để “hiểu” thôi. Khổ thơ thứ hai chắc tác giả vừa viết vừa cười mím chi, té ra “thiếu dấu hỏi” thì thành “ngu”, mà đời này, thiếu gì chuyện thắc mắc mà không dám hỏi, nên mình chắc “ngu trường kỳ”. Khổ thứ ba tả “sinh, lão, bệnh, tử” – những cảnh ngay trước mắt ta đó thôi. Rồi khổ thơ cuối cùng, giữa “sinh, lão, bệnh, tử” vẫn giữ được tâm an, không “buồn, quạu quọ, cau có, nhăn nhó” thì thành “bụt” rồi, “bụt” là vậy đó! Từ ngữ bình dị, nhịp thơ thong thả, tự nhiên không gò bó nhưng âm điệu bằng trắc nhịp nhàng, láy vần rất duyên dáng. Đây là một trong những bài tôi thích nhứt trong thơ Anh Ngọc bởi nó đại diện cho sự đặc biệt hiếm thấy trong thơ: nội dung dí dỏm mà thâm thúy, từ ngữ, tiết tấu, âm vần đều được chọn rất nghệ thuật mà vẫn trôi chảy tự nhiên mới hay.

Người ta hay nói “thơ là tiếng lòng”. Đã là âm thanh thì phải có tần số, và cái radio trong mỗi chúng ta tùy theo tuổi tác, kinh nghiệm sống và tính cách mà “bắt” được những tần số khác nhau. May mắn thay, cái radio cọc cạch của tôi lại bắt được chút xíu “tần số” trong thơ Đỗ Hồng Ngọc, và từ đó học được chút xíu “suy nghĩ của Bụt” từ thơ Anh.

Mong Anh luôn khỏe, an lạc và tiếp tục sáng tác thêm nhiều “tiếng lòng” truyền cảm!

Minh Lê (Suối Tiên, 7/2021)

(Thư viện Hoa Sen)

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

  • « Chuyển đến Trang trước
  • Trang 1
  • Interim pages omitted …
  • Trang 7
  • Trang 8
  • Trang 9
  • Trang 10
  • Trang 11
  • Interim pages omitted …
  • Trang 123
  • Chuyển đến Trang sau »

Thư đi Tin lại

  • Lịch “Trò chuyện, giao lưu…”
  • Lại đính chính: “SAIGON BÂY GIỜ”
  • ĐÍNH CHÍNH: BSNGOC không phải là BS ĐỖ HỒNG NGỌC
  • Đính chính: BS NGỌC không phải là Bs Đỗ Hồng Ngọc
  • bsngoc đã lên tiếng đính chính
  • Thư cảm ơn và Đính chính về FACEBOOK Bác sĩ NGỌC
  • ĐÍNH CHÍNH: Bài viết "TÀN NHẪN" không phải của Bs Đỗ Hồng Ngọc

PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG

Bs Đỗ Hồng Ngọc với Khoá tu “Xuất gia gieo duyên” tại Tu viện Khánh An.

Hỏi chuyện Học Phật với Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Bản dịch tiếng Đức “Một Ngày Kia… Đến Bờ”

CON ĐƯỜNG AN LẠC Bài 6: Học cách Phật dạy con

Minh Lê: Đọc và Cảm “Một ngày kia… đến bờ”

Thăm Sư Giới Đức Triều Tâm Ảnh

Nguyên Cẩn: Đọc “Một ngày kia… đến bờ “của Đỗ Hồng Ngọc

“MỘT NGÀY KIA… ĐẾN BỜ” Tuỳ bút Đỗ Hồng Ngọc

Từ góc nhìn “Phê bình sinh thái” về bài thơ “Rùng mình” của Đỗ Hồng Ngọc

MỘT NGÀY KIA…ĐẾN BỜ V2

Xem thêm >>

Chuyên mục

  • Một chút tôi
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy

Bài viết mới nhất!

  • Thư gởi bạn xa xôi (tháng 12/2025)
  • Trò Chuyện với Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc về Tình Yêu và Cuộc Sống
  • Lương Thư Trung (Hai Trầu): TUỔI GIÀ THỬ ĐỌC “CHUYỆN HỒI ĐÓ” (ĐHN)
  • PNB giới thiệu: Sách “bỏ túi” CON ĐƯỜNG AN LẠC.
  • Video Podcast: Học cách Phật dạy con

Bài viết theo tháng

Ý kiến bạn đọc!

  • hai trầu trong Trò Chuyện với Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc về Tình Yêu và Cuộc Sống
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Mũi Né
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Gặp gỡ với Nhà thơ Huyền Chi của “Thuyền viễn xứ”
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Lương Thư Trung (Hai Trầu): TUỔI GIÀ THỬ ĐỌC “CHUYỆN HỒI ĐÓ” (ĐHN)
  • Jimmy Võ Bất trong Mũi Né
  • Jimmy Vo trong Mũi Né
  • Le Dinh Duc trong Gặp gỡ với Nhà thơ Huyền Chi của “Thuyền viễn xứ”
  • Hoang Nguyen trong Lương Thư Trung (Hai Trầu): TUỔI GIÀ THỬ ĐỌC “CHUYỆN HỒI ĐÓ” (ĐHN)
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Mũi Né
  • Jimmy Võ Bất trong Mũi Né

Cùng một tác giả

  • 0
  • 1
  • 1
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6

Thống kê

Nhà tài trợ

biệt thự vũng tàu
biệt thự vũng tàu cho thuê | biệt thự vũng tàu cho thuê theo ngày giá rẻ | cho thuê biệt thự vũng tàu có hồ bơi
© 2009 - 2016 Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Phát triển & Hỗ trợ kỹ thuật bởi SGC.
Trích dịch nội dung để dùng trong nghiên cứu, học tập hay dùng cho cá nhân đều được tự do nhưng cần phải chú thích rõ nguồn tài liệu và đối với các trích dịch với mục đích khác, cần phải liên lạc với tác giả.
  • Một chút tôi
    ?
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    ?
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    ?
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    ?
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    ?
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy
  • Nhận bài mới qua email