Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Tập hợp các bài viết của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Ghi chép lang thang
  • Nhận bài mới qua email

Đỗ Hồng Ngọc/ Nguyên Giác: “CON VÀO DẠ, MẠ ĐI TU” (song ngữ Việt-Anh)

20/12/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc 3 Bình luận

 

“CON VÀO DẠ, MẠ ĐI TU”

Đỗ Hồng Ngọc

Ghi chú: Tôi chọn một ít bài viết, một ít chuyện kể trong “Chuyện Hồi Đó” đưa lên trang Web dohongngoc.com này để sẻ chia cùng bè bạn, đọc… lai rai cho vui nhe.

Đây là bài được Nguyên Giác chọn dịch đầu tiên sang Anh ngữ.

Thân mến,

ĐHN 

 

blank

(tranh Nguyên Giác)

 “Mạ” là Mẹ.  Con vào dạ, mạ đi tu là khi “cấn thai” vào lòng tự nhiên người mẹ nào cũng … “đi tu”!  “Đi tu” đây không có nghĩa là xuống tóc, vào chùa gõ mõ tụng kinh mà chỉ có nghĩa là sửa mình, thay đổi mình, từ ngoài vào trong, từ trong ra ngoài. Mọi thứ ở người mẹ phải sửa sang, phải “tu chỉnh”, nên mới có câu “con vào dạ mạ đi tu”!

Sửa mình không dễ. Nhưng một khi có “con vào dạ” rồi thì tự dưng phải sửa thôi. Bởi có “sửa” thì mọi thứ mới tốt đẹp cho con, cho mẹ, và cho cả gia đình.

Thực ra, không chỉ “mạ đi tu”, mà người cha cùng cả nhà cũng đi tu với mạ!

“Con vào dạ” ấy là lúc mang vào lòng cả một thế giới, cả một kiếp người. Cái sinh linh bé bỏng này nó đến từ đâu? Nó đi về đâu? Nó sẽ ra sao? Nó đến cách nào nó đi cách nào? Người mẹ bỗng trở thành triết gia một sớm một chiều!

Cái gọi là tử cung– “dạ con”-  kia chính là nơi trú ngụ của đứa con, chẳng khác chi hoàng cung là nơi trú ngụ của nhà vua- cho nên kể từ lúc này bé đã là một… vì vua loi nhoi trong bụng mẹ, làm mọi thứ trong người mẹ chuyển động, đổi thay. Mẹ bấy giờ đã là một người phụ nữ khác. Một người sắp là mẹ, sắp làm mẹ. Sinh con rồi mới sinh cha/ sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông. Cũng vậy, “sinh con rồi mới sinh mẹ”. Không có con thì sao là mẹ được! Và khi cái thai nhú lên từ trong bụng mẹ thì đó cũng là lúc “mẹ sinh”. Mẹ từ từ sinh ra theo sự lớn lên từng ngày của thai nhi. Và để… sinh ra một người mẹ thực sự thì mẹ phải “tu” thôi. Kẻ giúp mẹ tu… thành mẹ chính là đứa con trong bào thai, ngay từ khi còn trong trứng nước.

Nó có quyền năng rất lớn. Nó làm thay đổi cả “vũ trụ quan” và “nhân sinh quan” của mẹ. Nói đơn giản hơn, nó thay đổi một cách nhìn. Lúc bấy giờ, người phụ nữ vừa  “cấn thai” kia đã nhìn mẹ mình cách khác, nhìn cha mình cách khác! Rồi nhìn chồng mình cũng khác, nhìn bạn bè mình cũng khác. Thậm chí nhìn hàng xóm láng giềng cũng khác đi rồi. Trước kia có khi hục hặc với cha, có lúc bực dọc với mẹ, tranh hơn tranh thua với đồng nghiệp với hàng xóm láng giềng bây giờ tự dưng thấy mênh mông lòng từ. Thấy thương thấy quý, thấy biết ơn tất cả. Cái sinh linh này, tấm hình hài này từ đâu mà đến, sẽ ra sao ngày sau? Phải làm gì đây cho nó hạnh phúc nhất, cho tương lai nó tốt đẹp nhất. Mãi nghĩ về nó mà không còn thấy cái tôi của mình nữa. Nó trở thành cái rún của vũ trụ chớ không phải cái tôi là rún của vũ trụ như xưa. Lòng bi mẫn cũng từ đó mà tràn đầy. Thương người hơn, thấy rõ nỗi khổ đau của mình của người hơn và từ đó muốn giúp đỡ, muốn nâng niu. “Từ năng dữ lạc, bi năng bạt khổ”. Hóa ra đã “tu” lúc nào không hay! Rồi còn biết vui theo cái vui của người, thấy dễ tha thứ, dễ buông bỏ. Lòng đã rộng mở. “Hỷ xả” lúc nào đó vậy? Chưa biết là trai hay gái đây, nhưng không thành vấn đề. Có đứa con vào bụng, bỗng thấy mình không là mình nữa. Mà hai mình. Hai mà một. Mới hiểu thế nào là “nhất như”. Mắt nhìn khác đi, tai nghe khác đi, mũi ngửi khác đi, lưỡi nếm khác đi, và toàn cơ thể nữa, đã bày biện khác đi nên xúc tiếp cũng khác đi. Và đặc biệt, ý nghĩ, tư tưởng cũng đã khác đi nhiều lắm. Từ đó, những lời ăn tiếng nói dấm dẳng, đanh đá xưa kia bỗng trở nên từ ái, khoan dung;  những cử chỉ vụt chạc, hấp tấp lúc trước đã trở nên điềm đạm, từ tốn… Hóa ra “lục căn” đã dần thanh tịnh. Mắt tránh xa những hình ảnh bạo lực, kích dục… trong phim ảnh, sách báo, kịch nghệ. Tai tránh xa những âm thanh dậm dật loạn động hay áo não sầu thương. Từ bỏ những món ăn kích thích, nào rượu nào bia; lánh xa những nơi có mùi thuốc lá, tránh bớt những món cay nồng… Mặc rộng, thoáng mát, đi lại khoai thai. Ăn biết mình ăn, ăn gì, tại sao; đi đứng nằm ngồi thế nào… Mọi thứ cứ như chánh niệm. Tránh cả những chuyện cà kê dễ ngỗng, tránh các « bà tám » thị phi. Cái sinh linh bé bỏng kia, hoàng tử công chúa kia, không biết từ cát bụi nào đã đến, lỡ nó nghe được, nó bình phẩm, nó bắt chước thì sao?

“ Ăn cơm có canh, tu hành có bạn ». Bạn tu đầu tiên gần gũi nhất phải là “thằng cha nó”. Từ ngày biết mình sắp làm cha “thiên hạ », ông đã âm thầm tự động bỏ thuốc lá, giảm bia rượu, thôi đàn đúm, la cà. Đi làm xong vội về… xoa đầu con, coi nó lớn tới đâu trong bụng mẹ. Ông chăm chú, nghiền ngẫm xem nó đã biết dòm ngó phê phán gì chưa. Tự dưng có một kẻ lạ hoắc tự trên trời rơi xuống, lọt tõm vào nhà mình, dòm dõi mình, nghe ngóng mình… cũng làm mình bối rối không ít chứ ! Cái gì bây giờ cũng len lén, ngó trước dòm sau. Nó cười chăng ? Nó nhăn chăng ? Nó đau chăng ? Nó giận chăng ? Hóa ra không phải « con vào dạ mạ đi tu » mà bố cũng phải tu.

Lạ thay, rồi bà nội bà ngoại, ông nội ông ngoại tương lai cũng tu luôn. Ai cũng sửa mình, cũng tự thay đổi cả. Bà nội bà ngoại đâm ra dễ thương hết sức, chăm lo từng chút, dặn dò từng ly, bày đặt đủ trò, gây phiền hà không ít, nhưng tất cả chỉ vì cái sinh linh bé bỏng này thôi.

Tu, nói cho cùng, cũng tu từ khóm cây bụi cỏ, từ tiếng mõ tiếng chuông. Cho nên, nhà cửa giờ cũng trở nên ngăn nắp, sạch sẻ, sáng sủa hơn. Sách đọc đã khác. Phim ảnh đã khác. Âm nhạc đã khác.  Chắc chắn cái cảm xúc sảng khoái, lâng lâng của mẹ khi được nghe một điệu hát ru quen  thuộc thuở nằm nôi sẽ làm sản sinh các kích thích tố hạnh phúc truyền qua thai nhi. Mấy bức tranh treo trên tường cũng đã kịp thay. Trong sáng hơn, tươi vui hơn. Nhớ chuyện kể ông bố người Mỹ da trắng nọ ngạc nhiên thấy đứa con sơ sinh của mình sao da đen tóc quíu khác thường thì bà vợ đã giải thích là do suốt thời gian mang thai bà đã ngắm mãi cái hình anh cầu thủ bóng đá da đen treo trên tường! Phải cảnh giác !

Rõ ràng, không chỉ tu mà còn phải học. Chỉ có hiểu biết một cách khoa học mới hết nỗi lo âu. Làm sao nuôi bé lớn lên từng ngày trong bụng đây? Làm sao cho mắt nó sáng, da nó đẹp, môi nó hồng đây? Nó chui ra bằng đường nào? Có đau lắm không? Có phải “đi biển mồ côi một mình” như người ta nói không? Có cần « ông già » nó cùng “đi biển” cho có đôi không?  Có cho nó bú ngay không? Bú có hư không?… Ôi biết bao điều phải học.  Học để biết « cơ chế » của hoài thai, mang thai, của sanh nở để không còn phải sợ hãi, lo âu. Chắc chắn một điều là mẹ tròn con vuông, bởi sanh nở là chuyện sinh lý bình thường của bất kỳ bà mẹ nào.  Có người khuyên mổ đẻ cho khỏi đau, nhưng đau… cũng hay chứ, mới biết « mang nặng đẻ đau » là thế nào, mới biết « cha sinh mẹ dưỡng/ đức cù lao/ lấy lượng nào đong… » là thế nào! Làm gì có chuyện chọn giờ hoàng đạo để sanh thì sau này bé sẽ… làm vua, làm tể tướng ! Làm vua, làm tể tướng đâu không thấy chỉ thấy thiếu dưỡng khí não vì sinh non, sinh sớm, dễ mắc bệnh tâm thần về sau. Cứ sanh đẻ tự nhiên thôi để được là người đầu tiên đón bé vào đời, rồi cho nó bú ngay…. để được làm mẹ, là mẹ, sớm chừng nào hay chừng nấy.

Nhiều người đi tu muốn mau thành “chánh quả”. « Mạ đi tu » nhiều khi cũng vậy. Cũng muốn “gíáo dục » sớm cái sinh linh bé bỏng này ngay khi còn trong trứng nước để mong sau này nó thành thần đồng, thành siêu nhân, anh hùng, vô địch… Nhưng « quả » mà chín mau quá chỉ có cách « giú ép ». Mà giú ép thì không ngon. Cái gì gượng quá đều không hay.  Mạ mà căng thẳng quá để « tu » cũng sẽ tạo nên stress, sản sinh nhiều chất độc hại cho cơ thể, cho cả mẹ lẫn con.

Cảm ơn chút sinh linh bé bỏng sắp bước vào « cõi người ta ».

Và cảm ơn tất cả vì những yêu thương trìu mến!

…. o ….

When a child enters the mother’s womb, the mother becomes a practitioner

By Đỗ Hồng Ngọc

Translated by Nguyên Giác

When a woman becomes pregnant, she naturally becomes a Dhamma practitioner. Becoming a practitioner does not necessarily mean shaving her head or going to a temple to chant sutras; rather, it involves self-correction and personal transformation, both externally and internally. Everything within the mother must be aligned and made right, which is why there is a saying: “When a child enters the mother’s womb, the mother becomes a practitioner.”

It is not easy to change oneself. However, once you are expecting a child, you will naturally need to adapt. By making these changes, you can create a better environment for the child, the mother, and the entire family. In fact, not only does the mother become a practitioner, but the father and the whole family often join her in this journey of growth and development.

When a child enters the mother’s womb, it carries an entire world—an entire human life. Where does this tiny creature originate? Where does it go? What will it become? How does it arrive, and how does it depart? The mother suddenly transforms into a philosopher overnight!

The so-called palace of a child—“womb”—is the place where the child resides, much like a palace is the residence of a king. From this moment on, the baby is akin to a king wriggling in the mother’s womb, causing everything within her to move and change. The mother is now transformed; she is no longer just a woman but a person on the brink of motherhood. Giving birth to a child first brings forth a father, while giving birth to a grandchild first creates a grandfather.

Likewise, the act of giving birth to a child is accompanied by the birth of a mother. Without a child, how can one truly be a mother? When the fetus emerges from the mother’s womb, it marks the moment the mother is born. The mother gradually comes into her own as the fetus develops each day. To fully give birth to a genuine mother, the mother must engage in a process of self-cultivation. The child in the womb, even from the time it is still an egg, plays a crucial role in helping the mother evolve into her maternal identity.

The baby possesses remarkable power. It transforms the mother’s perspective on the universe and her outlook on life. In essence, it alters her way of perceiving the world. At that moment, the woman who had just conceived viewed her mother, father, husband, friends, and even her neighbors in a new light. Previously, she had experienced conflicts with her father, felt upset with her mother, and argued with her colleagues and neighbors. However, she now felt an overwhelming sense of compassion. She experienced love, respect, and gratitude for everything around her.

Where does this creature, this body, come from, and what will it be like in the future? What must a mother do to ensure her baby is happiest and to create the best possible future for it? As she contemplates these questions constantly, she begins to lose sight of her own ego. The fetus becomes the center of the universe, rather than her ego occupying that position as it once did. From this perspective, compassion flourishes. She finds herself loving others more deeply, gaining a clearer understanding of her own suffering and that of others, which inspires her desire to help and cherish. A compassionate heart can bring happiness to sentient beings, while a kind heart can alleviate suffering. It turns out that she has been practicing compassion and kindness without even realizing it! She also learns to find joy in the happiness of others, discovering that it is easy to forgive and to let go. Her heart has opened. When did this joy and ability to let go emerge?

It is not yet known whether the fetus is a boy or a girl, but this is inconsequential. With a child growing in her womb, the pregnant woman suddenly finds herself transformed; she is no longer just herself but two beings in one. She begins to grasp the essence of oneness. Her eyes perceive the world differently, her ears hear in a new way, her nose detects scents anew, her tongue experiences flavors differently, and her entire body, now altered, engages with the world in a distinct manner. Most notably, her thoughts and ideas undergo a profound change. From that moment on, the pregnant woman realizes that the harsh words of her past have transformed into expressions of love and tolerance; the hurried gestures she once exhibited have become calm and deliberate. It becomes evident that her senses have gradually been refined. Her eyes turn away from violent and erotic images found in movies, books, and plays. Her ears avoid chaotic, pounding sounds and sorrowful melodies.

She began to eliminate stimulating foods, such as alcohol and beer, and avoided places with the smell of cigarettes, as well as spicy foods. She wore loose, breathable clothing and moved at a slow pace. She practiced mindful eating, being aware of what she consumed and the reasons behind her choices. Every action—standing, walking, sitting, and lying down—was approached with mindfulness. She steered clear of gossip and gossipy groups. That little creature, that prince or princess, who knows where it came from? What if it heard, commented on, or imitated her actions?

Eating rice is best enjoyed with soup, just as practicing religion is enriched by the presence of friends. The first and most important companion on this journey of personal growth must be the father of the unborn child. Upon learning that he was going to become a father, he instinctively and quietly quit smoking, reduced his alcohol intake, and curtailed his social activities. After work, the expectant father hurried home to gently caress the baby’s head, eager to see how much it had grown in the mother’s womb. He paid close attention, pondering whether the baby could already observe and critique its surroundings. Suddenly, a stranger seemed to fall from the sky, slipping into his home, watching him, and listening to him, which left him quite bewildered! Everything felt secretive; he found himself looking around anxiously. Was the baby smiling? Frowning? In pain? Angry? It became clear that  the baby enters the womb, the mother becomes a practitioner, but the father also had to engage in this practice.

Strangely enough, the future paternal grandmother, maternal grandmother, paternal grandfather, and maternal grandfather also engaged in this practice. Everyone made corrections and underwent changes. The paternal and maternal grandmothers became exceptionally nurturing, attending to every detail, providing guidance, and devising various strategies, which sometimes led to complications, all for the sake of this little one.

Cultivation encompasses not only the caring for plants and grasses but also the soothing sounds of wooden fish and bells. As a result, the home has become tidier, cleaner, and brighter. The books, movies, and music have all changed. Surely, the joy and elation a mother feels when hearing a familiar lullaby from the cradle release happy hormones that are transmitted to the fetus. The pictures hanging on the walls have also been updated to be brighter and more cheerful. This reminds me of a story about a white American father who was astonished to see his newborn baby with unusually curly black skin and hair. His wife explained that throughout her pregnancy, she had been gazing at a picture of a black soccer player hanging on the wall. It serves as a reminder to be mindful of our surroundings.

Clearly, one must not only practice but also study. Only by understanding the scientific principles can one alleviate their worries. How can a pregnant woman nurture her baby as it grows day by day in her womb? How can she make her baby’s eyes bright, skin radiant, and lips pink? What will the birthing process be like? Will it be painful? Is giving birth truly akin to embarking on a solitary journey at sea, as some people suggest? Does the father-to-be need to accompany her on this journey to fulfill their roles as a couple? Should breastfeeding begin immediately? Is breastfeeding harmful? There are so many aspects to learn. It is essential to understand the mechanisms of conception, pregnancy, and childbirth to eliminate fear and anxiety. One thing is certain: both mother and child are safe, as giving birth is a normal physiological process for any mother.

Some people recommend a cesarean section to avoid pain, but pain can also be beneficial. It allows you to understand the experience of carrying a heavy burden and giving birth. This is why the ancients believed that the father contributes to the mother’s journey and raises the child; the parents’ love and sacrifice are immeasurable. There is no such thing as selecting an auspicious time to give birth in hopes that the child will become a king or a prime minister. If you attempt to time the birth, the baby may be born prematurely and could suffer from oxygen deprivation, leading to potential mental health issues later in life. It is best to give birth naturally, so you can be the first to welcome your baby into the world and immediately begin breastfeeding. This way, you can embrace your role as a mother as soon as possible.

Many individuals who choose the monastic path aspire to attain enlightenment swiftly. A mother who practices spirituality while pregnant often sets very high expectations for her unborn child. She hopes to nurture her little one from the womb, aiming for them to become a genius, a superhero, a hero, or a champion. However, if the fruit ripens too quickly, it must be forced, and forcing it will yield an unpleasant result. Anything that is overly forced is detrimental. If the mother experiences excessive stress while cultivating her practice, it can lead to further stress, producing harmful substances for both herself and her child.

Be grateful for the small creature that is about to enter the human realm.

Be grateful for all the love and affection you are experiencing.

…. o ….

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Đỗ Hồng Ngọc: CHUYỆN HỒI ĐÓ

19/12/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc 3 Bình luận

CHUYỆN HỒI ĐÓ

Đỗ Hồng Ngọc (trích)

 

LỜI NGỎ

Tôi nay 85 tuổi. Nhiều bạn khuyên viết cái gì đó như “Hồi Ký” cho vui đi! Hồi Ký ư? Để làm gì? Viết cho ai? Viết cách nào? Tôi ngần ngại mãi. Rồi cuối cùng cũng thấy nên viết cái gì đó, gọi là Hồi Đó (thay vì Hồi Ký) cho vui. Bởi, như người ta thường nói, cuộc đời có “3 Hồi”, một là Hồi thơ ấu, hai là Hồi trung niên và ba là Hồi đó. Tới một tuổi nào đó, người ta hay nói chuyện… “hồi đó”. Chuyện gì Hồi đó cũng hay, cũng đẹp, cũng ngon… hơn bây giờ! Khi người ta bắt đầu thường nhắc chuyện Hồi đó thì người ta đã già thiệt rồi, hết chối cãi! Già cả, già nua, già khú đế… rồi đó thôi. Người ta bắt đầu lú lẫn (dementia) rồi quên tuốt mọi thứ (alzheimer)… là xong.

Ôi thôi, nhiều chuyện quá. Mà chuyện gì “của mình” hồi đó cũng… hay cả, cũng đáng kể, đáng viết lại cả! Lòng tham không đáy nó vậy! Cái “Ngã” tích cóp to đùng 85 năm nay nó vậy. Tha cho nó đi. Vấn đề tiếp theo tôi tự hỏi viết cho ai đây? Nghĩ đi nghĩ lại, chắc chỉ có mình mình đọc thôi. Chớ ai thèm đọc! Đọc để làm gì? Nhưng nhớ lại trong một bài viết “Để giúp cha mẹ già được vui”, tôi có khuyên con cái nên kể những “chuyện xưa tích cũ” hay ho của ông bà già cho họ được vui? Thí dụ hồi nhỏ từng… học giỏi, từng lãnh cúp bóng bàn, cờ vua… Tôi cũng từng bàn về “Chất lượng cuộc chết”, rằng các chuyên gia tâm lý cũng khuyến khích nên kể những thành tựu tốt đẹp trong đời cho một người sắp nhập “Niết bàn” để họ mang theo làm hành trang cho một cái “Nghiệp” an lành tái sinh… nếu có! Vậy thì Viết Chuyện Hồi Đó là để cho mình chớ còn cho ai nữa! Mình đọc một mình nếu còn đọc được. Tủm tỉm một mình cũng chẳng khoái ru?

Vấn đề tiếp theo là Viết cách nào đây? Tôi may mắn 15 năm trước (2009), tự dưng có hai vợ chồng người bạn trẻ không quen biết là Phùng Minh Bảo và Lê Thị Thuỳ Linh, bế con đến thăm tôi, nói nghe chú Ngọc về hưu, tụi con làm cho chú một trang Web nha, để chú đăng bài lên đó, chia sẻ cho mọi người và cũng để lưu trữ… Thì ra hai bạn trẻ tuổi 30 này chuyên về IT, từng là độc giả báo Mực Tím và nuôi con theo “Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng” của tôi nên thực lòng mến mộ và muốn giúp tôi. Tôi chưa biết gì về Web về IT thấy họ rất chân thành bèn đồng ý ngay. Vui thôi mà! Bây giờ mới thấy nó là một nguồn tư liệu quý, đáng tin cậy. Hồi đó, chưa có nhiều “nền tảng”  Facebook, Instagram…chưa có AI với fake news, deep fakes các thứ như bây giờ, nên những bài tôi viết “post” lên được nhiều phản hồi thú vị của bạn bè gần xa và rất nhiều bạn đọc không quen biết… trở thành thân thiết. Nhiều “còm’ trên trang Web rất cảm động:

Khi tìm được trang web này con cảm thấy rất vui. Mỗi lần sau khi lên mạng tìm kiếm đủ thứ thông tin, trước khi offline, con lại vô đây đọc, những bài viết của thầy nhắc nhở con phải trở về. Tâm con bớt lung tung sau khi lang thang trên mạng… Àh, con còn một chuyện nữa. Đó là con đang là một sinh viên y dược. Con rất muốn được trở thành một bác sĩ như thầy… phanthuy@

Cảm cúm con uống vài viên tylenol …. Còn Stress quá thì con uống “ dohongngoc.com ” bớt liền . Mang ơn Bác lắm vì lòng tử tế của Bác dành cho mọi người trong đó có con . Mong Bác luôn an vui… hodinh@

Thật là đại phước,thật là hữu duyên khi con gặp được trang web này. Cuộc sống con vốn bận rộn, ở quê (Cai Lậy), yêu thích ngành y, yêu văn chương, yêu nhạc Trịnh, thích học Phật, lúc trước rất cầu toàn, bỗng dưng như trúng được kho báu… Thế giới phẳng thật kỳ diệu!!!
Con lưu ngay vào máy và đọc say mê khi vắng khách hàng, có lẽ chư Phật mười phương đã “gửi” đến cõi ta bà này một sứ giả để trị tâm bệnh và thân bệnh cho chúng sanh chăng?!
Con kính chúc bác sĩ vô lượng thọ, vô lượng quang, vô lượng cát tường để luôn là cầu nối giữa phật pháp – khoa học – văn học – và chúng sanh…
huynhthi@

Ôi cái thời @ này cũng vui quá chớ phải không? Những người xa lạ bỗng gần gũi thân thiết đến vậy.

Ngoài trang Web dohongngoc.com này,  tôi lại may mắn gặp một người bạn không quen biết khác nữa là anh Nguyễn Hiền Đức. Một hôm đi café về tôi ngạc nhiên thấy cả chục cuốn 4, 5 trăm trang A4 đóng tập những tác phẩm của tôi. Nhờ có để lại số Điện thoại tôi hẹn gặp anh. Thì ra hàng chục năm trời nay anh đã rị mọ đánh máy các tác phẩm của tôi rồi hôm nay gởi lại tặng tác giả làm sao không cảm động! Anh còn sưu tầm rồi viết hẳn một “Phác thảo chân dung Đỗ Hồng Ngọc” và “Đỗ Hồng Ngọc, Tiếng gọi sâu thẳm của Y vương” đăng trên Thư viện Hoa sen      mà tôi cũng chẳng hề hay biết!

Sau này, nhà thơ Luân Hoán ở Canada, tôi vốn mến mộ từ những năm 60 thế kỷ trước nhưng chưa từng gặp, cùng bằng hữu ở hải ngoại làm một Số báo “Ngôn Ngữ Số đặc biệt/ Đỗ Nghê / Đỗ Hồng Ngọc/ Bằng hữu & Văn chương”… dày cộm, trong đó có nhiều bài viết của bè bạn khắp nơi trên chốn ”online” cũng giúp tôi nhiều tư liệu nhắc Chuyện Hồi Đó…

Đỗ Hồng Ngọc

(Saigon, 12.2024)

 

“Một chút tôi”

Theo “truyền thống” của một Trang nhà (Website), www.dohongngoc.com, tôi phải viết đôi lời tự giới thiệu mình gọi là “About me” mới là phải phép. Lúc đó, tôi lần lữa mãi. Biết viết gì đây? Sau cùng nghĩ rằng hay là gom góp vài tư liệu đâu đó trong các Lời Ngỏ tự giới thiệu các sách của mình thành “Một chút tôi” cũng hay để làm quen nhau.

 

(Trích Lời ngỏ Gươm Báu Trao Tay) 

Người xưa tìm thuốc lên non hái lá. Thử nếm. Thử chữa bệnh cho mình. Rồi mới dám mà sẻ chia cho bạn bè hàng xóm, giữa chốn thân quen. Phải phơi nắng, phơi sương, phải chẻ, phải sao, phải sắc. Ba chén sáu phân. Tùy bệnh trạng mà gia giảm. Thuốc chữa đựơc bệnh cũng là thuốc độc. Chỉ cần một chút sơ sẩy, hững hờ!

Tôi là một người thầy thuốc, một bác sĩ, mà cũng là một bệnh nhân, lắm nỗi lao đao, đi tìm thuốc chữa cho chính mình. Mới thấy tốt nhất là đừng nên có bệnh! Đừng phải cần đến thuốc men. Nhưng “Không hẹn mà đến, không chờ mà đi, bốn mùa thay lá thay hoa thay mãi đời ta…” (TCS)

 

(Trích Thay lời ngỏ Thư gởi nguười bận rộn)

Tôi là một kẻ làm biếng, lại “hành” cái nghề mà ông tổ là Hải thượng Lãn Ông, ông già Lười ở làng Hải Thương, vậy mà bỗng trở thành một người bận rộn lúc nào không hay!

Số là ông bạn nhà báo của tôi, ông Trần Trọng Thức, một hôm gõ cửa bảo: “Nghe nói ông sắp về hưu, rỗi rảnh, viết cái gì đó cho báo Doanh nhân Saigon Cuối tuần cho vui đi”! Nghe “doanh nhân” tôi đã hoảng vì cái sự bận rộn của họ. Biết ý, ông cười: Đây là “Doanh nhân cuối tuần”, không phải chuyện làm ăn đâu! Viết cái gì cũng đựơc, miễn là cà kê dê ngỗng, có hơi hướm sức khỏe một chút… là đựơc! Tôi bèn tra tự điển: cà kê, có nghĩa là dài dòng, hết chuyện này sang chuyện khác, còn dê ngỗng thì ai cũng biết! Thôi thì nể bạn…

Tôi nhớ André Maurois, người mà tôi rất mến mộ đã từng víết Lettres à l’inconnue (Thư gởi người đàn bà không quen biết, bản dịch Ngyễn Hiến Lê). Tôi thử bắt chước tạo ra cái mục “Thư gởi người bận rộn”, lấy ý từ chữ business, là ‘bận rộn’ xem sao. Và tôi cũng tưởng tượng ra “người bận rộn” của tôi. Nghĩ gì viết đó. Cà kê dê ngỗng mà. Chẳng ngờ đựơc độc giả khen, nói cà kê dê ngỗng mà coi cũng đựơc! Từ đó tôi trở thành một ngừơi bận rộn…

 

(Trích Lời ngỏ Như ngàn thang thuốc bổ)

Tôi vốn ít hay cười. Ngay từ nhỏ, người ta đã gọi tôi là “ông cụ non”, vì lúc nào cũng có vẻ đạo mạo, nghiêm túc quá. Sau này ra hành nghề, làm một người thầy thuốc, một người dạy học, tôi như càng nghiêm túc, đạo mạo hơn. Tại cái tạng, biết sao! Thấy bạn bè vui vẻ, khoái hoạt… tôi cũng thích lắm mà không làm sao bắt chước được. Chỉ đôi khi đọc sách có chỗ nào dí dỏm thâm trầm kín đáo một chút, tôi mới tủm tỉm cười một mình. Tôi cũng không biết hút thuốc, không uống rượu, không bia bọt, thường chỉ “phá mồi” trong những bữa họp mặt đông vui làm bạn bè vừa thương vừa giận! Cũng tại cái tạng thôi. Trong nhiều năm trời, tôi làm việc như điên, cho đến một hôm người ta phải đưa tôi vào bệnh viện để mổ sọ cấp cứu vì tai biến mạch máu não. Người ta cạo trọc đầu tôi, đục hai lỗ thủng, rồi đặt ống dẫn lưu cho máu chảy vào hai chai nhỏ treo tòng teng bên dưới. Khi tỉnh dậy, nằm trần truồng trên băng ca ở phòng hậu phẫu lạnh ngắt, đắp một tấm “ra” trắng mỏng trên người, tôi nghĩ thế là xong! Một cô điều dưỡng đến tiêm thuốc, đọc hồ sơ thấy tên tôi, em hỏi có phải bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc “Phòng mạch mực tím” không, tôi ú ớ gật. Thế là em kêu lớn: Các bạn ơi, lại “coi” bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc nè! Bốn năm cô chạy đến. Thì ra các em đọc báo, biết tên tôi nhưng chưa biết mặt. Tôi không khỏi tức cười nghĩ lâu nay mình làm thầy thuốc đã “coi” của người ta cũng hơi nhiều rồi, bây giờ người ta coi lại một chút cũng phải thôi…

Lúc nằm dưỡng bệnh, tôi sưu tầm các chuyện cười, đọc cho vui. Nó giúp tôi tủm tỉm khi gặp một chuyện hay, hạp với tạng mình. Chủ yếu là các chuyện cười về ngành Y, chuyện trẻ con, chuyện nước ngoài… Ông bà ta nói “Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ”…

 

Một mùi gió bấc quen thuộc…

(Trích Lời ngỏ Gió heo may đã về…)

Thật ra già là gì, lúc nào thì già, lúc nào thì chớm già, sắp già, mới già, đã già. Có tuổi nào là tuổi “hườm hườm” chăng? Một người bạn ở tuổi hườm hườm hỏi, sao, ông bác sĩ, ông đã viết nào cho các bà mẹ sinh con đầu lòng, nào cho tuổi mới lớn, sao không viết một chút gì đó cho tuổi sắp già, tuổi hườm hườm, tuổi xế bóng, tuổi gió heo may đã về xem sao. Tôi lần lữa hẹn. Phải già một chút nữa cho biết đã rồi mới dám viết chứ, phải không?
Không như nhà thơ nọ đo tuổi mình qua ánh mắt cố nhân, tôi đo tuổi mình qua cách xưng hô của các bà mẹ bế con đến khám bệnh. Trước đây họ gọi tôi bằng anh, sau gọi bằng chú, rồi bằng bác, và rồi mới đây thôi, một chị hãy còn rất trẻ đưa bé đến khám bệnh, lúc bé la khóc, chị dỗ nín đi, nín đi cho ông ngoại khám con, thì tôi mới biết mình đã lên đến ông ngoại rồi mà không hay. Tôi hỏi theo thói quen chị là gì của cháu, chị trả lời ngon ơ, dạ, bà ngoại.

 

Tủm tỉm một mình

(Trích Lời ngỏ Nghĩ Từ Trái Tim)

Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc. Trái tim có cách nghĩ riêng của mình mà nhiều khi khối óc không sao hiểu được. Thời đại của chúng ta, con người dùng khối óc nhiều quá, nhiều đến nỗi người ta luôn ở trong tình trạng muốn “điên cái đầu”. Và thực vậy. Bệnh tâm thần ngày càng phát triển, tự tử, ma túy, stress… ngày càng gia tăng trong một xã hội mà người ta luôn bị quay cuồng, luôn phải chạy đua với tốc độ, tuổi trẻ, nhan sắc, thành đạt… Có lẽ đã đến lúc thử nghe tiếng nói của trái tim. Chúng ta bây giờ hình như có quá ít thì giờ để nghe tiếng nói của trái tim mình, dù chỉ cần nhấp con chuột trên vi tính thì đã nối trọn vòng trái đất, vậy mà người ta có vẻ ngày càng xa nhau hơn, xa với người và xa cả với mình. Một thi sĩ đã phải kêu lên: “… Không có thì giờ! Chim lấy đâu mà về tổ. Tôi lấy đâu mà làm thơ. Em lấy đâu mà đọc những bài thơ tôi sắp viết?…” (Nguyên Sa). Tôi cũng vậy. Tôi cũng không có thì giờ. Quần quật. Tối tăm mặt mũi vì “trăm công ngàn việc”. Cho đến một hôm, hình như, có lẽ, một lần kia có một lúc hình như tôi cũng chợt nghe. Hình như thôi, không chắc, không dám. Ngẫm nghĩ rồi nghe ngóng. Nghiền ngẫm rồi ngập ngừng. Rồi bức xúc, phải viết ra cho khỏi quên, để lâu lâu còn coi lại một mình…

………………………………………………………

Vài nét về Đỗ Hồng Ngọc từ bạn bè (trích):

Từ Trần thị Nguyệt Mai

Trần Thị Nguyệt Mai viết trong “Ngôn Ngữ số đặc biệt về Đỗ Nghê / Đỗ Hồng Ngọc với Bằng hữu & Văn Chương”, tháng 5 /2024 do Luân Hoán và bằng hữu thực hiện, tôi xin trích một vài đoạn ở đây cho Một Chút Tôi:

(…)      Nếu hỏi tên một tác giả đương thời có nhiều đầu sách, được nhiều tầng lớp độc giả ở mọi tuổi tác thích đọc lẫn ngưỡng mộ và có nhiều bạn bè quý mến, có lẽ trong trí nhiều người sẽ nghĩ đến Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Thật vậy, ông có khoảng 60 đầu sách thuộc loại Văn chương, Y học và Phật học; đáp ứng cho nhiều độ tuổi, thường được trưng bày ở các vị trí trang trọng trên các kệ của các nhà sách, thuộc loại best seller, được xuất bản tái bản nhiều lần như “Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng”, “Gió Heo May Đã Về”, “Nghĩ Từ Trái Tim”, “Gươm Báu Trao Tay”… Đó là chưa kể những buổi chia sẻ, đàm đạo, thuyết giảng của ông về sức khỏe, nếp sống an lạc, thở và thiền, v.v… qua những phương tiện truyền thông khác.

Đỗ Hồng Ngọc là tên thật và cũng là bút hiệu. Trước năm 1975, ông dùng bút hiệu Đỗ Nghê (ghép họ cha và họ mẹ) khi sáng tác. Trả lời phỏng vấn của nhà thơ Ngô Nguyên Nghiễm (2010) về câu hỏi, “Sau 1975, rời bỏ bút hiệu Đỗ Nghê, bước sang giai đoạn Đỗ Hồng Ngọc, ấn hành khá nhiều tản văn truyền đạt Y học rồi Phật học. Sự chuyển hướng này có ảnh hưởng thế nào giữa Đỗ Nghê và Đỗ Hồng Ngọc?” Ông cho biết, “Không phải ‘rời bỏ bút hiệu Đỗ Nghê’ đâu. Chỉ là ‘rửa tay gác kiếm tạm thời’ thôi! Thời đó có quá nhiều ‘Ông Đồ xứ Nghệ’, nên Đỗ Nghê tạm lánh đi để tránh nhầm lẫn. Đỗ Nghê / Đỗ Hồng Ngọc vẫn là một đó chứ dù là viết dưới dạng nào đi nữa bạn không thấy sao?”

Ông viết sách dành cho mọi người ở mọi lứa tuổi và được biết đến với nhiều tư cách: bác sĩ, nhà văn, nhà thơ, nhà tư vấn tâm lý…

Nói về “Nghiệp văn chương” của mình, Đỗ Hồng Ngọc chia sẻ, “Tôi mê văn thơ từ hồi nhỏ, đọc gần hết tủ sách trong một tiệm cho mướn sách ở Phan Thiết. Cô Hai tôi (đi xe lửa trúng mìn, bị gãy cả hai chân) cư ngụ trong một ngôi chùa nhỏ, thường kêu tôi đi mướn sách về cho cô đọc, nhưng lại cấm tôi đọc vì con nít đọc truyện không tốt, mê, bỏ học. Mỗi lần đi mướn truyện, tôi lén đọc hết dọc đường đi, có khi ngồi dưới gốc cây đọc xong mới về. Tôi còn ghi chép tóm tắt nội dung, các nhận xét của mình vào một cuốn vở hoc trò.

Bài thơ đầu tiên đăng trên báo Bách Khoa năm 1960, ký với một cái tên tắt. Tuy biết ông Ngu Í cậu mình làm ở đó nhưng tôi giấu ông. Khi báo đăng, tôi mới nói. Ông ngạc nhiên và khen ngợi. Sau đó tôi lấy bút hiệu Đỗ Nghê và đăng nhiều thơ trên Bách Khoa, Mai, trong Ban biên tập báo Tình Thương (với Phạm Đình Vy, Ngô Thế Vinh…), rồi ở trong nhóm chủ trương bán nguyệt san văn học nghệ thuật Ý Thức (Nguyên Minh, Lữ Kiều, Lữ Quỳnh, Trần Hoài Thư, Lê Ký Thương…).

Năm 1967, đang là sinh viên Y, tôi in tập thơ đầu tay Tình Người và sau đó là các tập Thơ Đỗ Nghê (1974), Giữa hoàng hôn xưa (1993), Vòng Quanh (1997), Thư cho bé sơ sinh & Những bài thơ khác (2010) …

Đến nay, họ Đỗ có khoảng 60 đầu sách thuộc ba tủ sách Văn học, Y học, và Phật học được xuất bản, trong đó vài cuốn được dịch ra ngoại ngữ. Có thể nói nhờ có văn chương mà sách Y học và Phật học của ông dễ đi vào lòng người, được độc giả ưa chuộng.

Giáo sư Huỳnh Như Phương, nhà phê bình văn học nhận xét, “… Với bài thơ ‘Thư cho bé sơ sinh’, ngòi bút Đỗ Nghê không chỉ tranh đấu cho hòa bình như một lẽ phải đương nhiên, mà còn suy ngẫm về thân phận con người trong một thời buổi nhiễu nhương và phả hơi ấm tình yêu con người trong một cấu trúc ngôn ngữ hiện đại. Thật kỳ lạ, ở tuổi 25, Đỗ Hồng Ngọc đã tự đặt cho mình một cột mốc thơ ca mà chính ông không dễ gì vượt qua. Ni sư Giải Nghiêm ở Canada có lý khi cho rằng nhiều bài thơ và bài viết của Đỗ Hồng Ngọc về sau này dường như là một sự nối dài ‘Thư cho bé sơ sinh’.

Và cũng có một “họa sĩ” Đỗ Hồng Ngọc. Có lẽ ít người biết ĐHN vẽ tranh, trừ nhóm bạn của ông. Những tranh bút sắt ông vẽ rất “tới” như Đà Lạt, Quê Nhà, Tà Cú, Phan Thiết, Harvard Square… Ông cũng vẽ những phác thảo chân dung bạn bè: Thầy Tuệ Sỹ, Đinh Cường, Lữ Kiều, Lữ Quỳnh, Khuất Đẩu, Lê Ký Thương, Nguyễn Lệ Uyên, Trần Vấn Lệ… Và cả những bức chân dung rất thú vị khi “len lén” quan sát những nhân vật mà ông có dịp gặp gỡ đã được kể lại trong “Áo Xưa Dù Nhàu…” như nhà thơ Huy Cận (1996), Giáo sư Trần Văn Khê (1997).

Khi được hỏi về “Quỹ thời gian” ĐHN nói tôi không có ý niệm có một “quỹ thời gian” nào đó, bởi tôi không thể biết trước tôi có bao nhiêu, đã xài hết bao nhiêu, còn lại bao nhiêu để… lên kế hoạch. Bùi Giáng có câu “Một đời lận đận đo rồi đếm / Gối mỏi người đi đứng lại ngồi”!

Lâu lâu gặp bạn cũ tôi giật mình thấy bạn già quá, da mồi tóc bạc, nhăn nhúm trong khi tôi… vẫn như xưa! Dĩ nhiên, lúc đó bạn tôi cũng thấy tôi già quá, da mồi tóc bạc, nhăn nhúm trong khi bạn vẫn như xưa. Thì ra, đó là một diễm phúc của cuộc sống! Không ai ngờ mình già cả. Nguyên Sa bảo “người ta chỉ có thể đo đếm được tuổi mình qua ánh mắt cố nhân”. Mà lạ, khi gặp lại “cố nhân”, bạn bè hồi niên thiếu, ôn lại chuyện xưa một lát, bỗng thấy mình nhỏ xíu lại, như không hề có thời gian. Mà thật, không hề có thời gian. Cái đồng hồ, cái ngày tháng nọ kia, chẳng qua là những giả định, vui thôi! Phần tôi, đôi khi cũng thấy mình cần “về thu xếp lại”… như TCS nói mà không dễ.

Dù là Đỗ Hồng Ngọc hay Đỗ Nghê, ông đều được nhiều người yêu quý. Nói về ông, học giả Nguyễn Hiến Lê nhận định, “Một bác sĩ mà lại là một thi sĩ thì luôn luôn làm cho chúng ta ngạc nhiên một cách thú vị.”

(Ngôn Ngữ/ Đỗ Nghê-Đỗ Hồng Ngọc với Bằng hữu & Văn chương 5/2024)

 

Từ Nguyễn Hiền Đức 

Nguyễn Hiền Đức là một cư sĩ, thường gọi Anh 5 Hiền, trước 1975 từng có thời là Thư ký Tòa soạn của tạp chí Tư Tưởng của Đại học Vạn Hạnh, trưởng phòng Tu thư  Đại học Vạn Hạnh, thư ký riêng của HT Thích Minh Châu…

Một buổi chiều, khi đi café với một người bạn trẻ về đến nhà thì tôi nhận được mấy cuốn bản thảo “Tuyển tập Đỗ Hồng Ngọc” dày cả vài ngàn trang A4 của một người không quen biết gởi tặng. Giật mình. Ai vậy cà? Thấy có kẹp mảnh giấy nhỏ, ghi số điện thoại tên Nguyễn Hiền Đức. Bèn phone thăm hỏi mới biết đó là một bạn đọc quý mến mình, đã “dõi theo” hành trình viết lách của mình từ lâu, nay tỉ mẩn ghi chép lại cả một tuyển tập đồ sộ gởi tặng và nói còn sẽ gởi tiếp mấy tập nữa! Lúc đầu tưởng anh gom góp từ trên mạng, nhưng không, anh cho biết anh đã gò lưng đánh máy từ những trang sách mà anh ưa thích! Thời buổi này. Lạ thiệt.

Rồi trong một email gởi tôi, anh 5 Hiền “giải trình”:
Tôi bắt đầu “gõ” và “gõ”, mải mê “gõ” cuốn “TUYỂN TẬP ĐỖ HỒNG NGỌC – THẤP THOÁNG LỜI KINH” này từ năm 2010 và kết thúc năm 2018. Tôi rất thích từ “Thấp thoáng” vì nó thể hiện rất rõ, rất đúng cái chất “thấp thoáng”, “lõm bõm” của tôi khi học Phật.
Ngay trong bước đầu “tập tễnh học Phật” tôi đã chọn cách học hợp với sở thích của mình. Đó là chọn bài, chọn sách rồi… rị mọ. cặm cụi, kiên trì “gõ” vào máy. Cách làm này giúp tôi đọc chậm, đọc kỹ từng đoạn, từng trang, từng bài, rồi chú tâm sửa lỗi. Tôi đọc ít nhất 5 lần cho mỗi trang với lòng thanh thản, thư thái. Tôi không “ép” mình phải ghi, phải nhớ một điều gì cứ để nó trôi chảy như một dòng sông. Rồi biết đâu mười năm sau, hay hơn nữa những gì tôi đã đọc, đã “gõ” sẽ giúp tôi nhiều hơn, tốt hơn trên con đường học Phật. Tôi chỉ đặt ra một thứ kỷ luật tự giác mà tôi phải tuân thủ, đó là mỗi ngày “gõ” ít nhất 5 trang, mỗi tháng tối thiểu 120 trang học Phật.

Năm 2021 anh đã gởi tôi món quà sinh nhật:  Đỗ Hồng Ngọc- Tiếng gọi sâu thẳm của Y vương, ghi Quà tặng mừng Sinh Nhật 81 của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc… trên Thư viên Hoa Sen.

Chính nhờ anh mà tôi mới hoàn thành cuốn Tôi Học Phật sau này. Trước đó tôi ngại ngần, chưa dám công bố những lõm bõm học Phật của mình.  Chính anh đánh giá cao cách học lõm bõm thấp thoáng đó của tôi, rồi tập hợp thành một tuyển tập, phổ biến trên Thư viện Hoa Sen, tôi hoàn toàn không được biết trước!

Khi gò lưng “gõ” những bài viết, cuốn sách của tôi trong nhiều năm trời,  Nguyễn Hiền Đức nhận xét: “Trong các bài viết về chuyên đề sức khỏe, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc luôn cẩn trọng, khiêm tốn, vui vẻ. Ông luôn luôn dung dị mà sâu sắc, dí dỏm, hóm hỉnh, trí tuệ, thông minh, sắc sảo mà gần gũi và thân ái. Ông thể hiện tròn đầy lòng chân thành, sự thấu hiểu, thấu cảm nên mang tính thuyết phục cao đối với đông đảo người đọc. Tôi rất tâm đắc khi đọc những bài này của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc và xem nó là một trong những dấu ấn sâu đậm, đáng yêu và sống lâu bền trong lòng người đọc”.

Có thể nói ông đã kết hợp nhuần nhuyễn, tài tình, khéo léo, hiệu quả đối với công việc “bộ ba” của ông: giáo dục sức khỏe – dạy học – viết lách. Ông đã nghiền ngẫm viết lách, giảng dạy, chia sẻ kinh nghiệm với người khác. Để làm được những điều đó ông phải đọc, học, trải nghiệm rất nhiều và ông cho rằng “Viết cũng là học”. Vào thời điểm này, ông đã có ba cuốn sách về lãnh vực nhi khoa được phổ biến khá rộng rãi và một số sách viết cho tuổi già; mảng sách viết về học Phật.

“… Cái học y khoa, tâm lý học, xã hội học cũng đã giúp tôi thấy rõ hơn vai trò thầy thuốc, tham vấn viên của bậc Y vương qua hình tượng các vị Bồ tát Thường Bất Khinh, Dược Vương, Diệu Âm, Quán Thế Âm… để không chỉ học hiểu lời kinh mà còn vận dụng vào nghề nghiệp cho sáng tỏ hơn…  Ở Duy-ma-cật, học Bất nhị. Kinh mở ra một cách tiếp cận mới, sinh động, cho dòng chảy mênh mang rộng khắp.

Ngoài việc phải hành nghề, hội họp, đọc, viết sách, viết báo, tư vấn, tham vấn… bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc lại phải đi nhiều nơi để “trò chuyện” với nhiều người, nhiều giới. Lúc thì trao đổi về “văn chương” với lớp học Thạc sĩ Phật học tại Thiền viện Vạn Hạnh [đường Nguyễn Kiệm, Phú Nhuận TPHCM], lúc thì trao đổi về “Thiền và Sức khỏe” ở lớp Cử nhân Phật học mời, rồi Chùa Xá Lợi “đặt hàng” nói chuyện với Phật tử về “Vận dung tư tưởng Kim Cang Bát Nhã vào cuộc sống”, lúc thì bay ra Trung tâm Văn hóa Phật giáo Liễu Quán (Huế), bay vào Đà Nẵng, rồi Nha Trang cũng với đề tài về Thiền và Sức khỏe, Đức Phật- bậc Y vương, xuống Thiền viện Thường Chiếu, ra Vũng Tàu thăm thiền sư Thanh Từ, lên Bửu Long thăm thầy Viên Minh, xuống tận các chùa ở các tỉnh miền Tây Nam bộ theo lời mời trong một dịp An cư kiết hạ… Đỗ Hồng Ngọc cũng nhận lời Linh mục Lê Quang Huy, có buổi giảng cho lớp Giáo lý hôn nhân ở Nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế, và những buổi Nói chuyện sức khỏe “ Stress trong đời sống hằng ngày”, “Thở để chữa bệnh” tại Trung tâm Mục vụ… do Sơ Hồng Quế phụ trách. Ông còn tổ chức Bàn tròn sinh viên Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, mỗi tháng một lần kéo dài suốt 3 năm. Nói chuyện, viết bài cho Chương trình chất lượng cuộc sống của hội doanh nhân trẻ, rồi trao đổi với các thầy cô giáo việc giảm stress trong công việc hay giáo dục giới tính cho học sinh, trò chuyện với học trò cũ, trả lời phỏng vấn của các nhà văn, nhà báo… Rồi ông lại đi đây đi đó để “ghi chép lang thang” qua cuốn sách mới nhất cùng tên dày đến 300 trang (2014). Mấy năm nay ông đỡ vất vả hơn một chút, ít trực tiếp khám bệnh vì đã có cậu con trai “nối nghiệp”. “Bây giờ đọc ít thôi. Mắt kém. Đọc trên mạng nhiều hơn sách báo in vì có thể phóng to lên được. Lạ, từ ngày nghiền ngẫm kinh sách Phật, thấy cũng mê như đọc kiếm hiệp!” ông chia sẻ.

Các tập tản văn Gió heo may đã về (1997), Già ơi… Chào bạn! (1999), Những người trẻ lạ lùng (2001)… tạo một sinh khí mới lạ, hào hứng và độc đáo trong ngành xuất bản và trong lòng người đọc nhiều lớp tuổi trong và ngoài nước.

Phương châm, phong cách của Đỗ Hồng Ngọc khi viết là chân thành, tôn trọng, thấu cảm, thấu hiểu người khác, nhất là về những nỗi mất mát, để tạo nên năng lượng hóa giải sự khổ.

Đỗ Hồng Ngọc được nhiều độc giả quý mến, có lẽ do cách viết của mình. Ông chỉ viết những gì mình thực sự trải nghiệm. Ông viết để chia sẻ kinh nghiệm chứ không phải từ sách vở mà ra. Khi viết, ông luôn tưởng tượng như có độc giả đang ở trước mắt mình và đang trò chuyện với mình. Có lẽ kiểu viết như thế làm cho người đọc cảm nhận được người viết và độc giả có sự gần gũi, chia sẻ, trao đổi một cách chân thành, không kiểu cách, xa lạ. Đỗ Hồng Ngọc được mọi người hiểu, cảm, yêu, mến, vì ông trải lòng mình để chia sẻ cùng người đọc. Ông cho rằng chuyện viết lách là cái tình. “Ta cũng nòi tình, thương người đồng điệu…” (Chu Mạnh Trinh) vậy thôi!

Năm 2014, Nguyễn Hiền Đức đã viết (…) “ Năm nay bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đã 75 tuổi ta rồi. Cái tuổi đã chín muồi, đã lịch lãm, đã trải nghiệm và chiêm nghiệm được nhiều điều về bản thân, gia đình, bè bạn, nghề nghiệp. Ông cũng đã trải qua những biến thiên dữ dội của thời cuộc. Ông lại có những mối quan hệ xã hội khá rộng rãi và hiểu biết tường tận về nhiều việc, nhiều người dưới cái nhìn, cái cảm của một người giàu Phật tính, thấm nhuần triết học Phật giáo. Vì vậy, tôi kính cẩn thưa trình với ông rằng tôi mong sớm được Hồi ký của ông. Nhớ lại, ông đã nhiều lần “thúc hối” thầy mình là Nguyễn Hiến Lê viết hồi ký như André Maurois đã từng làm với Un ami qui s’appelait moi vậy! Cụ Nguyễn Hiến Lê lúc đầu băn khoăn không biết mình sẽ viết gì trong hồi ký này và chỉ mong viết được vài trăm trang thôi. Thế mà tháng 9. 1980, cụ Lê đã hoàn thành cuốn Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, NXB Văn Học in lần đầu 1993, mặc dù nhà xuất bản “xin để lại sau một thời gian nữa” các chương XXI, XXII, XXIV… nhưng sách cũng đến 800 trang. Trước nay tôi vốn thích đọc Hồi ký, và các cuốn hồi ký mà tôi thích nhất vẫn là cuốn của Nguyễn Hiến Lê, Đào Duy Anh, Quách Tấn, Trần Văn Khê…, và, chắc chắn sẽ rất thích Hồi ký Đỗ Hồng Ngọc. Tôi không dám nói sai lời và cũng như nhiều độc giả chí cốt của Đỗ Hồng Ngọc nóng lòng chờ đợi Hồi ký Đỗ Hồng Ngọc.

Tôi nghĩ bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc có nhiều điều kiện thuận lợi, có nhiều cơ duyên tốt lành để khởi sự sớm hoàn thành tập hồi ký được nhiều, rất nhiều người chờ đọc, đón đọc. Xin đề nghị bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc viết, cho in báo, trên mạng từng bài, từng phần hồi ký như cụ Nguyễn Hiến Lê đã từng làm. Và bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc cũng đã làm “lai rai” một số bài: Một chút tôi, Ghi chép lang thang, Vài đoạn hồi ký… Mong lắm thay, thưa bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc!”.

Nguyễn Hiền-Đức

(Santa Ana, tháng 3.2021)

 

(trích Chuyện Hồi Đó, Đỗ Hồng Ngọc)

Thuộc chủ đề:Già ơi....chào bạn, Góc nhìn - nhận định, Vài đoạn hồi ký

NGUYỄN HIẾN LÊ: 40 năm ngày mất tại Saigon.

11/12/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc 1 Bình luận

 

40 Năm ngày mất của Nguyễn Hiến Lê…

 

Nhà văn Phụng Hoàng Anh, cháu họ của Nguyễn Hiến Lê ở Hà Nội, nhắn tin tôi sáng nay, nhắc ngày 22.12.2024 là tròn 40 năm ngày mất của Ông Nguyễn Hiến Lê, ở Sai Gòn có hoạt động nào kỷ niệm ông Lê không Bác?

Phụng Hoàng Anh cũng cho biết hiện có bà Tô Lệ Hằng, là cháu ruột của ông Nguyễn Hiến Lê ở Pháp, thỉnh thoảng có thư về cho Phụng Hoàng Anh ở quê nhà.

Tôi muốn dịp này ghi lại một vài kỷ niệm:

 

 

Nguyễn Hiến Lê

Con người & Tác phẩm

 

Năm 2003, nhóm chúng tôi có Trần Văn Chánh, Đỗ Hồng Ngọc, Lê Anh Dũng, Nguyễn Duy Chính, Trần Huiền Ân, Nguyễn Hướng Dương, Lê Ký Thương… đã làm một cuốn sách về Nguyễn Hiến Lê: Nguyễn Hiến Lê, Con người và Tác phẩm. Sách đã tuyệt bản từ lâu. Mới đây, Nhà xuất bản Tổng hợp Tp.HCM đã quyết định cho tái bản cuốn sách này với bổ sung từ các bài viết, phỏng vấn Nguyễn Hiến Lê của Nguiễn Ngu Í, Lê Phương Chi, Châu Hải Kỳ, Lê Anh Minh…

Đã có những nghiên cứu về sự nghiệp của Nguyễn Hiến Lê như luận văn thạc sĩ về “Vấn đề lao động nhà văn trong các trước tác của Nguyễn Hiến Lê” của Nguyễn Ngọc Điệp,  do GS Huỳnh Như Phương hướng dẫn và gần đây luận văn nghiên cứu văn hóa, văn học của Nguyễn Hiến Lê” v.v…

Ảnh hưởng Nguyễn Hiến Lê ngày càng thấm sâu trên đất Bắc. Sáu năm trước (2012), tôi nhận được email của một bạn trẻ không quen biết từ Hà Nội, cho biết về chuyến “Hành trình Xuyên Việt vượt 2200km bằng xe máy tri ân thầy Nguyễn Hiến Lê”. Các bạn trẻ đi xuyên Việt bằng xe máy, từ Hà Nội vào thẳng chùa Phước Ân tại Lấp Vò, Đồng Tháp “để thắp hương tri ân tới thầy Nguyễn Hiến Lê”. Email viết: “sách của thầy Nguyễn Hiến Lê viết giản dị, chân thành, là thầy mà cũng như là bạn, chúng con rất vui là đã lan tỏa được sách của thầy tới anh em thanh niên, vì trước đây sách của thầy ngoài Bắc cũng hiếm ạ”.

“…thực ra đối với thanh niên ở ngoài Bắc có thiệt thòi hơn trong Nam nhiều, là ít được tiếp xúc với sách của cụ Lê(…), chân thành mong muốn tri thức Nguyễn Hiến Lê đến gần hơn, giúp đỡ cho thanh niên được nhiều hơn (…).

Saigon, Tp HCM hiện nay cũng đã có một con đường mang tên Nguyễn Hiến Lê. Một cách ghi nhận công lao của một “người Hà Nội” đã sống và làm việc miệt mài suốt nửa thế kỷ ở miền Nam và đã để lại một di sản đáng quý góp một phần không nhỏ vào nền văn hóa nước nhà.

Năm 2018, Nxb Tổng hợp Tp.HCM đã tái bản (có bổ sung) cuốn Nguyễn Hiến Lê, con người & tác phẩm với nhiều tác giả. Trần Văn Chánh đã nhận xét: Từ rất lâu, tên tuổi Nguyễn Hiến lê (1912-1984) đã được nhiều người biết tới như một nhà văn, một học giả, một nhà giáo dục và hoạt động văn hóa độc lập với 120 tác phẩm biên soạn và dịch thuật để đời có giá trị, thuộc mọi lãnh vực khác nhau như giáo dục, văn học, ngữ học, triết học, lịch sử, du ký… Ngoài ra thế hệ hậu bối còn noi gương được ở ông nhiều thứ: gương tự học, tinh thần làm việc nghiêm túc và nhất là nhân cách cao thượng của một người trí thức chân chính.”

Và với riêng tôi, Nguyễn Hiến Lê còn để lại biết bao niềm trân trọng và trìu mến.

ĐHN

***

Ông Nguyễn Hiến Lê và Tôi

Bài Đỗ Hồng Ngọc trên báo Bách Khoa số 426 (17.4.1975)

Tác phẩm đầu tiên của ông, Tổ chức công việc theo khoa học, ra đời năm 1949 nhưng mãi đến năm 1956 tôi mới được làm quen với tên tuổi ông. Còn nhớ lần đó tôi theo xe chở cá nước đá về Saigon “bổ hàng” cho mẹ – mẹ tôi có quán hàng xén tại chợ B.T. – một buổi trưa lang thang trên vỉa hè Trần Hưng Đạo, dừng chân ngắm hàng sách “sôn” bày la liệt, tình cờ thấy cuốn “Kim chỉ nam của học-sinh” của Nguyễn Hiến Lê, một tác giả hoàn toàn xa lạ với tôi lúc đó. Đọc qua lời Tựa, tôi mua ngay.

Tản cư về, tôi bị trễ học đến 4, 5 năm, nhà nghèo, cha mất sớm, tôi phải phụ giúp mẹ trông nom cửa hàng cho nên dù hiếu học, tôi cũng không biết cách nào để tiến thân. May quá, “Kim chỉ nam” đã mở cho tôi một chân trời mới. Đọc xong, tôi thấy mình gần gũi với ông kỳ lạ. Có những điều tôi đã thoáng nghĩ, đã từng làm nhưng vì thối chí ngã lòng, vì không được hướng dẫn nên không đạt được mấy kết quả. Ông đã hệ-thống-hóa, đặt ra những nguyên-tắc giúp cho việc học đỡ mệt, đỡ tốn thì giờ mà được nhiều kết quả hơn. Điều quan trọng là sách trình bày những phương pháp thực hành, không có những lý thuyết viển vông nhàm chán. Thời gian sau đó tôi lại tìm mượn được thêm các cuốn Tự học để thành công, Rèn nghị lực của ông tại nhà một anh bạn làm nghề may.

Với niềm tin mới, tôi bắt tay vào việc lập chương trình “học nhảy”. Tôi viết thư hỏi ý kiến ông về việc này và ông trả lời “được” vì qua bức thư thấy tôi khá già giặn và sức học đã vững. (Trong Kim chỉ nam của học sinh ông đả kích việc học nhảy lớp dữ lắm!). Lúc đó tôi đang theo học đệ thất – lớp đệ thất đầu tiên, mới mở của tỉnh – và tôi đã rất xấu hổ phải ngồi bên cạnh các học trò nhỏ hơn mình 4, 5 tuổi. Nhờ có chí và biết áp dụng những phương pháp học chỉ dẫn trong Kim chỉ nam và Bí quyết thi đậu, tôi đã rút ngắn chương trình Trung-học được ba năm, đuổi kịp các bạn bè cùng lứa. Được bà con khuyến khích, mẹ tôi bằng lòng cho tôi đi Saigon “du học”.

Đến Saigon, việc đầu tiên của tôi là tìm thăm ông, định bụng sẽ báo tin cho ông biết là đã thi đỗ và bày tỏ lòng ngưỡng mộ, biết ơn của tôi ; nhưng khi gặp ông, tôi đã lúng túng không biết phải nói gì, chỉ ấp úng trả lời ông vài ba câu rồi ra về. Thấy ông có vẻ nghiêm nghị quá, lại đang bận sửa bản vỗ cho một tác phẩm nào đó. Như thế là lần này tôi đã hoàn toàn thất bại, cuốn Đắc nhân tâm của ông không giúp tôi được tí gì cả! Từ đó, mỗi lần đến thăm ông tôi thường rất ngần ngại, lúc nào cũng có cảm tưởng như quấy rầy ông, không để cho ông “sống đủ 24 giờ một ngày”. Nhiều người quen biết ông chắc cũng cùng cảm tưởng đó lúc ban đầu. Về sau, nhiều năm trôi qua, quen thân ông nhiều hơn, tôi biết tôi đã lầm lẫn. Phong thái ông là phong thái của một nhà nho, giao tình dù thật thắm thiết thì bên ngoài vẫn có vẻ hờ hững, khác xa với cái vồn vã ồn ào của người Tây-phương. Chính cái ánh mắt ông và cái bắt tay chặt chẽ của ông đã bộc lộ tâm tình ông nhiều hơn. Bây giờ tóc ông đã bạc nhiều, da sậm và nhăn nheo nhiều hơn, nhưng ánh mắt vẫn tinh anh và cái bắt tay vẫn nồng nhiệt như thuở đó. Những lúc đến thăm, tôi thấy ông luôn mặc bộ bà ba trắng nhạt, cũ kỹ quen thuộc, cũ kỹ quen thuộc như loại bì thư ông quen dùng trong bao nhiêu năm qua. Ông không thích đổi thay. Hình như ông hút thuốc hơi nhiều quá! Lúc nào cũng có lon thuốc rê bên mình, ông vừa trò chuyện với khách vừa vấn vấn vê vê điếu thuốc lá, liếm nhẹ rồi bật quẹt hút. Các ngón tay ông nhanh nhẹn, thuần thục đến vàng sậm màu khói. Ông khen Lâm Ngữ Đường là “cận nhân tình” có lẽ vì họ Lâm “bồ” với ông, đã không cấm ông hút thuốc dù cái bao tử của ông cứ đau đi đau lại hoài!

Thỉnh thoảng khi có chuyện thắc mắc, chuyện vui buồn gì mà không tiện đến thăm, tôi viết thư cho ông. Lần nào ông cũng sốt sắng trả lời, ân cần chỉ dẫn, khuyến khích tôi.

Tôi chịu nhiều ảnh hưởng của ông. Cuốn sách đầu tay của tôi Những tật bệnh thông thường trong lức tuổi học trò, chỉ là một phần bổ túc cho cuốn Kim chỉ nam của học sinh. Sau đó tôi viết thêm một cuốn khác, cùng loại y-học phổ thông, cũng nằm trong chiều hướng nâng  cao trình độ đại chúng mà ông đã vạch. Ông nói muốn cho nước giàu, dân mạnh thì không phải chỉ một người hay một nhóm người làm được, mà phải là toàn dân cùng ý thức, cùng thực hiện. Muốn vậy phải đặt nặng vấn đề giáo dục đại chúng.

Với tôi, ông là một tấm gương sáng. Tấm gương của Nghị lực, của Tự học và của Phụng sự. Ông tận tụy cả đời viết sách, đem kinh nghiệm bản thân ra hướng dẫn thanh thiếu niên, mong giúp được cho người khác chút gì ; lúc bỏ cây viết ra thì vớ ngay cuốn sách để đọc, để học không ngừng. Tôi đoán sở dĩ ông đã không nhận một chức vụ gì trong guồng máy công quyền là để giữ cho ngòi bút mình độc lập, để có thể đóng trọn vai trò giám sát của người trí thức mà Alain đã nói. Nhờ đó ông không có mặc cảm, thấy điều gì đáng khen thì khen, điều gì không ưa thì nói. Và ông đã nói bất cứ điều gì từ việc dịch sách, chuyển ngữ đến việc nhân mãn, ô nhiễm… Có thể đôi lúc ông cũng sai lầm, nhưng điều quan trọng là ông đã thành thực với chính ông.

 

Đến nay ông đã cho ra được 100 tác phẩm, có những tác phẩm dày vài ngàn trang, có những tác phẩm 3. 4 cuốn, về đủ mọi bộ môn, từ văn chương, y-học, giáo dục, đến lịch sử, triết học… làm nhiều người kinh ngạc về sức làm việc của ông. Tôi biết có những tác giả “sản xuất” còn nhiều hơn ông, viết mau và viết mạnh hơn ông, nhưng đọc họ người ta thấy rõ ràng là những tác phẩm máy móc, sản xuất hàng loạt. Ở ông thì không. Ở ông là con người. Tác phẩm ông là con người ông. Ông “dạy” cho thanh niên rèn nghị lực thì chính ông là một tấm gương nghị lực ; ông viết về tổ chức thì chính nếp sống ông là một sự tổ chức ; ông viết về tự học thì chính ông đã nhờ tự học mà thành công. Nhờ viết từ những kinh nghiệm sống thực đó, người đọc thấy gần gũi với ông và những lời ông chỉ dẫn đều có thể ứng dụng được.

Nhìn lại toàn bộ tác phẩm ông, không ai chối cãi giá trị của những Đông kinh nghĩa thục, Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười, Đại cương Triết-học Trung-quốc, Ngữ pháp Việt-nam… và những Chiến tranh và Hòa bình, Sử ký Tư Mã Thiên, Chiến quốc sách… Những tác phẩm đó thực sự có ích cho các nhà nghiên cứu, các sinh viên đại học và đã đóng góp một phần đáng kể cho nền văn hóa miền Nam. Nhưng theo tôi, những tác phẩm quan trọng trong đời ông, đáng cho ông hãnh diện chính là những tác phẩm nho nhỏ, ông viết nhằm giáo dục thanh thiếu niên, hướng dẫn họ trong việc tự huấn luyện trí, đức. Đó là Kim chỉ nam của học sinh, Tự học để thành công, Tương lai trong tay ta, Rèn nghị lực… và nhất là bộ Gương danh nhân của ông. Mà họ là ai? Là những thiếu niên thất chí bán hàng xén như tôi thuở đó, là anh thợ may lận đận như anh Chín NS, là một giáo viên tiểu học, một y tá hương thôn, một thơ ký nghèo trong một công tư sở nào đó. Họ là những người có thiện chí, có tinh thần cầu tiến, hiếu học nhưng vì hoàn cảnh mà lỡ dở. Họ là thành phần đông đảo nhất trong xã hội ta bây giờ, một xã hội có vốn liếng hơn ba mươi năm chiến tranh. Nhờ những cuốn sách đó, trước mắt họ mở ra những cánh cửa mới, trong lòng họ nhen lên ngọn lửa nồng, và dù họ có không “thành công” nhiều thì đời sống họ cũng sẽ được nâng cao ít ra là về mặt tinh thần. Thú thực, tôi rất bực mình khi thấy chính tác giả có lần đã xếp những loại sách đó vào hàng thứ yếu. Ông nói “… nhưng chẳng qua cũng chỉ để cho thanh niên đọc (Kỷ niệm Văn-thi-sĩ hiện đại – Bàng Bá Lân). André Maurois 80 tuổi mới viết “Thư ngỏ gởi tuổi đôi mươi”!

***

Mơ ước lớn nhất của đời ông bây giờ có lẽ là được thấy cảnh thanh bình, con cháu đoàn tụ, rồi lui về  sống với mảnh vườn ở miền quê. Năm kia tôi gửi ông một bài thơ, bài “Đi cho đỡ nhớ” viết từ nỗi xúc động thấy những chuyến xe lửa lại lăn trên đường sắt, dù chỉ mới lăn đến… Biên Hòa, mà mơ một chuyến tàu nam bắc. Ông trả lời:

“(…) Nhưng cháu làm cho tôi thèm đi quá! A, bao giờ Saigon mới được nối với Hà-nội bằng xe lửa đây? Lúc đó tôi sẽ bỏ hết công việc, nhờ cháu làm revision gérénale cho bộ máy của tôi, rồi lên xe lửa thăm non sông Nam Trung Bắc một lần cuối cùng. Sẽ uống dừa Tam Quan, ăn cam xã Đoài, rồi ăn nhãn Hưng Yên, hồng Bạch Hạc, cốm Vòng v.v…”

Rồi cuối năm ngoái, có lẽ đã đợi mãi, hy vọng rồi thất vọng mãi vẫn chưa thấy thanh bình về trên quê hương mà chiến tranh càng ngày càng thêm thảm khốc, ông viết “Bây giờ tôi chỉ mong được nghỉ ở thôn quê thôi. Hai mươi mấy năm viết lách liên tiếp, chưa bao giờ được nghỉ lấy một tháng (…)” Ý muốn này ông đã lập đi lập lại như một điệp khúc từ nhiều năm qua mà không sao thực hiện được. Cứ nghỉ ít lâu ông lại chịu không nổi, phải cầm viết lại. Ông đã nghiện nặng rồi chăng?

Cuộc đời ông quả thực là một tác phẩm lớn. Tôi ước mong trong tuổi già ông sẽ viết hồi ký, kể lại đời mình cho bọn trẻ chúng tôi đọc như André Maurois viết “Portrait d’un ami qui s’appelait moi” vậy. Tôi là độc giả của ông từ ngày còn là một học trò đệ thất, lại được quen biết ông hơn 15 năm nay, nghĩ lại, nếu trong thời thơ ấu không được đọc những sách đó của ông, không được gặp ông, có lẽ tôi đã khác ; nên tuy không được may mắn học với ông ngày nào, từ lâu tôi vẫn xem ông là một vị thầy của mình, hơn thế, một người thân. Tôi đâu có cần phải nói cám ơn ông!

***

Còn nhớ năm 1978, tôi có dịp lần đầu tiên ra Hà Nội dự một hội nghị về y học. Hà Nội không hề xa lạ với tôi. Tôi như thuộc lòng từng ngõ ngách, từng phiến đá, từng mái tranh gốc rạ, từng phố xá thân quen… cũng nhờ từ nhỏ đã sống với tác phẩm của Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Nhất Linh, Khái Hưng… những buổi chiều vàng, những gánh hàng hoa, những anh phải sống… rồi với cả những người xa Hà Nội như Mai Thảo, như Vũ Bằng… Hà Nội với tôi còn là “Cùng ngước mắt về phương Thăng Long thành cao đứng…” rồi “Hà Nội ơi, hướng về thành phố xa xôi, ánh đèn giăng mắc muôn nơi, áo màu tung gió chơi vơi…” …

Tôi lẻn khỏi hội nghị đến thăm Văn Miếu, lòng lâng lâng như đi giữa ngàn xưa và bỗng nhớ Nguyễn Hiến Lê, nhớ một câu ông viết từ những năm 50  rằng bằng cấp không phải là thước đo giá trị của một con người. Có những người có tên trong văn bia tiến sĩ ở Văn Miếu mà chẳng mấy ai còn nhớ, trong khi những Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Chu Manh Trinh, Tản Đà, Tú Xương… luôn được người đời nhắc đến…

Tôi đến Bưu điện Hà Nội gởi ngay cho ông một tấm bưu thiếp. Chỉ viết mấy dòng vắn tắt. Cũng chẳng hy vọng gì nó đến được trong thời buổi đầy khó khăn này. Vậy mà hơn một tháng sau, Nguyễn Hiến Lê nhận được bưu thiếp và ông trả lời:

Saigon 3/11/78
Thân gởi cháu Ngọc,
Hôm qua tôi được bưu thiếp cùa cháu gởi từ Hà Nội ngày 29/9. Cảm động nhất là câu: “Cháu đến thăm Văn miếu , nghĩ đến bác nhiều”. Tôi hiểu rồi chắc cháu nhớ một đoạn cuối tập Bí quyết thi đậu của tôi. Cảm ơn cháu nhiều lắm. Cháu hiểu tôi. Cháu làm tôi nhớ hồi trẻ tôi học ở trường Bưởi (Chu Văn An) ngoài đó quá. Cháu có xem Hồ Tây, chùa Quan Thánh, đường Cổ ngư (nay là đường Thanh Niên?) không? Trường Bưởi của tôi ở bên bờ Hồ Tây đấy. Mà trường Yên Phụ (tiểu học) của tôi ở trên bờ hồ Trúc Bạch trông ra đường Cổ ngư đấy.

Đứng trên đường này nhìn về phía Bắc sẽ thấy núi Tản Viên, quê tôi ở gần chân núi đó. Nhớ quá đi. Cháu có đi thăm đền Ngọc Sơn, đền Voi Phục, chùa Láng … không? Toàn những cảnh mà hồi trẻ tôi mê.

Mê nhất là cái sắc trời, cái không khí trong trẻo, những làn sương lam nhẹ là là mặt đât, ngọn gió hây hẩy, những lá vàng, làn nước xanh, hương lúa của mùa thu ngoài đó. Toàn là những teintes douces, gợi những tình cảm buồn buồn mà nên thơ, nên thơ lắm. (…)

Nhớ lại trước đó nữa, đầu năm 1974, tôi gởi ông bài thơ mới viết: Đi cho đỡ nhớ, ghi lại cảm xúc của mình trong ngày đầu tiên trên chuyến xe lửa nối liền Saigon- Biên Hòa mà mơ một chuyến tàu Nam-Bắc… Ông trả lời:

Saigon 30/1/74
Cháu Đỗ Hồng Ngoc,
Tôi mới ở Long Xuyên lên. Bài “Đi cho đỡ nhớ” cảm hứng mới mẻ đấy, mà thú. Đọc hoài thơ yêu nhau và nhớ nhau, với thơ chiến tranh, ngán quá rồi. Nhưng cháu làm cho tôi thèm đi quá. A, bao giờ Saigon mới được nối với Hà Nội bằng xe lửa đây? Lúc đó tôi sẽ bỏ hết các công việc, nhờ cháu làm revision générale cho bộ máy của tôi, rồi lên xe lửa thăm non sông Nam, Trung, Bắc một lần cuối cùng. Sẽ uống dừa Tam Quan, ăn cam Xã Đoài, rồi ăn nhãn Hưng Yên, hồng Bạch Hạc, cốm Vòng v.v.. Thèm không cháu?(…)

 

Ông thường nhắc trong thư cảnh núi Tản hùng vĩ, cảnh ngã ba Bạch Hạc mênh mông mùa nước lớn, cảnh đồng ruộng văng vẳng tiếng sáo diều và thoang thoảng hương lúa, cảnh chợ quê lèo tèo mấy gian cột tre mái rạ với những quán chè tươi… làm tôi cũng nhớ quá!

Cơ hội đã đến với ông. Năm 1979, ông được mời đi dự Hội nghị khoa học toàn quốc về vấn đề Giữ gìn sự trong sáng trong tiếng Việt tại Hà Nội, thế nhưng lần đó ông không đi được vì bệnh. Rồi thôi, không còn dịp nào nữa!

22.10.79
Cháu Ngọc,
Tôi đã bỏ ý ra Hà Nội rồi. Cơ hội tốt, đáng tiếc thật. Nhưng ngại chỗ ở và ăn lắm, cũng ngại cuối Oct. thời tiết lạnh đau bao tử và rhinite trở lại. Cũng còn li do: ông Trương Văn Chình không được mời ra, không hiểu tại sao. Đi một mình, buồn.

(Ghi chú: Trương Văn Chình là người cùng hợp soạn với ông cuốn Khảo luận về Ngữ pháp Việt Nam. NXB Đại học Huế, 1963).

Rồi ông về ở hẳn Long Xuyên, quê hương thứ hai của ông ở miền Nam, ráng viết cho xong các tác phẩm triết học Trung Quốc mà ông nói là “hy vọng còn có giá trị trong vài mươi năm nữa”- và “cũng để bắt đầu óc phải làm việc” cho nó đừng sớm “lão hóa”. Cũng trong thời gian này, ông nói ông băn khoăn không biết có nên viết hồi ký hay không, và, nếu có viết thì sẽ viết những gì. Trong các thư riêng gởi tôi, ông tâm sự như thế và nghĩ rằng có lẽ cũng nên viết chút gì đó chừng vài trăm trang… Thế rồi Hồi ký Nguyễn Hiến Lê cũng như 120 tác phẩm của ông đã hình thành như ta được biết hôm nay.

Những năm cuối đời, ông thường ưu tư buồn bã, mà vẫn khôn nguôi nỗi nhớ quê xưa:

Nhớ lại hồi đó, mới đây thôi mà đã đúng như câu thơ cổ: ”Vạn sự tan như mây khói” cả rồi. Cả cái mộng đi một tua thăm Nam Trung Bắc cũng tan luôn nữa.
Tôi chưa về thăm ngoài đó….
(Long Xuyên 30.7.79)

Ông thường về Long Xuyên, quê hương thứ hai của ông, bùi ngùi nghe lại câu hò ngày xưa:

“… chèo vô Núi Sập lựa con cá khô sặt cho thiệt ngon,
lựa trái xoài cho thiệt giòn,
đem ra Long Xuyên lựa gạo cho thiệt trắng, thiệt thơm,
em về em dọn một bữa cơm
để cho người quân tử
hò ơ… để cho người quân tử ăn còn nhớ quê…” [1]

Với tấm lòng như vậy, dễ hiểu tại sao mặc dù ông có điều kiện để đi xa – vợ con ông ở Pháp từ nhiều năm trước– nhưng ông chọn ở quê nhà, chết ở quê nhà (ngày 22/12/1984), và được hoả táng tại Thủ Đức.

 

 

Bức thư NHL viết cho ĐHN năm 1979

 

Lá thư Thầy Nguyễn Hiến Lê gởi Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

(Cám ơn anh Hai Trầu, Lương Thư Trung, đã đánh máy lại)

Long Xuyên 20. 7. 1979

Cháu Hồng Ngọc,

Tôi về đây từ 4.6, tính 1.8 mới trở lên Sàigòn. Về để chuẩn bị sang năm sẽ về ở hẳn dưới này: già rồi, nhà tôi muốn ở tại quê hương gần họ hàng, người thân.

Mới nắng được một tuần nay, mà nắng gắt; trước đó mưa liên tiếp ba tuần, buồn quá, không biết làm gì đọc lại báo cũ, số BK cuối cùng 25.4.75. Đọc lại bài cháu viết về tôi, rồi đọc lại bài Bàng Bá Lân ( trong Kỉ niệm nhà văn hiện đại), bài anh Ngư (trong Sống và Viết) và tập Châu Hải Kỳ viết về tôi.

Bài của cháu ngắn nhất mà tôi thích nhất, vì thành thật, tự nhiên, thân mật nhất. Lối viết của cháu cũng giống lối viết của tôi: Sáng sủa, gọn gàng, cụ thể, xen nhiều hồi kí, tình cảm, hấp dẫn. Không có những câu dài lúng túng như một số cây bút trẻ.

Tôi nghĩ cái buổi trưa cháu thấy cuốn Kim chỉ nam của tôi ở trên vỉa hè đường Trần Hưng Đạo đó. Không vì nó là một điểm quan trọng đánh dấu đời cháu mà cũng có ảnh hưởng ít nhiều đến đời của tôi nữa. Trong bảy tám năm nay cháu giúp tôi được nhiều khi tôi đau, nhờ cháu mà tôi biết cậu Hùng – cháu có gặp, cho tôi gởi lời thăm cậu ấy – mà hết được tật và bệnh thận. Rồi bài cháu viết về tôi chắc khiến cho nhiều người hiểu tôi hơn; lại còn những quà như bánh tráng, hột điều, mạch nha mà bây giờ không làm sao có được nữa. Ngon lạ.

Nhớ lại hồi đó, mới đây thôi mà đã đúng như câu thơ cổ: “Vạn sự tan như mây khói” cả rồi. Cả cái mộng đi một tua thăm Nam Trung Bắc cũng tan biến nữa. Tôi chưa về thăm ngoài đó mà cũng không muốn về nữa.

Còn sống ít năm nữa thì rán viết như bắt óc làm việc cho nó khỏi mau suy, và cũng để cho mau qua 24 giờ trong một ngày.

Tôi đã làm gần xong chương trình của tôi rồi: giới thiệu kĩ và dịch trọn hoặc gần trọn tác phẩm của tất cả các triết gia lớn của T.H. thời Tiên Tần: 7-8 bản thảo trung bình 400 trang một. Không biết giữ được bao lâu? 10 năm, 20 năm nữa?Tôi cũng tính viết qua loa (vài trăm trang thôi) hồi kí. B.B Lân đã viết xong 500 trang, Quách Tấn viết cả ngàn trang rồi mà chưa xong.

Nhưng tôi không biết viết gì bây giờ? Viết về hoạt động văn hóa của tôi? Thì các tác phẩm của tôi đó, viết thêm gì nữa?

Viết về đời sống của tôi hồi trẻ? Thì cũng đã lác đác có trong một số tác phẩm của tôi rồi. Viết về bạn văn? Tôi ít bạn văn, chỉ khoảng mươi người, khen họ thì tôi nghĩ nên vắn tắt thôi, không cần viết dài, còn chê thì tôi không có gì để chê!

Cháu nghĩ xem tôi nên viết gì đây? Tôi chưa đọc cuốn Mon ami qui s’appellait moi của A.Maurois mà cháu nhắc trong bài báo BK đó. Ông ta nói gì trong đó? Cháu có cuốn đó không? Tôi sẽ hỏi Lê Ngộ Châu xem có cuốn đó không.

Trong bài cháu viết, có nhắc tới “anh chín NS” thợ may. Nay ông ta vui không? Yên ổn làm ăn được không? Con cái khá không?

Từ 1975 tới nay, tôi vẫn thường được thư của thanh niên, toàn là những cậu mới hay sắp đậu tú tài thì nước nhà thống nhất. Họ vẫn tin tưởng ở sách của tôi. Tôi mong rằng họ sẽ không thất vọng, và tôi thương họ!

À, gần đây cháu có gặp Thầy Từ Mẫn không? Ông Nguyễn Hữu Vị nữa?

Năm ngoái Viện khoa học xã hội sai người (người này quen tôi) lại dò xem tôi còn ở đây không. Rồi mới hai tháng trước một cán bộ quen tôi từ mười mấy năm trước (sơ sơ thôi) cũng lại hỏi tôi có tính đi đâu không. Tôi đáp: Có, tính về Long Xuyên ở cho trọn cái tuổi trời. Họ ra về và chẳng trở lại nữa.

Thư này tôi viết ở L.X nhưng không nhớ địa chỉ của cháu, phải đợi về Sàigòn rồi mới gởi được. Khoảng đầu Aout, chưa biết ngày nào tôi sẽ lên. Xe cộ đi bây giờ mệt lắm mà tốn kém lắm.

Tôi chúc toàn thể gia đình cháu an vui.

Bệnh của nhà tôi bớt nhiều (8/10) rồi nhờ Gasepeline ở Pháp gởi về.

Thân ái,

Nguyễn Hiến Lê

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Vài đoạn hồi ký

Thư gởi bạn xa xôi: Lại về Lagi

02/12/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

Thư gởi bạn xa xôi,

Lại về Lagi

Có mấy người em của bà xã mình ở Mỹ về chơi, nên tổ chức đi Lagi Phan Thiết một chuyến.

Cái “mới” của kỳ này là về thăm lại chốn cũ, bãi biển Đồi Dương, để nhìn Hòn Bà cho rõ, thăm lại những gốc dương xưa, ngày càng già cổ. Lạ, thị xã Lagi phát triển nhanh, đẹp, nhưng bãi Đồi Dương thì ngày càng nhốn nháo, ngập rác.

Lagi có Núi đất, và Hồ nước mênh mông, cung cấp nước cho Thị xã. Trông từ xa, núi đất giống như chiếc nón lá rất dễ thương, như Núi Chớp Chài ở Phú Yên. Núi đất xưa hoang vu. Ngôi mộ Thầy Thím từng có cọp về viếng. Nay đã bắt đầu… đô thị hoá. Ngay chân núi đã thấy có quán cà-phê Lưng Chừng Núi khá đẹp, có nhà trọ. Gần đó là khu chế biến Trầm hương…

Một ngôi chùa mới xây sát bên biển, chùa Quảng Hạnh 2, có tượng Quan Âm khá đặc biệt: rất trẻ, thay vì đứng trên toà sen lại đang cưỡi rồng dạo khắp nơi. Lần trước, về thăm, mình đã “cảm tác” mấy câu thơ:

“Cô Quan Âm xinh đẹp

Cưỡi rồng dạo khắp nơi

Tay ôm bình tịnh thuỷ

Cứu khổ cho muôn người!”.

(ĐHN)..

Gởi bạn vài hình ảnh coi vui nhe.

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc.

 

Về Lagi, thăm lại bãi Đồi Dương quen thuộc ngày xưa… (15.11.2024)

 

Những gốc dượng già đã thành cổ thụ, như một con dê núi về thăm…

 

Bãi tắm mới. Cũng là nơi xưa có Giếng Nguồn Chung, chứa nước nhỉ xuyên qua động cát, cho bà con đi dọc biển có nước ngọt uống đỡ khát trên đường từ Lagi về Tam Tân, Phong Điền, Hiệp Nghĩa  (quê Nguiễn Ngu Í, Nghê Nhã Ý, Lê Phương Chi…).

 

 

 

 

Tượng Quan Âm ở Chùa Quảng Hạnh 2. Hồ Tôm, Lagi.

 

Núi Đất Lagi (ĐHN 2024)

Thuộc chủ đề:Ghi chép lang thang, Góc nhìn - nhận định, Vài đoạn hồi ký

CON ĐƯỜNG AN LẠC Bài 2: Tuổi già học Phật

23/11/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc 1 Bình luận

GHI CHÚ:

Bây giờ tôi đã 85 tuổi. Già thiệt rồi! Tai nghễnh ngãng, mắt lèm nhèm, đi đứng đã giống… cat walk, quên cũng bộn rồi… Không ít bạn gần xa khuyên tôi có kinh nghiệm học Phật lâu nay thế nào, chia sẻ với anh em cho vui, cũng là cơ hội để cùng nhau học hỏi thêm. Tôi bèn gom góp được một ít bài cho là “cốt lõi”, sắc ba chén sáu phân, lấy tên là Con Đường An Lạc,”Sách bỏ túi” cho người cao tuổi.Không ngờ có người bạn phương xa, chưa từng gặp gỡ, là một Phật tử thuần thành từ thuở nhỏ đã tu tập trong chùa, sống ở nước ngoài nhiều năm, chuyên nghiên cứu, phiên dịch kinh sách Phật học từ tiếng Anh, đề nghị được dịch sang Anh ngữ cho những người bạn trẻ phương xa không rành tiếng Việt, cũng được đọc hiểu, thực hành Phật pháp. Còn gì hơn!

Anh chính là Nguyên Giác Phan Tấn Hải. 

Tôi post tất cả 10 bài lên www.dohongngoc.com này dưới dạng song ngữ để các bạn tuỳ nghi sử dụng nhe.

Chân thành cảm tạ Nguyên Giác.  

Trân trọng,

Đỗ Hồng Ngọc.

(Saigon, 20.11.2024)   

 

………………………………………………..

“Sách bỏ túi” cho người cao tuổi.

CON ĐƯỜNG AN LẠC

Bài 2: Tuổi già học Phật (*)

Đỗ Hồng Ngọc

translated Nguyên Giác

blank
Tranh: Nguyên Giác

Khi về già, tôi học Phật cách khác. Mỗi kinh sách, bài giảng dài dòng, thêm bớt… tôi chỉ học một câu, một chữ, một bài kệ và tự  nghiền ngẫm, đặt câu hỏi, giải đáp và thực hành trong đời sống hàng ngày. Con đường học Phật phải là con đường an lạc, con đường “diệt khổ”, chớ nếu học Phật mà “khổ thêm” thì chắc học sai!

Với Tâm Kinh Bát Nhã, chỉ cần học và hành một câu: “ Quán Tự Tại Bồ-Tát hành thâm Bát Nhã Balamatđa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai “KHÔNG”, độ nhất thiết khổ ách.”

Bồ-Tát Quán Tự Tại nhờ thực hành thâm sâu Bát Nhã Balamatda mà thoát mọi  khổ đau ách nạn!

Tôi tự hỏi: Quán Tự Tại là ai? Bồ-tát là gì? Hành thâm là sao? Bát Nhã Balamat là gì? “Độ” tất cả khổ đau ách nạn thiệt không?…

Rốt lại chỉ cần học một chữ KHÔNG (Prajna, Bát Nhã) đó là đủ. Khi hiểu chữ Không do “Duyên sinh” thì ta không dễ bị lường gạt nữa bởi những cái hình tướng, danh tự bên ngoài. “Thấy vậy mà không phải vậy!” “Nghe vậy mà không phải vậy!”, tránh được những “biến kế sở chấp” và “y tha khởi” tác động, không còn bị dích mắc và từ đó, có thể “vô sở trụ”. Trong đời sống hàng ngày, ta thường luôn bám chấp, nghe lời đường mật, thấy hình tướng bên ngoài mà tưởng thiệt nên bị gạt gẫm bao phen, tỉnh ngộ thì đã muộn! Thời đại ngày nay càng cần “cảnh giác” nào fake news, deep fake, AI… các thứ!

Với Kim Cang, chỉ cần học một câu Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm. Thấy mọi sự do cái tâm mà sinh ra. Nhưng tâm sinh thì cứ sinh, miễn đường “trụ” vao đó, đừng dính mắc vào đó. Dính mắc khổ dài dài ráng chịu! Nếu Tâm sinh kệ nó, đừng thèm trụ vào đâu cả. Cho nên lấy Vô trụ làm Gốc (bản) trong Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục tổ Huệ Năng, lấy Vô Niệm làm tông. Tâm không “sinh sự” được nữa. Tâm bất sinh. Tâm trở về với “bổn lai diện mục” của nó. Trở về cái thể “vô tướng” thanh tịnh của nó. Muốn vậy, phải vào Thiền Định. Kim Cang dạy thiền định, dạy ly tướng, ly niệm, để đạt tới cái “Như Như bất động” của Như Lai.

Với Kinh Hoa Nghiêm, tôi nghĩ chỉ cần học Hội Thứ Nhất ở Bồ Đề đạo tràng, với các phẩm đầu là đủ. Dĩ nhiên sau đó là phần thực hành, “Nhập pháp giới”, nghĩa là thực hành, là “Vào đời”. Và mỗi chúng ta đều là Thiện Tài đồng tử, lòng rộng mở, khiêm tốn học tập với tất cả mọi người.

“Thế Chủ Diệu Nghiêm”- làm chủ thế giới- chắc chắn không phải là một ông thần, ông thánh, vua chúa, hoàng đế nào đó mà phải là một người đạt được “Diệu nghiêm”. Đó là một Bồ tát, ung dung, tự tại vô ngại, đã “hành thâm Bát Nhã, chiếu kiến ngũ uẩn giai Không” mới được.

Như Lai vốn “vô tướng” tự nhiên lại “hiện tướng” ra một ông Phật làm chi cho vất vả, thì ra chỉ vì lòng Đại bi. Ta cũng từ “Như Lai tạng” mà được/bị “nặn” ra để chịu bao phiền não chẳng biết do duyên gì, y báo chánh báo gì, nói chung là do cái Nghiệp! Ngày nào trả xong Nghiệp thì trở về với cõi “vô sanh” đó thôi.

Để thấy biết “Như lai hiện tướng” ra sao thì phải vào Tam muội Phổ Hiền. Tam muội ấy là Samadhi, thứ Định sâu nhất. Vào định Phổ Hiền mới thấy từ Vô tướng “Một ông Phật hiện ra, Ba con ma biến mất!”. Ma Tham, ma Sân, ma Si không còn quậy phá ta!

Thế giới thành tựu đầy “hoa tạng” trước mắt ta, dĩ nhiên đều do từ Tâm ta mà hiện ra. Nào sanh diệt, nào đoạn thường, nào huyễn hoá… tuyệt vời như vậy mà ta không biết, cứ khổ đau, phiền não, chướng ngại, ráng chịu thôi. Cứ “nhập thế” dạo chơi một vòng như Thiện Tài đồng tử thì cuối cùng cũng thấy ra thôi. Thấy  gì? Thấy Tỳ- lô- giá- na (vairocana). Thấy “Nhất thiết chư Phật tỳ- lô- giá- na như lai tạng thân” (Kinh Hoa Nghiêm). Bây giờ ta biết vạn vật đều từ ADN mà ra, và ADN thì từ… không có gì mà ra (bổn lai vô nhất vật) đó thôi. Lý vô ngại rồi thì Sự Sự vô ngại. Cái núi Tu Di to đùng kia nhét vào hạt cải, bốn biến mênh mông nọ rót vào một lỗ chân lông…

Với Kinh Pháp Hoa thì cái hay là chỉ cách làm thế nào để “mau thành Phật”. Lâu nay ta cứ tưởng thành Phật không dễ, phải tu nhiều đời nhiều kiếp. Hôm đó dưới chân núi Linh Thứu, Phật nói với các đệ tử, ta nay đã già, sắp nhập Niết bàn rồi, các thầy có ai muốn hỏi gì thì hỏi ngay đi! Vị Đại Bồ tát dẫn đầu hỏi ngay: Làm thế nào để “mau” thành Phật? Tưởng Phật sẽ rầy la, ai dè Phật trả lời: Dễ lắm! Chỉ cần học Pháp môn “Vô lượng nghĩa xứ” thì xong ngay. Mà Pháp môn đó lại chỉ có một pháp thôi: “Đó là Vô tướng”. Rồi Phật giải thích thêm: “Vô tướng ở đây là vô tướng mà chẳng phải vô tướng, chẳng phải vô tướng mà vô tướng, nên gọi là Thực tướng”. Hoá ra, vô tướng chính là thực tướng. Thực tướng chính là vô tướng. Chẳng cũng khoái ru? Chìm đắm trong vô tướng là sai. Mà lặn ngụp trong thực tướng cũng sai. Cho nên “thấy như thực” không phải là thấy thực, chỉ là “như” (thực) mà thôi. Ta phải thấy cái “vô tướng” của nó kìa, mới biết nó vô thường, vô ngã, biết nó duyên sinh, duyên khởi, có mà không, không mà có. Thấy biết vậy, ta không còn dính mắc! Bất tận Hữu vi mà bất trụ Vô vi. Chẳng hữu chẳng vô gì cả. Ta cũng học được các đức tính Tôn trọng (Respect) của Thường bất khinh, Chân thành (Genuine) của Dược vương và  Thấu cảm (Empathy), biết Lắng nghe (Listening) của  Quán Thế Âm.

Với Pháp Hoa, tôi tự hỏi mục đích Khai thị chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật là sao? “Tri kiến Phật” có gì hay? Sau khi ngẩm ngợi, nghiền ngẫm rồi mới thấy hay thiệt. Vô thường, vô ngã, khổ, bất tịnh… cũng chính là Thường Lạc Ngã Tịnh đó thôi, chẳng qua vì “điên đảo” mộng tưởng!

Với Kinh Duy Ma Cật, học rằng cõi Phật chẳng đâu xa. Cõi Phật trong ta đó thôi. Tâm ta mà thanh tịnh thì cõi Phật thanh tịnh. Tâm ta chưa thanh tịnh thì thấy đâu cũng là gò nỗng, hầm hố, gai góc, thanh tịnh rồi thì cõi đất bỗng nhiên trở nên rộng lớn, nghiêm đẹp, ánh vàng khắp nơi nơi…

Học rằng phương tiện mà không trí huệ không xong. Trí độ là mẹ Bồ Tát. Tùy nghi phương tiện là cha. Phải có Trí độ (Bát Nhã) trước đã. Rồi, phương tiện mới tùy nghi được.

Học rằng Bồ-tát không đắm mê các tầng thiền để bỏ quên đời, phải thấu cảm cùng nỗi khổ đau vô tận của chúng sanh. Cho nên Bồ-tát “Tu học lẽ không mà chẳng lấy lẽ không làm chứng đắc. Tu học vô tướng, vô tác, mà chẳng lấy vô tướng, vô tác làm chứng đắc”.

Học rằng tâm khó mà nhận thấy! Làm sao để tâm an? Chỉ có cách tiếp cận qua thân. Cho nên “giả bệnh” như Duy Ma Cật là cách tốt nhất. Bệnh thì bình đẳng, không phân biệt. Mọi người đều bình đẳng trước… bệnh! Duy-ma-cật nói “Thân này không thể tin cậy được. Nó không phải của ta, không phải là ta, không phải là tự ngã của ta. Phải thấy thân Phật, tức thấy pháp thân.”

Học rằng chúng sanh là những ảo vật do nhà ảo thuật là chính ta tạo ra. Mà nhà ảo thuật cũng là một chúng sanh. Chẳng qua là những bóng hình trong gương, mặt trăng đáy nước, dấu chân chim giữa hư không…

Học rằng bốn Ma là “thị giả”, luôn ở cạnh ta, giúp ta. Ma phiền não bủa vây và nhắc nhở sẵn có bốn vạn tám ngàn cách thoát ra; Ma ngũ uẩn thì thân thiết, nhắc rằng mấy thứ lăng nhăng nó quấy ta chỉ là những kết hợp tạm bợ, lắp ghép lai rai; Ma trời (thiên ma) là lời cảnh giác, đừng tưởng bở! Còn Ma chết (tử ma) lại là bạn thiết gắn bó với ta từ thuở còn trong bụng mẹ…

Học rằng có thứ hương thơm nuôi cả thân và tâm bất tận đó chính là Giới đức. Thứ hương thơm đó mới có thể bay cao, bay xa, bay ngược chiều gió…

(…)

Nhìn lại chặng đường lõm bõm học Phật của mình,  tôi thấy có thể tự vẽ một phác đồ để nhắc nhở mình cho đừng quên:

Pháp Hoa là cốt lõi, ở trung tâm, vị Đạo sư đã mở tung một bí tạng, một “bí kíp” mà các Đức Phật xưa nay còn giấu nhẹm, không tiện nói ra, nay Phật Thích Ca đã “khai thị” cho ta thấy biết Như Lai, từ đó mà “ngộ nhập”, mà sống cùng, sống với, từ đó mà ung dung, tự tại, thuận với pháp, tùy với duyên, một khi biết tất cả đều cùng từ một Như Lai tạng, một “bào thai Như Lai”. Nó vậy là Nó vậy. Vô thủy vô chung. Tương tác từ Như Lai tạng mà hình thành pháp giới trong vũ trụ vô vàn… Với Trí Bát Nhã được “trang bị” ta không còn bị đắm chìm với những “phân biệt”, những “biến kế”, những “y tha” chằng chịt, quấn quít, khiến ta không thấy được cái Như như…

Thấy biết như vậy rồi thì ta mới có đủ Tự tin để Tự tại, hoàn toàn tự do và chịu trách nhiệm về duyên về nghiệp của mình, mà không đổ thừa, không nhờ vả. Ta biết quay về “nương tựa” chính mình và nhận ra một khi đã “tịnh kỳ ý” thì cái tâm ta đã trở về với “Thanh tịnh bổn nhiên” như được Phổ Hiền Bồ-tát dẫn vào lâu các Tỳ-lô-giá-na vốn là Pháp thân của chính mình.

Cuối cùng Duy-ma-cật sở thuyết là nỗi hoài vọng của Phật, muốn lan tỏa đến mọi con người, mọi ngóc ngách đời sống, tạo nên một cõi Phật, một pháp giới bình đẳng, an vui, hạnh phúc cho kiếp người!

Đỗ Hồng Ngọc
(Saigon, 11.10.2024)

(*) Bài 1 https://www.dohongngoc.com/web/goc-nhin-nhan-dinh/sach-bo-tui-cho-nguoi-cao-tuoi-con-duong-an-lac/

 

…………………………………………..

Learning Buddhism in old age

Đỗ Hồng Ngọc

Translated by Nguyên Giác

As I grew older, I began to study Buddhism differently. When I encountered lengthy scriptures and lectures, regardless of how much was added or subtracted, I learned only one sentence, one word, or one verse. I would reflect on it, ask questions, seek answers, and apply it in my daily life. The journey of learning Buddhism should be a path of peace, a path toward the cessation of suffering. If studying the Dharma only increases my suffering, then I must be misunderstanding it!
With the Heart Sutra, I need to learn and practice just one sentence: “Avalokitesvara Bodhisattva practices the profound Prajna Paramita, perceives the five aggregates as fundamentally empty, and transcends all burdens of sorrow.”
I asked myself: Who is Avalokiteshvara? What is a Bodhisattva? What constitutes profound practice? What is Prajnaparamita? Is it true that one can overcome all the burdens of suffering?
In the end, just learning the word EMPTINESS (Prajna) is enough. When you understand the word Emptiness due to Dependent Origination, you will not be easily deceived by external forms or names.
What you see with your eyes is not really what it is. What you hear with your ears is not really what it is. Therefore, you are not mistaken by forms, and you are not affected by external forms; from there, your mind is not attached, and you live without clinging to anything.
In our daily lives, we often cling to various things, listen to flattering words, and focus on external appearances, mistakenly believing they are genuine. As a result, we are deceived time and again, and by the time we awaken to the truth, it is often too late. In today’s world, we must be increasingly vigilant against misinformation, deepfakes, artificial intelligence, and similar threats.

With the Diamond Sutra, I need to learn just one sentence: when the mind is no longer attached to anything, the liberated mind will emerge. Recognize that everything originates from the mind. However, when thoughts arise, allow them to come and go; as long as you do not cling to those thoughts, you will find peace. If you allow the mind to become attached to anything, suffering will persist! When thoughts arise, let them be; do not dwell on any thought.
Therefore, the Platform Sutra of the Sixth Patriarch Hui Neng states that one should regard the mind of No Abode as the foundation for cultivation and the mind of No Thought as the gateway to enter the Zen house. At that point, the mind will no longer be influenced by worldly conditions. The mind will cease to arise, returning to its true nature from its origin. To achieve this, one must engage in meditation. The Diamond Sutra instructs on meditation, emphasizing the importance of distancing oneself from appearances and thoughts. By doing so, one will arrive at the state where the Tathagata reveals the unmoving mind, the mind that perceives all dharmas as they truly are.
With the Avatamsaka Sutra, I believe it is sufficient to study only the First Part in Bodh Gaya, focusing on the initial chapters. Following this, we move on to the practice aspect, which is Entering the Dharma Realm, signifying our engagement in practice and immersion in the world. Each of us embodies the young man Sudhana—open-minded, humble, and eager to learn alongside others.
The Lord of the World, Diệu Nghiêm—the ruler of the world—is certainly not a god, a saint, a king, or an emperor; rather, he must be an individual who has attained remarkable solemnity. This person must be a Bodhisattva, who is leisurely, free, and unhindered, having practiced the profound wisdom of Prajna and recognized the emptiness of the five aggregates.
Tathagata originally had no form but spontaneously manifested as a Buddha to propagate the Dharma with great difficulty, all out of profound compassion. We, too, are shaped by the Tathagatagarbha to endure numerous afflictions, often unaware of the reasons behind them or the environmental retributions that lead to our current retribution, ultimately resulting from Karma. When the day arrives that we have settled our Karma, we will return to the realm of non-birth.
To understand how the Tathagata manifests, you must enter the Samadhi of Samantabhadra. This Samadhi represents the deepest state of meditation. Only by entering the Samadhi of Samantabhadra can you perceive that when a Buddha appears from formlessness, the three demons vanish. At that moment, the demons of Greed, Anger, and Delusion will no longer disturb you.
The world has unveiled itself as a tapestry of flowers before our eyes, all of which emerge from our minds. Birth and death, the concepts of eternity and annihilation, and the myriad illusions are so captivating that we often remain unaware of their true nature. Consequently, we continue to suffer, face challenges, and encounter obstacles; we must simply endure. If we enter and navigate the world like Sudhana, the youth, we will ultimately gain clarity and understanding.
What do you see? You see Vairocana Buddha. You perceive all Buddhas as embodying the same essence of Vairocana Tathagatagarbha, as stated in the Avatamsaka Sutra. We now understand that all things originate from DNA, which itself emerges from the void of nothingness that encompasses all worlds. Once you grasp this principle, you will no longer be constrained by the material aspects of this world. It is easy to comprehend that the immense Mount Sumeru can fit within a mustard seed or that the four vast oceans can be contained within a single pore.
The remarkable aspect of the Lotus Sutra is that it illustrates how one can swiftly attain Buddhahood. For a long time, many have believed that becoming a Buddha is a challenging endeavor, requiring countless lifetimes of cultivation. On that day at the foot of Linh Thứu Mountain, the Buddha informed his disciples that he was aging and about to enter Nirvana. He encouraged the monks to ask any questions they had without hesitation. The leading Bodhisattva promptly inquired how they could quickly become Buddhas. I anticipated that the Buddha would reprimand the monks, but to my surprise, he replied that it was very easy! Simply learn the Dharma door of ‘Infinite Meanings,’ and it will be accomplished immediately. The Dharma door encompasses a single principle: No-form. The Buddha elaborated further, stating that  signifies no-form; yet it is not merely no-form. It is not no-form, but rather no-form, which is why it is referred to as True-form. Thus, no-form is the true form, and true form is no-form. Isn’t that extraordinary?

Being immersed in formlessness is misguided, just as being immersed in true form is also erroneous. Therefore, perceiving reality as it is does not equate to seeing the truth; it merely involves interpreting things as real. We must recognize formlessness to understand that it is impermanent and not a self. This awareness leads us to comprehend that while it exists, it is dependently arisen and ultimately empty. Although it embodies emptiness, it still exists. By seeing and understanding in this manner, we free ourselves from attachment. We do not seek to destroy the conditioned; rather, the mind refrains from fixating on the unconditioned. In this state, there is neither existence nor non-existence. Additionally, we learn the virtues of the Bodhisattva Never Disparaging, the genuineness of the Bodhisattva Medicine King, and the empathy and attentive listening exemplified by the Bodhisattva Avalokiteshvara.
With the Lotus Sutra, I ponder whether its purpose is to guide sentient beings in understanding and penetrating the nature of reality and comprehending what the Buddha truly represents. After reflection and contemplation, I recognize its profound significance. Concepts such as impermanence, non-self, suffering, and impurity are also aspects of the Unchanging, the Blissful, the Essence of self, and True purity, yet they are often misinterpreted due to the delusions we experience in our dreams.
With the Vimalakirti Sutra, I learned that the Buddha realm is not distant; it resides within the mind. When our mind is pure, the Buddha realm is pure. Conversely, if our mind is impure, we perceive obstacles such as hills, pits, and thorns all around us. However, when the mind is pure, the landscape transforms into a vast, majestic, and beautiful expanse, illuminated by golden light everywhere.
I also learned that expedient means must be accompanied by wisdom. Prajnaparamita is the mother of Bodhisattvas, while the appropriate application of expedient means is the father. One must first possess Prajnaparamita; only then can one effectively apply expedient means.

I have learned that Bodhisattvas do not immerse themselves in meditation to the extent of neglecting life; rather, they must empathize with the endless suffering of all living beings. Consequently, Bodhisattvas practice the principle of emptiness without viewing emptiness as an achievement, and they embrace the principles of formlessness and actionlessness without considering formlessness and actionlessness as accomplishments.
I have come to understand that perceiving the mind can be quite challenging. How can one achieve peace of mind? The most effective approach is to connect with it through the body. Therefore, emulating Vimalakirti’s experience of illness is a valuable method. In sickness, all individuals are equal; there is no discrimination. Everyone stands on equal ground before sickness! Vimalakirti emphasized that this body cannot be trusted; it is not mine, it is not me, and it is not a self belonging to me. Instead, one must recognize the Buddha body, which refers to the Dharma body.

I have come to understand that living beings are illusions crafted by the magician—ourselves. This magician is also a living being. We are nothing more than reflections in a mirror, like the moon’s image on water, or the fleeting footprints of birds in the sky.
I have learned that the four Maras are our constant companions, always by our side to assist us. The Mara of afflictions surrounds us, reminding us that there are forty-eight thousand ways to escape our suffering. The Mara of the five aggregates serves as a friend, reminding us that the trivial distractions that disturb us are merely temporary combinations. The Mara from the heavens acts as a warning: do not be delusional! Finally, the Mara of death is a close companion who has been with us since we were in our mother’s womb.

I have discovered a fragrance that endlessly nourishes both the body and mind, and that fragrance is Virtue. Only this scent can soar high, travel far, and defy the wind.

…. () ….

Looking back on my challenging journey of learning Buddhism, I realize that I can create a visual reminder to help me remember my experiences.

The Lotus Sutra is the essence and foundation of Buddhist teachings. The Master has revealed a profound secret, one that the Buddhas of the past have kept hidden until now. It is only in this time that Shakyamuni Buddha has allowed us to perceive and understand the Tathagata. From this understanding, we can realize the Buddha’s perspective and learn to live in harmony with it. This realization brings us ease and freedom, aligning us with the Dharma. At that time, we will live according to our circumstances, understanding that all beings originate from the same Tathagata-garbha, sharing the same Tathagata-womb.
It is as it is, without beginning or end. Interacting from the Tathāgatagarbha to form the dharma realm within the infinite universe. With the cultivation of Prajñā wisdom, we are no longer ensnared by distinctions, contrivances, or the intertwined and entangled dependencies that obscure our perception of Suchness.
Only when we recognize and understand this will we gain the confidence to be at ease, completely free, and accountable for our own circumstances and karma, without blaming or depending on others. We learn to turn inward, relying on ourselves, and realize that once we have purified our minds, they return to their original state of purity. It is as if we are being guided by Samantabhadra Bodhisattva into the Vairocana Palace, which represents our own Dharma body.
Finally, the Vimalakirti Sutra embodies the Buddha’s aspiration to reach every individual and every aspect of life, aiming to establish a Buddha realm—a dharma realm characterized by equality, joy, and happiness for all of humanity!

(translated by Nguyên Giác)

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Gươm báu trao tay, Nghĩ từ trái tim

CON ĐƯỜNG AN LẠC Bài 3: Thả lỏng toàn thân thả lỏng chưa?

23/11/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

“Sách bỏ túi” cho người cao tuổi.

CON ĐƯỜNG AN LẠC

Bài 3: Thả lỏng toàn thân thả lỏng chưa?

Đỗ Hồng Ngọc

translated by Nguyên Giác

 

blank
Tranh: Nguyên Giác

Đó là một câu chú, một “đà-la-ni” của riêng tôi mỗi buổi sáng sớm khi ngồi xuống… “diện bích”! Tôi nói diện bích vì chỗ tôi ngồi… thiền cách vách tường chưa tới một mét do nhà chật hẹp quá. Dĩ nhiên thiền không cứ phải là ngồi. Đi đứng nằm ngồi gì cũng thiền được. Nhưng ngồi thì… vui hơn, có lý hơn ! Tôi không ngồi được kiết già, bán già như truyền thống thì ngồi kiểu của… tôi, cũng như có kiểu ngồi của Tây Tạng, kiểu ngồi của Nhật bổn và kiểu ngồi của người Tây phương… Kiểu nào cũng tốt cả ! Từ hơn 25 năm nay, sáng nào tôi cũng ngồi cái gọi là thiền định của mình – vì không theo một trường phái nào cả, mà chỉ nắm nguyên tắc thiền Anapanasati mà Phật đã dạy từ thuở ban đầu, trong đó đã bao gồm cả thiền chỉ và thiền quán- chừng 30-40 phút, sau đó kết hợp với các động tác  thể dục nhẹ chừng 30 phút nữa mà tôi cũng coi là một thứ thiền « động », một cách « xả thiền » đó vậy. Mỗi động tác thể dục đều tác động trên từng « cơ, xương, khớp » của thân, sau thời gian tĩnh lặng, lắng nghe cái tâm mình lằng nhằng cỡ nào, và làm sao cho nó chịu yên tịnh.  Tôi thấy sức khỏe mình có tốt hơn lên, sức làm việc bền bĩ hơn, trí nhớ có phần tốt hơn… Hôm nào không ngồi thiền và tập thể dục như vậy thì thấy uể oải. Lâu ngày tôi thấy mình như « ghiền » vậy. Tôi viết một bài vè để giúp trí nhớ và giấu kỹ, luôn bắt đầu bằng với «đàlani»: Thả lòng toàn thân thả lỏng chưa

Bài vè đó thế này:

Thả lỏng toàn thân
Như treo móc áo
Ngồi xếp bằng tròn
Vai ngang lưng sổ
Dõi theo hơi thở
Như mượn từ xa
Khi vào khi ra
Khi sâu khi cạn
Chú tâm quãng lăng
Pranasati
Hơi thở xẹp xì
Thân tâm an tịnh
Không còn ý tưởng
Chẳng có thời gian
Hạt bụi lang thang
Dính vào hơi thở
Duyên sinh vô ngã
Ngũ uẩn giai không
Từ đó thong dong
Thõng tay vào chợ…
(Đỗ Hồng Ngọc)

Thả lỏng toàn thân/ Như treo móc áo
Động tác thả lỏng toàn thân rất quyết định trước khi vào thiền. Vào thiền mà còn căng cứng thì hỏng bét. Cho nên tự hỏi mình thả lỏng toàn thân thả lỏng chưa là hết sức cần thiết. Khi thả lỏng toàn thân như vậy, ta đã bềnh bồng trôi đi, không còn có ta có người có chúng sanh có thọ giả gì nữa thì được. Nếu thực sự thả lỏng được thì tức khắc ta đã giảm tiêu thụ năng lượng một cách đáng kể. Chim không cần vỗ cánh bay mà chỉ lượn nhẹ nhàng.

Nhưng thả lỏng cách nào?

Có người nói thả lỏng toàn thân như xác trôi trên sông bồng bềnh. Coi thân như cái túi da hôi, coi thân như xác trôi sông…Theo tôi, tốt hơn nên coi thân là cái áo, móc lên cái móc áo, lùng nhùng rủ xuống.  “Thay như thay áo”  bởi cái áo thì không vĩnh cửu, nó “vô thường”, nó cần được thay. Coi thân như cái áo móc trên móc áo thì thân sẽ tòng teng buông xả hoàn toàn, thả lòng hoàn toàn tấm thân tứ đại ngũ uẩn rồi vậy. Chỉ cần vậy, đã đủ vào thiền.  Thả lỏng, không còn cơ nào nào căng nữa, không còn dây thần kinh nào phải hoạt hóa nữa. Biết rằng sự căng cơ, tonus musculaire là cần thiết để giữ vững bộ xương, cho cơ thể  hoạt động, đã tiêu tốn gần 40% năng lượng của cơ thể. Khi thả lỏng, khi treo lên “móc áo” thì năng lượng căng cơ không cần phải tiêu tốn nữa. Người đã nhẹ hẫng đi: thân nhẹ nhàng như mây (TCS)!

Ngồi xếp bằng tròn/ Vai ngang lưng sổ
Ngồi kiểu nào cũng được, ngồi trên ghế cũng được, nhưng nếu xếp bằng tròn được càng hay. Nó vững. Nó như kiềng ba chân. Mặc ai nói ngữa nói nghiêng. Cho nên cần có tinh tấn và nhẫn nhục là vậy. Không nhẫn nhục thì dễ bỏ cuộc. Bị chê cười mai mỉa thì bỏ cuộc. Ai cười mặc, cứ “lì” là xong! Ngồi xếp bằng còn giống cái tháp. Tháp báu. Ở trong tháp báu đó có Như Lai Đa Bảo tủm tỉm cười. Người ngồi thiền kiểu này dễ thấy Như Lai Đa Bảo của mình hơn. Đó là một cái xác khô, toàn là đất nước gió lửa C,H,O,N và các nguyên tố đồng chì sắt kẽm, Mangan, Ma nhê, Phospho, vôi vữa các thứ…  Nó là báu, vì nó dùng để tạo dựng nên một sinh vật khác, có thể là cỏ cây hoa lá, có thể là sinh vật muôn loài và có thể là cái ta tái sinh. Ngồi trong tháp báu là “nhập thất” vào chính thân xác mình. Vai ngang lưng sổ để nhắc mình giữ thẳng lưng, ngang vai, nếu không thì ngôi nhà sẽ khụy, sẽ vẹo.

Yếu tố ‘thẳng lưng’ rất quan trọng.

Dõi theo hơi thở/ Như mượn từ xa
Dõi theo không phải là theo dõi. Dõi theo thì nhẹ nhàng sảng khoái. Nó sao thì thấy nó vậy, không phê phán. Còn theo dõi thì căng thẳng, dò xét, lo âu, hồi hộp. Tại sao không dõi theo gì khác mà dõi theo hơi thở? Vì hơi thở dễ thấy nhất, dễ dõi theo nhất. Nó nằm ngay dưới mắt, nó nằm ngay ở mũi. Mà lúc nào cũng có nó, bất cứ ở đâu, bởi ở đâu và chỗ nào mà chẳng thở? Chọn một đối tượng khác để “quán sát” cũng được, nhưng chọn hơi thở thì tiện hơn. Nó gắn liền với thân. Mệt bỡ hơi tai, mệt gần tắt thở. Nó lại gắn liên với tâm, lúc hồi hộp lo sợ thì thở khác với lúc an vui. Nó vô thường. Hơi thở là sợi dây nối kết thân với tâm. Nó lại quyết định sự sống. Đời sống chỉ là một hơi thở không hơn không kém. Hết thở, ngưng thở là chết. Nó ở ngoài ta. Nó cóc cần ta. Cho nên dõi theo nó cũng thấy ra nhiều điều ngộ nghĩnh. Đầu tiên là nó chẳng phải của ta. Nó ở đâu đó trong không gian, trong vũ trụ. Nó chứa Nitrogen và Oxygèn cùng một số khi linh tinh khác. Ta cần Oxy để oxyt hóa thức ăn mà tạo ra năng lượng cho sự sống. Không thở thì chết. Thế nhưng có những sinh vật sống chẳng cần O2 như cỏ cây, lại có những sinh vật sống đời sống yếm khi, thí dụ loại vi trùng clostridium, khi thiếu O2 nó sống trong một vỏ bọc dày gọi là “bào tử”, co cụm lại và không chết. Đợi đủ điều kiện thì bung ra. Người ở trong thiền định, phải chăng đã sống như trong một “bào tử”? Chữ “mượn’ cho thấy là tạm bợ, đến lúc nào đó thì phải trả lại thôi.

Khi vào khi ra/ Khi sâu khi cạn
Hơi thở vào thì biết vào, ra thì biết ra, sâu thì biết sâu, cạn thì biết cạn… Tóm lại, dõi theo để « biết » nó vậy. Nó vào nó ra nó sâu nó cạn. Không cần giượng cầu, không cần ép uổng, nào phải hít cho thiệt sâu, nào phải thở cho thiệt chậm, thiệt đều. Còn lâu ! Cứ thong dong. Nó sao kệ nó. Cứ tự nhiên, Cứ thong thả. Cứ bình thường. Không cần phải ráng sức. Vấn đề chính là “dõi theo” nó. Cho đến một lúc, cũng chẳng cần biết nó vào nó ra nó sâu nó cạn ra sao. Nó mặc nó. Ta mặc ta. Ta đã hòa tan, đã tan biến với nó. Ta còn « không ta » làm sao thấy nó nữa cơ chứ? Ta chỉ mượn tạm ở giai đoạn đầu để dẫn ta vào « định ». Trong định, vượt cả tầm cả tứ, cả hỷ cả lạc, cả xả niệm lạc trú, vào thẳng  xả niệm thanh tịnh nếu có thể. Và vượt qua nữa. Gaté, Gaté, Para gaté… Trong kinh Tứ niệm xứ (Satipathana) Phật đã nói rõ. Đây là con đường trực tiếp dẫn tới thanh tịnh cho chúng sanh, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng đắc Niết bàn… Từ Tứ niệm xứ, giản đơn thành thân hành niệm và từ thân hành niệm, giản đơn hơn nữa thành Anapanasati, An-ban thủ ý, thở chánh niệm, quán niệm hơi thở. Con đường càng lúc càng giản đơn mà tuyệt diệu của bậc Y vương.

Chú tâm quãng lặng/ Pranasati
Như trong bản nhạc có những quãng lặng cần thiết, hai nhịp, bốn nhịp… Thở cũng vậy. Giữa thở vào và thở ra có một quãng lặng ngắn. Giữa thở ra và thở vào có một quãng lặng dài hơn. Đó là giai đoạn ngưng nghỉ. Những người tập khí công có thể điều khiển nhịp thở thành ba thì hoặc bốn thì. Ở đây chỉ nói người bình thường thì cần đặc biệt chú ý thì thở ra. Thở ra không cần năng lượng. Thở vào thì cần năng lượng. Cho nên trước khi thở vào cần một chút ngưng nghỉ để tập trung năng lượng. Trên thực tế, khi áp suất ở phổi bằng 0 (bằng không) thì khí bên trong phổi và bên ngoài phổi hoàn toàn không phân biệt, ở đó đã có sự hòa nhâp làm một với không gian và thời gian cũng không còn. Chỉ có sự tĩnh lặng. Người thiện xảo trong thiền có thể kéo dài quãng lặng này dài ra, nối các quãng lặng với nhau thành một quãng dừng. Quãng dừng này chính là giai đoạn người ta đã sống trong bào thai, trở về  bào thai Như Lai, Như Lai tạng. Dĩ nhiên vẫn có những nhịp thở rất nhẹ nhưng  không hề có sự nhích lên xuống của cơ hoành. Hình như người ta thở qua da (trong Phôi thai học – Embryology- thì da và phổi có cùng nguồn gốc). Những bậc thiền sư ở giai đoạn tứ thiền (xả niệm thanh tịnh) có lẽ đã ở trạng thái này.
Prana chính là quãng lặng đó. Pra là trước, ana là thở vào. Prana là « trước khi thở vào », hay nói đúng hơn, trước khi thở. Nó chính là bào thai trong bụng mẹ, không cần phải thở.  Các tài liệu cổ xưa gọi Prana là nguồn sống. Sati là niệm, là nhớ nghĩ, là chiêm nghiệm, là quán chiếu. Nhớ nghĩ, quán chiếu giai đoạn « Prana » đó, ta thấy hóa ra nguồn sống là cõi không thở, cõi ngưng thở, cõi trước khi thở…

Anapanasati thi Ana là thở vào, Apana là thở ra, Sati là niệm, nhớ, nghĩ. Phật không nói đến Prana, nhưng trong Yoga có Pranayama, « kiểm soát prana ». Không nói đến là để mỗi người tự phát hiện, tự điều chỉnh, tự kiểm soát.

Chữ OM (trong Om Mani Padme Hum) thì theo nguyên ngữ, chữ OM viết là AUM: A thở vào, U thở ra, M quãng lặng đó vậy!

Hơi thở xẹp xì/ Thân tâm an tịnh
“Xẹp xì” là đúng. Cơ thể vốn lúc nào cũng căng cứng, căng phồng, ( tonus musculaire, sự căng cơ thường trực để giữ tư thế) gây mệt mỏi và tốn hao năng lượng nhiều lắm. Bây giờ ở  quãng lặng… ta được nghỉ ngơi. Cũng giống như khi làm việc mệt mỏi, căng thẳng, ta kêu « nào, xả hơi một chút đi » thì thấy khỏe ra. Xả, xẹp, xì, xọp… chính là tạo nên trạng thái tĩnh lặng, an tịnh. An tịnh cả thân và tâm. Còn lăng xăng, còn « trạo cử » thì không thể ngồi yên. Còn ngủ gà ngủ gật (thụy miên) cũng không xong, vì phải luôn «chánh niệm, tỉnh giác ». Tham nổi lên, sân nổi lên, nghi nổi lên, cùng với thụy miên, trạo cử vốn là năm thứ cản ngại trong thiền! Thực tế, khi ngủ, cơ thể ta cũng đã giảm tiêu hao năng lượng đáng kể, giảm được 50%, chỉ còn chuyển hoá cơ bản. Thế nhưng, ngủ vẫn tốn năng lượng khi chiêm bao, cũng mệt mỏi toát mồ hôi hột như thường, không kể còn trằn trọc, lăn qua, lộn lại hoài không ngủ được. Thiền nếu đúng, giảm đến 40% năng lượng dành cho căng cơ và gần 30% năng lượng dành cho hoạt động não bộ, nói khác đi, thiền đúng cách đã tiết giảm đến 70% năng lượng cho cơ thể, do đó, tốt hơn so với giấc ngủ. Phật chẳng cần ngủ và các thiền sư rất ít khi phải ngủ!

Không còn ý tưởng/ Chẳng có thời gian
Ở trạng thái xẹp xì, thân tâm an tịnh đó thì thân đã an, tâm đã tịnh. Một trạng thái “vô ngã” tràn ngập, đâu còn ý tưởng lăng xăng nào nữa. Khi còn ý, khi còn tưởng thì tức khắc còn sanh sự. Và tức khắc có sự nhộn nhạo. Nhưng coi vậy mà rất khó để dứt ý tưởng lăng xăng. Phật mà còn bị Ma vương quấy nhiễu, bao nhiều hình bóng chập chờn, xua đi không dễ ! Cho nên khi thấy những ý tưởng nọ kia xuất hiện cũng là chuyện bình thường thôi. Cứ để tự nhiên. Nó đến rồi nó đi. Đừng có ráng xua đuổi. Càng xua đuổi càng dính mắc, phan duyên. “Chẳng trừ vọng tưởng chẳng cầu chân”. Mặt hồ tĩnh lặng thì không cần ghi bóng hạc bay qua, không cần biết hạc vàng hay hạc đỏ, hạc trống hay hạc mái… Chánh niệm vào hơi thở là cách tốt nhất cắt đứt dòng ý, tưởng lăng xăng, nhộn nhạo. Lúc đầu, ý tưởng tràn ngập, dính mắc triền miên, lâu dần sẽ giảm bớt, đừng ráng xua đuổi, đứng « tham » muốn đạt kết quả này nọ. Trở lại với hơi thở càng nhanh càng có sự tiến bộ.

Khi thân tâm an tịnh, có thể cảm nhận một sự nhẹ nhàng, sảng khoái (thiền duyệt), cũng không cần bám víu. Có thể trong một sát na, cảm nhận trạng thái vô ngã, không thời gian, không không gian, không « ngã nhân chúng sanh thọ giả… ».

Hạt bụi lang thang/ Dính vào hơi thở
Trạng thái đó không dễ, không phải lúc nào cũng có được (có lẽ trừ các vị thiền sư thiện xảo). Còn thì… dễ thấy hơn là hạt bụi « lang thang » rồi dính vào hơi thở mà… sinh sự bấy nay. Thiệt ra không có chuyện tự nhiên mà « dính vào » một cách tình cờ chi đâu. Tất cả đều có « duyên sinh » của nó, có nhân quả của nó. Nó chằng chịt, nó quấn quít với nhau đó. Nó « hẹn nhau từ muôn kiếp trước » cả đó thôi ! Dù là cát bụi tuyệt vời hay cát bụi mệt nhoài gì đi nữa thì nó vẫn phải có nghiệp báo nhơn quả. Tin không tin, tùy. Cứ hỏi tại sao ta có mặt trên cõi đời này ? Cha ta mà không gặp mẹ ta thì ta là ai ? Lúc đó mới thấy cái quấn quít cái chằng chịt, cái duyên sanh, cái này có cái kia có cái này không cái kia không. Tưởng là tình cờ mà chẳng tình cờ tí nào. Người đâu gặp gỡ làm chi đều có cái lý của nó. Nhưng không phải thuyết định mệnh. Mọi thứ vừa chặt chẽ vừa lỏng lẻo. Vậy mới khoái. Vậy mới tự do. Tuyệt đối Tự do. Tự chịu trách nhiệm. « Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa ». Ta chọn nghiệp, cải nghiệp, chuyển nghiệp.

Duyên sinh vô ngã/ Ngũ uẩn giai không
Hiểu được duyên sinh, thấy được vô ngã thì đã « ngộ » phần nào. Vô ngã không thể nói bằng ngôn từ, khái niệm, biện luận. Phải cảm nhận vì nó là một trạng thái tâm. Đến để mà thấy. Tam giác cân Giới Định Huệ, tùy mỗi người tiếp cận tùy căn cơ nhưng nó vốn là một tam giác cân hai chiều tương tác. Cái này sinh cái kia, cái kia sinh cái nọ, hỗ trợ lẫn nhau. Anh chàng bán thịt buông dao mà đến, anh chàng trí thức suy gẫm mà tới, nhưng cả hai đều bước qua Giới, qua Định. Chánh định (Samadhi= Tam muội, Tam-ma-địa ) sẽ dẫn tới Chánh kiến, chánh Tư duy… trên  con đường « Bát chánh đạo ».  Để có Chánh định thì phải đi từ Thiền chỉ (Samatha), Thiền quán (Vipassana)… để thấy thực tướng vô tướng, thấy Như Lai.

Từ đó thong dong/ Thõng tay vào chợ
Đó là nhập. Ngộ rồi phải nhập chứ. Là phải học phải hành. Tri hành hợp nhất. Vào “chợ” một cách thong dong đâu có dễ. Không bị cuốn hút vào bao nỗi lo toan, phiền não đâu có dễ. Cho nên có tám vạn bốn ngàn pháp môn để tùy cơ ứng biến, để giúp mình giúp người. Học được một chút hạnh của Thường Bất Khinh (tôn trọng), của Dược Vương (chân thành), của Diệu Âm. Quán Thế Âm (thấu cảm), của Phổ Hiền, từ bi hỷ xả… đâu có dễ. Rồi còn phải học Duy-ma-cật, huệ phương tiện với phương tiện huệ, phải làm quen với Bất Nhị, với cơm Hương Tích, với trà Tào Khê …

Cõi người ta vốn là nơi hành xứ, thân cận xứ. Không trốn chạy, không buông xuôi. Đâu có dễ mà buông bỏ, mà lạnh lùng.

Đỗ Hồng Ngọc

………………………

 

 Have you relaxed your entire body?

That is my personal mantra, my own dharani, which I recite every morning when I sit down… facing the wall! I mention facing the wall because the space where I meditate is less than a meter away from it, as my house is quite small. Of course, meditation does not have to be done while sitting; it can also be practiced while walking, standing, or lying down. However, I find sitting to be more enjoyable and logical! I cannot sit in the traditional full lotus or half lotus position, so I adapt my own sitting style, just as there are Tibetan, Japanese, and Western approaches to meditation… Any method is valid!

For over 25 years, I have engaged in my personal meditation practice every morning. I do not adhere to any specific school; instead, I focus on the principles of Anapanasati meditation as taught by the Buddha, which encompasses both samatha and vipassana meditation. I typically meditate for about 30 to 40 minutes, followed by approximately 30 minutes of light physical exercises, which I also view as a form of moving meditation, a means to allow meditation to fade away.
Every movement during exercise impacts every muscle, bone, and joint in the body. After a period of silence, I listen to my mind as it rambles and attempt to calm it. I find that my health improves, my work capacity becomes more resilient, and my memory is enhanced somewhat. When I neglect to meditate and exercise in this way, I feel lethargic. Over time, I have come to feel somewhat addicted to these practices. To aid my memory, I wrote a poem and concealed it carefully, always beginning with the dhāranī: Is your whole body relaxed?

The rhyme goes as follows:

Relax your whole body,
like hanging a coat hanger.
Sit cross-legged,
keep your shoulders level, your back straight,
and follow your breath,
as if borrowing air from afar.
Breathe in, then out,
sometimes deep, sometimes shallow.
Pay attention to the gaps between breaths.
Pranasati
The breath shrinks and deflates;
the body and mind are peaceful and pure.
No thoughts arise.
Time seems to vanish.
A speck of dust drifts,
clinging to the breath.
Because of dependent origination, there is no self.
And therefore, the five aggregates are all Empty.
Once you realize this truth, you will feel at ease
and be able to walk into the market with open arms.
(Verse by Đỗ Hồng Ngọc)

Relax your whole body, like hanging a coat hanger

The act of relaxing the entire body is crucial before entering meditation. If you begin meditation while still tense, it can lead to a negative experience. Therefore, it is essential to ask yourself whether you have fully relaxed your body. When you achieve this state of relaxation, you begin to drift away; there is no longer a sense of self, no other individuals, no living beings, and no concept of a lifespan. If you can genuinely relax, you will significantly reduce your energy consumption. Just as birds do not need to flap their wings to fly, they simply glide effortlessly.
How can I relax?

Some people suggest relaxing the entire body as if it were a lifeless corpse floating down a river. They encourage viewing the body as a decaying skin bag or a floating cadaver. However, I believe it is more beneficial to perceive the body as a shirt hanging on a hanger. Just as a shirt is not eternal and requires changing, so too does the body. By considering the body as a shirt on a hanger, one can fully release attachment to the physical form and the four elements and five aggregates. This perspective is sufficient to facilitate entry into meditation.

Relax; no more muscles are tense, and no more nerves need to be activated. Understanding that muscle tension, or tonus musculaire, is essential for maintaining skeletal stability and overall bodily function has consumed nearly 40% of the body’s energy. When relaxed, as if hanging on a hanger, the energy expended on muscle tension is no longer necessary. When one achieves a state of lightness, the body feels as light as a cloud (TCS)!

Sit cross-legged, keep your shoulders level, your back straight

Sitting in any position is acceptable, even on a chair; however, crossing your legs in a circle is even better. This position provides stability, much like a tripod. Regardless of what others may say, it is important to remain diligent and patient. Without patience, it is easy to give up, especially if you face ridicule or mockery. No matter who laughs, stay patient, and you will succeed! Sitting cross-legged resembles a tower—a treasure tower. Within this treasure tower resides Tathagata Prabhutaratna, who smiles upon those who meditate in this manner. Practitioners can easily connect with Tathagata Prabhutaratna. This connection is akin to recognizing the physical body, which is composed entirely of earth, water, wind, fire, and the elements: carbon, hydrogen, oxygen, nitrogen, as well as copper, lead, iron, zinc, manganese, magnesium, phosphorus, lime, and others.

It is a treasure because it is used to create another living being, whether that be grass, trees, flowers, or even ourselves being reborn. Sitting in the treasure tower is akin to “entering seclusion” within your own body. Your shoulders should be level, and your back straight, serving as a reminder to maintain proper posture; otherwise, the structure will become unstable and crooked.

The concept of a ‘straight back’ is crucial.

Follow your breath, as if borrowing air from afar

Following is not spying; it is light and refreshing. It involves observing things as they are, without judgment. In contrast, spying is tense, probing, anxious, and nervous. Why not focus on something else instead of the breath? Because the breath is the easiest thing to observe and follow. It is right under our noses, always present, as we cannot escape the necessity of breathing. While you can choose another object to observe, focusing on the breath is more convenient since it is intrinsically linked to the body. When you are tired and exhausted, you may feel almost out of breath. The breath is also connected to the mind; when you are nervous or afraid, your breathing differs from when you are happy. It is impermanent. The breath serves as the thread that connects the body to the mind and is essential to life. Life is merely a breath—nothing more, nothing less. When you stop breathing, you cease to live. The breath exists independently of us; it does not rely on us. Thus, following it can reveal many intriguing insights.
First of all, breath is not inherently ours; it exists somewhere in space, within the universe. It consists of nitrogen and oxygen, along with various other gases. We require oxygen to oxidize food and generate energy essential for life. Without breathing, we cannot survive. However, some living organisms do not need oxygen, such as plants, and there are also anaerobic organisms, like Clostridium bacteria, which can thrive without oxygen. These bacteria form a thick protective shell called a spore, allowing them to clump together and remain dormant. When conditions become favorable, they can emerge from this state. Are people in meditation experiencing a state similar to that of a spore? When we say that breathing borrows air, it indicates that this process is temporary and that, at some point, the air must be returned.

Breathe in, then out, sometimes deep, sometimes shallow

When you breathe in, you are aware of inhaling; when you breathe out, you recognize exhaling. When you breathe deeply, you know it is deep; when you breathe shallowly, you are aware of its shallowness. In essence, simply observe your breath: it comes in, it goes out, it is deep, and it is shallow. There is no need to force it, to inhale deeply, or to breathe slowly or evenly. Don’t rush! Just take it easy. Whatever it is, allow it to be. Be natural, be relaxed, and be yourself. There is no need to exert effort. The key is to follow your breath. For a time, you need not concern yourself with how it enters, how it exits, or how deep or shallow it is. Let it be. Let me be. I have dissolved and disappeared into it. If I am not even myself, how can I perceive it? I only temporarily borrow this awareness in the initial stage to guide me into concentration.

In concentration, if possible, you will pass through placing the mind, passing through keeping it connected, passing through rapture, passing through bliss, passing through ‘equanimous and mindful, one meditates in bliss’ and entering the place of ‘pure equanimity and mindfulness.’ And passing through more. Gate Gate Pāragate…
In the Sutra on the Four Foundations of Mindfulness, the Buddha clearly said that this is the direct path leading to the purity of living beings, the elimination of suffering and sorrow, the attainment of right wisdom, and the realization of Nirvana. The Four Foundations of Mindfulness can be distilled into mindfulness of the body, and further simplifying this leads to Anapanasati, the practice of mindful breathing and contemplation of the breath. The path becomes increasingly simple and profound, as taught by the King of Medicine.

Pay attention to the gaps between breaths / Pranasati

In music, there are essential pauses—two beats, four beats, and so on. The same principle applies to breathing. Between inhaling and exhaling, there is a brief pause, while the interval between exhaling and inhaling is longer; this is known as the resting period. Qigong practitioners can control their breathing in three or four phases. However, here we are focusing on the average person, who should pay particular attention to exhaling. Exhaling does not require energy, whereas inhaling does. Therefore, before inhaling, it is important to pause briefly to concentrate our energy.
In fact, when the pressure in the lungs is zero, the air inside and outside the lungs becomes indistinguishable, resulting in a fusion with space and time. In this state, there is only silence. A skilled meditator can extend this silence, connecting the moments of stillness into a pause. This pause represents a return to the womb, akin to the Tathagata womb, or Tathagata-garbha. While there may still be very light breaths, there is no movement of the diaphragm. It feels as though one breathes through the skin, as both the skin and lungs share the same embryonic origin according to Embryology. Meditation masters who reach the fourth absorption, characterized by pure equanimity and mindfulness, likely experience this state.
Prana represents silence. The word Pra means before, and the word ana means to breathe in. Prana is the state preceding inhalation, or more precisely, the stage before breathing. It is akin to the fetus in the mother’s womb, which does not require breathing. Ancient texts describe Prana as the source of life. Sati encompasses mindfulness, remembrance, contemplation, and observation. When we remember and contemplate the state of Prana, we recognize that the source of life exists in the realm of no breathing, the realm of apnea, the stage before inhalation.
In the word Anapanasati, Ana is breathing in, Apana is breathing out, and Sati is mindfulness, remembering, and thinking. Buddha did not mention Prana, but in Yoga there is Pranayama, controlling Prana. Not mentioning is for each person to discover, adjust, and control themselves.

The letter OM (as found in the phrase Om Mani Padme Hum) is represented as AUM according to the original terminology: A signifies inhalation, U represents exhalation, and M denotes silence.

The breath shrinks and deflates; the body and mind are peaceful and pure.

The breath shrinks and deflates. The body remains tense and bloated (muscle tone: constant muscle tension to maintain posture), which leads to fatigue and depletes energy. Now, during this pause, we can rest. Just as we often say, when we feel tired and stressed from work, we can experience relief. Letting go, deflating, and releasing tension creates a state of stillness and tranquility—peace for both body and mind. If there is lingering agitation and restlessness, we cannot sit still. Similarly, if we are drowsy and dozing, we cannot achieve this state either, as we must remain mindful and alert. Greed, anger, doubt, drowsiness, and restlessness are the five obstacles to meditation!
In fact, when we sleep, our bodies consume significantly less energy—reducing energy expenditure by 50%—leaving only the energy required for basic metabolism. However, sleep still consumes energy during dreaming, and it can be just as exhausting and sweaty as being awake, especially when tossing and turning and struggling to fall asleep. When practiced correctly, meditation can reduce energy expenditure by up to 40% related to muscle tension and nearly 30% related to brain activity. In other words, proper meditation can save up to 70% of the body’s energy, making it more efficient than sleep. The Buddha is said to have transcended the need for sleep, and meditation masters often require very little sleep.

No thoughts arise; Time seems to vanish.

In a state where you feel shrunk and deflated, both the body and mind can find peace; the body is at rest, and the mind is quiet. A sense of egolessness prevails and wandering thoughts dissipate. When thoughts linger and perceptions arise, something is inevitably happening, leading to disturbance. However, it is challenging to halt these wandering thoughts. Buddha was once harassed by the Devil, surrounded by many flickering shadows that were difficult to dispel. Therefore, when you notice these thoughts surfacing, it is entirely normal. Allow them to exist without resistance; they will come and go. Do not attempt to chase them away. The more you pursue them, the more you become attached and confused. There is no need to eliminate delusions or to seek the truth.
The tranquil surface of a lake does not need to cling to the reflection of a crane flying by, whether it is a yellow crane or a red crane, a male crane or a female crane. Practicing mindfulness through breathing is the most effective way to interrupt the flow of wandering, restless thoughts. Initially, these thoughts may feel overwhelming and persistent, but with time, they will diminish. Avoid the temptation to chase them away or to become fixated on achieving specific results. The quicker you return your focus to your breath, the more progress you will make.

When the body and mind are calm and tranquil, you may experience a sense of lightness and comfort through the enjoyment of meditation. However, it is important not to cling to that feeling. In that moment, you might encounter a state of selflessness—where there is no time, no space, no self, no others, no living beings, and no lifespan.

A speck of dust drifts, clinging to the breath

The state just mentioned is not easy to achieve and is not always possible, except perhaps for skilled meditators. Otherwise, it is easier to observe how a speck of dust drifts and clings to the breath, leading to the emergence of various phenomena. In reality, there is no such thing as a natural or accidental attachment; everything has its own causes and effects. It is entangled and intertwined, shaped by countless previous lives. Whether it is delightful dust or burdensome dust, it still carries karmic consequences.

Believe it or not, the choice is yours. Consider asking why we exist in this world. If our father had never met our mother, who would we be? Only then can we perceive the entanglement, the intertwining, and the principle of dependent origination: this exists, that exists; this does not appear, that does not appear. It may seem like a coincidence, but it is not a coincidence at all. People meet for a reason, yet this is not fatalism. Everything is both interconnected and fluid. That is remarkable. That is freedom—absolute freedom. It entails self-responsibility. Do not blame the heavens above or the heavens beyond. We choose our karma, correct our karma, and transform our karma.

Because of dependent origination, there is no self.
And therefore, the five aggregates are all Empty.

When you comprehend the law of dependent origination and perceive selflessness, you attain a state of partial enlightenment. Non-self cannot be adequately expressed through words, concepts, or arguments; it must be experienced, as it represents a state of mind. Come and see. The balanced triangle of Precepts, Concentration, and Wisdom, which varies according to each individual’s approach and capacity, forms an inherently balanced structure with two interdependent directions. This interplay gives rise to one aspect, which in turn leads to another, with each element supporting the other.

The butcher set down his knife and approached, while the intellectual contemplated and came. However, both had to navigate through the Precepts and Concentration. Right Concentration will lead to Right View and Right Thinking on the path of the Noble Eightfold Path. To achieve Right Concentration, one must progress from Samatha Meditation to Vipassana Meditation in order to perceive the true nature, which is formless, and to recognize the Tathagata.

Once you realize this truth, you will feel at ease
and be able to walk into the market with open arms.

That is the process of entering. Once enlightened, one must take the step to enter. It is essential to learn and practice, as knowledge and practice are interconnected. Approaching the market with ease is challenging. Remaining free from worries and troubles is also difficult. Therefore, there are eighty-four thousand methods available to adapt to various situations and to assist oneself and others.
Learning about the virtues of Bodhisattva Never Disparaging (respect), Bodhisattva Medicine King (sincerity), Bodhisattva Wonderful Sound, Bodhisattva Avalokiteshvara (empathy), Bodhisattva Samantabhadra, as well as compassion, kindness, joy, and equanimity, is not an easy task. Additionally, one must also explore Vimalakirti’s skillful wisdom, become accustomed to the concept of non-duality, and appreciate Hương Tích rice and Tào Khê tea.

The human world is fundamentally a realm of practice and affection. Do not flee; do not surrender. It is not easy to relinquish this world so coldly.

Đỗ Hồng Ngọc
Translated by Nguyên Giác

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Gươm báu trao tay, Nghĩ từ trái tim

CON ĐƯỜNG AN LẠC Bài 4: Học cách Phật dạy

23/11/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

 

“Sách bỏ túi” cho người cao tuổi

CON ĐƯỜNG AN LẠC

Bài 4: Học cách Phật dạy

Đỗ Hồng Ngọc

 

Tôi học Kim Cang không ngờ cũng thấy “ghiền” như khi học Tâm Kinh Bát Nhã ngày trước. Đôi khi giật mình, đôi khi sửng sốt, đôi khi bỡ ngỡ, đôi khi chưng hửng. Các kinh sách dù có nhiều truyền bản, nhưng rõ ràng là có một sự nhất quán, xuyên suốt, chỉ khác cách tiếp cận tùy “đối tượng đích” mà cách truyền đạt khác nhau chớ nguyên lý vẫn là một. Nắm được cái cốt lõi có thể bớt hoang mang, thấy được “chỗ vào” chăng?

Cái điều bỡ ngỡ và chưng hửng đầu tiên khi học Kim Cang là hy vọng được đọc, được nghe những lời hay ý đẹp, những khuôn vàng thước ngọc, những bài giảng uyên áo. Thế mà, trời ạ, Kim Cang lại đi kể ngay một chuyện rất đỗi bình thường, nếu không muốn nói là tầm thường nữa, chẳng ăn nhập vào đâu, đó là chuyện Phật tới giờ ăn, đói bụng, bèn mặc áo, ôm bình bát đi… khất thực, chẳng thèm nói lấy một tiếng, chẳng thèm ra oai tằng hắng lấy một tiếng! Nghĩ mà coi, giữa lúc có hằng ngàn người, cả các vị Đại Bồ Tát, A La Hán, các vị “chức sắc” và các đại đệ tử thân tín ngồi hồi hộp chờ nghe những lời giáo huấn sâu xa thì Phật chẳng nói chẳng rằng, mặc áo, cầm bình bát, vào thành khất thực. Đến khi khất thực thấy vừa đủ rồi mới ung dung trở lại “hội trường,” bày ra ăn, ăn xong, thu dọn y bát đâu đó đàng hoàng rồi rửa chân sạch sẽ, ngồi xếp bằng… thở, nghĩ là … nhập định! Chẳng thèm nói lấy một tiếng. Chẳng thèm ban cho một chút huấn từ! Tôi tưởng tượng lúc đó nếu mình cũng đang ngồi xớ rớ đâu đó, bên ngoài hành lang, dự thính, chờ nghe những lời thuyết giảng mà phát tức anh ách, cảm thấy hẫng, thất vọng. Bỗng dưng, Tu Bồ Đề xuất hiện. Ngồi giữa đám đông như mọi người bỗng ông đứng phắt dậy, cung kính cúi chào đúng nghi lễ với bậc Thế Tôn rồi cất lời ca ngợi: Thật tuyệt vời! Thật là tuyệt diệu! Thật xưa nay chưa từng có! Thế Tôn đã khéo léo dạy dỗ, khéo léo trao truyền, khéo léo gởi gấm cho các vị đang có mặt tại đây hôm nay! Lúc đó thì quả thực mới bùng nổ bài học vừa được truyền trao mà chẳng ai ngờ! Lúc đó thì sự chưng hửng đã trở thành nỗi áy náy. Chết rồi, nãy giờ không để ý, không theo dõi kỹ bài giảng không lời kia của Đức Phật! May mà có Tu Bồ Đề phát hiện! Những người không để ý quan sát kỹ sẽ mất đi một cơ hội đáng tiếc!
Phật có cách dạy riêng của Ngài: không nói một lời mà chỉ làm cho coi. Đó là một phương pháp giáo dục rất mới mà bây giờ người ta gọi là “demonstration,” tức là biểu diễn, làm gương, làm cho bắt chước, một lối dạy kỹ năng sống (life skills) rất hiện đại. Một lần nữa cho thấy học Phật, tu Phật là làm chớ không phải nói. Làm trước, nói sau. Hoặc cũng chẳng cần nói. Ta hiểu vì sao các vị thiền sư thường bắt học trò chẻ củi, nấu cơm, gánh nước, trồng rau, giã gạo… mà chẳng thèm dạy lấy một lời. Cho đến lúc nào học trò tự phát hiện ra một điều gì đó bức xúc trong tâm thì mới dạy, cũng bằng một cách kỳ cục nào đó: có khi lật thuyền, có khi gõ đầu, có khi trả lời trớt quớt, có khi hỏi ấm ớ kiểu ông đưa tâm đây tôi an cho, làm cho học trò ngớ ra rồi… sực tỉnh cơn mê! Cuối khoá học, trò cũng không nhận được một bằng cấp nào của thầy để khoe, thầy cũng chả có gì để trao cho trò. Bới “Cái đó” sẵn có trong trò, thầy chỉ giúp trò tự phát hiện, tự chứng nghiệm, tự “giải quyết” lấy vấn đề của mình. Đó gọi là tham vấn (counselling), một phương cách trị liệu tâm lý học và y học ngày nay. Người làm tham vấn ví như cô mụ đỡ đẻ, giúp bà mẹ có được cuộc đẻ mẹ tròn con vuông chớ không thể đẻ thay bà mẹ. Đứa con có sẵn trong bụng mẹ rồi.
Trờ lại bài học, mọi người giật mình, sửng sốt nhớ lại thì mới hay Phật muốn dạy mình bài học đầu tiên: đói thì ăn, khát thì uống. Tới giờ ăn thì phải lo ăn. Ai nói không cần ăn là người không biết sống, hoặc giả dối. Gần hai ngàn năm sau, Trần Nhân Tông, ông vua nhà Trần ở nước ta, vị thiền sư sáng lập phái Trúc Lâm Yên Tử cũng nói trong bài Cư Trần Lạc Đạo: Cơ tắc xan hề khốn tắc miên (Đói thì ăn, mệt thì ngủ.) Phật tới giờ ăn mà còn phải lo mặc áo, xách bình bát đi khất thực, huống là ta! Điều đáng để ý ở đây, một bậc Thế Tôn như Đức Phật, chỉ cần nói một tiếng, không thiếu món ngon vật lạ cúng dường! Thị giả hẳn đã lo bữa cơm tươm tất cho Phật đâu đó rồi, chờ Phật thuyết giảng xong thì vào ăn. Nhưng không. Phật đã tự đi kiếm ăn lấy một mình. Không nhờ vả đến ai. Không ăn thức ăn dọn sẵn ngon lành, mà tự mình làm đúng những điều mình đã dạy. Cho nên không giật mình, sửng sốt sao được! Nhiều vị “chức sắc” có mặt hẳn … hết hồn nhìn lại mình, nào đệ tử cung phụng, nào bày biện các món ăn tuy là chay mà cũng “sơn hào hải vị” không kém! Ngày nay ta còn thấy có nhiều thức ăn chay giả giống hình con tôm, con cá, đùi gà… thật là đáng ngại! Giật mình, sửng sốt còn bởi vì Phật, địa vị cao nhất, bậc Thế Tôn kia, có hằng chục “chức danh” lừng lẫy mà vẫn giản dị làm sao, vẫn đi chân trần từng bước thanh thoát, vẫn bưng bình bát đi khất thực giữa nắng trưa để có cái ăn, có gì ăn nấy. Phật đi khoan thai, tự nhiên, mỗi bước đều chánh niệm, không “dính mắc” gì với chung quanh mọi người đang xì xầm hay bàn tán về mình, kẻ khen người chê mình. Ngài chỉ thở vào thở ra trên từng bước đi, ung dung, nhẹ nhàng, sảng khoái. Phật cũng không chọn các nhà giàu để đến khất thực hoặc chọn nhà nghèo dễ chịu hơn, hoặc những nhà quen biết cho chắc ăn, Phật cứ ung dung lần lượt đi từng nhà, từng nhà, bởi vì đâu có cần phải phân biệt, đâu có cnầ giúp riêng người giàu hay người nghèo. Ai cũng có vấn đề, ai cũng “khổ” như nhau thôi. Người nghèo khổ nghèo, người giàu khổ giàu! Có điều sau một vài tiếng đồng hồ đi bộ để khất thực như vậy thì món ăn nào cũng trở thành “cao lương mỹ vị,” nếu được ăn trong chánh niệm, được nhai kỹ từng chút một thì thức ăn nào cũng ngon, cũng dễ tiêu hoá. Hình như cái bình bát cũng vừa lớn đủ đựng thức ăn cho một người thôi, để không quá dư, không thừa mứa.

Ngày nay ít thấy cảnh khất thực, nhất là ở các đô thị, thành phố, thế nhưng khi ta có dịp thấy một người mặc áo ca sa, mang bình bát, từng bước ung dung, chánh niệm, đi khất thực từng nhà, từng nhà, ta không khỏi khâm phục vị Thầy từ ngàn xưa, và tự dưng trong lòng thấy cảm động. Ngày nay dù không còn phải đi khất thực từng bữa nữa, nhưng việc đi bộ hằng ngày vài tiếng đồng hồ cũng luôn rất cần thiết cho sức khoẻ; thức ăn đơn giản, nhiều rau, nhiều đậu, ít béo, ít đường, ít mặn, không quá dư cũng đã rất tốt cho sức khoẻ. Đặc biệt là ăn trong trạng thái ung dung, thư giản, một không khí an lành, với niềm vui có được bữa ăn vừa đủ, không cầu kỳ, không thừa mứa, thì bữa ăn nào cũng trở nên ngon, lành mạnh, khoẻ khoắn. Ăn xong, Phật thu dọn y bát đâu đó gọn gàng, rửa chân sạch sẽ rồi mới vào ngồi tĩnh toạ. Điều đáng để ý ở đây là không phải ăn xong thì đi… ngủ hoặc bắt đầu tranh luận căng thẳng mà là ngồi tĩnh toạ, vào thiền. Có lẽ đó là lúc tốt nhất để nghe cơ thể mình hoạt động, để thấy các thức ăn được bộ máy tiêu hoá, hấp thu, chuyển hoá thành năng lượng ra sao trong từng tế bào.

Bài học đã truyền trao. Nếu chịu khó quan sát kỹ tí nữa, lúc Phật bưng bình bát đi khất thực từng nhà, có lẽ ta còn phát hiện ra nhiều điều hay, thú vị khác. Chẳng hạn cái người đi khất thực kia không phải là người đi xin mà là người đi cho. Ta không thể phân biệt ai là người xin người cho ở đây. Khi người đi khất thực đứng trước cửa nhà nào thì gia chủ mừng húm, cảm thấy như mình có một hạnh phúc lớn, không phải chỉ vì người đi xin kia là đức Phật mà chỉ vì cái hành vi đi xin kia thực ra mang một ý nghĩa khác, ý nghĩa cảnh tỉnh, như một lời nhắn nhủ, nhắc nhở. Gia chủ sẽ có dịp nhìn lại chính mình, nghe ngóng một tiếng nói nào đó ở trong sâu thẳm tâm hồn mình. Có thể rồi sẽ chóng quên, nhưng hôm nào đó lời nhắc nhở sẽ lại vọng lại. Với người quyền quý cao sang, có thể giật mình một chút thấy cái người đi chân đất, để đầu trần, bưng bình bát đứng xin kia là người vì sao đã từ bỏ ngôi vị thái tử, đã từ bỏ gấm vóc lụa là, cung phi mỹ nữ.

Cũng có thể sẽ có những người xua đuổi, sỉ vả, để rồi cũng nhận được một ánh mắt biết ơn, một nụ cười trìu mến và những bước đi nhẹ nhàng của người khất thực kia. Để rồi đêm về, người đã xua đuổi sỉ vả nọ nhớ lại, ngạc nhiên nghe một thứ tiếng nói khác trong lòng mình. Có những người nghèo không có cái ăn, không có cái gì để cho thì lúc đó cái ánh mắt, cái nụ cười sẽ chia sẻ cùng nhau. Sự tôn trọng, không phân biệt, đã nói lên nhiều điều quá đỗi. Thực ra nếu quan sát kỹ chút nữa, có lẽ từ lúc Phật đứng lên mặc áo, cầm lấy bình bát… mỗi cử chỉ đều đã toát lên một cái gì đó khác với ta. Nếu có ai cắc cớ hỏi chuyện mặc áo, cầm bình bát của Phật đâu thấy khác gì mọi người, thì chắc Ngài sẽ cười nhẹ nhàng nói: có chứ, có chứ. Bởi Phật khoác áo, cầm bình trong chánh niệm còn ta thì hấp tấp, hổn hển chụp lấy áo, chụp lấy bình bát, tất tả vội vàng…
Diễn tiến của một buổi giảng huấn bằng phương pháp demonstration đó thì mỗi cử chỉ, hành động đều phải được theo dõi, quan sát rất kỹ để có thể thực hành theo. Suốt bài giảng đó, ta đã học được nhiều điều hơn ta tưởng: bố thí mà không phải bố thí, trì giới, nhẫn nhục mà không phải trì giới, nhẫn nhục, rồi tiết độ, tri túc, tinh cần, chánh niệm… và lúc nào cũng ở trong một trạng thái ung dung, an lạc, thảnh thơi, đầy trí tuệ. Cho nên ta sẽ không còn ngạc nhiên khi nghe Tu Bồ Đề cất tiếng ca ngợi: “Hy hữu Thế Tôn! Như Lai thiện hộ niệm chư Bồ Tát, thiện phó chúc chư Bồ Tát.”

(ĐHN)

 

…. o ….

A pocketbook for the elderly

A PATH TO PEACE & JOY

 

Chapter 4: Learning the way Buddha taught

Đỗ Hồng Ngọc

Translated by Nguyên Giác

 

I studied the Diamond Sutra and, unexpectedly, found myself feeling as captivated as I had when I studied the Heart Sutra previously. At times, I was startled; at other moments, I felt astonished, bewildered, and even stunned. Although many versions of the sutras exist, a clear consistency runs through them. The approach may vary depending on the audience, and the method of conveyance differs, but the underlying principles remain the same. Is it true that by grasping the core concepts, a learner will experience less confusion and see the door to the path?

The first thing that surprised and stunned me while studying the Diamond Sutra was my expectation of encountering beautiful words and ideas, golden principles, and profound teachings. However, the Diamond Sutra immediately presented a very ordinary, if not trivial, narrative: the story of the Buddha during mealtime. Feeling hungry, he donned his robe, took his alms bowl, and went out to beg for food—without uttering a word or even bothering to clear his throat!

Just imagine, amid thousands of people—including great Bodhisattvas, Arhats, high-ranking monks, and esteemed disciples—sitting and waiting to hear profound teachings, the Buddha said nothing. He donned his robe, took his alms bowl, and went into the city to beg for alms. After gathering enough alms, he leisurely returned to the hall, set out the food, finished eating, and properly tidied his robes and alms bowl. He washed his feet, sat cross-legged, and began to breathe, seemingly entering meditation. He didn’t even bother to utter a single word of instruction!

I imagine that at that time, I was also sitting somewhere outside the hallway, listening and waiting to hear the sermons, feeling frustrated and disappointed. Suddenly, Subhuti appeared. Sitting in the middle of the crowd like everyone else, he stood up, respectfully bowed to the World-Honored One in accordance with the ritual, and then spoke words of praise: “How wonderful! How wonderful! How unprecedented! The World-Honored One has skillfully taught, skillfully transmitted, and skillfully entrusted the wonderful Dharma to all of you present here today.”

At that moment, I realized that an unexpected lesson had just been imparted! The surprise quickly transformed into anxiety. Oh no, I had not paid attention and had failed to closely follow the silent lecture of the Buddha! Fortunately, Subhuti had recognized it! Those who did not pay careful attention would have missed a regrettable opportunity.

Buddha had a unique approach to teaching: he conveyed lessons not through words but through actions. This method, commonly referred to as a demonstration way, aims to impart life skills. Once again, this approach emphasizes that learning and practicing Buddhism is about action rather than discussion. The principle is simple: do first, talk later, or sometimes there may be no need to talk at all. This is why Zen masters often have their students chop wood, cook rice, carry water, grow vegetables, and pound rice, all without explicitly instructing them.

Only when students confront their own concerns will they truly learn. In various unconventional ways, the teacher facilitates this process: sometimes by challenging them to capsize their metaphorical boat, other times by delivering a sudden jolt, or by providing vague answers. The teacher may pose questions such as, “Show me your mind, and I will grant you peace of mind.” These methods can surprise students and awaken them from their stupor. At the end of the course, students will not receive a diploma to showcase, nor does the teacher possess anything to give them. The knowledge and solutions are already within the students; the teacher merely assists them in discovering, experiencing, and resolving their own issues. This process is known as counseling, a contemporary method of psychological and medical therapy. The counselor acts like a midwife, aiding the mother in achieving a safe delivery, but ultimately cannot give birth for her. The child is already present in the mother’s womb.

Returning to the lesson, everyone was startled and astonished, recalling that Buddha aimed to teach them a fundamental principle: when hungry, eat; when thirsty, drink. At mealtime, one must focus on eating. Anyone who claims that eating is unnecessary either does not understand how to live or is being dishonest. Nearly two thousand years later, Trần Nhân Tông, the king of the Trần Dynasty in our country and the Zen master who founded the Trúc Lâm Yên Tử sect, echoed this sentiment in his poem Cư Trần Lạc Đạo, that when hungry, one should eat, and when tired, one should sleep.

Even the Buddha had to don his robes and carry his alms bowl to beg for food at mealtimes, let alone us! What is noteworthy is that a World-Honored One like the Buddha could simply speak, and an array of delicious dishes and exotic offerings would appear! The attendants should have prepared a proper meal for the Buddha, waiting for him to finish his sermon before serving. But no, the Buddha ventured out to find food on his own, without anyone’s assistance. He did not indulge in sumptuous, pre-prepared meals; instead, he practiced exactly what he preached. Therefore, witnessing this would be surprising! Many high-ranking monks present would likely reflect on whether they had ever allowed their disciples to serve them, preparing vegetarian dishes that were both elaborate and delectable! In modern times, we still encounter many vegetarian foods designed to resemble shrimp, fish, and chicken thighs. It is truly alarming!

We are both startled and amazed by the Buddha, the highest being, the World-Honored One, who possesses numerous illustrious titles yet remains remarkably simple. He walks barefoot with each graceful step, carrying his alms bowl to beg for food under the midday sun, accepting whatever is available to eat. The Buddha strolls leisurely and naturally, with each step taken mindfully, unaffected by the whispers and gossip of those around him—some praising him, while others criticize. He simply breathes in and out with each step, moving gently, refreshingly, and at ease.

The Buddha did not select affluent homes to beg for alms, nor did he prefer impoverished ones that might offer more comfort or familiarity. He moved leisurely from house to house, as there was no need to discriminate; both the rich and the poor had their own struggles. Everyone faced challenges, and all experienced suffering in their own ways. After several hours of walking to collect alms, any food became a delicacy. When consumed mindfully, savoring each bite, any meal could be delightful and easy to digest. It appeared that the alms bowl was just the right size to hold enough food for one person, ensuring that there would not be an excess left over.

In contemporary society, it is uncommon to witness monks begging for alms, particularly in urban areas and cities. However, when we encounter an individual clad in a kasaya, carrying an alms bowl, and walking mindfully from house to house, we cannot help but admire the ancient Great Master and feel a sense of reverence. Although monks no longer need to beg for alms for every meal, their daily practice of walking for several hours remains essential for maintaining good health. A simple diet rich in vegetables and beans while low in fat, sugar, and salt is also beneficial. Eating in a relaxed and peaceful environment, with the joy of having a sufficient meal—without fussiness or excess—transforms each meal into a delightful, healthy, and invigorating experience.

After eating, Buddha tidied up his bowl and clothes, washed his feet, and then sat down to meditate. It is noteworthy that after his meal, he did not go to sleep or engage in a heated argument; instead, he chose to meditate. This may have been the ideal moment to attune himself to his body in action, observing how food was digested, absorbed, and transformed into energy within each cell. The lesson was imparted.

If we take the time to observe more carefully, we may uncover many intriguing insights regarding the instance when the Buddha carried his alms bowl, soliciting donations from house to house. For example, the individual who sought alms was not merely a beggar but rather a giver. In this context, it becomes challenging to distinguish between those who are asking for alms and those who are giving. When the Buddha stood in front of a house, the homeowner experienced a profound sense of joy—not only because the beggar was the Buddha, but also because the act of begging conveyed a deeper significance. It served as a warning, a message, or a reminder.

The homeowner then had the opportunity to reflect on himself, listening to a voice deep within his soul. He might soon forget, but one day the reminder would resonate once more. For a noble person, it could be startling to realize that the individual walking barefoot, bareheaded, holding an alms bowl and begging, was the same person who had relinquished the position of crown prince, forsaken silk brocade, and given up a beautiful wife and royal maidservants.

There may have been individuals who chased and insulted a beggar, only to receive a grateful glance, a warm smile, and gentle steps in return. Later that night, the person who had chased and insulted the beggar was taken aback to hear another voice echoing in his heart. There were impoverished individuals who had nothing to eat and nothing to offer, yet in those moments, the shared look and smile conveyed so much. It was a message of respect, free from discrimination.

In fact, if we observe more carefully, we might notice that from the moment the Buddha stood to don his robe and pick up his alms bowl, each gesture exuded a quality distinct from our own. If someone were to ask the Buddha about his method of putting on his robe and picking up his alms bowl, he would likely smile gently and indicate that there is a difference. The Buddha approached these actions with mindfulness, while we often act hastily, gasping and grabbing our robes and alms bowls, rushing about in a flurry.
During a demonstration teaching, every gesture and action must be observed and followed meticulously to ensure proper practice. Throughout this teaching, we learned more than we anticipated. The individual who gives alms does not truly give alms. The acts of observing precepts and exercising patience are performed, but they are not done with the intention of keeping precepts and practicing patience. Ditto regarding the practices of moderation, contentment, diligence, mindfulness, and maintaining a state of ease, peace, leisure, and wisdom. Thus, we should not be surprised when we hear Subhuti proclaiming, “Rare is the World-Honored One! The Tathagata has skillfully guided and protected the Bodhisattvas and has graciously entrusted them with his teachings.”
( translated by Nguyên Giác)

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Gươm báu trao tay, Nghĩ từ trái tim

CON ĐƯỜNG AN LẠC   Bài 5: Thực hành 10 Hạnh Nguyện Phổ Hiền

23/11/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

“Sách bỏ túi” cho người cao tuổi

Con Đường An Lạc

Bài 5:

Thực hành 10 Hạnh Nguyện Phổ Hiền

Đỗ Hồng Ngọc

Con đường “thay  đổi hành vi” từ biết đến muốn, rồi từ muốn đến làm không dễ chút nào (KAP = Knowledge/ Attitude/ Practice),  rồi từ làm đến… duy trì… quả là gian khó. Mà tu thì phải hành, chớ không thì chỉ là cái “đãy sách”.
Nhưng, hành cách nào?

Phần lớn các chùa hiện nay thường thấy nơi chánh điện có tượng Phật Thích-ca đặt ở giữa, bên trái có Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi,  cưỡi sư tử, tay cầm kiếm; bên phải có Bồ Tát Phổ Hiền, cưỡi voi sáu ngà, tay cầm đóa hoa sen.
Ai đã nghĩ ra các hình tượng tượng trưng này thật là hay để nhắc học Phật là con đường của từ bi và trí tuệ. Văn-thù (Manjusri) là Bồ Tát của trí tuệ, tay cầm kiếm chặt đứt phiền não, tiếng rống sư tử làm tắt ngấm vô minh. Phổ Hiền (Samantabhadra) là Bồ Tát của từ bi, cưỡi voi sáu ngà, chở bao nặng nhọc của bước đường thực hành và hoằng pháp. Tại sao voi 6 ngà? Tượng trưng cho Lục Ba-la-mật: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ. Thú vị là tượng Văn-thù luôn ở bên trái còn Phổ Hiền thì luôn ở bên phải Phật Thích-ca.  Khoa học bây giờ cũng thấy não trái là não của trí tuệ, não phải là não của từ bi. Hồi xa xưa đó không ngờ đã phát triển nền Khoa học não bộ (Neuro- sciences) đến vậy!
Phổ là rộng, phổ quát (universal)  còn Hiền là đức hạnh (great conduct, virtue, goodness). Bồ tát Phổ Hiền đã làm một bảng Hướng dẫn thưc hành (Guideline in Practising Buddhism) gọi là Mười Hạnh Phổ Hiền rất cụ thể. Học 10 hạnh này, mỗi ngày một chút thôi cũng đủ rồi vậy.

 

1. Lễ kính Chư Phật. (To pay homage and respect to all Buddhas)

“Chư” Phật, chớ chẳng phải chỉ có một vị Phật duy nhất. Phật nhiều vô kể. Phật khắp mười phương. Khắp tam thiên đại thiên thế giới, cả 3 thời quá khứ hiện tại vị lai. Thời nào cũng có Phật, ở đâu cũng có Phật. Bởi ở đâu cũng có kẻ giác ngộ, lúc nào cũng có kẻ giác ngộ. Nhưng Phật Thích-ca vẫn là vị Phật lịch sử, vị đạo sư, kẻ dẫn đường, “bổn sư” của ta… Phật Thích-ca chẳng từng nói “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành” đó sao? Phật Thích-ca  cũng đã… không quên giới thiệu cho chúng ta các vị Phật khác ở khắp đông tây nam bắc để ta lễ kính.
Kinh Pháp Hoa có Bồ Tát Thường Bất Khinh là vị Bồ Tát rất dễ thương, ông luôn vái lạy mọi người và nói với họ rằng: “Xin kính lễ Ngài, vị Phật tương lai.” Mặc cho người ta đánh mắng xua đuổi, ông cũng cứ lễ kính trân trọng chân thành như vậy, cho đến một hôm người ta giật mình nhìn lại, ừ đúng, sao không nhỉ?

Nếu ta tu tập đúng con đường Phật dạy, ta cũng có thể trở thành Phật lắm chứ?
2. Xưng tán Như Lai (To praise the Thus Come One- Tathagata).

Rất thú vị ở đây là không có chuyện “lễ kính” Như Lai mà chỉ “xưng tán” (khen ngợi) Như Lai mà thôi. Nói khác đi, với Như Lai không việc gì phải lễ kính! Phật thì “lễ kính” còn Như Lai chỉ “xưng tán”. Lý do? Như Lai là Như Lai, không phải Phật. Như Lai “vô sở tùng lai diệc vô sở khứ” (chẳng từ đâu đến, chẳng đi về đâu!): Thus come one-Tathagata.  Nó vậy là nó vậy. Nhiều khi ta lầm tưởng Phật với Như Lai. Nhìn con chim đầy màu sắc kia xem. Nhìn thiên nga và bầy vịt kia xem. Nhìn mây trôi nước chảy kia xem. Như Lai đó. Con ong cái kiến là Như Lai. Đóa hoa muôn màu muôn sắc là Như Lai. Và Phật cũng là… Như Lai khi đã giác ngộ, đã “thấy biết” và từ đó sống trong Như Lai, sống cùng Như Lai, sống với Như Lai. Ta vẫn gọi Phật bằng nhiều danh xưng với lòng tôn kính: Như Lai, Bậc Ứng cúng, Thế gian giải, Thiên Nhân sư…
Kinh nói “vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai” chớ không nói “vào nhà Phật, mặc áo Phật…”, cũng nói “Như  Lai thọ lượng” chớ không nói “Phật thọ lượng” (Pháp Hoa).

Nhớ lễ kính chư Phật mà xưng tán Như Lai nhé.
3. Quảng tu cúng dường (To make abundant offerings. – e.g. give generously)

Quảng tu là rộng tu. Tu mà bó hẹp, bịt mắt chỉ thấy một góc, một phía thì uổng lắm. Phật dạy lúc trước, lúc sau hay lúc giữa cũng chỉ có một, nhưng tùy theo “căn cơ” của đối tượng mà ứng biến, gia giảm cho phù hợp, nên đôi khi dễ tưởng là khác, là “mâu thuẫn”. Có lần trong một buổi thuyết giảng của Phật cả mấy ngàn người đã bỏ đi. Trước khi nhập Niết-bàn, Phật còn dặn dò “xưa nay ta chưa hề giảng dạy điều gì cả, chưa hề giảng dạy cho ai cả”. Hình như Phật biết trước, thời đại Internet, AI, đầy những deepfakes. Cái thấy biết của Phật thì như cánh rừng Simsapa kia mà điều nói ra chỉ là nhúm lá trong tay. Phần không nói ra, rồi sẽ tự biết. Phật gợi ý để rồi tự ta phát hiện, tự chứng, tự nội.
“Nhất thiết chủng trí” rồi thì đã có Bình đẳng tánh trí, Diệu quán sát trí. Cúng dường là bố thí. Quảng tu cúng dường là bố thí rộng lớn. Bố thí là hàng đầu trong Lục độ (Bố thí, Trì giới…). Bố thí có tài thí, pháp thí và vô úy thí. “Bố thí thân mạng” (Thiền) mỗi ngày nhiều như cát sông Hằng… là tốt nhất.  Dược Vương Bồ Tát tự đốt cả thân mình, đốt cả hai cánh tay (đốt ở đây là dập tắt tham sân si, mạn, nghi, kiến… để có thân vô ngã, pháp vô ngã) được các vị Phật khen là “món thí hạng nhứt!”

4. Sám hối nghiệp chướng (To repent misdeeds and evil karmas).

Chướng là trở ngại, gây phiền phức, gây rắc rối, không trơn tru. Cái gì gây trở ngại, gây chướng vậy? Nghiệp!

Nghiệp là gì? Phật dạy nghiệp là “tài sản” của ta. Ta là kẻ “thừa tự” của nghiệp. Nói khác đi, ta “lãnh  đủ” nếu ta tạo nghiệp. Dĩ nhiên đó là ác nghiệp. Thiện nghiệp thì sao? Thì ta không bị chướng, gì cũng thành tựu, tốt đẹp. Nhìn hôm nay biết nghiệp ngày xưa. Nhân hôm nay biết quả ngày sau. Nói khác đi, nó là kết quả, là nguyên nhân của đời sống ta, là hạnh phúc, là khổ đau của kiếp sống ta. Cải nghiệp được không? Được. Nghiệp do thân khẩu ý mà sinh. Hành vi chỉ là thân và khẩu. Có Thân nghiệp, Khẩu nghiệp, nguồn gốc của sanh sự. Nhưng Ý nghiệp mới thật là ghê gớm. Ý dẫn đầu các pháp. Nhưng Ý thường làm bộ vô can. “Tác ý” là yếu tố chính xác định nghiệp. Người ta có thể tha thứ cho một sự vô tình, nhưng cố ý thì rắc rối to. “Như lý tác ý”, nghĩa là theo “lý”  mà làm. Lý đây là cái thấy biết như thực, cái chánh kiến, chánh tư duy, từ đó mà có chánh ngữ, chánh nghiệp. Còn sám hối là hối lỗi, thấy biết chỗ sai quấy mà “từ nay xin chừa”. Ta là chủ nhân của nghiệp. Sám hối cái sai quấy thì không đi vào ác nghiệp và từ đó, nghiệp hết… chướng!

 

5. Tùy hỷ công đức (To rejoice in others’ merits and virtues).

Là công đức do tùy hỷ mà có. Tùy hỷ là cái “vui theo người”. Người có chuyện vui thì mình vui theo. Dĩ nhiên chuyện vui đó phải là chuyện thiện. Nếu là chuyện xấu ác mà vui theo thì nguy. Tùy hỷ thực chất là để chữa trị bệnh đố kỵ, ghen ghét, là một trong những “bản năng” gốc của con người. Đố kỵ ghen ghét cũng vì tham, vì thấy thua sút người ta. Khi không còn tham sân si, khi biết vô ngã rồi thì không còn ganh ghét đố kỵ nữa. Tùy hỷ mà giả đò, tùy hỷ mà không thực lòng, tùy hỷ mà hùa theo thì không phải là tùy hỷ. Sẽ chẳng có “công  đức” gì ở đây! Thứ tùy hỷ giả, nói theo, làm vui lòng người, khen bừa cho người vui thì chưa gọi là tùy hỷ. “Nịnh” càng không phải là tùy hỷ. Cho nên phải coi chừng tùy hỷ. Coi chừng lời tùy hỷ, kẻ tùy hỷ. Ái ngữ không phải là tùy hỷ. Chánh ngữ mới đúng. Có chánh kiến, chánh tư duy thì mới có chánh ngữ.
6. Thỉnh Phật chuyển pháp luân (To request theBuddhas to continue teaching).

Pháp luân là “Bánh xe pháp”. Bánh xe pháp vẫn phải luôn chuyển không ngừng bởi đời sống như dòng sông vẫn trôi chảy. Cũng vẫn tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến đó thôi, cũng vẫn thất tình lục dục đó thôi, nhưng đã mỗi thời mỗi khác. Xưa cung tên giáo mác, nay hỏa tiễn hạt nhân… Xưa bệnh tật khu trú từng vùng, nay lan tràn trong nháy mắt… Thế giới trong lòng bàn tay. Trái đất nóng lên. Môi trường chết ngạt. Thức ăn đầy độc chất. Tin tức đầy fake news, deepfakes… Xưa, lên núi cao tìm thầy, vào hang sâu tìm kinh sách, chỉ một câu một chữ thôi đủ ngộ. Nay bấm cái nút, thiên kinh vạn quyển, tẩu hỏa nhập ma! Sinh học tạo con người từ ADN, công nghệ gắn thêm AI (trí thông mình nhân tạo), robot điều khiển con người từ xa…

Duy-ma-cật nói: Phải nắm bắt thật đúng đối tượng thì “thuyết  pháp” mới có hiệu quả. Phật dạy “Ta chẳng có pháp gì để thuyết cả!”, vì “Pháp thuận với không, tùy theo vô tướng, ứng với vô tác. Pháp lìa khỏi tốt và xấu, thêm và bớt, sinh và diệt… há thuyết diễn được sao?”.

Lục tổ Huệ Năng nói: “Thiện  tri thức, đạo cần phải linh động, chớ nên làm cho ngăn trệ. Tâm chẳng trụ pháp thì đạo được linh động, tâm nếu trụ pháp, gọi là tự trói.”

Cho nên vẫn phải thỉnh Phật chuyển pháp luân thôi.

 

7. Thỉnh Phật trụ thế (To request the Buddhas to remain in the world).

Người có “chứng ngộ” thường dễ thấy “phạm hạnh đã tròn đầy”, muốn “đặt gánh nặng xuống, bước vào cõi vô sanh, niết-bàn tịch diệt…”. Nhưng, thế thì còn ai để lặn lội trong cõi Ta-bà đầy ô trược này mà “hóa độ” chúng sanh? Cho nên phải thỉnh Phật trụ thế.

Bồ Tát thì phải “bất tận hữu vi, bất trụ vô vi”. Hữu vi thì vô thường, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ như điển, giả tạm, hư vọng, dẫn đến nhàm chán, buông bỏ. Nhưng Bồ Tát thì không. Phải chịu khó ở lại giúp đời giúp người “hộ trì chánh pháp”. “Vào sinh tử luân hồi như vào vườn cảnh, đức tánh vô niệm, trí huệ thực tướng, nhưng chẳng bỏ pháp thế gian. Từ bi hỷ xả mà không phóng dật, tu học lẽ Không mà không chấp Không, quán vô thường mà không chán cội lành, quán phiền não mà không đoạn phiền não.”

8. Thường tùy Phật học (To follow the teachings of the Buddhas at all times).

Phật không dạy nhiều và thậm chí còn nói “Ta chẳng có pháp gì để thuyết cả!” Nhưng chư Phật đều nhắc nhở “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành,tự tịnh kỳ ý, thị chư Phật giáo”. Nghĩa là việc ác đừng làm, việc thiện thì làm. Quan trọng nhất là phải “tự tịnh kỳ ý”. Cái mới khó! Thanh tịnh bổn nhiên, tùy chúng sanh tâm, chu biến pháp giới, tòng nghiệp phát hiện. Ấy chẳng qua vì nghiệp mà thấy vậy, ra vậy. Phải làm cho tâm được trở về với cái “thanh tịnh bổn nhiên” ấy của mình vốn sẵn. Cái khó ở chỗ phải tự mình làm, tự mình “tịnh cái ý” của mình chớ không thể nhờ ai giúp được. Chỉ có thể quay về nương tựa chính mình thôi. Tuệ giác, insight, là cái thấy bên trong. Tìm kiếm đâu xa. Gia trung hữu bảo hưu tầm mích. Tóm lại, thường tùy Phật học là học chính mình, quay về bên trong mình. Luôn tự hỏi mình đang tham đó ư? Đang sân (giận) rồi sao? Mê muội đến vậy hả? Thôi nhé.

“Có bốn thứ ma, tám vạn bốn ngàn thứ phiền não làm cho chúng sanh nhọc nhằn, mỏi mệt, chư Phật dùng chính những thứ ấy mà làm Phật sự.” (kinh Duy-ma-cật).

Học Phật được vậy thì “sự sự vô ngại”.

Thiện Tài đồng tử trải qua 53 “cửa ải”, ở đâu cũng học, cũng hành đúng pháp, sau cùng thì mới “thõng tay vào chợ” được vậy!
9. Hằng thuận chúng sanh (To accommodate and benefit all living beings).

Chúng sanh bệnh thì mình cũng bệnh như Duy-ma- cật. Đồng bệnh tương lân, mới thấu cảm nhau. Bồ-đề-đạt-ma đã vội xua đuổi, bỏ rơi Lương Võ Đế cũng đáng tiếc.

Huệ Năng khi đã giác ngộ: “Bổn lai vô nhất vật” rồi, đã thấy Pháp thân rồi mà cũng mất 15 năm theo cùng nhóm thợ săn, săn thú, uống rượu, bán buôn… Hay là… ông cố tình xâm nhập để quan sát, học hỏi, tu tập? Nghe nói tuy sống chung với nhóm thợ săn 15 năm như vậy, ông chưa từng săn thú, ăn thịt, uống rượu? Biết đâu ông cũng đã “độ” được năm ba. Huệ Năng nói: “Ngoài không dính mắc là thiền, trong không lay động là định…”

Chúng sanh nào thì Bồ Tát đó. Chúng sanh ở trong Bồ Tát, Bồ Tát ở trong chúng sanh. “Hòa nhi bất đồng.” Quán Thế Âm có 32 ứng hóa thân để biến hiện tùy cơ. Gặp vua quan thì vua quan. Gặp ốm đau bệnh hoạn thì ốm đau bệnh hoạn…  Mà bên trong vẫn là Bồ Tát Quán Thế Âm như như bất động, với bình cam lồ, với nhành dương liễu, với “vô úy thí”…

Tham vấn viên trong công tác xã hội ngày nay đóng vai kẻ mại dâm, người nghiện ma túy để hòa nhập với đối tượng, giúp họ giải thoát, bằng kỹ năng tham vấn với tôn trọng, chân thành, thấu cảm, lắng nghe…

 

10. Phổ giai hồi hướng (To transfer all merits and virtues to benefit all beings).

“Hồi hướng” là chia sẻ. “Phổ” là cùng khắp, rộng lớn. Chia sẻ cái gì? Cái công đức. Phước đức cũng chia sẻ được, nhưng phước đức thì hữu lậu, như Lương Võ Đế đúc chuông lớn, xây chùa to, nuôi tăng đoàn… cũng chẳng có tí “công đức” nào, bị Bồ-đề-đạt-ma quở. Có thể ông vua còn vênh váo, tự mãn, với cái ngã to đùng của mình thì càng đáng trách, trong khi công đức là cái tu bên trong, để có tuệ giác, và thấy biết vô ngã.

—

…. o ….

A pocketbook for the elderly

A PATH TO PEACE & JOY

Chapter 5

Practicing the Ten Universal Vows of Samantabhadra

Đỗ Hồng Ngọc

Translated by Nguyên GIác


The journey of transforming behavior from knowledge to motivation, and then from motivation to action, is quite challenging. Furthermore, progressing from action to maintenance is particularly difficult. To truly practice, you must translate your learning into action; otherwise, you risk becoming merely a bag of books.

But how to practice?

Most temples today typically feature a statue of Shakyamuni Buddha in the center of the main hall, with Manjushri Bodhisattva riding a lion and wielding a sword on the left, and Samantabhadra Bodhisattva riding a six-tusked elephant and holding a lotus flower on the right.

Whoever created these symbolic images has done an excellent job of reminding us that studying Buddhism is a path of compassion and wisdom. Manjushri, the Bodhisattva of wisdom, wields a sword to sever afflictions and roars like a lion to dispel ignorance. Samantabhadra, the Bodhisattva of compassion, rides a six-tusked elephant, symbolizing the weighty responsibility of practicing and propagating the Dharma. Why the six-tusked elephant? It represents the Six Paramitas: Generosity, Precepts, Patience, Diligence, Meditation, and Wisdom. Interestingly, the statue of Manjushri is always positioned on the left side, while Samantabhadra is consistently on the right side of Shakyamuni Buddha. Modern science also recognizes that the left brain is associated with wisdom, while the right brain is linked to compassion. Who would have imagined that neuroscience would advance to such an extent?

Samantabhadra is known as Phổ Hiền in Vietnamese. Phổ means broad or universal, while Hiền means great conduct, virtue, and goodness. The Bodhisattva Phổ Hiền has established a specific guideline for practicing Buddhism known as the Ten Conducts of Phổ Hiền. Learning these ten conducts, even just a little each day, is sufficient.
1. To pay homage and respect to all Buddhas

There are not just one, but countless Buddhas present in every direction, across the three thousand worlds, and throughout the past, present, and future. Enlightened beings can be found everywhere and at all times. However, Shakyamuni Buddha remains the historical Buddha—our teacher, guide, and master. He once stated that he is the Buddha who has attained enlightenment, while sentient beings are the Buddhas who are yet to realize their potential. Shakyamuni Buddha also took the time to introduce us to other Buddhas in the east, west, south, and north, encouraging us to pay homage to them.

In the Lotus Sutra, there is a beloved Bodhisattva named Never Disparaging. He consistently bows to everyone and tells them, “I respectfully pay homage to you, the future Buddha.” Despite being beaten, scolded, and chased away by some, he continued to pay homage to them with sincerity and respect. One day, they suddenly looked back and said, “Yes, that’s right, why not?”

If we follow the path taught by the Buddha, can we also attain Buddhahood? Is that correct?

 

2. To Praise the Tathagata

What is interesting here is that there is no need to bow to or show respect to Tathagata; one only needs to praise Tathagata. In other words, while one bows to and respects Buddha, one only praises Tathagata. The reason for this distinction is that Tathagata is Tathagata, not Buddha. Tathagata does not originate from anywhere and does not go anywhere. It simply is what it is.

Sometimes, you may mistake Buddha for Tathagata. Observe that colorful bird, the swan, and the flock of ducks. Notice the drifting clouds and flowing water—these are Tathagata. The bee and the ant embody Tathagata, as does the vibrant flower. Buddha is also Tathagata when he attains enlightenment, having seen and understood the truth. From that moment on, he lives in Tathagata, with Tathagata, and as Tathagata. We continue to honor Buddha with many names: Tathagata, Worthy One, World-knower, Teacher of Gods and Humans…

Therefore, the Sutra instructs us to enter the Tathagata’s house, don the Tathagata’s robe, and sit on the Tathagata’s throne; however, it does not mention entering the Buddha’s house or wearing the Buddha’s robe. Similarly, the Lotus Sutra discusses the Tathagata’s lifespan but does not refer to the Buddha’s lifespan.

It is important to pay homage and show respect to the Buddhas while praising the Tathagata.

 

3. To practice broadly the virtue of making immeasurable offerings

Broad practice encompasses practice without limitations. In contrast, narrow practice, which is blindfolded and only perceives one corner or one side, is a waste of effort. The Buddha taught that there is only one Dharma, whether before, after, or in the middle. However, depending on the circumstances of the individual, the teachings are adapted and adjusted to suit their needs. This can sometimes lead to the misconception that the teachings are different or contradictory.

Once, during a sermon by the Buddha, thousands of people departed. Before entering Nirvana, the Buddha advised that he had never taught anything in the past and had never instructed anyone. It seems that the Buddha foresaw that the age of the Internet and artificial intelligence is rife with misinformation and deepfakes. His vision and knowledge resemble the vast Simsapa forest, while what is spoken is merely a handful of leaves in one’s hand. The unspoken truths must be discovered by ourselves. The Buddha encouraged us to explore, understand, and experience these truths within our hearts.

When you possess the wisdom that understands everything, you also attain the insight that perceives all dharmas as equal, along with the wisdom that observes magnificently. Offering is the act of giving. Extensive offering refers to giving widely. Giving is the first of the Six Paramitas (which include Giving, Keeping Precepts, etc.). It encompasses the giving of wealth, the giving of Dharma, and the giving of fearlessness. As Zen teaches, you have as many lives each day as there are grains of sand in the Ganges River, and it is best to give all of them away. The Bodhisattva Medicine King is celebrated for having burned his own body, including both arms. In this context, extinguishing of greed, anger, ignorance, arrogance, doubt, and misguided views, leading to the realization that both the body and dharmas are not-self. This selfless act is praised by the Buddhas as a supreme offering.

 

4. To repent misdeeds and evil karmas

Obstacles are challenges that create difficulties and disrupt smooth progress. What causes obstacles? Karma!

What is karma? The Buddha taught that karma is our inheritance; we are the heirs of our actions. In other words, we encounter numerous obstacles when we have generated negative karma. Conversely, if we cultivate positive karma, we will not face hindrances; instead, everything will flourish and prosper. Reflecting on our current circumstances, we can recognize the karma we have created in the past. Our actions today will yield results in the days to come. In simple terms, karma encompasses the outcomes, the causes of our existence, as well as the happiness and suffering we experience in life.

Can karma be changed? Yes. Karma arises from our body, speech, and mind. Actions primarily stem from the body and speech, and when these create karma, corresponding effects inevitably follow. However, karma in consciousness can be quite profound. The mind governs all dharmas, yet it often pretends to be innocent. Ultimately, it is intention that determines karma. While one can forgive an unintentional act, the involvement of intention can lead to significant consequences. The adage that one should follow the reason to guide the mind emphasizes the importance of adhering to principles. Understanding reality as it truly is encompasses right view and right thinking, which in turn lead to right speech and right action. Repentance involves acknowledging the mistakes we have made. By recognizing these errors, we can commit to avoiding them in the future. We are the architects of our own karma. Repentance for wrongdoing can help us steer clear of negative karma, allowing us to navigate our karmic path without obstacles as we move forward.

 

5. To rejoice in others’ merits and virtues

There are significant benefits to rejoicing. Rejoicing involves feeling joy in response to the good deeds of others. When someone experiences happiness, it is natural to share in that joy. However, it is important that this happiness stems from positive actions; finding joy in negative circumstances can be harmful. Rejoicing serves as a remedy for jealousy and envy, which are fundamental human instincts. These feelings often arise from a greedy mindset, where an individual perceives themselves as inferior to others. When one overcomes greed, anger, and ignorance, and comes to understand the concept of non-self, the mind can be liberated from jealousy and envy.

If you pretend to rejoice, it means you are expressing joy insincerely; you are merely going along with the situation, which does not constitute true rejoicing. There is no merit in this! Fake rejoicing—saying the same things, pleasing others, and offering random praise to make people happy—is not genuine rejoicing. Flattery, in particular, is even further removed from true joy. Therefore, you must be cautious about what it means to rejoice. Be mindful of the words associated with rejoicing and the individuals who claim to rejoice. Loving words do not equate to true rejoicing. Right speech is essential. Only with right views and right thoughts can one achieve right speech.

 

6. To request the Buddhas to turn the Wheel of Dharma

The Wheel of Dharma must always be turned because life is like a flowing river. Living beings continue to experience greed, anger, ignorance, arrogance, doubt, misguided beliefs, and the seven emotions alongside six desires, but these manifestations change over time, each instance differing from the last. In the past, conflicts were fought with bows and arrows, swords, and spears; today, they are waged with missiles and nuclear weapons. Epidemics that once remained confined to specific regions can now spread in the blink of an eye. The world is at our fingertips. The Earth is warming, the environment is suffocating, and our food is laden with toxins. Furthermore, the news is rife with misinformation and deepfakes.

In the past, one had to scale high mountains to seek out teachers and venture into deep caves to discover scriptures. During that time, simply hearing a sentence or reading a word was sufficient to attain enlightenment. Today, with the press of a button, one can access thousands of scriptures and countless books, easily witnessing the flames of temptation burning in the heart. Biology creates humans from DNA, while technology introduces artificial intelligence (AI), and robots are operated remotely.

Vimalakirti emphasized the importance of selecting the appropriate listener for the Dharma to be truly effective. The Buddha stated, “I have no Dharma to preach, for the Dharma is inherently aligned with emptiness, devoid of form, and responding to non-action. It is impossible to discuss the Dharma that separates it from good and bad, as it is inherently free from increase or decrease and devoid of birth and death.”

The Sixth Patriarch Hui Neng stated, “Good friends, when you embark on the Way, your mind must remain flexible; do not allow it to become stagnant. If your mind does not cling to the dharmas, then the Way will be adaptable. However, if your mind remains attached to the dharmas, it is referred to as self-binding.”

Therefore, we must still request the Buddhas to turn the Wheel of the Dharma.

 

7. To request the Buddhas to Remain in the World

Those who have attained enlightenment can easily recognize that their pure conduct is complete. They desire to relinquish their burdens and enter the realm of nirvana and extinction. However, who remains to wander in this impure world of Samsara to assist sentient beings? Therefore, we must request the Buddhas to remain in this world.

Bodhisattvas must neither abandon the conditioned world nor remain solely in the unconditioned realm. Everything in the conditioned world is impermanent—like a dream, an illusion, a bubble, a shadow, dew, or lightning—temporary and illusory, ultimately leading to feelings of boredom and abandonment. However, Bodhisattvas must exercise patience, remaining present to assist the world and help people protect the Dharma. They enter the cycle of birth and death as one would enter a garden, embodying the virtue of non-thought and possessing the wisdom to perceive true nature, all while engaging with worldly affairs. Bodhisattvas must diligently practice the Dharma of compassion, kindness, joy, and equanimity without negligence. They should learn the principle of Emptiness without clinging to it, contemplate impermanence without growing weary of cultivating good roots, and reflect on afflictions without severing their connection to them.

 

8. To follow the teachings of the Buddhas at all times

The Buddha did not teach extensively and even stated that he had nothing to preach. However, all Buddhas convey the essential message: “Do not commit evil; do good; purify your mind; this is the teaching of the Buddhas.” This means that one should refrain from wrongdoing and engage in virtuous actions. The most crucial aspect is to purify the mind, which can be quite challenging. This innate purity, which is dependent on the minds of living beings, permeates the Dharma realm and is revealed through karma. It is only due to karma that one perceives reality in this manner and appears in this way. One must strive to return the mind to that inherent purity that resides within oneself.

The challenge lies in the necessity of self-reliance; you must purify your own mind without seeking assistance from others. You can only turn inward and depend on yourself. Wisdom and insight are the abilities to see clearly within. Do not search outside your mind any longer, for there is a treasure within your own being. In essence, adhering to the teachings of the Buddhas at all times means learning from yourself and turning inward. Always observe whether your mind is generating thoughts of greed, anger, or ignorance. If that is the case, then direct those thoughts into the realm of non-existence.

The Vimalakirti Sutra states, “There are four types of demons and eighty-four thousand varieties of afflictions that cause living beings to feel tired and exhausted; however, Buddhas use these very challenges to accomplish their Buddhist actions.”

If you study Buddhism in this way, you will no longer perceive any obstacles.

The young Thiện Tài skillfully navigated 53 gates of obstacles, diligently studying and practicing the Dharma correctly at every turn. Ultimately, he attained a state of enlightenment, where his hands grasped nothing as he entered the marketplace.

 

9. To accommodate and benefit all living beings

Similar to Vimalakirti, when a practitioner encounters a sick person, he too feels a sense of illness. Only by sharing in the same suffering can one truly cultivate compassion and empathy for one another. It is unfortunate that Emperor Liang Wu did not grasp the essence of the conversation, leading to Bodhidharma’s departure.

After Hui Neng attained enlightenment, he realized that originally there was nothing and perceived the Dharmakaya. However, he spent 15 years living among a group of hunters who engaged in hunting animals, drinking alcohol, and trading. Did he intentionally immerse himself in their lifestyle to observe, learn, and practice? It is said that despite living with the hunters for those 15 years, he never participated in hunting, consuming meat, or drinking alcohol. Perhaps he even saved a few individuals during that time. Hui Neng stated, “Outwardly unattached is meditation; inwardly unmoving is concentration.”

As sentient beings are, so is the Bodhisattva. Sentient beings exist within the Bodhisattva, and the Bodhisattva exists within sentient beings. Although he is in harmony with sentient beings, he does not allow himself to be assimilated. Bodhisattva Avalokiteshvara has 32 incarnations that adapt to various situations. When he encounters a king or a mandarin, the Bodhisattva manifests as a king or a mandarin. When he meets a sick person, he also takes on the form of a sick person. However, deep within, he remains Bodhisattva Avalokiteshvara—steadfast and unchanging, holding a vase of nectar and a willow branch while bestowing fearlessness.

Similarly, a social worker may need to adopt the perspective of a prostitute or a drug addict in order to connect with their clients effectively. This approach can facilitate the process of helping individuals escape their circumstances by employing counseling skills such as respect, sincerity, empathy, and active listening.

 

10. To dedicate one’s merits to benefit all sentient beings

This concept refers to sharing in a vast and infinite manner. What is being shared? Merit. While worldly merit can also be shared, it is conditioned—much like Emperor Liang Wu, who cast a large bell, built an impressive temple, and supported a sangha. However, he lacked any unconditioned merit and was reprimanded by Bodhidharma. Perhaps the king remained arrogant and complacent, burdened by his inflated ego, which is even more blameworthy. In contrast, unconditioned merit involves internal cultivation, fostering wisdom, and recognizing the principle of non-self.
(Nguyen Giac)

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Gươm báu trao tay, Nghĩ từ trái tim

CON ĐƯỜNG AN LẠC Bài 6: Học cách Phật dạy con

22/11/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

 

“Sách bỏ túi” cho người cao tuổi

CON ĐƯỜNG AN LẠC

Bài 6: Học cách Phật dạy con

Đỗ Hồng Ngọc
Translated by Nguyên Giác

blank

(Phan Tấn Hải)

 

Khi Phật thành đạo, có dịp về thăm Vua cha thì La-Hầu-La đã lên bảy tuổi. Và ngay dịp đó, La Hầu La cũng xin theo Phật, xuất gia.

Coi Phật đã dạy La Hầu La những gì và cách nào nhe!

Trước hết, Phật giao La Hầu La cho… ông “thầy dạy kèm” đáng tin cậy là Xá Lợi Phất. Sao lại Xá Lợi Phất mà không phải ai khác như Mục Kiền Liên chẳng hạn? Xá Lợi Phất thì mới đúng là một ông giáo, kiến thức uyên bác, đệ tử trí tuệ bậc nhất của Phật. Phật giao cậu bé La Hầu La cho Xá Lợi Phất dạy dỗ là muốn La Hầu La đi vào con đường tu tập bằng trí tuệ trước hết. Nếu Mục Kiền Liên mà làm thầy có khi La Hầu La mê… thần thông mất! Phật không trực tiếp dạy La Hầu La vì cha mà dạy con không dễ, nhứt là ông con có máu làm vua!

Và bài học đầu tiên Xá Lợi Phất dạy La Hầu La là thở. Tức là dạy kỹ năng đầu tiên của thiền định. Bởi đây cũng chính là con đường khai mở trí huệ. Có chánh định rồi mới mong có chánh kiến, chánh tư duy… chớ phải không? Thở là nhu cầu thiết yếu của cuộc sống.

“Chào đời” bằng một tiếng khóc nên mới có “Khổ, Tập, Diệt, Đạo”!

Cuộc sống càng căng thẳng, càng đam mê, càng nhiều tham sân si nghi mạn tà kiến… thì người ta càng dễ quên thở. Người ta chỉ thoi thóp thở, khò khè thở, hời hợt thở, cà giựt thở, cà hước thở cho qua ngày đoạn tháng! Cho nên phải dạy thở trước hết cho La Hầu La là đúng.

Nhưng thở không chỉ là thở. Thở để thấy một kiếp người. Thở để thấy vô thường, vô ngã. Thở để thấy duyên sinh, thấy thực tướng vô tướng. Dĩ nhiên, Xá Lợi Phật sẽ dạy La Hầu La một cách đúng sư phạm, không sợ “ tẩu hỏa nhập ma”!

Phật… vẫn phải theo dõi sát chuyện học hành của cậu bé La Hầu La. Khi thấy cậu đã biết thở, có chánh niệm, tỉnh giác, tinh cần rồi thì Phật mới bắt đầu dạy… đạo đức, lối sống. Nào không được nói dối – nào phải nghĩ kỹ trước mỗi ý tưởng, cử chỉ, lời nói… xem điều nào nên hay không nên làm, điều nào có hại, xấu ác thì không được làm, điều nào hay phải, lợi mình, lợi người thì làm.

“Trong khi chuẩn bị làm điều chi bằng thân, khẩu, ý, con phải quán chiếu: hành động này có gây tổn hại cho mình hoặc cho kẻ khác không. Nếu, sau khi suy xét, con thấy rằng hành động đó sẽ có hại, thì con hãy đừng làm. Còn nếu con thấy rằng hành động đó có ích lợi cho con và cho kẻ khác, thì con hãy làm.”

Trong các yếu tố thân khẩu ý thì “khẩu” có lẽ là quan trọng nhất để tạo nghiệp mặc dù nó được dẫn dắt bởi ý (ý dẫn các pháp) nhưng ý không bộc lộ ra để dễ nhận biết, chỉ có khẩu mới ầm ỉ, náo nhiệt, là đầu mối sinh sự, gây chiến! “Khẩu” chính là kẻ tạo nghiệp số một vậy. Ngày nay “khẩu” không chỉ là lời nói trực tiếp mà còn là cả hệ truyền thông, cả những “status” trên mạng internet, lan truyền khắp thế giới trong nháy mắt. Cho nên Phật dạy La Hầu La rất kỹ về “khẩu nghiệp”, bắt đầu bằng sự không nói dối. “Thập thiện” dành tới 4 món cho riêng khẩu: Không nói dối, không nói thêu dệt, không nói hai lưỡi, không nói lời hung ác…

Ở tuổi mới lớn, biết mình là con Phật, được mọi người vì nể, quý trọng, chắc không khỏi có lúc La Hầu La làm phiền nhiễu, buồn lòng người khác. Thậm chí, thỉnh thoảng có thể còn chạy vào méc (mách) Phật điều này điều khác… Phật sẽ mỉm cười xoa đầu dạy hạnh Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn…

Rồi khi La Hầu La lớn dần lên, Phật dạy những bước tiếp theo.

Hãy học hạnh của Đất. Hãy như đất. Đất ở khắp nơi. Đất trong ta. Đất trong vũ trụ. Không có đất, ta không nên hình nên dạng. Không có đất, nhựa nguyên không thành nhựa luyện. Điều quan trọng: đất không hề phân biệt. Ném một thỏi vàng hay một đống rác xuống đất, đất vẫn “như như bất động”…Chẳng mừng chẳng giận.

Hãy học hạnh của nước. Hãy như nước. Nước ở khắp nơi. Nước ở trong ta chiếm  đến ba phần tư thể trọng. Cũng như biển cả sông ngòi chiếm ba phần tư mặt địa cầu. “Nước trôi ra biển lại tuôn về nguồn” (Tản Đà). Chẳng thêm chẳng bớt…

Hãy học hạnh của gió. Hãy như gió. Gió ở khắp nơi. Gió trong ta. Trong bầu khí quyển. “Gió không có nhà/ Gió đi muôn phương…”. Đâu cũng là nhà của gió. “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng. Để làm gì em biết không? Để gió cuốn đi!” (Trịnh Công Sơn).

Hãy học hạnh của lửa. Hãy như lửa. Lửa ở khắp nơi. Lửa trong ta. Lửa trong vũ trụ. Lửa ở mặt trời. Lửa giữa lòng đất. Lửa ở trong cây. Không có lửa sao cọ xát thì cây bốc lửa? Lửa đốt cháy hết tham sân si. Lửa tam muội ngùn ngụt trong chánh định…

Tứ đại “đất, nước, gió, lửa”, chính là những yếu tố cơ bản, Nitrogen (đất) Hydrogen (nước) Oxygen (gió), Carbon (lửa),  những nguyên tố C, H, O, N tạo nên protein, chất liệu cuộc sống. Từ đó mà có vạn vật, từ đó mà có ngũ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức… 

…. o ….

 

A pocketbook for the elderly

A PATH TO PEACE & JOY

Chapter 6: Learning How Buddha Taught His Son

Do Hong Ngoc, MD

translated by Nguyen Giac

After the Buddha attained enlightenment, he visited his father, King Suddhodana. At that time, the Buddha’s son, Rahula, was seven years old. During this visit, Rahula expressed his desire to follow the Buddha and become a monk.

Let us explore what the Buddha taught Rahula and how he imparted this wisdom!

First, the Buddha assigned Rahula to his trusted tutor, Sariputra. Why Sariputra and not someone else, such as Maudgalyayana? Sariputra was a true teacher, possessing profound knowledge and recognized as the Buddha’s most intelligent disciple. The Buddha chose Sariputra to instruct the young Rahula because he wanted him to embark on the path of cultivation through wisdom first. If Maudgalyayana had been his teacher, Rahula might have become enamored with supernatural powers! The Buddha did not initially teach Rahula directly, as it can be challenging for a father to teach his son, especially one who is of royal lineage.

The first lesson that Sariputta taught Rahula was focused on breathing, which is the foundational skill of meditation. This practice serves as a pathway to developing wisdom. Only with the right concentration can one aspire to attain the right view and the right thinking, correct? Breathing is an essential aspect of life.

Being born with a cry is the reason for Suffering, Origin, Extinction, and the Path.

The more stressful life becomes, the more passionate it can be. However, this heightened intensity often leads to increased greed, anger, ignorance, doubt, arrogance, and misguided beliefs. As a result, people tend to forget to breathe properly. They may gasp for air, wheeze, or breathe superficially, struggling to get through their days and months. Therefore, it is essential to teach Rahula the importance of proper breathing first.

However, breathing is not merely an act of inhalation and exhalation. Breathing guides us to see the essence of human existence. Breathing allows us to perceive impermanence and the non-self. Breathing reveals the principle of dependent origination and unveils the true nature of reality, which is inherently formless. At that moment, Sariputra would instruct Rahula in a pedagogical manner, undeterred by the fire demon raging in his mind!

The Buddha closely observed the studies of the young boy Rahula. Noticing that Rahula was capable of correct breathing, mindfulness, alertness, and diligence, the Buddha began to instruct him on morality and lifestyle. He emphasized that Rahula should not lie and should carefully consider every thought, gesture, and word. He taught him to distinguish between good and evil actions, avoid those that are evil, and pursue those that are good, right, and beneficial for himself and others.

The Buddha advised Rahula, “Before engaging in any action with your body, speech, or mind, you should reflect: Will this action cause harm to yourself or to others? If, upon reflection, you determine that the action will cause harm, then you should refrain from doing it. However, if you conclude that the action will benefit both yourself and others, then you should proceed with it.”

Among the factors of body, speech, and mind, speech is perhaps the most significant in creating karma, even though it is guided by the mind (the mind leads the dharmas). However, the mind is not easily recognized. In contrast, the mouth is often noisy and bustling, serving as a source of trouble and conflict. The mouth is the primary creator of karma. In today’s world, the mouth encompasses not only direct speech but also the entire communication system, including  on the internet, which can spread globally in the blink of an eye. Therefore, the Buddha taught Rahula with great care about the karma associated with speech, beginning with the principle of not lying. The ten good deeds include four specific guidelines related to speech: do not lie, do not exaggerate, do not speak with a double tongue, and do not speak harshly.

At a young age, knowing that he was a child of Buddha—respected and honored by all—Rahula sometimes found himself annoying and upsetting others. Occasionally, he would run to tell Buddha about various incidents. Buddha would smile and gently pat his head, teaching him the virtues of Precepts, Patience, and Diligence.

As Rahula grew older, the Buddha taught him the next steps.

Learn the virtues of the Earth: one should embody its qualities. The Earth is omnipresent; it exists within us and throughout the universe. Without the Earth, we cannot take form. Without the Earth, raw resin cannot be transformed into refined resin. The key point is that the Earth does not discriminate. Whether a bar of gold or a pile of trash is placed upon it, the Earth remains unchanged—neither happy nor angry.

Learn the virtue of Water: one should embody its qualities. Water is omnipresent; it constitutes three-quarters of the human body and covers a similar proportion of the Earth’s surface through oceans and rivers. The poet Tản Đà once wrote, “Water flows to the ocean and then flows back to its source.” This cycle is neither excessive nor insufficient.

Learn the virtue of the Wind: one should embody its qualities. The wind is omnipresent; it exists within the human body and throughout the atmosphere. The wind has no fixed home; it travels in all directions, making every place its dwelling. Musician Trịnh Công Sơn once wrote, “To live in this world, one needs a heart. For what, do you know? To be carried away by the wind!”

Learn the virtue of Fire: one should embody its qualities. Fire exists everywhere: within the body, throughout the universe, in the sun, in the earth, and in the trees. If there is no fire, then why does friction cause the tree to ignite? Fire consumes all greed, anger, and delusion. The fire of samadhi burns brightly when one maintains the right concentration.

The four fundamental elements—earth, water, wind, and fire—are the basic building blocks of life. Nitrogen represents earth, hydrogen symbolizes water, oxygen corresponds to wind, and carbon signifies fire. These elements—carbon (C), hydrogen (H), oxygen (O), and nitrogen (N)—combine to form proteins, which are essential for life. From these elements arise all things, including the five aggregates: form, feeling, perception, mental formations, and consciousness.

(Đỗ Hồng Ngọc)

Translated by Nguyên Giác

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống

CON ĐƯỜNG AN LẠC  Bài 7: SÁNG, TRƯA, CHIỀU, TỐI

22/11/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

“Sách bỏ túi” cho người cao tuổi

CON ĐƯỜNG AN LẠC 

Bài 7: SÁNG, TRƯA, CHIỀU, TỐI

Đỗ Hồng Ngọc

(translated by Nguyen Giac)

Kinh sách khuyên học Phật dù một câu một chữ cũng… quý!
Lục tổ Huệ Năng lúc còn gánh cũi trên rừng chỉ nghe người ta tụng câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” mà hoát nhiên đại ngộ. Lại nhớ chuyện một thiền sư cho đệ tử mỗi một chữ “Vô” để làm “thoại đầu” mà thiền tập…
Các bậc tôn túc tự xưa đã đúc kết những câu những chữ chẳng đáng cho ta ngẫm ngợi đó sao?
Chẳng hạn “trà Tào Khê”, “cơm Hương Tích”, “thuyền Bát Nhã”, “ trăng Lăng Già” !

 

SÁNG: Trà Tào Khê

Huệ Năng từ phương Nam lặn lội đến Huỳnh Mai bái Ngũ tổ Hoàng Nhẫn. Tổ hỏi: “Ngươi từ phương nào đến, muốn cầu vật chi ?” Huệ Năng đáp: “Đệ tử là dân Lãnh Nam, từ xa đến lễ Thầy, chỉ cầu làm Phật, không cầu gì khác !” Tổ bảo: “Ông người Lãnh Nam quê mùa, ít chữ, làm sao kham làm Phật ?” Huệ Năng đáp: “Người có Bắc Nam chớ Phật tánh đâu có Nam Bắc. Kẻ quê mùa này cùng với Hòa thượng chẳng đồng, nhưng Phật tánh đâu có sai khác!” Hoàng Nhẫn giật mình. Cho xuống bếp… bửa củi, nấu cơm, giã gạo!

Không lâu sau đó, Ngũ Tổ gọi riêng truyền dạy cho, rồi trao y bát, lẻn đưa Huệ Năng xuống thuyền trốn về phương Nam xa xôi nơi có dòng suối mát Tào Khê tu tập. Huệ Năng trở thành Lục Tổ từ đó, ngày ngày uống ngụm trà Tào Khê, bắt đầu truyền thụ dòng Thiền “đốn ngộ”. Tâm truyền tâm. Bất lập văn tự. Kiến tánh thành Phật. Lấy Vô niệm làm tông, Vô tướng làm thể, Vô trụ làm gốc.

Huệ Năng dạy học trò nghiêm khắc. Đệ tử từ xa tìm đến tham vấn, xin ấn chứng mà chưa tỏ ngộ, chưa thấy “bổn lai vô nhất vật”, chưa nhận ra “Thức tự tâm chúng sanh/ Kiến tự tâm Phật tánh”, còn loay hoay dính mắc mãi những đâu đâu thì thường bị quở phạt, trách mắng, cảnh tỉnh.

Một hôm có người học trò Vĩnh Gia Huyền Giác đến Tào Khê. Huyền Giác xuất gia từ nhỏ, tinh thâm Thiên Thai tông, nhờ xem Duy Ma Cật Sở Thuyết mà tâm địa bừng ngộ.
Gặp Huệ Năng, ông đi quanh ba vòng rồi chống tích trượng đứng yên.
Huệ Năng trách :
– Phàm làm Sa môn phải đủ ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh, Đại đức từ đâu đến mà lớn lối ngạo mạn vậy?
Huyền Giác trả lời: Sinh tử sự đại/ Vô thường tấn tốc (sinh tử việc lớn, vô thường mau chóng, lễ nghĩa làm chi!).
Huệ Năng đáp :
Sao không nhận cái lý (thể) “Vô sinh” và thấu rõ (liễu) cái nghĩa “không chóng”.
Huyền Giác đáp: “Thể” tức vô sinh, “liễu” vốn không chóng.
Huệ Năng khen: Đúng vậy! Đúng vậy!
Thế rồi Huệ Năng cùng Huyền Giác đối đáp, càng lúc càng sôi nổi.
Đoạn, Huyền Giác xin kiếu về, Huệ Năng hỏi.
Về chóng thế sao?
Rồi, mời Huyền Giác ở lại Tào Khê với mình một đêm để cùng uống trà… mà đàm đạo!
Về sau, Huyền Giác viết Chứng đạo ca:
Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân,
Bất trừ vọng tưởng bất cầu chân ?
Vô minh thực tánh tức Phật tánh,
Ảo hoá không thân tức Pháp thân.
(…)

 

TRƯA: Cơm Hương Tích

Hôm đó Duy Ma Cật tiếp Bảo Tích và năm trăm vị vương tôn công tử, thiếu gia, con nhà viên ngoại- là những Bồ-tát tại gia tương lai- tại cái thất trống trơn của ông ở thành Tỳ-da-ly.
Giữa lúc mọi người đang sôi nổi hào hứng bàn những chuyện cao xa như hữu lậu với vô lậu, hữu vi và vô vi, sinh tử và niết bàn… thì Xá-lợi-phất, vị đệ tử trí tuệ bậc nhất của Phật, lên tiếng đưa mọi người về “mặt đất”: “Sắp đến giờ ăn rồi. Các vị Bồ Tát này sẽ ăn thức gì đây?”.
Duy-ma-cật: “ Xin đợi cho giây lát, tôi sẽ khiến quý vị được thứ thức ăn chưa từng có”.
Thức ăn chưa từng có ư? Với các vị vương tôn công tử, thiếu gia, con nhà trưởng giả này thì cao lương mỹ vị có gì là lạ, tổ yến hồng sâm, nem công chả phượng có gì là lạ.
Họ háo hức chờ đợi Duy-ma-cật mang đến thứ thức ăn “chưa từng có”!

Thì ra… Duy-ma-cật mang đến một mùi hương! Một mùi hương thơm. Thứ “thức ăn” xin được từ cõi Chúng Hương của Phật Hương Tích! Đó là một thứ “thức ăn” chưa từng có.
Duy-ma-cật liền nhập vào Tam-muội, dùng sức thần thông khiến cho đại chúng nhìn thấy về hướng trên, cách đây nhiều cõi Phật liên tiếp nhau như số cát của bốn mươi hai con sông Hằng, có một cõi nước tên là Chúng Hương, hiện có đức Phật hiệu là Hương Tích ngự tại đó. Nước ấy có mùi thơm bậc nhất đối với các mùi thơm của người ta và chư thiên ở các thế giới chư Phật mười phương. Khắp cõi ấy, mùi thơm tạo ra lầu gác. Người ta đi trên đất bằng mùi thơm. Các cảnh hoa viên và vườn tược đều bằng mùi thơm. Từ nơi thức ăn, mùi thơm bay tỏa ra khắp vô lượng thế giới mười phương.
Duy-ma-cật chỉ xin “chút xíu thức ăn thừa” của Phật Hương Tích để đãi các vương tôn công tử tại Tỳ-da-ly hôm ấy. Chỉ một chút xíu thức ăn thừa thôi nhé. Một chút thức ăn thừa thôi cũng đã là quá đủ, bởi thứ « thức ăn chưa từng có” đó là một thứ « vô tận hương » đến từ bên trong của người có giới đức. Chính là hương giới đức. Một thứ hương có thể “bay cao, bay xa, bay ngược chiều gió”!

Hương thơm giới đức không thể có trong một ngày một buổi. “Hương” thơm đó phải được “Tích” chứa từ từ mới đầy dần lên được, mới sung mãn, mới tràn trề… mới “ngát hương”!

Nhờ giới đức, cõi Chúng hương đó của Phật Hương Tích chẳng cần phải thuyết pháp bằng văn tự mà chỉ dùng các mùi hương là đủ. Mọi chúng sanh nhờ hương giới đức mà đắc nhập luật hạnh. Bồ-tát ở cõi đó mỗi vị đều ngồi nơi cội cây thơm, nghe mùi thơm vi diệu kia mà thành tựu hết thảy các phép Tam-muội Đức tạng. Chẳng cần phải nói năng cho phiền hà, gây tranh cãi, hí luận. Bởi Giới là gốc. Có Giới thì có Định, có Huệ đó vậy.

 

CHIỀU: Thuyền Bát Nhã

“Bát Nhã” lúc nào cũng phải có… “thuyền”! Nhưng có lúc “bè” cũng được… Có lần Phật bảo các đệ tử: Qua sông rồi còn vát bè theo chi cho nặng!
Quán Tự tại Bồ tát hành thâm Bát Nhã ba-la-mật-đa (Prajna Paramita) thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.

Bát Nhã luôn là Bát Nhã “Ba-la-mật”. Prajna paramita. Para: bờ kia, bên kia. Mita: đến. Paramita: là đến bờ kia, là “đáo bỉ ngạn”. Từ bờ mê qua bến giác.
Qua bờ kia thì “Độ nhất thiết khổ ách” được ư? Được. Với điều kiện hành thâm Bát Nhã. Thấy rõ năm uẩn đều Không. Chẳng những vậy, khi đã thấy không tướng, thực tướng vô tướng, đã sống với Bát Nhã, sống trong Bát Nhã thì… cái núi Tu Di to đùng kia có thể nhét vào hột cải, nước bốn biển mênh mông nọ có thể cho vào một lỗ chân lông… !
Một khi lý đã vô ngại thì sự vô ngại. Lý sự đã vô ngại thì sự sự vô ngại…

Nhưng, thuyền có đi thì có về, có qua thì có lại. Các vị Bồ-tát theo nguyện vì người mà nấn ná cõi Ta-bà, qua qua lại lại giữa đôi bờ. Thuyền thong dong qua lại mà cũng chỉ quanh quẩn ở lòng ta, tâm ta.

Con thuyền vẫn đi có khi trên dòng nước xuôi, có khi trên dòng nước ngược. Phải chèo phải chống. Không dễ mà lõng buông tay lái. Bố thí. Trì giới. Nhẫn nhục. Tinh tấn. Thiền định. Trí huệ.

Bát Nhã, Prajna, là cái Biết trước cái Biết. Pra là trước, Jna là biết. Cái biết trước cái biết là cái biết hiện tiền, biết “như thực”, không qua suy luận, phê phán, biện biệt. Cho nên nó đã là Trí chớ không còn là Thức nữa. Hay nói cách khác Thức đã chuyển thành Trí.

 

TỐI: Trăng Lăng Già

Chưa có khi nào Phật cười to như thế, cười sảng khoái, “cười hùng mạnh như vua sư tử…” giữa đêm trăng Lăng Già cùng với chúa đảo Ravana và thần dân của ông, với sự có mặt của hàng ngàn Bồ tát.
Ấy bởi Phật đã thuyết giảng chân lý giúp cho mọi người chuyển hóa tâm thức, vượt ngoài tri thức lý luận, vượt cả tam-ma-địa thông thường để mà an trú trong Bất động địa, Thiện tuệ địa, Pháp vân địa, cảnh giới cao nhất, nhập vào Như lai tạng, bằng tự chứng tự nội…

Giữa đỉnh núi ở trên đảo Lăng Già khi nhìn những ánh trăng bập bềnh trên sóng nước, vỡ tan, vỡ tan theo từng con sóng, Phật đã cất tiếng cười to. Ánh trăng vỡ tan và gom tụ lại. Rồi vỡ tan, rồi gom tụ lại. Hoa đốm hư không. Dấu chân chim ngang trời. Bức tranh vân cẩu. Nó vậy đó. Thế giới muôn hồng ngàn tía cũng chỉ do tâm thức tạo ra. Nó như huyễn, nó như mộng, như bào ảnh, như sương mai, như ánh chớp… Bên dưới đó, là Như Lai tạng, là A-lai-da vẫn im ả, “như như bất động”. Chỉ có cái thức tâm phân biệt của ta quậy phá chính ta. Cái tâm thanh tịnh bổn nhiên kia vẫn im ắng. Không lay động. Vẫn bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm.

Vì thức khởi mà sự sinh. Thế giới chỉ là tâm thức của chính mình. Chúng sanh là ảo vật do ảo thuật gia là ta vẽ bày để rồi tự mình phan duyên, dính mắc, khổ đau…

Bồ tát thấy biết như vậy, thấy biết nhứt thiết duy tâm tạo, thấy chúng sanh là ảo vật do chính mình tạo ra rồi thức tâm phân biệt, chấp trước mà khổ đau bèn nói thẳng cho mọi người cùng biết. Nói thẳng ra như thế mới là “lòng từ chân thật”, không giấu giếm, che đậy, không hù dọa, gạt gẫm nhau chi! Vì như huyễn, mà có lòng Từ. “Trí chẳng đắc có không/ Mà hưng tâm đại bi”.

Tâm bất sinh thì vô sinh. Vô sinh thì vô sự. Dứt mọi phân biệt của thức tâm thì không bị quậy phá nữa. Ở đó là Như Lai tạng. Nhất thiết chủng trí. Đại viên cảnh trí.
Thấy biết Như Lai, thì sống với Như Lai, sống trong Như Lai, sống cùng Như lai vậy.

(ĐHN)

 

 

…. o ….

 

A pocketbook for the elderly

A PATH TO PEACE & JOY

Chapter 7: MORNING, NOON, AFTERNOON, EVENING

 

By Đỗ Hồng Ngọc, M.D.

Translated by Nguyên Giác

 

The scriptures suggest that learning Buddhism, even a single sentence or word, is invaluable.

The Sixth Patriarch, Hui Neng, while carrying firewood in the forest, overheard people chanting the phrase, “Let your mind cling to nothing; then the mind of Nirvana will appear,” and he suddenly attained enlightenment. I also recall the story of a Zen master who instructed his disciple to meditate on just one word: “No.” This practice encouraged the disciple to observe the mind before any thoughts arose.

The esteemed elders of the past have distilled phrases and words that merit our thoughtful reflection. For instance: Tào Khê tea, Hương Tích rice, Bát Nhã boat, and Lăng Già moon.

MORNING: Tào Khê tea

Hui Neng traveled from the South to Huang Mai to pay his respects to the Fifth Patriarch, Huang Ren. The Patriarch asked, “Where do you come from, and what do you seek?”

Hui Neng replied, “I am a native of Lingnan. I have traveled a long distance to pay homage to the Master. My only desire is to become a Buddha; I do not seek anything else!”

The Patriarch said, “You are a rustic from Ling Nan, with little education. How can you become a Buddha?”

Hui Neng replied, “People have North and South, but Buddha nature has neither North nor South. This ordinary person is not the same as the Venerable, yet Buddha nature is not different!”

Huang Ren was taken aback. He instructed Hui Neng to go to the kitchen to chop wood, cook rice, and pound the rice!

Not long after that, the Fifth Patriarch summoned him privately for instruction, then bestowed upon him the dharma robe and bowl. He secretly took Hui Neng onto a boat to journey to the far South, where the cool Tào Khê stream awaited him for practice. Many years later, Hui Neng became the Sixth Patriarch. From that point on, the image of sipping Tào Khê tea each day came to symbolize the transmission of the Zen school of sudden enlightenment. This Zen method emphasizes a wordless transmission from mind to mind, teaching that one who perceives their true nature becomes a Buddha. It upholds No-thought as the central principle, identifies No-form as the true essence of all dharmas, and regards the mind anchored in No-abiding as the root of understanding.

Hui Neng taught his disciples with strictness. Disciples traveled from distant places to seek guidance and confirmation. However, those who had not yet attained enlightenment—who had not recognized that in the true nature there is not a single thing, had not yet realized that consciousness is the sentient beings arising in the mind, and that the direct perception that the original mind is Buddha nature—had not yet realized the way to separate from attachment were often punished, scolded, and warned.

One day, a man named Yongjia Xuanjue arrived in Tào Khê. Xuanjue had become a monk at a young age and was well-versed in the Tiantai sect. He had awakened to his original mind through the study of the Vimalakirti Sutra.

When he met Hui-neng, he circled around him three times and then stood still, holding his staff.

Hui Neng reproached him, “A monk must possess three thousand dignified manners and eighty thousand subtle virtues. From where do you come, Venerable, to be so arrogant?”

Xuan Jue replied, “Birth and death are significant matters, and impermanence is swift; what is the purpose of politeness?”

Hui Neng replied, “Why not accept the truth that nothing is truly born and grasp the meaning that there is nothing known as swift?”

Xuan Jue replied, “In essence, there is no birth, and understanding is not swift.”

Hui Neng exclaimed, “That’s correct! That’s correct!”

Then Hui Neng and Xuan Jue engaged in conversation, growing increasingly interested in each other’s thoughts. Eventually, Xuan Jue expressed a desire to leave, to which Hui Neng inquired, “Why are you leaving so soon?”

Hui Neng invited Xuan Jue to spend the night with him at Tào Khê to enjoy tea and discuss the Dharma.

Later, Xuan Jue composed the poem “Song of Enlightenment,” which consists of the following four lines.

The supreme learner is a contemplative individual, leading a life of non-action,

neither dispelling delusions nor pursuing the truth.

The essence of ignorance is, in fact, Buddha nature.

Illusions that lack a physical form are also the Dharma body.

 

NOON: Hương Tích Rice

That day, Vimalakirti welcomed Bảo Tích and five hundred princes, young masters, and sons of noble families—future lay Bodhisattvas—into his empty house in Vaishali.

While everyone eagerly engaged in discussions about profound topics such as the conditioned and the unconditioned, birth and death, and nirvana, Sariputra, the Buddha’s most astute disciple, interjected to ground the conversation, “It’s almost time to eat. What will these Bodhisattvas have for their meal?”

Vimalakirti said, “Please wait a moment. I will provide you unprecedented food.” Unprecedented food? For these princes, young masters, and sons of affluent families, what is so unusual about delicacies? What is so remarkable about bird’s nest, red ginseng, peacock spring rolls, and phoenix sausage? They eagerly awaited Vimalakirti’s arrival with this extraordinary food!

It turns out that Vimalakirti brought a delightful fragrance—a truly aromatic essence. The food was sourced from the Fragrant Land of the Fragrant Accumulation Buddha (Buddha Hương Tích). It was a type of food that had never existed before.

Vimalakirti then entered Samadhi, utilizing his supernatural powers to direct the assembly’s gaze upward, beyond countless Buddha lands, as numerous as the grains of sand in forty-two Ganges Rivers. There, he revealed a realm known as Fragrant Accumulation, where Fragrant Accumulation Buddha resided. This land possessed a scent more exquisite than that of any beings or devas in the Buddha worlds across the ten directions. Throughout this realm, the fragrance manifested as towering structures. People walked upon fragrant ground, and the flower gardens and groves were entirely composed of delightful aromas. The scent of the food permeated and spread throughout the countless worlds in the ten directions.

Vimalakirti requested only a small amount of leftover food from Fragrant Accumulation Buddha to entertain the princes and nobles in Vaishali that day. Just a small amount of leftover food was more than sufficient, for that extraordinary food emanated an endless fragrance from the heart of a virtuous person. It was the fragrance of virtue—a scent that could soar high, travel far, and defy the wind.

The fragrance of virtue cannot be acquired in a single day or through a brief session. This fragrance must be cultivated gradually, allowing it to fill, overflow, and become truly aromatic. Thanks to virtue, the Fragrant Accumulation Buddha’s Fragrant Land did not require written teachings of the Dharma; instead, it communicated through scents. All living beings, inspired by the fragrance of virtue, embraced the precepts and engaged in righteous conduct. The Bodhisattvas in that realm each sat beneath fragrant trees, inhaling the exquisite aroma, and achieved all the Samādhis of the Treasury of Virtue. There was no need for confusing, controversial, or trivial discourse, for the Precepts serve as the foundation. With the Precepts, one can attain both Samadhi and Wisdom.

 

AFTERNOON: Bát Nhã Boat

Prajna always requires a boat; however, sometimes a raft suffices. Once, the Buddha told his disciples, “After crossing the river, why carry the raft and make it heavy?

Avalokitesvara, when the Bodhisattva practiced the profound Prajna Paramita, realized that the five aggregates are empty and transcended all suffering and hardship.

Prajna is always Prajna Paramita. Prajna paramita. Para: the other shore, the other side. Mita: to arrive. Paramita: to arrive at the other shore. In this context, the Prajna boat transports practitioners from the shore of delusion to the shore of enlightenment.

Can one reach the other shore and eliminate all suffering? Yes, but only by deeply practicing Prajna. The practitioner comes to clearly understand that the five aggregates are entirely empty. Furthermore, when one perceives the formless—the true essence beyond form—and lives in accordance with Prajna, then even the immense Mount Sumeru can fit into a mustard seed, and the waters of the four vast oceans can be contained within a single pore. Once the principle encounters no obstacles, all things become unobstructed. When both principle and phenomena are free from obstruction, then all things are unobstructed.

But once the boat has departed, it will return, and once it has crossed over, it will come back. The Bodhisattvas, adhering to their vows for the benefit of others, remain in the realm of Samsara, traversing between the two shores. The boat leisurely moves back and forth, yet it also resides solely in our hearts and minds.

The boat continues to move, sometimes downstream and sometimes upstream. The practitioner must row and steer; it is not easy to relinquish control of the rudder. The practitioner must cultivate the qualities of generosity, adherence to precepts, patience, diligence, meditation, and wisdom.

Prajna is the Knowing before the known. Pra is before; Jna is to know. The knowing before the known is the present awareness—an understanding of reality as it truly is, free from reasoning, criticism, or discrimination. Consequently, it embodies wisdom and transcends mere consciousness. In other words, consciousness has evolved into wisdom.

 

NIGHT: Lankavatara Moon

Never before had the Buddha laughed so loudly, so heartily, and so powerfully, like a lion king in the middle of a full moon night in Lankavatara, surrounded by the lord of the island, Ravana, and his subjects, along with the presence of thousands of Bodhisattvas. The Buddha preached the truth to help people transform their consciousness, transcending theoretical knowledge and the common samadhi to reside in the Immovable Ground, the Good Wisdom Ground, and the Dharma Cloud Ground—the highest realm—entering the Tathagatagarbha through self-realization from within.

In the heart of the mountain peak on the island of Lanka, as he observed the moonlight dancing on the waves—breaking and reforming with each swell, Buddha laughed heartily. The moonlight shattered and coalesced, then shattered again, only to gather once more. All of this resembled flowers in the void, bird footprints tracing the sky, and a picture of clouds forming and dissolving. Such is the nature of existence. The world, with its myriad colors and shades, is solely a creation of the mind. It is akin to an illusion, a dream, a bubble, morning dew, or a flash of lightning. Beneath this surface lies the Tathagatagarbha, the Alaya, which remains serene “as it is, motionless.” Only our discerning consciousness disturbs us. That pure and natural mind remains still—unmoved, unborn, undying, unstained, unpure, unincreasing, and undiminishing.

Because consciousness arises, phenomena manifest. The world exists solely within our own consciousness. Living beings are illusions conjured by the magician—ourselves—where we create conditions, cling to them, and ultimately suffer.

Bodhisattvas perceive and understand in this manner: they recognize that everything is a creation of the mind and that living beings are illusions we create ourselves. The mind then discriminates, clings to these illusions, and experiences suffering. Therefore, they communicate this truth directly to everyone. Such direct communication embodies true compassion—free from concealment, deception, or intimidation. When practitioners recognize the illusory nature of existence, compassion naturally arises. Furthermore, because wisdom does not cling to either existence or non-existence, profound compassion emerges.

When the mind is at rest, afflictions cease to exist, and consequently, obstacles are eliminated. When all mental discriminations are halted, disturbances will no longer occur. Within us lies the Tathagatagarbha, the seed of wisdom encompassing all dharmas, and wisdom resembles a round, full, and boundless mirror.

Seeing and understanding the Tathagata in this way, one lives with the Tathagata, lives in the Tathagata, and lives alongside the Tathagata.

Do Hong Ngoc. MD

(Translated by Nguyen Giac)

Thuộc chủ đề:Ghi chép lang thang, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

CON ĐƯỜNG AN LẠC Bài 8: Ăn là chuyện của tâm hồn

22/11/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

“Sách bỏ túi” cho người cao tuổi

CON ĐƯỜNG AN LẠC

Bài 8: Ăn là chuyện của tâm hồn

Đỗ Hồng Ngọc

(translated by Nguyên Giác)

Lý Lạp Ông, một triết gia Trung quốc thế kỷ thứ 16 viết trong Nhàn tình ngẫu ký: “Xét cơ thể con người, chỉ có hai cơ quan không cần thiết chút nào cả mà Trời phú cho là cái miệng và cái bao tử, nguồn gốc tất cả những cái lụy của con người từ xưa tới nay. Có cái miệng với cái bao tử nên sinh kế mới hóa ra phiền phức, sinh kế phiền phức mới sinh ra những mưu mô gian trá; mưu mô gian trá mới phải đặt ra hình pháp…” .

Rồi ông ao ước: phải chi con người có cái diều như diều chim, có cái dạ dày như loài nhai lại! Loài người mà có cái diều như diều chim thì tất hiền lành, hòa bình, vì loài ăn hạt, trái cây, rau cỏ thì ít hiếu chiến, tàn ác.

Gà trống cũng thường đá nhau nhưng không phải vì thức ăn mà vì gà mái. Nếu loài người mà có cái diều…thì chỉ còn những cuộc chiến nho nhỏ để…giành gà mái thôi!

Tại sao phải ăn? Áy là bởi vì chúng ta cần năng lượng để tồn tại và để hoạt động. Thức ăn cung cấp năng lượng. Tuổi mới lớn, cần năng lượng nhiều để vừa xây dựng cơ thể, vừa đáp ứng nhu cầu họat động của tuổi này. Cho nên tuổi “teen” mau đói và thường ăn “không biết no”.

Nhớ rằng ngồi bàn viết, đánh vi tính mỗi giờ chỉ tiêu tốn 100-200 calo, hát karaoke mỗi giờ tốn 120 calo, đi nhanh, đạp xe đạp, bơi lội mỗi giờ 300 calo; cử tạ, tennis, cầu lông 400 calo, đá banh 600 calo… Trong khi đó, ăn một tô hủ tiếu, phở, đã “nhập” vào 500-600 calo; bún bò huế, cơm tấm bì cũng vậy; bánh lọt, chè bắp… 400 calo; ly sinh tố 250 calo và nước chanh đường… hơn 100 calo! Biết đại khái vậy ta sẽ tính toán “thu-chi” sao cho hợp lý để cơ thể được cân đối, không bị béo phì hoặc ngược lại bị suy dinh dưỡng.

Ăn uống là chuyện của “tâm hồn”. Ta vẫn thường nghe nói có những “tâm hồn ăn uống” đó thôi. Ăn uống là một cái khoái nhưng cũng có khi là một “cực hình”. Có những tình huống “nuốt không trôi”, chẳng hạn bị ép ăn! Không gì khổ bằng ăn trong sự cưỡng bức, ép uổng…

Ở một trường mẫu giáo bên Hà Lan, người ta đã làm thí nghiệm đặt những đứa bé 3 tuổi vào một phòng kín, dọn sẵn thức ăn thịt cá, trứng sữa, rau đậu, trái cây các thứ đầy đủ, rồi quan sát từ bên ngoài cửa kính xem sao. Trẻ chơi đùa một lúc đói bụng. tự động đi tìm thức ăn… phù hợp mà mình đang cần. Có đứa bốc món này, đứa bốc món kia… Có đứa ăn hoài một thứ, có đứa đổi từ món này qua món khác. Người ta theo dõi và cân đo trẻ trong một tuần lễ, thấy trẻ khỏe mạnh, lên cân đầy đủ. Điều đó chứng tỏ ăn… không cần phải ép. Ép dầu ép mỡ ai nỡ ép…ăn!

Tản Đà, một thi sĩ nổi tiếng trong nghệ thuật ẩm thực, đã có câu “triết lý” về chuyện ăn sao cho ngon như sau:

“Đồ ăn ngon/ chỗ ngồi ăn không ngon/ người ngồi ăn không ngon/ không ngon!

Đồ ăn ngon, chỗ ngồi ăn ngon/ người ngồi ăn không ngon/ không ngon!

Đồ ăn ngon/ người ngồi ăn ngon/ chỗ ngồi ăn không ngon/ không ngon!…”

 Nghĩa là để ăn cho ngon cần đủ cả 3 yếu tố: đồ ăn ngon/ chỗ ngồi ăn ngon/ và người ngồi ăn cùng cũng… phải ngon!  Người ngồi ăn mà không ngon – dễ ghét – thì nuốt không trôi! Và dĩ nhiên muốn ăn ngon thì phải có sự thèm ăn, tức phải đói. Đói thì ăn gì cũng thấy ngon! Lâu nay ta quen ăn theo giờ mà không ăn theo… bụng. Một điều đáng tiếc.

“Chỗ ngồi ăn ngon” thì ba trăm năm trước, Trương Trào đã viết: Trà như ẩn sĩ, rượu như hào sĩ. Rượu để kết bạn, trà để hưởng tĩnh. Trong cuộc lễ, uống nên khoan thai. Trong cuộc họp bạn, uống nên nhã. Mùa xuân nên uống ở sân. Mùa hè nên uống ở ngoại ô. Mùa thu nên uống ở trong thuyền. Mùa đông nên uống ở trong nhà. Ban đêm nên uống dưới bóng nguyệt ..(U mộng ảnh, bản dịch Huỳnh Ngọc Chiến).

Đồ ăn ngon, chỗ ngồi ăn ngon, người ngồi ăn ngon vẫn… chưa đủ. Còn phải có cách ăn ngon nữa. Ăn là văn hóa. Có nơi phải ăn trong im lặng, không được rào rạo, không được nhóp nhép, hít hà, không được ừng ực và tuyệt đối không được khua muỗng nĩa, nhưng có những nơi ngược lại, phải nhóp nhép, phải rào rạo, ợ hơi cho rõ to, khua chén muỗng ầm ỉ mới là đúng điệu!

Nhưng cách ăn ngon nhất có lẽ là ăn trong “chánh niệm”. Ý thức về chuyện đang ăn. Quan tâm nó. Để ý nó. Biết ơn nó. Bốn nhóm thức ăn cùng với nước uống chẳng phải cũng là “ngũ uẩn” đó sao? Chúng kết tập lại một cách nhuần nhuyễn để giúp ta tinh tấn trong tu tập của mình.

Cho nên mới nói rằng ăn là chuyện của tâm hồn!

Ăn uống rất quan trọng đối với người cao tuổi. Một trong những lý do người già dễ bị uể oải, lừ đừ… là do thiếu năng lượng. Ở người cao tuổi, còn thêm nỗi khổ vì “hàm răng chiếc rụng chiếc lung lay”, dạ dày teo nhỏ, dịch vị tiết ra không đủ, dễ bị bón, dễ bị rối loạn tiêu hóa. Con cháu thương tình, tìm món ngon vật lạ ép ăn, tìm thuốc bổ vitamin các thứ ép uống… thì tình trạng càng bi đát hơn vì càng làm cho ăn mất ngon, không còn thấy thèm ăn!

Người già thiếu ăn, thiếu năng lượng phần lớn là do sợ bệnh, do kiêng khem quá đáng. Bác sĩ lại hay hù dọa. Khám bệnh xong bác sĩ dặn phải kiêng món này cử món kia… và không quên cho một đống thuốc bổ trong khi người già uống đầy bụng thuốc bổ đâu cần ăn chi nữa! Không kể bạn bè hàng xóm bày vẻ, không kể nghe lời quảng cáo bùi tai… ra rả suốt ngày! Nhưng khi bác sĩ thật thà tốt bụng khuyên nên ăn uống thoải mái, “muốn ăn gì cứ ăn”, thì hiểu ngay là bệnh đã “hết thuốc chữa rồi”! Ông nọ đi khám bác sĩ về cứ bần thần buồn bực, bà vợ gặng hỏi, ông nói bác sĩ nói bệnh anh phải uống thuốc suốt đời mà ông ta chỉ cho có… 10 viên !

Cách ăn ngon nhất có lẽ là ăn trong “chánh niệm”. Ý thức về chuyện đang ăn. Quan tâm nó. Để ý nó. Biết ơn nó. Không phải vô cớ mà người ta đọc lời tạ ơn trước mỗi bữa ăn!

Bây giờ có nhiều người ăn chay với những món “rất mặn” dù được làm bằng chất liệu chay mà tên gọi chẳng chay chút nào: heo giả cầy, gà hầm, bò bóp thấu, tôm, cua, cá… và được chế biến hết sức phức tạp và đầy béo bổ! “Ăn chay” như vậy một thời gian thấy người béo phì ra, tiểu đường, tăng huyết áp, bệnh tim mạch các thứ!…

Chuyện ăn uống của người cao tuổi nói chung nên nghe theo mệnh lệnh của… bao tử. “Listen to your body”. Hãy lắng nghe sự mách bảo của cơ thể mình! Cơ thể nói… thèm ăn thức gì thì nó đang cần thức đó! Cũng đừng quên ăn uống là chuyện của văn hóa !  Món ăn gắn với kỷ niệm, gắn với thói quen, gắn với mùi vị từ thuở còn thơ! Người già có thể thích những món ăn…kỳ cục, không sao. Miễn đủ bốn nhóm: bột (glucid), đạm (protid), dầu (lipid), rau (Vitamin, khoáng)… Mắm nêm, mắm ruốc, tương chao, các thứ gia vị… đều tốt cả. Miễn đừng quá mặn, quá ngọt… Hãy “tự tại” đến mức có thể, miễn là món ăn vệ sinh, an toàn. Đừng ép ăn, đừng đút ăn, đừng làm “hư” các cụ! Nhưng khi các cụ đột ngột gầy ốm, sụt cân nhanh thì đã có vấn đề.  Suy dinh dưỡng chăng ? Trầm cảm chăng ? Có triệu chứng khởi đầu của Alzheimer chăng ? Hay đang mắc một thứ bệnh nặng nào đó?

Những bữa ăn gia đình có cha mẹ già cần tránh tất cả những sự căng thẳng, những lời nói đắng cay, tranh chấp, không vui…

Men tiêu hoá được tiết ra từ tâm hồn chớ không chỉ từ cái bao tử là vậy.

 

Đỗ Hồng Ngọc.

…. o ….

A pocketbook for the elderly

A PATH TO PEACE & JOY

Chapter 8

Eating is a matter of the heart

Lý Lạp Ông, a 16th-century Chinese philosopher, wrote in his book Nhàn Tình Ngẫu Ký, “Considering the human body, there are only two organs that Heaven has given that are completely unnecessary: the mouth and the stomach, both of which are the source of all human suffering from ancient times to the present. Having a mouth and a stomach complicates livelihood, and from these complications arise deceitful schemes; and from deceitful schemes come the creation of punishments…”

Then he wished that humans had a crop like a bird’s and a stomach like a ruminant’s! If humans possessed a crop similar to that of birds, they would be gentler and more peaceful, as species that consume seeds, fruits, and vegetables tend to be less aggressive and cruel.

Roosters often engage in fights with one another, not for food, but for the opportunity to mate with hens. If humans had a similar instinct, there would likely be only minor skirmishes to win over partners!

Why do we need to eat? The answer is simple: we require energy to survive and function effectively. Food serves as our primary source of energy. Teenagers, in particular, need a substantial amount of energy to support their growth and engage in various activities. As a result, they often feel hungry quickly and may eat without recognizing when they are full.

Remember that sitting at a desk and typing on a computer burns only 100 to 200 calories per hour. In contrast, singing karaoke burns approximately 120 calories per hour, while activities such as fast walking, cycling, and swimming can burn around 300 calories per hour. Weightlifting, tennis, and badminton can burn about 400 calories, and playing soccer can burn up to 600 calories. On the other hand, consuming a bowl of hủ tiếu or phở provides around 500 to 600 calories. A bowl of bún bò Huế or a plate of broken rice contains a similar caloric value, while dishes like bánh lọt and corn sweet soup have about 400 calories. A smoothie typically contains around 250 calories, and lemon juice with sugar can add more than 100 calories. By understanding these estimates, we can better calculate our caloric intake and expenditure to maintain a balanced diet, avoiding both obesity and malnutrition.

Eating is a matter of the heart. We often hear people say that they have a passionate heart for food. While eating can be a source of pleasure, it can also become a form of torture. There are times when swallowing becomes difficult, especially when one is compelled to eat against their will. There is nothing more painful than eating under duress.

In a kindergarten in the Netherlands, an experiment was conducted involving 3-year-old children placed in a closed room filled with various foods, including meat, fish, eggs, milk, vegetables, beans, and fruits. The children were observed from outside a glass door. After playing for a while, they became hungry and instinctively sought out the food they needed. Some children chose specific items, while others selected different foods. Some consistently ate the same items, while others varied their choices. Over the course of a week, the children were monitored and weighed, and the results indicated that they remained healthy and gained weight appropriately. This demonstrates that eating does not need to be coerced. While humans apply pressure to seeds to extract oil, who would impose pressure on children to eat?

Tản Đà, a renowned poet in the culinary arts, expressed a philosophical perspective on how to enjoy delicious food as follows.

Delicious food, poor dining environment, and unpleasant company make for an unappetizing experience!

Delicious food and a pleasant dining atmosphere can be overshadowed by unpleasant company!

Delicious food, good company, and a poor dining environment do not make for a delightful experience!

To enjoy a truly delicious meal, you need three essential elements: delectable food, an inviting place to dine, and delightful company. If your dining companion is unpleasant, it can be difficult to enjoy your meal! Additionally, to savor your food, you must have an appetite; in other words, you need to be hungry. When you are hungry, even the simplest dishes can taste exquisite! For a long time, we have become accustomed to eating at specific times rather than listening to our bodies. What a pity!

Speaking of a good place to eat, three hundred years ago, Trương Trào wrote: “Tea is akin to a hermit, while liquor resembles a hero. Liquor fosters camaraderie, whereas tea is best enjoyed in solitude. During ceremonies, sip slowly. In gatherings with friends, drink with elegance. In spring, enjoy your tea in the garden. In summer, savor it in the countryside. In autumn, drink while on a boat. In winter, indulge indoors. At night, relish your tea beneath the moonlight.” (U mộng ảnh, translated by Huỳnh Ngọc Chiến).

Delicious food, a great place to dine, and suitable companions are not enough; there must also be an appropriate way to eat. Eating is a cultural practice. In some cultures, one must eat in silence, avoiding any noise such as slurping, sniffing, or gulping, and absolutely refraining from making sounds with utensils. Conversely, in other cultures, slurping, burping, and making noise with your spoon or fork are considered acceptable and even encouraged!

However, the best way to eat is likely to do so mindfully. Be aware of what you are consuming. Pay attention to each bite and express gratitude for your meal. Aren’t the four groups of food and drink also akin to the five aggregates? They come together harmoniously to support our diligence in practice. This is why it is often said that eating is a matter of the heart!

Eating is crucial for the elderly. One reason they often experience lethargy and sluggishness is a lack of energy. Additionally, older adults may suffer from loose teeth, a shrunken stomach, insufficient gastric juice secretion, constipation, and various digestive disorders. While children and grandchildren may feel sympathy for their elders and attempt to encourage them to eat by offering delicious and unusual foods or vitamin supplements, these efforts can backfire, leading to a further loss of appetite.

Elderly individuals often experience a lack of food and energy, primarily due to a fear of illness and excessive dietary restrictions. Many doctors inadvertently contribute to this fear. After conducting examinations, they frequently advise patients to avoid certain foods and prescribe numerous supplements, leading the elderly to feel they no longer need to eat after taking these supplements. Additionally, friends and neighbors may exacerbate their concerns, while enticing advertisements bombard them throughout the day. However, when a compassionate doctor encourages them to eat freely and enjoy their meals, they may interpret this advice as a sign that their illness is incurable. For instance, one man returned home from a doctor’s appointment feeling depressed and disheartened. When his wife inquired about his visit, he revealed that the doctor informed him his condition would require lifelong medication, yet he was only prescribed ten pills.

The best way to eat is likely to do so mindfully. Be aware of what you are consuming. Pay attention to your food. Notice its flavors and textures. Express gratitude for it. There is a reason why people often say words of thanks before every meal!

Nowadays, many people consume vegetarian food that includes imitation meat dishes, despite these items being made from plant-based ingredients and bearing names that are not vegetarian at all, such as thịt-heo-giả-cầy, stewed chicken, beef jerky, shrimp, crab, and fish. These products are often processed in complex ways and can be quite nutritious. However, over time, individuals may experience obesity, diabetes, high blood pressure, heart disease, and other health issues.

In general, elderly individuals should heed their body’s signals when it comes to eating. Listen to your body. It is important to listen to your body’s cues! When you crave something, it often indicates a need. Additionally, eating is deeply rooted in culture; food is tied to memories, habits, and flavors from childhood. Older adults may have preferences for unconventional foods, and that is perfectly acceptable, as long as their diet includes all four essential food groups: carbohydrates (starches), proteins, fats (oils), and vegetables (which provide vitamins and minerals). Ingredients such as fish sauce, shrimp paste, fermented bean sauce, and various spices can be beneficial, provided they are not excessively salty or sweet. It is crucial to maintain a relaxed approach to mealtime, ensuring that the food is hygienic and safe. Avoid forcing them to eat, spoon-feeding them, or indulging them excessively. However, if an elderly person suddenly loses weight and appears to be becoming thin, it may indicate a problem. Possible concerns could include malnutrition, depression, early symptoms of Alzheimer’s disease, or a more serious illness.

Family meals with elderly parents should be free of tension, harsh words, disputes, and negativity.

Digestive enzymes are secreted from the heart, not just from the stomach.

 

Đỗ Hồng Ngọc

Translated by Nguyên GIác

Thuộc chủ đề:Già ơi....chào bạn, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

CON ĐƯỜNG AN LAC: Bài 9 “Học Phật lõm bõm”

22/11/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

“Sách bỏ túi” cho người cao tuổi

CON ĐƯỜNG AN LẠC

Bài 9: “Học Phật  lõm bõm”

Đỗ Hồng Ngọc

(translated by Nguyên Giác)

 

Sen

Trong đầm gì đẹp bằng sen

Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng

Nhị vàng bông trắng lá xanh

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

 

Thế rồi khi dấn bước vào đời ta đã quên bài học ngày xưa đó, mãi mê tìm kiếm một búp sen vàng sen bạc rực rỡ hào quang ở tận chân trời góc biển giữa muôn hồng ngàn tía… Cho đến một hôm giật mình ngó lại: thì ra cái “Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng” của đoá sen kia rốt cuộc cũng chỉ là « Nhị vàng bông trắng lá xanh » đó thôi. Chẳng thêm chẳng bớt! 

Trong đầm sen thoảng mùi bùn đất quê hương đó, đóa sen vẫn xòe ra rồi khép lại. Khép lại rồi xòe ra. Từ nghìn xưa cũ. Chẳng sinh chẳng diệt!

Đóa sen của thiên thu vẫn lung linh giữa gió và nước, như tủm tỉm cười, tỏa ngát hương thơm… Chẳng cấu chẳng tịnh!

Mà chợt ngộ một điều cốt lõi: Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn!  

 

Thiền là gì ?

Một hôm nhân cùng Sư phụ bơi thuyền dạo chơi trên hồ nước mênh mông trước thiền viện, thấy Thầy có vẻ vui tươi, người đệ tử đánh bạo hỏi:

–  Thưa sư phụ, thiền là gì ạ?

Thầy chưa kịp trả lời thì thuyền bỗng lắc lư rồi lật úp xuống! Người đệ tử không biết bơi, vùng vẫy sắp chết đuối. Thầy vớt đệ tử lên thuyền, vổ vai nói:

– Thiền là vậy đó con !

Người đệ tử ướt như chuột lột, run rẩy, mặt mày tái mét và bỗng nở một nụ cười.

Thì ra thiền không phải “là gì” mà thiền là “vậy đó”.

Người đệ tử loi ngoi suýt chết đuối, tìm cách vùng vẩy, trồi lên mặt nước để lấy hơi thở. Thầy vội vớt lên thuyền.

“Vậy đó” là giây phút không còn thấy thời gian, không gian… gì nữa, chỉ còn hớp lấy một hơi thở. Thì ra thiền là… Thở. Hít vào thở ra. Thiền đó. Chỉ có vậy mà vô vàn, mà “nói không được” (bất khả thuyết). Không ai có thể thở giùm ai được.

Có sư phụ mà sư phụ cũng không thể thở giùm được.

 

Núi vẫn cứ là núi…

“…30 năm trước khi chưa tu thấy núi là núi, sông là sông. Sau nhân được thiện tri thức chỉ cho chỗ vào thì thấy núi chẳng phải núi, sông chẳng phải sông. Rồi nay thể nhập chốn yên vui tịch tĩnh lại thấy núi là núi, sông là sông…”

Núi vẫn cứ là núi. Sông vẫn cứ là sông. Chẳng qua do cái thấy của ta điên đảo mộng tưởng.

Cái thấy của 30 năm trước khi chưa tu là cái thấy của lo âu vì nỗi vô thường:

Sông kia rày đã nên đồng

Chỗ làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai…

(Tú Xương)

Cái thấy của 30 năm trước khi chưa tu là cái thấy của sợ hãi vì niềm chấp ngã:

Ta còn để lại gì không?

Kìa non đá lở, này sông cát bồi…

(Vũ Hoàng Chương)

Ta sống trong vô thường vô ngã mỗi phút giây mà chẳng biết.

Mỗi ngày trái đất bay vòng quanh mặt trời 2,5 triệu cây số; mỗi giây hàng trăm triệu tế bào hồng cầu tự hủy để hàng trăm triệu tế bào hồng cầu mới sanh ra…

Ta vẫn ngồi lại bên cầu cho đến lúc tóc mây bạc trắng…

Người thiện tri thức đã chỉ cho chỗ vào? Vào đâu? Vào cái thấy “như thực”: thấy mọi thứ và cả cái ta nữa, luôn biến dịch, luôn đổi thay, bởi nó từ duyên sinh mà có. Thấy cái “thực tướng vô tướng”.

Rồi mừng rỡ reo lên: À, thì ra là không. Tất cả là không. Núi chẳng phải núi. Sông chẳng phải sông!…

Rồi ôm lấy cái không đó. Duy Ma Cật nhắc: đó là một thứ bệnh nặng!

Chấp không còn tệ hơn chấp có. Thà chấp có vui hơn.

May thay, khi thể nhập vào chốn yên vui tịch tĩnh thì rõ ràng núi vẫn cứ là núi, sông vẫn cứ là sông. Núi là núi mà còn đẹp hơn xưa. Sông là sông mà còn đẹp hơn xưa. Bấy giờ  đã là làn thu thủy, nét xuân sơn… Chân Không mà Diệu hữu/ Diệu hữu mà chân Không.

 

Tiếng vổ của một bàn tay

Phật bảo Anan đánh một tiếng chuông. Hỏi có nghe không, Anan ? Dạ, có nghe. Nghe gì? Nghe tiếng chuông. Tiếng chuông dứt, Phật hỏi có nghe không Anan ? Dạ, không. Không nghe gì? Dạ không nghe tiếng chuông. Phật cho đánh lại tiếng chuông lần nữa. Nghe không? Dạ có nghe. Nghe gì? Nghe tiếng chuông.

Phật cười: Tôi hỏi ông có nghe không chớ đâu có hỏi ông có nghe tiếng chuông không? Giữa hai lần giộng chuông ông vẫn nghe đó chứ, ông nghe sự im lặng, nghe sự “không – có – tiếng” đó chứ. Vậy cái sự “nghe” của ông đâu có mất dù cái tiếng chuông kia khi có khi không.

Tiếng là thanh trần, từ bên ngoài, luôn thay đổi. Còn nghe – “tánh nghe” – là tự bên trong, không hề thay đổi, luôn có đó. Nếu không có bệnh lý gì về nhĩ căn (thính giác) thì cái sự nghe luôn thường hằng, luôn trong sáng, thanh tịnh đó chớ!

Một bàn tay thì không thể tạo ra tiếng vổ. Nhưng câu hỏi không nằm ở tiếng. Câu hỏi đặt ở chỗ khác: chỗ “nghe”. Câu trả lời sẽ là không có tiếng nhưng vẫn có nghe. Nghe cái gì? Nghe cái không – có – tiếng vổ của một bàn tay!

Không để dính mắc với tướng (cái trình hiện, cái biểu kiến, hình thức) bên ngoài, luôn thay đổi, do điều kiện mà có, như mắt với sắc, tai với thanh, mũi với hương, lưỡi với vị…), trong khi cái tánh thấy, tánh nghe… bên trong vẫn không thay đổi, vẫn bất biến vậy!

(ĐHN)

 

…. o ….

 

A pocketbook for the elderly

A PATH TO PEACE & JOY

Chapter 9

Learning Buddhism messily

 

Lotus

 

In the pond, nothing is more beautiful than the lotus flower.

Green leaves, white flowers, and yellow stamens create a vibrant display.

Yellow stamens, white petals, and green leaves.

Close to the mud yet not carrying its odor.

 

Then, when we step into life, we forget that old lesson and become absorbed in searching for a golden lotus bud or a silver lotus, shining brightly at the horizon among the myriad colors of pink and purple. Until one day, we suddenly look back and realize that the ‘green leaves, white flowers, and yellow stamens‘ of that lotus flower are, after all, just ‘yellow stamens, white flowers, and green leaves.’ Nothing more, nothing less!

In the lotus pond, where the faint scent of the homeland’s mud lingers, the lotus continues to bloom and wither. It closes, then opens again, a cycle that has persisted since ancient times. Neither born nor destroyed, the eternal lotus shimmers in the wind and water, smiling as it spreads its fragrance. It exists in a state that is neither dirty nor clean.

In this moment, we come to a profound realization: it is near the mud yet untouched by its odor!

 

What is Zen?

One day, while rowing a boat with the Master on the expansive lake in front of the Zen monastery, the disciple, noticing the Master’s cheerful demeanor, boldly asked, “Master, what is Zen?”

Before the Master could respond, the boat suddenly shook and capsized! The disciple, unable to swim, struggled desperately and was on the verge of drowning. The Master pulled the disciple back onto the boat, patted his shoulder, and said, “That’s what Zen is, my child!”

The disciple was soaked to the skin, trembling, and his face was pale. Suddenly, he smiled. It became clear that Zen is not simply ‘what is,’ but rather ‘that is what Zen is.’

The disciple struggled to the surface to catch his breath, and the Master quickly pulled him onto the boat.

That is the moment when time and space dissolve, leaving only the simple act of taking a breath. Thus, meditation is breathing: inhale and exhale. This is meditation—just that—but it is infinite and cannot be fully expressed. No one can breathe for another person. Even in the presence of a master, the master cannot breathe for you.

 

Mountains remain mountains.

“Thirty years ago, before I began my practice, I perceived mountains as mere mountains and rivers as mere rivers. After a good friend guided me on the path, I began to see mountains as not mountains and rivers as not rivers. Now, having entered a state of peace and tranquility, I once again see mountains as mountains and rivers as rivers.”

Mountains are still mountains, and rivers are still rivers. Our perception of these constants is distorted by our chaotic, inverted perspective.

The vision from 30 years ago, prior to practice, was one of anxiety due to concerns about impermanence.

That river has now transformed into a field,

a site for constructing houses, and a location for cultivating corn and potatoes.

(Verse by Tù Xương)

 

The vision from 30 years ago, prior to practice, was one of fear stemming from an attachment to the self.

What have we left behind?

Over there, rocks crumble, while here, sand accumulates along the river.

(Verse by Vũ Hoàng Chương)

 

We exist in a state of impermanence and non-self every moment, often without realizing it. Each day, the Earth travels around the Sun at a distance of 2.5 million kilometers; every second, hundreds of millions of red blood cells undergo self-destruction, making way for the birth of an equal number of new red blood cells. Yet, we continue to sit by the bridge until our hair turns into a white cloud.

The wise man has shown us where to enter. Where do we enter? We enter into perceiving reality as it truly is. This means recognizing that everything, including ourselves, is in a constant state of change and transformation, arising from dependent origination. We come to understand that the true form is formless.

Then we joyfully proclaim that it is merely emptiness. All is emptiness. Mountains are not mountains. Rivers are not rivers. We then embrace that emptiness. Vimalakirti stated that it is a serious illness!

Clinging to emptiness is worse than clinging to existence. It is better to hold on to existence, as the heart will find greater happiness.

Fortunately, upon entering a realm of serene and tranquil joy, it becomes evident that the mountains remain mountains, and the rivers remain rivers. The mountains are indeed mountains, yet they possess a beauty that surpasses their former visions. The rivers are still rivers, but they too are more beautiful than ever. Now, we witness the autumn waters and the spring mountains. This is True Emptiness, yet it embodies Wonderful Existence. Wonderful Existence, yet it reflects True Emptiness.

 

The sound of one hand clapping

 

The Buddha instructed Ananda to ring a bell.

The Buddha asked Ananda if he had heard it.

Ananda stated that he heard it.

What did you hear?

I heard the bell.

The bell ceased ringing, and the Buddha asked Ananda if he had heard anything.

No.

Really, didn’t you hear anything?

No, I did not hear the bell.

The Buddha had the bell struck once more.

Have you heard it?

Yes, I heard it.

What did you hear?

I heard the bell.

The Buddha smiled and told Ananda that he had asked whether Ananda heard it, not whether he heard the sound of the bell. The Buddha explained that between the two strikes of the bell, Ananda still heard it; at that moment, he experienced silence and soundlessness. The Buddha emphasized that, in this way, Ananda’s hearing was always present, unlike the sound of the bell, which was sometimes audible and sometimes not.

Sound is perceived through the ears, originating from the external environment and constantly changing. In contrast, hearing—the essence of hearing—comes from within, remaining constant and ever-present. As long as there are no pathological issues with the ear, hearing is consistently available, clear, and pure.

One hand cannot produce a sound. However, the question is not about sound itself; it is about hearing. The answer is that while there is no sound, there is still hearing. Hearing what? Hearing the soundless echo of one hand clapping.

Don’t become attached to external appearances—such as form, sound, smell, taste, touch, and the mental objects perceived through the eyes, ears, nose, tongue, body, and mind—because they are always changing and arise due to various conditions. In contrast, the essence of seeing, hearing, and other perceptions from within remains constant and immutable.

Đỗ Hồng Ngọc

Translated by Nguyên GIác 

Thuộc chủ đề:Chẳng cũng khoái ru?, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

CON ĐƯỜNG AN LẠC. Bài 10: Ở ĐÂY và BÂY GIỜ

22/11/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

“Sách bỏ túi” cho người cao tuổi.

CON ĐƯỜNG AN LẠC

Đỗ Hồng Ngọc

(bản dịch Anh ngữ: Nguyên Giác Phan Tấn Hải)

 

Bài 10: Ở đây và Bây giờ

Từ năm 1946, Tổ chức Y tế thế giới (WHO)  đã định nghĩa:  Sức khoẻ là một tình trạng hoàn toàn sảng khoái (well-being; bien-être) về thể chất, tâm thần và xã hội, chớ không phải chỉ là không có bệnh hay tật. Một định nghĩa như thế cho thấy đánh giá sức khỏe của một con người không thể chỉ dựa vào chuyện có hay không có bệnh tật… Cái khó ở đây là làm cách nào đánh giá được “tình trạng sảng khóai” về cả ba mặt, thể chất, tâm thần và xã hội như định nghĩa đã nêu? Đánh giá sự sảng khoái, sự hài lòng cũng chính là đánh giá hạnh phúc. Mà đánh giá hạnh phúc là chuyện không đơn giản chút nào vì nặng tính chủ quan, dễ lệch lạc. Chính vì thế mà mãi nửa thế kỷ sau, WHO mới đưa ra được một bảng “Đánh giá chất lượng cuộc sống” (Quality of Life Assessment, 1996) liên quan đến sức khỏe và chăm sóc sức khỏe để cụ thể hóa định nghĩa đã nêu trên. Theo đó, người thầy thuốc chỉ quan tâm chữa trị bệnh tật là chưa đủ, mà phải quan tâm đến chất lượng cuộc sống  của người bệnh. Nói khác đi, người bệnh sống không phải chỉ là “sống sót”, tồn tại, mà phải là sống có ý nghĩa, có hạnh phúc ở một mức độ tốt nhất có thể được. WHO đề ra một bảng chỉ số gọi là WHOQOL-100 ( WHO Quality Of Life, với 100 đề mục để đánh giá) có thể triển khai thực hiện  trên nhiều nước khác nhau, nhiều nền văn hóa khác nhau, bao gồm 6 lãnh vực:

1.Sức khỏe thể chất;

2.Tâm lý;

3.Mức độ độc lập;

4.Các mối quan hệ xã hội;

5.Môi trường

6.Niềm tin, tôn giáo, vấn đề tâm linh.

Theo WHO, Chất lượng cuộc sống (CLCS) là cảm nhận của cá nhân về cuộc sống của họ trong bối cảnh văn hóa và các hệ thống giá trị mà họ đang sống và liên quan đến  các mục đích, nguyện vọng, tiêu chuẩn và các mối quan tâm của họ.

(“an individual’s perception of their position in life in the context of the culture and value systems in which they live and in relation to their goals, expectations, standards and concerns”).

Điều dễ thấy ở đây là cách đo đạc CLCS  đặt  trọng tâm lên cảm nhận cá nhân của từng người, cho thấy có cái nhìn khác xưa đối với bệnh tật và sức khỏe lâu nay chủ yếu dựa vào “cảm nhận” của thầy thuốc. Do vậy, đánh giá sức khoẻ hay bệnh tật của một con người sẽ không chỉ dựa trên kết quả các xét nghiệm máy móc mà còn trên những cảm nhận chủ quan, quan điểm riêng của từng cá nhân về sức khoẻ, bệnh tật của họ, về sự “sảng khoái” của họ trong cuộc sống thường ngày, trong bối cảnh văn hóa và môi trường thiên nhiên quen thuộc của họ. Ở đây cho thấy vai trò của mối quan hệ giữa thầy thuốc và bệnh nhân là rất quan trọng. Mối quan hệ thầy thuốc- bệnh nhân mà không tốt thì người bệnh khó có thể duy trì “chất lượng cuộc sống”! Thí dụ gặp một thầy thuốc hay “hù doạ” thì bệnh chỉ sẽ nặng thêm, bởi lo âu, sợ hãi càng dẫn tới stress và trầm cảm! Các bệnh thời đại hiện nay thường gặp  là S.A.D (Stress, Anxiety, Depression)… nhất là khi IT, AI, với Fake news, deep fakes… loan truyền tin giả, hù doạ, gạt gẫm. Do đó, câu “dalani” có ích nhất lúc này có lẽ là “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” trong Kinh Kim Cang! Đừng vội tin ai cả. Kiểm chứng đi, thử đi rồi biết!

Suy nghĩ từ góc độ đánh giá chất lượng cuộc sống của người bệnh như vậy sẽ làm thay đổi cái nhìn của người thầy thuốc về bệnh nhân trong quá trình điều trị.  Cả người bệnh khi hiểu rõ chất lượng cuộc sống là do mình quyết định cũng sẽ không chỉ biết lệ thuộc vào thầy, vào thuốc, vào xét nghiệm mà còn biết tăng cường sức khỏe, nâng cao sức khỏe của chính mình để có chất lượng cuộc sống tốt nhất có thể.

Cần để ý rằng, ở người cao tuổi, định nghĩa sức khoẻ có khác một chút: “Sức khỏe của người cao tuổi là:

 Phát triển và duy trì được sự sảng khoái và hoạt động chức năng tốt nhất về tâm thần (mental), rồi mới đến  xã hội (social) và thể chất (physical)”.

“Phát triển” và “duy trì” tốt nhất có thể thôi, chớ không thể được “như xưa” nữa! Bởi các hoạt động chức năng xài lâu quá đều rệu rả, “quá date”, do đó người già dễ cảm thấy chán nản, tuyệt vọng, lo âu… nói khác đi là khó mà… “sảng khoái” được. Thể chất thì “ba cao một thấp” (ba cao là cao máu (tăng Huyết Áp); cao đường (Tiểu đường); cao mỡ (Cholesterol xấu); còn một thấp là… Thấp khớp) đã đành mà tâm thần thì có đủ tám vạn bốn ngàn phiền não! Cho nên đưa vấn đề “tâm thần” lên hàng đầu là hoàn toàn hợp lý cho người cao tuổi so với định nghĩa về sức khỏe nói chung.

Các nghiên cứu cho thấy một tuổi “già có chất lượng” là phải:

— Biết chấp nhận “nó”. Thấy nó là chuyện tất yếu.

— Người nào có nhiều kinh nghiệm gần gũi với những người già… dễ thương thì sau này hy vọng cũng sẽ dễ thương, bởi họ biết chuẩn bị… tới phiên mình.

— Hiểu luật vô thường và Từ bi với chính mình.

— Có một niềm tin tôn giáo.

— Chấp nhận điều kiện sống hiện tại dù có kém xưa và kém xa với mong ước của mình,

— Có ký ức tốt đẹp về tuổi thơ và tuổi thanh niên với những thành tựu trong quá khứ,

— Được tự do sắp xếp cuộc sống riêng của mình, không bị áp đặt từ bên ngoài,

— Được xã hội và gia đình chấp nhận, tôn trọng.

— Vẫn tiếp tục tham gia các hoạt động hữu ích cho gia đình, xã hội theo sức mình.

— Vui vẻ với các cách giải trí của tuổi già, với bạn bè, con cháu,

— Hài lòng với cuộc sống lứa đôi,

— Sức khỏe tương đối tốt, không mắc bệnh mạn tính nặng,

— Tài chính ổn định, đủ để đáp ứng nhu cầu thiết yếu…

.

Và, biết sống “Ở đây và Bây giờ”:

Một nhà báo nằm chiêm bao thấy gặp Thượng Đế bèn mở máy ghi âm xin phép được phỏng vấn vài câu nếu Ngài có thì giờ.

–  Cứ tự nhiên. Thì giờ của ta vô lượng!

– Từ khi… tạo ra loài người, Ngài có điều gì băn khoăn thắc mắc về họ không?

– Nhiều lắm.

– Chẳng hạn?

– Loài người rất lạ. Lúc nhỏ thì mong cho mau lớn. Lớn rồi thì mong cho nhỏ lại…

Nhà báo giật mình, thấy hơi nhột. Thượng Đế tiếp:

– Lạ nữa, lúc trẻ khỏe thì họ mang hết sức lực ra đấu đá tranh giành để kiếm cho thật nhiều tiền… Rồi khi có tuổi, họ mang tiền đó ra… phục hồi sức khỏe!

Nhà báo rút khăn lau mồ hôi trán.

– Nhưng lạ nhứt là loài người không sống!

– Nghĩa là họ…

–  Không. Họ vẫn tồn tại nhưng không sống. Họ luôn nhớ tiếc dĩ vãng hoặc mơ ước tương lai. Mà dĩ vãng thì qua rồi, tương lai thì chưa tới. Họ luôn ở trong cái đã qua rồi hoặc cái chưa tới… nên nói họ không sống…

– Ý Ngài là phải biết sống trong hiện tại?

– Phải. Ở đây và Bây giờ!

(internet)

Nhà báo tỉnh giấc, toát mồ hôi, đưa tay vò mái tóc… lẩm bẩm: “Đời tôi ngốc dại/ Tự làm khô héo tôi đây/ Nửa đêm thức dậy/ Chập chờn lau trắng trong tay…” (Trịnh Công Sơn).

Phật dạy rồi đó thôi:

Không than việc đã qua,
Không mong việc sắp tới,
Sống ngay với hiện tại,
Do vậy, sắc thù diệu…

(phẩm “Cây Lau”)

 

Đỗ Hồng Ngọc

(20.11.2024)

 

…. o ….

A pocketbook for the elderly

A PATH TO PEACE & JOY

Do Hong Ngoc, MD

(translated by Nguyen Giac Phan Tan Hai)

 

Chapter 10

Here and Now

 

Since 1946, the World Health Organization (WHO) has defined health as a state of complete physical, mental, and social well-being, rather than merely the absence of disease or infirmity. This definition indicates that evaluating a person’s health cannot rely solely on the presence or absence of illness. The challenge lies in how to assess well-being across all three dimensions: physical, mental, and social. Evaluating well-being and satisfaction is intrinsically linked to assessing happiness. However, measuring happiness is complex, as it is subjective and can be easily distorted.

Therefore, half a century later, WHO introduced a “Quality of Life Assessment” in 1996, which further clarifies the aforementioned definition. Consequently, it is insufficient for a physician to focus solely on treating illness; they must also consider the patient’s quality of life. In other words, a patient’s existence should not merely revolve around survival; it should also encompass a meaningful and happy life at the highest possible level.

WHO has proposed an index known as WHOQOL-100 (WHO Quality of Life, consisting of 100 items for assessment) that can be implemented across various countries and cultures. This index encompasses the following six areas:

  1. Physical Health;
  2. Psychology;
  3. Independence;
  4. Social Relationships;
  5. Environment;
  6. Beliefs, Religion, and Spirituality.

According to WHO, Quality of Life (QOL) refers to an individual’s perception of their position in life in the context of the culture and value systems in which they live and in relation to their goals, expectations, standards and concerns.

What is clear here is that the QOL measurement emphasizes the personal feelings of each individual, presenting a perspective on illness and health that differs from traditional views, which have primarily relied on assessments made by medical professionals. Consequently, evaluating a person’s health or illness will not solely depend on the results of objective tests; it will also incorporate the subjective feelings and personal perceptions of each individual regarding their health, illness, and overall well-being in daily life in the context of their familiar culture and natural environment.

The relationship between doctor and patient is crucial for effective healthcare. A poor doctor-patient relationship can significantly hinder a patient’s quality of life. For instance, encountering a doctor who frequently uses threats can exacerbate a patient’s condition, as anxiety and fear contribute to increased stress and depression.

The prevalent diseases of modern times include stress, anxiety, and depression (S.A.D.), particularly in an era marked by an influx of misinformation, threats, and scams perpetrated by individuals who exploit artificial intelligence, fake news, and deepfakes. Consequently, a valuable mantra to embrace is the teaching from the Diamond Sutra: when the mind is unattached to anything, the mind of Nirvana will manifest. Be cautious about believing everything you hear. Verify the information, test it, and you will gain understanding.

Considering the patient’s quality of life can significantly alter a doctor’s perspective during the treatment process. When patients recognize that they have the power to influence their own quality of life, they become less reliant on their doctors, medications, and tests. Instead, they will be empowered to take proactive steps to enhance their health and achieve the best possible quality of life.

It is important to recognize that the definition of health in older adults differs somewhat from that of younger individuals. For older adults, health encompasses the development and maintenance of well-being and optimal functioning, with a primary focus on mental health, followed by social and physical well-being.

You can only develop and maintain your abilities to the best of your potential, but not to the same level as before. Functional activities that are used for an extended period can become worn out and outdated, leading to feelings of depression, hopelessness, and anxiety among the elderly. In other words, achieving a sense of well-being can be challenging. The physical health of older adults is marked by three high points and one low point. The three high points are high blood pressure (hypertension), high blood sugar (diabetes), and high cholesterol (bad fats), while the low point is arthritis. Additionally, mental health issues can be numerous, with estimates suggesting as many as eighty-four thousand potential concerns. Therefore, prioritizing mental health problems is entirely reasonable for the elderly, especially when considering the broader definition of health.

Research shows that to enjoy a high quality of life in old age, one should:

– Accept “it” and view it as inevitable.

– Prepare for aging gracefully and seek out meaningful experiences with wonderful older individuals (this way, you can aspire to grow old beautifully yourself).

– Understand the law of impermanence and practice self-compassion.

– Hold a religious belief.

– Accept your current living conditions, even if they are not as favorable as they once were and do not align with your desires.

– Have the positive memories of your childhood and youth, including your past achievements.

– Be free to arrange your life without external imposition.

– Find acceptance and respect from society and family.

– Continue to engage in activities that benefit your family and society, in accordance with your abilities.

– Embrace the joy of old age by cherishing the company of friends, children, and grandchildren.

– Be content with your married life.

– Maintain a relatively healthy lifestyle, free from serious chronic diseases.

– Have stable finances, enough to meet basic needs.

And one should know how to live in the “Here and Now.”

 

There is a story on the Internet about a journalist who dreamed of meeting God. He turned on his tape recorder and asked for permission to interview Him if He had the time.

– Feel free; my time is limitless!

– Have you had any questions or concerns about humans since you created them?

– There are many.

– Could you provide an example?

– Humans exhibit a peculiar paradox: in their youth, they eagerly desire to grow up, yet once they reach adulthood, they often long for the simplicity of childhood.

The journalist was startled, feeling a slight tickle, as he heard God continue speaking.

– Strangely enough, when they were young and healthy, they exerted all their strength to fight and compete in order to earn as much money as possible. Then, when they grew old, they used that money to restore their health.

The journalist took out a handkerchief to wipe the sweat from his forehead as he listened.

– The strangest thing is that humans do not truly live.

– That means they…

– No, they still exist but do not truly live. They are perpetually consumed by regret for the past or by dreams of the future. However, the past is gone, and the future has not yet arrived. They remain trapped in either the past or the future, which is why I assert that they do not live.

– Do you mean we need to learn how to live in the present?

– Yes, Here and Now!

The journalist woke up, sweating. He ran his hand through his hair and muttered, “My life is foolish. It has withered me. I woke up in the middle of the night, and a white reed branch flickered in my hand…” (Lyrics by Trịnh Công Sơn)

Buddha taught long ago:

Do not lament the past. 

Do not look forward to the future. 

Live in the present. 

Therefore, your face appears wonderful. 

(Chapter “The Reed”)

 

(by NG-PTH)

Thuộc chủ đề:Già ơi....chào bạn, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

Minh Lê (NT). Lá thư thứ ba: “Những người trẻ lạ lùng”

06/11/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc 2 Bình luận

 

Lá thư thứ ba: “Những người trẻ lạ lùng”

Minh Lê (Nha Trang)

 

Bạn thân mến,

Cuốn sách mình sắp giới thiệu với bạn là một cuốn đặc biệt trong bộ tùy bút của Bs Đỗ Hồng Ngọc. Vì sao lại đặc biệt? Vì nó rất… lãng mạn.

Trong bài hát “Một cõi đi về” của Trịnh Công Sơn, bạn còn nhớ câu: “con tinh yêu thương vô tình chợt gọi”? “Con tinh” ở đây hẳn là “con yêu tinh” – từ người thân hay bạn bè mắng yêu các cô gái nhỏ lém lỉnh, hay chọc ghẹo người ta. Ừ, cái “con tinh yêu thương” tinh quái và nghịch ngợm ấy, nếu hôm nào đó “vô tình chợt gọi” thì bạn sẽ thế nào?

Bạn sẽ thấy tim mình bỗng đập dồn dập như một thưở nào xa lắc, rồi tự nhiên mà rung động cùng “những lời tán tỉnh, những nỗi giận hờn, những niềm tiếc nhớ” (tr. 18) dù bạn đang ở tuổi nào đi nữa. Nhưng bạn yên tâm, bởi đó là lúc “lại thấy trong ta hiện bóng con người”, bởi “con người vẫn cần có con người”, con người cần yêu và được yêu. Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc sẽ cho ta thấy cái sự “yêu” này nó tạo nên những người trẻ lạ lùng ra sao…

Tình yêu cứ bàng bạc trong các bài viết đăng trong sách, nhất là khi tác giả viết về những người nổi tiếng ông có dịp tiếp xúc gần gũi như Giáo sư Trần Văn Khê, nhà văn Võ Hồng, hay ký giả – nhà văn – nhà thơ Nguiễn Ngu Í, người cậu thân yêu của ông.

Bạn biết không, mình đặc biệt thích câu chuyện về Giáo sư Trần Văn Khê với chuyện tình thơ mộng của ông. Một chuyện tình đẹp như vầng trăng, tuy là “trăng khuyết vành chờ đợi” nhưng không “hao gầy” giữa một giáo sư nhạc sĩ nổi tiếng và một thiếu phụ – học trò học nhạc với ông, kém ông nhiều tuổi. Mối tình nồng nàn và tha thiết ấy còn ở mãi trong tim Giáo sư, sưởi ấm những tháng ngày làm việc không mệt mỏi của ông.

Rồi chuyện tình của ông tổ ngành Y nước Việt: Hải Thượng Lãn Ông. Lúc đó Lãn Ông đã thành danh, là thầy thuốc được Vua tín nhiệm và người người kính trọng, nhưng vẫn choáng váng và bối rối khi gặp lại người xưa. Ông tự trách mình: “Vô tâm nên nỗi lụy người ta,  trông mặt nhau đây luống xót xa…” (tr. 128) Chuyện rồi kết thúc ra sao? Bạn đọc là biết ha.

Ngoài Hải Thượng Lãn Ông, những người còn lại tác giả đều có giao tình gần gũi nên có thể nhìn thấu tính cách và tâm hồn họ. Họ đều là người tài giỏi, được nhiều người ngưỡng mộ, nhưng ít người biết họ cũng yêu, cũng buồn đau, cũng tiếc nuối như bất cứ ai. Tâm hồn họ nhân hậu và tràn đầy yêu thương nên họ sống một đời trẻ trung đến lạ lùng!

Chưa hết, tác giả viết một bài hấp dẫn phân tích cách yêu của “tây” và “ta”. “Real Romantic!” kể chuyện phong trào “yêu kiểu mới” trong giới trẻ Âu Mỹ: “họ nhớ tiếc và muốn thực hiện cách sống yêu thương lãng mạn của cha ông ở một thời xa xưa.” (tr. 48) Tác giả so sánh một cách dí dỏm tài liệu “101 cách làm tình mà không làm… vậy” của Mỹ với cách của thơ ca Việt Nam, rồi bình luận: “nếu họ mà phát hiện thêm các kiểu… yêu của ta chắc họ sẽ có “một ngàn lẻ một cách làm tình” tuyệt diệu hơn nữa!”.

Cách gì vậy? “Đón trước cổng trường/ làm đuôi/ leo lên cây khắc tên tùm lum/ giấu thư tình dưới hộc bàn/ cắt đứt dây chuông (Lan và Điệp)/ “giết người trong mộng”/ hay lén… hôn lên áo phơi ngoài giậu/ còn siêu nữa là “xếp tàn y lại để dành hơi””… (tr. 50) Thiệt là lãng mạn và dễ thương hết sức! Yêu chỉ để… yêu thôi, dù tình đơn phương thì vẫn đẹp vô cùng, “tây” nào theo cho kịp!

Đi cùng “tình yêu” tất nhiên phải có những dòng văn chương lãng mạn thật đẹp tả tình, tả cảnh tinh tế và tình tứ.

Bài “Nhớ tiếng thu giữa Boston” ĐHN viết: “Họ không gọi Autumn – mùa Thu, mà gọi Fall – mùa Rụng, bởi vì chỉ có lúc lá rụng bời bời như vậy người ta mới thấy hết được nỗi vui mừng, nỗi xót đau, nỗi buốt nhớ… không rõ vì đâu.” (tr. 30) Trong không gian thu đầy lá rơi và những cành cây khô giữa trời thu bâng khuâng, tác giả thả bước dưới vòm cây, “nghe tiếng mùa yêu và fall in love. Với ai, vì sao nên nỗi? Có phải cái tiếng thổn thức, cái tiếng rạo rực của ai kia đã một hôm thu làm cho chàng thi sĩ trẻ tuổi (LTL) trở thành một con nai, lang thang dẫm ngập lá vàng, hẫng bước đi mà chẳng biết về đâu…” (tr. 31)

Hay bài “Trang của một thời”: “Thời trang không dừng lại ở nếp lụa là, nhung gấm – thời trang… và hơn thế nữa – là cái khỏe khoắn, cái hồn hậu nhu mì, cái đằm thắm dịu dàng, cái chín chắn tinh hoa của trí tuệ ở đằng sau kia, ở bên trong kia.” (tr. 58). “Chính ở cái tuổi chông chênh đó của người phụ nữ, cái tuổi có những cột mốc thì thầm, tuổi chuyển mùa như lá trên cành, từ cái bồng bột sôi nổi sang cái nền nã, dịu dàng, giản dị mà sang trọng, người ta đã nhìn ngắm vào bên trong bản thân mình hơn là nhìn người qua phố, và như vậy người ta đã góp phần làm cho cuộc sống thăng hoa.” (tr. 57)

“Những người trẻ lạ lùng” kết thúc bằng bài thơ “Xin cám ơn, cám ơn” tác giả viết khi tỉnh lại sau cuộc mổ cấp cứu vì cơn tai biến mạch máu não tưởng sẽ… đi luôn vào cuối năm 1997. Nghe tiếng chim hót, nhìn ánh nắng ban mai, ông bừng tỉnh nhận ra giây phút hiện tại quý giá đến nhường nào và cảm thấy tình yêu đích thực:

“Tình yêu

Đã giúp ta tìm lại chính mình

Đã giúp ta vượt thoát!”  (tr. 139)

Đọc sách xong, mình cũng muốn lặng lẽ gởi một lời cám ơn đến tác giả. Cám ơn tác giả đã chỉ cho mình thấy tình yêu quan trọng như thế nào trong cuộc đời một người, có thể giúp tâm hồn mình trẻ trung mãi ra sao. Tình yêu càng rộng lớn thì người ta lại càng trẻ…

Đúng là “yêu để trẻ” và “trẻ để yêu”!

(Minh Lê)

* Các trích dẫn từ sách Những người trẻ lạ lùng, Đỗ Hồng Ngọc, Nhà XB TP HCM 2001.

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Minh Lê: Lá thư thứ hai: “Già ơi… chào bạn!”

27/10/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc 4 Bình luận

 

Lá thư thứ hai: “Già ơi… chào bạn!”

Minh Lê (Nha Trang)

 

 

Bạn thân mến,

Có khi nào bạn tự hỏi, khi nào thì mình… già? Bạn muốn nghe câu trả lời là một lời nói thẳng hay một lời… an ủi?

Lời an ủi là câu trích dẫn nguyên tác tiếng Anh do Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc dịch: “Tuổi tác là chuyện của cái tâm, nếu ta không thèm quan tâm, chả có vấn đề tuổi tác!” (tr. 13) Vậy nhưng Liên Hợp Quốc thì thẳng thừng: “Từ năm 1980, Liên Hợp Quốc coi tuổi 60 trở lên là tuổi già trong một quần thể dân số.” (tr. 23)

Thôi thì ta nghe lời nói thật không mất lòng của Bác sĩ vậy: “Có trẻ thì có già, đó là một nhịp điệu của vũ trụ, đâu cần phải khổ đau vì già, trái lại, phải làm sao để có một tuổi già hạnh phúc.” (tr. 15)

Tuổi trẻ có hạnh phúc đã khó, làm sao có tuổi già hạnh phúc đây? Ông Bác sĩ cho bí quyết: “Chấp nhận mình là mình và thương mình nữa.” (tr. 35) Điều đó có nghĩa ta nên nhận ra những vấn đề của tuổi già về tinh thần và thể chất, chấp nhận và thích nghi để có cảm giác sảng khoái, hài lòng với bản thân.

Chương “Đời sống gia đình” nói chuyện cháu chắt và vợ chồng già. Bác sĩ khuyến khích cuộc sống gia đình nhiều thế hệ, với hai điều kiện. Một là cha mẹ tránh lệ thuộc về tài chính vào con cái, hai là cha mẹ và con cái cần điều chỉnh quan niệm và nếp sống của mỗi bên một chút sao cho “cha mẹ già có thể thành bạn của con, hiểu biết nhu cầu của nhau và giúp đỡ nhau.” (tr. 45)

Chương này có một đoạn vừa nên thơ vừa hóm hỉnh viết về tình cảm của những cặp vợ chồng cùng già đi với nhau: “Người ta có thể cùng nhìn cùng nghe cùng hiểu và có cùng cảm xúc như nhau với bao nhiêu kỷ niệm càng ướp càng nồng… Và còn một điều thú vị, như Andre Maurois nói, tình già yên tâm hơn, không sợ người yêu mình bị cuỗm mất, nghĩa là tình nồng nhưng nhẹ nhàng, êm mướt, không chua như giấm, người ta bớt ghen rồi, người ta có thể tin chắc là của nhau rồi.” (tr. 49) Thiệt vậy sao Bác sĩ?

Chương “Cám ơn mình” là một chương lý thú. “Chưa bao giờ ta được dạy nói cám ơn ta vì nhiều khi ta coi chuyện cám ơn mình là một điều gì đó lố bịch, kỳ cục và không cần thiết.” (tr. 55) Sau đó Bác sĩ lần lượt chỉ cho ta thấy các bộ phận trong cơ thể ta đã làm việc bền bỉ như thế nào, từ bộ xương, bộ máy tuần hoàn gồm tim và mạch máu, buồng phổi, đến bao tử và hệ tiêu hóa, răng, mắt, tai. Biết thương mình thì ta phải chăm sóc cho chúng tốt hơn, đừng hành hạ chính ta nữa!

Chương “Những bệnh vô duyên” bàn về “những bệnh không đáng có mà có mới dễ giận”. Đó là bệnh do người già tự gây ra như “tự ý gia giảm thuốc, tin lời bày vẽ, ai mách gì cũng nghe, gây tương tác thuốc lung tung” (tr. 97) Người cao tuổi thường muốn làm xét nghiệm để tìm bệnh, nhưng Bác sĩ khuyên “cần thiết lắm mới làm xét nghiệm và phải có chỉ định của bác sĩ” (tr. 100) Và không nên nghe “những lời nói gây hoang mang, lo lắng, làm mất ăn mất ngủ, gây kiêng cữ quá đáng làm cho tình trạng bệnh khó phục hồi hơn.” (tr. 100)

Lời khuyên về thể chất cho tuổi già là “dinh dưỡng đúng cách” và “thường xuyên rèn luyện”. Bác sĩ trích đoạn thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, người sống đến 95 tuổi, và giải thích: “Măng trúc nhiều xơ, giá nhiều vitamin, mùa nào thức đó. Bơi lội, rèn luyện thể lực cũng theo mùa. Rượu chỉ “sẻ nhắp” chứ không tu, không nốc… Còn “Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao” thì cái này Tổ chức sức khỏe thế giới chịu, không thể hiểu nổi nên không thể khuyên ta vậy!” (tr. 104)

Bác sĩ kết luận: “những người hạnh phúc là những người biết khám phá những niềm vui nho nhỏ, nó ở ngay trong ta, quanh ta thôi, miễn là ta biết sống ngạc nhiên, tỉnh thức, khám phá như trẻ thơ.” (tr. 113) và “Thích nghi có lẽ là một năng lực quan trọng nhất để có thể sống hạnh phúc ở tuổi già.” (tr. 115) Vì vậy sách mới có tựa “Già ơi… chào bạn!” nghe thân thiết và gần gũi, khác với “Buồn ơi… chào mi!” nghe như giận hờn, ghét bỏ! (Tên bản dịch Việt cuốn Bonjour Tristesse của Françoise Sagan).

Trong khi đọc, bạn đừng quên để ý tới các hình vẽ minh họa trong sách. Những bức vẽ xem chừng giản dị và “quái quái” đó có thể khiến bạn bật cười, hay cười tủm tỉm vì thấy sao mà ngộ quá. Đích thân ông Bác sĩ kiêm họa sĩ tự vẽ, và chỉ dùng ngón tay chấm mực Tàu để vẽ. Vậy mà những nét đậm, nét nhạt, mảng sáng mảng tối vẫn hòa hợp tạo nên hình người cử động hoàn chỉnh, sinh động pha chút hài hước. Khi sách in ở Nhật, nhà xuất bản Soshisha (Tokyo) định cho vẽ lại nhưng cuối cùng đành thôi vì không vẽ ra được cái “thần” của tranh gốc.

 

Lời chúc của mình đến bạn sau khi đọc xong sách là bạn sẽ có “một sức khỏe tương đối tốt, kinh tế không quá thiếu thốn, duy trì được mối quan hệ tình cảm, có bạn tâm giao để chia sẻ, duy trì hoạt động xã hội phù hợp để thấy mình luôn còn có ích và quan trọng hơn nữa là giữ một ngọn lửa nhiệt tình, một niềm an lạc, thanh thản trong tâm hồn.” (tr. 119) Lúc đó mình chắc chắn bạn sẽ có một tuổi già hạnh phúc!

Thân mến,

(Minh Lê)

* Các trích dẫn từ sách Già ơi… chào bạn!, Đỗ Hồng Ngọc, Nhà XB Trẻ 1999.

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Gươm báu trao tay, Vài đoạn hồi ký

  • « Chuyển đến Trang trước
  • Trang 1
  • Trang 2
  • Trang 3
  • Trang 4
  • Interim pages omitted …
  • Trang 55
  • Chuyển đến Trang sau »

Thư đi Tin lại

  • Lịch “Trò chuyện, giao lưu…”
  • Lại đính chính: “SAIGON BÂY GIỜ”
  • ĐÍNH CHÍNH: BSNGOC không phải là BS ĐỖ HỒNG NGỌC
  • Đính chính: BS NGỌC không phải là Bs Đỗ Hồng Ngọc
  • bsngoc đã lên tiếng đính chính
  • Thư cảm ơn và Đính chính về FACEBOOK Bác sĩ NGỌC
  • ĐÍNH CHÍNH: Bài viết "TÀN NHẪN" không phải của Bs Đỗ Hồng Ngọc

PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG

Minh Lê (NT): Hỏi chuyện Học Phật với Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Bản dịch tiếng Đức “Một Ngày Kia… Đến Bờ”

CON ĐƯỜNG AN LẠC Bài 6: Học cách Phật dạy con

Minh Lê: Đọc và Cảm “Một ngày kia… đến bờ”

Thăm Sư Giới Đức Triều Tâm Ảnh

Nguyên Cẩn: Đọc “Một ngày kia… đến bờ “của Đỗ Hồng Ngọc

“MỘT NGÀY KIA… ĐẾN BỜ” Tuỳ bút Đỗ Hồng Ngọc

Từ góc nhìn “Phê bình sinh thái” về bài thơ “Rùng mình” của Đỗ Hồng Ngọc

MỘT NGÀY KIA…ĐẾN BỜ V2

MỘT NGÀY KIA…ĐẾN BỜ

Xem thêm >>

Chuyên mục

  • Một chút tôi
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy

Bài viết mới nhất!

  • Vanvn: Bác sĩ – nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc bị nhầm lẫn và gán ghép trên không gian mạng
  • 10 Năm: GS Nhạc sĩ TRẦN VĂN KHÊ
  • Minh Lê (NT): Hỏi chuyện Học Phật với Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc
  • Thư gởi bạn xa xôi (5.2025)
  • Thư gởi bạn xa xôi

Bài viết theo tháng

Ý kiến bạn đọc!

  • Minh Trí trong Minh Lê (NT): Hỏi chuyện Học Phật với Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc
  • Trân Lê Bá Bát trong Bông Hồng Cho Mẹ
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Thư gởi bạn xa xôi
  • TT trong Thư gởi bạn xa xôi
  • Minh Trí trong Thư gởi bạn xa xôi
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Thư gởi bạn xa xôi
  • TTM Gốc Mai trong Minh Lê (NT) và Đỗ Hồng Ngọc: Một Chút Tôi  & “Chuyện Hồi Đó”
  • Ngân Hà trong Minh Lê (NT) và Đỗ Hồng Ngọc: Một Chút Tôi  & “Chuyện Hồi Đó”
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Minh Lê (NT) và Đỗ Hồng Ngọc: Một Chút Tôi  & “Chuyện Hồi Đó”
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Minh Lê (NT) và Đỗ Hồng Ngọc: Một Chút Tôi  & “Chuyện Hồi Đó”

Cùng một tác giả

  • 0
  • 1
  • 1
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6

Thống kê

Nhà tài trợ

biệt thự vũng tàu
biệt thự vũng tàu cho thuê | biệt thự vũng tàu cho thuê theo ngày giá rẻ | cho thuê biệt thự vũng tàu có hồ bơi
© 2009 - 2016 Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Phát triển & Hỗ trợ kỹ thuật bởi SGC.
Trích dịch nội dung để dùng trong nghiên cứu, học tập hay dùng cho cá nhân đều được tự do nhưng cần phải chú thích rõ nguồn tài liệu và đối với các trích dịch với mục đích khác, cần phải liên lạc với tác giả.
  • Một chút tôi
    ?
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    ?
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    ?
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    ?
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    ?
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy
  • Nhận bài mới qua email