Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Tập hợp các bài viết của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Ghi chép lang thang
  • Nhận bài mới qua email

Phạm Bảo Kim: Đọc văn Đỗ Hồng Ngọc

23/05/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

ĐỌC VĂN ĐỖ HỒNG NGỌC

Phạm Bảo Kim

Đỗ Hồng Ngọc là một nhà thơ trước khi tốt nghiệp Bác sĩ Y khoa Đại học đường Saigon vào năm 1969. Bài thơ đầu tiên được đăng trên tạp chí Bách Khoa năm 1960. Sau đó, ông đã có nhiều thơ đi trên các tạp chí Bách Khoa, Mai, Tình Thương, Ý Thức… Năm 1967, khi đang là sinh viên Y khoa, ông đã có tập thơ đầu tay “Tình Người” xuất bản. Thơ ông đẹp, hay. Đã hẳn. Vì được viết từ chính trái tim, từ xúc động chân thành “như không thôi đi được” mà Chu Hy đã nói đến trong Thi Kinh tập truyện. Ông tâm sự: “Tôi không có khả năng ‘hư cấu’ nên không viết được truyện dài truyện ngắn tiểu thuyết như các bạn mình… Tôi chỉ có một truyện ngắn duy nhất “Người thứ hai” đã đi trên tạp chí Mai xuất bản tại Saigon vào năm 1965, sau này được in lại trong tập truyện “Cuộc đi dạo tình cảm” của nhiều tác giả, Nhà xb Trẻ, 1998.

Georges-Louis Leclerc, Comte de Buffon (1707 – 1788) có lần phát biểu: “Phong cách chính là người” (Le style c’est l’homme même) mà người Việt chúng ta thường diễn dịch “Văn chính là người”. Đọc truyện ngắn này của ông, độc giả có thể nhận ra ngay điều đó.

Nhân vật chính trong truyện xưng “tôi” hoặc “anh” là hình ảnh của Đỗ Hồng Ngọc thời đang là sinh viên y khoa mà chắc chắn sản phụ nào cũng mong là người đỡ đẻ cho chính mình. Có thể thấy ông đã đặt cả trái tim mình trong công việc. “Tôi hỏi thật nhỏ nhẹ, lời lẽ cân nhắc đắn đo sao cho người đàn bà nằm đây chờ sanh tin cậy nơi tôi mà không thẹn thùng khi phải trả lời những câu hỏi của tôi đôi khi như chạm đến bí mật riêng tư của bà. Tôi hỏi về gia đình bà, và những đứa con của bà. Tôi giảng giải cho bà nghe những giai đoạn trong việc sanh nở. Tôi nhớ mang máng có đọc trong tạp chí nào đó một phương pháp đẻ không đau nên thử áp dụng… Bây giờ thì bà đã đau rột. Tôi bắt mạch, đo thời gian co tử cung, rồi nói chuyện cho bà nghe để bà quên đau… Người đàn bà cắn môi, nhăn mặt, chuẩn bị rặn. Tôi khuyên hãy đợi một lát, chờ cho cổ tử cung nở hẳn, để tránh nguy hiểm về sau. Bà uốn cong người, nhịn rặn, hả miệng to để thở và những giọt mồ hôi gặp dịp tốt không quên túa ra, tụ lại, chảy xuống thành dòng… Tôi đặt tay lên bụng bà, lo lắng, thầm khấn cho bà sanh dễ dàng, mau chóng…”

Nhớ hồi sinh cháu đầu lòng, cha mẹ hai bên đều không ở gần, không được chỉ vẽ điều gì, lại càng không có cơ may có trong tay cuốn sách “Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng” của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc nơi xứ lạ quê người, tôi đã lúng túng biết bao. Đỡ đẻ cho tôi là bác sĩ R.V. nổi tiếng mát tay ở thành phố nơi tôi sinh sống, nhưng ông không chỉ có tôi là sản phụ duy nhất trong phòng sanh. Chỉ có y tá vào ra, thăm độ nở của cổ tử cung và báo cho ông biết, trong khi ông còn lo cho những sản phụ khác. Không có bác sĩ hay y tá nào ngồi nói chuyện cho mình quên đau, hoặc chỉ dẫn điều này điều nọ. Chỉ khi cổ tử cung đã nở, bác sĩ mới vào cùng y tá, khuyến khích mình ráng rặn để cho con ra.

Từ cơn đau của người sản phụ, “Lấm tấm trên trán, trên mũi bà đọng mấy giọt mồ hôi – giọt mồ hôi của những người mẹ hợp với nước mắt của họ làm thành biển mẹ bình bồng những đứa con – tôi nghĩ về mẹ tôi một cách biết ơn hơn bao giờ hết.” Với trái tim mẫn cảm ông đã nhìn ra mẹ mình và tất cả những người mẹ đã chịu đớn đau cho con được ra đời vuông tròn, để từ đó lòng biết ơn Mẹ đã thêm ngập tràn trong trái tim ông.

Những câu tả cảnh tả tình trong bài cũng rất đẹp, chẳng hạn:

 “Trên bãi cát phẳng lì này, anh đã nằm nghe trời đất tự tình. Những đợt sóng lớn nhỏ đuổi nhau, đùa giỡn trên bãi, cuốn đến chân anh rồi ngại ngùng rút đi. Những con sò ca trên cát trắng. Em thấy còng gió đó không Mai? Nó chạy nhanh hơn gió. Đừng đuổi mất công. Để hôm nào anh đưa em đi xem cách người ta bắt còng nghe. Quê hương anh thật nghèo, thật đẹp. Rừng dương reo vi vu ru mình vào giấc ngủ.”

Một trong những tác phẩm của ông tôi cũng rất thích là “Áo Xưa Dù Nhàu…”, ghi lại 18 chân dung văn học mà ông có dịp gặp gỡ, quen biết, do Phanbook xuất bản 2022. Tôi yêu những đoạn văn ông tả mùa thu ở Boston rất nên thơ. “… lá như ráng níu lại chút xanh, và vì níu lại nên có vẻ chặt hơn, xanh hơn lên mà thôi. Bởi vì rất nhanh, lá bỗng vàng rượm, vàng rực, vàng tía, vàng buốt… và bầu trời rộng ra, thênh thang, yểu điệu kỳ cục.” Hay: “Tôi bước đi từng bước nhẹ dưới những vòm cây và nghe cho hết tiếng thu về. Dưới chân mình là từng lớp lá rụng, bước chân bỗng như hẫng đi và tôi chợt ngơ ngác. Thấy mình như không còn là mình nữa. Hay mình là nai? Có thể chứ? Con nai vàng ngơ ngác của Lưu Trọng Lư?” Phải đọc mùa thu Boston, tôi mới cảm thấy trân quý với thiên nhiên thời tiết mà mình đang được hưởng. Để biết thưởng thức “… Cái tiếng mùa đi, mùa về, cái tiếng đời của mỗi chúng ta. Nó ở trong không gian dằng dặc, đùng đục thênh thang kia, và ở cả trong thời gian hun hút, héo hon rơi rụng nọ, một thứ ‘tiếng động nào gõ nhịp không hay’ (TCS) đó chăng.”

Cách tả của ông cũng rất độc đáo. Với học giả Nguyễn Hiến Lê ghiền thuốc cỡ “thường thường bậc trung” thì “Lúc nào cũng có lon thuốc rê bên mình, ông vừa trò chuyện với khách vừa vấn vấn vê vê điếu thuốc lá, liếm nhẹ rồi bật quẹt hút. Các ngón tay ông nhanh nhẹn, thuần thục đến vàng sậm màu khói”. Còn với nhà văn Trang Thế Hy, việc hút thuốc đã trở thành một nghệ thuật, một “nghi lễ tôn giáo”: “Thấy cái cách ông ngậm điếu thuốc chếch qua một bên khóe miệng, thấy cái cách ông khum khum đôi bàn tay ấp ủ ngọn lửa như một bông hoa tự dưng thấy lòng xao xuyến… Một người gần 90 tuổi, ghiền thuốc lá từ ngày còn trẻ, ngồi bên cạnh mình, nhẹ nhàng rút một điếu, nâng niu đưa lên miệng, rồi ân cần xoay xoay chiếc hộp quẹt trong tay chuẩn bị bật lửa…” Bằng những nét chấm phá như thế, ông đã cho người đọc thấy được một Trang Thế Hy ghiền thuốc đến cỡ nào!

Văn ông dí dỏm, rất có duyên, khiến người đọc không muốn buông sách, mà cứ muốn tiếp tục đọc cho đến hết để tủm tỉm cười một mình. Như ông tả “chàng” Huy Cận chẳng nên thơ chút nào như trong trí tưởng, “một ông già lùn mập, trông giống như Bất Giới hòa thượng, ì ạch leo lên cầu thang. Trời, Huy Cận bằng xương bằng thịt đây sao? Người mà ‘em ơi hãy ngủ anh hầu quạt đây’ đây sao?” Nhưng khi nói về thơ thì Huy Cận lập tức biến thành một con người khác. “… Rồi ông lại ư ử. Hay. Câu này hay. ‘Một ngày Đập Đá nghiêng vai biếc người’. Một ngày Vỹ Dạ trăng soi, một ngày Đập Đá nghiêng vai biếc người. Ngày thì trăng không soi được rồi, mà tại sao lại biếc người? Không phải chỉ là cái quán cà phê bên dòng nước xanh um bóng cây kia mà chính là, à phải rồi, chính là con thuyền ai đó có chở trăng về kịp tối nay và vườn của ai kia lá có còn mướt xanh như ngọc. Vâng, xanh nên biếc và người nên ngọc. Ông Huy Cận này ghê thiệt. Quả là danh bất hư truyền. Ông đọc và cảm nhận thơ tinh tế không thể tưởng. Mới vừa thấy ông là Bất Giới hòa thượng đó bỗng đã thành Nghi Lâm tiểu sư muội, rồi bây giờ lại là Lệnh Hồ huynh đệ, chỉ dùng kiếm ý mà không cần kiếm chiêu…” Và tôi không thể không tủm tỉm cười khi đọc đến chỗ, “Bỗng nhiên ông hỏi: ‘Duyệt chưa?’ Tôi trả lời: ‘Chừng nào in mới đưa Nhà xuất bản duyệt’. ‘Không, vợ duyệt chưa?’ Trời đất quỷ thần cái ông Huy Cận này. Lại có vụ đó nữa ư? Tôi ấp úng đành cười trừ. Lê Phương Chi cười ha hả: Cái ông Huy Cận nhứt vợ nhì trời này, mày không biết sao?”

Qua tập sách này, tôi cũng thấy được ĐHN còn là một nhà báo có tài phỏng vấn. Như nhà văn Trang Thế Hy đã thổ lộ: “Hôm trước có cô nhà văn gì đó hỏi tôi tại sao không ưa… mà thích Lỗ Tấn? Tôi không trả lời, nhưng hôm nay nói cho Đỗ Hồng Ngọc nghe nha: Tôi thích Lỗ Tấn vì…”  Ông đến với mọi người bằng tấm chân tình, nên ông cũng được đối đãi lại như thế. Nhà thơ Quách Tấn đã không ngại chia sẻ với ông về tính dục. “Trước kia tôi có nhiều nhơn tình. Tôi cám ơn họ lắm vì nhờ họ tôi có nguồn cảm hứng luôn. Tôi quan niệm ‘làm thơ cũng như chơi gái’. Làm thơ không phải chỉ thuần có khoái cảm ở tâm hồn, nhiều lúc thấy vibrer cả cơ thể. Làm xong một bài thơ, cơ thể cũng rã rời, mệt mỏi. Có những bài thơ làm bằng nước mắt. Ngược lại, chơi gái cũng phải là một hành động thơ, chứ không phải chỉ là sự giải quyết sinh lý.”

Hiện nay ông tiếp tục dùng ngòi bút văn chương của mình, mang thơ nhạc để giảng giải lời kinh cũng rất hay, giúp người học Phật trình độ sơ cơ hiểu được và từ đó đến với Phật pháp dễ dàng hơn. Tôi rất “mê” cách ông giải thích kinh Kim Cang qua bài viết “Con mắt còn lại”.

“Bùi Giáng, một thi sĩ thấm đẫm Kim Cang thường hạ những câu ‘hà dĩ cố’ trong thơ có lần viết ‘Còn hai con mắt khóc người một con…’ mà Trịnh Công Sơn đã nối theo: Còn hai con mắt một con khóc người! Con mắt còn lại…? Ừ, con mắt còn lại thì sao? Con mắt còn lại… nhìn một thành hai, nhìn em yêu thương nhìn em thú dữ… (TCS). Phải rồi, cái con mắt còn lại quả thực là con mắt gây phiền hà! Nó bị diplopie, nhìn một thành hai! Nhưng người bị diplopie thì nhìn một thành hai giống hệt nhau còn đằng này nó nhìn em… yêu thương thành em thú dữ, rồi còn ‘nhìn tôi lên cao nhìn tôi xuống thấp…’, nghĩa là cái nhìn đầy “phân biệt đối xử”! Nó như của ai khác- nó quan sát ta, nhìn ngắm ta và rồi nó… thở dài thấy mà ghét (Con mắt còn lại là con mắt ai? Con mắt còn lại nhìn tôi thở dài! TCS)! Thở dài, bởi nó thấy ta tội nghiệp! Thấy ta đáng đời! “… đời tôi ngốc dại, tự làm khô héo tôi đây…” (TCS).

Đó chính là con mắt của “Thức”. Của biện biệt, so sánh, đếm đo. Khi “thức” biến thành “trí” thì mọi chuyện đã khác! Lúc đó,

Con mắt còn lại/ nhìn đời là không/ nhìn em hư vô/ nhìn em bóng nắng!

Là không, chứ không phải bằng không! Là không, đó là cái không của có, cái có của không… Tóm lại, còn hai con mắt…“khóc người một con” kia là con mắt của Bi! “Con mắt còn lại nhìn đời là không” này chính là con mắt của Trí. Bi mà không Trí thì cứ sẽ khóc hoài, dỗ không nín!

(trích từ Gươm báu trao tay – Đỗ Hồng Ngọc. Nhà xb Phương Đông 2008) 

Nơi đây xin được tỏ lòng biết ơn đến Nhà thơ – Bác sĩ – Cư sĩ Đỗ Hồng Ngọc, ông đã giúp tôi thêm vốn kiến thức văn chương, y khoa, âm nhạc, Phật học… Tôi vẫn thầm nghĩ mình là người may mắn được học hỏi từ những cuốn sách của ông, và từ những điều ông viết chia sẻ trên trang nhà Đỗ Hồng Ngọc cũng như trên các trang mạng khác.

 

(PBK)

24.3.2024

(Ngôn Ngữ đặc biệt Đỗ Nghê – Đỗ Hồng Ngọc, tháng 5-2024)

 

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Thầy thuốc và bệnh nhân

TRANG CHÂU: Chữ ‘’em’’ trong thơ Đỗ Nghê

18/05/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc 1 Bình luận

 

Chữ ‘’em’’ trong thơ Đỗ Nghê

Trang Châu

 

Kể từ thời Thơ Mới, hiếm nhà thơ trong đời làm thơ mà không hơn một lần dùng chữ em trong thơ của mình. Thông thường em là người yêu, người tình của một mối tình, công khai hoặc câm nín, hai chiều hay một chiều. Và hình dáng, màu sắc, âm vang của em cũng đổi thay theo thời gian, theo cảnh huống cùng nỗi lòng nhà thơ.

Tôi biết không nhiều về nhà thơ Đỗ Nghê, bút danh của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Thời tôi làm trưởng ban Thơ cho tờ Nguyệt San Tình Thương của sinh viên Y khoa Sài Gòn, từ đầu năm 1964 đến hết năm 1965, là năm cuối y khoa của tôi, thỉnh thoảng tòa soạn Tình Thương nhận được thơ của anh Đỗ Nghê. Có một bài thơ đã làm tôi nặng trĩu lòng sau khi đọc. Nhân vật trong bài thơ được tác giả trìu mến gọi là em. Nhưng em ở đây không phải là người yêu, người tình mà là một em bé sơ sinh. Em bé đó là ca đỡ đẻ đầu tiên của anh sinh viên Y khoa năm thứ 3 ở bảo sanh viện Từ Dũ. Đứa bé vừa chào đời được anh bác sĩ tương lai dự đoán cho một tương lai không mấy sáng sủa, với khung cảnh máu lửa của đất nước lúc bấy giờ:

 

“ Anh nhỏ vào mắt em thứ thuốc màu nâu

Nói là để ngừa đau mắt

Ngay lúc đó em đã không nhìn đời qua mắt thực

Nhớ đừng hỏi vì sao đời tối đen

 

Khi em mở mắt ngỡ ngàng nhìn anh

Anh cũng ngỡ ngàng nhìn qua khung kính cửa

Một ngày đã thức giấc với vội vàng, với hoang mang,

Với những danh từ đao to búa lớn

Để bịp lừa để đổ máu đó em

 

Khi niềm tin chỉ còn là nỗi đắng cay:

 

Thôi trân trọng chào em

mời em nhập cuộc

chúng mình cùng chung

số phận…

con người.’’

 

Bài thơ, ở một khía cạnh nào đó, có thể được xếp vào loại phản chiến vào thời điểm ấy.

Đỗ Nghê bước vào tuổi trẻ đầu nặng đầy thế sự, lòng nghẹn ngào, cay đắng với nỗi ám ảnh tang tóc gây nên bởi chiến tranh. Nhà thơ, xuyên qua người em, chẳng cần rõ trai hay gái, miễn là một em nhỏ, để nhắc nhở, để phụ họa cho thảm cảnh mà chính mình cùng nhân dân cả nước đang chịu đựng:

 

“ Em khóc đi em, khóc đi rồi anh dỗ

khóc nhiều hơn, khóc nhiều nữa đi nghen

Này tủi nhục với niềm đau nỗi khổ

của quê mình không đáng khóc sao em?“

 

Tuy vậy vẫn còn chút an ủi: Cái may mắn cho Đỗ Nghê, tác giả mấy bài thơ viết vào dạo đó và cả tôi, người chọn đăng mấy bài thơ ấy, không đứng ở đất phía bên kia.

Sống ở hải ngoại, sau mấy mươi năm, qua các diễn đàn, thấy thơ của Đỗ Nghê tái xuất hiện, bên cạnh những bài viết về Phật học, về thiền, về vô thường, về sắc không, về tứ khổ, diệt khổ. Về thơ, tôi tò mò muốn biết chữ em trong thơ Đỗ Nghê bây giờ đi về đâu. Em bây giờ của Đỗ Nghê có lúc là đại diện cho nhà thơ để anh gởi gắm nỗi niềm nhớ quê của mình:

 

‘’Em có về thăm Mũi Né yêu

Mười năm như một thoáng mây chiều

Mười năm vườn cũ chim bay mỏi

Áo trắng, chân mềm em hắt hiu.

Mũi Né ơi, người xưa đã xa

Mùa ơi, gió bấc nhớ không ngờ

Năm nay người có về ăn Tết

Có ngậm ngùi nghe chút ấu thơ?“

 

Mình xa quê hương thì mình nhớ. Người yêu xa thành phố cũ của hai người cũng làm nhà thơ cảm thấy mất mát để luyến tiếc chốn xưa:

``Thành phố nơi ta đã lớn lên

nơi ta hò hẹn buổi đầu tiên…“

“Thôi thế từ nay em sẽ xa

Nửa vòng trái đất cõi người ta

Mai sau dù có bao giờ nữa

Thành phố – lòng mẹ vẫn bao la.``

 

Tạm rời xa quê hương để đi tu nghiệp ở xứ người, em trong thơ Đỗ Nghê bây giờ là một thứ hương gây mùi nhớ. Cho nên món quà em tặng anh đầy hương vị, không phải hương vị từ em cho anh, mà hương vị qua em làm anh nhớ quê hương:

 

“Chiếc áo của em

Món quà em tặng

Chiếc áo lạ lùng

Có mùi biển mặn

Có mùi dừa xiêm

Có mùi cát trắng

Có mùi quê hương.“

 

Em trong thơ Đỗ Nghê ở đây chỉ còn là cái cớ để tác giả từ đó khơi tìm một hình ảnh khác bao la hơn:

 

“ Tôi sẽ về thăm quê em

Trìu mến tình dân miền biển

Tháng năm nghèo một con thuyền

Sóng khơi suốt đời yêu mến…“

 

Nhưng rồi cuối cùng Đỗ Nghê cũng phải đi theo lề phải với chữ em muôn thuở là người tình trong tình yêu nam nữ. Thơ tình của Đỗ Nghê thường đằm thắm, kín đáo nhưng cũng có lúc sôi nổi, bạo dạn, đôi khi pha chút lập luận có tính xác suất (probabilité) nghiêng lợi phía mình. Đây không biết có phải là cái tính hay cái tật của mấy chàng “toubib“ làm thơ:

 

“Lá chín vàng

 lá rụng về cội

Em chín vàng

chắc rụng

về anh.“

 

“Bởi em là riêng anh đó

Bởi anh là của em thôi

Như nắng là riêng của gió

Như biển là riêng của trời.“

 

Tuy vậy lập luận kiểu có tính xác suất đôi khi cũng đem lại âu lo cho nhà thơ: Nhận được thư người yêu không chịu mở ra xem ngay lại cất giữ mang về nhà mới đọc:

 

“Về nhà bó gối ngồi một mình

Sờ sờ nắn nắn thơ mong manh

Chắc chỉ đôi lời thăm hỏi vậy

Đọc chi cho thấy lòng buồn tênh.“ 

 

Cũng có đôi lúc nhà thơ nghe đời mình trống vắng, cô đơn khi tìm về chốn cũ thấy thiếu vắng người yêu:

 

“Ta về lối cũ

Nghe lòng lạnh băng

Thiếu em hoàng hậu

Ngai vàng như không.“

 

Hiếm lắm mới nhặt được một sợi buồn trên mái thơ tình của Đỗ Nghê:

 

“ Mới đó mà em đã cố nhân

Lòng đau như cắt hiểu gì không

Hoa vàng đã rụng đầy sân vắng

Tình cũng ngùi phai theo tháng năm.“

 

Nhưng nhìn chung, em mang vào cuộc đời nhà thơ niềm vui, hạnh phúc nhiều gấp bội so với nỗi buồn, nỗi khổ. Chính nhà thơ đã phải thốt lên lời cảm tạ:

 

“ Cám ơn em đến

Mùa xuân của anh

Hoa vàng nở muộn

Bên trời nắng hanh

Cám ơn em đến

Mùa xuân của anh

Nhịp đời bước chậm

Cho lòng còn xanh.“

 

“ Cám ơn em năm tháng

đã theo già cùng anh.“

 

“ Em mang biển mặn

lùa vào tay anh

Em mang rêu xanh

lùa vào ngực ấm

Em mang xuân thắm

lùa vào giá băng.’’

 

Để mong mỏi sự chăm sóc của người yêu, Đỗ Nghê tỏ ra hơi tham lam:

 

“Anh không có ngày sinh nhật

nên mỗi ngày

là sinh nhật của anh

Cám ơn em

nhớ đến anh

ngày sinh nhật.“

 

Nhà thơ còn táo bạo mang cả tôn giáo vào để dẫn chứng tình yêu của mình:

 

“Em tin có Chúa

ngự ở trên cao

còn anh tin Chúa

ngự ở trong nhau

 

Đưa em đi lễ

vầng trăng treo nghiêng

Em làm dấu thánh

anh làm dấu em.“

 

Bạo dạn khi cần nhưng đề cao nàng cũng đúng lúc. Viết tên nàng trên cát rồi nhờ gió cuốn đi, sóng cuốn đi để cho “tên em mênh mông đại dương“:

 

“Anh vẽ ngoằn ngoèo trên cát

không ngờ mà hóa tên em

Biển xanh, nắng vàng, sóng bạc

không ngờ cùng kéo nhau xem.“

 

Mặc dù ở đâu đó Đỗ Nghê có phát biểu chê những bài thơ sáng tác thời tuổi trẻ của mình là “nhà quê, na ná thơ tiền chiến. Thơ tình thì chẳng có gì đáng nói.“ Tôi cho đó là lời khiêm tốn của nhà thơ. Tôi nghĩ thơ hay, thì thời nào, dưới hình thức nào nó cũng vẫn hay.

Năm 1965, tôi có làm bài thơ tình ngắn:

“Nếu em không là Hồng, là Mai, là Cúc

thì xin gọi em là em

Người con gái phụng phịu trả lời: Em muốn

anh gọi em bằng… tên anh!“

Tài hoa và tên tuổi như Đỗ Nghê chắc không thiếu gì em xin gọi em bằng tên anh. Nhưng tôi tin người đầy Phật tính như Đỗ Nghê chắc chỉ cho một em lấy tên mình thôi.

 

Trang Châu

Montréal, 05/03/2024

(NGÔN NGỮ Số đặc biệt Đỗ Nghê – Đỗ Hồng Ngọc, tháng 5-2024)

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Vài đoạn hồi ký

NGUYỄN ĐỨC TÙNG: Đỗ Hồng Ngọc, Cuộc đời đầy kinh ngạc

17/05/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

 

Đỗ Hồng Ngọc, Cuộc đời đầy kinh ngạc

NGUYỄN ĐỨC TÙNG

 

Thơ làm chúng ta gần lại với nhau. Cảm hứng thơ ca của Đỗ Hồng Ngọc sinh ra từ sự hồn nhiên, thản nhiên, có phần phóng túng, nhờ thế anh gần với người đọc. Dù nghề nghiệp hoặc thói quen làm cho một người trở nên chừng mực và nghiêm cẩn đến đâu, khi làm thơ, người ấy buộc phải buông thả. Trong giây phút buông thả ấy, các giác quan tăng cường cảm xúc, thiết lập sự thân mật giữa người quan sát và sự vật, giữa người nói và người nghe. Vì thơ là các quan hệ bên trong, cái toàn thể, cái hiện tại. Một nhà thơ đến với người đọc với tất cả ngôn ngữ của chị ấy, anh ấy, tất cả quá khứ, khuyết điểm và ưu điểm, lòng thương xót, mang theo tất cả những thứ ấy, trọn vẹn, đến với chúng ta.

Sóng

Quằn quại

Thét gào

 

Không nhớ

Mình

Là nước

Thơ Đỗ Hồng Ngọc là tiếng kêu ngạc nhiên  trước cuộc đời, trước hạnh phúc và đau khổ, trước giản dị tầm thường và phép lạ. Đó là tiếng kêu nghệ thuật, nên được nén lại, kiểm soát. Thơ anh là hiện hữu, cái bây giờ, sự dừng lại của khoảnh khắc. Đỗ Hồng Ngọc chỉ ra cho tôi thấy một khoảnh khắc, làm tôi dừng lại bên anh, tiếp tục nhìn thấy nó lâu dài. Thơ anh là một hình thức của chú ý. Sự tập trung chú ý tạo ra tác phẩm sáng tạo. Nhờ lắng nghe mà anh nhìn ra cội rễ của tồn tại. Nhờ tập trung, chú ý đến các chi tiết mà thơ Đỗ Hồng Ngọc tạo nên sự thân mật giữa người viết và người đọc. Sự thân mật trong thơ là khoảng cách, khoảng cách ấy càng gần, sự tin tưởng lẫn nhau càng tăng lên.

Hội An còn ngái ngủ

Mái chùa ôm vầng trăng

Giật mình nghe tiếng chổi

Gà gáy vàng trong sương

Thơ trữ tình, vì vậy, không phải là lời kêu gọi, bản tuyên bố, mà là lời tâm sự, lời kể bên ngọn lửa ấm, sự im lặng khi câu chuyện ấy được kể xong. Thơ anh đầy chú ý lắng nghe. Mặc dù anh không thiên về sự mô tả chi tiết, vốn cũng không phải là điểm mạnh của thơ Việt, anh đến gần sự vật bằng  quan sát và linh cảm. Bài thơ “Đinh Cường vẽ Nguyễn Xuân Hoàng” là một bài thơ lạ, gần chất văn xuôi, ít sử dụng tu từ, giọng điệu ngang tàng. Thơ chống lại sự tiếp nhận tự động mà ta thường gặp trong ngôn ngữ nói hằng ngày, nó không ngừng thiết lập tình trạng tỉnh thức bằng sự ngạc nhiên: hình ảnh mới, các ý tưởng bất ngờ, cách sắp xếp lại các chữ. Đám đông độc giả có khuynh hướng chống lại sự làm mới của nhà thơ. Một người làm thơ yếu bóng vía có thể bị khuất phục dễ dàng bởi thẩm mỹ của đám đông, thói quen suy nghĩ của họ.

ôi trời ông Đinh Cường

vẽ Nguyễn Xuân Hoàng thời 60’ Đàlạt

rõ ra là một cô gái

dịu dàng hơn cả dịu dàng

 

cái thời 60’ Đàlạt

ai ngờ Nguyễn Xuân Hoàng mà rất gái

quá dễ thương

làm mê mẩn Đinh Cường

và, có thể… nhiều người khác nữa

Một nhà thơ có bản lãnh thản nhiên sử dụng các hình ảnh, lối nói của mình với tính cách độc đáo. Trong tiếng Anh có một khái niệm khó dịch là originality, có nghĩa là nguồn gốc, bản sắc, tính độc đáo riêng biệt. Tôi nghĩ thơ Đỗ Hồng Ngọc có tính chất ấy.

 

Đêm trên biển Lagi

tặng NNI

Sóng cuốn từng luồng trăng lại trăng

Đêm Hòn Bà dỗ giấc ai nằm

Phẳng lì bãi cát buồn hiu ngóng

Cao vút hàng dương quạnh quẽ trông

Đá cũ mòn rêu hoài đá Ngảnh

Nguồn xưa cạn nước vẫn Nguồn Chung

Về đâu mái tóc xanh ngày ấy

Câu hỏi ngàn năm có chạnh lòng?

Thơ cổ điển nhưng không cũ. Không có một bài thơ nào tồn tại độc lập. Dù được viết bởi ý định nào của tác giả, bài thơ là một giao điểm của đời sống và trí tưởng tượng, hiện tại và hoài niệm, cá nhân và cộng đồng, những quan hệ liên văn bản. Ngôn ngữ của thơ ca dù được viết dễ hiểu cách nào đều không thể đoán được, vì vậy người đọc cần chú ý đến mỗi chữ, mỗi âm.

Một trong những công việc của thơ là làm thay đổi đời sống thực, chuyển hóa nó, khiến cho chúng ta có thể nhìn thấy đời sống của chúng ta dưới một cách nhìn khác, trong một màu sắc khác. Mặt trời mỗi ngày một trở lại, không thay đổi, nhưng thơ làm cho mặt trời mới lại mỗi ngày. Điều đó cũng đúng cho khuôn mặt người yêu dấu: thơ làm cho nó mới hơn.

ngoài cái chợ ồn ào

mấy dãy phố thời trang dị hợm

quán ăn đầy ngõ hẻm

vài ngôi chùa trang nghiêm

và mấy trại hòm

Tập “Thơ ngắn Đỗ Nghê” đúng như tên gọi của nó, chứa những bài thơ ngắn, đôi khi như haiku. Xét về phương diện thể loại, thơ ngắn tự do là trường hợp cần chú ý. Trong những bài thơ ấy còn có câu chuyện kể. Anh là người kể chuyện thú vị, không nhiều lời. Những câu chuyện của anh gồm quan sát tinh tế, các ký ức mà dường như ai cũng có, câu chuyện đời thường, bằng một cách nào đó chúng đã đi vào thơ anh, chiếu sáng từ góc tối: sự rung động ban đầu, niềm thương xót đối với một người, sự suy nghĩ lúc ta dừng lại, sự hối hận, sự hài lòng. Làm công việc y khoa, chắc tác giả phải đối diện với nhiều cái chết, sự mất mát, thương đau. Tôi ngạc nhiên thấy anh ít viết về điều ấy, cái chết, cái mất, vết thương. Tôi nghĩ là người Việt đã đau khổ quá nhiều vì những thứ ấy, ở mức cá nhân và ở mức tập thể. Nhưng đó có thể là một chọn lựa có ý thức, cũng có thể chỉ là vấn đề cảm hứng, bạn không chọn đề tài, chúng tự chọn lấy tiếng nói. Các chi tiết cụ thể, góc nhìn, sự liên tưởng là quan trọng đối với việc đọc thơ Đỗ Hồng Ngọc. Anh có lối nói nồng nàn, say đắm, hài hước, bất ngờ:

Anh hôn đằng sau

Anh hôn đằng trước

Anh hôn phía dưới

Anh hôn phía trên

Chiếc áo của em

Thật dí dỏm, duyên dáng. Thời kỳ nào thì thơ cũng là sự trộn lẫn giữa cái mới và cái cũ, kế thừa những giá trị trong quá khứ và nói tiếng nói của hôm nay. Nhà thơ Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc, có lẽ không phải là người có ý định làm mới ngôn ngữ nhưng việc anh viết từ sớm và viết liên tục chứng tỏ anh tha thiết với thơ cũng như nhiều nhà thơ khác. Thơ tạo ra một không khí riêng biệt, có phần thân mật, riêng tư, nhưng góp phần làm phong phú tiếng nói của thơ hôm nay. Mỗi nhà thơ có cách ghi nhận và phản ứng đối với đời sống khác nhau. Trong khi giọng điệu của thơ mỗi ngày một thay đổi, ngôn ngữ cũng thay đổi, thì anh vẫn giữ được tiếng nói riêng mình, chung thủy với bản tính của mình, không chịu ảnh hưởng của người khác, nhưng cũng không cũ kỹ. Thực ra, Đỗ Hồng Ngọc sống cùng thời với rất nhiều sự kiện, tỏ ra quan tâm đến đời sống văn hóa xã hội. Trong thơ cũng vậy, tôi nhìn thấy ở đó nhiều khoảnh khắc khác nhau của đời sống, công việc chuyên môn, chia ly và đoàn tụ, mất mát và hân hưởng, tình yêu và sự tha thứ. Tôi không nhìn thấy ở đó những sự kiện lớn, chiến tranh và hòa bình, các vấn đề chính trị hay dân tộc gay gắt, vì vậy thơ anh đối với tôi có tính riêng tư, thân mật, trầm lặng. Đó là một loại thơ trữ tình cá nhân, với giọng điệu êm ả, cái nhìn nhân hậu đối với cuộc đời. Tôi tin rằng ngoài đời, anh cũng thế, một người hiền lành, sâu sắc, có cá tính nhưng từ chối tham gia các cuộc tranh cãi. Anh chứng tỏ lối viết điềm đạm chắc tay, nhưng lại phóng khoáng, và đôi khi bất cần. Làm được vậy, thật rất khó.

Ơi những con đường ta đã đi

Gia Long, Đồng Khánh mượt xuân thì

Chân run rẩy cát bờ Thương Chánh

Gió ở đâu về thơm bước khuya

Thơ anh có tính âm nhạc. Trong những bài thơ ngắn ấy, tính âm nhạc tinh tế hơn, nhưng nếu bạn đọc một cách đầy chú ý, chúng cũng thể hiện trong những bài thơ không có vần.

Cái nhìn của Đỗ Hồng Ngọc là cái nhìn có tính quan sát của một thầy thuốc, tuy vậy, anh không hề nhầm lẫn giữa thơ và các bài báo khoa học, như một số người có thể nhầm lẫn. Anh không mang những kiến thức uyên thâm của mình vào thơ, theo nghĩa sống sượng mà chúng nằm bên dưới các chữ tinh khôi, lành lặn, và đôi khi siêu thực. Cũng vậy thơ thiền của anh nhẹ nhàng, ngẫu hứng, không có ý răn dạy, khuyên bảo, không sử dụng nhiều từ ngữ Phật pháp. Sự tưởng tượng của Đỗ Hồng Ngọc là những liên kết có tính nhảy vọt từ truyền thống đến hiện đại, sự liên kết hình ảnh qua các thời gian khác nhau, nhưng thường anh vẫn trở về với hiện tại của đời sống.

Thư Cho Bé Sơ Sinh

Khi em cất tiếng khóc chào đời
Anh đại diện đời chào em bằng nụ cười
Lớn lên nhớ đừng hỏi tại sao có kẻ cười người khóc
Trong cùng một cảnh ngộ nghe em!

Anh nhỏ vào mắt em thứ thuốc màu nâu
Nói là để ngừa đau mắt
Ngay lúc đó em đã không nhìn đời qua mắt thực
Nhớ đừng hỏi vì sao đời tối đen.

Khi anh cắt rún cho em
Anh đã xin lỗi chân thành rồi đó nhé
Vì từ nay em đã phải cô đơn
Em đã phải xa địa đàng lòng mẹ.

Em là gái là trai anh chẳng quan tâm
Nhưng khi em biết thẹn thùng
Sẽ biết thế nào là nước mắt trong đêm
Khi tình yêu tìm đến!

Anh đã không quên buộc étiquette vào tay em
Em được dán nhãn hiệu từ giây phút ấy
Nhớ đừng tự hỏi tôi là ai khi lớn khôn
Cũng đừng ngạc nhiên sao đời nhiều nhãn hiệu!

Khi em mở mắt ngỡ ngàng nhìn anh
Anh cũng ngỡ ngàng nhìn qua khung kính cửa
Một ngày đã thức giấc với vội vàng với hoang mang
Với những danh từ đao to búa lớn
Để bịp lừa để đổ máu đó em…

Thôi trân trọng chào em
Mời em nhập cuộc
Chúng mình cùng chung
Số phận…
Con người…

Cuộc trò chuyện tưởng tượng, riêng tư, bình đẳng, nhưng gởi gắm nhiều suy nghĩ về xã hội, chiến tranh, đất nước, phận người. Đó là một bài thơ trữ tình- thế sự. Những suy tư của anh chuyển hóa thành xúc cảm. Một xúc cảm mạnh, nhưng được kiềm chế trong lời đối thoại- độc thoại.

Nhiều người than phiền rằng thơ Việt đã kết thúc. Đọc một người như Đỗ Hồng Ngọc, lặng lẽ viết, tôi tin thơ vẫn sống, vì nó chính là linh hồn của ngôn ngữ hôm nay. Thơ là tiếng nói riêng tư của tác giả, nhưng cũng là sự trao đổi trò chuyện giữa người viết và người đọc, lời tâm sự, sự tranh luận, quà tặng. Thơ giữ lại cho chúng ta những di sản của một thời đại, đời sống tinh thần, các giá trị văn hóa. Thơ Đỗ Hồng Ngọc là cuốn nhật ký về những năm tháng mà anh đã sống, trong một ngôn ngữ sống động như hơi thở, như đời sống thật ngoài kia. Thơ anh làm cho sự hiện hữu con người trở nên rõ rệt trước sự bôi xóa của thời gian. Tôi tin rằng một số bài thơ xuất sắc sẽ ở lại lâu dài trong lòng người đọc, chúng không chỉ là bức tranh của đời sống hôm nay, mà còn là sự cần thiết. Đôi khi anh cũng không tránh khỏi sự dễ dãi, và có những bài thơ hoặc câu thơ lặp lại một hình ảnh nào đó, hay mang dấu ấn, của người xưa:

Về thăm quê

Lâu không về thăm quê

Những người xưa biền biệt

Lũ trẻ lớn lên

Ngơ ngác

“Ủa, chú là ai?

Làm sao chú biết…?”

 

Thơ anh sự kết hợp tự sự và trữ tình. Câu chuyện trong thơ của anh làm tăng sự hiểu biết của chúng ta đối với người khác, về những tương tác giữa người và người, cho người đọc nhìn thấy một thế giới, cho phép họ đi xuyên qua đám đông, ghi nhớ, kể lại, trong khi đó thơ trữ tình tập trung vào một tình huống, nén chặt nó lại trong thời gian, làm bộc lộ các xúc cảm về nó, nhờ vậy đọc thơ anh vừa thấy được một thế giới mà chúng ta đang trải qua, vừa là những giây phút bồn chồn của đời sống.

Chỉ quanh quẩn đâu đây

Cuộc đời đầy sinh bệnh lão tử

Lòng yêu đời trong anh thật lớn, cái nhìn thanh thản đầy chất triết lý cũng sâu đậm. Thơ Đỗ Hồng Ngọc thường ở thể tự do, các ý tưởng được nén lại trong một thứ ngôn ngữ khá là phóng túng:

Còn nhớ không

Căn nhà ốm nhom khu Bàn cờ

Bạn từng trú mấy hôm

Đi coi mắt vợ

Tôi cũng rành khu Bàn Cờ. Tôi quen một thiếu nữ ở đó. Tôi thường chở nàng đi ăn trong một quán hủ tiếu đâu đó, không còn nhớ, nhưng câu thơ của anh làm tôi nghĩ ngợi.

Thơ mang cho người đọc sự tự do để nhìn thấy thế giới, để đáp ứng, để sửa lỗi, để cầu nguyện. Thơ Đỗ Nghê không có những tham vọng lớn lao, anh không đề cập đến các vấn đề thời sự, không có những đề tài nóng bỏng, đó là một loại thơ cá nhân, riêng tư và âu yếm, và suy nghĩ. Thơ anh giản dị nhưng không hoàn toàn dễ hiểu, vì anh đang cố gắng nói một điều gì không thể nói được. Đọc thơ anh cũng phải đọc giữa các hàng chữ. Thơ là xúc cảm nhưng thơ cũng là phân tích.

 

ngày đó mới thôi…

bọn mình rớt mồng tơi,

dĩa bánh cuốn ly café đã khó

tôi nằm chờ giải ngũ

bạn trốn trại về…

 

khu mình chẳng có gì vui…

ngoài mấy nhà bảo sanh

một nhà thương thí

phòng mạch bác sĩ

văn phòng luật sư…

nhà thuốc tây thuốc bắc

 

khu mình chẳng có gì vui

ngoài cái chợ ồn ào

mấy dãy phố thời trang dị hợm

quán ăn đầy ngõ hẻm

vài ngôi chùa trang nghiêm

và mấy trại hòm…

 

đâu có cần ra khỏi cổng thành

đâu có cần vượt sông anoma

chỉ quanh quẩn nơi đây

cũng đầy sanh bệnh lão tử…

 

ngày đó mới thôi,

căn nhà ốm nhom khu bàn cờ

bạn từng trú mấy hôm

đi coi mắt vợ…

rồi bảo sanh

rồi bệnh viện

rồi nursing home…

 

cuộc đời đầy kinh ngạc

phải không?

Đỗ Hồng Ngọc làm chủ giọng nói của mình, tiết kiệm chữ, chỉ nói vừa đủ, nhường lời cho sự hiểu biết và diễn dịch của người đọc. Thơ anh vì vậy khá kén người đọc. Thơ Việt Nam trong nửa thế kỷ qua viết về nhiều đề tài, nhưng giấu phía sau mình nó là chiến tranh, chia rẽ, bạo lực. Đó là một nền thơ đau khổ. Nhưng đó cũng là một nền thơ hướng tới tự do biểu hiện. Có một nỗi buồn mênh mông, kín đáo, trong thơ anh:

Mỗi năm

Mỗi người

Thêm một tuổi

Chỉ mình con

Mãi mãi

Tuổi đôi mươi

Vết thương khó nhận ra.  Trước khi đọc tập “Thơ ngắn”, tôi nghĩ rằng anh sẽ viết nhiều về công việc chuyên môn, nhưng không, anh dễ dàng tách ra khỏi công việc thực, tự cho phép mình hoàn toàn thuộc về thơ ca. Bởi vì thơ cũng như những hình thức văn chương khác, trước hết đến từ sự tưởng tượng. Sự tưởng tượng trong khi mang người đọc đi xa thì lại mang họ trở về, với cái nhìn mới mẻ. Thơ Đỗ Nghê, trong những bài xuất sắc nhất của anh, là những bài thơ có sức mạnh làm mới.

Có nhiều cách để làm mới. Có những người có ý định, với những tuyên ngôn, chủ trương, nhưng cũng có những người làm mới lặng lẽ bằng chính tác phẩm. Những bài thơ ngắn của anh là sự mô tả đời sống hàng ngày, những chi tiết bề ngoài có vẻ tầm thường, một kỷ niệm, với giọng điệu chừng mực, triết lý, hài hước.

Tìm kiếm

 Anh không sống

Anh đợi sống

Anh để dành anh

Anh chắt mót em

Anh cắt xén niềm vui

Anh gậm nhấm nỗi buồn

Anh tìm kiếm

Một điều anh chẳng biết

Chính là bằng cái nhìn của tác giả mà thế giới trở nên thân mật hơn, gần gũi hơn, đầy chiêm nghiệm. Thơ trữ tình ngày càng được mang gần tới cuộc đời thường nhật, va chạm với những tình tiết và số phận nhỏ bé, đi tìm sự cao thượng trong những thấp kém, tính chất huyền bí của đời sống trong sự quen thuộc tầm thường. Thơ vì vậy ngày càng ngoại biên, địa phương, kỳ dị, thậm chí gồm những tiếng lóng. Không có gì là vĩnh cửu, không có một lý thuyết nào là chân lý cuối cùng, không một thần tượng nào không sụp đổ, đời sống trở nên sâu sắc hơn vì vậy, vì chúng ta đối diện với cái chết. Vì chúng ta yêu mến đời sống này, ca ngợi tính chất bình thường của nó, chống lại cái vĩ đại và các đại tự sự bằng những quan tâm nhỏ nhặt, nhưng cần thiết, vừa thực vừa huyền ảo, chúng ta sống vì chúng ta nhớ lại, vì chúng ta nghĩ đến.

 

Nguyễn Đức Tùng

(NGÔN NGỮ số đặc biệt Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc, tháng 5/2024)

 

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định

Trịnh Y Thư: Cảm nhận nhân đọc “thơ ngắn đỗ nghê”

17/05/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Cảm nhận nhân đọc “thơ ngắn đỗ nghê”

Trịnh Y Thư

 

1.

Tôi thích đọc “thơ ngắn” của Đỗ Nghê. Những bài thơ “ý tại ngôn ngoại,” đọc đi đọc lại, mỗi lần đọc đều nhận ra thêm một cái gì mới, khác, mở ra những chiều kích bát ngát hương thơm. Hãy giở trang đầu tiên của tập thơ, bài Trái đất, cả bài thơ chỉ có vẻn vẹn sáu từ:

 

Giữa đêm

Thức giấc

Giữa ngày…

Boston, 1993

 

Từ chìa khóa để hiểu bài thơ là “Boston,” mặc dù nó chỉ là phụ chú cho bài thơ. Giữa đêm thức giấc, bên kia nửa vòng trái đất là giữa ngày, chợt bàng hoàng tỉnh giấc, thao thức nỗi nhớ nhà, chợt thấy cô đơn, ôm nỗi sầu vạn cổ, thấy cái tôi bé nhỏ không một chút trọng lượng lọt thỏm giữa vũ trụ bao la.

Tứ thơ cô đúc, được nén chặt đến cực độ trong sáu từ, đột ngột phóng ra như một tia chớp lóe, để người đọc mặc tình buông ra từ trí tưởng của mình những cảm xúc bát ngát diệu kỳ.

Trên bước đường lữ thứ của cuộc hành trình đời người, chúng ta ắt hẳn phải có lúc cảm thấy cùng một tâm trạng với bài thơ. Bài thơ chỉ có sáu từ sao lại có sức mạnh truyền tải cảm xúc mạnh mẽ đến thế!

Ý thức rất rõ về sự hữu hạn của vật thể hữu hình và tính vô thường của kiếp nhân sinh, thơ Đỗ Nghê chuyển hóa bi kịch đời sống thành những cung bậc cảm xúc đẹp buồn, trữ tình. Những dấu vết của đau thương, tan rã, chia lìa gần như được xóa nhòa để cái đẹp – dù là cái đẹp bi ai – thăng hoa thành nghệ thuật, và sau cùng đạt đến cõi như nhiên, tĩnh tại.

Từ nỗi đau xót như nhát dao cứa sâu vào da thịt:

 

Mỗi năm

Mỗi người

Thêm một tuổi

Chỉ mình con

Mãi mãi

Tuổi đôi mươi…

(La Ngà 3)

 

Nỗi đau xót ấy, như được sưởi ấm bằng những đốm lửa yêu thương, biến thành nỗi buồn man mác nhưng dịu ngọt:

 

Con cài bông hoa trắng

Dành cho mẹ đóa hồng

Mẹ nhớ gài lên ngực

Ngoại chờ bên kia sông…

(Bông hồng cho mẹ)

 

Những câu thơ đẹp, vì được kết tinh một cách ưu ái và trang trọng từ trái tim, từ trái tim người làm thơ sang thẳng trái tim người đọc, không cần qua một lăng kính hay một bộ phận chắt lọc nào. Nếu những cụm từ như “bông hoa trắng,” “đóa hồng” được dùng như một hoán dụ, thì hoán dụ ấy cũng chẳng thể ngăn cản cảm xúc dạt dào dâng lên như sóng vỗ tràn bờ. Thực chất, thơ Đỗ Nghê ít sử dụng ẩn dụ hoặc hoán dụ, mà phần nhiều là những câu nói (vâng, thơ là tiếng nói, tiếng nói tinh tuyền nhất) rất đơn sơ, rất thật và rất đậm tính người.

Có gì “người” hơn những câu thơ này?

 

Mùa xuân mừng tuổi thơm tho áo

Nắng cũng vàng phai ngày cũng xa

Anh thương nhớ quá làm sao nói

Gọi tên em vang động gốc cây già…

(Quê nhà)

 

Nó là tiếng kêu của muôn loài sống trên mặt đất, tiếng chim gọi nhau buổi ngày nắng tắt trên đầu non, tiếng kêu trầm thống của loài cá voi dưới mặt nước đại dương sâu thẳm. Nó là chất keo sơn giữ cho cuộc sống này bền chặt. Không có nó, thế giới vỡ tung mất thôi, và có vẻ như nó đang vỡ thật. Một mai nếu để mất nó, chúng ta sẽ rơi vào hố thẳm tuyệt vọng, vô phương cứu vãn, và linh hồn chúng ta sẽ mãi mãi trầm luân trong cõi huyền tẫn mịt mù, không ai có thể chuộc tội cho chúng ta, ngay cả người đóng đinh trên núi Sọ.

Vâng, tôi xin bắt chước nhà thơ, ngày xuân “gọi tên em vang động gốc cây già.”

 

2.

 

“Nước”, “sóng”, “sông”, “biển” là những thi ảnh xuất hiện nhiều trong thơ Đỗ Nghê. Trong bài thơ Nước – gồm 20 câu, một trong những bài thơ dài toàn tập thơ – thi sĩ vẽ hành trình của nước len lỏi qua nghìn dặm nẻo đường núi non sông lạch, thậm chí “từ cơn gió thoảng, từ làn mây trôi,” chỉ để bâng khuâng buông ra một suy nghiệm có tính siêu hình:

 

Nước vẫn muôn đời

Không đi chẳng đến

Ai người nỡ hỏi

Nước đến từ đâu?

Ai người nỡ hỏi

Nước trôi về đâu?…

 

Nước, trong ngữ cảnh bài thơ, là một hoán dụ ám chỉ khái niệm Duyên khởi và tính Không trong Phật giáo. Nước “không đi chẳng đến,” phải chăng ám chỉ khái niệm “vô thỉ vô chung” vốn chủ yếu liên quan đến sự hiểu biết về thời gian, sự tồn tại và quan hệ nhân quả.

Duyên khởi khẳng định rằng mọi hiện tượng phát sinh đều phụ thuộc vào các hiện tượng khác. Nó mô tả một chuỗi nhân quả, trong đó mỗi mắt xích phụ thuộc vào mắt xích trước đó, dẫn đến sự phát sinh của các hiện tượng tiếp theo. Theo quan điểm này, không có điểm bắt đầu hay điểm kết thúc biệt lập, độc lập đối với bất cứ điều gì trong chu kỳ tồn tại. Mọi thứ đều có mối liên hệ với nhau và phụ thuộc lẫn nhau.

Còn khái niệm tính Không thì nhấn mạnh đến sự thiếu vắng của bản chất nội tại cố hữu của sự vật. Sự vật không có sự tồn tại cố hữu. Sự tồn tại của chúng phụ thuộc vào các yếu tố khác. Do đó, khởi đầu hay kết thúc của tồn tại trở nên vô nghĩa. Thay vào đó, sự tồn tại trải qua vô tận các chu kỳ lặp đi lặp lại gồm có sáng tạo, hủy diệt và tái sinh (mà ta gọi là luân hồi). Trong những chu kỳ này, không có điểm bắt đầu hay điểm kết thúc cuối cùng.

Nó chính là “nước” của Đỗ Nghê: Không đi chẳng đến.

Theo Tứ Diệu Đế, khổ đau là cố hữu do tham ái và vô minh. Tái sinh được xem là sự tiếp nối của vòng đau khổ này cho đến khi người ta đạt được giải thoát (niết bàn). Theo nghĩa này, tồn tại được xem là không có khởi đầu, với khả năng giải thoát đánh dấu sự kết thúc của vòng tái sinh.

Hiểu được bản chất của “nước” là hiểu được chu kỳ của tồn tại, là hiểu được con đường dẫn ta đến giải thoát. Tôi đồ nhà thơ Đỗ Nghê chỉ muốn nói có bấy nhiêu. Một điều vô cùng giản dị mà sao chẳng mấy ai thực hiện nổi!

Khái niệm “Sắc tức thị không, Không tức thị sắc” còn được thi sĩ nhắc lại trong bài thơ Có không:

 

Tràn vào khắp ngả

Đất trời mênh mông

Nhẹ như không có

Có mà như không…

 

Thơ Đỗ Nghê thấm đẫm mùi Thiền, rất nhiều bài trong tập thơ mang phong vị Thiền học, nhưng nó là cái Thiền giúp ta thong dong đi vào phố chợ, nhập cuộc trần ai, mà lòng an nhiên như đang thảnh thơi dạo bước trên con đường mòn giữa cánh đồng hoa lá:

 

Duyên sinh vô ngã

Ngũ uẩn giai không

Từ đó thong dong

Thõng tay vào chợ…

(Vè thiền tập)

 

Bởi thi sĩ hiểu rõ chân lý sinh diệt của vũ trụ tuần hoàn, từ cát bụi, ta là ta hôm nay, ta là “đất động” hay “sóng thần,” nhưng rồi một ngày nào đó không xa, ta lại trở về cát bụi:

 

Đất động ta cũng động

Sóng thần ta cũng sóng

Giật mình chợt nhớ ra

Vốn xưa ta là đất…

(Đất)

 

3.

 

Một người làm thơ trữ tình như Đỗ Nghê ắt hẳn không thể nào dửng dưng với đất nước quê hương mình. Quê hương của ông là biển, là sông, là hồ, là cát, là cây, là đá, tất cả hòa quyện trầm mặc trong thơ. Các địa danh xa lạ với nhiều người nhưng thân thương với thi nhân, như hòn Bà, đá Ngãnh, được đem vào thơ, tái hiện hoài hoài trong những giấc mơ, hay một ký ức không thể bào mòn.

Tôi đặc biệt yêu thích bài Hội An sớm:

 

Hội An còn ngái ngủ

Mái chùa ôm vầng trăng

Giật mình nghe tiếng chổi

Gà gáy vàng trong sương…

 

Như một khúc Đường thi. Thi ảnh, tuy cổ điển, nhưng đẹp não nùng. Và, chao ơi, tiếng chổi. Sao lại tiếng chổi từ trong sân chùa một cách mơ hồ vọng ra? Sao không là tiếng tụng kinh, tiếng chuông, tiếng mõ vào buổi sớm? Chính sự bất ngờ ấy, đánh động tâm hồn khiến thi nhân giật mình, đã làm tăng thú vị khi đọc bài thơ. Bất ngờ hơn chuyện ông Trương Kế lúc từ Phong Kiều bước xuống thuyền nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn vọng lại. Bài thơ của Đỗ Nghê là bức tranh hiện thực được vẽ bằng bốn câu thơ năm chữ.

Và tiếng gà. À, thì ra ngôi chùa chẳng ở đâu xa mà nằm gần kề một thôn xóm quê nghèo. Nó cho ta cảm giác ám áp, gần gũi, thân thương. Cụm từ “vàng trong sương” là một thủ pháp tu từ mỹ học. Ở đây nó là điểm nhấn như điểm nhấn trong hội họa, để từ đó người đọc thơ có thể vin vào, đoạn phóng chiếu ra tổng thể một cảnh tượng lung linh bóng hình thật đẹp, gồm có cả hình ảnh lẫn ảo ảnh. Hình ảnh là ánh tinh quang nhạt nhòa trong sương sớm. Ảo ảnh là một thôn làng xa xôi rơi rớt trong mớ ký ức ngổn ngang buồn nhớ.

Ngôi chùa ở Hội An của Đỗ Nghê thân quen, gần gũi trong một tâm trạng cảm hoài nhưng một tâm thế u tĩnh, yên bình. Ngôi chùa Hàn Sơn của Trương Kế thì xa lạ, trống vắng trong một cảm giác bất an, mông lung, thậm chí bồn chồn, hoang mang, lạc lõng.

 

4.

 

Tình yêu là đề tài trong thơ của gần như mọi thi sĩ đông tây kim cổ. Tình yêu trong thơ Đỗ Nghê là một thứ tình yêu đằm thắm, nhẹ nhàng. Bạn đừng tìm kiếm những tứ thơ nồng cháy nóng bỏng, khốc liệt trong thơ ông. Ngôn ngữ tình yêu là những nét chấm phá thi vị. Và ý nhị, thâm trầm:

 

Cảm ơn em sợi bạc

Cảm ơn em sợi hung

Cảm ơn em năm tháng

Đã theo già cùng anh.

(Theo già)

 

Hay:

 

Lá chín vàng lá rụng về cội

Em chín vàng chắc rụng về anh…

(Lá)

 

Tôi thích những vần thơ tình nhẹ nhàng của Đỗ Nghê, bởi dù trong xa vắng, tình yêu của thi sĩ vẫn đẹp. Tháng năm trôi qua, đôi khi chạnh lòng nhớ lại kèm theo một chút bùi ngùi thương nhớ:

 

Hoa vàng đã rụng đầy sân vắng

Tình cũng ngùi phai theo tháng năm…

(Cố nhân)

 

Lòng còn vương vấn dù thời gian dâu biển bao mùa đã qua. Chẳng còn gì để nhớ, để thương… Không, hình như vẫn còn… Và chỉ chừng đó thôi đã đủ cho “ta” bồi hồi sung sướng:

 

Trái thông khô rớt vèo chiều tím

May mà còn ánh mắt dao cau…

(Tím)

 

Hình ảnh “bạo liệt” nhất trong thơ Đỗ Nghê là bài sau:

 

Anh đọc bài thơ tình

Em ngồi nghe lặng thinh

Anh đọc thêm bài nữa

Em vẫn ngồi lặng thinh

Anh buồn không đọc nữa

Em chồm lên hôn anh

Như dổ dầu vào lửa…

(Thơ tình)

 

Và, không kém quan trọng, tình yêu trong thơ Đỗ Nghê bao giờ cũng hòa quyện với tình yêu quê hương đất nước, với biển, cát, sóng, trời:

 

Anh… ngoằn ngoèo trên cát

Không ngờ mà hóa tên em

Biển xanh nắng vàng sóng bạc

Không ngờ cùng kéo đến xem…

 

Tình yêu trong thơ Đỗ Nghê là thứ tình yêu phổ quát, đẹp muôn đời, đáng ca tụng mãi mãi, thế hệ nào cũng có thể liên kết cá thể mình vào được. Ngôn ngữ ca ngợi tình yêu của thi sĩ giản dị, chân thành, biểu hiệu một tấm lòng thương quý dành cho món quà quý giá nhất Thượng đế ban cho loài người. Một món quà như thế mà hình như chúng ta đang đánh mất nó, đang để nó vuột khỏi tầm tay. Một mai không còn tình yêu nữa, chúng ta sống vô cảm, vô tính như một robot AI hay một con người văn minh, chỉ biết có khoái lạc nhục dục và soma gây mê, như Aldous Huxley miêu tả trong cuốn tiểu thuyết Brave New World của ông, thì liệu lúc đó con người có còn là con người nữa không? Đọc thơ tình Đỗ Nghê để giữ gìn, trân quý món quà Trời cho đó, xin bạn đừng bao giờ đánh mất.

 

5.

 

Ngôn ngữ thơ của Đỗ Nghê, nói chung, mang phong cách truyền thống. Cấu trúc và thi pháp cổ điển. Bởi thế, nhạc tính và cú điệu trong thơ du dương, trầm lắng.  Đêm trên biển Lagi là một bài thơ với niêm luật chỉn chu theo đúng tinh thần Đường thi. Ông không tìm kiếm sự cách tân trong thơ mình. Kỹ thuật được ưa chuộng bởi các nhà thơ cách tân, như thủ pháp đặt cặp phạm trù/ thi ảnh tréo ngoe liền kề, không hề thấy trong suốt thi tập. Chữ nghĩa ông thâm trầm, dung dị. Ông không nệ chữ, không chuộng sử dụng những từ lạ, hoa mỹ, không vắt dòng vô cớ, không tra tấn người đọc bằng những ký hiệu rối rắm, ngớ ngẩn. Nhưng chữ nghĩa của ông là thứ chữ nghĩa có trọng lượng và buộc người đọc thơ phải suy ngẫm, liên tưởng, để trèo từ tầng chữ nghĩa lên tầng cảm xúc của thơ, để khám phá, để đắm chìm vào những khung trời, trong đó tâm hồn mình được vuốt ve, yên ủi.

Tuy vậy, đó không phải loại thơ “khẩu khí” vốn đè nặng thi ca Việt Nam suốt mấy trăm năm qua và phần nào tiếp diễn cho đến ngày hôm nay. Thơ ông là tiếng nói, tiếng nói thầm thì nhưng trong veo và có sức mạnh chuyển tải cảm xúc, biểu hiệu cho một tâm hồn thơ giàu suy cảm.

Có thể có kẻ thấy thiếu vắng một ý thức lịch sử, xã hội hay chính trị trong thơ Đỗ Nghê, thiếu cả những thao thức, khao khát nội tâm, do đó, họ biện biệt, thơ thiếu chất sống, không tiếp cận với đời sống con người, thân phận con người, vốn là cơ bản cho tất cả các thao tác văn học nói chung, thơ nói riêng.

Tôi phản bác lập luận này. Đồng ý, thơ phải có một “đời sống thơ,” nhưng đời sống ấy không phải sinh ra để gồng gánh những trọng trách như minh họa kỷ nguyên lịch sử, miêu tả xã hội, bảo vệ ý thức hệ – dù là một ý thức hệ tốt đẹp – như Milan Kundera từng phát biểu nhiều lần. Mượn lời Kundera, tôi có thể nói là, thay vào đó, thơ tự cho nó một nhiệm vụ nói lên những điều “chỉ thơ mới nói được.” Ngôi nhà chữ nghĩa của thơ vốn ảo diệu, khó vào, thông thường chỉ mở lối cho người đọc thơ đi vào bằng con đường trực cảm hoặc linh cảm, thậm chí thần cảm. Khoác chiếc áo sứ mệnh nặng khôn kham lên thơ chỉ làm thơ thêm tội nghiệp và giết chết thơ.

Ý thức rất rõ về điều đó, nhà thơ Đỗ Nghê đã không khoác chiếc áo sứ mệnh lên thơ mình.

Nhưng “đời sống thơ” trong thơ Đỗ Nghê là gì, và ta phải hiểu như thế nào?

Nhờ thấm đẫm Thiền vị, như đã nói bên trên, thơ Đỗ Nghê thắt buộc sự hiện hữu của con người vào thế giới xung quanh, và quan trọng hơn, tìm ra được quan hệ hài hòa giữa sự hiện hữu ấy với thế giới. Con người và thế giới không là chủ thể-khách thể như được hiểu theo ý nghĩa triết học cổ điển, mà là một tương tác giao thoa. Triết học Hiện sinh đặt vấn nạn chúng ta bị ném ra ngoài thế gian này mà không biết tại sao. Chúng ta giống nhân vật thần thoại Hy Lạp Sisyphus, bị kết án vĩnh viễn lăn tảng đá lên đỉnh núi chỉ để nhìn nó lăn xuống lần nữa. Thơ Đỗ Nghê không thắc mắc chuyện đó. Thơ ông cho ta thấy khả năng con người nhận thức được thực tế của hiện tồn, để từ đó biết trực diện với khổ đau và cái chết, đối đầu với những thách đố của đời sống dựa trên sự thông hiểu sâu sắc về bản chất của hiện tồn.

Nhưng không thể gọi thơ Đỗ Nghê là thơ triết học. Đó là thơ. Thơ với tất cả những tố chất cố hữu của thơ. Bởi thơ ông không đưa ra một suy niệm tiên nghiệm nào, và bởi thơ đi thẳng từ trái tim thi nhân vào trái tim người đọc.

Đọc “thơ ngắn đỗ nghê” giữa một thế giới đảo điên như hôm nay, giữa một cuộc sống đầy gian truân, trắc trở, với tôi, là một hạnh phúc.

 

– Trịnh Y Thư

(Ngôn Ngữ số đặc biệt Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc, tháng 5/2024)

 

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

Minh Lê: Đọc và Cảm “Một ngày kia… đến bờ”

15/05/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Đọc và Cảm “Một ngày kia… đến bờ”

Minh Lê

Các tùy bút của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc thường ngắn, dễ hiểu và hấp dẫn như “tiểu thuyết”. Đã đọc là không dừng được. Từ ngữ giản dị, giọng văn thân mật, dí dỏm. Nhưng đừng tưởng bở, tác giả toàn viết kiểu “ý ở ngoài lời”. Đọc lần thứ nhứt, cười ha hả. Đọc lần thứ hai, cười tủm tỉm. Đọc lần thứ ba và thứ n, gật gù “đúng hen!”.

Rồi trong tập mới nhứt “Một ngày kia… đến bờ”, tác giả đổi kiểu viết. Nói chi tiết, cụ thể, tuy giọng văn vẫn rất “Đỗ Hồng Ngọc”. Anh Ngọc viết riêng cuốn này cho bạn bè “cùng một lứa”, những người nhiều kinh nghiệm sống và có hiểu biết về Phật pháp, nên với những người còn đang “bận rộn” và những người vừa mới “gió heo may đã về”, đoc vô rất dễ “tẩu hỏa nhập ma”.

Biết mình chưa đủ trình để hiểu, tôi thử cảm bằng… trái tim. Cảm nhận luôn chủ quan, nếu có chỗ nào sai mong Anh Ngọc sẽ cười tha thứ.

Trịnh Công Sơn viết trong bài “Phôi pha”: “Về ngồi trong những ngày, nhìn từng hôm nắng ngời, nhìn từng khi mưa bay”. Để thấy được vẻ đẹp của nắng, của mưa thì tâm ta phải bình an, không chộn rộn với suy tính, lo âu. Ai sống mà không suy tính, lo âu? Anh Ngọc dặn: “Khi thấy những ý tưởng nọ kia xuất hiện cũng là chuyện bình thường thôi. Cứ để tự nhiên. Nó đến rồi nó đi.” (tr. 89 – 90) Không thèm nghĩ nữa, cho hết mấy thứ “sinh sự” đó đi rồi thì lòng ta nhẹ, tha hồ “về lại nơi cuối trời làm mây trôi”.

Có người hỏi, nó cứ dính mắc hoài, làm sao buông? Vì cái hiểu “đủ duyên thì hiện, hết duyên thì tan” có thể vô đầu ta mà chưa vô được trái tim ta. Ta không chịu chấp nhận “chuyện phải tới nó sẽ tới”, rằng không phải lúc nào nắng cũng hay, mưa cũng đẹp. Anh Ngọc giải cứu liền: “Chẳng vì ta mà hoa nở, hoa tàn. Chẳng vì ta mà gió mát trăng thanh. Nhưng ta biết thưởng thức. Ta enjoy cuộc sống của mình trong từng giây phút.” (tr. 43) Nếu lúc nào ta cũng biết thưởng thức và “cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy” thì ta sẽ “ung dung, tự tại, an nhiên” (tr. 43).

Nhưng chừng đó chưa đủ. Câu hỏi “ta là ai, tại sao ta sinh ra và khi chết sẽ đi về đâu” vẫn còn ám ảnh. Cả vũ trụ này là một khối năng lượng, và định luật bảo toàn năng lượng đã được các nhà khoa học khẳng định từ lâu: “Không có năng lượng nào tự sinh ra hay mất đi, chúng chỉ thay đổi từ dạng này qua dạng khác”.

Ai làm chủ sự thay đổi đó? “Stephen Hawking bảo chắc chắn phải có một design, một thiết kế vĩ đại từ trong con virus đến khủng long… nhưng không có designer, không có nhà thiết kế. Nhưng tôi tin có một cái gì đó, gọi bằng tên gì cũng được, tạo ra cái trò chơi này và ngắm nghía thú vị.” (tr. 13) Cái “trò chơi” này, nói nôm na là game, nó vô cùng vô tận, nên chúng ta, người chơi game, cũng sẽ chơi dài dài.

Mục đích của game là Chân – Thiện – Mỹ, level của thế gian là đạt thành Phật, thành Phật rồi sẽ được “chơi” cấp cao hơn. Tuy vậy có những vị Phật và Bồ Tát muốn giúp chúng sinh mau lên level, nên chịu khó dạy bảo, dẫn dắt như đàn anh trong game chỉ cho đàn em cách đánh quái vật. Và khi đàn em thua hoài thì được an ủi: “Phật cười: Ta là Phật đã thành, Ông là Phật sẽ thành!” (tr. 47) Hồi nhỏ dù ta học dốt tới đâu mà có một thầy cô tin tưởng khuyến khích, chắc chắn ta sẽ gắng học và trở nên giỏi hơn. Phật biết rõ điều đó!

“Ai nói gì không biết chớ tôi tin có kiếp trước kiếp sau. Phải có, mới tạo được sự công bằng, hoàn hảo chứ!” (tr. 105) Rốt cuộc ta là ai? Ta là một khối năng lượng có ý thức, nhờ duyên mà mượn thân xác kiếp này để học những gì cần học, học chưa xong ta lại sang kiếp sau học tiếp. Sau mỗi lần “ngủm” trong game, ta lại hồi sinh với nhiều kinh nghiệm hơn, có khả năng tới gần đích hơn. Một ngày nào đó trong tương lai, ta sẽ đạt tới level của Phật.

Vậy có gì đâu mà buồn mà sợ? Anh Ngọc nói không chỉ cần sống vui (well-being) mà còn cần chết vui (well-dying). Biết cái chết là tất yếu, nên sống hết mình từng giây phút để không tiếc nuối khi cái chết đến – đó là “chết vui”. Biết sống vui thì ta sẽ dễ dàng “chết vui”, ngược lại ngộ ra “chết vui” thì sống vui đâu có khó.

“Một ngày kia đến bờ, đời người như gió qua.” Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc luôn là cơn gió nồm nam mát rượi thổi bay sự oi bức trong đầu và trong lòng người đọc. Mọi thứ rồi sẽ “phôi pha”, nhưng những lời khai ngộ của Anh còn được nhớ hoài, như “bàn chân ai bước nhẹ, tựa hồn những năm xưa”.

Minh Lê

(Nha Trang, 05/2024)

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống

“Phép lạ là đi trên mặt đất” (tiếp theo)

08/04/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc 1 Bình luận

 

Thư gởi bạn xa xôi (tiếp theo)

“Phép lạ là đi trên mặt đất”

Như đã hứa, mình tiếp tục phần hoạt động “ngoại khoá” của mình để bạn coi cho vui nhe. Cũng xin chia sẻ với vài hình ảnh thôi. Làm biếng quá rồi!

Ngay buổi chiều đầu tiên đến Mũi Né, một vài vị đã đề nghị mình “kể chuyện học Phật”. Sc KN bảo, năm 2008, tại Huế, trong Tuần lễ Văn hoá Phật giáo, Sc có dịp dự, đã được nghe mình trình bày về Thở và Thiền rất ấn tượng.

Chị Nga, một doanh nhân có mặt kể chuyện 40 năm trước đã từng mang con gái 2 tuổi đến mình khám chữa bệnh, mình tiếp ở phòng khách chớ không có phòng mạch, và chỉ dặn cho bé ăn thêm dầu ăn để tăng cường calorie mà không cho thuốc men gì thêm. Vậy mà bé hết suy dinh dưỡng, hết bệnh, nay đã là cô giáo một ngôi trường lớn ở Sài gòn. Hồi đó mình nhớ mỗi khi khám bệnh cho một em bé`thì thường cho các bà mẹ khác bế con đứng sau lưng nghe… lóm. Đây là một phương pháp “giáo dục sức khoẻ” tốt nhất!

“Tiếng lành đồn xa”, sáng hôm sau, đã có buổi “văn nghệ” đặc biệt, khá rôm rả. Sư cô HN tặng mình cuốn “Tình Thầy” và đọc 2 bài thơ trong tập thơ “Đôi Khi” rất hay của Sư cô. Mình “đáp lễ” bằng cách đọc bài thơ “Thư cho bé sơ sinh”, viết từ năm 1965 ở Bệnh viện Từ Dũ, rồi bài “Trong một nhà giữ lão ở Montreal” viết năm 1997 ở Canada, sau cùng là bài Bông hồng cho Mẹ. Lê Bá Thông ôm đàn hát tiếp bài thơ của Đỗ Trung Quân về Mẹ thật cảm động. Rồi một vị sư cũng ôm đàn hát thêm mấy bài nữa. Buổi họp mặt tạm ngừng khi đoàn doanh nhân vừa tụ tập về đến Mũi Né, chuẩn bị cho buổi Khai mạc.

Thấy Pháp Lâm ở Darlak gởi tặng mình bản thư pháp do thầy vừa mới viết xong. Buổi trò chuyện bên lề trên bãi cỏ xanh cùng các bạn trẻ doanh nhân sau khi đi thiền hành về rất vui.

Theo yêu cầu của các bạn trẻ và cả các vị “xuất sĩ” muốn mình đọc bài thơ Mũi Né ngay tại Mũi Né này. Mình nói đây là bài thơ tình, có nên đọc ở đây không?

Càng tốt, sao không!

Vậy là mình đọc. Em có về thăm Mũi Né không? Hình như trời đã sắp vào xuân…

Một cô bé bỗng mở bài hát Mũi Né do nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo phổ nhạc với tiếng hát Thu Vàng…  da diết. Không khí trầm lắng hẳn. Năm nay người có về ăn Tết/ Có ngậm ngùi nghe chút ấu thơ?

Đọc bài thơ Mũi Né ở… Mũi Né.

 

Buổi tối 29.3.2024, trước buổi Toạ Đàm, mấy bạn trẻ còn yêu cầu mình nói vài điều đáng nhớ. Đang ở biển, mình nói về Sóng và Nước. Về “bổn lai vô nhất vật”. “Ta xô biển lại sóng về đâu…?” (TCS). Rồi nói chút về Năng lượng. Về điện. Về thể, tướng và dụng… vì đang ngồi trong quán Bar, đèn sáng trưng!

Trò chuyện với các doanh nhân trẻ (tối 29.3.2024 tại Mũi Né)

Chỉ có vậy. Thôi nhé,

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc

(Saigon 8.4.2024)

Thuộc chủ đề:Ghi chép lang thang, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Uncategorized

“Phép lạ là đi trên mặt đất”

06/04/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

Thư gởi bạn xa xôi (tháng 4. 2024)

“Phép lạ là đi trên mặt đất”

Đó là Khoá Thực hành cho Doanh nhân, lần thứ 6, tổ chức tại Mũi Né, Phan Thiết, do CLB Doanh Nhân Saigon phối hợp với các Sư Thầy Sư Cô Làng Mai từ nhiều nơi về hướng dẫn… Có các vị từ Pháp, từ Thái Lan, từ Huế, từ Ban Mê Thuộc, từ Cam Ranh, từ Đồng Nai… với hơn 20 vị và với trên 200 doanh nhân về tham dự trong 4 ngày tại một Resort rộng rãi, đẹp đẻ của khu du lịch nổi tiếng Mũi Né.

Mình không phải doanh nhân, cũng không xa lạ với các phương pháp tu tập của Làng Mai, nhưng vừa học xong Phẩm “Nhập Pháp Giới” của Kinh Hoa Nghiêm với Nhóm Học Phật ở chùa Xá Lợi nên  muốn trực tiếp “nhập” một phen xem sao. May mắn là Ban Tổ chức có các bạn Lê Bá Thông, chị Yến Ngọc (dân Phan Thiết) nên các bạn “hoan hỷ” cho mình đi ké, bên lề, không bị “dính” gì với Chương trình thực tập nghiêm túc, mình chỉ quan sát, ghi nhận, ngẫm nghĩ, phù hợp với sức khỏe, tuổi tác, cùng thói quen “tuỳ nghi, tự tại… vô ngại” của minh. Đã vậy mình chỉ tham dự được vài hôm thôi, vì phải về quê ở La Gi dự Họp Mặt bà con họ Đỗ mà mình nay đã gần là… Trưởng lão, với tuổi 85 rồi (Tuổi ta!).  Dù vậy, BTC đã không quên mời mình tham gia vào buổi Toạ đàm ở ngày thứ hai, về 5 Phương pháp Thực tập Chánh niệm, sẽ là nền tảng vững bền cho Doanh nghiệp, trên Chủ đề chung của Khoá thực hành này: “Phép lạ là đi trên mặt đất”…

Phải nói là BTC đã khéo léo sắp xếp một Chương trình “thực hành” vô cùng phong phú.  Có thiền tập, thiền ca, có pháp thoai, pháp đàm, tham vấn, lửa trại, đọc thơ, thiền hành… Mình chỉ hơi tiếc, giá thời gian kéo dài được vài tuần hẳn mọi người sẽ “thấm” sâu hơn. Nhưng không lo. Những người đến đây đều đã học Phật từ lâu, nay muốn có dịp trải nghiêm thực hành với những phương pháp cụ thể ra sao và dĩ nhiên sau đó sẽ thực hành dài lâu trong đời sống hàng ngày. Phần mình dĩ nhiên cũng có nhiều buổi “ngoại khoá’ với Chương trình kể chuyện, đọc thơ, ca hát, trao đổi… cũng không kém phần thú vị, sẽ kể riêng bạn sau nhe.

Như thường lệ, mình chỉ đưa lên đây một ít hình ảnh để chia sẻ cùng bạn xa xôi.

 

 

 

 

Hoàng hôn trên bãi biển Mũi Né (27.3.2024)

Bình minh trên bãi biển Mũi Né (28.3.2024)

Đi dạo quanh vườn.

 

 

 

 

 

 

 

Toạ đàm tối 29.3.2024 (từ trái: Thầy Linh Thứu, Doanh nhân Thuỳ Dương, Sư cô Khải Nghiêm, Doanh nhân Lê Bá Thông, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc).

 

Mỗi ngày đều có buổi thiền hành trên bãi biển Mũi Né.

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc.

(Saigon 6.4.2024)

Thuộc chủ đề:Ghi chép lang thang, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

Sư Giới Đức: Vài Lời Về Dịch Phẩm “Vị Thánh Tăng Cận Đại”

23/02/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Ghi chú:

Mùng 4 Tết Giáp Thìn (13. 02. 2024), tại Huyền Không Sơn Thượng, Huế, Sư Giới Đức trao cho tôi cuốn sách này, và dặn dò, bác sĩ nhớ đọc kỹ nhe.  Và, tôi đọc kỹ, ngạc nhiên, thì ra có một vị Sư đã “học” và đã “hành” Phật pháp theo “một lộ trình tu tập” như vậy đó…

Đỗ Hồng Ngọc.

 

Vài Lời Về Dịch Phẩm

“Vị Thánh Tăng Cận Đại”

 

Tỳ-khưu Giới Đức

(Minh Đức Triều Tâm Ảnh)         

Sư Tường Phát, đệ tử của ngài Pháp Tông, chùa Huyền Không-Huế, trao tôi một tập bản thảo dày hơn một trăm năm mươi trang khổ giấy A4, nói đây là bản dịch của một nhóm Phật tử chùa Bửu Long, đệ tử của thiền sư Viên Minh, về cuộc đời của một vị Thánh, nhờ tôi xem và nhuận sắc.

Nghĩ là cần một vài lời giới thiệu để độc giả nắm bắt khái lược những chi tiết nội dung mà tôi cho là hay, là độc đáo, là cần thiết cho mọi người tu Phật.

 

1- Đại đức Mahn Bhūridatta, sinh năm 1870 và mất năm 1949 tại Thái Lan, ngài khởi tâm tu và xuất gia từ nhỏ, học hành không được nhiều. Sau khi thọ giới tỳ-khưu năm 22 tuổi rồi theo thầy là đại đức Sao cùng vào núi rừng tu hạnh đầu-đà, và thọ trì được bảy trong mười ba chi pháp của đời sống khổ hạnh này.

2- Nhờ đại đức Sao hướng dẫn vài cách thức tập thiền ban đầu, sau đó ngài phải tự mày mò hành trì một mình. Khi gặp những hoài nghi hoặc bế tắc nào đó, đại đức hỏi thầy thì thầy đáp, đại lược là: “Tâm của ông khác tâm của tôi, vậy ông hãy tự tìm ra phương pháp, giải pháp cho mình”. Nghĩa là, bắt đầu từ đó, đại đức không còn ai là thầy nữa trên lộ trình đầy cam go, gian khổ để giải quyết những tham sân, phiền não của chính mình.

3- Không bao lăm chữ nghĩa, không trang bị kinh điển, không có thầy trực tiếp hướng dẫn, đời sống hoàn toàn cơ cực, thiếu thốn nhưng đại đức đã quyết tâm tự tu tập một cách kiên trì và bất khuất. Đối diện với cọp dữ, voi rừng, ma thiêng, chướng khí, đói rét… đại đức không hề thối chí, ngả lòng. Những khi ốm đau, nhất là bị bệnh sốt rét hành hạ, đại đức không dùng thuốc men, chỉ sử dụng “pháp dược” tự chữa trị cho mình. Và suốt đời, đại đức đã dùng “pháp” để đánh bại tất cả chướng ma ngoại giới cũng như nội tâm.

4- Lộ trình tu tập của đại đức ban đầu là thiền định; có định sâu, thành tựu một vài thắng trí, có thể cảm hóa hung thần, có thể đi thăm thiên đường, địa ngục. Sau, đại đức chuyển sang tu tập vipassanā, tuệ quán cho đến lúc giải thoát tất thảy mọi tham sân phiền não. Từ đó, đại đức tuyên bố định-tuệ song tu, không có tuệ thì định có thể bị lầm lạc, dính mắc.

5- Đại đức có giới luật nghiêm minh, suốt đời thân giáo, giáo giới nghiêm khắc, không mệt mỏi đến chúng đệ tử, nhất là chư sư đầu-đà khổ hạnh. Đại đức đã làm sống lại bảy trong mười ba pháp hạnh đầu-đà, đồng thời thổi vào nếp sống thiền môn không khí tu tập cổ xưa thời đức Phật, đấy là giới, định, tuệ một cách rất điển hình, mẫu mực và nghiêm túc. Các vị thiền sư nổi tiếng ở Thái Lan đương đại, đều là lớp đệ tử thế hệ thứ hai, thứ ba, thứ tư… nối tiếp được truyền thừa này và hiện đang phổ cập trên thế giới.

Tuy nhiên, điều tôi tâm đắc để giới thiệu cuộc đời đại đức không chỉ do tất thảy các tiêu biểu kể trên mà còn chính là “lộ trình tu tập”! Đa phần người ta thường nghiên cứu kinh điển, tìm nghĩa lý, nắm rõ giáo pháp rồi mới hạ thủ công phu. Lộ trình ấy tạm đúc kết theo tiến trình thứ tự là giáo, lý, hành và quả. Trường hợp này là phổ thông trên thế giới, xưa và nay vì dựa vào kinh điển. Tuy nhiên, nếu điểm tựa kinh giáo (giáo) chỉ cần bị “khúc xạ một ly” thì ý nghĩa (lý) trong đó đã “lệch lạc một dặm”; do đó, việc tu tập (hành) không biết đắc được cái đạo (quả) nào? Người dựa vào kinh điển hoặc chưa chứng nghiệm, giác ngộ, giải thoát mà đã dạy đạo, dạy thiền thường rơi vào trường hợp “sai một ly, đi một dặm” nêu trên.

Đại đức Mahn Bhūridatta không đi theo công thức ấy, vì có điều thật lạ lùng là ngài chẳng có giai đoạn giáo và lý; tuy có hành nhưng không có kinh điển, không có thầy, thế là tự mình mầy mò cho đến lúc giác ngộ (quả) giải thoát luôn. Sau đó mới xuống non hoằng pháp. Vậy thì đại đức đã đi ngược lại tiến trình do chư “học giả Phật giáo” thiết định. Đại đức đã đi thẳng, trực tiếp từ tâm, học “cái thực” từ nơi tâm, miệt mài đối trị, chuyển hóa, phấn đấu, lắng nghe, nhìn ngắm, “điều tra” cái bộ mặt thực của tham sân si nó ra sao – hoàn toàn trong cô liêu, đơn độc và thầm lặng. Sau khi giác ngộ, giải thoát (đạo) rồi, đại đức mới hướng dẫn đệ tử tu tập (hành) từ “cái thực” mà ngài đã chứng nghiệm. Lý và giáo như thực cũng từ đó mà sinh ra. Thật không ngạc nhiên gì, khi sau này, đại đức đọc kinh điển rồi giải thích nghĩa lý (lý, giáo) cho chư đệ tử nghe mặc dầu ngài không rành thông hoặc kinh qua kinh điển. Trường hợp này là đại đức chỉ lấy kinh điển để so sánh, đối chiếu với tâm và tuệ của mình thôi.

Con đường tu tập được bắt đầu học “cái thực” từ nội tâm là đúng đắn, là chơn chánh. Tứ đế nằm ở đấy. Chân lý, Sự Thật, Thắng Nghĩa, Tự Tánh, Bản Lai Diện Mục, Vô Vị Chân Nhân, Đạo, Niết-bàn, Bờ Kia, Tuyệt Đối, Bất Tử, Vô Sanh, Chân Phúc… ở đây và bây giờ trong mỗi chúng ta, trong tương quan vận hành duyên khởi. Nó không có biên ranh giữa tiểu thừa, nguyên thủy, đại thừa, kim cương thừa, Zen, thiền tông…

Viết đến đây, tôi sực nhớ cách đây khoảng mười mấy năm về trước, thiền sư Viên Minh đã thuyết giảng “cái thực” này tại Huế, sau đó, Phật tử ở Pháp xin in và họ lấy tên là “Thực tại hiện tiền”. Thiền sư Viên Minh là người đã bác lãm chư kinh điển Đại Thừa, đã nghiên cứu thấu đáo tinh hoa của Khổng, Lão; lại còn suốt thông các Nikāya và Abhidhamma, nhưng khi tu tập, ngài không trụ, không ly chư kinh giáo, lắng nghe “cái thực” trong tâm mà xử lý mọi vấn đề vi tế ở nội tâm. Khi đã nắm chắc, thấy rõ “cái thực” là gì rồi, nhiều năm nay, thiền về “cái thực” này đã được ngài giảng nói qua cả hằng chục khóa thiền ở Bửu Long, Hà Nội, Đà Nẵng, Huế, Úc, Malaysia, Mỹ quốc, Châu Âu… Ngài đã chỉ bày, gợi mở cho mọi người nắm “cái nguyên lý” mà lên đường chứ không đi qua “pháp môn phương tiện” nào cả! Và đã giúp cho rất nhiều hành giả giải thoát khỏi những vướng mắc về kinh giáo, lạc định, ước lệ, phạm trù của tâm trí cùng những bản ngã sở đắc! Trả vô thường lại cho vô thường, trả dukkha lại cho dukkha, trả vô ngã lại cho vô ngã! Và rồi, chư kinh giáo, nếu có nói đến cũng chỉ để nhằm đối chiếu, so sánh với “cái thực” này mà thôi!

Pháp đang hiện tiền, “cái thực đang hiện tiền” và nó luôn thuyết pháp không ngưng nghỉ, ngày cũng như đêm. Ai có tai hãy nghe, có trí hãy tìm hiểu!

 

Huyền Không Sơn Thượng, 

Mai Trúc Am, Sơ Xuân Giáp Ngọ

Tỳ-khưu Giới Đức

(Minh Đức Triều Tâm Ảnh)

 

Ảnh: Tịnh Thy

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Gươm báu trao tay, Lõm bõm học Phật

Mùng Một. Giáp Thìn 2024

10/02/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Mùng Một. Giáp Thìn 2024

Năm Mới. Tháng Giêng. Mùng Một Tết

Còn nguyên vẹn cả Một Mùa Xuân

(Nguyễn Bính)

 

Thiệp Xuân Giáp Thìn 2024.
Đinh Trường Giang

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

“VỀ THU XẾP LẠI…”

09/02/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

“VỀ THU XẾP LẠI…”

Nguyễn Thị Tịnh Thy

 

 

Ở tuổi 55, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc bần thần viết “Gió heo may đã về”, đến 60 thì viết “Già ơi… chào bạn!” như một reo vui, đến 75 còn… ráng viết “Già sao cho sướng?…” để sẻ chia cùng bè bạn đồng bệnh tương lân. Nhưng 80 thì thôi vậy. Đã đến lúc phải “VỀ THU XẾP LẠI”.
“Về thu xếp lại”… bởi “chút nắng vàng giờ đây cũng vội”…, “giật mình ôi chiếc lá thu phai”…
“Về thu xếp lại… bởi “cát bụi tuyệt vời” đã chuyển thành “cát bụi mệt nhoài”
“Về thu xếp lại…, “một ngày kia đến bờ”…, “đời người như gió qua”.
Hãy đón nhận ngày đó một cách bình thản, an nhiên như “mệt quá đôi chân này, tìm đến chiếc ghế nghỉ ngơi; mệt quá thân ta này, nằm xuống với đất muôn đời…” Có gì đâu! Nhẹ tênh mà!
Lấy cảm hứng từ những ca từ đầy tính triết lý phận người nhẹ nhàng mà sâu sắc của Trịnh Công Sơn, Đỗ Hồng Ngọc sẽ đưa chúng ta đến với các U80 bằng y học, tâm lý học, Phật học… trong dặt dìu của âm nhạc, thi ca.

 

minh hoạ Đỗ Trung Quân

Dí dỏm, duyên dáng, chất khoa học đan quyện trong chất nghệ thuật, sự nghiêm trọng chuyển tải qua các ngôn từ hài hước của cuốn sách nhỏ sẽ giúp những người già dễ dàng lắng nghe chính mình. Và đặc biệt, người trẻ sẽ hiểu hơn về người già.

minh hoạ Đỗ Trung Quân

Hiểu gì?
Hiểu rằng người già khó ăn, khó ngủ, khó tính, … nhưng lại dễ yêu: “…Có vẻ như càng già người ta càng yêu nhiều hơn, yêu vội hơn và càng yêu thì càng “sống khỏe sống vui” hơn! Khi “chút nắng vàng giờ đây cũng vội” thì mới thấy còn có bao nhiêu thời gian để yêu thương và được yêu thương? Dĩ nhiên, tình yêu bấy giờ có thể chỉ là một mối tình lãng mạn, hoặc một mối tình “ngỡ đã quên đi/ bỗng về quá rộn ràng”… để rồi “như bờ xa nước cạn/ đã chìm vào cơn mưa”. Tình yêu lãng mạn có ý nghĩa rất lớn ở người có tuổi. Như “nuôi sống” họ bằng tình yêu. Hình như họ chỉ giữ được chút kích thích tố vừa đủ để “lãng mạn” cho cuộc đời đẹp ra, đáng sống hơn, sức khỏe cũng tốt hơn vì nó làm cho tim đập nhanh hơn, tuần hoàn não tốt hơn, trí tuệ minh mẫn hơn, hệ thống miễn dịch hoạt động tốt hơn, ít bệnh vặt hơn và nếu có bệnh thì rất mau lành!”

Có chắc như thế không nhỉ? Các anh chị em Tag vào Facebook của ông bà nội, ông bà ngoại xem các cụ comment thế nào nhé!
****
FB Nguyễn Thị Tịnh Thy.

(“Về thu xếp lại”, Nxb. Tổng hợp tp HCM, 2019, bìa Lê Ký Thương)

Thuộc chủ đề:Già ơi....chào bạn, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

Thư gởi bạn xa xôi (30 Tết)

09/02/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Thư gởi bạn xa xôi (30 Tết)

Có gì lạ không ư? Có đó. Sáng 30 Tết, không khí như loãng ra, trời như cao hơn, đất như rộng hơn. Im ắng lạ thường. Không một tiếng động dù là tiếng rao bánh mì nóng, xôi vò xôi đậu, thậm chí không có một tiếng động cơ xe ầm ào như mấy ngày trước. Lạ. Ba mươi thì có khác gì đâu. Cũng hai mươi bốn giờ, mỗi giờ cũng sáu mươi phút, mỗi phút cũng sáu mươi giây. Vậy mà lạ mới kỳ chớ.

Nghe cho kỹ thì ra có cái gì đó. Hình như mùa đang chuyển. Hình như trái đất vừa quay được một vòng quanh mặt trời và hớn hở mĩm cười như đã thành công! Trời bỗng hơi bẽn lẽn se lạnh. Không khí loãng ra, không còn đặc quánh với bụi khói, với tiếng ồn kia nữa. Không khí ùa vào phổi, chẳng cần phải ráng hít thở chi.

Nhớ André Maurois, một hôm ngồi uống cafe sữa ở vỉa hè Paris, khi quậy lên từ đáy cốc thì thấy sữa cuộn lại và lốm đốm những hạt li ti, quấn quít, trắng đục. Ông kêu lên: Dải Ngân Hà đây rồi. Và biết ngay đã có một ai kia quậy một ly cafe sữa tình cờ đâu đó mà ra ngàn vạn dải Ngân Hà xoắn tít xưa nay trên bầu trời vời vợi kia.

Bỗng nhớ Sóng về đâu của Trịnh Công Sơn. Biển sóng biển sóng đừng xô nhau. Ta xô biển lại sóng về đâu! Thì về với nước. Có mất đi đâu. Nhưng không cần thiết phải xô nhau. Chỉ cần nước, gió, và bãi bờ  để làm duyên cho sóng. Có khi rầm rập vỗ tan vào gành đá, có khi lướt thướt mượt mà chạy cuốn loanh quanh. Nó như có một số phận. Một cái nghiệp và duyên khởi thì duyên sinh.

Có lần tôi viết bài thơ ngắn:

Sóng

Sóng quằn quại

Thét gào

Không nhớ

Mình

Là nước…

(ĐHN, Thơ Ngắn Đỗ Nghê)

Và nhớ năm 2011, một con sóng thần đã ập vào Nhật bản, quét sạch cả một thành phố… Tôi đã viết bài thơ Giả sử

đỗ hồng ngoc

Giả sử sóng thần ập vào Nha Trang

Ập vào Mũi Né

Anh chị kịp quẳng em lên một chiếc thuyền thúng

Vút qua những ngọn dừa

Những đồi cát trắng

Em nhớ mang theo đôi quả trứng

Vài nắm cơm

Vài hạt giống

Đừng quên mấy trái ớt xanh

 

Biết đâu mai này

Ta làm An Tiêm

Trở về làng cũ

Nơi này ta sẽ gọi là Nha Trang

Nơi kia gọi là Mũi Né

 

Cho nên

Sao chẳng sớm mà thương nhau hơn?…

(ĐHN)

Bạn biết không, không phải vô cớ mà nhà thơ Nguyễn Đình Toàn viết: Còn đêm nào vui bằng đêm Ba mươi… Anh nói với người phu quét đường. Xin chiếc lá vàng làm bằng chứng yêu em…

Chiếc lá vàng làm “bằng chứng” ư? Chớ còn gì nữa. Chiếc lá vàng, rụng rơi xuống đất kia chẳng đủ làm bằng chứng rằng anh sẽ yêu em mãi đến như chiếc lá vàng kia đó sao?

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc.

(Saigon, 30 Tết Giáp Thìn 2024)

 

Thuộc chủ đề:Ghi chép lang thang, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

Thư gởi bạn xa xôi (1.2024)

29/01/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc 3 Bình luận

Thư gởi bạn xa xôi (1.2024)

Vài hình ảnh về chuyến đi Phú Yên

Lâu lắm không có dịp đi xe lửa, nên cả Nhóm Học Phật chùa Xá Lợi đều háo hức đi Phú Yên một chuyến từ lời mới của Thầy Thiện Đạo, trụ trì chùa Phi Lai nhân dịp Lễ Phật Thích Ca Thành Đạo, mùng 8 tháng 12. Mình thì từ hồi còn ở Phan Thiết theo xe lửa vào học Sàigon thường xuyên rồi nên càng nhớ. Từ lúc hơn 10 tuổi mình đã lẩn quẩn ở Ga Mương Mán rồi nên không hề xa lạ. Thời trẻ, đưa bạn bè lên xe lửa cũng dễ dàng, tiễn biệt chia tay, hẹn hò… rồi còi hú lên mới vội vã nhảy xuống xe. Có người tàu chạy rồi còn chạy theo… Xe lửa thời đó chạy than, lửa bắn tung toé theo từng bánh xe nghiến lăn trên đường sắt… Và, những bài hát xưa còn nhớ chớ phải không? Em đứng đây chờ anh đã từ lâu/ sân vắng thưa người đêm cũng buồn theo/ một con đường sắt trăm con tàu/ mưa nắng sớm khuya trưa chiều/ người nhớ người thương người yêu… Rồi nhớ cả Tế Hanh: Những ngày nghỉ học tôi hay tới/ Đón những tàu đi đến những ga… /tôi thấy tôi thương những chuyến tàu/ ngàn đời không đủ sức đi mau/ có chi vương víu trong hơi máy/ mấy chiếc toa đầy nặng khổ đau… Bây giờ thì nhiều nước đã có xe lửa đầu đạn 350km/giờ! Cho nên chán ngắt! Vừa rồi có một nữ du khách nước ngoài mê mẫn chuyến tàu cà rịch cà tang của Việt Nam, đi từ Nam chí Bắc vừa được ngắm cảnh sắc, vừa được gặp gỡ, làm quen với biết bao cảnh đời, cảnh người… hết sức thú vị.

Thôi trở lại chuyến đi Tuy Hoà của mình nhe. Chỉ xin chia sẻ vài hình ảnh như thường lệ thôi.

háo hức, chưa tới giờ đã chen vào toa

 

Còn gì vui hơn cả bọn chen chúc vào cùng một phòng trong toa, mặc sức… mà ăn uống và trò chuyện ầm ỉ cũng không sợ làm phiền ai, vì xe chạy rầm rầm… Nhìn cảnh hai bên đường hết sức thú vị. Đi ngang Phan Thiết (Bình Thuận) đã vào đêm, đèn sáng rực hai bên đường từ những vườn thanh long thấy tội nghiệp! Tội nghiệp vì thanh long… tưởng mặt trời vẫn đang còn sáng, bèn ráng sức ra hoa, kết trái… !

 

Nói chuyện suốt đêm không chợp mắt nổi. Tuổi già, mình đành uống chút thuốc ngủ… nên ngủ được chừng 5 phút! Sáng rồi. Ga Tuy Hoà đây rồi. Thầy Thiện Đạo đã cho xe đón, đưa về Ks Hùng Vương, trung tâm Tuy Hoà, cách biển không xa. Mới mấy năm, Tuy Hoà khang trang, rộng rải, khác lạ quá! Buổi Lễ Thich Ca thành đạo tại Chùa Phi Lai khá đông Phật tử gần xa. Mình được đề nghị phát biểu. Thầy Thiện Đạo trang trọng giới thiệu – mà thiệt ra nhiều người cũng đã quen biết mình từ lâu qua sách báo, qua các clip học Phật ở Chùa Xá Lợi Saigon. Cho nên mình chỉ xin nói chút xíu về “Tại sao tôi học Phật?” là đủ. Tuy Hoà ngày nay, so với 15 năm trước mình từng ghé đến khác xa nhiều quá. Nhớ một câu ca dao quê mình:  Đa tình con mắt Phú Yên/ Đồng Nai đi cưới  một thiên mắm mòi/ Hổng tin giở hộp ra coi/ Rau răm ở dưới mắm mòi ở trên… Bây giờ có câu: “Cá mòi Phan Thiết/ Sò huyết Ô Loan”… Phú Yên là vựa lúa miền Trung, có đầm Ô Loan, có vịnh Xuân Đài, có hàu, có tôm hùm, có chè, có bánh canh, có bún chả cá, có bánh hỏi lòng (!)… Có Cafe Tùng nổi tiếng, dựa vào bờ núi Nhạn, có Tháp Nhạn, có Đập Đồng Cam, có Gành Đá Đĩa có Nhà  thờ Mằng Lăng, Chùa Đá Trắng, chùa Hội Tôn, chùa Thanh Lương, cầu gỗ Ông Cọp… đặc biệt, có Nghinh Phong hứng gió lộng bốn phương.

Nghinh Phong, mùa gió bấc muốn bay cả người…

Núi Chóp Chài nhìn từ Tháp Nhạn.

Tháp Nhạn

Linh mục Thái hướng dẫn đoàn thăm Nhà thờ Mằng Lăng, giới thiệu cuốn sách xưa chữ quấc ngữ VN thời Alexandre de Rhodes, Thế kỷ thứ XVII. Thật thú vị.

Gành Đá Đĩa. Tại đây có thể nghe ban nhạc dân tộc đánh đàn đá và uống nước dừa, ngon không thua dừa Mũi Né.

Không quên thăm Đập Đồng Cam. Chính nhờ Đập Đồng Cam đã xây dựng từ trên trăm năm trước và duy trì phát triển đến ngày nay mà cánh đồng lúa Phú Yên xanh bát ngát.

Đã đến lúc tạm biệt những bạn bè Phú Yên. Hẹn ngày gặp lại. Cảm ơn bạn Phùng (PĐP), anh Lực, cô Hồng (Diệu Viên), anh Bình, cháu Minh, tài xế…

Dịp này được thăm Ngân Sơn (Tuy An), quê hương Thiền sư Liễu Quán, nhà văn Võ Hồng, được thăm Tháp tổ Tế Viên gần Nhà thờ Mằng Lăng … nhưng chưa gặp Trần Huiền Ân với Nguyễn Lệ Uyên, những người bạn văn thân thiết…

Bãi Xép với mình vẫn là nơi tuyệt đẹp.

Bãi xép, dưới chân đồi vẫn rất đẹp nhưng “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” thì nay khô héo quá, đáng tiếc!

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Về đến Saigon, mình còn nghệch ngoặc một bức tranh kỷ niệm (vẽ bằng ngón tay nhe, đừng cười!).

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc.

 

 

 

 

 

 

Thuộc chủ đề:Ghi chép lang thang, Góc nhìn - nhận định, Vài đoạn hồi ký

Thư viện Hoa Sen: Một Ngày Kia… Đến Bờ (Song ngữ Việt-Anh)

22/01/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc 1 Bình luận

 

https://thuvienhoasen.org/a40640/mot-ngay-kia-den-bo-one-day-reaching-the-other-shore-song-ngu-vietnamese-english-

“MỘT NGÀY KIA…ĐẾN BỜ”(*)
Tuỳ bút
Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc
Saigon, tháng 6.2023

Thật đáng buồn, là phần đông chúng ta chỉ bắt đầu thưởng thức được hương vị đời sống khi chúng ta sắp sửa chết.  

Padmasambhava (Liên Hoa Sanh)

Một ngày kia… đến bờ?

 

Lời ngỏ

Bờ nào? Bờ bên kia hay bờ bên này? Đáo bỉ ngạn? Là mong cho tới bờ bên kia? Ý rằng bờ bên kia hẳn là hay hơn, đẹp hơn, tốt hơn bờ bên này? Sao biết? Đã có ai nói cho biết chưa? Có con rùa nào từng đi dạo lang thang từ dưới biển lên đất liền nói cho biết chỗ nào đáng sống hơn chăng?

Gaté, Gaté, Paragaté, Parasamgaté… một đại thần chú, đại minh chú, vô thượng chú, vô đẳng đẳng chú… năng trừ nhất thiết khổ chân thật bất hư ư? Sao người ta vẫn đọc hà rầm khắp nơi, đọc hằng ngày câu chú trong Tâm kinh Bát Nhã đó mãi mà vẫn thấy cứ còn khổ, thậm chí “cực khổ”, nên chỉ mong sao được mau về miền “cực lạc”, được vãng sanh qua nơi khác, qua bờ bên kia. Vậy mà lạ, hình như ai cũng muốn sống lâu, thậm chí trường sinh bất tử, nghĩa là ở mãi nơi này, nơi “cực khổ” này? Tại sao?

Tôi viết những cảm nghĩ này ở tuổi U90 của mình, viết cho riêng mình đọc, lai rai đọc cho đến khi không cần đọc nữa! Và dĩ nhiên có thể chia sẻ cùng bè bạn thân

quen “cùng một lứa bên trời lận đận” của mình để có dịp “chí chóe” cho vui…!

Well-being và well-dying vậy nhé!

Đỗ Hồng Ngọc

(6.2023)

 

“One Day… Reaching the Other Shore”

Dr Do Hong Ngoc, MD
Saigon, June 2023
(Manuscript – write for myself aged U90)

Translated by Red Pine 

It is really sad that the majority of us just begin enjoying the taste of life once we are on the verge of death. ( Padmasambhava)

One day reaching the other shore?

What shore? This shore or the other shore? Reaching the other shore? Yearn to come to that shore? Does that mean the other shore is far better than and more beautiful than this shore? Why know? Has anyone said that? Has any turtle roaming from sea to land informed where is more livable yet?

Gaté, Gaté, Paragaté, Parasamgaté… is the great mantra of great magic, unexcelled mantra, the mantra equal to the unequalled, which heals all the suffering and is true, not false? (Pine 3)1 The people recite it, the mantra in Heart Sutra, extensively everywhere, they still feel miserable, even so miserable, they just wish to soon reach the “land of overjoy”, be reborn to the other place or the other shore. So strange! Seemingly everyone wants to remain longer, even indefinite longevity without death, in this world, “the land of over-sorrow”? Why?

I am writing down this thought at the age of U90, writing for self-reading, little by little reading until unable to read! And obviously able to share with our close friends who are “at the same generation by the sky of turbulence” in order to gossip!

Hope well-being and well-dying as well!

Dr Do Hong Ngoc, MD

(June 2023)

………………………………….

Đọc bản tiếng Anh trên Thư viện Hoa Sen.

 

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Gươm báu trao tay, Nghĩ từ trái tim

Nhà thơ Khánh Minh đọc “Một ngày kia… đến bờ”

11/01/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Đọc tùy bút “Một ngày kia… đến bờ” của Đỗ Hồng Ngọc

Nguyễn thị khánh minh
(tranthinguyetmai.wordpress.com)

Sách Một Ngày Kia...Đến Bờ - Đỗ Hồng Ngọc

Bờ nào? Bờ bên kia hay bờ bên này?
Đáo bỉ ngạn? Là mong cho tới bờ bên kia? (Tr.7)

Có một nơi gọi là bờ để đến, người đang đi thuyền mong cho tới bến, bến ấy là bờ. Tỷ như có người đang ngộ nạn ở sông biển cũng mong mỏi sinh tử là bơi tới được bờ. Hiểu theo nghĩa đời thường của bờ là như thế. Nhưng khi nằm trong câu Một Ngày Kia Đến Bờ, bỗng trở nên lồng lộng của kinh điển, của pháp tu và tập tùy bút này của Đỗ Hồng Ngọc xoay quanh áo nghĩa của -Đến Bờ Bên Kia-, nghĩa theo Phật ngữ và cả thực hành tu tập, tùy theo sự tu tập mà đáo bỉ ngạn.

Ý rằng bờ bên kia hẳn là hay hơn, đẹp hơn, tốt hơn bờ bên này? Sao biết? Đã có ai nói cho biết chưa? Có con rùa nào từng đi dạo lang thang từ dưới biển lên đất liền nói cho biết chỗ nào đáng sống hơn chăng? (Tr.7)

Trong các hạnh tu Ba La Mật là tu để đạt tới chỗ hoàn thiện. Bờ bên kia là cứu cánh, là chỗ hoàn thiện mong đạt tới, thì phải chăng, vô hình trung khẳng định bờ đó đẹp hơn, tốt hơn bờ bên này, dù con rùa kia đi khắp biển bờ vẫn câm lặng không hé một lời mách bảo.

Gaté, Gaté, Paragaté, Parasamgaté… một đại thần chú, đại minh chú, vô thượng chú, vô đẳng đẳng chú… năng trừ nhất thiết khổ chân thật bất hư ư? Sao người ta vẫn đọc hà rầm khắp nơi, đọc hằng ngày câu chú trong Tâm kinh Bát Nhã đó mãi mà vẫn thấy cứ còn khổ, thâm chí “cực khổ”, nên chỉ mong sao được mau về miền “cực lạc”, được vãng sanh qua nơi khác, qua bờ bên kia. Vậy mà lạ, hình như ai cũng muốn sống lâu, thậm chí trường sinh bất tử, nghĩa là ở mãi nơi này, nơi “cực khổ” này? Tại sao? (tr.8)

Tôi là một trong số người đọc hà rầm mỗi ngày Chú Đại Bi, là một trong muôn người còn chờ Phật Quán Âm độ cho mọi khổ ách. Ừ nhỉ, tại sao ai cũng muốn sống lâu ở cõi mà ai cũng kêu là trần ai này? Nghe như công án. Và qua những trang sách trong tập tùy bút này thấy Đỗ Hồng Ngọc cứ tủm tỉm đi trong hành trình well-being đến well-dying, làm thế nào để well, cực kỳ… không biết dễ hay khó. Thôi thì “tùy người đối diện”. Khi ta còn trong cõi bờ sinh tử, làm sao sống để có khỏe mạnh và hạnh phúc thoải mái? Đó là chủ đề của Đỗ Hồng Ngọc, qua thực hành Phật pháp, qua kinh nghiệm tu tập, qua tri thức vốn có của ông.

Tập tùy bút gồm 26 tiểu đề, Đỗ Hồng Ngọc bàn về những phạm trù mà xưa nay người học Phật đều đặt dấu hỏi, như Nghiệp, Có Ngã Không, Có Kiếp Sau Không?, Phật là Như Lai… Nhưng Như Lai Không Phải Là Phật, Một Là Tất Cả…  Rồi cả phương pháp tu tập Thở và Thiền Định, Tứ Niệm Xứ… Bạn phải có cuốn sách này, vì không thể đọc lướt, đọc một lần mà lĩnh hội được. Tuy Đỗ Hồng Ngọc nói chỉ “lõm bõm học Phật”, nhưng cách ông giảng giải về Phật pháp hiện rõ tinh chất uyên áo nằm dưới những câu, từ và ví dụ rất đời thường để người đọc nắm được ý chính của kinh điển, thật may mắn khi chúng ta có được văn bản của một người học Phật và chắt ra được cái cốt lõi của Phật pháp, của học và hành, như thể ta được chỉ đường. Vấn đề là biết đường đi rồi tự thân ta phải kiên trì tập cách đi cho vững cho thông.

Khởi đầu cuộc hành trình,
Tự nhiên có ta trong cõi đời. Ta tự nhiên như từ “vô tướng” mà hiện ra thành “hữu tướng” dù chỉ là giả, là tạm mà cũng xài được một thời gian. Cha mẹ gặp nhau, hàng tỷ tinh trùng mà chỉ có một con duy nhất được gặp cái trứng như hẹn hò nhau từ muôn kiếp trước, (tr.11)

Tinh cha huyết mẹ nên con (ntkm), thú vị thay, Đỗ Hồng Ngọc nói, như hẹn hò từ muôn kiếp trước, tôi cũng tin vậy, và rất rất nhiều người cũng tin thế. Duyên ư, nghiệp ư? Từ đâu mà ra? Tác giả đã đặt câu hỏi về vấn đề siêu hình bằng một giọng rất giản dị hồn nhiên,

Nhưng tôi tin có một cái gì đó, gọi bằng tên gì cũng được, tạo ra cái trò chơi này và ngắm nghía thú vị. Dù là một miếng đất sét được vọc bởi một em bé thành hòn bi hay thằng người… thì cũng có một em bé… đầy sáng tạo. Dù là từ Như Lai tạng thì cũng phải có một “nghệ sĩ” vẽ vời, nắn nót tạo nên mọi thứ và chịu trách nhiệm chớ?

Rồi, tủm tỉm, Nghĩ Tức Cười, là sao, tôi đồ chừng khi tạo ra con người này, ai đó, cái gì đó, cũng trong phút Tức Cười ấy, nên mới có đủ thứ hỷ nộ ái ố tréo ngoe trong kiếp người. Và chẳng phải chỉ một kiếp, vòng tuần hoàn cứ từ tro bụi thành mình mình thành tro bụi, đến đi, miết miết, huyền nhiệm,

Từ đâu mà ra? Từ cái duyên của cha mẹ, ông bà, từ muôn vạn thứ duyên khác từ đất, nước, gió, lửa (C,H,O,N…)… . Cho nên hàng tỷ hằng triệu triệu con người sau khi… hoàn thành nhiệm vụ, già nua hết xài được thì trở thành tro bụi. Tro bụi đó, vẫn xài lại, nặn lại… tiếp tục đợi duyên sinh.

Nên khi nhào nặn thì … chẳng cần phân biệt. Ta mải mê phân biệt chẳng đáng tức cười cho Như Lai ư? (tr.16)

Và sau khi phân tích các chất tạo nên con người dưới con mắt của một bác sĩ thì nhà Phật học Đỗ Hồng Ngọc đặt một kết luận khiến cỡ người học Phật i tờ như tôi luýnh quýnh bụi trần.

Nhưng gène hình như cũng chưa phải khúc cuối của Như Lai. Người ta đã tìm ra hạt ra sóng và chẳng bao lâu nữa sẽ kêu như Huệ Năng: Bổn lai vô nhất vật!  (tr.16)

Tiểu đoạn 3 có đề Có Kiếp Sau Không?
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu không có kiếp trước, làm sau có tôi ở kiếp này? Chắc chắn phải có kiếp trước mới có kiếp này của tôi chứ. Còn có kiếp sau hay không. Tôi không biết. (tr.17)

Nếu ngồi đối diện ông ngay lúc này chắc tôi sẽ dũng khí cãi, biết có kiếp trước tức vô hình trung nói rằng có kiếp sau, vì kiếp này là kiếp sau của kiếp trước. Làm gan cãi vậy thôi chứ cũng ạ ạ ừ ừ biết gì mà cãi. Thiền giả khẳng định có kiếp trước. Và còn đưa ra một nghi vấn nữa,

Vậy tôi ở kiếp trước và tôi kiếp này có giống nhau không? (Tr.17)

Sao muôn thuở muôn nghìn tình nhân dang dở đều hẹn hò lai sinh, tức là họ tin kiếp sau mình y chang là mình, chàng (nàng) phải vẫn là chàng nàng thì mới biết dây mơ rễ má của mối tình xưa xa kia mà nối kết lại chớ, phải không? Ai cũng tin dù không biết vì sao, vì đâu mà tin! Kiếp này duyên đã phụ duyên/ Dạ đài còn biết sẽ đền lai sinh. (Kiều)

Tôi không chắc sẽ giống, có chăng, giống một chút do cái nghiệp tôi mang theo. Nghiệp là cái tôi “thừa tự” mà, tôi phải mang theo chứ… (tr.17)

Nghiệp là gì? Không biết. Nó đeo đẳng mình, đòi nợ, phải “trả nghiệp”. Trả cách nào? Không biết. Có chuyển nghiệp được không? Chắc phải được chớ. (tr.21)

Hỏi làm cách nào? Hỏi như bịnh nhân hỏi một căn bệnh, bác sĩ trả lời:

Nghiệp “truyền” đi không chỉ từ gène mà còn từ môi trường… Ngành khoa học này gọi là epigenetic (ngoại di truyền, biểu sinh). Phật học nói về chánh báo và y báo là rất đúng. (tr.22)

Chế độ ăn uống, bệnh tật, nghiện ngập, lối sống là các cơ chế của y báo (ngoại di truyền, epigenetic mechanisms) có tác động đến hoạt động của các gène, điều hòa các gène. (tr.23)

Rồi ông nói tiếp, từ từ, nghe như đang giảng pháp,

Nghiệp do “thân, khẩu, ý” mà ra. Thì ra do thái độ, cử chỉ, do lời nói, ý nghĩ của mình mà sinh ra. Nói chung là cách sống. Tùy chọn. Ý nghiệp chưa phải là hành vi mà chính ý nghiệp mới dẫn dắt. “Ý dẫn đầu các Pháp” không phải sao? Ba “nghiệp” mà thanh tịnh thì hết chuyện. (tr.21)

Hỏi sao được thanh tịnh ung dung tự tại, giọng trả lời khiến tôi cảm tưởng như mình đang lọt vào một nơi chốn khác,

… Bệnh gốc của chúng sanh là Tham Sân Si. Tham sân si mà… triệt tiêu thì Niết-bàn đây chớ đâu! Bằng cách nào? Dễ thôi. Tứ Diệu Đế, Bát chánh đạo, Thập nhị nhân duyên… từng bước cho đến khi thấy Như Lai vô tướng, thấy được Như Lai tạng, nhìn mọi thứ bằng thật tướng của nó và từ đó… sẽ Ung dung, Tự tại, Vô ngại! (tr.47)

Bốn thứ ma thân thiết. Nó vây quanh ta từ khi ta chào đời. Phiền não ma, Ngũ ấm ma, Thiên ma, Tử ma. Nó vây quanh ta, kết bạn với ta, quậy phá ta, che chở ta. Phật bảo 4 thứ Ma đó là “thị giả” của ta, gần gũi và giúp đỡ ta. (tr.19)

Hẳn phải là người có nhiều kinh nghiệm làm bạn và chiến đấu với bốn con ma này nên mới có đủ nội lực để hóm hỉnh:

Kết bạn với 4 thứ ma đó đi. Vui đùa với chúng đi. Nhìn kỹ đi, chúng rất dễ thương, dễ bảo. Đừng căng thẳng gây gổ giận dữ với chúng làm gì. Chúng giúp ta mở mắt, nhìn rõ sự thực. Một cơn bệnh nặng chẳng phải đã giúp ta sực tỉnh cơn mê sao? (tr.20)

Tôi nhớ khi bị bịnh nặng, nằm một chỗ tôi thèm đôi chân đi đứng bình thường biết bao, Tôi thấy từng phút sống ý nghĩa biết bao, và tôi nguyện sẽ biết thương yêu hơn, tha thiết hơn với những gì xung quanh. Chả phải đức Phật khi cận kề cái chết mới giác ngộ chọn con đường khác để tu mà thành Phật đó sao.

Mục tiêu của Hoa Nghiêm hữu hóa là giúp ta có được cuộc sống an nhiên, tự tại, hạnh phúc ngay ở đây và bây giờ… Một “thế giới hoa tạng”, rực rỡ xinh đẹp sẽ được thành tựu tùy tâm mình.(tr.45)

… Chẳng vì ta mà hoa nở, hoa tàn. Chẳng vì ta mà gió mát trăng thanh. Nhưng ta biết thưởng thức. Ta “enjoy” cuộc sống của mình trong từng giây phút (tr.43)

Bệnh nhân nghe ra bỗng thấy sao sự việc giản đơn như vậy mà mình như con vụ bị xoay mù mù. Và ơ kìa, vị bác sĩ áo trắng mới đây giờ đi đâu, trước mặt tôi là một vị thiền giả áo màu của đất, giọng nói ấm và sâu thẳm như vang lên từ ngực

…Khi ngồi dưới bóng cây giữa cánh đồng mát mẻ, không bị “dính mắc” gì với buổi lễ Hạ Điền dưới kia, lúc đó ngài chẳng biết gì về tham thiền, nhập định hay tứ thiền bát thiền gì cả vì hãy còn rất nhỏ, chỉ biết hồn nhiên, trong sáng, vậy là đã ly dục, ly tầm ly tứ, vào sự sảng khoái lâng lâng gọi là hỷ lạc và đã thực sự thanh tịnh… Nếu sống hồn nhiên như một em bé, thảnh thơi, thanh tịnh thì đã vào Tam muội Phổ Hiền rồi vậy! (tr.55)

Con đường độc nhất “dẫn tới thanh tịnh cho chúng sanh, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng đắc Niết bàn” chính là Thiền Định. (tr.61)

Thiền mà bị phân tích, xếp loại, đánh giá… sẽ làm cho thiền tiêu vong, không tìm đâu được cái thanh tịnh, hồn nhiên nữa… (tr.62)

Thanh tịnh, hồn nhiên. Đấy là chiếc chìa khóa thiền giả đã trao cho.

Phải rồi. Phải “Tự tại” thôi. Phải dựa vào chính mình thôi. Phải thực hành thôi… có sẵn một con đường mà bấy lâu mình xa lạ. Thiền Quán Niệm Hơi Thở (Anapanasati, An-ban thủ ý, Nhập tức xuất tức niệm) “Thở vào thì biết thở vào, thở ra thì biết thở ra… Tìm hiểu thấu đáo, thực hành “miên mật” thì quả là có cơ sở để tin. tr.73

Tôi tin ông đã thực hành miên mật vì ông đã tìm đến phương pháp ấy bên bờ sinh tử và đã có được những kết quả khiến thiền hơi thở đã thuyết phục được ông kiên trì.

… yếu tố rất quyết định trong Thiền định là thả lỏng toàn thân – như thả trôi theo dòng nước hay treo thân trên móc áo. Thả lỏng toàn thân là làm cho toàn thân như rủ xuống (tr.77)

Thiền dạy buông xả. Mục tiêu của Thiền Định là Xả. (tr.85)

Thực hành, kiên trì thực hành thở và thiền theo Đỗ Hồng Ngọc viết trong tập sách này, hẳn chúng ta sẽ được well-being, được tới chừng nào vui chừng đó, hưởng chừng đó, và trong thời gian còn sống vui khỏe, sửa soạn làm sao để gánh nghiệp được nhẹ bớt lần lúc mang đi, đó là thời gian chuyển tiếp để ta chuẩn bị hành trang cho một cuộc hành trình mới, chuẩn bị, sửa soạn để biết được rằng hành trình cuối ấy là một điều tất yếu, và như thế, sẽ well-dying – Đỗ Hồng Ngọc nói vậy-.

Thiền giả để tách trà xuống khay một cách ung dung, nói nhẹ nhàng như chiếc lá thả xuống bờ vai:

Ai có thể thở giùm ai? Ai có thể thiền giùm ai? Cho nên chỉ có thể nương tựa vào chính mình thôi. (tr.78)

Thở luôn trong thì hiện tại, ở đây và bây giờ, không có thở của hôm qua hay của ngày mai.

Và, đời người thực ra chỉ là… một hơi thở! Lúc chào đời hít mạnh một hơi vào phổi để rồi khi lìa đời, thở hắt ra một cái: trả lại những gì mình đã vay mượn tạm! (tr.75)

Một luồng sảng khoái chạy khắp châu thân, tựa như một nút thắt vừa được mở ra, tựa như mình vừa mới biết thở, hơi thở vào ra nạp đầy năng lượng, đúng rồi, –hãy sống lúc đó-, đối với tôi đây là “mật chú” để được well-being.

Cái ở đây và bây giờ làm buổi sáng dài thêm ra, và vô lượng nắng đang tỏa vàng óng trên cánh bướm đang nhịp nhàng trong mùa vừa bắt đầu đông.

Thiền giả mỉm cười: Ta cũng có Phật tánh, có pháp thân, cũng từ Như Lai tạng đó thôi thì ta việc gì phải lo sợ khổ đau vì cái “sanh, bệnh, lão, tử” cơ chứ? (tr.65)

Nói rồi ông quay đi, mầu áo nâu nhẹ như khói…

Upland, Tháng 12.28.2023
Nguyễn thị khánh minh

—-

Sách hiện có bán tại các nhà sách hoặc trên mạng:
https://www.sachkhaiminh.com/mot-ngay-kia-den-bo-do-hong-ngoc

Thuộc chủ đề:Ghi chép lang thang, Góc nhìn - nhận định, Vài đoạn hồi ký

Thư gởi bạn xa xôi (1/2024)

08/01/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc 1 Bình luận

 

Thư gởi bạn xa xôi (1/2024)

Gió Bấc

Đi giữa Saigon

Phố nhà cao ngất

Hoa nở rực vàng

Mà không thấy Tết

Một sáng về quê

Chợt nghe gió bấc

Ơ hay Xuân về

Vỡ oà ngực biếc…

(Đỗ Hồng Ngọc)

Bài thơ nhỏ, thiệt thà, viết đã lâu lắm rồi, vậy mà bây giờ nhiều người còn nhớ. Báo Trẻ xuân năm nay, nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp đã chọn đăng lại trong mục Thơ xuân…

Với tôi, Gió Bấc ớn lạnh xương sống y hệt cơn sốt rét rừng như còn đang hoành hành trong cơ thể gầy nhom của mình. Nó buốt. Nó nhọn. Nó xót… và nó lạnh dĩ nhiên rồi – với một đứa trẻ lên mười mỏng manh như tôi những ngày tá túc trong một ngôi chùa Tàu nghèo ở Phan Thiết- lộp cộp guốc xuồng gỗ trên con đường Gia Long rồi lang thang dọc bờ sông Cà Ty mà nghe mùi cốm mùi pháo…

Khi tôi viết bài Mũi Né, đã hơn nửa thế kỷ trước: Em có về thăm Mũi Né không/ Hình như trời đã sắp vào xuân/ Hình như gió bấc lùa trong Tết/ Những chuyến xe đò giục bước chân… (Mũi Né, ĐHN 1970), thì cũng lại gió bấc, thứ gió hình như ám ảnh người miệt biển quê tôi nhiều nhất.

Cho nên bây giờ muốn nghe Tết, muốn thấy Tết, thì tôi lại về Lagi, Phan Thiết để tìm Gió bấc khôn nguôi của tuổi thơ mình.

Mùa bấc, biển như sánh lại, sệt lại, đục hơn và sóng rát hơn, dữ dội hơn bao giờ hết. Bãi bờ bị xoáy toang…

Biển Lagi mùa Gió Bấc

vắng hoe người

“Biển sóng biển sóng đừng xô nhau/ Ta xô biển lại sóng về đâu?” (TCS)

Lagifarmstay quen thuộc, mỗi lần về thăm quê. Ở đó, còn một chút cho riêng mình…

Ở đó, còn có thể “nhìn nắng hàng cau nằng mới lên… ” (HMT)

Và vô vàn hoa thanh long ở Phong Điền, Hiệp Nghĩa, quê ngoại

 

Rồi từ Lagi tôi đi một mạch dọc biển về Phan Thiết, qua Mũi Né, Bàu Trắng, đến Phan Rí Cửa, rồi Long Hương, Cổ Thạch, thăm nhà văn Hồ Việt Khuê, Nguyễn Phương cùng các bạn vùng La Gàn, gặp lại thầy Huỳnh Đình Tám…

 

 

 

 

 

 

 

La Gàn (Long Hương) mùa Bấc thổi…

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc

(1/2024)

 

T

 

T

 

Thuộc chủ đề:Ghi chép lang thang, Góc nhìn - nhận định, Thiền và Sức khỏe, Uncategorized

  • « Chuyển đến Trang trước
  • Trang 1
  • Trang 2
  • Trang 3
  • Trang 4
  • Trang 5
  • Trang 6
  • Interim pages omitted …
  • Trang 55
  • Chuyển đến Trang sau »

Thư đi Tin lại

  • Lịch “Trò chuyện, giao lưu…”
  • Lại đính chính: “SAIGON BÂY GIỜ”
  • ĐÍNH CHÍNH: BSNGOC không phải là BS ĐỖ HỒNG NGỌC
  • Đính chính: BS NGỌC không phải là Bs Đỗ Hồng Ngọc
  • bsngoc đã lên tiếng đính chính
  • Thư cảm ơn và Đính chính về FACEBOOK Bác sĩ NGỌC
  • ĐÍNH CHÍNH: Bài viết "TÀN NHẪN" không phải của Bs Đỗ Hồng Ngọc

PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG

Bản dịch tiếng Đức “Một Ngày Kia… Đến Bờ”

CON ĐƯỜNG AN LẠC Bài 6: Học cách Phật dạy con

Minh Lê: Đọc và Cảm “Một ngày kia… đến bờ”

Thăm Sư Giới Đức Triều Tâm Ảnh

Nguyên Cẩn: Đọc “Một ngày kia… đến bờ “của Đỗ Hồng Ngọc

“MỘT NGÀY KIA… ĐẾN BỜ” Tuỳ bút Đỗ Hồng Ngọc

Từ góc nhìn “Phê bình sinh thái” về bài thơ “Rùng mình” của Đỗ Hồng Ngọc

MỘT NGÀY KIA…ĐẾN BỜ V2

MỘT NGÀY KIA…ĐẾN BỜ

Bản dịch Anh ngữ của Nguyên Giác: “NƯƠNG TỰA CHÍNH MÌNH” (ĐHN)

Xem thêm >>

Chuyên mục

  • Một chút tôi
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy

Bài viết mới nhất!

  • Thư gởi bạn xa xôi
  • Đọc CÕI NHỚ, thơ Chiêu Đề (Thích Đồng Bổn).
  • Thư gởi bạn xa xôi: Lại Về Nha Trang (3.2025)
  • CON ĐƯỜNG AN LẠC (Phương Nam Book ấn hành)
  • LỜI BẠT: Thơ duyên lê chiều giang nguyễn thị khánh minh

Bài viết theo tháng

Ý kiến bạn đọc!

  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Thư gởi bạn xa xôi
  • TTM Gốc Mai trong Minh Lê (NT) và Đỗ Hồng Ngọc: Một Chút Tôi  & “Chuyện Hồi Đó”
  • Ngân Hà trong Minh Lê (NT) và Đỗ Hồng Ngọc: Một Chút Tôi  & “Chuyện Hồi Đó”
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Minh Lê (NT) và Đỗ Hồng Ngọc: Một Chút Tôi  & “Chuyện Hồi Đó”
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Minh Lê (NT) và Đỗ Hồng Ngọc: Một Chút Tôi  & “Chuyện Hồi Đó”
  • Đồng Xuân trong Minh Lê (NT) và Đỗ Hồng Ngọc: Một Chút Tôi  & “Chuyện Hồi Đó”
  • hai trầu trong Minh Lê (NT) và Đỗ Hồng Ngọc: Một Chút Tôi  & “Chuyện Hồi Đó”
  • DHN trong
  • Minh Lê trong Minh Lê (NT) và Đỗ Hồng Ngọc: Một Chút Tôi  & “Chuyện Hồi Đó”
  • DAO QUANG NGUYEN trong Cảm nhận về “Từ Huyền Thoại Tới Tâm Kinh” của Nguyên Giác

Cùng một tác giả

  • 0
  • 1
  • 1
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6

Thống kê

Nhà tài trợ

biệt thự vũng tàu
biệt thự vũng tàu cho thuê | biệt thự vũng tàu cho thuê theo ngày giá rẻ | cho thuê biệt thự vũng tàu có hồ bơi
© 2009 - 2016 Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Phát triển & Hỗ trợ kỹ thuật bởi SGC.
Trích dịch nội dung để dùng trong nghiên cứu, học tập hay dùng cho cá nhân đều được tự do nhưng cần phải chú thích rõ nguồn tài liệu và đối với các trích dịch với mục đích khác, cần phải liên lạc với tác giả.
  • Một chút tôi
    ?
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    ?
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    ?
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    ?
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    ?
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy
  • Nhận bài mới qua email