Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Tập hợp các bài viết của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Ghi chép lang thang
  • Nhận bài mới qua email

Nguyễn Thị Khánh Minh: LAGI NGÀY CON VỀ

10/11/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

 

LAGI NGÀY CON VỀ

Thơ NGUYỄN THỊ KHÁNH MINH

(trang 48, Tập Thơ ĐÊM vừa phát hành 11.2021)

                                      Kính tặng Nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc

 

 

Có mùa xuân theo con về trước ngõ

Gọi Mẹ ơi. Hàng giấy đỏ xôn xao

Then cổng gỗ từ lâu rồi chưa mở

Trời Lagi mừng vội một câu chào

 

Có thời gian theo con về tung cửa

Hiên nhà xưa kỷ niệm mọc xanh um

Cội xoài vắng. Mầm cây khô nói mớ:

Ai về kia. Lẫn bóng mẹ mùa xuân…

 

Vâng thưa Mẹ. Con về reo tuổi nhỏ

Lòng ấu thơ khua giấc nắng chiêm bao

Hương xoài non khan giọng nhớ cồn cào

Gầy dáng Mẹ. Bên thềm hong tóc gió

 

 

Con ngồi đây. Một vuông sân lặng lẽ

Ôi nón quen. Mẹ cài đó. Thiu thiu

Nón mồ côi lâu rồi hương tóc Mẹ

Con mồ côi. Đường viễn xứ liêu xiêu

 

Nghe rất khẽ. Nghe như mơ. Tiếng chổi

Xào theo chân. Bóng mẹ mỏng như mây

Vườn thức giấc. Hồn tinh sương mẹ gọi

Chuồn chuồn bay về. Mưa trổ trên cây

 

Vâng thưa Mẹ. Bếp nhà vừa cơi lửa

Cơm chiều ngon thơm lúa vụ mùa tươi

Mai mẹ về. Về với Ngoại xa xôi

Chiếc nón lá Mẹ cứ cài trên cửa

 

Là cột mốc nhắc con. Đường xa ngái

Đất Lagi cát mặn biển theo chân

Mai con đi. Khép cổng nhẹ như thầm

Hàng giấy đỏ lại một mình. Ở lại…

1.2017

(Cảm xúc khi nhìn hình căn nhà cũ ở LaGi của Mẹ anh Đỗ Hồng

Ngọc).

 

 

Filed Under: Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

“Chợ Đại Đồng” LA GI

04/11/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

“Chợ Đại Đồng” LA GI

Bich Chi Lam

(Cảm nhận khi nghe tin “chợ Đại Đồng” không được phép hoạt động lại)

“Chợ Đại Đồng” bên hông nhà Hồng Yến, La Gi.

Tôi lớn lên ở “Chợ Đại Đồng”, một chợ nhỏ xuất phát từ nhu cầu trao đổi hàng hóa của bà con, tồn tại song song trong khu dân cư thị trấn LaGi gần nửa thế kỉ.

“Đại Đồng” là hiệu của nhà thuốc bắc ngay đầu dãy phố nên người dân thương mến gọi chợ nhỏ là “Chợ Đại Đồng”, cái chợ mà sáng, trưa, chiều, tối gì cũng đầy đồ ăn ngon và hấp dẫn làm lấp lánh cả tuổi thơ tôi mỗi khi nghĩ đến.

Cũng như tên gọi “Đại Đồng”, người dân ở chợ gần gũi và chân tình lắm, đến nỗi mỗi lần tôi “xuất hiện”; đi từ đầu chợ đến cuối chợ đều nghe tiếng mời chào thân thương “Út ơi, mới về hả? Vào ăn nè em”.

Ra là mặt mình cũ như cái chợ đến nỗi đi bao nhiêu năm về mấy chị, mấy dì, mấy cô đều nhớ. Ta nói cái tình nó ấm áp chân thật biết bao!

Lễ/Tết về quê chưa cần đến nhà ai, sáng sớm đi ra chợ một vòng từ trên xuống dưới nghe đủ mùi vị quê hương bên lò bánh căn nóng hổi cùng xoong cá kho được bà Hai tỉ mẫn khạy từng chiếc thảy ra tô hành lá là mọi người nhanh tay gắp lấy, hay tô cháo lòng nghi ngút khói với miếng dồi đặc trưng quán chị Cúc,

ghé qua chị Tư bún miến chả hấp tươi ngon dậy lên mùi biển, cũng không thể bỏ qua hàng bánh canh đặc (bánh canh bột gạo) ngạt ngào hòa giữa mùi gạo, rau răm và miếng chả cá chiên thơm lừng, rồi những chiếc bánh bèo xoáy be bé như lúm đồng tiền trắng nõn ở hàng cô Mai, ly sương sâm, bánh lọt mát lạnh hàng dì Bảy, chút béo ngậy trong ly sữa đậu xanh dì Xuân… rất nhiều món ăn dân dã đã kết nối những con người về đây, ta sẽ biết tất cả người trong phố ai đã về ai chưa về quê. Đàn anh, đàn chị, đàn em gì đều nhẵn mặt nhau ngoài chợ, hỏi thăm nhau rối rít trong lúc chờ chủ quán bán hàng. Mà chủ quán cũng chẳng cần hỏi cũng nhớ luôn tánh ăn của từng người như đứa nào ăn nhiều ớt, đứa nào thích nhiều rau, mắm nào khoái ăn mặn, con nào ăn hai lát chanh, nhỏ nào nhiều thịt ít bánh …

 

 

Chẳng ở đâu xa, chợ như ngôi nhà chung mọi người gặp gỡ thăm hỏi chuyện trò tự nhiên nhất quả đất. Chẳng cần trà bánh, chẳng cần câu nệ vỗ vai nhau cái bốp “Mới về hả?”; Thế là buổi đi ăn hàng khỏi đường về luôn.

Ba tháng dịch ở trong nhà bạn bè ở các nơi gặp nhau trên Net kể hết chuyện đông tây lại bàn các món ăn chợ Đại Đồng sau giấc ngủ trưa ngập nắng và gió chợ đon đả chào đón với tô bún mắm nêm ngon khó cưỡng, bánh quai vạt, chả lụi, bánh nậm, ốc mắm gừng quen thuộc của người miền biển mặn mà, đậm sâu. Nhớ lắm những buổi tối dịu mát, bạn bè í ới hẹn hò nhau đi ăn bánh xèo kiểu “người nhà quê” có tô nước mắm như canh, không cuốn cuốn chấm chấm e lệ như người thành phố, bên cạnh các hàng hột vịt lộn dưa chua, mì quảng nhiều nước không bánh tráng, đậm vị ngọt đặc trưng, bánh mì, bánh flan, rau câu chân vịt… được chế biến theo công thức nhà làm không tìm thấy ở đâu được nên đành mang theo như hương vị quê nhà thoang thoảng hòa quyện trong râm rang tiếng nói cười ngô nghê với những mẫu chuyện trường lớp, những bươn trải sớm mai cứ thế loang ra, loang ra lao xao cả một góc chợ. Để rồi nôn nao chờ cái ngày “bình thường mới”; về chợ Đại Đồng đặng ăn phủ phê các hương vị in hằn sâu trong tâm trí của những người con nơi nhà và những đứa xa quê.

Nhưng rồi “bình thường mới” cũng là lúc cải cách, sắp xếp lại chuyện buôn bán. Chợ không được sinh hoạt nữa, trả lại cho con phố đường thông hè thoáng như bao con đường khác. Dù biết phải thế nhưng cái “hồn” chợ qua bao thế hệ đã đi vào tâm tưởng của người dân nơi đây và nặng lòng cả những người xa xứ đang mong ngóng quay về.

Nghĩ mà thương những người bán hàng gắn liền cả đời mình với cái chợ, với những khách hàng thân thiết nhìn đến mòn mặt. Nghĩ mà tiếc tình nghĩa nơi này, nơi không chỉ bán thức ăn mà bán cả những hồi ức, hoài niệm. Cái tình nó nặng biết là bao!

Giờ phải đi đâu, về đâu? Dịch đã khổ, không chỗ mưu sinh càng khổ! Có ai mà ngờ một lần nghỉ dịch phải nghỉ luôn cả đời buôn gánh bán bưng nơi chốn chợ quê thân thuộc thế này!

Có thể nào “đô thị hoá” mà vẫn ĐẬM ĐÀ TÌNH QUÊ không?

 

BCL  2.11.2021

Nguồn ảnh: Sưu Tầm

Filed Under: Ghi chép lang thang, Góc nhìn - nhận định, Vài đoạn hồi ký

Thơ Đỗ Nghê: Khi xa ĐàLạt

27/10/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

Khi xa Đàlạt

Thơ Đỗ Nghê

Dalat nostalgia
sơn dầu trên giấy plast 18 x 20 in
đinhcường

 

Rồi cũng xa thôi những hẹn hò
những đồi run rẩy dưới mưa tơ
những thung lũng nắng mềm hơn tóc
những suối tương tư chảy hững hờ

Rồi cũng xa thôi những bướm vàng
những loài hoa dại ngát dung nhan
những con đường nhỏ quanh co lạnh
những khóm thông vi vút gió ngàn

Rồi cũng xa thôi những bước thầm
một mình với một nửa vầng trăng
hình như thu đã về trên lá
một chút thu trong gió thẹn thùng

Thôi – những người đi về phố phường
còn nghe rưng rưng bao niềm thương
khi xa Đàlạt xa Đàlạt
hồn cổ sơ làm sao không vương!

(Đàlạt 1966)

 

 

trích từ tuần báo MÂY HỒNG số 9 tuần lễ từ 11-9 đến 18-9-1972

(Chân thành cảm ơn Nhà thơ Trần Văn Nghĩa đã sưu tầm và gửi bài)

Nguồn: https://tranthinguyetmai.wordpress.com/2021/10/27/khi-xa-dalat/

 

 

 

 

 

Filed Under: Ghi chép lang thang, Vài đoạn hồi ký

Thầy Giác Toàn: NGHĨ VỀ Bs. ĐỖ HỒNG NGỌC

20/10/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

NGHĨ VỀ Bs. ĐỖ HỒNG NGỌC

nhân đọc bản thảo TUYỂN TẬP TÔI HỌC PHẬT (Phiên bản 2)

 

HT Thích Giác Toàn

 

Thích Giác Toàn (1949-) bút hiệu Trần Quê Hương, quê Châu Thành, tỉnh Tiền Giang, xuất gia năm 14 tuổi tại Mỹ Tho. Ông là thiền sư, thi sĩ. Thường trực lãnh đạo Hệ phái Khất sĩ – Phó Tổng biên tập Báo Giác Ngộ. Hiện trụ trì Pháp viện Minh Đăng Quang Tp.HCM.

(https://www.thivien.net/)

 

NGHĨ VỀ Bs. ĐỖ HỒNG NGỌC

nhân đọc bản thảo TUYỂN TẬP TÔI HỌC PHẬT (Phiên bản 2)

 

Tôi rất hoan hỷ và cảm ơn Bs. Đỗ Hồng Ngọc về việc anh gửi cho tôi qua email bản thảo TUYỂN TẬP TÔI HỌC PHẬT (Phiên bản 2, năm 2021). Viết bài này, tôi không có ý định nhận xét về tác phẩm lớn này, mà tôi chỉ nhân đây nêu một vài nhận xét về vị bác sĩ, nhà văn, nhà thơ, nhà Phật học và về phẩm chất của tác giả. Sơ sài, thiếu hệ thống và có thể có chỗ lệch lạc là bài viết này của tôi. Xin chư độc giả và Bs. Đỗ Hồng Ngọc niệm tình lượng thứ.

Tuyển tập dĩ nhiên là các đề tài Phật học đúng như tựa đề sách, gồm 8 mục: Nghĩ từ trái tim, Gươm báu trao tay, Ngàn cánh sen xanh biếc, Cõi Phật đâu xa, Thấp thoáng lời kinh, Thoảng hương sen, Thiền tập và Tạp ghi:Lõm bõm. Tất cả đều là những tác phẩm nổi tiếng đã được xuất bản mà tôi đã được đọc trước đây, ngoại trừ Tạp ghi chỉ được tìm thấy rải rác trên Trang nhà của Bs. Đỗ Hồng Ngọc.

 

 

Hình như tất cả các tác phẩm của Bs. Đỗ Hồng Ngọc đều được viết vì tấm lòng, từ cảm xúc, tư duy, kinh nghiệm của chính anh. Anh viết cho anh và cho mọi người già, trẻ, phụ nữ, trẻ em và cho các thiện tri thức thân hữu. Anh không được chính thức đào luyện về Phật học. Anh tự mày mò đến với Phật học khi tuổi đã đến lục thập. Vào rừng kinh điển Phật học, anh tự để cho cảm xúc, cho tâm hồn, cho trí óc tự do vận hành. Súc tích, lạc quan, dí dỏm và chân thành là những tác phẩm của anh, của con người Đỗ Hồng Ngọc.

Là bác sĩ, anh chữa bệnh, gần gũi, an ủi, khích lệ đủ mọi lứa tuổi qua nhiều tác phẩm như Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng, Thầy thuốc và bệnh nhân, Sức khỏe gia đình, Khi người ta lớn… và Già ơi…Chào bạn.

Già ơi…Chào bạn! Tôi nghĩ có lẽ anh có nghĩ đến Bonjour Tristesse của Nữ sĩ Françoise Sagan (Nhà văn Nguyễn Vỹ dịch là Buồn ơi chào mi) đã được nhiều triệu độc giả trên thế giới ca ngợi cách đây hơn 6 thập kỷ. Sách này xuất bản năm 1954, tác giả mới 18 tuổi, kể lại nỗi buồn của một cô gái 18 tuổi vì thi rớt Tú tài, cuối cùng cô nhận định rằng cuộc đời này buồn nhiều hơn vui. Già ơi… Chào bạn! của Đỗ Hồng Ngọc được xuất bản năm 1999, được viết lúc tác giả đã đến tuổi 60, và đang thư thái khởi đầu bước vào rừng kinh điển Phật giáo, một ông già vui vẻ, tươi tắn, lạc quan mà nghĩ rằng đời vẫn đẹp vì nó có ý nghĩa đẹp.

Ở Đỗ Hồng Ngọc là một tấm lòng chân thật, anh viết cho mình và cũng muốn gửi đến các thiện tri thức thân hữu và cũng muốn những gì anh đã làm theo gió bay xa. Tôi cũng muốn như anh, gửi những dòng này đến anh và muốn chúng theo gió bay xa…

Đỗ Hồng Ngọc, tôi kính mến anh…

Trân trọng!

 

Pháp viện Minh Đăng Quang,

Mạnh đông Tân Sửu – 2021.

Sa-môn Thích Giác Toàn

 

 

 

 

 

 

 

Filed Under: Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định, Vài đoạn hồi ký

NT Khánh Minh “đọc” Đỗ Hồng Ngọc (Đỗ Nghê): “Còn Chút Để Dành”

19/10/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

 

Giới Thiệu “Còn Chút Để Dành” –

Nguyễn Thị Khánh Minh đọc Đỗ Hồng Ngọc (Đỗ Nghê)

Nguyệt Mai hân hạnh giới thiệu:

CÒN CHÚT ĐỂ DÀNH
Nguyễn Thị Khánh Minh đọc Đỗ Hồng Ngọc (Đỗ Nghê)
Tháng 8/2021

Bìa trước “Còn Chút Để Dành”

gồm 7 bài viết đặc sắc của nữ sĩ Nguyễn thị Khánh Minh:
1. Reo Tuổi
2. Con đường dài qua những bài thơ ngắn của Đỗ Nghê
3. Ngoại chờ bên kia sông
4. Lagi, ngày con về
5. Đỗ Hồng Ngọc, lang thang nghìn dặm trái tim
6. Cùng sông
7. Còn chút để dành

Mình vừa thực hiện một tập sách mỏng, kỷ niệm tuổi 81 này, với những bài viết rất hay của nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh về Đỗ Hồng Ngọc (Đỗ Nghê). Có thể nói Khánh Minh “Đọc” Đỗ Hồng Ngọc với một cảm xúc thi ca hiếm có, “Nhìn ra” một Đỗ Nghê (ĐHN) còn hơn ĐHN thấy biết về chính mình.

– Đỗ Hồng Ngọc

oOo

Quý bạn có thể xem sách ở đây.
Tập CÒN CHÚT ĐỂ DÀNH (Đỗ Hồng Ngọc) (1)

oOo

Sau đây là một số chia sẻ của bạn văn.

Một cuốn sách làm quà tặng vô cùng dễ thương.
Càng đọc càng thấy nữ sĩ Khánh Minh là một tri âm tri kỷ – rất quý của Đỗ Hồng Ngọc (Đỗ Nghê). Đã hiểu anh một cách rất sâu sắc. Hình như chưa có người nào đọc ĐHN mà thấu đáo tận cùng như vậy.
Rất tuyệt vời.

– Nguyệt Mai

oOo

Hải không viết được về cuốn Còn Chút Để Dành của NT Khánh Minh. Tự cuốn sách đã hay rồi. Bây giờ bình luận thì không làm cho hay thêm.
Cũng giống như khi ngồi nghe một ca khúc của Phạm Duy. Thì Khánh Minh là một Phạm Duy của ngôn ngữ. Có viết thêm, cũng không làm ca khúc hay hơn.
Hãy cứ để như thế đi. Khi nghe nhạc hay, mà làm thêm tiếng động sẽ làm hỏng giây phút đó.

…………………………………………..

Trong thế giới thơ Nguyễn Thị Khánh Minh, chúng ta còn nhìn thấy những bài thơ viết về cha, về mẹ, hay về những người bạn thân như nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc, nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ … Một thế giới được tái hiện bằng chữ. Nơi đó, Đỗ Hồng Ngọc quyện vào một màn sương của hồn dân tộc. Tôi xin thú thật, tôi không biết hồn dân tộc cụ thể là gì, vì chữ này trừu tượng quá, mơ hồ quá.
Nhưng tôi đã mơ hồ nhận ra trong bài Lagi Ngày Con Về, khi Nguyễn Thị Khánh Minh viết tặng nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc năm 2017, nơi đó họ Đỗ về thăm căn nhà của Mẹ ở Lagi, trích:

Bìa sau “Còn Chút Để Dành”

 

Nghe rất khẽ. Nghe như mơ. Tiếng chổi
Xào theo chân. Bóng mẹ mỏng như mây
Vườn thức giấc. Hồn tinh sương mẹ gọi
Con bướm bay về. Lá trổ trên cây

Vâng thưa Mẹ. Bếp nhà vừa cơi lửa
Cơm chiều ngon thơm lúa vụ mùa tươi
Mai mẹ về. Về với Ngoại xa xôi
Chiếc nón lá Mẹ cứ cài trên cửa

Có phải hồn dân tộc là cái gì có thể nghe được, như tiếng chổi của ký ức nơi hiên nhà của mẹ, hay có thể ngửi được như cơm mùa lúa mới, hay có thể thấy được như chiếc nón lá Mẹ cài trên cửa? Đây là thế giới như mơ, như thực đã hiện ra trên những dòng thơ của Nguyễn Thị Khánh Minh.

– Phan Tấn Hải

oOo

NƯỚC – YouTube

Nước (Kể chuyện trăng tàn)
Thơ Đỗ Hồng Ngọc,
Nhạc Khúc Dương (Đặng Ngọc Phú Hòa)
Hát bởi Camille Huyền

oOo

Tuyển tập thu góp những bài viết đẹp đẽ đầy tình người của NT Khánh Minh về Đỗ Hồng Ngọc (Đỗ Nghê) một lần nữa cho thấy có lẽ anh là người hạnh phúc và giàu có nhất trên đời.
Xin được chung vui cùng anh. Và xin chúc anh an lạc trong lòng thương yêu, quý mến của mọi người.
Thân mến,

– Tô Thẩm Huy

oOo

Hạnh phúc của người viết là nhận được sự đồng điệu nơi người đọc. Em nghĩ người viết Đỗ Hồng Ngọc hạnh phúc muôn phần khi nghe được khúc hòa âm từ tác giả Nguyễn Thị Khánh Minh.
Hơn tuần nay, em may mắn được đọc “REO TUỔI”, ngưỡng mộ vô cùng ngòi bút sắc sảo, uyên thâm mà dạt dào khôn tả; lại xuýt xoa với câu từ của chị Khánh Minh,thú vị và đẹp đẽ!
Đúng lúc hoang mang vì tuổi tác chất chồng, em cảm thấy an lòng đón thêm tuổi mới khi được đọc những dòng này!
Cảm ơn thật lâu với “Còn chút để dành”!

– Lê Uyển Văn

oOo

BÔNG HỒNG CHO MẸ – Nhạc Võ Tá Hân – Thơ Đỗ Hồng Ngọc – Ca sĩ Thu Vàng – YouTube

Bông Hồng Cho Mẹ
Thơ Đỗ Hồng Ngọc
Nhạc Võ Tá Hân
Hát bởi Thu Vàng

oOo

Em chào anh,
Được mail anh mừng lắm. Vì anh vẫn khỏe, vẫn an lạc cùng chữ nghĩa văn chương.
Tuyệt quá, chúc mừng anh.
Anh thật hạnh phúc có người đọc tuyệt vời như Khánh MInh.
Cảm nhận sâu sắc, đồng điệu thật ngưỡng mộ. 7 bài là bảy cung bậc đọc ĐN-ĐHN
Em thích CON ĐƯỜNG DÀI QUA NHỮNG BÀI THƠ NGẮN…
Thăm anh chị mùa dịch bình an và chúc mừng anh niềm vui sáng tạọ tái sinh sáng tạo…
Em gửi lời thăm chị Khánh Minh nghen.
Quý mến,
Hoàng Kim Oanh

oOo

Anh Ngọc và KM ơi,
Chúc mừng anh Ngọc vừa tặng KM một tác phẩm quá mỏng mảnh, quá thi vị, quá dễ thương… “Các em” đã vất vả nằm thin thít trong thùng tối để vượt đường xa về với chị KM, các em đã “ lội ngược dòng” từ đông sang tây để đến với “các bạn trẻ” của anh Ngọc, và bạn trẻ đầu tiên đã được cầm nó trên tay háo hức đọc lại từng chữ của người thân yêu hàng ngày chia buồn sẻ vui mà tưởng tượng đến một người thân yêu khác đã tìm tòi, lục lọi, đã tỉ mẩn sắp xếp lại từng trang sách, từng bản nhạc… để hoàn thành một kỷ vật thật đáng quý.
Vui quá, vui quá nè anh Ngọc, KM ơi. “Các bạn trẻ” của anh Ngọc chuẩn bị ăn mừng nhe.

Thu Vàng

oOo

Ca khúc Sông ơi cứ chảy – YouTube

Sông Ơi Cứ Chảy…
Thơ Đỗ Hồng Ngọc
Nhạc Nguyễn Đức Vinh
Hát bởi Thu Vàng

oOo

Đọc tập “Còn Chút Để Dành” của Nguyễn Thị Khánh Minh viết về nhà thơ Đỗ Nghê – Đỗ Hồng Ngọc không thể không liên tưởng đến Bá Nha – Tử Kỳ, mối tri kỷ chỉ hiện hữu ở tình bạn tuy giữa hai người mà đã là như một. Tưởng là chuyện chỉ xảy ra thời Xuân Thu Chiến Quốc, ngờ đâu truyền kỳ ấy lặp lại giữa thời đại chúng ta. Thật là một tương lân thân tình hiếm có!
Với một bút pháp sâu sắc, diễm lệ, Khánh Minh bắt đúng mạch và dẫn người đọc đến một thế giới thơ mộng Đỗ Nghê chan hòa giữa đạo và đời, nói đúng ra một nếp sống an lạc trong lục hòa. Từ đó ta bắt gặp một Bồ tát không tuổi bởi “Anh không có ngày sinh nhật/ Nên mỗi ngày/ Là sinh nhật của anh.”  Anh sống trong hiện thị đương là, từng giây phút ngập tràn luân sinh chất ngất, vô thủy vô chung nên vô sinh, không sinh ra nên không chết đi cho lý nhân quả dừng lại. Không những thế ta còn khám phá ra những dòng thơ ngắn, cô đọng, đời thường của Đỗ Nghê vậy mà “vỡ òa ngực biếc” bởi những gì là thân yêu nhất không thể thay thế: tình quê, tình Mẹ. Và rất nhiều nữa.
Cám ơn nhà văn Khánh Minh, không có những tản văn cô đọng và đúc kết như thế của cô, có lẽ chúng ta sẽ không thấy hết, thấy đầy đủ một viên ngọc quý: Đỗ Hồng Ngọc.

– Vũ Hoàng Thư

oOo

Cảm ơn anh Đỗ Hồng Ngọc và Khánh Minh đã tặng tập sách quý “Còn Chút Để Dành”. Cuốn sách tuy mỏng mà nặng… Bìa đẹp với mùa thu thơ mộng và lãng mạn, rất thích hợp với văn phong NTKM. Đọc sách điều TL cảm nhận được là một mối hòa điệu tri kỷ của người đọc và người được đọc. Thật không gì hạnh phúc hơn khi viết mà nhận được những đáp ứng sâu sắc ân tình như bảy bài viết của Khánh Minh. Tự nhiên TL nhớ mấy chữ Hiểu và Thương của thiền sư Nhất Hạnh, Khánh Minh viết cảm nhận về văn Đỗ Hồng Ngọc như thế, không chỉ là HIỂU mà còn THƯƠNG.

– Nguyễn Thị Thanh Lương

oOo

kẹp sách cho “Còn Chút để dành”, gửi nhà văn, thi sĩ Đỗ Hồng Ngọc.
duyên

………………………………………………..

Nguồn: https://tranthinguyetmai.wordpress.com/2021/10/19/gioi-thieu-con-chut-de-danh-nguyen-thi-khanh-minh-doc-do-hong-ngoc-do-nghe/

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Nguyên Giác: Đọc “Tôi học Phật” của Đỗ Hồng Ngọc

27/09/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Đọc “Tôi học Phật” của Đỗ Hồng Ngọc

Nguyên Giác

Báo GIÁC NGỘ TP.HCM, 26.09.2021

(https://giacngo.vn/doc-toi-hoc-phat-cua-do-hong-ngoc-post58829.html)

 

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc
Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc
GN – Có những người làm gì cũng hay, viết gì cũng hay. Tôi luôn luôn kinh ngạc về những người như vậy. Họ như dường lúc nào cũng chỉ ra một thế giới rất mới, mà người đời thường như tôi có ngó hoài cũng không dễ thấy ra.

Đỗ Hồng Ngọc là một người như thế.

Đỗ Hồng Ngọc là một bác sĩ; dĩ nhiên ai cũng biết, bởi vì anh nổi tiếng hơn rất nhiều bác sĩ khác, và được báo chí phỏng vấn thường xuyên. Nhưng anh cũng nổi tiếng làm thơ hay từ thời sinh viên. Thơ của anh nhiều đề tài, có cả thơ Vu lan, thơ tặng mẹ, thơ tình, thơ tặng em bé sơ sinh, thơ tặng bà bầu, và đủ thứ.

Trong khi tôi đọc, thưởng thức, và thán phục các vần thơ tuyệt vời của anh, nhưng tận cùng thích nhất vẫn là đọc Đỗ Hồng Ngọc viết về kinh Phật. Chính nơi lĩnh vực này, họ Đỗ viết gì cũng hay, viết ngắn cũng hay, viết dài cũng hay, viết về Thiền thở cũng hay, viết về ngũ uẩn giai không của Tâm kinh cũng hay, viết về ưng vô sở trụ của kinh Kim cang cũng hay, viết về kinh Pháp hoa, kinh Duy Ma Cật cũng hay. Và tôi tin, nhiều thế hệ sau sẽ nhớ tới một Đỗ Hồng Ngọc viết về lĩnh vực này, đó là những gì anh đã đọc, đã hiểu, đã sống và đã ghi xuống các trang giấy trọn một pháp giới học Phật của anh.

 

Đọc "Tôi học Phật" của Đỗ Hồng Ngọc ảnh 1
Thiết kế: Tống Viết Diễn (Báo Giác Ngộ số 1116-1119)

 

Nhiều thế hệ tương lai sẽ không nhớ tới một bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, và cũng chẳng thắc mắc chuyên ngành của anh có phải tai mũi họng hay nhi khoa, hay nội khoa. Cũng như chúng ta bây giờ chỉ mơ hồ hình dung về một bác sĩ Lê Đình Thám, nhưng dễ dàng nhớ về một cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám đã dịch kinh Lăng nghiêm, Đại thừa Khởi tín luận, v.v… cũng là người đã sáng lập Gia đình Phật Hóa Phổ, tiền thân của Gia đình Phật tử. Vâng, đời sau hẳn là sẽ nhớ tới Đỗ Hồng Ngọc với tuyển tập Tôi học Phật, một tuyển tập đã gom chung nhiều tác phẩm đã in rời trước kia.

Làm thế nào Đỗ Hồng Ngọc viết hay như thế? Phước đức, học lực của một đời hẳn là không đủ. Hẳn phải là nhiều đời. Tôi suy nghĩ về câu hỏi đó, khi đọc Tôi học Phật – phiên bản 2 của Đỗ Hồng Ngọc. Đây là ấn bản họ Đỗ biên tập lại nhân dịp nằm nhà khi cả nước rơi vào mùa dịch, như lời anh giải thích khi qua email:

“Cả gần 3 tháng nay nằm nhà. Tình hình Covid-19 ở Sài Gòn căng thẳng lắm như Hải đã biết. Trong suốt thời gian này, mình chỉ làm một việc là ‘biên tập’ lại toàn bộ cuốn Tôi học Phật, chủ yếu là một cách ôn tập cho bản thân. Nay tương đối hoàn chỉnh bản thảo này, mình in ra một ít để kỷ niệm. Bìa do mình tự ‘dàn dựng’, cảm hứng từ đặc san Liễu Quán (Huế), mang tính ‘lõm bõm’ ‘lãng mạn’ của mình…”

Đỗ Hồng Ngọc giải thích về cơ duyên học Phật sau 6 thập niên loanh quanh: “Khi là sinh viên ở Sài Gòn, tôi cũng đọc Bát-nhã, đọc Suzuki, Krishnamurti…nhưng đọc chỉ để mà đọc. Đến năm tuổi gần 60, sau một cơn bệnh thập tử nhất sinh, tôi thấy mọi sự khác hẳn đi. Tôi đọc Tâm kinh thấy không khó nữa. Như vỡ ra. Và với Tâm kinh, tôi thấy chỉ cần học một chữ thôi. Chữ không. Từ đó mà vô trụ, vô trí, vô đắc…”.

Nếu chúng ta nhìn về không khí học Phật nơi thế giới Tây phương, cụ thể là tại Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Úc châu… chúng ta có thể thấy 2 khuynh hướng lớn. Thứ nhất, khuynh hướng thế tục hóa Phật giáo, làm cho Phật giáo trở thành một ứng dụng đời thường, biến Phật pháp thành một pháp mindfulness đơn giản để thư giãn, để chữa bệnh, để làm một liệu pháp nơi góc bệnh viện, thậm chí để làm một pháp tỉnh thức bổ túc cho các tôn giáo khác. Thứ hai, khuynh hướng xuất thế gian, học Phật để bước đi trên đường giải thoát của Phật giáo, nơi đây lại chia ra ba tông phái lớn: Nam tông, Bắc tông, Kim Cang thừa (Phật giáo Tây Tạng).Đó là cơ duyên lớn của tác giả họ Đỗ. Vì có những người tụng Tâm kinh cả đời, nhưng không hiểu được. Cũng như có người đọc chú giải Tâm kinh từ nhiều thầy, nhưng lại không vào được. Có người sau nhiều năm không hiểu, lại ngờ vực Tâm kinh. Rồi có những người chọn thái độ kính nhi viễn chi, dặn nhau là nên tìm những gì cho đơn giản, thích nghi với đời sống hơn, nói sai lầm rằng Tâm kinh chỉ là kinh để tụng trong chùa. Hiển nhiên là trăm ngả rẽ. Hẳn là tùy cơ duyên.

Tuyệt vời nơi Đỗ Hồng Ngọc là chúng sinh muốn nghe chuyện gì thì anh nói chuyện đó. Muốn nghe chuyện ứng dụng thế gian, họ Đỗ trở thành một bác sĩ phân tích về sức khỏe thân và tâm. Muốn nghe chuyện giải thoát, họ Đỗ liền trở thành một người kể lại các kinh nghiệm học Phật mà ai cũng có thể học theo và tự chứng ngộ được.

Thí dụ, Đỗ Hồng Ngọc, trong tư cách bác sĩ, đã viết về chữa bệnh: “… Đặc biệt là phương pháp ‘thở Chánh niệm’ – mà Phật đã dạy từ những bài học đầu tiên sau khi giác ngộ – tôi thấy có thể có hiệu quả trong phòng ngừa và điều trị một số bệnh thời đại, những bệnh dịch không lây, nhưng rất nguy hiểm, gây khổ đau, tàn phế cho nhiều người mà Tổ chức Sức khỏe Thế giới (WHO) đã luôn cảnh báo trong những năm gần đây, làm giảm chất lượng cuộc sống của con người, chủ yếu do lối sống và môi trường sống đầy căng thẳng, bất an…”.

Như thế rất thực dụng, bất kỳ tín đồ tôn giáo nào cũng có thể áp dụng được. Phương pháp thiền Tỉnh thức dùng trong các trường học, và trong các bệnh viện tại Hoa Kỳ hiện nay cũng dựa nhiều vào pháp thở Chánh niệm. Khi Phật pháp ứng dụng để dùng trong trường học và bệnh viện, tất cả yếu tố tín ngưỡng và tôn giáo đều phải gỡ bỏ.

 

Đọc "Tôi học Phật" của Đỗ Hồng Ngọc ảnh 3
Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc chia sẻ chủ đề “Tôi học Phật” tại chùa Thiên Quang (Bình Dương)

 

Nơi mặt ngược lại, khi nói về giải thoát luận, Đỗ Hồng Ngọc đã chỉ ra những cách nhìn để xúc chạm sâu thẳm tới các pháp ấn: vô ngã, vô thường, khổ, không. Chúng ta có thể nhớ rằng, chư Tổ ngày xưa lấy cỗ xe ra để giải thích lý vô ngã, để nói rằng không hề có cái gì gọi là xe nào trong cỗ xe, gọng xe, bánh xe… Và rất hiện đại hóa, Đỗ Hồng Ngọc lấy cái đồng hồ ra để giải thích về lý vô ngã:

“Bị bó rọ, bị thành kiến che khuất, lấp chặt, dần dần ta bị lệ thuộc, bị níu kéo, ta giữ lề, cho ‘xứng với ta’, với vai ta đóng và bản ngã ta sẽ ngày càng to, càng dầy ra, chính là nguồn gốc của khổ đau. Cái gì có ‘ta’ trong đó thì tạo ra khổ đau. Nhà ta, của ta, con ta, người yêu ta và thân ta… Mà cái ta đó, theo cái nhìn Bát-nhã Tâm kinh chỉ là sự kết hợp của những thành tố do duyên mà tụ lại, tương tác, tương sinh, tương hợp, cái này có là do cái kia có, quấn quýt chằng chịt lẫn nhau – như những thành tố tạo nên cái đồng hồ gồm kim, bánh xe, con lắc… và sinh ra tiếng ‘tích tắc’. ‘Tích tắc’ vốn không có, thực không có, do kết hợp các thành tố riêng lẻ mà có. Gỡ bỏ các thành tố ra để tìm lấy tiếng tích tắc (cái ngã) sẽ không thấy đâu nữa! Ráp lại thì có. Cái tiếng tích tắc, không mà có, có mà không, trống rỗng mà tràn đầy là sự vận hành tuyệt diệu của cái đồng hồ. ‘Chân không’ cũng chính là ‘diệu hữu’. Dừng lại ở ‘không’ đơn thuần, như một xóa bỏ, từ chối, hư vô chủ nghĩa là một sai lầm tai hại”.

Có thể tin rằng, những gì tác giả Đỗ Hồng Ngọc viết về học Phật sẽ lưu giữ rất lâu trong nền văn học Phật giáo quê nhà, vì toàn văn tuy rời rạc, nhiều chủ đề, nhưng vẫn xuyên suốt là một tập luận thư để chú giải kinh Phật. Điều rất khác giữa Đỗ Hồng Ngọc và nhiều vị tiền bối là từ chỗ rất lơ mơ trong 6 thập niên, chứ không phải vào chùa học Phật từ thời thơ ấu, cho nên văn phong của anh là một pháp giới xen lẫn của một nhà văn, một nhà thơ, và là một nhà khoa học. Đây cũng là chỗ độc đáo không chỉ của anh, mà là của rất nhiều người từ một thế hệ học Phật cùng thời.

Nơi đó, để Phật hóa cõi nhân gian, một thế hệ học Phật đã từ nhiều cõi nước hẹn nhau bước tới Việt Nam, để học, để tu, để dịch, để dạy và để viết – trong đó có cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám, thầy Minh Châu, thầy Nhất Hạnh, thầy Thanh Từ, thầy Tuệ Sỹ, Giáo sư Lê Mạnh Thát, Ni trưởng Trí Hải, Ni trưởng Hải Triều Âm… Và nơi mặt khác, để thi hóa cõi trần gian đầy đau đớn này, để chỉ ra Khổ đế nhằm làm tiền đề cho Đạo đế hiển lộ, một thế hệ các văn nghệ sĩ đã hẹn nhau tới Việt Nam để sống và để viết lên những cõi thơ dị thường, trong đó có Bùi Giáng, Phạm Thiên Thư, Đỗ Hồng Ngọc, Thích Tánh Tuệ, Nguyễn Lương Vỵ…

Nói theo Phật giáo Tây Tạng, họ là những bậc tái sinh. Dĩ nhiên, tác giả Đỗ Hồng Ngọc không đồng ý về nhận xét này. Vì họ Đỗ sẽ dẫn ra ngay rằng anh không hề thấy có cái gì gọi là “cái ta, cái của ta” trong thân ngũ uẩn, thì hà huống gì lại nói rằng có một chàng họ Đỗ hẹn tới Việt Nam để làm thơ, để viết văn, để chú giải kinh Phật:

“Trong cái tánh “Không” đó, tất cả là Vô, hay nói khác đi, tất cả là không có! Không có hình thể, sắc tướng; không có cảm thọ – không có tưởng, hành, thức gì cả. Tóm lại, là vô ngã. Không có cái ta thực mà chỉ có cái ta giả tạm, bọt bèo, cái ta đang ăn uống, nói năng, huênh hoang, tự mãn, tự ti, tham lam, sân si, mê đắm… đủ thứ, đủ kiểu. Cái ta giả này làm khổ cái ta thật. Cái ta giả làm Tôn Ngộ Không bị kim cô siết đau muốn chết, còn cái ta thật thì Tôn Ngộ Không đã bay bổng biến ra vô số những Tôn Ngộ Không khác rồi! Mà đã vô sắc (cái thân xác) thì đương nhiên sẽ vô nhãn (mắt), vô nhĩ (tai), tỷ (mũi), thiệt (lưỡi), thân (xúc giác), ý (suy tưởng). Toàn thân đã không có lẽ nào có từng thành phần?”.

Một điểm đặc biệt trong Tôi học Phật của Đỗ Hồng Ngọc, và cũng hiếm thấy nơi các tác giả khác: bạn có thể ngưng ở bất kỳ trang nào, ở bất kỳ dòng chữ nào, để tự nghiệm những lời kinh được chú giải ngay trên thân và tâm của bạn. Bạn hãy đọc rất chậm và hãy nghiệm như thế, nơi từng hơi thở của bạn, nơi từng niệm và nơi từng cảm thọ của bạn. Những dòng chữ Đỗ Hồng Ngọc viết xuống trong sách cũng là từ các thể nghiệm thực chứng của tác giả. Đó là những dòng trực giải kinh Phật rất mực trang nghiêm, nơi đó từng dòng chữ đã trở thành những trận mưa hoa để cúng dường chư Phật. Nơi đó là hạnh phúc, là an lạc và là vô lượng công đức.

Nguyên Giác/ Báo Giác Ngộ
(26.09.2021)

Filed Under: Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Ngô Nguyên Nghiễm viết về Phan Bá Thụy Dương

22/09/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Phan Bá Thụy Dương: Đại Thiên Sa Giới Ngoại/ Hà Xứ Bất Vi Gia

Ngô Nguyên Nghiễm

PBTD
Hai câu kệ của tổ sư Thường Chiếu đời nhà Lý, được nhà thơ Phan Bá Thụy Dương chuyển ý “ngoài cõi trời bao la vô tận đó/ có nơi đâu chẳng thể gọi là nhà”. Cái khuynh khoái của người nghệ sĩ chất nhẹ trên đôi vai gánh tang bồng, thì thế sự chất chồng chung quanh nẻo sống chỉ là những cát bụi phù du. Bước đạt ngộ của kẻ làm văn nghệ hình như cũng tương đồng với thậm thâm vi diệu pháp của người tu chứng. Quẫy trên lưng cả một vũ trụ nghiệp chướng dầy đặt những hạnh phúc hay khổ đau, như quẫy nhẹ cả hư không trong lòng người đạt ngộ.
Thơ Phan Bá Thụy Dương có cái gì nhè nhẹ, loáng thoáng lúc khinh bạt như hình dáng một người hàn sĩ vác thanh kiếm hồng, vửa du hành vửa ca tụng thanh thoát giữa rừng bạch tùng đầy mù sương và khí thiêng. Nhưng người khách tiêu dao kia, không chỉ một đường đi thẳng trầm lặng trong vũ trụ riêng mình. Hàn sĩ vác thanh khí gươm hồng, ngoãnh lại sau lưng cười nhẹ nhàng chia sẻ dưỡng trấp hậu thiên cùng người đồng điệu nhân gian. Cái ngoáy nhìn lại trong giây phút vô hư chính là trang trải nỗi niềm thanh thản bồ tát đạo, hình như chỉ để chia sẻ những tinh hoa và hạnh phúc thường hằng, còn ẩn hiện trong hàng vạn lớp thượng tầng sinh khí với vạn vật của ba ngàn thế giới quy tông.
Dù Phan Bá Thụy Dương có giây phút phân trần “cõi trần thế lỡ đam mê sa đọa/mãi rong chơi ta lạc lối quay về”. Nhưng nhìn kỹ đi, lời nói ởm ờ được nhà thơ bạch sĩ đặt trang trọng đầu thi tập, như lời quảng bá tư thức và hành hiệp lãng bạt trong suốt tập thơ Lời Gọi Cỏ May, thì không phải vậy đâu… Có ý niệm quay về, là có tâm thức đáo bỉ ngạn, quay đầu là bờ.
Tất cả ngôn ngữ thi ca, trong suốt quãng đời phiêu bạt của người cuồng sĩ lãng đãng trên thi ca, Phan Bá Thụy Dương chính là người đạo sĩ tài ba thuần hóa từng chi tiết một cho hồn thơ con chữ “thôi thôi ta về ôm góc núi/ đẻo gỗ trầm hương tạc tượng nàng”, từ tinh túy mật diệu trầm hương, đến hứng tinh hoa nhật nguyệt mà lay động cả càn khôn, hầu “dựng am đường hội chứng vô âm”.
Chiêm nghiệm thơ lão mai Phan Bá Thụy Dương, khiến tôi chất ngất trong thanh khí tuyệt bích, lãng đãng lướt nhẹ trong hiện thức, rồi như cơn cuồng vọng bất chợt chìm lắng lặng lờ quanh cái có cái hư không. Cũng vậy, bỗng dưng và không hiểu tại sao tôi chợt bước vào hai ngõ rẽ, như hai con đường định mệnh bắt buộc, người trần gian từ đó trầm tưởng chọn lựa để quay về. Một là khí lực thượng thanh lão đạo của Phan Bá Thụy Dương, nhẹ nhàng như lão tiều già thoát tục gánh bó củi khô, như sương như khói thoạt ẩn thoạt hiện trên vách núi cheo leo. Một như âm khí đục lẳng, gom góp cả một trời ngôn ngữ của ngàn trùng, của gió hú và nghe thời khắc rơm rớm âm sầu của cầm dương trấng cầm dương xanh ngất lạnh (Nguyễn Lương Vỵ/ Tám câu lục huyền âm). Quả thật, giữa hai đối cực trùng trùng thần thông, trước cái lạnh chất ngất ma quái của thơ Nguyễn Lương Vỵ, lại là một thanh khí huyền bá phiêu lãng vi diệu trung đạo thì có màng gì cái sắc cái không trong thơ Phan Bá Thụy Dương! “trong chốn mơ hồ u tịch đó/thoáng nghe dìu dặt tiếng tiêu buông/thõng tay theo gió, theo mưa lũ/tâm trụ an nhiên/mộng bình thường”.
Nhìn đây, hình ảnh Trang Châu loáng thoáng theo gió, theo mưa lũ, mà trụ tâm. Thõng tay mà an nhiên, như Trang Tử bật thốt ngơ ngác, không hiểu gió thổi mình hay mình lướt theo gió. Cái thường trụ là hiển nhiên trong thế giới sắc dục, nhưng thể chất nhân gian vẫn là rào cản bước vận hành thanh khí chân như, huống hồ gì ngôn ngữ cũng chỉ là hiện thể vật chất có thành trụ hoại diệt, tạm bợ luân chuyển trong đời sống và nghệ thuật. Như vậy, tâm và ý bất chợt hiện nhập làm một, và thi ca và thi nhân cũng nhập thể hóa thân. Thì, thơ như đường trăng soi khi hoa nở, và mỗi nhân thế có một nét rung động khác nhau, nhưng thơ vẫn là một trong một ý niệm niêm hoa vi tiếu của thi nhân:
Chim thức giấc cất lời ru thật lạ
người phong trần
qua mấy độ truân chuyên
thấy gì chưa
tự ngã với uyên nguyên
hay ngần ngại chia xa lòng thung lũng?
từ tiềm thức đã lạc quên long trượng
đâu đây chừng thấp thoáng ánh vô ưu
thiền khách nầy-
thiền khách đã về chưa?
…………….
(Nói với thiền khách/Lời Gọi Cỏ May)
Bước vào thế giới thơ Phan Bá Thụy Dương, phải bằng bước chân thong thả nhẹ nhàng và chất chứa một thông thoáng đạo vị. Nhưng đừng lầm lẫn trong phong thái tiêu dao trên từng ngôn ngữ thơ, mà lạc bước trong vòng xoáy sắc không, đang huyển hóa từng thời khắc theo phóng bút của người thơ. Cái lãng đãng tiêu dao của một không khí mai lan trúc cúc, gió sớm mây chiều, giọng hát trong âm thanh sên phách, thì chính thị là khuynh thế Lão Trang. Từ “gánh càn khôn u uẩn tiếng mưa khơi” đến an nhiên của vô vi “tay ơ hờ vuốt gió hát buâng quơ”. Ý niệm đó, trong Bài Tâm Ca Vô Niệm, Phan Bá Thụy Dương đã đồng ý khi thi bá Vũ Hoàng Chương nhẹ gật đầu “Túy-ca bè đã thả rồi/ Túy-hương xưa hãy cùng trôi ngược về”.
Nhập thể tam thanh, là hình thức khiến thơ Phan Bá Thụy Dương phiêu hốt hằng hà sa số với cơn trốt hư không. Cuộc sống đi – về như mây trôi gió nổi, nửa tục nửa tiên ôm một giác đạo của hình thức hoạt ngộ giới xiển giáo. Đời tử sinh còn lẽo đẽo khiến thơ lúc quanh quẩn bụi hồng trần, lúc tiêu dao xua tự ngã u minh. Chính vậy, đường thơ đi như tạc hình ẩn khách, khiến xiêm y loạn lửa chân như “đèo hiu hắt bạt ngàn – đêm tận tuyệt/ rải sa mù khuất bóng nẻo từ ly”.
Uống khô dòng suối, tát cạn biển Đông… cũng có thể làm được, vì đó là một hiện thể dục giới. Nhưng hóa hiện chất ngất của một câu thơ mà đêm tận tuyệt chắc chắn phải trải dài trong không – thời gian vô định, bất phân ly thời khắc để biết đâu là nguyên thủy đâu là vô cực vô chung. Xá gì, lại rải mù sa phân kín hư không trong sắc giới chiêu hồn cho khuất bóng nẻo từ ly. Hàng hàng vi diệu trải dài trong cuộc đời, họa chăng hiện hữu cũng chỉ là dấu vết ký gởi nhỏ nhoi trong sắc giới. Cái ảo ảnh nhiểu lúc tương ly tương biệt cũng huyền biến cho tâm trần thi nhân phải trài ra mặt đất, dù có dưới ánh sáng thái dương hay giữa sương mù lãng đãng. Hiện hữu đó như kẻ thõng tay vào chợ, dù chưa thấy được trâu trắng nhưng cũng thảng thốt:

về đâu cánh vạc Chân Như
có qua thủy mộ huyết hư chập chờn
người đi sấm vỗ hoàng hôn
nhịp khua long trượng
động hồn lửa thiêng
nhập dòng sinh hóa vô biên
biển mê bến ngộ đôi miền tịch lương
bay đi-lão hạc vô thường!
(Túy mộng du du hề/Lời Gọi Cỏ May)
Mỗi người chiêm nghiệm sự hóa thân của thơ, như những hình tượng được đặt ở nhiều góc cạnh khác nhau, bốn phương tám hướng. Nhờ vậy, nét phân ly trong từng thẩm thấu tri ngộ như những giọt sữa tinh khiết, nhỏ giọt làm tươi xanh sức sống hạnh phúc. Nhưng mỗi ấn tượng tri ngộ hình như cũng chuyển hóa khác nhau, bởi từ góc đứng mà cảm thức theo trí tuệ tâm thông. Thơ Phan Bá Thụy Dương có một quan điểm nghệ thuật riêng biệt, của riêng một thế giới mã não mà tự Ông xây dựng. Thế giới như vậy, theo một kiến trúc kỳ vĩ quá, khiến thơ bát ngát, chứa đựng cà một không gian thời gian xấp lốp theo bạt ngàn của ý thơ sinh hóa. Hình thể của một cấu trúc, cư trú sang trọng, trang nghiêm, đã tách xa những địa hạt thổ cư của các dòng thơ khác. Quả thật, trong những hội ngộ bạch thoại với những lão thi sừng sõ bằng hữu, thơ Phan Bá Thụy Dương cũng trải dài trong tán thán của nhiều người quen. Nét hạnh ngộ tương phùng của tri kỷ tri âm, là hình thức tam hoa tụ đỉnh cung hiến cho thơ.
Thơ vô cùng vô tận, nhưng ngôn ngữ vẫn còn trong một giới hạn hữu hình. Người làm thơ vẫn là nhân dáng, mang trong nghiệp chướng nhiều ân điển thừa trừ từ nhân quả nào. Sự yên lặng giữa bộn bề cuồng quái của cuộc sống, thơ vẫn lặng chảy như dòng suối nhẹ nhàng trên hòn non bộ thu nhỏ đất trời. Thi nhân đạt quả vị, tâm hồn cũng trầm lặng như thế, nương thơ mà làm khách tha phương, không bận rộn chuyện thị phi vương vấn:

ghé quán bên đường cạn một ly
cơ hồ tiền kiếp gợi sân si
rót thêm chai nữa-thêm chai nữa
thì chuyện tới lui có xá gì
ngửa mặt cười khan cùng nắng quái
men nồng như phảng phất đâu đây
người xưa tích cũ trong thi sử
ai kẻ luận đàm việc tỉnh say
thôi tôi, cời chút than sưởi gió
vói tay bắt bóng trả cho mây
(Bài túy ca viết trên cố hương/Lời Gọi Cỏ May)

Với tay bắt bóng trả lại cho ngàn mây, những diệu ngã cũng vẫn là cái chấp, dù đó là bản ngã vi diệu thậm thâm. Những hình bóng hữu vi, vẫn thoắt ẩn thoắt hiện, không có gì nhập thể vô ngã. Thơ Phan Bá Thụy Dương, vịn trên ngôn ngữ mà trải dài những biến dịch vô thường. Chính nét nhìn xuyên thấu ngôn ngữ, chẻ vụn thần khí chữ nghĩa để tìm từng hạt ngọc quý mà lau chùi. Nét tinh quang rạng rỡ giữa tịch mịch hư không, khiến:

bến nhân gian ai quán niệm vô thường

hành trình xa ngựa đà lỏng dây cương
trên vách núi chân dung ai mờ tỏ
……………………………………….
đốt công án, buông kinh thư giác ngộ
vào chợ đời áo mỏng phất phơ bay
bụi khói mê man
chênh chếch nắng gầy
lời phố thị chập chờn như ảo giác
(Liên khúc vô thường/ Lời Gọi Cỏ May)
Nhập thể với vô thường, khiến dòng thơ trôi loáng thoáng trong gió nổi, Phan Bá Thụy Dương hình như vẫn luôn an nhiên rong chơi trên vùng đất mới, mà nhà thơ Trần Tuấn Kiệt thường phán đoán “hay đang trầm tư lắng nghe các chuyển động của hữu thể hòa nhập với thời gian trôi nổi vô lường…..”
NGÔ NGUYÊN NGHIỄM
…………………………………………………………….
Viết Thêm:

Thư gởi bạn xa xôi

Đỗ Hồng Ngọc


On Feb 3, 2020, at 09:44, Phan Ba Thuy Duong

Ngọc thân,

Gởi toa bài thơ Nói Với Thiền Khách mình làm tặng bạn và anh Trần Thiện Hiệp.

2 tuần nữa mình sẽ rời Kobe để về Thuỵ sĩ. Vẫn luôn ghi nhớ những ngày ngao du cùng Ngọc ở Saigon.

Ráng giữ gìn sức khoẻ để thường xuyên đi làm những điều tâm nguyện và hữu ích cho đời, cho người…

Cầu cho bạn thân tâm luôn an lạc.

Tình thân,

Phan Bá Thụy Dương

………………………………………………………..

 

PHAN BÁ THUỴ DƯƠNG

Nói Với Thiền Khách

Gởi ĐỗHồngNgọc, TrầnThiệnHiệp

 

Một bức phù điêu (Phan Thiết, ảnh ĐHN)

 

Cánh vạc nào bay trong triền nắng sớm

Tiếng hót xa xăm như tận cõi trời

Sao u trầm chất ngất khách thiền ơi

Xin nhẹ bước trên lối mòn tỉnh lặng

 

Rừng cô tịch có gì đâu tra vấn

Lửa Chân Như có đủ ấm linh hồn

Đất bùn nào còn ghi lại dấu chân

Tâm vô niệm đường xa gần đi mãi

 

Có phải người đang quay về bến đợi

Gom lá vàng gỗ mục dưới trăng trong

Về đi thôi, đêm lạnh giá mênh mông

Áo nâu mỏng sao che mưa đở gió

 

Chim thức giấc cất lời ru thanh nhã

Người phong trần qua mấy độ truân chuyên

Thấy gì chưa tự ngã với uyên nguyên

Hay ngần ngại chia xa lòng thung lũng

 

Từ tiềm thức đã lạc quên long trượng

Đâu đây chừng thấp thoáng ánh vô ưu

Thiền khách này, thiền khách đã về chưa

Xin trả lại cho ta quê, tình cũ.

PHAN BÁ THUỴ  DƯƠNG

…………………………………………………………………….

 

Lời Gọi Cỏ May của Phan Bá Thụy Dương

Đỗ Hồng Ngọc

Phan Bá Thụy Dương, tên thật Phan Bá Dương, sinh năm 1940 tại Tuy Phong, Bình Thuận, cùng học chung lớp Đệ thất A1 trường Phan Bội Châu Phan Thiết năm 1954 với Trần Vấn Lệ, Phan Đổng Lý, Huỳnh Ngọc Hùng, Huỳnh Tấn Thời, Đỗ Hồng Ngọc…

Bọn tôi “thất lạc” nhau mấy chục năm, người góc biển kẻ chân trời, năm nay bỗng gặp lại nhau- tình cờ cũng là dịp kỷ niệm 60 năm ngày thành lập trường Phan Bội Châu, Phan Thiết – đứa nào đứa nấy ngớ ra, đầu bạc răng long, ú ú ớ ớ rồi mày mày tao tao tíu tít như những cậu học trò nhỏ nghich ngợm ngày xưa bên bờ sông Cà Ty và bãi biển Thương Chánh (Phan Thiết)!

Bãi Phan Thiết (ảnh ĐHN)

Phan Bá Thụy Dương viết văn làm báo sớm, từ năm 1958 với nhiều bút hiệu, thân quen  nhiều người trong giới văn nghệ sĩ. Anh là một người “khoái hoạt”, vui tính, náo nhiệt, chuyện trên trời dưới đất gì cũng biết nên ai gặp cũng vui. Anh làm sách cho nhiều tác giả mà quên làm cho mình cuốn nào. Mãi nay bạn bè hối thúc quá mới in một cuốn “tuyển tập thơ văn Lời Gọi Cỏ May” cho vui. Lời gọi cỏ may có nhiều bài thơ cảm động, anh em bè bạn viết cho nhau.

Thơ Phan Bá Thụy Dương phải nói là hay, khoái hoạt mà khinh bạt, trầm lắng… Thử đọc một đoạn trong liên khúc vô thường:

 

liên khúc vô thường

ném công án, vất kinh thư bất ngộ

theo đường trăng-

trăng khi tỏ khi lu

tìm người hiền nơi thâm cốc âm u

thõng tay vào rừng giả làm ẩn sĩ

giòng sinh mệnh

chừng nhuộm màu chướng khí

bến nhân gian ai quán niệm vô thường

hành trình xa ngựa đà lỏng dây cương

trên vách núi chân dung in mờ tỏ

…….

(LGCM, tr 4)

Ảnh: Phan Thiết, Lagi (ĐHN)

 

 

 

Filed Under: Chẳng cũng khoái ru?, Già ơi....chào bạn, Góc nhìn - nhận định, Vài đoạn hồi ký

Lữ Kiều: CHÀNG NHO SINH DƯỚI GỐC TÙNG

20/09/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

CHÀNG NHO SINH DƯỚI GỐC TÙNG
thử bút & xuôi dòng
Lữ Kiều

DML_Cover_PreOrder.jpg

Tranh bìa: Lữ Kiều
Thiết kế bìa: Lê Giang Trần
Tựa: Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc
Bạt: Nguyên Minh – Cao Kim Quy – Trần Thị Nguyệt Mai
VĂN HỌC PRESS xuất bản, 2021

@@@
Tựa:

TÔI CŨNG TIN VẬY…

Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc

Hơn bốn mươi năm cầm bút, chàng “nho sinh” kia vẫn chỉ có mỗi một việc để làm, miệt mài, không mệt mỏi, ấy là thử bút. Chàng nắn nót, nâng niu, đưa ngọn bút lông lên ngang tầm mắt, ngắm nghía từng sợi nhỏ, xoay tới xoay lui đôi ba bận một cách thuần thục mà ngập ngừng, rồi thè lưỡi liếm nhanh mấy cái như vót cho các sợi lông bút quấn quít vào nhau, cho nhọn hoắt lại như gom nội lực vào nhất điểm; rồi thận trọng, nhẹ nhàng chàng nhúng bút sâu vào nghiên mực đã mài sẵn, ngập đến tận cán, rút nhanh ra rồi chắt vào thành nghiên, ấn ấn xoay xoay lúc nặng lúc nhẹ cho mực túa ra nức nở, ào ạt rồi thưa dần, đến lúc sắc nhọn vừa ý, chàng phết nhẹ một nét lên tờ giấy đợi chờ, như để đo độ đậm nhạt, hít một luồng chân khí, định thần, lim dim, rồi phóng bút… Chàng “nho sinh” mỉm cười khoái trá, trút đi gánh nặng ngàn cân, kiệt sức, nhanh tay nhúng bút vào lọ nước trong… Những giọt mực thừa rơi lả tả…

Thử bút, không phải tùy bút, không phải tản mạn, không phải tạp văn… Nó ùa ra, nó túa ra, nó lan ra, có lúc tòe loe, có khi hụt hẫng, những cảm hứng, những ngẫu hứng, những xúc động bất chợt, như không kềm chế được…

*  *  *

Bạn tôi, Lữ Kiều Thân Trọng Minh, con mắt thầy thuốc đắn đo, cái hồn thi sĩ mang mang, trái tim hiền triết Đông phương. Tuổi đôi mươi tự vấn văn chương, số phận, ý nghĩa đời người… Rồi “xuôi dòng” với bao bờ bến lạ. Có những phút tưởng thoát ra được. Giằng xé, hoang mang. Cuối cùng vẫn không thoát. Chàng vẫn là kẻ chỉ sống với cảm tính, viết với cảm tính, nếu có nhận ra một điều gì đó như là một khẳng định thì ấy chính là “chỉ có văn nghệ là vượt thoát, là giúp con người tử tế với nhau”. Chàng thổ lộ:

Thuở đôi mươi chữ nghĩa đã mê hoặc tôi.

… cho đến khi hiểu ra, cuộc sống vẫn hồn nhiên trôi đi, ta cũng trôi đi. (Lãng ca, 1982)

… chúng tôi không còn trẻ, quỹ thời gian của đời người đang hồi vét cạn. (Tự tình, 2001)

Khi nói về thơ, thứ mê hoặc hơn tất cả những mê hoặc, chàng cũng đã nhận ra của hôm nay và ngày tháng cũ:

Thơ bấy giờ là bài ca mê muội của lòng say đắm, có cái thất thanh của tiếng vỡ thủy tinh nhưng cũng đâu đó đã có cái bồi hồi im lặng của giới hạn.

… những điều tưởng như rất cũ xưa kia, giờ đây đã khác. Đã có sự giả hình, lòng khinh bạc, có cả sự thù hận lẫn trong tình thương yêu…

Những cuộc chia tay, những lần phụ tình, thấy lòng nghèo đi những xúc động cũ. Mới hoảng hốt thương mình đã sống quá xa đường hẹn ước… (Lãng ca, 1982)

Chàng không viết “những lần tình phụ” mà viết “những lần phụ tình”. Tôi thích cái cách viết của bạn tôi, khẳng khái, của một tâm hồn hào hoa mà nhân bản. Nhưng điều đắng cay đọng lại trong chúng tôi chính là “thấy lòng nghèo đi những xúc động cũ… hoảng hốt thương mình đã sống quá xa đường hẹn ước.”

Bởi đã có một thời chàng hùng hồn như đứng giữa đời mà hét: Con dế mèn có thể hát để mà hát nhưng tôi không thể viết để mà viết. Đó là những phút rời bỏ viễn mơ, thấy con đường trách nhiệm của người trí thức, thấy cần thiết một dấn thân.

Phải, nhưng rồi chàng đành thú thật: Đời sống trở nên đầy ắp giằng co. Sự giằng co giữa hai người trong một tấm thân làm ta kiệt quệ!

Đó chính là sự giằng xé giữa lý trí và cảm xúc để cuối cùng chỉ còn “chừa lại một sợi khói phù du”. Vâng, chính là sợi khói phù du đó mà ta “ưng tác như thị quán!’.

Đọc Lữ Kiều, thấy có những lúc ngọn bút của anh như những nhát dao phẫu thuật, sắc cạnh và chính xác; lại có những lúc như những nhát cọ mơn man, đắm đuối…

Tôi thương bạn như thương chính mình, cùng những anh em bạn bè mình một thuở khôn nguôi. Chàng như vùng vẫy giữa trùng vây của ngã nhân chúng sanh thọ giả, để rồi hốt hoảng nhận ra mình đang cheo leo: “Tôi vẫn thường ngồi thâu đêm, suy nghĩ và không suy nghĩ. Thời gian qua đi, tôi chiêm nghiệm được thời gian trên từng phân vuông da thịt, bởi khi người ta già, ta nhạy cảm với cái chết của từng tế bào trong cơ thể, vô hình nhưng có thật”. (Con đường nhan sắc, 1990)

Đó là những lúc bạn bè về trong trí nhớ, và đôi mắt nhung ai kia đã từng dòng lệ nhỏ, một chiều cuối năm hun hút nơi đầu hẻm cụt phố phường:

Bạn cũ gọi về trong trí nhớ
Lá vẫn bay và ta cuối năm
Đôi mắt nhung đen hàng lệ nhỏ
Thì thôi lá chọn đất ân cần.

Bạn cũ. Đất. Ân cần. Đó là tất cả những gì còn lại trong người đàn ông 60 chiều cuối năm. (Gió Mai, những ngày hoang dại, 2003).

Đọc Lữ Kiều, thương một thân phận. Cảm được cái chán chường, cái đắng cay lạ lùng không nói hết, không nói được. Tôi rưng rức nhớ hình ảnh buổi chiều, anh ngồi bên tôi ở một quán riêng. Để ánh sáng hắt từ phía sau lưng mình, không như thường lệ, chàng buồn bã nói với tôi về chiếc lá bàng đỏ hun hút cuối hành lang của một phòng thí nghiệm, ở đó, một người bạn chung của chúng tôi là bác sĩ giải phẫu bệnh lý chuyên khoa về ung thư, đã mỉm cười cùng chàng mà ánh mắt vời vợi xa xăm.

Với tôi, dẫu thế nào tôi cũng hiểu và thương bạn hơn bao giờ hết: Khi tác phẩm đã hình thành, mây tan, hồn tôi khánh kiệt. Bạn viết. Sự khánh kiệt nào cũng dễ thương, như một buông xả. Bởi buông xả nào mà không khánh kiệt, phải không?

Tôi có một thói xấu là mỗi khi soạn chồng sách cũ, giở lại những tờ thư xưa, những tấm ảnh hoen màu lại bần thần rã rượi, bị chìm đắm cuốn hút vào bao nhiêu kỷ niệm lúc nào không hay, quên cả thở chánh niệm! Đọc bản thảo Thử Bút của bạn, nhớ lời bạn dặn viết gấp mấy dòng mà đắm và sợ. Như ngọn lửa ngún trong một gốc cây to, chỉ cần thổi vài hơi là đủ bùng cháy. Bùi nhùi đâu mà sẵn sàng đến vậy?

Rồi bỗng lóe lên một niềm hy vọng mong manh khi bạn tôi viết:

Tìm trong kinh Dịch, bèn đắc ý với một hào dương dưới những hào âm, quẻ Phục đó!

Tôi cũng tin vậy.

(8/2006)

Nguồn: (tranthinguyetmai.wordpress)

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Kịch LỮ KIỀU: KẺ PHÁ CẦU

11/09/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

 

Tranh bìa: Lữ Kiều

Thiết kế bìa: Lê Giang Trần

Tựa: Khuất Đẩu

Bạt: Trần Hoài Thư – Nguyên Minh – Huyền Chiêu – Sâm Thương –
Nguyễn Lệ Uyên – Mang Viên Long – Trần Lê Sơn Ý – Nguyễn Thị Tịnh Thy

VĂN HỌC PRESS xuất bản, 2021

 

TỰA

Khuất Đẩu

Kịch là một từ Hán Việt. Theo định nghĩa của Đào Duy Anh, là rất mạnh. Như một cơn địa chấn tạo nên những đứt gãy, những hố sâu. Từ đó, Kịch được dùng để gọi những tuồng hát, những tuồng đời.

Trái đất là một tinh cầu. Mỗi vở kịch là mỗi tiểu tinh cầu. Và tác giả chính là mỗi tiểu thượng đế. Như trong kinh thánh, tác giả tạo ra ánh sáng và bóng tối, tạo ra gió và mưa, tạo ra không khí và sau cùng tạo ra nhân vật. Nhân vật được tác giả cài đặt định mệnh. Những định mệnh nâng đỡ nhau, va đập vào nhau tạo nên những số phận. Tất cả những chuyển động âm thầm ấy làm nên kịch.

Vở kịch được coi là thành công khi tạo được những dư chấn trong hồn người xem sau khi đã cho họ thấy những đứt gãy, những hố thẳm. Nhưng nếu vở kịch được viết mà chưa lên sân khấu, thì vẫn chỉ là một tinh cầu chưa chuyển động. Chúng nằm im trên giấy như cô công chúa ngủ trong rừng chờ hoàng tử đến thức dậy. Hoàng tử ấy là đạo diễn. Anh ta dùng bàn tay kỳ ảo của mình như phù thủy hô phong hoán vũ kêu gọi âm binh, làm chuyển động ánh sáng, bóng tối, gió mưa và những nhân vật. Vở kịch có da có thịt trở nên sống động là nhờ anh. Hiểu như thế để thấy rằng từ tim óc người viết cho dù là tiểu thượng đế cũng phải cần có nhiều cơ may mới có thể đến được với người xem.

Trên các sân khấu Việt Nam, có rất ít cơ may như thế. Thì đành phải “đọc” vậy. Đọc như thế nào? Đọc một cách ơ hờ như đọc một thông báo? Hỏng! Đọc như một chút tình bè bạn, cũng hỏng! Phải đọc như một đạo diễn có tài đang dựng kịch. Tức là phải làm cho vở kịch chuyển động, phải đánh thức những con chữ để nó phát ra tiếng nói. Và phải nghe bằng sáu giác quan, trong đó giác quan thứ sáu là vô cùng cần thiết. Như Kim Thánh Thán “nghe” Tây Sương Ký. Như Bùi Giáng “nghe” Malentendu, kịch của Albert Camus.

Tôi cũng tin là mình đang “nghe” như thế trước những tiểu tinh cầu của Lữ Kiều.

(KĐ)

…………………………………………..

Viết thêm: Lữ Kiều là bút hiệu của Bác sĩ Thân Trọng Minh, bạn cùng khóa Y Khoa Đại học đường Saigon (1962-1969) với tôi. Anh là một nhà văn, nhà thơ, họa sĩ và kịch tác gia có tiếng… đến nỗi người ta quên mất cái gốc… bác sĩ tim mạch của anh, đã nhiều lần triễn lãm tranh cùng Đinh Cường, Trương Thìn, Hồ Thanh, Lê Ký Thương, Lê Triều Điển… tại Đalat, Saigon, Tp HCM…

Anh cũng chính là người đã trình bày bìa tập thơ đầu tay của tôi, tập Tình Người, năm 1967 và cùng Trần Hữu Lục, Nguyễn Sông Ba… thực hiện tập Thơ Đỗ Nghê năm 1973 tại Đà Lạt rồi nhờ Hoàng Khởi Phong mang về Saigon cho Đỗ Nghê…  

(ĐHN)

Từ trái: Đỗ Nghê (ĐHN), Lữ Kiều (TTM), Lê Ký Thương, Châu Văn Thuận (Đường Sách, Saigon 3.2021)

 

 

 

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Vài đoạn hồi ký, Đọc sách

LƯƠNG THƯ TRUNG: VÀI NHẬN ĐỊNH TIÊU BIỂU VỀ TÁC PHẨM CỦA ĐỖ HỒNG NGỌC

22/08/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

 

 VÀI NHẬN ĐỊNH TIÊU BIỂU VỀ CÁC TÁC PHẨM CỦA BÁC SĨ ĐỖ HỒNG NGỌC

Lương Thư Trung

 

Tranh Thân Trọng Minh

Với tập thơ “Tình Người” xuất bản năm 1967, đến tuyển tập “Tôi Học Phật” (Phiên bản 2, 2021), như vậy trong vòng 54 năm, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc có cả thảy 57 quyển sách đã xuất bản, đủ các thể loại, gồm: Thơ, Văn (Tùy bút), Y Học Thường Thức, và Phật học. Cùng với số lượng các tác phẩm nhiều như vậy, sau khi đọc sách của Đỗ Hồng Ngọc, có rất nhiều tác giả tên tuổi viết bài nhận định về các tác phẩm ấy của ông; tôi thiển nghĩ, không riêng gì tác giả của “Tình Người”, của “Thơ Đỗ Nghê”, của “Tôi Học Phật”, vân.vân…, mà bất cứ người làm sách nào có được nhiều người quan tâm như vậy chắc chắn không gì vui và hạnh phúc cho bằng!

Ở đây, trong giới hạn của việc đọc và hiểu về sách vở, với cái nhìn thô thiển của một người đọc nhà quê già như tôi, tôi xin mời bạn đọc thử lại vài bài nhận định tiêu biểu của vài tác giả viết về các tác phẩm của ông mà tôi vừa chắt mót được, để coi các tác giả ấy nói gì về văn thơ của Đỗ Hồng Ngọc.

Dà, những bài nhận định này trải dài từ năm 1972 đến năm 2021, có thể bạn đã hơn một lần nhìn thấy nó quen quen ở đâu đó rồi, và dĩ nhiên, có thể nó rất xưa, rất cũ nữa; nhưng không sao, xin bạn đừng lo, bởi văn chương nào hay và giá trị mà không qua cái ải gạn lọc của thời gian bao giờ?

Vậy nhe, xin mời bạn. 

(Hai Trầu LTT)

 

I/ NGUYỄN HIẾN LÊ 

Lời “TỰA” cuốn “NHỮNG TẬT BỆNH THÔNG THƯỜNG TRONG LỨA TUỔI HỌC TRÒ”(Do nhà La Ngà xuất bản, Lá Bối tổng phát hành, 1972)

“Tôi được quen Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc từ mười mấy năm trước. Hồi đó ông là một thanh niên ít nói, đa cảm, thành thực, giản dị, có nhiệt tâm và yêu văn nghệ. Khi còn học y khoa, ông đã có thơ, văn đăng báo và ông đã là một trong những sinh viên tranh đấu kiên nhẫn nhất để tiếng Việt được dùng làm chuyển ngữ ở Đại học. Ông nghĩ rằng một nhà trí thức Việt Nam, ngoài công việc chuyên môn ra, phải phổ biến những kiến thức của mình trong đại chúng thì mới có thể gọi là làm tròn nhiệm vụ trong giai đoạn này được. 

Tôi mến ông ở điểm đó và hôm nay tôi mừng rằng ông đã bắt đầu thực hiện được chí hướng. 

Tập này là tác phẩm đầu tay của ông. Ông dùng kinh nghiệm bản thân khi đi học và đi dạy (vì như một số sinh viên khác, ông phải tự túc), cùng những sở đắc trong ngành y để hướng dẫn các bạn học sinh trong việc gìn giữ sức khỏe, ngừa trước những bệnh thông thường và khi bệnh đã phát thì nên làm gì.Yêu nghề và có lương tâm, ông không mách thuốc bừa bãi như thỉnh thoảng chúng ta thấy trên một số báo, ông phản đối thái độ “vô trách nhiệm” đó. 

Tôi không biết gì về y khoa, nhưng tôi thấy nhiều điều ông khuyên trong chương I (bệnh cận thị…), chương VIII (bệnh nhức đầu), chương IX (bệnh bón)… rất có lương tri, giá được biết từ hồi thiếu niên thì có lợi cho tôi lắm. 

Một điểm đáng khen nữa là ông không có thành kiến, cái gì không biết thì nhận là không biết, lại có công tâm, như khi nhận xét về phương pháp dưỡng sinh của Ohsawa… 

Chương tôi thích nhất, và theo tôi, cũng ích lợi nhất, là chương cuối: “Đi khám bác sĩ”. Từ lâu tôi vẫn mong có ai chỉ dẫn cho tôi hiểu tâm lý, trọng trách cùng nhiệm vụ của y sĩ, bệnh nhân nên có thái độ ra sao, khi đi y sĩ, nên “hợp tác” với y sĩ cách nào để cho bệnh mau hết, nên dùng thuốc ra sao v.v… và bây giờ mới thấy Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc trình bày rành mạch sơ lược những kiến thức thông thường cần thiết cho mọi người đó. Tôi mong rằng sau này ông sẽ đào sâu vần đề mà viết thành một tập riêng. 

Văn ông lưu loát, sáng sủa, giọng ông thân mật, nhiều chỗ dí dỏm: 

“Trừ một số ít được uống nước sâm trong những ngày học thi (và thường thì thi rớt) còn phần lớn các em phải đi làm thêm một buổi để có chút đỉnh tiền” (chương 18) 

Có chỗ mỉa mai chua chát một cách nhẹ nhàng: 

“Vì nếu thi rớt, ở thời đại chúng ta không phải em chỉ bị ăn ớt (thi không ăn ớt thế mà cay- Tú Xương) mà có khi còn bị ăn đạn!” (chương 22) 

Có chỗ lại nên thơ: 

“Tới một tuổi nào đó, ta quan tâm rất nhiều đến thân thể mình. Ta lắng nghe thân thể mình phát triển như chú dế mèn lắng nghe tiếng cỏ mọc trong đêm khuya…” (chương 17) 

Một bác sĩ mà lại là một thi sĩ thì luôn luôn làm cho chúng ta ngạc nhiên một cách thú vị… 

Sài Gòn Tết Nhâm Tý (1972)

Nguyễn Hiến Lê.

 

II/ LỮ KIỀU-THÂN TRỌNG MINH 

VÀI DÒNG SAU MỘT TẬP THƠ 

Đọc xong một tập thơ, cảm tưởng hoàn toàn tùy thuộc phía người đọc – cho nên, viết thêm vài dòng về tập thơ là công việc thừa thải. Xác định điều đó, tôi tưởng như vậy có thể từ chối viết về anh – anh bạn Đỗ Nghê. 

Tôi muốn anh đến với người đọc thơ anh một mình.Nhưng hôm nay, tập thơ anh đã thực hiện xong, Anh muốn tôi viết vài dòng.Công việc quả thật khó khăn với tôi.Viết về thơ anh? Tại sao phải viết về thơ anh, khi những dòng thơ đã ào ào muôn ý nghĩa – Tự nó nói lên từng thao thức của anh, nằm trong thao thức chung của thế hệ chúng ta?

Phải, thơ anh đã là một sự đầy đủ không cần bổ sung, nhất là với tôi – mà sự thân tình giữa chúng ta đã làm tôi trở nên chủ quan thái quá. 

Nhưng còn viết về đời sống của anh trong những năm anh làm tập thơ này?Đây là ý kiến của một người bạn khác.Có lẽ, trong một ý nghĩa nào đó, tôi có thể viết về đời sống ấy, cho dù điều đó có chạm đến tính khiêm nhường của anh. 

Đời sống của anh? Ta phải bắt đầu từ lúc nào nhỉ? Có lẽ từ tuổi hai mươi, khi chúng ta theo đuổi ngành Y khoa. Đó là năm 1963, trong buổi chiều nhạt nhòa ánh sáng, ở khu cơ thể học viện, tôi nhìn thấy anh đang lúi húi bên một xác chết, tay cầm dao, giải phẩu từng thớ thịt, từng đường máu, từng sợi gân. Bấy giờ chúng ta đang học về con người trong nghĩa đen của nó, tôi thấy anh đeo kính cận thị – khuôn mặt hồn nhiên, hơi mộc mạc giữa đám bạn bè – có lẽ vì màu da ngâm đen, mái tóc hơi quăn, rồi tôi nghe giọng anh nói, giọng nói vùng Bình Tuy hơi lạ tai, nhưng êm ái, không lớn, không nhỏ. Tôi nhìn thấy anh cười – không quá vui, không quá lộ, tôi cũng nhìn thấy anh nhíu mày nhìn xác chết – cái nhíu mày không quá xót xa, đau đớn. Tóm lại anh mang hình ảnh của một chàng sinh viên hiền lành, trầm tĩnh, tiết độ. Ấn tượng về sau để lại trong tôi một định kiến đặc biệt, và xác định với tôi một tĩnh từ mà tôi muốn dành riêng cho anh: Một người nghiêm túc. 

Hơn mười năm qua, tôi đã không nhầm về anh. Một người nghiêm túc. Và điều quan trọng là anh làm thơ. Thơ anh cũng giống người anh vậy.

Hình như chúng ta chỉ bắt đầu thân nhau, khi cùng làm báo Tình Thương; những bài thơ anh ký Đỗ Nghê xuất hiện trên tờ báo của trường, những bài thơ, thoạt đầu không gây một chú ý nào quan trọng. Nhưng về sau, những số báo thiếu thơ anh, cho tôi cái cảm tưởng trống vắng điều gì đó. 

Điều gì?Phải chăng là nét đặc thù của thơ anh. Tôi phải diễn đạt thế nào cho đúng?

Đầu tiên, anh là người tha thiết với quê nhà – anh sống và làm quen với Sàigòn là một điều không tự nhiên. Tuy nhiên, Sàigòn đối với chúng ta là một thực tế phải chấp nhận, cho nên chúng ta phải hòa mình với bạn bè, trường học, bệnh viện – Hòa nhi bất đồng, phải thế không anh? 

Những bài thơ anh làm thời 59-60 về Phan Thiết, về Lagi, về Rạng – Những bài thơ anh làm ở lứa tuổi chưa đầy hai mươi mà ngôn ngữ thi ca đã già cỗi như thời tam thập nhi lập, đã chứng cho điều đó. Chính anh cũng xác nhận những bài thơ đầu tiên của anh là những bài Đường luật! 

Và chính trong thời sinh viên, mà những biến động lịch sử đã vây đời ta tứ phía. Anh dự vào cuộc đấu tranh bằng tinh thần ôn hòa, trí thức, và nhất là trầm tỉnh. Lúc con người nghệ sĩ của anh tỏ rạng. Những cuộc xuống đường, hội thảo, gậy gộc, lựu đạn cay của thời 1966. Anh nhớ không, bao giờ chúng ta cũng có mặt, chúng ta cũng đã từng chạy vào những ngỏ hẻm Phan Đình Phùng để thoát thân, nhưng với anh, không bao giờ có sự phẫn nộ quá đáng, anh đưa tôi xem “Tâm sự Lạc Long Quân”, “Niềm tin”, “Lời ru”, “Cổ tích về ngôn ngữ”… những đêm cùng nhau trực gác ở Bệnh viện Nhi đồng, trong những đêm rất khuya, trên lầu 3 nội trú. Anh là một nghệ sĩ chứ không phải tay xách động. Rõ ràng như vậy. Nhưng những bài thơ anh, quả thật đã kích thích bạn bè lúc bấy giờ, gây cho họ một bầu máu nóng sôi sục. Càng đọc, càng chua cay, càng đọc càng muốn bạo động. 

Thời trẻ rồi qua đi. Đã đến lúc chúng ta phải nghiêm trang đặt vấn đề với lịch sử. Bài “Điệp khúc” của anh ra đời. Đó là những câu hỏi thành thật, thẳng thắn mà anh đặt ra với những bậc đàn anh của chúng ta… Có lẽ sự thể đã khác đi, nhưng tôi nghĩ – một lần cho xong, đặt những câu hỏi như vậy là một thái độ can đảm – nằm trong sự nghiêm túc của anh. 

Năm 1969 – Chúng ta rời mái trường Y khoa. Anh về một bệnh viện ở Nha Trang. Tôi ra một bệnh viện ở Đảo, giữa những người tù. Chính thời gian quân ngũ đã dạy cho ta nhiều điều. Những điều mà suốt bảy năm miệt mài nơi trường học, bệnh viện, các bậc thầy không dạy ta.Thời gian này anh bị bạo bệnh. Cơn loét dạ dày đã làm anh vật vả, đem anh đến gần cái chết. 

Từ đảo về, tôi tìm đến thăm anh ở bệnh viện, người anh xanh như tàu lá – quả thật anh đã cận kề với cái chết của chính anh, như tôi đã kề cận với cái chết của những tù binh ngoài đảo. Hình như hôm ấy chúng ta không nói gì, anh không còn hơi sức để nói, nhưng anh đã mỉm cười. Một nụ cười nồng thắm làm lòng tôi se sắt. Tôi biết, kề bên cái chết lòng yêu đời phục sinh ta! 

Tôi không nhầm – những bài “Niềm tin chưa mất”, “Bông hồng cho tuổi thơ” đã xác nhận với tôi điều đó. Phải rồi, anh là kẻ yêu cuộc đời này, dù bất hòa với nó.

Anh Lê Văn Ngăn nói đúng, có lẽ viết về anh, một dạng thức viết về tôi – là một điều dễ dàng. Nhưng thật sự thì nó chẳng soi tỏ được gì. Có lẽ nó là một thứ phụ đề vào thời gian tính của tập thơ anh.

Vậy một lần nữa, tôi thật ân hận nếu những dòng trên chạm đến tính khiêm tốn của anh.  Có nó, hay không có nó, anh cũng đã làm thơ, đã in thơ, và đã có nhiều người đọc thơ anh.

Vậy, anh hãy đến với họ một mình. 

Lữ Kiều-Thân Trọng Minh 

 (Sài Gòn, 1973)

[Lời “BẠT” cho thi phẩm “THƠ ĐỖ NGHÊ”]  

 

III/ NGUYỄN LỆ UYÊN

ĐỖ HỒNG NGỌC, KHÓI TRỜI PHƯƠNG ĐÔNG

 

“Thầy thuốc là để cứu người.

Nhà văn là để cứu đời”

(Nglu)

Với hơn 30 tác phẩm đã xuất bản từ năm 1967 đến nay, gồm nhiều thể loại: Thơ, tuỳ bút, tạp văn, y học và cả Phật học… không biết nên xếp Đỗ Hồng Ngọc vào hàng ghế nào cho thật chuẩn. Nhà thơ, thầy thuốc,  nhà nghiên cứu, nhà văn? Đối với ông, vị trí nào cũng chính xác. Bởi những gì ông viết, đã xuất bản và đến tay độc giả đều tròn đầy, khiến họ thích thú đến bất ngờ, vì ngoài cốt cách văn chương, những suy nghĩ của ông về các vấn đề xã hội, đời sống, không xa vời; nó gần gũi, quanh quẩn, ẩn núp đâu đó quanh ta mà ta chưa thể nhìn thấy; chỉ đợi khi ông viết lên, đọc lại, ta mới thấu lẽ, à lên một tiếng, vài ba tiếng, tùy theo tâm trạng mỗi người kèm với không gian, thời gian của người đọc: nó có đấy mà sao ta không thể nhìn thấy, ta không hề nghĩ ra được nhỉ? Những điều bình thường cũ rích, trong đời sống, qua ngòi bút của ông hoá ra quá đỗi mới lạ; nói theo ngôn ngữ Đỗ Hồng Ngọc là ngòi bút ông đã hoá giải, đã khải thị giúp ta từ những cách nhìn, nghĩ một cách hạn hẹp, quanh co cạnh ta thành rộng ra để ta “như thị”? 

Từ những bài tuỳ bút cho đến thơ, ông không hề đùa cợt với chữ nghĩa, thổi phồng mọi sự vật… để nhắn gửi cho mọi người, cho mai sau. Ông cẩn thận quan sát những hiện tượng quanh mình, trong chính cuộc đời mình y như người thầy thuốc chẩn đoán căn bệnh cho bệnh nhân. Mà đúng vậy, ngay trong quyển Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò (NTBTTTLTHT), La Ngà xuất bản năm 1972, ông đã giải mã những băn khoăn thắc mắc của lứa tuổi dậy thì, nào là phòng ngừa cận, viễn, loạn thị, trĩ, táo bón, đái dầm… bệnh biếng học cho tới những vấn đề tâm sinh lý thầm kín khó chia sẻ với cha mẹ… như thể tất cả những thứ tật bệnh ấy ông đã từng nếm trải, rồi tập hợp lại thành một kinh nghiệm sống cho các cô cậu ở tuổi học trò? Đã đành ông là bác sĩ nhi khoa, nhưng ngôn ngữ diễn đạt không phải là ngôn ngữ của một ông thầy thuốc khám bệnh, kê đơn mà là ngôn ngữ của một chàng nghệ sĩ vừa bóc tách sự thật trần trụi vừa xoa dịu nó bằng một thủ thuật của tiếng gió luồn lách trong những bụi tre buổi xế trưa. Hãy nghe ông viết về bệnh biếng học và cách điều trị: “… nếu có một ngày nào đó, em bổng nhiên thấy mình làm biếng kinh khủng, không còn muốn ngó ngàng gì đến sách vở, thì em hãy nghĩ ngay đến điều này: phải chăng em chán ngán sách vở, bài học vì đã “ứ” đến tận cổ? Vì trí óc em đã “saturé” không còn có thể nhồi nhét gì thêm… Tình trạng biếng học “cấp tính” này sẽ qua rất mau, với một thứ thuốc rất hiệu nghiệm – không phải là cà phê, trà lipton đâu nhé – mà là vứt sách vở đi, rong chơi ngoài đường một buổi chiều, câu cá cũng được, đá banh càng tốt… Sau đó ngủ một giấc cho đầy.Tỉnh dậy bảo đảm sẽ “ghiền” học trở lại”.(NTBTTTLTHT, trg 213-214, La Ngà, SG 1972).

Cũng trong tập này, ở chương 17, nói về Chiều cao, cân nặng, ông mở đầu còn hơn cả một đoạn thơ xuôi: “Tới một tuổi nào đó, ta quan tâm rất nhiều đến thân thể mình. Ta lắng nghe cơ thể mình phát triển như chú dế mèn lắng nghe tiếng cỏ mọc trong đêm khuya” (Sđd, trg 142). Điều này khiến người đọc không cảm thấy chán ngán, trái lại, tạo sự tò mò, dù tiếp sau đó là những con số thống kê, biểu đồ, toán học! Có đến 8 đầu sách ông viết cho tuổi mới lớn, mà quyển nào cũng bổ ích, cũng thiết thực trong đời sống của “lũ trẻ”. 

Tôi đã nhận những quyển sách ông tặng về đề tài này và đọc. Đọc một mạch, đọc với bao điều thích thú và sau đó “té ngửa” ra rằng mình hồi nhỏ cũng có lắm điều sai phạm với chính cơ thể mình! Hèn chi ngay cả học giả Nguyễn Hiến Lê, trong một bài tựa cho quyển NTBTTTLTHT của Đỗ Hồng Ngọc, đã viết: “Một bác sĩ mà lại là một thi sĩ thì luôn luôn làm cho chúng ta ngạc nhiên một cách thú vị”.

Với những người bạn nhỏ, ông đã chăm chút như thể chúng là người ruột thịt, còn với người lớn thì sao? Ông cũng sẻ chia, đưa ra một vài nhận xét nho nhỏ nhưng lại chính xác đến từng li mét. Lướt qua những tập Già  ơi… Chào bạn, Thư gửi người bận rộn hay Gió heo may đã về… người đọc sẽ thấy được tấm lòng chân thật của ông. Những điều ông viết ra, có thể đúng với người này, hơi đúng đúng với người kia và hơi sai sai với người nọ, vì cảnh sống có khác nhau, ý thích khác nhau, suy nghĩ không mấy giống nhau, nhưng tựu trung vẫn là những gì ta có thể nhìn thấy một chút hình bóng của chính mình ẩn hiện đâu đó trong từng câu, từng đoạn. Ngay từ lời ngỏ trong quyển Gió  heo may đã về (nxb Văn Nghệ Tp HCM, SG 1997), ông đã có lời thưa trước: “Vậy, hỡi những người bạn yêu quý của tôi, xin hãy vui với những dòng chữ chân tình này, và nếu có bực mình thì cứ tự nhủ làm gì có, hù doạ đó thôi… còn nếu có bắt gặp hình ảnh chính mình trong những dòng chữ này thì cũng hãy mỉm cười mà thứ lỗi… Vì sáng hôm nay, một chút gió heo may đã về, những chiếc lá vàng đã rơi lác đác trên những con đường thành phố, một mùi gió bấc quen thuộc đã len vào giữa những hàng cây…” (Sđd, trg 7). 

Ông viết những gì trong đó đến nỗi khiến ta phải “bực mình” hay “mỉm cười” khi mở từng trang sách? Thưa ngay, ông viết đủ điều, đủ loại, từ tâm lý, tình cảm đến vật chất, sinh lý.v.v. nghĩa là những “thứ” nó bắt đầu bám vào cái tuổi không còn “hườm hườm” mà đang trong thời kỳ “gió heo may đã về”, tức thị một phần tư chân ở bên mép “bất hoặc”, còn lại là những dấu hiệu sắp gặp gỡ, chung sống trong “thế giói đại đồng” dưới 3 thước đất! Cái thế giới ấy, nhìn chung rất hiếm người muốn gặp, dẫu là “đại đồng”, nhưng đọc để biết trước vẫn là điều hăm hở, thu hút; cũng chẳng phải vì tò mò mà, hơn hết là để biết đó có phải là sự thật hiển nhiên không. Tuổi “heo may” ấy, khốn nỗi không ai có thể cưỡng chống được. Phải chấp nhận như một qui luật tất yếu. Chúng ta hãy đọc thử một đoạn ngắn, khi ông cảm nhận một cách nhẩn nha mà thấu lý ở tuổi già cận kề: “Tuổi chớm già, ấy là tuổi của chuyển tiếp, của lúng túng, hoang mang, tuổi của những stress, của những lo âu và phiền muộn, của những mối hiểm nguy rình rập về sức khoẻ, về quan hệ gia đình, xã hội… dồng thời tuổi chớm già cũng là tuổi của thành tựu, của thành đạt… Cái người ta dễ thấy nhất là những thay đổi sinh lý: hết khả năng sinh sản, giảm đời sống tình dục. Rồi luyến tiếc dĩ vãng, nhớ cái thuở trẻ trung, cái thời nhan sắc. Một nỗi buồn man mác chợt đến dù không nói ra, dù gắng gượng quên đi…” (Sđd, trg 18).

Bạn không đồng ý với cách nhìn nhận về tuổi chớm già của Đỗ Hồng Ngọc ư? Sai sót chăng?Khiên cưỡng chăng?Trái lại và trừ phi các bậc thiền sư chân chính mới có phản biện, nhưng chưa hẳn đã là tuyệt đối. Nhưng để giải quyết một cách rốt ráo cho vấn đề vừa nêu trên, ông cũng chừa vài đoạn gọi là “lại quả”, ấy là: “Ở đàn ông còn thấy có hiện tượng “vùng lên”, vớt vát, tìm kiếm những cuộc tình dễ dãi, “bồ nhí”, “bia ôm”… để chứng minh chút nam tính còn sót lại của mình… Ở phụ nữ không phải là không có một giai đoạn gần như vậy, người ta vẫn thường gọi đó là tuổi “hồi xuân” (Sđd, trg 51). 

Ngày trước đọc Bonjour tristesse của F. Sagan trong bối cảnh chiến tranh lan rộng, tàn khốc, là đọc để giải toả những phiền muộn qua nhân vật nữ, là một cô gái thông minh, hoà nhập vào nếp sống hiện đại, thời thượng mang nhiều yếu tố hiện sinh, buồn chán, nó biểu tỏ một thái độ của một cá nhân trước xã hội, rộng ra là thời đại. Nay được đọc Đỗ Hồng Ngọc, cũng “chào” nhưng lại là Già  ơi… chào bạn, ở một thái cực khác: từ ngạc nhiên đến vui vẻ chấp nhận cái quy luật muôn thuở đến với con người một cách thanh thản, không thắc mắc, vướng bận. Có lẽ, do ông hiểu rất rõ những gì xảy ra với mình trong thời gian nằm ở bệnh viện An Bình sau khi mổ sọ não do tai biến mạch máu não, nên không băn khoăn đặt câu hỏi “tại sao” hay thế này thế nọ, như các nhà văn phương Tây. Đây cũng là thời kỳ ông “ngộ” ra lắm điều, dẫn đến việc ông nắm bắt được phần nào các bộ kinh Phật, đặc biệt là Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinh và chuyển cái sự hiểu đó đến người đọc, dẫu cho có nhiều chỗ cần phải bàn lại. Nhưng cốt lõi, theo ông: “Tôi thấy nó phóng khoáng, nó “lật đổ” tất cả những quan niệm hẹp hòi, đố kỵ; nó có khả năng hoà đồng, khả năng giúp cho mọi người có trách nhiệm hơn với chính mình, thương người, thương cuộc sống, biết thưởng thức … cuộc sống với một chất lượng cao hơn… có hạnh phúc hơn; biết tha thứ, biết buông xả… nó có thể giúp cho những người đang mang mặc cảm tội lỗi thoát ra khỏi chính mình…” (Nghĩ từ trái tim, trg 8 nxb tổng hợp tp. HCM, SG 2003). 

Trong chúng ta, những con người luôn chạy đua với áo cơm, mấy ai thấu triệt nghĩa lý Tâm Kinh chứ chưa nói là thực hành, mặc dù chỉ có vỏn vẹn 260 chữ?

Chỉ có vậy, không hơn, nhưng một khi đã “hành trì” vào Tâm Kinh, quán triệt nó đến tận cùng thì mới thấy vẻ đẹp uyên áo, những thâm hậu vi diệu của nó, bởi nó như một ngọn roi quất vào chỗ u nhược, làm đảo lộn mọi suy nghĩ hời hợt, phủ định mọi thành kiến về Phật, Thập nhị nhân duyên… như ông hiểu và nói ra.

 Với Tâm Kinh thì, không phải để “tri” mà để “hành”. Nhưng “ hành” như thế nào để “đáo bỉ ngạn” là điều không phải ai cũng “hành’ được. Khó và khó vô cùng. Nơi ai cũng muốn đặt chân đến và bỏ chân ra là thiên đàng và địa ngục. Có hai thế giới này thật không, nó ở đâu? Từ chiếu kiến ngũ uẩn giai không, Đỗ Hồng Ngọc đã chỉ ra: “Niết bàn hay địa ngục là do ta tự tạo ra cho mình, nó ở ngay trong ta thôi: Giận dữ, ngờ vực, sợ hãi, lo âu… tiêu hao của ta rất nhiều năng lượng, đốt cháy ta từ tầng này đến lớp khác chẳng phải là hình ảnh của địa ngục ư? Còn niềm vui, an lạc, hạnh phúc, vô uý… làm ta như chấp cánh bay lên, quên cả thời gian, không gian, chẳng phải là hình ảnh của thiên đàng, niết bàn ư?” (NTTT, trg 132). 

Đọc Nghĩ từ trái tim, gấp sách lại, ta thấy như mình vừa được kéo ra khỏi bóng tối lùng nhùng, đến nỗi GS. Trần Văn Khê cũng phải thốt lên: “Tâm kinh không chỉ đọc hiểu không thôi mà phải hành. Đỗ Hồng Ngọc nhờ tổng hợp được những yếu tố đó mà viết ra được quyển Nghĩ từ trái tim như thế này thì tôi cho đây là một tuyệt tác, nắm được tinh hoa của đạo Phật giảng ra một cách dễ hiểu, dễ dàng để cho người ta tìm thấy được mỗi chuyện làm ở trong đời…” 

Những điều ở bên ngoài đời sống, Đỗ Hồng Ngọc đã một phần nhìn ra giá trị của cái tầm thường, như câu chuyện ngày trước, một nhà sư khi nhìn thấy núi, thấy sông vẫn cứ là núi là sông, sau nhờ có bậc tri thức khai mở huệ nhãn thì thấy núi chẳng phải núi, sông chẳng phải sông, đến lúc thể nhập chốn tĩnh mịch, u nhàn, lại thấy núi là núi, sông là sông. Nói  chung là ông đã “như thị”. 

Trần Văn Khê đã đưa ra nhận xét: “Người bác sĩ này có cả tâm hồn hướng về con người nên đã viết cho trẻ con, cho những người già, người sản phụ, tìm hiểu căn bệnh để trừ bệnh, để giúp cho người ta bớt bệnh bớt khổ. Tâm tư đó là tâm từ đi tới bi. Người bác sĩ đó có được một tinh thần phóng khoáng, một tâm từ, còn là một nhà văn dí dỏm, một nhà thơ mộc mạc dễ thương nên hiểu được Tâm kinh như thế”. 

Hoá ra và bởi vì Đỗ Hồng Ngọc có được một tinh thần phóng khoáng, một tâm từ, còn là một nhà văn dí dỏm, một nhà thơ mộc mạc dễ thương nên hiểu được Tâm kinh như thế. Vậy thì chúng ta thử bước vào thế giới văn chương của ông:

Ông làm thơ trước khi viết văn. Tôi đọc những bài thơ đầu tiên ông đăng trên Bách Khoa năm 1960, chưa hề đọc một truyện hay một tuỳ bút, đoản văn nào của ông, mãi cho tới tận sau này (Ông có một truyện ngắn duy nhất, tựa là Người Thứ Hai, đăng trên báo Mai, 1965, sau này in chung trong tuyển tập truyện ngắn Cuộc đi dạo tình cảm, cùng với Lữ Quỳnh, Lữ Kiều, Hồ Thủy Giũ… nxb Trẻ, 1998; nhưng tôi cũng chưa hân hạnh được đọc!). Nhưng dẫu ông có viết ở thể loại nào, thì câu văn vẫn cứ mượt mà chất thơ, kiểu “văn trung hữu thi” vậy. 

Viết về Lữ Kiều, người bạn đồng môn của mình, Đỗ Hồng Ngọc có cái nhìn của một cụ đồ tài hoa: “Chàng nắn nót, nâng niu, đưa ngọn bút lông lên ngang tầm mắt, ngắm nghía từng sợi nhỏ, xoay tới xoay lui đôi ba bận một cách thuần thục mà ngập ngừng, rồi thè lưỡi liếm nhanh mấy cái như vót cho các sợi lông bút quấn quít vào nhau, cho nhọn hoắc lại như gom nội lực vào nhất điểm; rồi thận trọng, nhẹ nhàng chàng nhúng bút sâu vào nghiên mực đã mài sẵn, ngập đến tận cán, rút nhanh ra rồi chắt vào thành nghiên, ấn ấn xoay xoay lúc nặng lúc nhẹ cho mực túa ra nức nở, ào ạt rồi thưa dần, đến lúc sắc nhọn vừa ý, chàng phết nhẹ một nét lên tờ giấy đợi chờ, như để đo độ đậm nhạt, hít một luồng chân khí, định thần, lim dim, phóng bút…” (Tôi cũng tin vậy…, trg 61, Như Thị, nxb Văn Nghệ, SG 2007).Dẫn đoạn này, tôi chỉ muốn dẫn đôi dòng, nhưng không làm sao ngắt được.Cái mạch văn ấy cứ tuôn chảy, róc rách đẹp hơn suối reo, không ngăn được.Và liên tưởng ngay đến Chữ của người tử tù và Chén trà trong sương sớm của Nguyễn Tuân.  Đỗ Hồng Ngọc viết về người bạn nhưng cứ như chàng hoạ sĩ làm thơ!

Còn đoạn này nữa: “Cứ một dòng chữ viết tay nắn nót (bản thảo chép tay) lại hiện lên trong tôi sông ngòi biển cả, rừng núi ao hồ, trưa hè nắng cháy nhảy ùm xuống sông Dinh, đập đá Dựng, những ngày mưa lũ, nước cuốn trôi phăng cả nhà cửa trâu bò. Tôi cứ để lòng mình nhảy ùm như thế, cuốn trôi như thể khi đọc Biển Hát. Cả một dĩ vãng xưa ùa sống lại” (Biết bao điều thì thầm, trg 203, Như Thị). Xem ra Đỗ Hồng Ngọc đâu chỉ có tâm hồn trong sáng mà còn có cả tấm lòng, như Cao Huy Thuần nhận xét: “Anh nói những chuyện giản dị. Nhưng mầu nhiệm không nằm ở đâu khác hơn là trong chính những câu chuyện giản dị đó. Một đôi bài của anh khá đơn sơ, nhưng hồn nhiên là cái duyên của anh, anh làm thơ trước khi viết văn, cho nên đó cũng là những bài thơ” (lời trích ở bìa 4 Như Thị). 

Đỗ Hồng Ngọc làm thơ khi còn là học sinh trung học, mãi đến năm 1967, ông mới cho in tập thơ đầu tay Tình người, lúc đang là sinh viên trường Y. Những bài thơ này xuất hiện trên Bách Khoa (từ năm 1960) và Tình Thương (1964) do SV đại học Y khoa Sài Gòn chủ trương, trong đó có nhiều bài thơ theo trường phái Phi Phi (Phi Thi?). Tôi đọc chúng (thơ phi phi) nhưng chẳng hiểu gì. Và vì vậy, khi vớ phải những câu chữ gần gũi của Đỗ Hồng Ngọc với những cảm xúc chân thật, mộc mạc tôi cảm thấy như có cái gì đó quen quen, như khói củi trong bếp lửa buổi sáng sớm chớm đông. Sau đó, khi tạp chí Ý Thức dời về 666 Phan Thanh Giản, cùng viết chung trên đó tôi mới gặp ông bằng xương bằng thịt và quen nhau. Gần cuối năm 1974, từ toà soạn Ý Thức, ông mời tôi đi ăn bò vò viên chỗ xế bên rạp Đại Đồng trên đường Cao Thắng và tặng tập Thơ Đỗ Nghê do Ý Thức xuất bản. Trong đó đáng chú ý là bài thơ Tâm sự Lạc Long Quân. Có lẽ do nội dung của bài thơ này, bị kiểm duyệt nên cơ sở Ý Thức không thể in công khai tại Sài Gòn, mà lại in (lậu) trên Đà Lạt do Lữ Kiều coi sóc rồi mang lộn ngược về Sài Gòn. Năm 2010, ông muốn đưa lại bài này vào tập Thư cho bé sơ sinh & những bài thơ khác, nhưng cũng lâm vào hoàn cảnh tương tự như trước 1975, nghĩa là Tâm sự Lạc Long Quân vẫn là bài thơ không có “hộ khẩu”, lang thang trong tập Thơ Đỗ Nghê “phổ biến hạn chế trong vòng thân hữu” (thiếu 2 năm nữa là chẵn 40 năm dài). Những thao thức, băn khoăn, tấm lòng thành ông gửi gắm trong bài đã bị chối bỏ, là chính trị thời trước và thời sau không chấp nhận tấm lòng thành của ông xuất phát từ trái tim, nghĩ từ trái tim của ông. 

Khi ta đưa các con 50 người xuống biển

Và vợ ta đưa 50 đứa lên rừng

Lòng ta đã rất đỗi băn khoăn

Có một điều gì khiến ta linh cảm trước

(…) Nhưng bây giờ mọi sự xảy ra

Các con đều đã rõ

Những vết ô nhục trong lịch sử chúng ta

Các con đều đã rõ

(…) Đã cùng sinh ra trong một bọc

Thì hãy nghe ta

Đốt hết sách vở, xé hết cờ xí đi

Rồi đứng ôm nhau mà khóc

Nước mắt sẽ làm tươi lại cỏ cây

Nước mắt sẽ làm phì nhiêu mảnh đất

(Tâm sự Lạc Long Quân, Thơ Đỗ Nghê, trg 5-7, Ý Thức xb, 1974). 

Bài thơ này ông viết từ năm 1965, trong bối cảnh đất nước tương tàn! Nội dung bài thơ không mang ý thức phản kháng, gào rống mà, xuất phát tự trái tim ông, réo gọi tình đồng bào và thơ ông bật lên từ tấm lòng chân thật đó. Nhưng những kẻ làm chính trị thì không thể chấp nhận cái tấm lòng ấy, vì phe phía nào cũng tự nhận là chính nghĩa, bóp nát những mơ ước, hoài mong của tầng lớp thanh nên, trí thức. Chúng biến cái tinh thần dân tộc của giới trẻ trở thành hành vi phản trắc, biến lòng yêu đồng loại, nghĩa đồng bào thành tư tưởng phản bội! Sự dồn nén và ẩn ức ngày mỗi dày thêm, cao thêm: 

Rất nhiều đêm rất nhiều đêm

Tôi vỗ về tôi thủ thỉ

Ngủ đi con ngủ đi con

Ngày mai rồi khôn lớn

Cầm súng với cầm gươm

Ngủ đi con ngủ đi con

Ngày mai rồi khôn lớn

Giết bạn bè anh em

Ngủ cho ngoan ngủ cho ngoan

(Lời ru, Thơ Đỗ Nghê, trg 14) 

Thời ấy, khi đọc bài thơ này, tôi tưởng tượng cảnh bà mẹ quê ôm đứa con thơ vào lòng, giữa đêm khuya, nức nở than khóc người chồng là anh lính Việt Cộng hay Quốc Gia vừa chết trận. Âm thanh trong bài thơ không thịnh nộ, cứ ưu uất, nghẹn ngào, nức nở gây một ảo giác như chính bản thân ta đang chịu đựng cảnh khổ nhục đó vậy. Nó cứ rờn rợn như âm thanh trong bài Bà mẹ Gio Linh của Phạm Duy trong đêm bão!

Một bài thơ khác, Đoá hồng mùa xuân tuổi thơ, ông viết tặng con sắp chào đời cũng mang một tâm trạng u uẩn không kém, có thể coi là nỗi lòng của giới trẻ lúc bấy giờ: 

Có những người không có cơm ăn

Có những người không có áo mặc

Có những cánh đồng cháy đen

Có những xác người chồng chất

Con sẽ vô cùng ngạc nhiên

… Làm gì có Việt Nam đánh giết Việt Nam

Làm gì có đất nước hai miền

(Đoá hồng mùa xuân tuổi thơ, Thơ Đỗ Nghê, trg 66). 

Thực tế oan nghiệt đó đã bóp nát trái tim rất nhiều người, trong đó có ông. Vì vậy, có thể xem, Thơ Đỗ Nghê là một sự chọn lựa đúng đắn, là thái độ của của một thanh niên trí thức mẫn cảm trước thời cuộc và xã hội lúc bấy giờ. Đó là nỗi đau không cùng của những người chân chính, đúng như Lữ Kiều viết trong lời bạt cuối sách: “Đã đến lúc chúng ta nghiêm trang đặt những vấn đề, với lịch sử. Ví dụ bài “Điệp khúc” (Thơ Đỗ Nghê, trg 57, ghi chú của người viết bài này) là những câu hỏi thẳng thắn với đàn anh chúng ta thời 45. Những Bài vè thứ nhất, Bài vè thứ hai (Sđd, trg 48 và trg 52, nt) đặt vấn đề với thế hệ hiện tại, với những người mà ta gọi là Đồng Minh. Có lẽ, bây giờ sự thể đã khác đi, nhưng tôi nghĩ, trong tình thế ấy, đặt những câu hỏi như vậy là một thái độ can đảm, nằm trong thái độ nghiêm túc của anh” (Thơ Đỗ Nghê, trg 76, nt). 

Bài thơ Thư cho bé sơ sinh nơi trang 39 ông viết năm 1965 khi còn là SV thực tập tại bệnh viện Từ Dũ, sau này ông cho in lại trong tập Thư cho bé sơ sinh & những bài thơ khác (nxb Văn Nghệ, SG 2010) được Phat’s blog chuyển ngữ sang tiếng Anh tháng 11/2006, như là sự mở đầu tâm cảm của ông, nhìn về thế giới bên ngoài bằng trái tim chân thật, bằng cả tấm lòng của cá nhân có trách nhiệm trước một cá nhân khác. Bài thơ chỉ có hai nhân vật: anh và em. Anh là chàng SV năm 3 y khoa và em chỉ là đứa bé mới chào đời. Ông đã khắc hoạ sự tương phản ngược chiều trong thế giới đa cực của cuộc sống ồn ào, đầy dẫy những cạm bẫy, lo toan, mưu tính… Đó là tiếng khóc và nụ cười, mắt thực và tối đen, cô đơn và êm ấm, là cái bé nhỏ vô cùng và rộng lớn cũng vô cùng. Bài thơ cũng chính là tâm trạng của anh chàng sinh viên ngành y lần đầu tiên làm công việc đưa một sinh linh ra ánh sáng cuộc đời sẽ có nhiều ngọt bùi lẫn cay đắng chờ đón phía trước. 

Tính chất của bài thơ, trước hết là giải bày tâm trạng, bởi đây là lần đầu tiên ông nhìn thấy và nhận ra bản thể của mình qua hình hài bé bỏng kia, rồi nó sẽ phải trải qua những đoạn đường mà ông và bao con người đã bước qua cuộc đời có nhiều những khổ đau và hạnh phúc, của nụ cười và nước mắt, nói chung là “đời nhiều nhãn hiệu”.

Bài thơ không mang hơi thở ngôn ngữ bóng bẩy của thơ ca. Nó là những lời thầm thì, chia sẻ, là tâm tình của một con người với một con người trong mối quan hệ bình đẳng của người ra đời trước và người vừa chào đời sau; của người đã bị trói vào “đời” và người sắp bị “đời” trói chặt. Ông sử dụng ngôn ngữ nói, mộc mạc đến dung dị để chuyển tải nội dung lời thơ là thân phận làm người, mà rất nhiều các triết gia, học giả, nhà văn cả Tây lẫn Đông từng mang ra mổ xẻ. Vấn đề của Đỗ Hồng Ngọc đặt ra không rộng, không gian là phòng sinh, thời gian là một giờ khắc nào đó trong ngày. Ông chỉ ghi lại những cảm xúc và tâm trạng đối với công việc của mình trước một em bé vừa chào đời, bắt đầu cùng ông, gia nhập vào đời sống mà ông đang nếm trải, không hề thấy có một triết lý nào cao xa, chỉ nêu lên những sự việc có thật đang xảy ra và sắp sửa xảy ra với bé, bắt đầu tham dự vào “cõi người ta”. 

Khi anh cắt rún cho em

Anh đã xin lỗi chân thành rồi đó nhé

Vì từ nay em đã phải cô đơn

Em đã phải xa địa đàng lòng mẹ

(Thư cho bé sơ sinh & những bài thơ khác, trg 6). 

Nhiều người, khi đọc bài thơ này, cho rằng nhà thơ đã gửi đi một thông điệp cho mọi người hiện hữu trong đời sống muôn màu muôn vẻ. Tôi thì nghĩ, ông không hề có ý làm một công việc to tát đến vậy, mà hơn hết là từ tấm lòng, từ trái tim, là cái nhìn thấu triệt lẽ đời mà ông đã trải nghiệm, như một người đi trước, không phải là kẻ dẫn đường hay đưa đò. 

Thôi trân trọng chào em

Mời em nhập cuộc

Chúng mình cùng chung

Số phận

Con người… 

Ý hướng đích thực trong bài thơ là 3 câu cuối cùng này. Hai nhân vật anh và em sẽ hoà vào mẫu số chung: số phận con người! Và tinh tế hơn cả, là ông ngắt câu ở nhịp hai như một cú rơi từ trên cao, không có sự chọn lựa.

Đỗ Hồng Ngọc sống nhiều, đi nhiều, viết nhiều.Văn thì viết như thơ. Thơ thì như văn và thơ náu mình trong thơ.Đó là những gì tôi nhìn thấy, đọc ra từ cảm tính, rất chủ quan của mình. Ví dụ như mấy câu trong bài Mũi Né: 

Em có về thăm Mũi Né không

Mùa xuân thương nhớ má em hồng

Nhớ môi em ngọt dừa xứ Rạng

Nhớ dáng thuyền đi trong mắt trong

(Mũi Né, Thơ Đỗ Nghê, trg 8) 

Hay như thời gian tu nghiệp ở Pháp, ông nhớ nhà, nhớ quê, nhớ gia đình, bạn bè… Nỗi nhớ găm vào từng thớ vải. Câu thơ xếp đặt như câu nói, nhưng lại lột tả đến tận cùng nỗi nhớ nhung khói củi, đến nao nức: 

Anh hôn đằng sau/ Anh hôn đằng trước/ Anh hôn phía dưới/ Anh hôn phía trên/ Chiếc áo của em/ Món quà em tặng/ Chiếc áo lạ lùng/ Có mùi biển mặn/ Có mùi dừa xiêm/ Có mùi cát trắng/ Có mùi quê hương…

(Món quà, Thư cho bé sơ sinh…, trg 143). 

Ông có quãng đời niên thiếu sống ở La Gi (Phan Thiết), tắm mình trong mùi gió biển, thiên nhiên hoang sơ với những đồi núi chập chùng, những dãi cát trắng, sóng biển rì rào… đã ru ông, nuôi dưỡng tâm hồn ông để có được một Đỗ Hồng Ngọc có một cái Tâm trong veo như bầu trời không gợn chút khói mây.

Ông nhìn nhận cảnh quan theo vẻ đẹp mẫn tuệ nơi ông đã đành, nhưng đến những cảnh huống mà nhiều người nhìn thấy là xấu, khi lọc qua tâm hồn ông bỗng sáng rực như ánh sáng ban mai; ngôn ngữ diễn đạt cứ như những hạt sương long lanh trên cành lá biếc xanh. Ví dụ, từ trang 74 đến trang 80 là các bài La Ngà và La Ngà 1 đến La Ngà 5, là diễn tả tâm trạng và cảm xúc của ông trước cái chết của đứa con gái yêu quý, nhưng lời thơ không hề bộc lộ chất bi luỵ, đau thương. Ngược lại, cứ trong suốt như pha lê: 

“Mỗi năm/ Mỗi người/ Thêm một tuổi/ Chỉ mình con/ Mãi mãi tuổi đôi mươi” (La Ngà 3, Thư cho bé sơ sinh…, trg 78). Và bài kế tiếp: “Ba vun gốc trường sanh/ Mẹ đặt chùm vạn thọ/ Lên mộ con/ Giữa ngày mùng Một Tết” (La Ngà 4, Thư cho bé sơ sinh…, trg 79). 

5 bài thơ viết về La Ngà thực chất là viết về “nỗi mất”, là nỗi đau không cùng của các bậc cha mẹ. Nhưng cả 5, lời thơ vẫn bình thản chấp nhận, không u oán. Chỉ có những người đã tiếp cận với Thiền học, đã “thị” được ngũ uẩn giai không, thả những cảm xúc tâm linh chạm gần đến ngưỡng như Đỗ Hồng Ngọc mới có được cốt cách và phong thái của các hành giả phương Đông trên đường bước vào mép rìa của cái Đẹp. 

Ông đã từng thú nhận trong phần dẫn nhập và một chút lịch sử, ở ngay phần đầu Nghĩ từ trái tim, rằng “Viết với tôi là một bức xúc, là một cách “xả”! Tôi thấy nhẹ nhàng sảng khoái hơn khi được viết ra. Đó cũng là một cách tự chữa bệnh cho mình” (trg 9). Và: “Tôi nhớ hồi mới lên mười, trọ trong chùa, đêm đêm cũng nghe cô tôi tụng “ Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề, tát bà ha!” tôi chỉ thấy êm tai, ngủ ngon lành mà thôi” (trg 20). Như vậy, rõ ràng Thiền học đã thấm đẫm tâm hồn ông từ tuổi thơ, như chuyện thấy núi thấy sông của nhà sư viết ở đoạn trên. Chính vì vậy, nên ông mới có những câu thơ như thế này:

Hội An còn ngái ngủ

Mái chùa ôm vầng trăng

Giật mình nghe tiếng chổi

Gà gáy vàng trong sương (Hội An, Thư cho bé sơ sinh…, trg 99). 

Hay:

Lắng nghe hơi thở của mình/ Mới hay hơi thở đã nghìn năm xưa/ Một hôm hơi thở tình cờ/ Dính vào hạt bụi thành ra của mình/ Của mình chẳng phải của mình/ Thì ra hơi thở của nghìn năm sau 

(Thở, sđd, trg 196). 

Và một bài nữa:

Đất động ta cũng động/ Sóng thần ta cũng sóng/ Giật mình chợt nhớ ra/ Vốn xưa ta là đất!

(Đất, sđd, trg 197). 

Nếu làm công việc như các ông Đặng Tiến và Cao Huy Khanh thì có thể xếp dòng thơ Đỗ Hồng Ngọc vào dòng thơ Thiền được chăng?Tôi không mấy rõ, chưa thể biện biệt, kiến giải; chỉ thấy và hơn hết là cảm được rằng, thơ ông xuất phát từ Tâm Cảm, vượt trên những triền phược. Nó thô mộc mà sáng long lanh; lột tách những vết bụi bám; cũng đứng chung những “số phận thơ”, cũng sần sùi meo mốc như lát sắn mì để quên trong khạp, nhưng lại toả ra chút mùi thơm dịu dàng lấp lánh. Đó cũng là nét rất riêng, rất cốt cách của thơ Đỗ Hồng Ngọc. 

Tôi đã từng nghĩ: “Làm thầy thuốc là để cứu người; làm nhà văn là để cứu đời”, xem ra lại rất đúng, một cách trọn vẹn, với trường hợp Đỗ Hồng Ngọc: cứu người và cứu đời! 

Nguyễn Lệ Uyên

(Xứ Xương Rồng, tháng 3/2012)

 

IV/ NGUYỄN THỊ TỊNH THY (*)

YẾU TỐ BẤT NGỜ TRONG BÀI THƠ “BÔNG HỒNG CHO MẸ” 

Bông hồng cho Mẹ của bác sĩ – thi sĩ Đỗ Hồng Ngọc là một bài thơ hay về mẹ. Hay đến mức nào? Hay đến mức lặng người, lạnh người. Hay đến mức phải gọi đó là tuyệt tác. Và tuyệt tác này xứng đáng được hiện diện trong tang lễ của những bà mẹ. Bởi vì Bông hồng cho Mẹ là một cách viếng mẹ, khóc mẹ vô cùng đặc biệt – đầy uyên áo nhưng rất đỗi giản đơn. Bài thơ được viết theo thể tứ tuyệt ngũ ngôn, chỉ vẻn vẹn bốn câu, hai mươi chữ nhưng đủ để khiến người đọc có nhiều phức cảm buồn vui, thấu đạt lẽ sinh tử, cảm ngộ điều được mất… để có thể tỉnh thức, an nhiên trước sự nghiệt ngã của quy luật sinh ly tử biệt.

“Con cài bông hoa trắng

Dành cho mẹ đoá hồng

Mẹ nhớ gài lên ngực

Ngoại chờ bên kia sông…”

Toàn bài thơ, kể cả nhan đề, đề tài, hình ảnh đều rất đỗi thân quen đối với người dân Việt, đặc biệt là các Phật tử. Có thể nói, Mẹ, lễ Vu Lan, hoa hồng màu trắng, hoa hồng màu hồng và cả nghi thức cài hoa hồng lên ngực dường như đã trở thành những biểu tượng mang tính liên văn bản trong văn chương nghệ thuật, trở thành tập quán trong đời sống và tâm thức bao người. Vậy mà, nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc vẫn tìm ra được một tứ thơ lạ làm ta sững sờ, khiến ta bất ngờ. Đúng! Bất ngờ chính là yếu tố làm nên hồn cốt của bài thơ.

Bất ngờ đầu tiên là nghịch lý của hai câu thơ đầu:

“Con cài bông hoa trắng

Dành cho mẹ đóa hồng”

Lạ chưa! Con cài hoa trắng, nghĩa là con không còn mẹ. Theo lẽ thường, mẹ càng phải cài hoa trắng, vì mẹ của mẹ (bà ngoại) cũng không còn.Vậy mà, con cài bông hoa trắng – bông hoa của tang tóc, mất mát; nhường cho mẹ đóa hoa màu hồng – màu của diễm phúc, viên mãn. Hẳn bạn đọc sẽ không khỏi thắc mắc về nghịch lý này. Trong thưởng thức nghệ thuật, thắc mắc, hoài nghi, cảm thấy mâu thuẫn… là khởi đầu của mỹ học tiếp nhận. Bạn đọc chờ đón lời giải thích ở câu tiếp theo. Nhưng không. Câu thứ ba lại càng khẳng định sự vững chắc của hai câu đầu: “Mẹ nhớ gài lên ngực”. Lại thêm một tầng thắc mắc nữa: Mẹ đã mất, vậy mà có thể thực hiện động tác “gài” hoa lên ngực. Mà chắc là mẹ có thể làm được việc đó, nên con mới dặn mẹ là “nhớ gài”. Quả là nghịch lý chồng nghịch lý! Cho đến câu cuối cùng: “Ngoại chờ bên kia sông…”, tất cả mọi thắc mắc, nghịch lý đều được cởi bỏ. Cởi bỏ bằng một sự bất ngờ – bất ngờ đến mức khiến ta ngỡ ngàng, sững sờ, xúc động, rưng rưng…

Cấu tứ bất ngờ là nét độc đáo chuyển tải chủ đề của bài thơ. Kiểu cấu tứ này khiến cho bài thơ đảm bảo được nguyên tắc “mạch kỵ lộ” của thi pháp thơ Đường. Người làm thơ phải biết rằng, mạch thơ tối kỵ là bị để lộ, nhà thơ phải làm sao đó để đến câu cuối cùng, điều mình muốn ký thác, bộc bạch mới lộ ra, gây bất ngờ cho người đọc, thậm chí bẻ gãy được những đoán định của họ. Bất ngờ càng lớn, ý thơ càng sâu sắc, sức lay động càng mãnh liệt. Vì thế, câu cuối cùng thường là câu gánh vác nhiệm vụ thể hiện chủ đề của bài thơ. Cũng vì thế, nhiều người cho rằng, trong thơ Đường luật, những câu đầu dù nói nhiều điều, tả nhiều thứ, có thể bao quát cả không gian mênh mông vô tận và thời gian vô thủy vô chung thì vẫn chỉ là sự chuẩn bị cho sự xuất hiện của câu cuối. Làm thơ Đường, trong tâm tưởng của nhà thơ, câu cuối chính là câu khởi đầu.

“Ngoại chờ bên kia sông…”

Vậy là không còn nghịch lý nữa.Mẹ về với ngoại. Ngoại đã đi trước, và đón chờ mẹ ở bên kia sông. Ngoại đón con gái của ngoại, mẹ về trong vòng tay của mẹ mình. Tất cả mọi việc đều thuận chiều.Và vì thuận chiều như thế nên nỗi mất mát, chia xa bỗng trở nên nhẹ nhàng hơn.

Viết về cái chết, về nỗi đau tử biệt nhẹ nhàng như thế, nhà thơ đã thấm nhuần triết lý của nhà Phật. “Vô thường”, “sắc không”, “tứ khổ”, “diệt khổ”, “từ ái”… được chất chứa trong từng câu chữ giản dị tưởng chừng như không còn là thơ, không phải là thơ. Tất cả hai mươi chữ trong bài thơ tứ tuyệt này đều là từ thuần Việt, cả danh từ, động từ, đại từ…; cả hình ảnh, biểu tượng… cũng đều rất đời thường và dân dã đến mức người đọc, người nghe ở trình độ nào cũng có thể hiểu, có thể cảm, có thể xúc động. Mặc dù bài thơ đậm chất triết lý, nhưng chất triết lý ấy đến một cách đơn giản, không trau chuốt gọt giũa, không cao đàm khoát luận. Mọi cảm xúc, tình cảm trong bài thơ vừa như có, vừa như không; vừa rất nặng, vừa rất nhẹ; vừa hiện thực, vừa kỳ ảo. Tất cả đều tùy thuộc vào cách mà mỗi người cảm nhận về cái chết, về tình mẫu tử, về lẽ tử sinh. Sâu sắc và đa nghĩa như thế, Bông hồng cho Mẹ là cả một chân trời nghệ thuật mà ở đó, mọi đường nét nghệ thuật dường như tan biến trong tình cảm sâu nặng của người con đối với mẹ, để rồi lan tỏa đến người đọc. Khiến cho người đang nằm có thể bước đi, khiến cõi chết trở thành cõi sống, khiến âm dương cách biệt trở nên gần lại, đậm chất nghệ thuật nhưng không thấy dấu hiệu của nghệ thuật, như vậy là bài thơ đã đạt đến cảnh giới cao siêu của nghệ thuật: “áo của thợ trời không nhìn thấy đường may” (thiên y vô phùng). Chỉ trong hai mươi chữ, từ một tấm lòng, nhà thơ đã nói hộ muôn tấm lòng. Ước mong của tác giả là ước mong của mọi người, tiếng thơ của anh nhưng là tiếng lòng của tôi, của tất cả chúng ta.

“Ngoại chờ bên kia sông…” là hình ảnh mang tính biểu tượng, giàu sức gợi, chất chứa nhiều hàm nghĩa ý tại ngôn ngoại. Câu thơ tạc nên hình ảnh của người mẹ muôn thuở: yêu thương, dịu dàng, nhẫn nại, chở che, bảo bọc, hy sinh. Từ vị trí của người mẹ ở ba câu đầu, mẹ trở thành vị trí của người con ở câu cuối. Mẹ được về trong vòng tay yêu thương của ngoại, lại một lần nữa được làm con của ngoại, nghĩa là mẹ được tái sinh. Câu thơ còn toát lên một chân lý: có mẹ, dù ở bất cứ nơi đâu, dù ở cõi sống hay cõi chết, ta cũng sẽ được chở che, được bình an. Vì thế, dù “bên kia sông” là một thế giới vô cùng lạ lẫm thì mẹ cũng sẽ khỏi phải ngỡ ngàng, ngơ ngác, bơ vơ, lạc lõng. Có ngoại rồi, con yên tâm cho mẹ, con được an ủi rất nhiều khi nghĩ về bước chân cuối cùng của mẹ trong chuyến độc hành này.

Về với mẹ, về bên mẹ là một cách nói giảm nhẹ tuyệt vời để xua tan đi nỗi đau xé lòng, nỗi mất mát không gì bù đắp được. Câu thơ khiến ta bình tâm hơn, thanh thản hơn, thấu đạt hơn, an nhiên hơn khi đón nhận quy luật nghiệt ngã của tạo hóa. Câu thơ còn đặt ra vấn đề về cách nhìn nhận, đón nhận và lý giải những biến cố của đời sống. Trắng – hồng, sống – chết, được – mất, đi – về, sắc – không… ranh giới của những cặp đối lập ấy chỉ là tương đối. Sắc sắc không không, “có thì có tự mảy may, không thì cả thế gian này cũng không”, tất cả đều tùy thuộc vào cách chúng ta đón nhận sự việc. Nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc đã chọn cách nhìn thấy niềm vui trong nỗi đau, đổi chất trẻ thơ cho sự già nua, biến chia ly thành đoàn tụ, thay mất thành được, biến ra đi thành trở về.

Từ hình ảnh và ý nghĩa đẹp đẽ của câu cuối, đối sánh với ba câu đầu theo lối đọc ngược bài thơ từ dưới lên, ta sẽ thấy mọi ẩn số của nghịch lý đều được giải đáp tường tận. Vì mẹ được về với ngoại (câu 4) nên mẹ nhớ cài hoa hồng lên ngực (câu 3), con dành cho mẹ đóa hồng là hợp lý (câu 2), con nhận phần mất mát cho riêng mình, và con vĩnh viễn không còn mẹ trên đời (câu 1). Cũng từ câu 4, đọc lại câu 3, ta sẽ thấy câu thơ – lời dặn của người con – thấm đẫm nỗi niềm. “Mẹ nhớ gài lên ngực”. “Mẹ nhớ…”, nghĩa là mẹ đừng quên làm điều đó nhé, bởi đóa hoa hồng dường như là dấu hiệu để ngoại nhận ra mẹ, là tín vật để xác nhận hạnh phúc đoàn viên của mẹ và ngoại. Và con mong như thế, mong lắm thay! “Mẹ nhớ gài lên ngực”. Lời thơ như dặn dò nhắc nhở, như van xin cầu khẩn, như vỗ về dỗ dành, như an ủi động viên… trong giờ phút bịn rịn tiễn đưa. Lời nói ấy là tấm lòng, là nỗi âu lo, là yêu thương chan chứa bật lên từ nỗi đau nén chặt trong lòng. Khóc không nước mắt, nỗi đau lớn tựa càn khôn!

Mở đầu bằng những nghịch lý và kết thúc bất ngờ bằng những chân lý, Bông hồng cho Mẹ đưa chúng ta ra khỏi bến mê để bước vào bờ đạt ngộ.Dẫn dắt người đọc đi từ mê muội đến tỉnh thức về lẽ tử sinh như thế, quá trình nhận thức của bài thơ mang đậm dấu ấn của Thiền tông. Bài thơ là cái nhìn khác biệt và sống động về một trong “tứ khổ” sinh lão bệnh tử, thấm đượm chân lý về tình mẹ. Nếu có mẹ, được ở bên mẹ thì cõi chết cũng là cõi bình yên. Đối diện với cái chết bằng tâm thế ấy, ta còn sợ nỗi gì? Ai rồi cũng có ngày được về với mẹ, hãy nhẹ nhàng, nhẹ gánh mà đi. Rồi ta sẽ được mẹ ta đón bên kia sông. Hiểu là giải thoát. Vẫn biết như thế, nhưng sao nước mắt vẫn cứ chảy dài khi nghĩ đến ngày ngoại đón mẹ. Ta mê muội quá chăng?

———————————-

Nguồn: Đặc san LIỄU QUÁN, số 12, tháng 8.2017. Trung tâm Văn hóa Phật giáo Liễu Quán-Huế

(*) Nguyễn Thị Tịnh Thy, giảng viên Đại học Sư Phạm, Huế 

 

V/ TÔ THẨM HUY

ĐỌC THƠ NGẮN ĐỖ NGHÊ 

“Thơ Ngắn Đỗ Nghê là những bài thơ ngắn mà không ngắn chút nào. Mời đọc một bài. Lưỡng ngôn, tam cú. Cả bài thơ vỏn vẹn sáu chữ, tựa đề: Trái Đất.

Giữa đêm

Thức giấc

Giữa ngày…

Sáu chữ. Thinh không bỗng vang vọng lời kinh Bát Nhã:

Sắc bất dị không, không tức thị sắc. Thọ tưởng hành thức, thảy đều như thế…

Ngân nga lời đồng vọng:

Sáng bất dị đêm. Ngày tức thị tối. Viên bi vun vút, trong cõi vô cùng…

Sáu chữ. Ngắn. Mà dư âm ngân dài, bất tuyệt.

Đâu là điểm khởi đầu, điểm tận cùng, điểm đến, điểm đi, của vòng tròn?

Xin thư thả chép lại bài thơ, chép dưới lên trên, chép đầu xuống bụng, chép dọc thành ngang:

Giữa ngày, trái đất, giữa đêm.

 

 Thi sĩ Đỗ Nghê đã lấy con dao mổ của ông y sĩ Đỗ Hồng Ngọc ra rạch một đường, hé lộ cái lẽ thường hằng ở giữa nếp gấp song trùng nhị bội. Đâu là chân diện mục của quang âm tấc bóng? Của logos ban sơ nguyên khởi?

Bài thơ như một công án thiền.

Cái biên giới của sáng và tối, ngày và đêm đã tan biến. Đọc thơ đôi khi nên tắt cái máy lô gích trong đầu đi, kẻo không chỉ nhìn thấy là nửa bên này nắng gắt, nửa bên kia tối om, mà không thấy cái sự tình kỳ bí của nghìn năm mây trắng du du trên trái tinh cầu.

Thơ hay có khi là những bài thơ lớn. Hay vì ý tưởng lớn, hỗn mang bờ bãi. Lớn vì cánh hạc một thoáng vụt tung đã nghìn trùng bay mất. 

Thơ hay có khi lại là mấy bài thơ nhỏ. Hay vì ý tưởng như cây kim xuyên suốt nhất điểm thông, vì nó là lát cắt nóng hổi từ đời sống, nhịp tim vẫn đang đập trong từng lát cắt. Nó như lưỡi chuỷ thủ đâm thẳng vào hồn. Không băn khoăn, do dự, không suy nghĩ, đắn đo. Nó cấu điếng vào người. 

Mời đọc một bài hơi dài hơn bài trước. Những mười chữ:

Sóng

Quằn quại

Thét gào

Không nhớ

Mình

Là nước.

– Sự tình đã như vậy thì chừ phải làm răng cho sóng nhớ nó là nước?

– Thưa, chắc phải nhờ ông thi sĩ Đỗ Nghê chích cho nó một mũi thuốc, hay là nhờ ông y sĩ Đỗ Hồng Ngọc làm cho nó một bài thơ, rồi thả trôi trên sóng nước, ắt nó sẽ giác ngộ mà thôi quằn quại thét gào. 

Lại xin mời đọc một bài dài hơn chút nữa, mười bốn chữ, sáu tám: Đông Boston

Còn cây

trơ lại với cành

Với linh hồn lá

ngập ngừng trút qua… 

– Có cần phải bảo là còn cây hay không? Mùa đông thì cây nó cũng đứng đấy, chứ nó đâu có chạy đi đâu như đám lá vốn thích phiêu lưu bờ bãi kia, mà phải đặt bút bảo là nó vẫn còn? Nước thì nó cứ lững lờ trôi, chứ sông Hương nó có bao giờ đi đâu đâu, sao lại phải bảo là:

Dạ thưa xứ Huế bây giờ,

Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương? (BG) 

– Thưa đó là chỗ nhiệm màu của thơ, nó khiến thực tại trở về hiển hiện mỗi sát na. Phải mượn con mắt của thiền sư Vạn Hạnh lúc lâm chung nhắm mắt mới thấy hàng cây vẫn đang đứng đó ven bờ sông Hương núi Ngự. Thật là hạnh phúc xiết bao khi biết là núi Ngự vẫn còn đó. Hạnh phúc thật vô vàn khi biết là lúc mùa xuân trở lại thì cây cành vẫn đứng chờ đó để hồi sinh cho linh hồn lá đầu thai trở lại trần gian. Từ đó sẽ có thể nhậm vận thịnh suy vô bố uý. 

Không biết Đỗ thi sĩ của chúng ta làm gì, đi đâu, mà ngày nọ lại lặn lội đến miền Đông Bắc băng giá, lang thang giữa phố Tàu Boston, đứng nghe gió nó co mà ro lạnh. Hay là thi sĩ đi ngắm tuyết?

Tuyết bay

Bay nhẹ

Phố Tàu

Gió co

Ro lạnh

Phố

Đìu hiu

Theo.

Cách ngắt câu Gió co / Ro lạnh nghe lập cập hai hàm răng. Hay là gió nó cũng lạnh nên nó co lại? Thật thú vị !

Hay là thi sĩđi tìm kiếm một điều gì chăng?

Tìm kiếm

Anh không sống

Anh đợi sống

Anh để dành anh

Anh chắt mót em

Anh cắt xén niềm vui

Anh gậm nhấm nỗi buồn

Anh tìm kiếm

Một điều anh chẳng biết

Ông không sống, mà để dành.Ông đợi.Một điều gì ông không rõ. 

Cách nay nửa thế kỷ, một bài thơ trên tờ Bách Khoa có mấy câu nó theo đuổi tôi đến tận giờ:

Tôi làm thơ để lãng quên chờ đợi

Để đánh lừa năm tháng trước hư vô

Xin yêu tôi bằng tội lỗi bất ngờ

Bằng tất cả những giờ em có mặt

(Tạ Tỵ)

Ông hoạ sĩ Tạ Tỵ cũng đã chờ đợi.Ông chờ đợi điều gì chỉ mình ông rõ. Mà cũng có thể ông cũng không rõ. Nhưng cái cuộc chờ đợi ấy hẳn là ông chẳng hào hứng gì với nó lắm, nên ông muốn lãng quên là mình đang chờ đợi.Nên ông làm thơ để khỏi nghĩ đến chuyện ấy.Để đánh lừa năm tháng trước cái hư vô sâu thẳm. Đỗ thi sĩ thì muốn để dành anh, muốn chắt mót em. Tạ hoạ sĩ thì năn nỉ: xin yêu tôi bằng tất cả những giờ em có mặt. Cái cuộc chờ đợi này, cái cuộc đánh lừa này, liệu sẽ được nước Cam Lồ đền bù ngày em có mặt? Hay là cái ngày ấy sẽ không bao giờ đến? Và xin tiếp tục chờ đợi.Và lãng quên chờ đợi.

Và say đắm với tặng phẩm của đất trời tha hồ chờ đợi:

Món quà

Anh hôn đằng sau

Anh hôn đằng trước

Anh hôn phía dưới

Anh hôn phía trên…

Đỗ thi sĩ hôn gì mà lung tung thế?

Chiếc áo của em

Món quà em tặng

Chiếc áo lạ lùng

Có mùi biển mặn

Có mùi dừa xiêm

Có mùi cát trắng

Có mùi quê hương…

Ra là thế.

Rồi ông đưa em đi lễ:

Em tin có Chúa

Ngự ở trên cao

Còn anh tin Chúa

Ngự ở trong nhau

Đưa em đi lễ

Vầng trăng treo nghiêng

Em làm dấu thánh

Anh làm dấu em.

Thật là may mắn người con gái được ông đưa đi lễ. Tôi mong một ngày nào được ông dạy cho cách làm dấu ấy.

Ông làm dấu xong rồi thì ông giả sử:

Giả sử

Giả sử sóng thần ập vào Nha Trang

Ập vào Mũi Né

Anh chỉ kịp quẳng em lên một chiếc thuyền thúng

Vút qua những ngọn dừa

Những đồi cát trắng

Em nhớ mang theo đôi quả trứng

Vài nắm cơm

Vài hạt giống

Đừng quên mấy trái ớt xanh…

 Biết đâu mai này

Ta làm An Tiêm

Trở về làng cũ

Nơi này ta sẽ gọi là Nha Trang

Nơi kia gọi là Mũi Né…

Cho nên

Sao chẳng sớm mà thương nhau hơn?

Ông giả sử thật tuyệt vời. Ông hỏi như thế thì đến cả sỏi đá cũng dạt dào yêu thương.

Những câu thơ cuối bài của ông thường là những cú đấm nốc ao, bất ngờ. Ông có bài thơ tình đọc lên ắt hoả phải bốc:

Thơ tình

Anh đọc bài thơ tình

Em ngồi nghe lặng thinh

Anh đọc thêm bài nữa

Em vẫn ngồi lặng thinh

Anh buồn không đọc nữa

Em chồm lên hôn anh

Như đổ dầu vào lửa…

Thơ của Đỗ thi sĩ vốn hay bất ngờ chồm lên như thế, lắm lúc làm ta bàng hoàng, lại lắm lúc xui ta bật cười. Những lát cắt nóng hổi từ đời sống.

Có lúc ông như tự đặt ống nghe lên tim mình mà định bệnh: bệnh nhớ.

Nỗi nhớ

Thôi hết cồn cào

Thôi không quặn thắt

Chỉ còn âm ỉ

Chỉ còn triền miên

Thì thôi cấp tính

Thì đành kinh niên!

Ông lại còn nghe thấy cả tiếng chổi ở trên chùa?

Hội An Sớm

Hội An còn ngái ngủ

Mái chùa ôm vầng trăng

Giật mình nghe tiếng chổi

Gà gáy vàng trong sương

Không biết ông nghe bằng lỗ tai thi sĩ hay lỗ tai y sĩ? Trời gần sáng, mà trăng vẫn nằm trong vòng tay ôm của mái chùa thì hẳn phải là vầng trăng rằm. Và vì thế nên tiếng gà nó mới vàng trong sương. Kẻ tiểu sinh này đoán thế có đúng không, thưa Đỗ thi sĩ?

Cái lỗ tai ấy của ông nghe thật lắm điều thú vị. Nó nghe được cả tiếng thu. Không phải tiếng thu xào xạc của nai vàng ngơ ngác, mà là tiếng thu day dứt của bầy quạ:

Thu

Chiều thu

Nghe tiếng quạ

Giật mình

Nỗi xa nhà

Nhớ sao

Mà nhớ

Quá!

Tiếng quạ, hay tiếng “Quá”? Hay quạ tức thị quá?

Tôi cũng có lần nghe thấy tiếng quạ ấy cách đây bốn mươi mấy năm, cũng trong một buổi chiều thu bơ vơ bên con suối đã cạn ở Minneapolis, cũng ngập hồn nỗi thương nước nhớ nhà những năm mới tản cư. Xin chép ra đây như mấy lời đồng thanh dị cảm vậy:

…

Những viên sỏi đã nổi lên

Lộ những bộ mắt buồn như đưa đám

Tiếng quạ kêu chiều cuối thu nghe ảm đạm

Lòng hỏi lòng tiếng quạ hay tiếng mình

Tôi hỏi tôi tiếng quạ hay tiếng đồng bào tôi

Tôi hỏi tôi có bao giờ quạ khóc?

(Tô Thẩm Huy) 

Đã có bao nhiêu bài thơ viết về Mẹ, cho Mẹ, nhớ Mẹ. Những bài thơ nghe đã quá quen thuộc, đến độ chưa đọc mà như đã đọc rồi. Nhưng không phải lúc nào cũng thế. Mời quý vị chuẩn bị tinh thần đón đỡ một cú nốc ao đầy yêu thương, vỗ về săn sóc, đầy ngỡ ngàng, ngạc nhiên, sung sướng. Bài thơ viết về người Mẹ, mà nói thật nhiều về người con:

Nụ cười của mẹ

Mẹ tôi có nụ cười lạ lắm!

Lúc nào bà cũng nhìn tôi mà cười cười. Không nói.

Lúc tôi có vẻ vội vã chào lẻn đi đâu đó,

bà cười cười tha thứ.

Vậy hả con?

Lúc tôi lần khân thì nụ cười như biết rồi, khỏi nói.

Những lúc tôi mang chuyện bực mình

thì như thôi đi, đừng sinh sự!

Nhột nhất là khi bà cười như châm biếm

lúc tôi loanh quanh kiếm chuyện…

Mẹ tôi cứ vẫn cười cười như thế

suốt ba năm trên bàn thờ!

Ông thật may mắn có người mẹ không bao giờ ly cách. Hai mẹ con chẳng xa nhau ngày nào, dù ở đâu, trong hoàn cảnh nào. Và Mẹ ông hẳn phải thương yêu lắm người con hiếu tử, ngoan ngoãn, ý nhị ấy.

Lại xin mời đọc một bài thơ khác về Mẹ, để kết bài viết này ở đây.Bài thơ tuyệt diệu, dịu dàng, đẹp. Giản dị, nhưng thừa năng lực xoá tan mọi u buồn trên trần thế:

Bông hồng cho mẹ

Con cài bông hoa trắng

Dành cho mẹ đóa hồng

Mẹ nhớ gài lên ngực

Ngoại chờ bên kia sông…

Buổi trao hoa thật ân cần, âu yếm. Mẹ đang về với Ngoại ở bên kia sông, con gửi Mẹ đóa hồng. Mẹ cho con hoa trắng. Buổi vĩnh ly sao êm đềm, hạnh thục.

Ngoại chờ bên kia sông…

Thanh bình, thư thái, hân hoan.

Vì bên kia sông nơi Ngoại đang chờ là vườn tược cây trái, là khói lam chiều, là kinh nước ngọt. Là hai miền sinh tử đang tan hòa trong cõi trời thanh tịnh, bất sinh, bất diệt.

Chỉ năm chữ, mà gói cả tư tưởng của Kim Cang Bát Nhã kinh. Năm chữ hiền lành. An nhiên, tự tại. Năm chữ đã biến cái phù du ngắn ngủi của thân phận con người thành vĩnh cửu. Đã biến Thơ Ngắn Đỗ Nghê thành tiếng thơ dằng dặc đến vô cùng.

 

Tô Thẩm Huy

Houston, Tiết Thu Phân, 2018

 

VI/ NGUYỄN THỊ KHÁNH MINH

CÒN CHÚT ĐỂ DÀNH

Việc đầu tiên khi nhận được bản thảo Để Làm Gì là tôi in ra, với ý nghĩ, phải được cầm tập giấy ấy trên tay, nằm trên chiếc ghế mây ở ngoài hiên màđọc, cùng với tiếng gió thổi lùa qua lối vườn hẹp lao xao giọng lá, cùng tiếng nắng đi khẽ qua thềm, cùng tiếng lòng mình im nhưđám mây dường không tan trong màu xám rất gần kia, phải, mấy hôm nay mưa nên trời như thấp xuống. Vậy mới đủ bộđể cung kính những con chữ trên trang giấy thẳm. Khi có thơ, văn, trên trang giấy thì giấy kia bỗng sâu huyền, sống động lạ lùng. Nó như trời có mây, biển có sóng, suối có những hòn cuội lăn theo, sông có những con đò nhỏ lặng trôi, nó nhưđôi mắt nhìn mình thăm thẳm… nên chi mình thích lắm, đọc sách in giấy -hoài cổ-, anh Ngọc có nói và cười bình thản, để làm gì, không nhỉ.

Và như thế bên hiên mỗi sáng có người thiền với chữ, có cái gì đó tự nhiên thành, chả là dịch corona­virus khiến cầm chân mọi người ít dám đi đâu, giờ lại được làm con mọt sách gặm nhấm chữthơm. Thế chẳng phải làbất chiến mà cóđược thú vui ngàn xưa trong những ngày đầy lo lắng dịch bệnh này đó sao!

*

Và đọc, và đọc, vừa đọc vừa dè sẻn như sợ hết, rồi cảm xúc đòi đoạn…Anh Đỗ Hồng Ngọc gọi là tạp bút là tùy bút gì cũng lọt với Để Làm Gì. Vì có những bài đầy chất thơ (thêm, đẫm thiền vị) của tùy bút. Xen kẽ với mọi đề tài viết theo ngẫu hứng, rồi những bài cảm nhận về các tác giả, mà loại nào cũng đều được viết dưới lăng kính thơ mộng để chuyển tải những suy nghĩ uyên bác một cách rất thâm trầm nhẹ nhàng. Đó làđiểm đặc biệt của bút pháp Đỗ Hồng Ngọc. Lôi cuốn người đọc bằng sự hiểu biết sâu rộng mà không giáo điều, giáo khoa, chỉ làởđâu đó thì thầm to nhỏ…, như Emily Dickinson từng nói “thi nhân chỉ thắp lên những ngọn đèn, còn chính họ thì bước ra ngoài.” (Sakya Như Bảo dịch)

*

Khi tôi đọc đến trang cuối cùng, ngồi yên lặng một mình ngoài hiên với trời đang đổ mưa, cơn mưa đầu mùa báo hiệu mùa xuân đến. Nhìn những bong bóng nước vỡ tôi thấy mình quá thấm thía câu tùm tỉm, để làm gì. Có phải khi người ta bình yên nói để làm gìlà lúc người ta buông bỏ mọi mong cầu, là lúc người ta không còn đôn đáo với những mục tiêu mà mới đây thôi đã làđiểm cho họ hăm hở bước đến? Và chợt lúc nào đó nhìn hạt lệ mình rơi trên những con chữ một buổi “về thu xếp lại” thì cười một mình, Rồi lại cũng không thể không trầm ngâm ngẫm ngợi với “để làm gì”, với “sáng, trưa, chiều, tối”…(Lời Ngỏ, tr.2), có khóc có cười, có trầm ngâm ngẫm ngợi thì dường như biết để làm gì rồi, thưa anh.

*

Và có phải, khi hỏi, để làm gì, thì người biết sống đầy đủ từng phút giây, tiếp xúc trọn vẹn những kỳ diệu đang xảy ra chung quanh và trong mình, có phải vậy gọi là chánh niệm? Dường như là những năng lực của nuối tiếc của chờđợi đều dồn vào năng lực tỉnh thức sống với ở đây và bây giờ nên người đã cảm được triple cái mầu nhiệm phút hiện tiền? Đó là cảm nhận của tôi khi đọc những tình những cảnh, những nhận xét, những chiêm nghiệm, trong tập Để Làm Gì này.Tình thì chân thật, hóm hỉnh. Cảnh thì tâm và người quyến luyến nhau đến nao lòng. Chiêm nghiệm thì sâu lắng, bác học mà giản dị, và lạ thay giọng kể lại bình yên tự tại đến thế! Nhiều khi phải qua cái tuổi nào đó, thấm đẫm một chút cuộc đời, nghe được cái tiếng kêu ‘trần thế’ thì mới nhận ra sự thiết yếu của tự tại. (tr.6)

*

Khi đọc xong một bài nào tôi thường ghi chú ngay cảm nghĩ của mình, xin chép vào đây những ý nghĩ tản mạn đó, không phải là một bài viết mạch lạc về một tác phẩm, như thể tôi đang ngồi nghe người kể chuyện và tôi được nói ngay ý mình, vậy thôi, chẳng “để làm gì.”

Tôi đặc biệt thích những bài tả những cảnh nơi ông đãđi và đã sống, bạn ơi hãy đọc đi rồi có thấy như tôi, cái gắn bó nhân duyên của tình ấy và cảnh kia, cái “đối cảnh vô tâm” của người thật làảo diệu, cảnh có làm tâm quyến luyến nhưng lại chẳng thể buộc tâm. Phải chăng đó mới thật là thiền?

Ởđoạn cuối của bài An Lạc, thử”chiết tự” từ Hán Việt thì ra An là ‘dưới mái nhà có   người con gái’, còn Lạc là ‘ngôi nhà tràn đầy ánh sáng, có vườn cây xanh mát, có tiếng hát, tiếng đàn, tiếng dệt cửi, quay tơ…’. Rồi cùng mà cười. “Em lo gì trời gió/ em lo gì trời mưa…/ em cứ yêu đời đi/ như lúc ta còn thơ/ rồi để anh làm thơ/ và để em dệt tơ…” (Thoi tơ, thơ Nguyễn Bính, nhạc Đức Quỳnh) (tr.7) 

Tác giả nối ý nghĩa của An Lạc với những câu thơ khiến tôi vui quá thốt lên, hóa ra thi sĩ chân quê Nguyễn Bính nhà mình đã vẽ một cảnh An Lạc theo câu chúc “Thân Tâm thường an lạc” như nhà Phật rồi, mà chắc chắn là Nguyễn Bính lúc viết câu thơ này chưa học Phật, đúng không?

*

Cái thú vị khi đọc Đỗ Hồng Ngọc làở những chỗ kết nối rất thi vị này, như bài Nhớ Tiếng Thu Giữa Boston cũng thế, cùng ông nghe Thu.

Và tôi bỗng nghe. Vâng, lúc đầu tôi chỉ định dòm thôi nhưng tôi bỗng nghe, không phải là tiếng quạkêu quang quác thảng thốt, cũng không phải tiếng chim cu gù rúc rúc quyến rũ mà là một thứ tiếng lạ, tôi chưa từng nghe bao giờ, tiếng thu.

…Mà cũng không phải để nghe tiếng, dù là tiếng lá rụng mà để nghe mùa.Cái tiếng mùa đi, mùa về, cái tiếng đời của mỗi chúng ta. Nóở trong không gian dằng dặc, đùng đục thênh thang kia, vàở cả trong thời gian hun hút, héo hon rơi rụng nọ, một thứ“tiếng động nào gõ nhịp không hay” (Trịnh Công Sơn) đóchăng. Tôi bước đi từng bước nhẹdưới những vòm cây và nghe cho hết tiếng thu về.

Người nghe sống hết cái xao xác của lá vàng để rồi chợt ra, Lưu Trọng Lư! Mới tận tường: Có phải cái tiếng thổn thức, cái tiếng rạo rực của ai kia đãmột hôm thu làm cho chàng thi sĩtrẻtuổi trở thành một con nai, lang thang dẫm ngập lá vàng, hẫng bước đi mà chẳng biết vềđâu, vì sao…(tr. 17, 18)

Đường tơtiếng mùa đi bỗng nối kết hai tâm hồn đồng điệu, hẳn nơi rừng thu kia Chàng Nai Lưu Trọng đang đứng chờđể “high five” với chàng thơ họĐỗ một buổi thiên thu nào đó… Có người đọc cảm mình như mình thế này thì, chẳng là khoái ru, nhà thơ Lưu ơi?

*

Ở bài Tôi Cũng Tin Vậy, Đọc bản thảo Thử Bút của bạn, nhớ lời bạn dặn viết gấp mấy dòng màđắm và sợ.Như ngọn lửa ngún trong một gốc cây to, chỉcần thổi vài hơi làđủ bùng cháy. Bùi nhùi đâu mà sẵn sàng đến vậy? (tr.34)

Người Đọc và Văn như bùi nhùi và lửa, vậy mới đã đời tan nát tri âm! Đây là câu tôi viết dưới bài ngay sau khi đọc. Và không hiểu sao hình ảnh chiếc lá bàng đỏ ở cuối hành lang của một phòng thí nghiệm , làm tôi buồn bã vì nỗi hiu quạnh của phận người đến vậy, mỉm cười màánh mắt vời vợi xa xăm. Như một khung cảnh nào Đỗ Hồng Ngọc cũng nắm được cái đoạn trường mà lôi ra.Để Làm Gì.

*

Cóđiều này, đối với Đỗ Hồng Ngọc, Nghe cảnh chứ không Nhìn. Cái nghe của tâm hồn mẫn cảm, khiến những nơi chốn ông đi qua, kể lại, nó như mang một hồn vía khác, đem lại cho người đọc một cảm xúc mới lạ về một cảnh mà họđã biết.

Khi muốn kể cho cô bạn Susan nghe về cái hay của bài thơ Quê Hương của Đỗ Trung Quân, ông bối rối, Làm sao cho cô nghe được mùi hương cau của những đêm trăng tỏ(tr.26), muốn vậy, chắc phải mời Susan về quê mùa hoa cau, cùng nhau, thật yên lặng, dưới trăng tỏ, nói khẽ với Susan, nghe hương cau đi, chắc trong không khí đó Susan sẽ tự biết lắng lòng bắt nhịp được hơi thở của trăng, của thềm quê, thì nghe ra hương cau…, khi Đỗ Hồng Ngọc dùng chữ Nghe, tôi cảm thấy, ông sống bằng cách tan mình vào. Phải chăng là vô ngã?

Lại có cả cái Nghe này, Và để nghe cái Tết tuổi thơ thấm vào trong da thịt, trong nhớ nhung… (Tr.157),thế chẳng phải là tan ra đó sao?

*

Và tâm thái, kệ nó.

Máy bay êm như ru, hay tôi êm như ru, không biết. Kệ nó…Thì ra tôi đang bay về phía mặt trời. Thời gian ngắn lại. Tôi vặn đồng hồ thêm hai tiếng theo thông báo. Không cảm thấy mình mất đi hay được thêm.Bởi, làm gì có thời gian?Thời gian chỉ                      đựơc làm bởi không gian đó thôi. (tr.35)

Đỗ Hồng Ngọc luôn tự tại thong dong bởi cách nhìn mọi điều, nó là như vậy, và dù tâm và cảnh quấn quít nhau (sao lạnh như tiền được!), nhưng không vướng bận, cái sống bây giờ vàởđây của người thiền ở cốt lõi ấy. Tôi rất tâm đắc Không cảm thấy mình mất đi hay được thêm…, vẫn là thời gian ngay lúc này với hít vào, thở ra. Người ghi nhận mọi thứchung quanh thật tha thiết sâu sắc mà bình thản.

…Một loài hoa lạ.Rực rỡ, choáng ngợp mà lạnh lùng. Chen chúc mà riêng tư. Rộn ràng mà kín đáo. Mong manh. Thanh thoát. Bỗng dưng tôi nhận ra tất cả cái đẹp của vô thường! Hoa có vẻnhư không cómùi hương, hay không cần có mùi hương, hay hương rất thoảng vì đã pha trong màu mây, màu nắng, màu gió để rải đều khắp các rặng núi xa kia? (tr.37)

Tha thiết vì đang sống trọn vẹn hết tâm ý với đối tượng, và trọn vẹn nên nhận ra cái đẹp của vô thường. Thế nên, để làm gì là một tâm thái an nhiên, vô ngã. Kệ nó, Để rồi ung dung tự tại cười nụ niết bàn?

*

Cách sống đón nhận mọi thứ theo tùy duyên của ông cũng là một yếu tố khiến sự đổi thay, không tác động lên tình cảm, ví dụ,

Ôi vô số là thuyền thúng.Trước kia gọi là thúng chai. Nay sơn xanh đỏ coi cũng ngộ…Có thể ghéthăm nhà xưa của ngoại, giờ con cháu toàn trồng thanh long, phá hết cả vườn trầu cau, dừa chuối, bưởi cam… xinh đẹp ngày xưa, lấp cả giếng nước thiệt là quá uổng. Bù lại, giờđi hái thanh long cũng vui…(tr.139) …Chiều tôi lang thang ra bờ hồ. Xuân Hương giờ đã đẹp. Chút lòe loẹt. Chút diêm dúa.Thôi kệ.Tôi cũng tìm ra được một góc hoang.Thịtại môn tiền náo/ Nguyệt lai môn hạnhàn phải không?(tr.166)

…Buổi tối, nhằm ngày 14 âm lịch, sông Hoài trở nên sống động diệu kỳ với muôn màu sắc hoa đăng đằm thắm rực rỡ, với những chiếc thuyền lang thang xuôi ngược làm ta có cảm giác nhưđược sống trong huyền sử nào xa… Một nhóm thanh niên đàn hát quyên tiền làm từ thiện, một nhóm chơi trò chơi…đập niêu ầm ĩ. Có một cái chợ đêm trời ơi bán đủ thứ trên đời, quà lưu niệm, thức ăn các thứ… hết sức náo nhiệt. (tr.148,149),

Có thấy một Đỗ Hồng Ngọc như thế không, một tâm thái xuề xòa không quan trọng điều chi, phải dùng chữđộ lượng thìđúng hơn, tôi nghĩ cóđược là do đã trải qua bao kinh nghiệm thăng trầm của cuộc đời. Này thuyền thúng xưa kia là thúng chai, nay quết xanh đỏ, ừ, thìcoi cũng ngộ, cái giếng nước ngày xưa để tưới trầu tưới cau bị lấp, thiệt quá uổng, giờ bù lại đi hái thanh long, ừ, thìcũng vui. Hồ Xuân Hương lòe loẹt diêm dúa, ừ thì, thôi kệ.Và hình như chẳng động tâm buồn giận khi bên cạnh cái không khí nhưhuyền sử nào xa là cái chợđêm huyên náo, làm như người có thể vừa nghe cái ầm ĩkia lẫn tiếng tơ trầm lặng huyền sử nọ. Mới thấu cái nhìn đơn thuần của kẻ tu thiền, mới hay cái đạt đạo của đối cảnh vô tâm.

*

Trở lại Chỉ Ngần Ấy Thôi, đoạn tả hoa đào ở bài này rất tuyệt, chỉ muốn trích hết ra đây…, nhưng tôi muốn nhấn một ý nhưđã nói ở trên, Nghe, Nghe tiếng thì thầm nhựa chảy trong cây,

Rồi từđồi hoa xa lạấy lại bỗng gần gũi thơ Phạm Thiên Thư, Đỗ Hồng Ngọc thuộc nhiều thơ và kinh Phật, bất cứ một cảnh, một tình huống nào cũng được gắn kết với Thơ, với Kinh, và cảm nhận qua trung gian của cảm xúc Thơ, nên văn đẹp, siêu thực, và nội dung chứa nhiều ẩn dụ sâu sắc.

Đường chim bay hay đường đèo dốc, đường cóánh trăng trong lòng đáhay đường có nắng hoa đào?… Trên bãi nắng sân trường, cỏ xanh mượt, những cô sinh viên Nhật nhỏ nhắn xinh đẹp ngồi nép từng cụm dưới hoa, vừa sưởi nắng vừa ăn trưa. Cótiếng chim ríu rít rụt rèđâu đó.Cầm lòng không đậu, tôi cũng ngả lưng vào một cội đào để nghe cho hết tiếng thì thầm. Rằng xưa cógãtừquan. Lên non tìm động hoa vàng ngủ say (Phạm Thiên Thư). Tôi không phải là gã từquan, cũng không tìm động để ngủ. Tôi thức, thao láo thức. Tôi thửnâng một chùm hoa đào trên lòng bàn tay. Hoa tíu tít bám vào từng kẽ ngón.Hoa bám rất chặt, như níu lấy khiến tôi cũng giựt mình. Bỗng dưng từng cánh hoa run rẩy. Càng lúc run càng mạnh. Ô hay, chẳng lẽ?À, mà không, gió! Xin chứng giám, gió!(tr.38) Tủm tỉm mà cười với tác giả, cái gìđó rất người mà gió làm cho nó thơ mộng quá trời!

Cũng trong trang này có câu, Rụng làđể rụng vậy thôi như nở là để nở vậy thôi. Trong lúc nói chuyện qua viber, anh em chúng tôi có bàn, hoa có bao giờ hỏi nở để làm gì không, tôi trả lời hoa nở không để làm gì, ai đó cứ việc tận hưởng phút giây ngắm, và anh bảo, vô tác vô nguyện. thanh tịnh bổn nhiên/ tùy chúng sinh tâm/ chu biến pháp giới/ tòng nghiệp phát hiện…

Chỉ Ngần Ấy Thôi là một trong những bài tôi thích nhất.

*

Trong không khí Trà Đạo Nhật (tr.47), người sống hết Một hồn Nhật lâng lâng của những kawaba­ta, akutagawa… xa lắc xa lơ, để rồi thấp thoáng ảo diệu lời kinh Ly tướng thì thấy…

Khi nâng chén ngang mày, nghe thoáng mùi hương trà xanh tỏa ngát. Nếm. Không chát đắng. Tan loãng. Nghe ngóng. Ngập ngừng. Bàn tay nâng niu, bàn tay che chở. Bàn tay nào của Đức Phật mà Tôn Ngộ Không cân đẩu vân ngàn lần không thể vượt qua? Chậm rãi, từtốn, cẩn trọng.Để nghe cho hết từng tác động thân hành. Nghi thức chỉ là tướng. Ly tướng thì thấy. Thấy gì? Thấp thoáng bóng Trương Chi dưới đáy ngọc hay Duy Ma Cật giữa trùng vây? 

*

Ở Lời Ngỏ,

Không ngờ mà khi thu xếp, gom góp lai rai như vậy, tôi đã không cầm được nước mắt khi đọc lại “nỗi cô đơn uy nghi” của Võ Hồng, “người ta ở bển” của Trần Vấn Lệ, “gọi chiều nước lên” của Trần Hoài Thư, và“lắm nỗi không đành” của Võ Tấn Khanh…

Rồi cũng không thể không cười một mình với “làm mới thơ”, với “vơ vẩn cùng Mây” với “hỏi không đáp, bèn…”

Rồi lại cũng không thể không trầm ngâm ngẫm ngợi với “để làm gì”, với “sáng, trưa, chiều, tối”… (tr.2)

Tôi cũng rưng nghẹn khi đọc, “Bụi chuối nhà ai bên đường đã mọc/ Chuối mẹ chuối con, trời hỡi quê nhà!” …(Thơ Trần Hoài Thư). Hai tiếng “trời hỡi” mới “cải lương” làm sao! Nhưng nó đã làm tôi muốn rơi nước mắt! Cải lương thật tuyệt vời! Nó đập vào tâm can mình khiến giờ nhìn bụi chuối, vẫn hàng ngày đứng bên kia đường, thấy nó như có gì khang khác, nó như ấm áp hơn, mẹ hiền hơn với những tán lá như cánh tay xòe ra ôm tiếng kêu tha thiết trời hỡi quê nhàc ủa đứa con xa xứ. Cảm ơn Nhà thơ Trần Hoài Thư. Người bạn anh đã nhắc…gió bấc đã hiu hiu rồi đó Thư ơi! 

*

Và cả nỗi cô đơn uy nghi kia, cụm từ này diễm lệ quá, nó gợi một cách chính xác hình ảnh lẫn nếp sống của nhà văn nổi tiếng Võ Hồng, ông đã sống và sáng tác trong côđộc, một sự cô độc bận rộn như ai đóđã nói, nên cô độc mà không cô đơn, bởi, Vẫn căn gác nhỏ với một phòng chừng hơn chục mét vuông, vừa là chỗ ăn chỗ ngủ, chỗ làm việc, tiếp khách… lổn nhổn những sách vở, thư từ, bản thảo… tràn lan trên bàn, trên nệm, dưới gầm. (tr.72) từđó mà bao áng văn chương cống hiến cho đời. Nên hiểu vì sao là cô đơn uy nghi. Người ở đó nhìn vào nỗi cô đơn của mình, nhìn vào những con chữ vây quanh mình, và uy nghi nhất, đó là không gian và thời gian người trở về với mình, cõi tâm thanh tịnh bao la, và tôi hiểu phút giây không cầm được nước mắt của Đỗ Hồng Ngọc khi về thu xếp lại, có lẽ lúc ấy ông đã chạm vào cái tơ mành uy nghi thiên thu của Võ Hồng,

*

Cả cái không thời gian không gian của hai chàng trai trẻ Đỗ Hồng Ngọc và Trần Vấn Lệ, cảm động đến ngây thơ, (hay ngược lại?), có lẽ nước mắt này là mừng cho cảm xúc mãi thanh tân của nhau chăng?…có một cô răng khểnh,/ bẻ gãy sừng trâu,/ rất xinh/ đúng là người xưa của bạn/ nàng nhìn ta/ đôi mắt long lanh/ khi ta nhắc tên,/ nàng ôm chầm lấy ta rồi kêu to/ ngoại ơi ngoại ơi…/ trần vấn lệ/ ổng dìa nè! (tr.99), có nghĩa là người ở bển cũng mãi hoài cố nhân! Thương hết biết…

Chẳng khác là bao tâm trạng, Có một bài thơ không ngày tháng của Lữ Quỳnh như một nỗi hồi sinh, một lần cứu rỗi:… Tóc trắng mây bay lòng mới lớn/ Từ em anh chợt tuổi hai mươi (thơ Lữ Quỳnh) (tr.102), làm tôi nhớ Quang Dũng, em mãi là hai mươi tuổi/ ta mãi là mùa xanh xưa…Những tình nhân đời đời hai mươi tuổi ơi, Tình yêu vô hiệu hóa Thời Gian đó chăng.

Rồi Lắm Nỗi Không Đành kia khiến, thưa người lệ chẳng đặng đừng nên rơi…(NTKM), vậy đừng cho mình là mít ướt nữa nhe thiền huynh.

Tôi nghe trên những con đường trẻ trung mà những người bạn này đã đi qua, giờ này nó đang, Đường nhớ chân từng lớp cuội rang sầu (thơ Võ Tấn Khanh) (tr.113)…, Còn mấy ai trở về để được bâng khuâng tâm trạng, hoa đào năm ngoái…?

Phải nói là những trang viết về bằng hữu của Đỗ Hồng Ngọc, vừa được đọc những thơ hay, vừa cho thấy được một tình đáng quý ở đời, mà người xưa gọi là đạo, Mây phản chiếu ánh sáng mặt trời mà thành ráng, suối treo vào bờ đá mà thành thác. Cũng là một vật nhưng nương vào vật khác thì tên gọi cũng nhân đó mà khác đi. Đạo bạn bè sở dĩ quý là vì vậy. (Trương Trào, Huỳnh Ngọc Chiến dịch).

*

Và.Đồng điệu làm sao:

Nhiều người sợ rằng đến một lúc nào đóngười ta sẽ không còn ai đọc sách in trên giấy nữa, vì đã có CDRom, Ebook… tiện lợi hơn nhiều!

Thực ra, với những người yêu sách, mê sách, thì không có lý do gì để phải…hoảng sợ! Bởi vì sách không chỉ để đọc mà còn để nhìn, để ngắm, để ngửi, để nghe…(tr.40)

Ngay đầu bài tôi đã nói rồi, việc đầu tiên tôi nhận bản thảo là in nó ra để đọc, để nhìn chữ trên giấy. Và cũng giống nhau (có khác chút xíu, bút chì tôi gọt nhọn, không giắt mép tai).

…khi đọc, thường có cây viết chì cùn, giắt ở mép tai, thỉnh thoảng đánh dấu chỗ này chỗ nọ, ghi chú điều này điều khác. Tóm lại, người mê sách đã biến cuốn sách đâu đâu thành thân quen, gần gũi, riêng tư của mình… Vài chục năm sau, một hôm dọn dẹp nhà cửa, tình cờ đọc lại những dòng xưa, nét xưa… không khỏi ngậm ngùi!

Nên tôi đang rất mong cầm được tập sách Để Làm Gì thơm mùi giấy xưa để nhìn, để ngắm, để ngửi, để nghe. Để làm gì, tôi e rằng mình cũng sẽ như vậy, để còn sống được chút ngậm ngùi khi một buổi, một mình thu xếp lại, gặp bạn sách xưa mà rơi lệ…

Santa Ana, ngày mưa đầu mùa xuân, 12.3.2020

ntkm

 

VII/ PHẠM CHU SA 

ĐỖ HỒNG NGỌC: BÁC SĨ VIẾT TỪ TRÁI TIM 

Mười năm qua, sách của Đỗ Hồng Ngọc luôn nằm trong danh mục bán chạy nhất, được tái bản nhiều lần, được trưng bày trên các kệ trang trọng nhất trong các nhà sách. Đúng là một hiện tượng. 

Sách của Đỗ Hồng Ngọc không phải là những tiểu thuyết diễm tình, éo le, gay cấn, cũng chẳng phải là sách nhất thời “ăn theo” một sự kiện nào đó, hay những sách dạy làm giàu thời thượng… Đó là những tập tản văn về một nếp sống an lạc, về thiền như Nghĩ từ trái tim, Như thị, Cõi Phật đâu xa, Cành mai sân trước… Các tập tùy bút về sức khỏe viết cho người cao tuổi như Gió heo may đã về, Già ơi chào bạn, Thiền và sức khỏe, Nếp sống an lạc… Và cả những ký sự nhân vật như Những người trẻ lạ lùng, Nhớ đến một người, Một hôm gặp lại… viết về những người quen thân với tác giả, trong đó có nhiều trí thức, văn nghệ sĩ nổi tiếng. 

Cõi thơ của Đỗ Hồng Ngọc 

Nhiều người nghĩ Đỗ Hồng Ngọc là một bác sĩ làm thơ, viết văn và gọi anh là bác sĩ – nhà văn. Nhưng tôi vẫn thích gọi anh là thi sĩ – bác sĩ bởi Đỗ Hồng Ngọc có cốt cách thi sĩ trong con người bác sĩ.Anh làm thơ và có thơ in từ thời sinh viên – tập Tình người (năm 1967), ký bút hiệu Đỗ Nghê. Mấy năm sau khi ra trường là Thơ Đỗ Nghê (năm 1973). Tập thơ đã gây được tiếng vang trong văn đàn bấy giờ. Sau này anh trích một số bài trong hai tập thơ trên rồi in lại trong các tập thơ Giữa hoàng hôn xưa (năm 1993) và Thư cho bé sơ sinh và những bài thơ khác (năm 2010).

Bài thơ làm tựa chính Thư cho bé sơ sinh… Đỗ Hồng Ngọc viết năm 1965, khi còn là sinh viên y thực tập tại BV Từ Dũ: Khi em cất tiếng khóc chào đời/ Anh đại diện đời chào em bằng nụ cười/ Lớn lên nhớ đừng hỏi tại sao kẻ cười người khóc/ Trong cùng một cảnh ngộ nghe em…/ Khi anh cắt rún cho em/Anh đã xin lỗi chân thành rồi đó nhé/ Vì từ nay em đã phải cô đơn/ Em đã phải xa địa đàng lòng mẹ… Thôi trân trọng chào em/ Mời em nhập cuộc/ Chúng mình cùng chung/ Số phận con người. 

Tôi nhớ hình như khoảng sau ngày ký Hiệp định Paris (năm 1973) ít lâu, anh gửi tặng tôi tập Thơ Đỗ Nghê mới xuất bản. Tập thơ in ronéo nhưng trình bày khátrang nhã. Thơ Đỗ Nghê bàng bạc khát vọng hòa bình và cả nỗi ám ảnh của chiến tranh, đã gây được tiếng vang trong văn đàn bấy giờ. Anh ru con: Ngủ đi con ngủ đi con/ Rồi ngày mai khôn lớn/ Cầm súng với cầm gươm. Và anh ru vợ (hay người yêu?): Ngủ đi cưng, ngủ đi cưng/ Kề tai đây anh bảo/ Coi như mình chẳng có quê hương. 

Năm 1997 Đỗ Hồng Ngọc ra mắt tập thơ Vòng quanh, một “bút ký thơ” kèm những ký họa rất thú vị của chính tác giả vẽ lại những nơi chốn anh đã đi qua: Huế, Hà Nội, Boston, Montreal, Bắc Kinh… nhưng có lẽ ấn tượng nhất với thi sĩ là Paris. Một tâm hồn thi sĩ như Đỗ Hồng Ngọc mà lạc lối tới Paris giống như anh “trở về”. Vòng quanh ra đời sau chuyến đi Paris năm 1997. Thơ viết về Paris lan man gần phân nửa tập thơ: Paris với anh lạ mà không lạ/ Có cái gì đó rất thân quen/ Như sáng nay thăm lại tháp Eiffel… (Paris tháng Sáu). Hoặc: Ở Paris có thể/ Vào một quán cà phê quen/ Từ ba trăm năm cũ/ Làm một ly đen/ Với Voltaire, Bonapartre/ Hoặc Benjamin Franklin/ Khề khà cùng Jean Paul Sartre… (Café). 

Và cõi người của một bác sĩ 

Tác phẩm đầu tay viết về y học Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò anh ký tên thật bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, xuất bản năm 1972. Tôi nhớ lần đầu gặp Đỗ Hồng Ngọc khi anh mang tặng tôi cuốn sách này, nhờ tôi giới thiệu trên tuần báo Tuổi Ngọc (bấy giờ tôi là thư ký tòa soạn). Tuổi Ngọc là “tuần báo của tuổi mới lớn”, độc giả của báo cũng là đối tượng độc giả của cuốn sách. Tòa soạn là căn gác xép chật chội của nhà in nên anh và tôi ngồi ở quán cà phê trong con hẻm bên cạnh. Đỗ Hồng Ngọc là một người lịch thiệp, cử chỉ từ tốn, nói năng nhẹ nhàng, dễ gây cảm tình với người đối thoại. 

Hai năm sau Đỗ Hồng Ngọc viết cuốn y học thứ hai Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng. Cả hai cuốn sách viết về y học thường thức nói trên tái bản không biết bao nhiêu lần bởi cứ lứa tuổi học trò này lớn lên lại có lứa khác tìm đọc. Những bà mẹ này sinh con đầu lòng rồi lại có những bà mẹ sinh con đầu lòng khác. Những lời khuyên nhẹ nhàng cho lứa tuổi học trò hay các bà mẹ trẻ lần đầu sinh con với văn phong dí dỏm của Đỗ Hồng Ngọc rất hấp dẫn người đọc. Kể cả đến nay, sau 45 năm, hai tập sách y học thường thức ấy vẫn tiếp tục tái bản. Thế mới thấy cái duyên của BS Đỗ Hồng Ngọc. Học giả Nguyễn Hiến Lê khi viết tựa cho cuốn Những tật bệnh thông thường… đã viết: “Một bác sĩ mà là một thi sĩ luôn làm cho chúng ta ngạc nhiên một cách thú vị”. 

Năm 1997, Đỗ Hồng Ngọc cho ra đời một tập sách y học thường thức nhẹ nhàng Gió heo may đã về. Tác giả mượn một câu trong ca khúc Nhìn những mùa thu đi của Trịnh Công Sơn: “Gió heo may đã về/ Chiều tím loang vỉa hè/ Rồi mùa thu bay đi…” làm tựa tập tản văn viết cho lứa tuổi chớm già. Chỉ trong năm 1997 Gió heo may đã về đã tái bản đến ba lần, đủthấy sức hút của tác phẩm. Mặc dù đề tài viết về sức khỏe của tuổi già đã có nhiều bác sĩ tên tuổi viết như BS Nguyễn Ý Đức, một chuyên gia về lão khoa nổi tiếng ở Mỹ, hoặc GS Ngô Gia Hy đã viết nhiều cuốn về tuổi già. Thế nhưng Gió heo may đã về được viết dưới dạng tùy bút nhẹ nhàng như những lời tâm sự, người đọc dù khó tính mấy cũng sẽ mỉm cười thích thú khi đọc. Tác giả cũng khá bất ngờ khi tập tản văn nhận được sự đón nhận nhiệt tình của đông đảo bạn đọc – có lẽ hầu hết ở lứa tuổi chớm già như anh. 

Các tập ký sự nhân vật: Những người trẻ lạ lùng, Nhớ đến một người… Đỗ Hồng Ngọc viết về những cuộc gặp gỡ, những cuộc chia tay, những cuộc hạnh ngộ diệu kỳ. Anh nhớ những gương mặt, những cá tính, những tài năng không thể nào quên, như học giả Nguyễn Hiến Lê, một tấm gương kiên nhẫn, có ảnh hưởng không nhỏ trong cuộc đời anh. Hay bác sĩ – họa sĩ Dương Cẩm Chương, một bậc trưởng thượng cả trong y khoa và hội họa Việt Nam, hoặc nhạc sĩ Trần Văn Khê, nhà văn Võ Hồng, nhà văn Võ Phiến, bác sĩ – nhà văn hóa Nguyễn Khắc Viện… 

“Trái tim có cách nghĩ riêng của mình” 

Từ những tập sách viết về y học với một giọng văn nhẹ nhàng, các ký sự nhân vật như những lời tình tự đến những bài thơ trăn trở một thời tuổi trẻ hay những câu thơ lãng mạn ở tuổi chớm già, hình như Đỗ Hồng Ngọc không viết từ những nghĩ suy bình thường mà viết từ trái tim, dù trái tim không phải để suy nghĩ mà để yêu thương. Như trong tập Nghĩ từ trái tim (viết về Tâm Kinh Bát Nhã), Đỗ Hồng Ngọc đã viết “trái tim có cách nghĩ riêng của mình mà nhiều khi khối óc không sao hiểu được”. 

Đỗ Hồng Ngọc kể lúc anh dưỡng bệnh ở BV An Bình cuối năm 1997 sau khi mổ sọnão ở BV 115, anh đọc được Trái tim hiểu biết của thiền sư Nhất Hạnh viết về Bát Nhã ba-la-mật-đa Tâm Kinh do một người bạn cho mượn. Anh đọc và nghiền ngẫm. Trong lời dẫn nhập sách, Đỗ Hồng Ngọc viết: “Nghiền ngẫm rồi ngập ngừng. Rồi bức xúc, phải viết ra cho khỏi quên, để lâu lâu còn coi lại một mình. Ba năm nghiền ngẫm, sáu tháng viết và hơn hai năm ngại ngần, thỉnh thoảng đọc và sửa, nhờ vài bạn thâm giao chỉ thêm cho, rồi tìm tòi, tham khảo, loay hoay…”. Mãi đến sáu năm sau, cuối năm 2003, tập Nghĩ từ trái tim mới được ấn hành. Anh giới thiệu và giảng giải Tâm Kinh theo cách của anh, một bác sĩ, không ẩn dụ mà là những ví dụ, những từ ngữ dễ hiểu, dễ đi vào tâm thức người đọc. 

Nghiền ngẫm Tâm Kinh để chữa bệnh cho chính mình 

Đỗ Hồng Ngọc tâm sự: “Tôi tự nhiên mà khoái Tâm Kinh. Có thể là có duyên sao đó. Sau cơn mê, mổ xong tôi tỉnh dậy. Cười một mình.Ngu ơi là ngu. Đáng đời ơi là đáng đời.Rồi tôi lạ lẫm nhìn nắng chiếu qua khung cửa.Lạ lẫm nghe tiếng chim hót. Lạ lẫm thấy lá thông lắc lư trong gió…”. 

Đỗ Hồng Ngọc bảo anh viết những cảm nghĩ trong khi nghiền ngẫm Tâm Kinh cũng là để làm một phương thuốc chữa bệnh cho chính mình và chia sẻ cùng vài bạn bè thân hữu “đồng bệnh tương lân”. Và kể từ sau Nghĩ từ trái tim, những tập tản văn y học, tùy bút thiền, bút ký thơ, ký sự nhân vật của Đỗ Hồng Ngọc với văn phong thanh thoát, đầy chất thơ, nhẹ nhàng như gió thoảng liên tiếp được ấn hành rồi tái bản, tái bản.

Phạm Chu Sa

(Cập nhật ngày 09 tháng Tám, 2021,

[Nguồn https://vanvn.vn/do-hong-ngoc-bac-si-viet-tu-trai-tim/]

 

Thay lời kết:

Thưa bạn,

Với vài nhận định tiêu biểu của các tác giả viết về tác phẩm của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc (trong vòng năm mươi năm qua)mà tôi vừa chắt mót được, không có mục đích gì khác hơn là tôi xin mượn nó làm món quà mọn mừng sinh nhựt thứ 81 (tháng 8.2021) của ông, một tác giả mà lúc nào tôi cũng cố gắng học hỏi ở ông về cái đức giản dị và hiền hòa trong các trang sách ấy; cho dù ông viết về bất cứ lãnh vực nào, và bất cứ đề tài nào…, các trang sách của ông luôn luôn bàng bạc một tấm lòng!

 

Hai Trầu Lương Thư Trung

Houston, ngày 21 tháng 08 năm 2021.

 

————–

 

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Phạm Chu Sa: “Đỗ Hồng Ngọc: Bác sĩ viết từ trái tim”

11/08/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

 

Đỗ Hồng Ngọc: Bác sĩ viết từ trái tim

(https://vanvn.vn/do-hong-ngoc-bac-si-viet-tu-trai-tim/)

CẬP NHẬT NGÀY: 9 THÁNG TÁM, 2021 LÚC 16:43

Vanvn- Đỗ Hồng Ngọc tâm sự: “Tôi tự nhiên mà khoái Tâm Kinh. Có thể là có duyên sao đó. Sau cơn mê, mổ xong tôi tỉnh dậy. Cười một mình. Ngu ơi là ngu. Đáng đời ơi là đáng đời. Rồi tôi lạ lẫm nhìn nắng chiếu qua khung cửa. Lạ lẫm nghe tiếng chim hót. Lạ lẫm thấy lá thông lắc lư trong gió…”.

Thi sĩ – bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Mười năm qua, sách của Đỗ Hồng Ngọc luôn nằm trong danh mục bán chạy nhất, được tái bản nhiều lần, được trưng bày trên các kệ trang trọng nhất trong các nhà sách. Đúng là một hiện tượng.

Sách của Đỗ Hồng Ngọc không phải là những tiểu thuyết diễm tình, éo le, gay cấn, cũng chẳng phải là sách nhất thời “ăn theo” một sự kiện nào đó, hay những sách dạy làm giàu thời thượng… Đó là những tập tản văn về một nếp sống an lạc, về thiền như Nghĩ từ trái tim, Như thị, Cõi Phật đâu xa, Cành mai sân trước… Các tập tùy bút về sức khỏe viết cho người cao tuổi như Gió heo may đã về, Già ơi chào bạn, Thiền và sức khỏe, Nếp sống an lạc… Và cả những ký sự nhân vật như Những người trẻ lạ lùng, Nhớ đến một người, Một hôm gặp lại... viết về những người quen thân với tác giả, trong đó có nhiều trí thức, văn nghệ sĩ nổi tiếng.

Cõi thơ của Đỗ Hồng Ngọc

Nhiều người nghĩ Đỗ Hồng Ngọc là một bác sĩ làm thơ, viết văn và gọi anh là bác sĩ – nhà văn. Nhưng tôi vẫn thích gọi anh là thi sĩ – bác sĩ bởi Đỗ Hồng Ngọc có cốt cách thi sĩ trong con người bác sĩ. Anh làm thơ và có thơ in từ thời sinh viên – tập Tình người (năm 1967), ký bút hiệu Đỗ Nghê. Mấy năm sau khi ra trường là Thơ Đỗ Nghê (năm 1973). Tập thơ đã gây được tiếng vang trong văn đàn bấy giờ. Sau này anh trích một số bài trong hai tập thơ trên rồi in lại trong các tập thơ Giữa hoàng hôn xưa (năm 1993) và Thư cho bé sơ sinh và những bài thơ khác (năm 2010).

Bài thơ làm tựa chính Thư cho bé sơ sinh… Đỗ Hồng Ngọc viết năm 1965, khi còn là sinh viên y thực tập tại BV Từ Dũ: Khi em cất tiếng khóc chào đời/ Anh đại diện đời chào em bằng nụ cười/ Lớn lên nhớ đừng hỏi tại sao kẻ cười người khóc/ Trong cùng một cảnh ngộ nghe em…/ Khi anh cắt rún cho em/Anh đã xin lỗi chân thành rồi đó nhé/ Vì từ nay em đã phải cô đơn/ Em đã phải xa địa đàng lòng mẹ… Thôi trân trọng chào em/ Mời em nhập cuộc/ Chúng mình cùng chung/ Số phận con người.

Tôi nhớ hình như khoảng sau ngày ký Hiệp định Paris (năm 1973) ít lâu, anh gửi tặng tôi tập Thơ Đỗ Nghê mới xuất bản. Tập thơ in ronéo nhưng trình bày khátrang nhã. Thơ Đỗ Nghê bàng bạc khát vọng hòa bình và cả nỗi ám ảnh của chiến tranh, đã gây được tiếng vang trong văn đàn bấy giờ. Anh ru con: Ngủ đi con ngủ đi con/ Rồi ngày mai khôn lớn/ Cầm súng với cầm gươm. Và anh ru vợ (hay người yêu?): Ngủ đi cưng, ngủ đi cưng/ Kề tai đây anh bảo/ Coi như mình chẳng có quê hương.

Năm 1997 Đỗ Hồng Ngọc ra mắt tập thơ Vòng quanh, một “bút ký thơ” kèm những ký họa rất thú vị của chính tác giả vẽ lại những nơi chốn anh đã đi qua: Huế, Hà Nội, Boston, Montreal, Bắc Kinh… nhưng có lẽ ấn tượng nhất với thi sĩ là Paris. Một tâm hồn thi sĩ như Đỗ Hồng Ngọc mà lạc lối tới Paris giống như anh “trở về”. Vòng quanh ra đời sau chuyến đi Paris năm 1997. Thơ viết về Paris lan man gần phân nửa tập thơ: Paris với anh lạ mà không lạ/ Có cái gì đó rất thân quen/ Như sáng nay thăm lại tháp Eiffel… (Paris tháng Sáu). Hoặc: Ở Paris có thể/ Vào một quán cà phê quen/ Từ ba trăm năm cũ/ Làm một ly đen/ Với Voltaire, Bonapartre/ Hoặc Benjamin Franklin/ Khề khà cùng Jean Paul Sartre… (Café).

Thi sĩ – bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc trong một buổi giao lưu sách

Và cõi người của một bác sĩ

Tác phẩm đầu tay viết về y học Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò anh ký tên thật bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, xuất bản năm 1972. Tôi nhớ lần đầu gặp Đỗ Hồng Ngọc khi anh mang tặng tôi cuốn sách này, nhờ tôi giới thiệu trên tuần báo Tuổi Ngọc (bấy giờ tôi là thư ký tòa soạn). Tuổi Ngọc là “tuần báo của tuổi mới lớn”, độc giả của báo cũng là đối tượng độc giả của cuốn sách. Tòa soạn là căn gác xép chật chội của nhà in nên anh và tôi ngồi ở quán cà phê trong con hẻm bên cạnh. Đỗ Hồng Ngọc là một người lịch thiệp, cử chỉ từ tốn, nói năng nhẹ nhàng, dễ gây cảm tình với người đối thoại.

Hai năm sau Đỗ Hồng Ngọc viết cuốn y học thứ hai Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng. Cả hai cuốn sách viết về y học thường thức nói trên tái bản không biết bao nhiêu lần bởi cứ lứa tuổi học trò này lớn lên lại có lứa khác tìm đọc. Những bà mẹ này sinh con đầu lòng rồi lại có những bà mẹ sinh con đầu lòng khác. Những lời khuyên nhẹ nhàng cho lứa tuổi học trò hay các bà mẹ trẻ lần đầu sinh con với văn phong dí dỏm của Đỗ Hồng Ngọc rất hấp dẫn người đọc. Kể cả đến nay, sau 45 năm, hai tập sách y học thường thức ấy vẫn tiếp tục tái bản. Thế mới thấy cái duyên của BS Đỗ Hồng Ngọc. Học giả Nguyễn Hiến Lê khi viết tựa cho cuốn Những tật bệnh thông thường… đã viết: “Một bác sĩ mà là một thi sĩ luôn làm cho chúng ta ngạc nhiên một cách thú vị”.

Năm 1997, Đỗ Hồng Ngọc cho ra đời một tập sách y học thường thức nhẹ nhàng Gió heo may đã về. Tác giả mượn một câu trong ca khúc Nhìn những mùa thu đi của Trịnh Công Sơn: “Gió heo may đã về/ Chiều tím loang vỉa hè/ Rồi mùa thu bay đi…” làm tựa tập tản văn viết cho lứa tuổi chớm già. Chỉ trong năm 1997 Gió heo may đã về đã tái bản đến ba lần, đủthấy sức hút của tác phẩm. Mặc dù đề tài viết về sức khỏe của tuổi già đã có nhiều bác sĩ tên tuổi viết như BS Nguyễn Ý Đức, một chuyên gia về lão khoa nổi tiếng ở Mỹ, hoặc GS Ngô Gia Hy đã viết nhiều cuốn về tuổi già. Thế nhưng Gió heo may đã về được viết dưới dạng tùy bút nhẹ nhàng như những lời tâm sự, người đọc dù khó tính mấy cũng sẽ mỉm cười thích thú khi đọc. Tác giả cũng khá bất ngờ khi tập tản văn nhận được sự đón nhận nhiệt tình của đông đảo bạn đọc – có lẽ hầu hết ở lứa tuổi chớm già như anh.

Các tập ký sự nhân vật: Những người trẻ lạ lùng, Nhớ đến một người… Đỗ Hồng Ngọc viết về những cuộc gặp gỡ, những cuộc chia tay, những cuộc hạnh ngộ diệu kỳ. Anh nhớ những gương mặt, những cá tính, những tài năng không thể nào quên, như học giả Nguyễn Hiến Lê, một tấm gương kiên nhẫn, có ảnh hưởng không nhỏ trong cuộc đời anh. Hay bác sĩ – họa sĩ Dương Cẩm Chương, một bậc trưởng thượng cả trong y khoa và hội họa Việt Nam, hoặc nhạc sĩ Trần Văn Khê, nhà văn Võ Hồng, nhà văn Võ Phiến, bác sĩ – nhà văn hóa Nguyễn Khắc Viện…

“Trái tim có cách nghĩ riêng của mình”

Từ những tập sách viết về y học với một giọng văn nhẹ nhàng, các ký sự nhân vật như những lời tình tự đến những bài thơ trăn trở một thời tuổi trẻ hay những câu thơ lãng mạn ở tuổi chớm già, hình như Đỗ Hồng Ngọc không viết từ những nghĩ suy bình thường mà viết từ trái tim, dù trái tim không phải để suy nghĩ mà để yêu thương. Như trong tập Nghĩ từ trái tim (viết về Tâm Kinh Bát Nhã), Đỗ Hồng Ngọc đã viết “trái tim có cách nghĩ riêng của mình mà nhiều khi khối óc không sao hiểu được”.

Đỗ Hồng Ngọc kể lúc anh dưỡng bệnh ở BV An Bình cuối năm 1997 sau khi mổ sọnão ở BV 115, anh đọc được Trái tim hiểu biết của thiền sư Nhất Hạnh viết về Bát Nhã ba-la-mật-đa Tâm Kinh do một người bạn cho mượn. Anh đọc và nghiền ngẫm. Trong lời dẫn nhập sách, Đỗ Hồng Ngọc viết: “Nghiền ngẫm rồi ngập ngừng. Rồi bức xúc, phải viết ra cho khỏi quên, để lâu lâu còn coi lại một mình. Ba năm nghiền ngẫm, sáu tháng viết và hơn hai năm ngại ngần, thỉnh thoảng đọc và sửa, nhờ vài bạn thâm giao chỉ thêm cho, rồi tìm tòi, tham khảo, loay hoay…”. Mãi đến sáu năm sau, cuối năm 2003, tập Nghĩ từ trái tim mới được ấn hành. Anh giới thiệu và giảng giải Tâm Kinh theo cách của anh, một bác sĩ, không ẩn dụ mà là những ví dụ, những từ ngữ dễ hiểu, dễ đi vào tâm thức người đọc.

Nghiền ngẫm Tâm Kinh để chữa bệnh cho chính mình

Đỗ Hồng Ngọc tâm sự: “Tôi tự nhiên mà khoái Tâm Kinh. Có thể là có duyên sao đó. Sau cơn mê, mổ xong tôi tỉnh dậy. Cười một mình. Ngu ơi là ngu. Đáng đời ơi là đáng đời. Rồi tôi lạ lẫm nhìn nắng chiếu qua khung cửa. Lạ lẫm nghe tiếng chim hót. Lạ lẫm thấy lá thông lắc lư trong gió…”.

Đỗ Hồng Ngọc bảo anh viết những cảm nghĩ trong khi nghiền ngẫm Tâm Kinh cũng là để làm một phương thuốc chữa bệnh cho chính mình và chia sẻ cùng vài bạn bè thân hữu “đồng bệnh tương lân”. Và kể từ sau Nghĩ từ trái tim, những tập tản văn y học, tùy bút thiền, bút ký thơ, ký sự nhân vật của Đỗ Hồng Ngọc với văn phong thanh thoát, đầy chất thơ, nhẹ nhàng như gió thoảng liên tiếp được ấn hành rồi tái bản, tái bản.

PHẠM CHU SA

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Những người trẻ lạ lùng, Vài đoạn hồi ký

Nguyễn Thị Khánh Minh: “REO TUỔI”, thư gởi Nguyệt Mai

05/08/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc 1 Comment

 

Ghi chú: Tháng Sinh Nhựt

(…) ai dè sáng nay 1/8, đã thấy trên trang nhà tranthinguyetmai  dọn hẳn một bữa tiệc sinh nhật thật hoành tráng đầy bất ngờ… với bao nhiêu là quà quý từ bạn bè anh em tặng Đỗ Hồng Ngọc “bát tuần”…!

(https://tranthinguyetmai.wordpress.com/2021/08/01/chuc-mung-sinh-nhat-bac-si-nha-tho-do-hong-ngoc/)

Và trong những món quà quý đó, có món “thư gởi Nguyệt Mai” của nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh…

ĐHN

 

Thư gởi Nguyệt Mai

“REO TUỔI”

 

NGUYỄN THỊ KHÁNH MINH

Nguyệt Mai gửi e-mail bảo, anh Ngọc đang ở sinh nhật 80. Ở là cư ngụ hả Mai. Ở là lúc, thời gian, phải không Mai. Em nói hay thật đấy, tôi đang hình dung những bước chân tuổi 80 hôn trên đất (sư Nhất Hạnh bảo thiền hành với những bước chân như là hôn mặt đất vậy), tôi đang tưởng thời gian đang bắt tay tuổi 80. Mà ai bắt tay ai trước, với bản chất như thế thì chắc là anh Ngọc nhà mình rồi, Mai đồng ý không? Bỗng nhiên tôi mở lại những hình của anh Đỗ Hồng Ngọc, hầu hết là anh cười, mà cười tủm tỉm, mỉm cười. Khi tôi đọc văn thơ của anh lần nào cũng thầm nói, anh Ngọc là vậy, cứ thế mà tủm tỉm đi tủm tỉm về tủm tỉm tới. Hình ảnh đúng như bao người nhận xét, hòa nhã, thong dong, từ từ, nghĩa là tất cả những hình ảnh nào mang tính dừng lại, thì là anh đấy! Anh là mỉm cười, là tủm tỉm, là dừng lại. Tóm lại, là tự tại. Khiến tôi nghĩ đến câu hỏi của Vô Tận Ý bồ tát: “Thế Tôn, Quán Thế Âm dạo đi trong cõi ta bà như thế nào?” Tôi thích nghĩa dạo chơi này lắm, anh Đỗ Hồng Ngọc qua mấy chục pho sách tung tăng cõi bụi độ thoát bao tâm tư thì quả là dạo chơi như thế đúng không hả Nguyệt Mai?

Trong sách Biết Ơn Mình, anh viết,

Xây dựng hình ảnh về chính mình (self-image) rất quan trọng, nếu đó là một hình ảnh tích cực nó sẽ giúp cho mình tự tin hơn và từ đó ảnh hưởng đến “môi trường” xung quanh; còn nếu là một hình ảnh tiêu cực thì sẽ rất không hay.

Tôi nhớ đã nghe trong một pháp thoại của thiền sư Thích Nhất Hạnh có nói, người đang mỉm cười là tỉnh thức, là chánh niệm, là lúc vững chãi thảnh thơi. Phải chăng anh Đỗ Hồng Ngọc luôn tự tại mỉm cười nên chi ba-con-nợ tham sân si kia chẳng có cửa mà vào? Thế có phải là Niết Bàn Lạc Trú như sư Nhất Hạnh giảng? Hình ảnh ấy đã để lại những tình cảm tích cực nơi người có dịp tiếp xúc anh hay tiếp xúc anh qua chữ nghĩa. Hình ảnh đó đối với riêng tôi như một nhắc nhở khi tôi lậm vào những thứ buồn bã linh tinh về cuộc sống về bịnh tật.

Nguyệt Mai bảo, anh Ngọc đang ở sinh nhật 80. Thì bây giờ chỉ nói cái gì liên quan đến cái tuổi thôi nhé Mai, mà nói về phạm trù này thì hầu như chiếm hết trong danh mục mấy chục cuốn sách của anh Đỗ Hồng Ngọc đấy, dám không! Tám mươi tuổi, nhìn dáng vẻ mặt anh thì thấy, ừ 80 thật (dạ thưa quả-táo-nhăn-nheo, can chi một chút eo sèo thời gian!), nhưng nghe anh nói chuyện, đọc văn anh thì ai cũng thốt lên, sao trẻ trung thế! Tôi nghĩ anh được phong thái như thế vì anh chấp nhận tuổi tác vui vẻ quá, đến tuổi nào thì reo tuổi ấy, đây là cách mà chị em mình nên bắt chước đó, Kim Quy, Duyên, Mai, Thu Vàng, Thanh Lương ơi, cái màu tóc bạc, cái da cổ nhăn nheo sẽ làm người ta quên ngó tới khi tiếp xúc với một ánh mắt ấm áp, một nụ cười thân thiện -nếu không tủm tỉm được thì cứ mở hết diện tích của cái miệng xinh, cũng tốt lắm-, khi nào đủ nội lực thì tức khắc tủm tỉm được thôi.

Mà anh đã vào mùa sinh nhật 80 ư anh Ngọc? Nhưng dường như ngày nào cũng là sinh nhật anh mà, nhớ câu thơ này không, Nguyệt Mai, khi em tổ chức sinh nhật anh Ngọc trên không gian ảo nên thơ của Những Tình Thân Ái?

 Anh không có ngày sinh nhật/ Nên mỗi ngày/ Là sinh nhật của anh… (Sinh Nhật)

… Mỗi ngày ta rơi rụng/ Mỗi ngày ta phục sinh (Vô Thường)

Ngày nào mở mắt ra cũng nhủ cười: -hôm nay sinh nhật mình- nên chi anh Đỗ Hồng Ngọc viết cả một loạt sách về cái nhân sinh quan reo tuổi -một võ công thâm hậu đủ sức mạnh để xoay sở với thời gian-. Đôi khi tôi nhìn những vết nhăn, vướng một bịnh nào đó của tuổi tác tôi cứ bị lôi về những kỷ niệm, làm sao tu để có được cái tuệ giác vô thường hầu ứng xử với những nỗi buồn ấy…

Ở đâu đó anh nói, đời người có ba hồi: Hồi trẻ, Hồi trung niên và Hồi đó. Cái Hồi đó này bao trùm cả ba hồi. Như giờ ai hỏi tôi đang ở hồi nào, chắc tôi trả lời, hồi đó, đúng lắm, vì ngay phút trả lời thì đã thành hồi đó rồi, nhưng không phải là hồi xưa đâu, là cái đã, vừa qua mà cứ lung linh rung rinh hiện tại. Thế thì em có hiểu thêm cái nghĩa của tủm tỉm không vậy, Nguyệt Mai? Anh lại bảo: … với tôi, tôi không hề biết mình đã có tuổi, tích tuổi, lúc nào tôi cũng thấy tôi đã già, và lúc nào tôi cũng thấy tôi còn trẻ (Thư Gửi Người Bạn Nhật Chưa Quen Biết). Bởi vậy mà tới tuổi nào anh cũng có vô số chuyện để đối thoại với chúng, và lúc nào cũng như đứng trước tấm gương tuổi mà hỏi, tôi bây giờ khác gì tôi xưa (Về Thu Xếp Lại), rồi tủm tỉm tay bắt mặt mừng với nó. Hẳn là thời gian cũng vui mừng khi có người bạn đồng điệu ngang cơ như thế. Luôn nhìn mình hỏi mình để thấy được từng lúc rơi rụng, phục sinh thì sao mà không vui vẻ với cái không ta để thảnh thơi mỉm cười?

Mai ơi, em có như tôi, vô cùng “gato” cái dũng ấy của anh không? Hùng lực ấy đến từ đâu? Thưa ở nơi cái nhìn rất nên thơ về các giai đoạn đời người. Nên thơ nên chuyển hóa được sợ hãi lo buồn.

Trong Thư Cho Bé Sơ Sinh, anh viết:

Khi em cất tiếng khóc chào đời
Anh đại diện đời chào em bằng nụ cười
… Khi người ta cắt rún cho bé thì từ đó cái lỗ rún trở nên một nơi chốn để nhớ về.

Khi vừa lìa khỏi êm ấm cõi lòng mẹ, thì có ngay sau đó hình ảnh lỗ rún như một quê hương để nhớ về. Anh đã nhìn nỗi chia lìa kia trữ tình làm sao!

Và khi đến tuổi hoang mang vô kể thì anh cho đó là một phép lạ:

Rồi khi người ta đến tuổi dậy thì, cũng một đợt “biến thái” đầy phép lạ nữa!… không chỉ thể xác mà cả tâm hồn! Người ta xa lạ cả với chính mình. Cao vọt lên, dài ngoằng ra, chỗ phình chỗ xẹp, chỗ lõm chỗ lồi, chỗ dư chỗ thiếu, làm người ta hoang mang vô kể! 

… Vậy đó bỗng dưng mà họ lớn (Huy Cận). Họ ở đây là… mình chớ không phải ai khác. Bỡ ngỡ xa lạ với mình ngày hôm qua, hôm kia… (Đỗ Hồng Ngọc)

Nếu Hồi đó có ai nói với tôi rằng, có một chiếc đũa thần gõ vào thân thể khiến nó thay đổi lạ lùng đến thế thì hẳn đã không phải “théc méc” lo sợ! Các cháu bây giờ thì đã có bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc giải thích rồi, mà nói kiểu của bác thì hẳn đa số các cháu nghe xong sẽ làm văn làm thơ… Bởi có cái nghe như thế này:

“Tới một tuổi nào đó, ta quan tâm rất nhiều đến thân thể mình. Ta lắng nghe thân thể mình phát triển như chú dế mèn lắng nghe tiếng cỏ mọc trong đêm khuya…” (Những Tật Bịnh Thông Thường Trong Lứa Tuổi Học Trò)

Nghe như thế thì hẳn chả lo sợ gì mà thay vào là nỗi hồi hộp thơ mộng, nghe má mình đang hồng lên, chờ một điều âm thầm nào đó đang khiến mình đẹp hơn lên… Nguyệt Mai ơi, phải mà mình được trở lại tuổi đó để được nghe như thế thì thú quá phải không Mai?

Rồi tới cái tuổi mà Đỗ Hồng Ngọc bảo: Khi 20 tuổi người ta băn khoăn lo lắng không biết người khác nghĩ gì về mình… (Một Chút Lan Man)

… Nhưng khi em biết thẹn thùng
Sẽ biết thế nào là nước mắt trong đêm
Khi tình yêu tìm đến…

Khi tình yêu tìm đến…vậy tất có cái hồi rất dài đó, anh Ngọc ơi, không chỉ tuổi hai mươi đâu, đó là Hồi yêu, nhìn lại những Reo Tuổi của anh xem, bất kể tuổi nào cũng có tình yêu hiện diện, sắc mầu biến hóa như chiếc kính vạn hoa. Lúc nào Đỗ Hồng Ngọc cũng nhận diện được Thương Yêu chung quanh mình. Nhận về rồi trao đi, rồi thủ thỉ với nhau, Ta đang ở cái tuổi nào thì nhất định tuổi đó phải là tuổi đẹp nhất rồi, không thể có tuổi nào đẹp hơn nữa! (Một Chút Lan Man)

Nguyệt Mai ơi, em bảo anh Ngọc đang ở sinh nhật 80. Nhưng với ý nghĩ lúc nào tôi cũng thấy tôi đã già, và lúc nào tôi cũng thấy tôi còn trẻ, thì tôi có kết luận rằng lúc nào ông anh nhà thơ lãng mạn của chúng ta cũng ở vào Hồi yêu. Yêu em, yêu người, yêu đời, yêu đạo.

Lúc tôi đọc Thơ Ngắn Đỗ Nghê, tôi có ghi chú dưới mấy bài thơ tình mấy chữ: trời ơi tình! Đã định bụng viết về mảng trời ơi này của anh, nhưng rồi lại xớ rớ đâu đó, giờ tôi xin chép lại đoạn viết ngắn ấy.

…
Thời gian chỉ còn là một đường tơ mong manh cho nỗi nhớ lay động. Hãy xem chàng làm gì để nguôi? Phải hét lên cho cây già hốt trẻ, phải gióng vang chuông trần cho ta bà biết nhớ…

Anh thương nhớ quá làm sao nói
Gọi tên em vang động gốc cây già…
… Nhớ ơi rung tiếng chuông trần
Em xa xôi biết có bần thần không?

(Quê Nhà)

Phải là tiếng chuông nhớ rất duyên nợ với rung động bần thần yểu điệu kia, nên Lá chín vàng / Lá rụng / Về cội / Em chín vàng / Chắc rụng / Về anh. (Lá 1994). Thế thì Thôi hết cồn cào / Thôi không quặn thắt / Chỉ còn âm ỉ / Chỉ còn triền miên (Nỗi Nhớ). Và bình yên. Có phải đã ước nguyện với nhau như thế?

Có thể nói tuổi cho tình yêu này?  Say mơ của tuổi hai mươi. Nồng nàn của tuổi ba mươi. Lắng thương sâu của tuổi bốn mươi. Và biến hóa nhiệm mầu của tuổi không tuổi…

Đưa em đi lễ
Vầng trăng treo nghiêng
Em làm dấu thánh
Anh làm dấu em.

(Đi Lễ 1997)

Anh hôn đằng sau
Anh hôn đằng trước
Anh hôn phía dưới
Anh hôn phía trên
Chiếc áo của em
Món quà em tặng
Chiếc áo lạ lùng
Có mùi biển mặn
Có mùi dừa xiêm
Có mùi cát trắng
Có mùi quê hương…

Paris 1997
(Món Quà)

Tinh nghịch, mộc mạc, giản dị, đằm thắm, cảm động. Em và quê hương giờ đây hòa vào nhau. Nhớ em là nhớ quê hương. Nhớ quê hương là nhớ em. Trời ơi là tình!

Cái tuổi nào mà có thể thủ thỉ những câu có thể đưa nhau tới nơi không sinh không diệt như vầy:

Cảm ơn em sợi bạc
Cảm ơn em sợi hung
Cảm ơn em năm tháng
Đã theo già cùng anh

(Theo Già)

Nguyệt Mai ơi, hẳn em cũng như tôi, đã rưng rưng khi đọc những câu thơ này, tôi cảm thấu được thời gian gắn bó đi theo màu tóc thủy chung của tình vợ chồng, của đạo vợ chồng. Chúng ta còn khóc huống chi là nhân vật Em kia, Mai nhỉ. Ai nói tuổi được của cái Đẹp?

Nguyệt Mai bảo, anh Ngọc đang ở sinh nhật 80. Tưởng tượng, một buổi sáng nắng rất đẹp hứa hẹn một dạo chơi Đường Sách, bỗng thấy anh mình ngồi trầm tư loay hoay giữa bộn bề sách vở thư từ tranh ảnh, ở mắt dường như có hạt thủy tinh, ngạc nhiên hỏi cớ vì sao, cái tủm tỉm cố hữu bỗng nghiêm trang, “Vào tuổi tám mươi, anh nghĩ đã đến lúc “về thu xếp lại”, đã đến lúc “nhìn lại mình…” Hơ, tôi thấy mắc cười quá, đồng ý việc thu xếp lại kia, nhưng “nhìn lại mình” thì anh lúc nào mà chẳng, mà thường trực nhìn lại mình cơ chứ, phải không Nguyệt Mai. Đọc xem: … tôi biết quý thời gian hơn, quý phút giây hiện tại, ở đây và bây giờ hơn. Nhờ vậy mà không có thì giờ cho già nữa! Hiện tại với tôi thì không có già, không có trẻ, không có quá khứ vị lai… (Một Chút Lan Man) Nhìn ra vậy chẳng phải là pháp tu của Người Biết Sống Một Mình? Thanh thơi với ở đây và bây giờ, chẳng phải là ta, chẳng phải của ta…

… Mà bất ngờ vì tôi chợt “nhìn ra” tôi. “Nhìn ra” khác với thấy. Nhìn ra là “quán”. Quán Tự Tại Bồ-tát hành thâm Bát Nhã chiếu kiến ngũ uẩn giai không… Quán là thấy rõ (chiếu kiến). Tôi bấy giờ không còn là tôi bây giờ. Tôi bấy giờ là tứ đại, là ngũ uẩn. (Tôi Chợt Nhìn Ra Tôi)

Và trong buổi ngồi thu lại những ký ức thời gian và xếp lại những vướng víu đa đoan ấy, anh đã tâm sự:

… Càng có tuổi, hình như tôi càng nhận ra có cái gì đó ở ngoài ý chí mình, can thiệp vào mình tùy hứng khiến mình đôi lúc không khỏi chưng hửng, ngỡ ngàng, thầm nghĩ “duyên” chăng? Nhưng duyên là gì không biết. “Nghiệp” chăng? Nhưng nghiệp là gì cũng không biết. Thôi thì, cứ để nó trôi chảy, tự nhiên, bởi nó có vẻ chẳng cần đến ta, chẳng phải là ta, chẳng phải của ta…

Nguyệt Mai có nhận thấy không từ cái thay đổi của tuổi mới lớn đến tuổi hơi già, già chút nữa, già thêm nữa đến…, anh Ngọc đều cảm nhận đó là những biến thái đầy phép lạ, diễn biến tuyệt vời, tôi gọi reo tuổi là vậy:

… Nó diễn biến tuyệt vời đến vậy, liên tục đổi thay đến vậy thì có gì đáng phàn nàn đâu, có gì mà không thể tủm tỉm cười một mình đâu. Cho nên nếu tôi có gì khác tôi xưa thì chính ở chỗ tôi có phần… khoái cái sự già nua tăng tốc đó của mình, tôi hồi hộp dõi theo nó, tôi cảm thấy nó… hợp lý, nói chung là… cũng dễ thương quá đó chớ! (Tôi Chợt Nhìn Ra Tôi)

Và “người không già không trẻ” này kể kinh nghiệm hưởng thụ cái dễ thương đó:

Một là thiếu bạn. Nhìn qua nhìn lại, bạn cứ rơi rụng dần… – Hai là thiếu… ăn. Không phải vì không có điều kiện ăn mà người già thường thích những món ăn kỳ cục, và phải lắng nghe mệnh lệnh của bao tử… – Ba là thiếu vận động! (Những Cái Thiếu Ở Người Già)

Nghe thì thấy anh Đỗ Hồng Ngọc chả thiếu cái nào, các bạn trong Gánh Hát Rong mở email từ hồi nảo hồi nao đến giờ có phải là anh thường xuyên ngao du sơn thủy cùng bạn hữu không? Lúc thì với hồng nhan tri kỷ của cuộc đời, lúc thì bạn cố cựu cỡ nửa thế kỷ như Lữ Kiều rồi thì Khuất Đẩu Lê Ký Thương Nguyễn Lệ Uyên Nguyên Minh Lữ Quỳnh… chưa kể một hàng dài người ái mộ xếp hàng chờ một chữ ký trên trang sách thơm, chưa kể ở khắp nơi có biết bao người đang cầm trên tay sách của anh, chưa kể Gánh Hát Rong còn có: Huyền Chiêu, Ngọc Vân, Kim Quy, Duyên, Thu Vàng, Nguyệt Mai, Thanh Lương, và Khánh Minh đây. Nói chung thì Người Trẻ Lạ Lùng Đỗ Hồng Ngọc kia lúc nào cũng có cái Bên Cạnh. Có khi thì em bé mò trai lượm ốc, có khi là người chủ quán cà phê, có khi thì cây bàng, tảng đá, có lúc là những thuyền thúng, còn không thì có nụ cười tủm tỉm trên môi. Đâu có thiếu bạn. Còn ăn ư, cũng không thiếu nốt, vì ngồi với bạn là có cái gì đó để cùng nhau nhâm nhi, thậm chí ngồi quán ăn xong thì có ai đó bí mật trả tiền rồi.  Mà đã đi lang thang hết núi tới rừng tới biển tới quê nhà thế thì sao thiếu vận động được, ôi chả trách người viết Biết Ơn Mình. Và chắc giờ đây sau khi Về Thu Xếp Lại và hỏi Để Làm Gì thì “Khi bạn hoàn tất việc sắp xếp lại căn nhà của mình, bạn sẽ thấy cuộc đời mình thay đổi một cách diệu kỳ.” Tôi cảm thấy cái diệu kỳ nhất, là nhận ra mình cần chậm lại, để nghe trái tim lên tiếng, để cảm nhận những chuyển biến dù nhỏ nhất xung quanh mình, trong bản thân mình” (Tìm Tết). Chậm lại, nghe tiếng trái tim, cho ta năng lực để thấm thía được hết những đau khổ và hạnh phúc, mới tu học được bốn tâm vô lượng mà Phật dạy để đối xử với người với mình trong hiểu và thương, phải vậy chăng?

Ở Hồi yêu ấy người-ta lại nói thêm, nghiên cứu cho thấy có vẻ như càng già người ta càng yêu nhiều hơn, yêu vội hơn và càng yêu thì càng sống khỏe sống vui hơn! Khi “chút nắng vàng giờ đây cũng vội” thì mới thấy còn có bao nhiêu thời gian để yêu thương và được yêu thương? Nguyệt Mai bảo anh Ngọc đang ở sinh nhật 80 đấy. Nhớ anh có bài thơ rất tình:

thì viết cho anh một lá thư tình
trên tờ pelure xanh
như thuở em mười lăm…
… thời gian qua nhanh
em nay lên bảy tám
cũng vừa mười lăm
anh vẫn đợi hoài lá thư màu xanh
đọc run thuở đó…

(Biết Làm Gì Đây, 2020)

Khi đọc bài thơ trên của anh, tôi có trả lời, em nghĩ ừ hay mình viết một lá thư tình cho ai (cho cố nhân hay cho thời gian) trong lúc đang shelter in place này bằng giấy pelure xanh chăng? Có vậy mới quên được bầy quỷ Covid-19 đang hoành hành, và tuyệt thay tôi nhận được câu trả lời của anh, mà em chưa tới bảy mươi viết thư tình hơi quá sớm chăng? Ừ, thì cứ như Đỗ Hồng Ngọc, như Quang Dũng, em mãi là hai mươi tuổi, ta mãi là mùa xanh xưa…

Và, Nguyệt Mai ơi hãy nghe cùng tôi những tế bào sinh sôi khi đọc: Cái tuổi đẹp nhất của đời người theo tôi có lẽ ở vào lứa 65-75. Đó là lứa tuổi tuyệt vời nhất, sôi nổi nhất, hào hứng nhất… Tuổi vừa đủ chín tới…” (Lời Ngỏ – Về Thu Xếp Lại). Như vậy thì tất cả trong Gánh Hát Rong mình đang là tuổi chín tới đấy, nghe cực lãng mạn phải không các bạn trẻ lạ lùng của tôi? Ơi Huyền Chiêu Ngọc Vân Kim Quy, ơi Duyên Thanh Lương Thu Vàng ơi…

Santa Ana, Jul 24, 2020
ntkm

……………………………………………………………

Lê Uyển Văn Hạnh phúc của người viết là nhận được sự đồng điệu nơi người đọc. Em nghĩ người viết Đỗ Hồng Ngọc hạnh phúc muôn phần khi nghe được khúc hòa âm từ tác giả Nguyễn Thị Khánh Minh.
Hơn tuần nay, em may mắn được đọc “REO TUỔI”, ngưỡng mộ vô cùng ngòi bút sắc sảo, uyên thâm mà dạt dào khôn tả; lại xuýt xoa với câu từ của chị Khánh Minh, thú vị và đẹp đẽ!
Đúng lúc hoang mang vì tuổi tác chất chồng, em cảm thấy an lòng đón thêm tuổi mới khi được đọc những dòng này!
Cảm ơn thật lâu với “Còn chút để dành”!

Filed Under: Chẳng cũng khoái ru?, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Minh Lê: Học Phật qua thơ Đỗ Hồng Ngọc

01/08/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Học Phật qua thơ Đỗ Hồng Ngọc

Từ trước tới giờ, tôi ít đọc thơ vì tự thấy mình có chút thiếu “hồn thơ lãng mạn”. Dù vậy, tôi là người hâm mộ âm thầm nhiều năm của Bác sỹ Đỗ Hồng Ngọc, không chỉ với sách của Anh mà cả với các bài thơ Anh viết. Anh làm thơ cũng như viết văn, nghiêm túc mà dí dỏm, nhẹ nhàng mà sâu sắc, ngắn gọn mà vô số “ý ở ngoài lời”. Anh còn giảng và viết nhiều bài về Phật pháp rất hay, nhưng tôi thích học Phật qua thơ của Anh hơn.

Như bài “Nỗi nhớ” in trong tập Vòng quanh (NXB Trẻ 1997 tr. 38) chỉ có 6 câu:

“Thôi hết cồn cào

Thôi không quặn thắt

Chỉ còn âm ỉ

Chỉ còn triền miên

Thì thôi cấp tính

Thì đành kinh niên.”

Lần đầu đọc khi còn trẻ, tôi bật cười, nghĩ tác giả chắc “méo mó nghề nghiệp”, tả nỗi nhớ mà cứ như tả cơn đau thể chất vậy, nhưng tác giả cũng thật tài tình, chọn từ và vần điệu làm sao mà người đọc cảm nhận được từ cơn đau ít tới cơn đau nhiều, từ “bệnh” nhẹ tới “bệnh” nặng. Lần thứ hai đọc ở tuổi trung niên, tôi cảm thán tác giả “hiểu đời” ghê, bởi từng trải rồi mới biết “nhớ” cũng đau  “quặn thắt ruột gan” chớ không vừa. Lần thứ ba đọc, tôi liên tưởng tới bài hát “Đưa em tìm động hoa vàng” (nhạc Phạm Duy, lời Phạm Thiên Thư):

“Rằng xưa có gã từ quan,

Lên non tìm động hoa vàng ngủ say

Thôi thì thôi để mặc mây trôi

Ôm trăng đánh giấc bên đồi dạ lan

Thôi thì thôi chỉ là phù vân

Thôi thì thôi nhé có ngần ấy thôi.”

Nỗi nhớ của Phạm Thiên Thư dù nói “chỉ là phù vân, có ngần ấy thôi” sao vẫn có cảm giác day dứt luyến tiếc không đành lòng, dù lặp đi lặp lại “thôi” rất nhiều lần mà vẫn chưa “thôi” thật sự. Đúng là nghệ sỹ mà, cho nên mới… khổ! Ngược lại nỗi nhớ của Đỗ Hồng Ngọc rất tỉnh táo “rằng đau thì biết là đau”, chuyện xác nhận “thì thôi cấp tính thì đành kinh niên” cũng mang vẻ an nhiên. Chính nhờ chấp nhận nỗi đau đó sẽ ở với mình vĩnh viễn mà lòng mình trở nên bình tĩnh hơn để chuyển hóa “rác thành hoa, đau khổ thành an lạc”. Đây chẳng phải “chiếu kiến ngũ uẩn giai không” trong Tâm Kinh đó sao?

Anh Ngọc quê La Gi, còn tôi sinh Phan Thiết, lớn lên ở Nha Trang nên khi tình cờ đọc bài “Giả sử” của Anh, tôi sém chút la lên “ôi bài thơ của đời tôi”:

“Giả sử sóng thần ập vào Nha Trang
Ập vào Mũi Né
Anh chỉ kịp quẳng em lên một chiếc thuyền thúng
Vút qua những ngọn dừa
Những đồi cát trắng

Em nhớ mang theo đôi quả trứng
Vài nắm cơm
Vài hạt giống
Đừng quên mấy trái ớt xanh…

Biết đâu mai này
Ta làm An Tiêm
Trở về làng cũ
Nơi này ta sẽ gọi là Nha Trang
Nơi kia gọi là Mũi Né…

Cho nên
Sao chẳng sớm mà thương nhau hơn?”

                                                  (4/2011, đăng 13/9/2020 dohongngoc.com)

Hồi nhỏ nhà tôi ở sát biển nên tôi rất sợ sóng thần. Lâu lâu tôi lại nằm mơ thấy sóng thần ập vô cuốn trôi mọi thứ, nghĩ mà rùng mình. Sau khi đọc bài “Giả sử”, tôi viết email cám ơn Anh Ngọc đã giúp tôi hết sợ sóng thần. Anh đùa: “Hết sợ sóng thần vì đã sẵn thuyền thúng ở trong nhà và đã cụ bị sẵn các thứ, nhất là ớt xanh rồi phải không? Dân Phan Thiết có khác!” Trời, sao Anh đi guốc trong bụng tôi vậy? Thì Anh đã chọn mọi thứ chu đáo quá mà: đôi quả trứng đặng sau này còn nở ra gà con nè, vài nắm cơm vắt ăn đỡ đói lòng những ngày “lênh đênh” nè, rồi hạt giống để trồng lại vườn cây nè, có cả mấy trái ớt xiêm xanh – món “tủ” của dân Phan Thiết và Khánh Hòa nữa.

Nói nhỏ nghen, thiệt ra tôi tâm đắc nhứt câu cuối cùng “sao chẳng sớm mà thương nhau hơn?”. Lúc đó, tôi viết cho Anh cách hiểu của tôi như vầy: “Sóng thần, hay sóng cuộc đời có dữ dội cách mấy, mà có một người nắm tay đi với mình, thì có gì phải sợ phải không Anh?” Anh cười không trả lời. Giờ tôi mới nhận ra, cái “thương” mà Anh nói không chỉ là tình yêu trong gia đình mà chính là “tình thương của Bụt” – từ của thiền sư Nhất Hạnh. Đó là “từ bi hỷ xả”, gồm khả năng hiến tặng niềm vui, làm vơi nỗi khổ, tình thương mang lại hạnh phúc và tự do. Vậy sao không “sớm mà thương nhau hơn” thì đời sẽ thêm nhiều an lạc, đợi chi tới sóng thần?

Tháng 12/2020, Anh Ngọc viết bài “Biết rồi còn hỏi!”:

“Tôi ngồi trước tượng Phật

Viết lăng nhăng mỗi ngày

Để khi nào bí thì hỏi

Phật tủm tỉm cười

“Biết rồi còn hỏi!”

 

Sáng ra đường phố

Từng bước như đi dạo

Không thấy nở hoa sen

Ngước mắt nhìn lên

Một tấm biển to chữ đỏ

“Đồ ngu cao cấp”

Cửa hàng Fashion

Rơi dấu hỏi…

 

Đâu cần trốn ra khỏi cổng thành

Xóm nghèo nơi tôi ở

Bên phải là nhà bảo sanh

Bên trái là bệnh viện

Đằng kia lớp dưỡng sinh

Đằng nọ nhà quàn vô lượng thọ…

 

Hằng ngày nghe tiếng khóc trẻ con

Nghe tiếng rên người lớn

Tôi nhắc Phật đừng buồn

Không được quạu quọ, không được cau có

Không được nhăn nhó…

Phật cười

“Phải! Nó vậy đó”.”

(dohongngoc.com 4/12/2020)

Bài này dễ hiểu, nhưng hiểu hết lại không dễ. Mấy chỗ “bí thì hỏi”, mà Phật chỉ tủm tỉm “biết rồi còn hỏi!” nghe đơn giản chớ đúng phóc nha. Càng sống lâu càng có nhiều chuyện tưởng “bí”, thiệt ra mình đã “biết” rồi, chẳng qua tâm không đủ tịnh để “hiểu” thôi. Khổ thơ thứ hai chắc tác giả vừa viết vừa cười mím chi, té ra “thiếu dấu hỏi” thì thành “ngu”, mà đời này, thiếu gì chuyện thắc mắc mà không dám hỏi, nên mình chắc “ngu trường kỳ”. Khổ thứ ba tả “sinh, lão, bệnh, tử” – những cảnh ngay trước mắt ta đó thôi. Rồi khổ thơ cuối cùng, giữa “sinh, lão, bệnh, tử” vẫn giữ được tâm an, không “buồn, quạu quọ, cau có, nhăn nhó” thì thành “bụt” rồi, “bụt” là vậy đó! Từ ngữ bình dị, nhịp thơ thong thả, tự nhiên không gò bó nhưng âm điệu bằng trắc nhịp nhàng, láy vần rất duyên dáng. Đây là một trong những bài tôi thích nhứt trong thơ Anh Ngọc bởi nó đại diện cho sự đặc biệt hiếm thấy trong thơ: nội dung dí dỏm mà thâm thúy, từ ngữ, tiết tấu, âm vần đều được chọn rất nghệ thuật mà vẫn trôi chảy tự nhiên mới hay.

Người ta hay nói “thơ là tiếng lòng”. Đã là âm thanh thì phải có tần số, và cái radio trong mỗi chúng ta tùy theo tuổi tác, kinh nghiệm sống và tính cách mà “bắt” được những tần số khác nhau. May mắn thay, cái radio cọc cạch của tôi lại bắt được chút xíu “tần số” trong thơ Đỗ Hồng Ngọc, và từ đó học được chút xíu “suy nghĩ của Bụt” từ thơ Anh.

Mong Anh luôn khỏe, an lạc và tiếp tục sáng tác thêm nhiều “tiếng lòng” truyền cảm!

 

Minh Lê (Suối Tiên, 7/2021)

 

Filed Under: Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống, Vài đoạn hồi ký

Lê Ký Thương: CHUYẾN “PHƯỢT” ĐẦU NĂM

01/08/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

CHUYẾN “PHƯỢT” ĐẦU NĂM

Mùng 1 tháng giêng Tây năm Tây 2017, vợ chồng tôi được vợ chồng người bạn Đỗ Hồng Ngọc rủ đi Lộc An, cách thành phố độ trăm rưỡi cây số, là nơi mà một “fan” mê những sách viết về Đạo Phật và Sức khỏe của bạn, có resort ở đó.

Quê bạn ở La Gi nên quen thuộc đường QL 51, nên khi xe khởi hành bạn tuyên bố dành cho chúng tôi những điều ngạc nhiên và thú vị… chưa từng thấy.

Sự thực bạn nói không ngoa! Khi xe chạy cách Sài Gòn 70 cây số, đến vùng Châu Pha – Suối Nghệ (thuộc Bà Rịa), bạn đưa tay về phía trước, chỉ và hỏi chúng tôi thấy gì không. Từ xa, chúng tôi thấy những đốm trắng hiện ra hai bên đường, lô nhô, chưa kịp nhận ra con gì, thì bạn nói đó là cừu! Cừu, người dân ở đây nuôi cho du khách chụp hình.

Tôi liền liên tưởng tới đoạn mào đầu trong phim “Les temps modernes” của Charlie Chaplin được thực hiện năm 1930, cả một đàn cừu chen chúc, tranh nhau ra chuồng khi được xổ chuồng, một lối ẩn dụ phê phán cách làm việc theo phương pháp dây chuyền của Frederick Taylor đã suy tàn, biến con người thành cái máy.

Loài cừu thì rất hiền, nổi tiếng là… “cừu non”, ai dụ cũng theo!

Ngoài cừu, trước 75 Châu Pha còn được biết đến qua một nhạc phẩm của NS Lê Dinh: Nỗi Buồn Châu Pha, diễn tả mối tình có hậu giữa nàng sơn nữ và anh chiến sĩ trên đường hành quân qua làng:
Nàng tên Châu Pha
Người sơn nữ, bông hoa núi rừng
Đẹp xinh đơn sơ
Tình trong trắng cho đời ước mơ
Gọi tên nàng tên Châu Pha
Gọi tên nàng tên Châu 
Pha
Đôi môi thơ ngây thương giọng nói thật hiền hòa...
(…)
Xa hơn nữa, thời 12, 13 tuổi sinh hoạt trong đoàn thể Hướng Đạo, những đêm lửa trại đều đồng ca và múa bài “Châu Pha rừng, đầy voi, beo hùm, rừng cây um tùm..” Bây giờ thì tôi không nhớ hết lời và quên tác giả bài hát…

***

Resort có tên là Lộc An Resort nằm ngay trên QL 51. Mười một giờ trưa đến nơi. Vợ chồng bà chủ resort đang đợi sẵn dưới dưới phòng tiếp tân, niềm nở chào đón những người khách đặc biệt. Bạn không quên tặng chủ một số sách Đạo Phật và mời chúng tôi theo anh nhân viên lên nhận phòng tầng 2 của khu resort. Chúng tôi ở hai phòng kề nhau, đối diện với đầm Lộc An thoáng mát. Cảnh vật ở đây hết sức nên thơ, yên tĩnh, xa chốn thị thành. Đúng là món quà đặt biệt mà bạn và thiên nhiên ban tặng cho vợ chồng tôi nhân dịp đầu năm.

Resort có thuyền đưa khách du lịch từ đầm sang biển cách xa chừng vài trăm mét. Chiều mát, chúng tôi đi thuyền sang biển Lộc An. Hình ảnh đầu tiên gây ấn tượng cho tôi là bờ chắn sóng chạy dài từ mép biển lên tới đất liền rất giống hình thù con cá voi xám chết bị sóng đưa vô bờ – ngư dân gọi là Ông lị.  Tôi đã từng dạo chơi nhiều bãi biển từ Nam chí Bắc, nhưng chẳng thấy bãi biển nào có một hình ảnh độc nhất vô nhị này.

Sáng sớm hôm sau, khi ánh dương vừa ló dạng, thuyền đưa chúng tôi qua lại biển. Chúng tôi nhón bước trên lưng cá voi để tìm cảm giác và cảm thấy mềm mại trước mỗi bước đi. Thân nó được bằng tạo bằng vải bạt dài trên chục mét, đuôi hướng về biển, đầu hướng về bãi dương. Lại bắt gặp hình ảnh một ngư dân đang ngồi lục giỏ đồ ăn sáng dưới thân cá voi trong khi chờ thuyền đánh bắt cá về.

Bãi biển chỉ lưa thưa một vài cặp tình nhân trẻ đi dạo ven bờ. Không khí yên tĩnh lạ thường, khiến tôi nghĩ đến hai câu thơ của cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao.

Ba ngày “phượt” đầu năm bằng xe 7 chỗ bạn thuê, vợ chồng tôi còn được bạn đưa đi thăm thú và giới thiệu nhiều cảnh lạ và hấp dẫn như quán Cà phê Vên Vên nằm trong Khu Bảo tồn Sinh thái Xuyên Mộc hay giữa đồi cát mênh mông ven biển La Gi có mạch nước ngọt ngầm gọi là Nước nhỉ.

Đúng là đi một ngày đàng học một sàng khôn.

 

Lê Ký Thương  

 

 

Filed Under: Ghi chép lang thang, Vài đoạn hồi ký

Nhớ Sài Gòn, Qua Bài Thơ “Mai sau dù có bao giờ” của Đỗ Hồng Ngọc

23/07/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Nhớ Sài Gòn, Qua Bài Thơ “Mai sau dù có bao giờ” của Đỗ Hồng Ngọc (1)

Lương Thư Trung

 

Giới thiệu chương trình nhạc chủ đề“Tình Ca Việt Nam” trên đài phát thanh Sài Gòn, vào đầu thập niên 1970, nhà văn Nguyễn Đình Toàn viết:

“Tình ca, những tiếng nói thiết tha và tuyệt vời của một đời người, bao giờ cũng bắt đầu từ một nơi chốn nào đó, một quê hương, một thành phố, nơi người ta đã yêu nhau.

Tất cả mùa màng, thời tiết, hoa lá, cỏ cây của cái vùng đất thần tiên đó, kết hợp lại, làm nên hạnh phúc, làm nên nỗi tiếc thương của chúng ta…”(2)

 

Vâng, đó là chương trình nhạc chủ đề mà hồi ấy, những “Ngày hai mươi tuổi, có những đêm chong đèn ngồi…” (3), chúng tôi rất mê và ghiền lời giới thiệu các bản nhạc trong chương trình này mà nhà văn Nguyễn Đình Toàn đã gởi đến thính giả; mà dường như cách nào đó, với Sài Gòn, nơi thành phố ấy của hơn nửa thế kỷ (55 năm) trước, chúng tôi có những lần hẹn hò với một cuộc tình rất tha thiết và nồng nàn mà giờ ngồi hồi tưởng lại đúng là thành phố ấy nó“làm nên hạnh phúc, làm nên nỗi tiếc thương của chúng ta…”

Đó là nhạc chủ đề, còn trong thơ ca thì sao? Xin mời bạn nghe Đỗ Hồng Ngọc (tức nhà thơ Đỗ Nghê), hơn bốn mươi năm trước, đã viết một bài thơ rất đằm thắm, thiết tha trong tâm trạng tiễn người bạn cũ giã từ để ra đi về “nửa vòng trái đất cõi người ta” trong bài thơ Mai sau dù có bao giờ…

Lâu nay đọc thơ Đỗ Hồng Ngọc, ít khi thấy ông “thiệt thà” bày tỏ nỗi lòng riêng tư, nhưng với mai sau dù có bao giờ ta thấy thêm góc khuất khác của nhà thơ Đỗ Nghê vậy.

“Cám ơn em đã đến giã từ
Dù sao năm tháng vẫn chưa phai
Em cười mà mắt còn đẫm ướt
Hình như tối qua trời không mưa”

Lần đó, họ không nói với nhau một lời nào, mà chỉ trao cho nhau những nỗi niềm bằng ánh mắt; bởi lẽ trong những hoàn cảnh như vậy lời nói nào đủ nghĩa yêu đương cho bằng ánh mắt thiết tha:

“Tôi hiểu – em đừng nói gì thêm
Những lời không đủ nghĩa đâu em
Tôi sẽ đưa em thăm thành phố
Em không ngại là tôi cũng ghen
 

Rồi họ cùng đi thăm lần cuối “một quê hương, một thành phố” nơi mà “cả mùa màng, thời tiết, hoa lá, cỏ cây của cái vùng đất thần tiên đó, kết hợp lại, làm nên hạnh phúc, làm nên nỗi tiếc thương”…

Thành phố – nơi ta đã lớn lên
Nơi ta hò hẹn buổi đầu tiên
Nơi ta hờn giận ta vui sướng
Thành phố – chân hôn mỗi bậc thềm!”
 

Vâng, với nhà thơ, Sài Gòn là cả một vùng kỷ niệm chập chùng với bến Bạch Đằng ngày ấy, (Bạn còn nhớ Nguyên Sa: “hãy đưa tôi ra bờ sông, để tôi nhìn dòng nước chảy, tôi nhìn tôi bơ vơ…” không?) và cả ngôi trường Trưng Vương với màu áo xanh của các nàng nữ sinh thướt tha trong nắng sớm sân trường, với khung trời Đại học của một thời sinh viên nhiều mộng đẹp nữa …; nhiều và nhiều lắm… Những chữ “lối xưa xanh áo”, “mờ rưng rưng”… rất thiết tha và gợi lại biết bao nỗi nhớ mà con tim và tâm hồn của những người trong cuộc không khỏi bồi hồi, ray rứt, bâng khuâng …

“Tôi sẽ đưa em ra bờ sông
Sông Sài Gòn mà bến Bạch Đằng
Lối xưa xanh áo Trưng Vương đó
Mái trường Đại học mờ rưng rưng”

Nhắc tới Sài Gòn là nhắc tới những con đường tình rợp lá me bay như đường Gia Long, đường Lê Thánh Tôn và nhứt là con đường Nguyễn Du trong bài thơ, nhưng không thể không nhắc tới cái nắng của Sài Gòn, những cơn nắng làm “hanh đôi má” nàng, và “mồ hôi mặn”, nhưng với họ, những đôi tình nhân gắn bó ấy thì lúc bấy giờ họ không lấy gì làm khó chịu với cái nắng nóng ấy, mà còn “thấy thương ghê”… Mấy chữ “rợp mát bóng me che” trong câu thơ tả cảnh con đường Nguyễn Du dưới đây, thiệt là hết ý!

“Tôi sẽ đưa em ghé Nguyễn Du
Con đường rợp mát bóng me che
Cái nắng Sài Gòn hanh đôi má
Giọt mồ hôi mặn thấy thương ghê”

Qua con đường Nguyễn Du, một trong những con đường tình tiêu biểu của Sài Gòn, và dĩ nhiên Sài Gòn không chỉ có thế, mà Sài Gòn ai đã đến đó và ở đó dù lâu, dù mau đều nhận ra rằng Sài Gòn bên cạnh những con đường lớn, những tòa nhà cao, những khu mua bán sầm uất, nó còn có rất nhiều con hẻm nhỏ mà ở đó nhà nhà, người người chen chúc nhau kiếm sống lây lất qua ngày, dù tất bật, nhưng không thiếu tình chòm xóm, tình lân láng, tình người…: 

“Tôi sẽ đưa em về Bàn Cờ
Xóm nghèo nho nhỏ đường quanh co
Tình người thắm đượm từng nếp áo
Bà mẹ ngày nao em nhớ chưa”
 

Nhớ lại hồi cách nay năm mươi lăm năm về trước, chúng tôi còn nhiều lắm những kỷ niệm qua bao lần nơi ghế đá công viên, những quán nước bên đường, những cà phê gốc me vào mùa mưa tháng Sáu của Sài Gòn; những rạp xi nê với các phim thời tài tử Alain Delon ăn khách một thời, nào rạp Rex, nào Eden, nào quán Tre quán Trúc nơi thương xá TAX thuở nào… với những hẹn hò mà chúng tôi không “làm sao quên” được, như nhà thơ muốn nói với người thương của mình: 

“Tôi hiểu em còn muốn đi thêm
Một đời chưa đủ phải không em
Chân bước đi mặt còn ngoảnh lại
Xao xuyến hồn ta – làm sao quên!”
 

Ở đây, nếu bạn để ý một chút, trong đoạn thơ trên chúng ta sẽ bắt gặp tác giả không cố ý làm cho câu thơ cao siêu, bóng bảy; trái lại ông rất khéo léo dùng một chút tâm sự của “kẻ ở người đi” trong sách Quốc văn Giáo Khoa Thư mà có lẽ ai ai trong chúng ta cũng có lần đã đọc qua mà có khi vì dòng đời tất bật quá, rồi lại quên:“Chân bước đi, mặt còn ngoảnh lại: từ cái mái nhà, cái thềm nhà, cái lối đi, cho đến bụi cây, đám cỏ, cái gì cũng làm cho tôi quyến luyến khác thường!”(4). Cái hay của ý thơ vừa rồi là nó rất gần, rất quen mà gợi đúng cái tâm trạng của “kẻ ở người đi” trong một lần từ giã. Là một người đã hơn một lần “giã từ” Sài Gòn, hơn một lần“giả từ” người thân yêu của mình, tôi rất thấm thía câu thơ này của tác giả, nó nói lên được tấm lòng của người ở lại lo cho người thân của mình, rồi ra ở nơi “Nửa vòng trái đất cõi người ta” ấy, em sẽ sống thế nào và em sẽ phải làm gì với đất trời xa lạ ấy?

“Thôi nhé từ nay em sẽ xa
Nửa vòng trái đất cõi người ta”

Giữa chập chùng những ý nghĩ vừa lo lắng, vừa ái ngại ấy, rất may, tác giả không quên nuôi trong lòng niềm hy vọng, như một niềm an ủi cho chính mình và cho người thương yêu của mình:

“Mai sau dù có bao giờ nữa
Thành phố – lòng mẹ vẫn bao la”

Cái hay ở câu thơ “Mai sau dù có bao giờ nữa”, một phần rất Kiều (5), và một phần rất Đỗ Hồng Ngọc! Ở chữ “nữa” của Đỗ Hồng Ngọc, vốn là một trạng từ, mà tác giả cho vào cuối câu Kiều, nó vừa là niềm tin yêu và hy vọng, nó vừa là nỗi bịn rịn không rời như “nữa mai”, “nữa rồi”, “nữa khi”, “nữa là”…mà bàng bạc một tấm lòng! Chính những chữ “nữa” ấy là những chữ làm gợi dậy tấm chơn tình trong tình yêu thương có lẽ chưa bao giờ dứt được… Nó vừa nhẹ nhàng mà thân ái, nó vừa tha thiết mà nồng nàn, nó làm tim gan người trong cuộc nhiều khi muốn đứt ruột nhưng vẫn giữ cho lòng chút hy vọng một ngày nào đó còn có dịp gặp lại nhau dù cho bao lâu sau đi chăng“nữa”!!!


Vâng, với Sài Gòn, với thành phố ấy với những đôi tình nhân đã yêu nhau cách nay hơn năm mươi lăm năm ấy, rồi ra, vớichúng tôi, tôi chợt nhớ lại qua những kỷ niệm ngày nào quả quá đúng như nhà văn Nguyễn Đình Toàn nói “làm nên hạnh phúc, làm nên nỗi tiếc thương của chúng ta…”! Và với nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc, khi tuổi đời giờ không còn trẻ trung gì, và đọc được bài thơ “Mai sau dù có bao giờ” này của ông, rồi tôi có dịp hồi tưởng lại những nơi chốn hẹn hò của những “Ngày hai mươi tuổi, có những đêm chong đèn ngồi…” với những con đường tình của Sài Gòn một thời, và nhìn lại lòng mình, tôi thấy ông nói quả quá đúng, không sai chút nào được khi ông viết:“Mai sau dù có bao giờ nữa!” thì Sài Gòn lúc nào cũng“Xao xuyến hồn ta – làm sao quên!

 

Hai Trầu Lương Thư Trung

Houston, ngày 21.07.2021 

 

Phụ chú:

1/ “Mai sau dù có bao giờ” của Đỗ Hồng Ngọc (1980)

(trích từ tập thơ Giữa hoàng hôn xưa, Đỗ Hồng Ngọc, nhà xuất bản Trẻ, 1993)

[Theo trang nhà Trần Thị Nguyệt Mai, ngày 16.07.2021]

2/ Trích CD Nhạc Chủ Đề Tình ca Việt Nam 1970 của Nguyễn Đình Toàn.

3/ “Ngày hai mươi tuổi, có những đêm chong đèn ngồi…” )[Trích trọng “Trên Đồi Là Lô Cốt” Lữ Kiều-Thân Trọng Minh, Thư Ấn Quán xuất bản, Hoa Kỳ, năm 2006]

4/ Trích “Kẻ ở người đi”, Quốc Văn Giáo Khoa Thư (Lớp Sơ đẳng) của Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc và Đỗ Thận, nhà xuất bản Thanh Niên tái bản, năm 2000. 

5/ Truyện Thúy Kiều của Nguyễn Du do Bùi Kỷ và Trần Trong Kim hiệu khảo, bản in lần thứ bảy (năm 1925). Nhà xuất bản Đại Nam (Hoa Kỳ) tái bản, (không thấy ghi năm).

 

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

  • « Go to Previous Page
  • Go to page 1
  • Go to page 2
  • Go to page 3
  • Go to page 4
  • Interim pages omitted …
  • Go to page 36
  • Go to Next Page »

Thư đi Tin lại

  • Lịch “Trò chuyện, giao lưu…”
  • Lại đính chính: “SAIGON BÂY GIỜ”
  • ĐÍNH CHÍNH: BSNGOC không phải là BS ĐỖ HỒNG NGỌC
  • Đính chính: BS NGỌC không phải là Bs Đỗ Hồng Ngọc
  • bsngoc đã lên tiếng đính chính
  • Thư cảm ơn và Đính chính về FACEBOOK Bác sĩ NGỌC
  • ĐÍNH CHÍNH: Bài viết "TÀN NHẪN" không phải của Bs Đỗ Hồng Ngọc

PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG

Kỳ 3 Lớp An Cư Chùa Xá Lợi, 2022

Bài đọc thêm: DƯỢC TÍNH TRONG TÂM…

Hiểu thêm về “giả dược” (Placebo)!

Nguyễn Hiền-Đức: Tập tuyển CÀNH MAI SÂN TRƯỚC

Minh Lê: Học Phật qua thơ Đỗ Hồng Ngọc

TẠP GHI (Lõm bõm… Kỳ 4b)

Tạp Ghi (lõm bõm… kỳ 4): Mười Hạnh Phổ Hiền

TẠP GHI (Lõm bõm…) kỳ 3

Tạp Ghi (Lõm bõm kỳ 2)

TẠP GHI (Lõm Bõm)

Xem thêm >>

Chuyên mục

  • Một chút tôi
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy

Bài viết mới nhất!

  • Vài ngày về thăm Lagi, Phan Thiết…
  • Ngày của Cha – Happy Father’s Day
  • Kỳ 3 Lớp An Cư Chùa Xá Lợi, 2022
  • Bài đọc thêm: DƯỢC TÍNH TRONG TÂM…
  • Hiểu thêm về “giả dược” (Placebo)!

Bài viết theo tháng

Ý kiến bạn đọc!

  • Tùng Phạm trong Bài đọc thêm: DƯỢC TÍNH TRONG TÂM…
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Giới thiệu
  • Đinh Hà Duy Linh trong Giới thiệu
  • Hồng trong Song Thao: GIÀ KHÚ ĐẾ
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Buổi trò chuyện về Thiền “Quán Niệm Hơi Thở”
  • Cao Huy Khiem trong Buổi trò chuyện về Thiền “Quán Niệm Hơi Thở”
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong “Xả”… stress !
  • “Xả”… stress ! | suonglamportland trong “Xả”… stress !
  • Phan Công Khương trong Nguyễn Mậu Pháp: CẢM NHẬN  “VỀ THU XẾP LẠI…”
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Có một “nghệ thuật”… ngủ!

Cùng một tác giả

  • 0
  • 1
  • 1
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6

Thống kê

Nhà tài trợ

biệt thự vũng tàu
biệt thự vũng tàu cho thuê | biệt thự vũng tàu cho thuê theo ngày giá rẻ | cho thuê biệt thự vũng tàu có hồ bơi
© 2009 - 2016 Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Phát triển & Hỗ trợ kỹ thuật bởi SGC.
Trích dịch nội dung để dùng trong nghiên cứu, học tập hay dùng cho cá nhân đều được tự do nhưng cần phải chú thích rõ nguồn tài liệu và đối với các trích dịch với mục đích khác, cần phải liên lạc với tác giả.
  • Một chút tôi
    ?
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    ?
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    ?
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    ?
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    ?
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy
  • Nhận bài mới qua email