Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Tập hợp các bài viết của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Ghi chép lang thang
  • Nhận bài mới qua email

Thư gởi bạn xa xôi (4.12.2021): Nhóm Học Phật, chùa Xá Lợi

04/12/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Thư gởi bạn xa xôi,

(4.12.2021)

10 Năm, NHÓM HỌC PHẬT,

Chùa Phật học Xá Lợi Tp.HCM (Saigon).

Ngày này, 10 năm trước, nhóm bạn mình thường gặp nhau ở Chùa Xá Lợi Tp.HCM (Saigon) đã quyết định hình thành Nhóm Học Phật (NHP) để cùng chia sẻ, trao đổi, học Phật với nhau. Nhóm được Thầy Đồng Bổn hết sức ủng hộ và thậm chí nhường phòng của Thầy cho NHP sinh hoạt. Mỗi tuần chúng tôi gặp nhau vào buổi sáng Thứ tư, cùng trao đổi, tranh luận… sôi nổi những vấn đề Phật học, liên quan đến đời sống, đến tâm linh, đến những kinh nghiệm, phương cách tu tập. Nhóm chỉ có 10 thành viên, không mở rộng, có tính “chuyên sâu” một chút vì trong nhóm có người Hán học, người Pali, người triết, người y, người Nguyên thủy, người Đại thừa…

Thỉnh thoảng tổ chức những buổi dã ngoại, đi thăm nơi này nơi khác, để học hỏi thêm. Từ Huế đến Đà Nẵng, Hội An, Quảng Trị, Đồng Nai, Phan Thiết, Đà Lạt, Gò Công, Sa đéc, Đồng Tháp, Vũng Tàu, Bà Rịa…

Dự định nhân kỷ niệm 10 năm, ngày 4.12 này sẽ Họp mặt các thành viên NHP cho vui, cũng để rút kinh nghiệm nhưng tình hình dịch bệnh chưa cho phép…

Do vậy, mình gởi bạn bức thư viết cho Thầy Đồng Bổn, Trụ trì chùa Xá Lơi và chọn vài hình ảnh coi vui thôi nhe.

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc.

……………………………………………………

 

Nhóm Học Phật chùa Xá Lợi

Kính gởi Thầy Đồng Bổn, Trụ trì Chùa Xá Lợi Tp HCM,

Ngày 4.12.2021 là Ngày kỷ niệm 10 năm Nhóm Học Phật Chùa Xá Lợi sinh hoạt tại chùa trong suốt 10 năm qua, mỗi tuần một buổi vào sáng Thứ tư.

Giai đoạn đầu, Thầy đã nhường Phòng của Thầy cho Nhóm sinh hoạt,  và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho nhóm học tập. Tôi với tư cách Trưởng nhóm xin chân cảm ơn Thầy về nghĩa cử đó. Sau chúng tôi được chuyển về phòng sách của Thư viện chùa Xá Lợi một thời gian khá lâu, rồi về hẳn phòng Họp sinh hoạt học tập cho đến nay.

Nói chung, việc học rất nghiêm túc, thảo luận, tranh biện tự do, sôi nổi; học căn bản từ đầu với Tứ Diệu Đế, Tứ thập nhị chương, Bát đại nhân giác, Lý hoặc Luận (của Mâu Tử), rồi đến kinh Lăng Nghiêm, kinh Viên Giác, kinh Lăng Già…

Thành viên 10 người (không mở rộng) gồm Đỗ Hồng Ngọc, Trần Đình Sơn, Minh Ngọc, Trần Đức Hạ, Trần Phi Hùng, Tô Văn Thiện,Thanh Nguyên, Diệu Châu, Diệu Viên, Ngô Tiến Nhân… về sau thêm Huỳnh Đăng Khoa. Ngoài những buổi học tại Lớp, thỉnh thoảng tổ chức dã ngoại, thăm viếng các chùa chiền, giao lưu v.v… mở rộng thực tế.

Vài năm đầu, có tổ chức Kỷ niệm, và Thầy Đồng Bổn cũng đã đến tham dự vài lần, động viên mọi người, nhưng những năm sau này do bề bộn nhiều việc rồi dịch bệnh nên không tổ chức họp mặt kỷ niệm được.

Nay nhân kỷ niệm Ngày 10 năm Nhóm Học Phật hoạt động tại Chùa Xá Lợi, tôi viết Thư này thay mặt Anh Chị Em kính cảm ơn Sư Ông Hiển Tu, Thầy Đồng Bổn trụ trì, cùng toàn thể quý Thầy và nhân viên của chùa đã hỗ trợ Nhóm Học Phật trong suốt thời gian qua.

Trân trọng,

Đỗ Hồng Ngọc,

 

—

Hòa Thượng Thích Đồng Bổn: 

Nhân ngày kỷ niệm đệ thập chu niên của Nhóm học Phật,

Chào Bác Ngọc,

Tôi thay lời HT viện chủ và chư tăng, kính chúc Bác và Nhóm học Phật luôn an lành trong sự chở che của Tam bảo Xá Lợi.

Chúc Bác Ngọc luôn dồi dào sức khỏe để dẫn dắt anh em cùng học Phật.

Kính,

Thích Đồng Bổn

…………………………………………………………..

 

 

 

 

 

 

 

—

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Gươm báu trao tay, Uncategorized, Vài đoạn hồi ký

“Đêm thơm như một dòng sữa…”

25/11/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

 

“Đêm thơm như một dòng sữa…”

(ĐÊM, thi tập Khánh Minh, tháng 11, 2021)

 

Đỗ Hồng Ngọc

Bỗng dưng nhớ Đêm thơm như một dòng sữa của Phạm Duy (Dạ lai hương) khi nhận được Thi tập ĐÊM của Nguyễn Thị Khánh Minh.

Hiu hiu hương tự ngàn xa
Bỗng quay về dạt dào trên hè ngoài trời khuya…

 

Đêm đâu là chốn quê nhà

Trăng ngõ nhà ta xưa

Gần hơn trăng nơi này

Mộng hơn trăng nơi này

Nên trăng vàng khắp ngõ

Hỏi trăng gần, trăng xa

Đâu là chốn quê nhà…

 

Tìm trong đêm, mây trắng

 Hỏi xem nhà ta đâu

Đêm cúi nhìn im lặng 

 

Đêm guốc mùa đi tất tả

Năm tháng năm buồn thủ thỉ

Hằn vai quang gánh nỗi niềm

Tiếng guốc vẹt mòn kiệt phố

Lắng vào đêm tiếng chân quen

Năm tháng năm buồn lựng chín

Lời ru hồn phố chắt chiu

Tiếng guốc mùa đi tất tả

Hội An thức ngủ về theo

… lục tàu xá… lục tàu xá…

 

Bỗng nhớ “Hội An đêm” của Đỗ Nghê:

Hội An đêm

Bập bềnh cơn sóng dợn

Nghìn lồng mắt chao nghiêng

Những linh hồn thức dậy

Thở cùng Hội An đêm 

(ĐN)

 

Đêm hai nửa điệu cong

Trăng trên kia

Một đường cong sáng

Nếu xóa đi không gian

Sẽ có được một vòng tròn đâu lại

Tôi và trăng

Hai nửa điệu cong

Mềm mại.

 

Thân đêm nồng nắng ủ

Mật ngọt. Lừ chiêm bao

Một giây bừng vĩnh cửu

Thầm thì, tan trong nhau…

Gợn lên từ hơi ấm

Tận cùng. Dâng hiến đất

Cúi xuống. Bao la trời

Trao nhau. Đêm diệu mật..

 

Chàng mở mắt

Và trái đất có bình minh

Nàng hỏi bằng ánh mắt thơ ngây nhất

Và đêm có đêm rằm 

Trong phút giây hạnh phúc 

Nàng nhắm mắt

Và. Đêm. Trăng mật

 

Đêm tiếng bước thời gian

Đêm qua anh cùng em

Dặm đường nghe gió biếc

Đêm nay em nhìn lên

Thấy một vầng trăng khuyết

 

Nhớ chuyện kể hình như của Tagore: người chồng có chuyến buôn xa, từ biệt vợ, nàng âu yếm đôi lần bảy lượt dặn đừng quên lúc về mua cho nàng một tấm gương tròn sáng như vầng trăng vành vạnh kia. Ngày về, chàng nhìn lên trăng, thấy một vầng trăng lưỡi liềm cong vút, vội vã mua một chiếc lược ngà…

Lại nhớ Trịnh: “Em đi qua chuyến đò, ối a con trăng còn trẻ/ Con sông đâu có ngờ, ngày kia trăng sẽ già” (Biết đâu nguồn cội).

Một nhà thơ nữ lẽ nào “đâu có ngờ” như con sông kia nhỉ?

 

Đêm rộn lòng dâu bể

Không rộn lòng dâu bể

Tỉnh thủy vô ba đào

Nếu mà không hạt lệ

Thử tâm chung bất dao…*

Nếu mà không trăng sáng

Làm sao nối xưa sau…

Cho nên Đêm Nguyễn Thị Khánh Minh đầy “rộn lòng dâu bể”, đầy hạt lệ yêu thương, cha mẹ, vợ chồng, bè bạn… quê hương xứ sở, dịch bệnh, phân ly, kỳ thị, ngăn cách, xót xa, giấc mơ em nhỏ châu Phi, giấc mơ em nhỏ Việt…

Ở Khánh Minh, thơ không chỉ là thơ mà còn là tiếng nói, còn là hạt lệ… còn là vòng tay, còn là hơi ấm từ trái tim biết đau xót nỗi đau chung:

Người đem theo nụ cười

Đi vào những biên giới

Những biên giới đôi co

Những biên giới gào thét

Bỗng nhận ra mình

Những phân chia hổ thẹn

 

Để rồi:

Nhìn trời. Thấy cái đồng không

Hét to. Lại thấy nỗi mông quạnh ngày

Sao tự nhiên đứng ở đây?

Một nơi rất lạ, cõi không nụ cười

Ngây ngô họ xúm gần tôi

Chỉ trỏ vào nụ tôi cười, ngạc nhiên

Quệt vào tôi những ánh nhìn

Hỏi tôi hạt nước mắt tìm ở đâu

Thưa, tôi nhặt ở tim đau..

 

Rồi quay về chính mình:

Soi gương thảng thốt mặt mày

Mở hai con mắt không đầy được tôi

Thốt lên ngọng nghịu những lời

Bóng trong gương hỏi, tiếng người đó chăng?

 

Đêm trái tim diệu mật

Nghe gió thỉnh hồi chuông

Từ trái tim diệu mật

Chắt chiu tâm Phật

Chuông giờ lành

Trái đất đầu thai

 

Trong thơ Khánh Minh, ngọn cỏ với Ta là một, cùng uống ánh mặt trời, cùng tỏa ngát hương thơm, cùng rúng động vì tiếng chuông chùa trên núi xa kia để hòa vào  vũ trụ mênh mông không còn phân biệt bởi căn-trần-thức nữa!

 

Cỏ nhé. Ta nằm xuống

Cỏ nhé. Ta cùng uống

Vô lượng ánh mặt trời

 

Cỏ nhé. Ta đầy hương

Của nồng nàn thơm giấc

Đưa nhau đến ngọn nguồn…

 

Không thể không nhớ lữ khách nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San làm xao động giấc mơ…

Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.

[Thuyền ai đậu bến Cô Tô

Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San]

(Phong Kiều Dạ bạc, Trương Kế)

 

***

Đêm thơm không phải từ hoa

Lung linh trăng lại về nữa

Cánh gió đưa hương ngả đầu mây phất phơ…

Đêm thơm không phải từ hoa

Mà bởi vì ta thiết tha tình yêu Thái Hoà…

(Dạ lai hương, Phạm Duy)

 

Phải, “mà bởi vì ta thiết tha tình yêu Thái Hoà…” đó vậy./.

ĐHN,

Saigon 24.11.2021)

……………………………………………….

(*) Ý đạo, Nguyễn Du

 

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Đọc sách

Tập Thơ ĐÊM. 2021 NGUYEN THI KHANH MINH

10/11/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc 2 Comments

 

 

ĐÊM tập thơ NGUYỄN THỊ KHÁNH MINH VĂN HỌC PRESS xuất bản, 2021 Tựa: Tô Thẩm Huy; Tranh bìa: Phạm Cung

 

Nguyễn Xuân Thiệp

… Đến với Đêm để được thiền sư Muju tặng cho vầng trăng. Đêm cũng là thời khắc để Khánh Minh gần với Nguyễn Du, Tagore và Gibran. Với Nguyễn Du thì có ‘Minh nguyệt chiếu cổ tỉnh, Tỉnh thủy vô ba đào’. Trăng sáng lòng giếng xưa / Nước giếng không xao động. Ôi, thật là tĩnh lặng như lòng ai tới với thơ trong đêm trăng chiếu.

(…)

Đêm đưa Khánh Minh về gặp vầng trăng xưa để thấy: Trăng ngõ nhà ta xưa / Gần hơn trăng nơi này / Mộng hơn trăng nơi này /… Nên trăng vàng khắp ngõ / Xe về ấm lối quen / Ai chờ bên thềm gió… Hình ảnh cuối cùng trong mấy câu thơ trích dẫn trên là cô bé Khánh Minh chờ cha về trước thềm nhà xưa.

Trang thơ của Khánh Minh đầy thi ảnh và cảm xúc, vừa siêu thực vừa hiện thực, khiến nước mắt rơi… Đúng vậy. Đọc ĐÊM của Nguyễn Thị Khánh Minh ta gặp những ánh mắt nhìn trong sáng đầy ý thơ, với những cảm xúc nhân bản. Ở đó, nắng và hương cỏ và đêm tan vào mộng mị chiêm bao, tạo thành một thực tại huyền ảo. Đọc Đêm của Nguyễn Thị Khánh Minh để cảm nhận ngôn ngữ thơ tinh tuyền của tác giả và những hình ảnh sáng tạo như dưới cái nhìn của tuổi thơ. Ôi, xin cất giữ làm của cải cho đời sau.

 

Tô Thẩm Huy

(…) Và hỡi những họa sĩ thân yêu trên trần gian này, tôi xin được làm cậu Hoàng Tử Bé của St Exupery, yêu cầu quý vị vui lòng vẽ hộ tôi – không phải con cừu đang gặm cỏ trên tinh cầu xa xôi – mà làm ơn vẽ hộ tôi bức tranh của bóng khuya – không phải là bóng khuya lúc đang ngồi tỉ tê cạnh bóng đêm, mà là lúc đang lững thững đi dạo dưới trăng – để tôi có dịp được ngắm bức tranh vẽ lúc “bóng về” của họa sĩ Khánh Minh:

Ai vẽ được bóng khuya đi

Cho tôi đọ với bóng về. Của tôi

Lời của thơ trong “Đêm” là tiếng nói của con người nguyên sơ mà chúng ta đã lâu ít còn được nghe thấy ai nói, đến gần như đã quên mất. Xin mời nghe lại mấy lời:

Gió vườn nhà êm ả

Ai nói gì qua lá

Mà khuya đầy trăng thơm

 

Đêm ngó trời. Cao quá

Hỏi trăng gần, trăng xa

Đâu là chốn quê nhà…

 

Tô Đăng Khoa

Sự hội ngộ “Mặt mừng tay bắt gọi tên” giữa “ta-và-ta” không phải xảy ra giữa thanh thiên bạch nhật mà xảy ra trong bối cảnh của “Ánh đêm sắc lẻm” của sự nội quán: Trong đó lằn ranh giữa “Nhớ” và “Quên” quyết định sự “chia lìa” hay “không chia lìa”! Hay là nói cách khác: Chính “Nhớ” và “Quên” quyết định cái gì “Có” cái gì “Không”, cái gì “Hữu” cái gì “Vô”.

Đối với riêng tôi, bốn câu thơ cuối của bài “Phía Bên Kia” là bốn câu thơ xuất thần của sự “phản quan tự kỷ”, và có giá trị rất lớn trên cả hai lĩnh vực Thi Ca và Tư Tưởng. Hơn thế nữa, nó còn có thể được chiêm nghiệm thậm sâu để ứng dụng vào đời sống hàng ngày.

Thi Tập Đêm là cuộc hành trình tiếp nối của Ánh Sáng và của Bóng sau bao nhiêu phản xạ, khúc xạ khắp chốn nhân gian nay trở Về Quê của Màn Đêm Tịch Tịnh. Rồi thì sao?

Thì rồi mai nọ mốt kia

Đem hình vá bóng sợ gì một-hai.

 

Phan Tấn Hải

Có những buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều và buổi tối. Khi tôi ngồi tịch lặng ngoài hiên. Đôi khi có chút gió, có khi trăng rất mờ vào đêm, hay sương còn lạnh vào ban mai. Có khi buổi trưa trong xóm vắng không người, thoang thoảng tiếng xe chạy ngoài phố xa vọng tới. Có khi chiều nắng rất nhạt, như tới từ một ký ức thời thơ dại. Tôi lặng lẽ ngồi,hông nghĩ ngợi gì, chỉ cảm nhận những làn gió nhẹ thoảng qua. Không một ý nghĩ nào khởi lên trong tâm, không một chữ nào hiện ra trong tâm. Cả thế giới chung quanh chỉ là những cái được thấy, được nghe, được cảm thọ, và không có một cái gì khác khuấy động. Tỉnh thức, cảm nhận trên thân tâm một nỗi tịch lặng không lời. Nơi đó, vắng bặt tất cả những gì có thể so đo thành chữ. Những khi như thế, tôi không muốn cử động mạnh, chỉ vì sợ làm tan vỡ những vạt nắng ban chiều, hay là sẽ làm rơi mất ánh trăng.

Có đôi khi, tôi nghe nhạc. Thường là nghe các bản hòa âm ngắn, không lời của piano, ngắn thôi, cỡ vài phút. Không hơn 4 hay 5 phút. Tôi không muốn nghe ca khúc nào dài. Cuộc đời mình có dài đâu. Thêm nữa, vì cần chiêm nghiệm về những âm vang tập khởi, và rồi những âm vang biến diệt. Sinh và diệt. Hạnh phúc và đau đớn. Nghe nhạc, có những ca khúc như thế, cho mình ý thức thêm về những hư vỡ của cõi này. Chỉ lặng lẽ ngồi nghe. Có khi không dám cử động mạnh, chỉ lắng nghe thôi, lặng lẽ, để từng âm vang ngấm vào thân tâm. Tôi cũng từng kinh ngạc, tại sao khi người ta nghe nhạc hay lại vỗ tay lớn tiếng. Lẽ ra, sau mỗi ca khúc hay mỗi bản trình tấu hay, người nghe chỉ nên ngồi lặng lẽ thêm vài phút. Vì bất kỳ những cử động nào lúc đó sẽ có thể làm rơi các nốt nhạc còn bay lơ lửng quanh mình.

Khi đọc thơ Nguyễn Thị Khánh Minh, tôi cũng cảm nhận cũng thế.

(…)

 

trần thị nguyệt mai 

Trăng thơm

Gửi chị Khánh Minh

                                     Ai nói gì qua lá

                                     Mà khuya đầy trăng thơm

                                     (trăng gần trăng xa – thơ nt khánh minh)

 

Lá thở từ muôn kiếp

Đếm sao trời ngàn năm

Cho đêm hoài thơm trăng

 

Trăng thơm trong giấc ngủ

Cứ như gần như xa

Em bềnh bồng mộng ảo

 

Đẹp tuyệt vời là đêm

Trăng óng ả ướp mật

Như câu chuyện thần tiên

 

Và ước mơ bình yên

Người thương người vô biên

Thôi chiến tranh, muộn phiền

 

Đêm thơm cùng với trăng

Nguyện cầu cho thế giới

Vằng vặc một tâm rằm…

 

29.8.2021

 

 

 

 

Filed Under: Ghi chép lang thang, Góc nhìn - nhận định, Đọc sách

“Chợ Đại Đồng” LA GI

04/11/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

“Chợ Đại Đồng” LA GI

Bich Chi Lam

(Cảm nhận khi nghe tin “chợ Đại Đồng” không được phép hoạt động lại)

“Chợ Đại Đồng” bên hông nhà Hồng Yến, La Gi.

Tôi lớn lên ở “Chợ Đại Đồng”, một chợ nhỏ xuất phát từ nhu cầu trao đổi hàng hóa của bà con, tồn tại song song trong khu dân cư thị trấn LaGi gần nửa thế kỉ.

“Đại Đồng” là hiệu của nhà thuốc bắc ngay đầu dãy phố nên người dân thương mến gọi chợ nhỏ là “Chợ Đại Đồng”, cái chợ mà sáng, trưa, chiều, tối gì cũng đầy đồ ăn ngon và hấp dẫn làm lấp lánh cả tuổi thơ tôi mỗi khi nghĩ đến.

Cũng như tên gọi “Đại Đồng”, người dân ở chợ gần gũi và chân tình lắm, đến nỗi mỗi lần tôi “xuất hiện”; đi từ đầu chợ đến cuối chợ đều nghe tiếng mời chào thân thương “Út ơi, mới về hả? Vào ăn nè em”.

Ra là mặt mình cũ như cái chợ đến nỗi đi bao nhiêu năm về mấy chị, mấy dì, mấy cô đều nhớ. Ta nói cái tình nó ấm áp chân thật biết bao!

Lễ/Tết về quê chưa cần đến nhà ai, sáng sớm đi ra chợ một vòng từ trên xuống dưới nghe đủ mùi vị quê hương bên lò bánh căn nóng hổi cùng xoong cá kho được bà Hai tỉ mẫn khạy từng chiếc thảy ra tô hành lá là mọi người nhanh tay gắp lấy, hay tô cháo lòng nghi ngút khói với miếng dồi đặc trưng quán chị Cúc,

ghé qua chị Tư bún miến chả hấp tươi ngon dậy lên mùi biển, cũng không thể bỏ qua hàng bánh canh đặc (bánh canh bột gạo) ngạt ngào hòa giữa mùi gạo, rau răm và miếng chả cá chiên thơm lừng, rồi những chiếc bánh bèo xoáy be bé như lúm đồng tiền trắng nõn ở hàng cô Mai, ly sương sâm, bánh lọt mát lạnh hàng dì Bảy, chút béo ngậy trong ly sữa đậu xanh dì Xuân… rất nhiều món ăn dân dã đã kết nối những con người về đây, ta sẽ biết tất cả người trong phố ai đã về ai chưa về quê. Đàn anh, đàn chị, đàn em gì đều nhẵn mặt nhau ngoài chợ, hỏi thăm nhau rối rít trong lúc chờ chủ quán bán hàng. Mà chủ quán cũng chẳng cần hỏi cũng nhớ luôn tánh ăn của từng người như đứa nào ăn nhiều ớt, đứa nào thích nhiều rau, mắm nào khoái ăn mặn, con nào ăn hai lát chanh, nhỏ nào nhiều thịt ít bánh …

 

 

Chẳng ở đâu xa, chợ như ngôi nhà chung mọi người gặp gỡ thăm hỏi chuyện trò tự nhiên nhất quả đất. Chẳng cần trà bánh, chẳng cần câu nệ vỗ vai nhau cái bốp “Mới về hả?”; Thế là buổi đi ăn hàng khỏi đường về luôn.

Ba tháng dịch ở trong nhà bạn bè ở các nơi gặp nhau trên Net kể hết chuyện đông tây lại bàn các món ăn chợ Đại Đồng sau giấc ngủ trưa ngập nắng và gió chợ đon đả chào đón với tô bún mắm nêm ngon khó cưỡng, bánh quai vạt, chả lụi, bánh nậm, ốc mắm gừng quen thuộc của người miền biển mặn mà, đậm sâu. Nhớ lắm những buổi tối dịu mát, bạn bè í ới hẹn hò nhau đi ăn bánh xèo kiểu “người nhà quê” có tô nước mắm như canh, không cuốn cuốn chấm chấm e lệ như người thành phố, bên cạnh các hàng hột vịt lộn dưa chua, mì quảng nhiều nước không bánh tráng, đậm vị ngọt đặc trưng, bánh mì, bánh flan, rau câu chân vịt… được chế biến theo công thức nhà làm không tìm thấy ở đâu được nên đành mang theo như hương vị quê nhà thoang thoảng hòa quyện trong râm rang tiếng nói cười ngô nghê với những mẫu chuyện trường lớp, những bươn trải sớm mai cứ thế loang ra, loang ra lao xao cả một góc chợ. Để rồi nôn nao chờ cái ngày “bình thường mới”; về chợ Đại Đồng đặng ăn phủ phê các hương vị in hằn sâu trong tâm trí của những người con nơi nhà và những đứa xa quê.

Nhưng rồi “bình thường mới” cũng là lúc cải cách, sắp xếp lại chuyện buôn bán. Chợ không được sinh hoạt nữa, trả lại cho con phố đường thông hè thoáng như bao con đường khác. Dù biết phải thế nhưng cái “hồn” chợ qua bao thế hệ đã đi vào tâm tưởng của người dân nơi đây và nặng lòng cả những người xa xứ đang mong ngóng quay về.

Nghĩ mà thương những người bán hàng gắn liền cả đời mình với cái chợ, với những khách hàng thân thiết nhìn đến mòn mặt. Nghĩ mà tiếc tình nghĩa nơi này, nơi không chỉ bán thức ăn mà bán cả những hồi ức, hoài niệm. Cái tình nó nặng biết là bao!

Giờ phải đi đâu, về đâu? Dịch đã khổ, không chỗ mưu sinh càng khổ! Có ai mà ngờ một lần nghỉ dịch phải nghỉ luôn cả đời buôn gánh bán bưng nơi chốn chợ quê thân thuộc thế này!

Có thể nào “đô thị hoá” mà vẫn ĐẬM ĐÀ TÌNH QUÊ không?

 

BCL  2.11.2021

Nguồn ảnh: Sưu Tầm

Filed Under: Ghi chép lang thang, Góc nhìn - nhận định, Vài đoạn hồi ký

Nghĩ về “Tập sách Cái cười & Sự lãng quên”

04/11/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Nghĩ về “Tập sách Cái cười & Sự lãng quên”

(Tiểu thuyết Milan Kundera, Trịnh Y Thư dịch)

Đỗ Hồng Ngọc

 

CAI CUOI VA SU LANG QUEN_BIA SACH

 

Đó là cuộc truy tìm bản ngã con người để từ đó rất có thể lóe lên luồng sáng mới mẻ cho ta thấy rõ hơn cái ẩn mật của hiện tồn. (Kundera)

Je pense donc je suis… (Descartes). Mà vì hình như, suy nghĩ một mình không thể tìm ra bản ngã, tác giả phải tạo ra nhiều mình khác qua nhân vật, gọi là tiểu thuyết để cùng đi tìm: tìm trong cái phông nền lịch sử, trong tình dục, trong tình yêu, hạnh phúc, đớn đau…

Nhân vật trong tiểu thuyết tôi là những khả thể vô thức của chính tôi (Kundera). Bởi cuối cùng là để vượt ra, vượt qua: một cái đường biên mong manh mà mênh mông đó. Ở đó, Bên kia đường biên “bản ngã” của riêng tôi chấm dứt (trang 19). Nghĩa là đạt đến vô ngã / non-self (không phải no-self).

Cái đường biên đó do chính tác giả tạo ra cho mình và loay hoay tìm lối thoát, càng tìm lối thoát càng bị quấn chặt. Chỉ vượt ra, vượt qua (Gaté, gaté…paragaté…) đường biên khi có được trí Bát nhã (Prajna) thấy được ngũ uẩn giai Không, mới “độ nhất thiết khổ ách”.

Diễn viên, kịch sĩ cũng sắm nhiều “bản ngã” cho mình, như lúc sắm vai vua, lúc sắm vai ăn mày… nếu “thức tỉnh” cũng dễ vượt thoát. Nhà viết tiểu thuyết còn có ưu thế hơn: tiểu thuyết nói được những điều mà chỉ tiểu thuyết mới nói được (Kundera). Hài hước, châm biếm, ẩn dụ, châm ngôn, giả định, khoa đại, bông lơn, gây hấn, huyễn hoặc,… và dĩ nhiên cũng không tách khỏi cái “vòng tròn ảo diệu bao quanh đời sống” dù giãy nảy: Tiểu thuyết gia không phải là kẻ hầu của sử gia (Kundera). Cái “vòng tròn ảo diệu bao quanh đời sống” đó dù làm người ta nôn ói, người ta bị điều khiển ngay cả cách làm tình thì cũng đã tạo cái cớ cho tiểu thuyết gia vung chiêu.  Dĩ nhiên lịch sử chỉ là… những lời nói dối (thơ ĐN).

Chỉ có một cách thoát, như Vạn Hạnh thiền sư dạy đệ tử hơn ngàn năm trước:

Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô

(Vạn Hạnh thiền sư)

Lịch sử thịnh suy cuồn cuộn những kiếp người… Cho nên vấn đề không phải là Ra đi mà Trở lại. Trở lại Địa đàng. Ở trong Ta thôi. Quay về nguyên thủy loài người, nguyên thủy đời sống, nguyên thủy tình yêu (trang 328).

Cái cười là một khám phá. Sự lãng quên là một khám phá. Khi bạn vượt ra qua biên thùy, cái cười phải tuôn ra. Nhưng nếu bạn tiếp tục đi dấn, vượt qua cả cái cười, thì sao? (trang 315).

Trí bất đắc hữu vô
Nhi hưng đại bi tâm…
(Kinh Lăng Già)

 

Nghĩ về “dịch vật” của Trịnh Y Thư:

Dịch Kundera rõ ràng không dễ toát được Kundera. Nhưng Trịnh Y Thư mong có thêm 7 “biến tấu” nữa của tác giả để được dịch tiếp.

TYT thố lộ: “Dịch Cái cười & Sự lãng quên là việc làm thú vị tuyệt vời đối với tôi”. Kundera có cái mỉa mai, chua chát, thậm chí thâm độc nhiều tầng, mà TYT gọi là cái phần hồn phách, cái Thần của tác phẩm, “bất khả tư nghị”, chỉ có thể đạt đến bằng trực giác, Dionysian… Dịch thuật văn học là sự tái tạo, hoặc sáng tác lại, một tác phẩm văn học để cho nó một đời sống mới… và tôi sẵn sàng hi sinh cái chân lí tuyệt đối (đôi khi rất vô tích sự) để đổi lấy dăm ba nét linh diệu phù ảo của cái bất toàn. (TYT)

Tôi tò mò muốn biết giá TYT cho vài thí dụ… về dăm ba nét linh diệu phù ảo thì hay quá! Tôi vốn đã phục cách dịch “linh diệu phù ảo” của TYT qua các tựa sách: Đời nhẹ khôn kham, “Cái” cười và “Sự” lãng quên…

Khôn kham là chịu hổng nổi, chịu hết nổi!

Còn ở đây “Cái” có vẻ như để khinh miệt, còn “Sự” là cái còn được… tôn trọng phần nào. Tôi nghĩ ở đây có thể dùng cả “Cái” cho Cái cười và Cái lãng quên. Song hành Cái, Cái cũng hay chứ!

Cũng đã có những dịch giả ở Việt Nam dịch hay không kém (về Tựa): Cõi người ta (Bùi Giáng dịch St. Ex.): Cõi, như Cõi Ta bà, Cõi Bồ-tát… với pháp giới thể tánh riêng của nó. Hay Chuông gọi hồn ai (For Whom the Bell Tolls) của Huỳnh Phan Anh (dịch E. Hemingway).

Nhớ có lần TYT viết đâu đó: Những cái vi tế trong mỗi từ tiếng Anh, liệu tôi có thể tìm thấy nét tương đương trong tiếng Việt không?  Câu trả lời là không (TYT).

Tôi không tin vậy. Mỗi ngôn ngữ có một sắc thái riêng, có thể đạt đến cái “thần” bằng trực giác. Cái đó gọi là “đi guốc trong bụng” tác giả.

Khái Hưng dịch Tình tuyệt vọng với hai chữ “thui thủi” trong 2 câu này của Sonnet d’Arvers chẳng đạt cái “thần” sao?

Hélas! j’aurai passé près d’elle inaperçu,
Toujours à ses côtés, et pourtant solitaire,

Hỡi ơi! Người đó ta đây
Sao ta thui thủi đêm ngày chiếc thân…

Hay Mùa thu chết (Apollinaire) của Bùi Giáng:

J’ai cueilli ce brin de bruyère
L’automne est morte souviens-t’en

Ta ngắt đi một cành hoa thạch thảo
Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi

với những chữ “ngắt đi”, “nhớ cho”… chẳng đạt đến cái “thần” sao? Nếu không, sao có Mùa thu chết của Phạm Duy với tiếng hát Julie Quang: “Em nhớ cho, em nhớ cho, đôi chúng ta sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa…trên cõi đời này…?”

Nhưng tôi đồng ý với TYT việc khó dịch thơ. Bởi tôi không tin thơ chỉ là ngôn ngữ, phối từ… Có dịp sẽ trở lại đề tài này.

Tôi nhớ Nguyễn Hiến Lê nói: dịch hay là dịch sao cho người đọc không nhận ra vết dịch.

Quả thật, đọc bản dịch của TYT không thấy có vết dịch.

(ĐHN)
Saigon, 02.11.2021

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Đọc sách

Thư Cao Huy Thuần gởi Đỗ Hồng Ngọc

04/11/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Thư Cao Huy Thuần gởi Đỗ Hồng Ngọc

GS Cao Huy Thuần ký tặng sách cho độc giả.

Anh Đỗ,

Thư anh đến trong lúc tôi đang đọc quyển sách của Mark Epstein, nhan đề là “Advice not given”. Đây là quyển sách thứ ba của cùng tác giả mà tôi đọc, toàn là xếp vào hạng best-sellers ở Mỹ. Epstein là bác sĩ tâm thần nổi tiếng. Nổi tiếng vì là thầy thuốc giỏi. Và nổi tiếng là nhà Phật học uyên thâm. Có gì lạ đâu, phải không anh Đỗ? Đức Phật của chúng ta đã chẳng là thầy thuốc đó sao! Lặn lội trong chuyên môn phân tâm học với Freud, với Jung, ông chợt thấy đức Phật, ông lặn lội qua Tây Tạng “học Phật”, học cả với các danh sư ở Mỹ, và ông đem đạo Phật áp dụng vào chuyên môn của ông, rốt cuộc ông nổi tiếng cả hai, cả cách trị liệu tâm thần, cả tư tưởng Phật giáo. Ông sống với đạo Phật trong chuyên môn, ông sống với đạo Phật trong đời thường, càng sống ông càng hiểu thêm đạo Phật, ông đem hiểu biết đó vun trồng trên đất Mỹ cho hợp với thủy thổ xa lạ, và đạo Phật bây giờ sáng trên thủy thổ ấy, anh Đỗ à, tôi cho rằng đích thị hai chữ “học Phật” là như vậy.

Hay thật, anh đâu có biết ông ấy, ông ấy đâu có biết anh, vậy mà tay trong tay, anh đi cùng đường và cùng “học Phật” như thế. Lý tưởng, hành động, cuộc đời, cao đẹp thay là ông thầy thuốc tương chao!

Anh Đỗ, bây giờ tôi hỏi anh câu này nhé, vì anh với tôi đều đã đọc “Tổng Quan về Nghiệp” của Thầy Tuệ Sỹ: Anh “học Phật” trước hay học Y trước? Chắc anh sẽ trả lời: hiển nhiên là học Y. Nhưng mà, nghĩ thêm chút nữa, cái gì xúi anh học Y? Cái gì xúi anh thích Y? Cái gì xúi anh thành ông bác sĩ như thế, lúi húi hành nghề rồi lúi húi dùi mài kinh kệ? “Cái đó”, tôi chắc là anh có trước khi học Y. “Cái đó”, tôi cũng chắc là ông Epstein có trước khi thành danh với bác sĩ tâm thần. “Cái đó”, chính là cái xúi anh đến với Phật mà anh không biết đó thôi, anh đến với Phật trước khi học Y. Anh “học Phật” từ lâu rồi, từ kiếp nảo kiếp nao, để bây giờ thành danh với… Đỗ Hồng Ngọc. Cho nên tôi nói: “Tiên học Phật, hậu học…”. Hậu học cái gì cũng được, cái gì cũng thành danh, ít nhất là thành danh con người.

Nhưng tôi chưa nói hết: anh đâu phải chỉ là ông thầy thuốc, cái danh của Đỗ Hồng Ngọc còn là con người thơ. Cũng vậy, tôi cũng lấy từ “Tổng Quan…” mà ra: thơ đến với anh từ trước khi anh làm thơ. Thơ là tiếng nói trong tận cùng thâm cung bí sử của tư tưởng. Cái gì mà tư tưởng không nói nên lời được thì phải diễn tả bằng thơ. Thơ đời Lý đời Trần là như vậy. Và thơ đó, chắc anh đã đọc không phải chỉ ở trong kiếp này. Cho nên bây giờ hồn anh nhập vào thơ của Thầy Tuệ Sỹ. Cho nên bây giờ anh thấy Phật trong thơ. Cho nên bây giờ một tay anh bốc thuốc, một tay anh viết thơ, thuốc thơm mùi thơ, thơ thơm mùi thuốc.

Còn có chuyện này nữa, hơi khó nói. Tôi thấy thấp thoáng có một người thứ ba nữa nấp sau hai con người kia. Thấp thoáng thôi, đây đó, kín đáo, chỉ nghe tiếng cười cười, tinh tế lắm mới nghe. Chẳng hạn khi anh nói chuyện ngồi thiền. Tất cả đều nghiêm trang, tôi chỉ trích mấy câu cuối:

Hơi thở xẹp xì

                             Thân tâm an tịnh

                             Không còn ý tưởng

                             Chẳng có thời gian

                             Hạt bụi lang thang

                             Dính vào hơi thở

                             Duyên sinh vô ngã

                             Ngủ uẩn giai không

                             Từ đó thong dong

                             Thõng tay vào chợ.

Rất nghiêm chỉnh, kể cả lúc anh vô chợ mà chẳng để mua gì, vì hai tay thõng thế kia thì làm thế nào móc túi lấy tiền? Thế rồi anh cắt nghĩa: “Mặt hồ tĩnh lặng thì không cần ghi bóng con hạc bay qua, không cần biết hạc vàng hay hạc đỏ, hạc trống hay hạc mái…” Ối giời, hạc vàng thì chỉ bay trên lầu Hoàng Hạc trong thơ Đường, đâu có bay trên mặt hồ Sài Gòn hay Phan Thiết? Bạn tôi nhầm với con vạc “như cánh vạc bay” rồi chăng? Không phải đâu. Nhà thơ nghĩ ra hai chữ “trống mái” rồi nhà thơ khoái chí vừa hạ bút vừa cười cười, hạc hay vạc thì có gì đáng quan tâm?. Ấy là bụng để ngoài da, con người thứ ba “anh linh phát tiết ra ngoài” đấy nhé. Có ai đa tài mà chẳng đa… tình?

Tôi “học Phật”, ngồi thiền với anh, thỉnh thoảng thấy tâm có hơi lộn xộn như thế, chắc anh cũng cười cười mà thông cảm nhau. Nhưng, nói nghiêm chỉnh nhé, con người thứ ba là cái duyên của anh. Chữ nghĩa mà không có duyên thì buồn lắm. Cho nên thỉnh thoảng anh cứ cho anh chàng thứ ba ấy cười cười một chút như thế, và mọi người sẽ cùng vui mà “học Phật” với anh.

Thân mến,

Cao Huy Thuần

(Oct 29, 2021)

Filed Under: Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

ĐHN: Nhân đọc sách Tổng Quan Về Nghiệp của thầy Tuệ Sỹ

25/10/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

 

Ngoài Hư Không Có Dấu Chim Bay?

Đỗ Hồng Ngọc

(Nhân đọc sách Tổng Quan Về Nghiệp của thầy Tuệ Sỹ) (i)

Có hay không có Nghiệp? Có hay không có Tự ngã? Có hay không có Thời gian? Có hay không có một Linh hồn? Thật là những câu hỏi choáng váng đặt ra trong cuốn sách “Tổng Quan Về Nghiệp” của Thầy Tuệ Sỹ do Hội Đồng Hoằng Pháp xuất bản năm 2021.

Nghiệp, là kinh nghiệm được tích lũy và tồn tại trong nhiều đời sống. Không có thời gian, không có ký ức thì lấy đâu cho nghiệp vận hành, tạo tác, lưu trữ, lưu xuất, dị thục, nhân quả? (ii)

Có thực không có nhiều đời sống? Một đời trước và đời sau – những đời sau- để cho ký ức gợi lại, nhân quả. Bằng chứng đâu?

Nhưng, nếu hỏi tôi tin không? Tôi tin. Tại sao tin? Không biết! Phải chăng, thỉnh thoảng ta gặp một người nào đó thấy như đã từng hẹn nhau từ muôn kiếp trước, hay một nơi chốn thấy như về mái nhà xưa?

Ký ức được lưu trữ ở đâu để tạo thành Nghiệp?

Khoa học não bộ trả lời: ở hippocampus (hồi hải mã) trong não, cùng với thể viền, lưu giữ ký ức, chịu trách nhiệm cả cảm xúc lẫn hành vi, nhờ nhu nhuyến của các synapse (điểm tiếp hợp thần kinh).  Thế nhưng, khi thân này tan rã, hippocampus và toàn bộ thể viền của não bộ cũng không còn, ký ức được tàng trữ trong thân vật lý này cũng biến mất theo. Phải chăng “ngoài cơ chế vật lý của ký ức, còn có sự tham gia của một yếu tố phi vật chất, không nhất thiết là ý thức, để lấy đó làm cơ sở tiếp cận đến vấn đề nghiệp tích lũy, cho đến trong đời sau được xử lý để cho quả dị thục của nó”?

Có Tự ngã không?

Đức Phật dạy: Có nghiệp được tạo tác, có quả dị thục được lãnh thọ, nhưng không có người tạo tác, không có người lãnh thọ. Phật giáo không cho có cái gọi là Tự ngã, tiểu ngã, đại ngã, linh hồn, nhưng tin có “Nghiệp mang theo” để “trả quả”. Cái gì mang Nghiệp theo? Thần thức tái sinh, luân hồi?

Nhà khoa học bảo: “Có design nhưng không có designer”. Não bộ là một hệ thống được phân bố rất cao trong đó nhiều chức năng xuất hiện đồng thời và không có điều phối viên.

Không có designer, không có điều phối viên? Nhưng sao chim bồ câu thì cứ bay ngàn dặm về đưa thư, cá hồi cứ bốn năm lại quay về chốn cũ để sinh đẻ rồi chết? Ngày nay, sinh vật từ hạt đậu đến chuột bọ, khỉ vượn… cũng được can thiệp vào gène để tạo ra những “dị thục” những “quả” bất ngờ, gọi là transgenic.

“Je pense, donc je suis – Tôi tư duy, nên tôi tồn tại” (Descartes). Vậy tôi không tư duy, thì không… có tôi? Phải chăng “vô niệm” thì vô ngã?

Ta cũng có thể nói đơn giản hơn: “Tôi thở, vậy có tôi”. Nghĩa là nếu tôi không thở thì không có tôi. Nhưng cái thời tôi còn trong bụng mẹ, tôi cũng không thở mà vẫn có tôi đó thôi. Từ đó, suy ra rằng cái thời tôi… hết thở, ngừng thở, thì tôi vẫn còn đó chứ, sao không?  Tôi lúc đó cũng lại ở trong bào thai Mẹ (bào thai Như Lai) chứ? Tôi mới phải mang nghiệp theo để trả quả chứ? “Thường, Lạc, Ngã, Tịnh” ở đây chứ không chỉ Vô thường, Khổ, Vô ngã, Bất tịnh…

Rồi có cái gọi là Thời gian để cho Nghiệp vận hành không? Tính thể của thời gian là gì? Thời gian được tri giác bằng giác quan nào?

Câu trả lời là chính ta đã tạo ra thời gian cho mình. Thành ngữ kālaṃ karoti, “nó tạo tác thời gian”, nghĩa là nó chết. Thời gian được biết đến từ tri giác về sự sinh thành và hủy diệt của một đời người. Thời kinh nói: “Thời gian đến, chúng sinh chín muồi; thời gian đi, chúng sinh bị hối thúc. Đây là tri giác về thời gian theo chu kỳ sống chết của sinh loại”. Tri giác về thời gian cũng là tri giác về sự chết. Kāla cũng được hiểu là do gốc động từ kal (kalayati) thúc giục, hối thúc, thường trực, sự chết đang hối thúc ta.

Tồn tại trong quá khứ và vị lai là những thực thể vi tế, ẩn áo, không phải tri giác thường nghiệm mà có thể bắt nắm được.

Nhưng với “Thuyết Tương Đối Rộng” ngày nay, ta biết thời gian sẽ chảy chậm trong con tàu vũ trụ chạy nhanh. Với một vận tốc nào đó thời gian đứng lại. Cho nên Từ Thức lạc động Thiên thai là chuyện có thực.

Có một sự gọi là Luân hồi không để nghiệp vận hành? Câu trả lời là có một “nguyên lý tồn tại” mà không phải hồn jīva hay ātman. Nguyên lý đó nói: có nghiệp, có dị thục của nghiệp, nhưng không có tác giả và thọ giả. Đây là một nguyên lý cực kỳ nghịch lý.

Nhưng may thay, các nhà Duy thức chứng minh được sự tồn tại của thức a-lại-da, hy vọng giải quyết được vấn đề nghiệp-dị thục và chủ thể luân hồi.

“Trong kinh Tăng nhất của Thuyết nhất hữu bộ cũng mật ý nói đến thức này với tên gọi là a-lại-da. Kinh nói: “yêu a-lại-da, vui a-lại-da, mừng a-lại-da, thích a-lại-da.”.

Trong bài “Ký Ức và Nghiệp” của Thầy Tuệ Sỹ ở sách “Tổng Quan Về Nghiệp” này nêu ra những câu hỏi có thể làm ta chới với mà lại cảm thấy vui, mừng, yêu, thích. Vì chính trong ta đôi khi cũng gợi lên những câu hỏi như vậy mà không dám trả lời. May thay có Thầy Tuệ Sỹ, à không, có nhà thơ Tuệ Sỹ hóa giải giùm, bởi như Thầy đã nói trong sách nói trên, chỉ có “Thơ dẫn kinh nghiệm vượt ra ngoài kinh nghiệm”.

Ta hỏi kiến nơi nào Cõi Tịnh,
Ngoài hư không có dấu chim bay?
Từ tiếng gọi màu đen đất khổ,
Thắp tâm tư thay ánh mặt trời. (iii)

—

(i)  Tuệ Sỹ: Tổng Quan Về Nghiệp. Hội Đồng Hoằng Pháp xuất bản qua mạng Amazon, 2021.

(ii)  Chú thích: Tất cả các câu in nghiêng (italic) trong bài này là những câu trích từ sách “Tổng Quan Về Nghiệp”.

(iii)Tuệ Sỹ: bài thơ Phương Nào Cõi Tịnh, trong tập thơ Giấc Mơ Trường Sơn. Hương Tích Phật Việt, 2020. Trích trong bài viết của thầy Tuệ Sỹ “Nhân đọc tác phẩm ‘Cõi Phật Đâu Xa’ của Đỗ Hồng Ngọc.”

*****

* Đọc thêm các nhận xét khác về sách này của HT. Thích Như Điển, GS. Cao Huy Thuần, GS. Trần Kiêm Đoàn, nhà văn Vĩnh Hảo: https://phatviet.info/gioi-thieu-sach-tong-quan-ve-nghiep-tue-sy/

* Độc giả có thể đặt mua sách trực tiếp trên mạng toàn cầu Amazon qua link này: https://pgvn.org/pg_2503na. Sách cũng sẽ được Hương Tích xuất bản tại Việt Nam nay mai.

…………………………………………

Nguồn: https://tranthinguyetmai.wordpress.com/2021/10/25/ngoai-hu-khong-co-dau-chim-bay/

Filed Under: Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định, Thiền và Sức khỏe

Thầy Giác Toàn: NGHĨ VỀ Bs. ĐỖ HỒNG NGỌC

20/10/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

NGHĨ VỀ Bs. ĐỖ HỒNG NGỌC

nhân đọc bản thảo TUYỂN TẬP TÔI HỌC PHẬT (Phiên bản 2)

 

HT Thích Giác Toàn

 

Thích Giác Toàn (1949-) bút hiệu Trần Quê Hương, quê Châu Thành, tỉnh Tiền Giang, xuất gia năm 14 tuổi tại Mỹ Tho. Ông là thiền sư, thi sĩ. Thường trực lãnh đạo Hệ phái Khất sĩ – Phó Tổng biên tập Báo Giác Ngộ. Hiện trụ trì Pháp viện Minh Đăng Quang Tp.HCM.

(https://www.thivien.net/)

 

NGHĨ VỀ Bs. ĐỖ HỒNG NGỌC

nhân đọc bản thảo TUYỂN TẬP TÔI HỌC PHẬT (Phiên bản 2)

 

Tôi rất hoan hỷ và cảm ơn Bs. Đỗ Hồng Ngọc về việc anh gửi cho tôi qua email bản thảo TUYỂN TẬP TÔI HỌC PHẬT (Phiên bản 2, năm 2021). Viết bài này, tôi không có ý định nhận xét về tác phẩm lớn này, mà tôi chỉ nhân đây nêu một vài nhận xét về vị bác sĩ, nhà văn, nhà thơ, nhà Phật học và về phẩm chất của tác giả. Sơ sài, thiếu hệ thống và có thể có chỗ lệch lạc là bài viết này của tôi. Xin chư độc giả và Bs. Đỗ Hồng Ngọc niệm tình lượng thứ.

Tuyển tập dĩ nhiên là các đề tài Phật học đúng như tựa đề sách, gồm 8 mục: Nghĩ từ trái tim, Gươm báu trao tay, Ngàn cánh sen xanh biếc, Cõi Phật đâu xa, Thấp thoáng lời kinh, Thoảng hương sen, Thiền tập và Tạp ghi:Lõm bõm. Tất cả đều là những tác phẩm nổi tiếng đã được xuất bản mà tôi đã được đọc trước đây, ngoại trừ Tạp ghi chỉ được tìm thấy rải rác trên Trang nhà của Bs. Đỗ Hồng Ngọc.

 

 

Hình như tất cả các tác phẩm của Bs. Đỗ Hồng Ngọc đều được viết vì tấm lòng, từ cảm xúc, tư duy, kinh nghiệm của chính anh. Anh viết cho anh và cho mọi người già, trẻ, phụ nữ, trẻ em và cho các thiện tri thức thân hữu. Anh không được chính thức đào luyện về Phật học. Anh tự mày mò đến với Phật học khi tuổi đã đến lục thập. Vào rừng kinh điển Phật học, anh tự để cho cảm xúc, cho tâm hồn, cho trí óc tự do vận hành. Súc tích, lạc quan, dí dỏm và chân thành là những tác phẩm của anh, của con người Đỗ Hồng Ngọc.

Là bác sĩ, anh chữa bệnh, gần gũi, an ủi, khích lệ đủ mọi lứa tuổi qua nhiều tác phẩm như Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng, Thầy thuốc và bệnh nhân, Sức khỏe gia đình, Khi người ta lớn… và Già ơi…Chào bạn.

Già ơi…Chào bạn! Tôi nghĩ có lẽ anh có nghĩ đến Bonjour Tristesse của Nữ sĩ Françoise Sagan (Nhà văn Nguyễn Vỹ dịch là Buồn ơi chào mi) đã được nhiều triệu độc giả trên thế giới ca ngợi cách đây hơn 6 thập kỷ. Sách này xuất bản năm 1954, tác giả mới 18 tuổi, kể lại nỗi buồn của một cô gái 18 tuổi vì thi rớt Tú tài, cuối cùng cô nhận định rằng cuộc đời này buồn nhiều hơn vui. Già ơi… Chào bạn! của Đỗ Hồng Ngọc được xuất bản năm 1999, được viết lúc tác giả đã đến tuổi 60, và đang thư thái khởi đầu bước vào rừng kinh điển Phật giáo, một ông già vui vẻ, tươi tắn, lạc quan mà nghĩ rằng đời vẫn đẹp vì nó có ý nghĩa đẹp.

Ở Đỗ Hồng Ngọc là một tấm lòng chân thật, anh viết cho mình và cũng muốn gửi đến các thiện tri thức thân hữu và cũng muốn những gì anh đã làm theo gió bay xa. Tôi cũng muốn như anh, gửi những dòng này đến anh và muốn chúng theo gió bay xa…

Đỗ Hồng Ngọc, tôi kính mến anh…

Trân trọng!

 

Pháp viện Minh Đăng Quang,

Mạnh đông Tân Sửu – 2021.

Sa-môn Thích Giác Toàn

 

 

 

 

 

 

 

Filed Under: Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định, Vài đoạn hồi ký

NT Khánh Minh “đọc” Đỗ Hồng Ngọc (Đỗ Nghê): “Còn Chút Để Dành”

19/10/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

 

Giới Thiệu “Còn Chút Để Dành” –

Nguyễn Thị Khánh Minh đọc Đỗ Hồng Ngọc (Đỗ Nghê)

Nguyệt Mai hân hạnh giới thiệu:

CÒN CHÚT ĐỂ DÀNH
Nguyễn Thị Khánh Minh đọc Đỗ Hồng Ngọc (Đỗ Nghê)
Tháng 8/2021

Bìa trước “Còn Chút Để Dành”

gồm 7 bài viết đặc sắc của nữ sĩ Nguyễn thị Khánh Minh:
1. Reo Tuổi
2. Con đường dài qua những bài thơ ngắn của Đỗ Nghê
3. Ngoại chờ bên kia sông
4. Lagi, ngày con về
5. Đỗ Hồng Ngọc, lang thang nghìn dặm trái tim
6. Cùng sông
7. Còn chút để dành

Mình vừa thực hiện một tập sách mỏng, kỷ niệm tuổi 81 này, với những bài viết rất hay của nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh về Đỗ Hồng Ngọc (Đỗ Nghê). Có thể nói Khánh Minh “Đọc” Đỗ Hồng Ngọc với một cảm xúc thi ca hiếm có, “Nhìn ra” một Đỗ Nghê (ĐHN) còn hơn ĐHN thấy biết về chính mình.

– Đỗ Hồng Ngọc

oOo

Quý bạn có thể xem sách ở đây.
Tập CÒN CHÚT ĐỂ DÀNH (Đỗ Hồng Ngọc) (1)

oOo

Sau đây là một số chia sẻ của bạn văn.

Một cuốn sách làm quà tặng vô cùng dễ thương.
Càng đọc càng thấy nữ sĩ Khánh Minh là một tri âm tri kỷ – rất quý của Đỗ Hồng Ngọc (Đỗ Nghê). Đã hiểu anh một cách rất sâu sắc. Hình như chưa có người nào đọc ĐHN mà thấu đáo tận cùng như vậy.
Rất tuyệt vời.

– Nguyệt Mai

oOo

Hải không viết được về cuốn Còn Chút Để Dành của NT Khánh Minh. Tự cuốn sách đã hay rồi. Bây giờ bình luận thì không làm cho hay thêm.
Cũng giống như khi ngồi nghe một ca khúc của Phạm Duy. Thì Khánh Minh là một Phạm Duy của ngôn ngữ. Có viết thêm, cũng không làm ca khúc hay hơn.
Hãy cứ để như thế đi. Khi nghe nhạc hay, mà làm thêm tiếng động sẽ làm hỏng giây phút đó.

…………………………………………..

Trong thế giới thơ Nguyễn Thị Khánh Minh, chúng ta còn nhìn thấy những bài thơ viết về cha, về mẹ, hay về những người bạn thân như nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc, nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ … Một thế giới được tái hiện bằng chữ. Nơi đó, Đỗ Hồng Ngọc quyện vào một màn sương của hồn dân tộc. Tôi xin thú thật, tôi không biết hồn dân tộc cụ thể là gì, vì chữ này trừu tượng quá, mơ hồ quá.
Nhưng tôi đã mơ hồ nhận ra trong bài Lagi Ngày Con Về, khi Nguyễn Thị Khánh Minh viết tặng nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc năm 2017, nơi đó họ Đỗ về thăm căn nhà của Mẹ ở Lagi, trích:

Bìa sau “Còn Chút Để Dành”

 

Nghe rất khẽ. Nghe như mơ. Tiếng chổi
Xào theo chân. Bóng mẹ mỏng như mây
Vườn thức giấc. Hồn tinh sương mẹ gọi
Con bướm bay về. Lá trổ trên cây

Vâng thưa Mẹ. Bếp nhà vừa cơi lửa
Cơm chiều ngon thơm lúa vụ mùa tươi
Mai mẹ về. Về với Ngoại xa xôi
Chiếc nón lá Mẹ cứ cài trên cửa

Có phải hồn dân tộc là cái gì có thể nghe được, như tiếng chổi của ký ức nơi hiên nhà của mẹ, hay có thể ngửi được như cơm mùa lúa mới, hay có thể thấy được như chiếc nón lá Mẹ cài trên cửa? Đây là thế giới như mơ, như thực đã hiện ra trên những dòng thơ của Nguyễn Thị Khánh Minh.

– Phan Tấn Hải

oOo

NƯỚC – YouTube

Nước (Kể chuyện trăng tàn)
Thơ Đỗ Hồng Ngọc,
Nhạc Khúc Dương (Đặng Ngọc Phú Hòa)
Hát bởi Camille Huyền

oOo

Tuyển tập thu góp những bài viết đẹp đẽ đầy tình người của NT Khánh Minh về Đỗ Hồng Ngọc (Đỗ Nghê) một lần nữa cho thấy có lẽ anh là người hạnh phúc và giàu có nhất trên đời.
Xin được chung vui cùng anh. Và xin chúc anh an lạc trong lòng thương yêu, quý mến của mọi người.
Thân mến,

– Tô Thẩm Huy

oOo

Hạnh phúc của người viết là nhận được sự đồng điệu nơi người đọc. Em nghĩ người viết Đỗ Hồng Ngọc hạnh phúc muôn phần khi nghe được khúc hòa âm từ tác giả Nguyễn Thị Khánh Minh.
Hơn tuần nay, em may mắn được đọc “REO TUỔI”, ngưỡng mộ vô cùng ngòi bút sắc sảo, uyên thâm mà dạt dào khôn tả; lại xuýt xoa với câu từ của chị Khánh Minh,thú vị và đẹp đẽ!
Đúng lúc hoang mang vì tuổi tác chất chồng, em cảm thấy an lòng đón thêm tuổi mới khi được đọc những dòng này!
Cảm ơn thật lâu với “Còn chút để dành”!

– Lê Uyển Văn

oOo

BÔNG HỒNG CHO MẸ – Nhạc Võ Tá Hân – Thơ Đỗ Hồng Ngọc – Ca sĩ Thu Vàng – YouTube

Bông Hồng Cho Mẹ
Thơ Đỗ Hồng Ngọc
Nhạc Võ Tá Hân
Hát bởi Thu Vàng

oOo

Em chào anh,
Được mail anh mừng lắm. Vì anh vẫn khỏe, vẫn an lạc cùng chữ nghĩa văn chương.
Tuyệt quá, chúc mừng anh.
Anh thật hạnh phúc có người đọc tuyệt vời như Khánh MInh.
Cảm nhận sâu sắc, đồng điệu thật ngưỡng mộ. 7 bài là bảy cung bậc đọc ĐN-ĐHN
Em thích CON ĐƯỜNG DÀI QUA NHỮNG BÀI THƠ NGẮN…
Thăm anh chị mùa dịch bình an và chúc mừng anh niềm vui sáng tạọ tái sinh sáng tạo…
Em gửi lời thăm chị Khánh Minh nghen.
Quý mến,
Hoàng Kim Oanh

oOo

Anh Ngọc và KM ơi,
Chúc mừng anh Ngọc vừa tặng KM một tác phẩm quá mỏng mảnh, quá thi vị, quá dễ thương… “Các em” đã vất vả nằm thin thít trong thùng tối để vượt đường xa về với chị KM, các em đã “ lội ngược dòng” từ đông sang tây để đến với “các bạn trẻ” của anh Ngọc, và bạn trẻ đầu tiên đã được cầm nó trên tay háo hức đọc lại từng chữ của người thân yêu hàng ngày chia buồn sẻ vui mà tưởng tượng đến một người thân yêu khác đã tìm tòi, lục lọi, đã tỉ mẩn sắp xếp lại từng trang sách, từng bản nhạc… để hoàn thành một kỷ vật thật đáng quý.
Vui quá, vui quá nè anh Ngọc, KM ơi. “Các bạn trẻ” của anh Ngọc chuẩn bị ăn mừng nhe.

Thu Vàng

oOo

Ca khúc Sông ơi cứ chảy – YouTube

Sông Ơi Cứ Chảy…
Thơ Đỗ Hồng Ngọc
Nhạc Nguyễn Đức Vinh
Hát bởi Thu Vàng

oOo

Đọc tập “Còn Chút Để Dành” của Nguyễn Thị Khánh Minh viết về nhà thơ Đỗ Nghê – Đỗ Hồng Ngọc không thể không liên tưởng đến Bá Nha – Tử Kỳ, mối tri kỷ chỉ hiện hữu ở tình bạn tuy giữa hai người mà đã là như một. Tưởng là chuyện chỉ xảy ra thời Xuân Thu Chiến Quốc, ngờ đâu truyền kỳ ấy lặp lại giữa thời đại chúng ta. Thật là một tương lân thân tình hiếm có!
Với một bút pháp sâu sắc, diễm lệ, Khánh Minh bắt đúng mạch và dẫn người đọc đến một thế giới thơ mộng Đỗ Nghê chan hòa giữa đạo và đời, nói đúng ra một nếp sống an lạc trong lục hòa. Từ đó ta bắt gặp một Bồ tát không tuổi bởi “Anh không có ngày sinh nhật/ Nên mỗi ngày/ Là sinh nhật của anh.”  Anh sống trong hiện thị đương là, từng giây phút ngập tràn luân sinh chất ngất, vô thủy vô chung nên vô sinh, không sinh ra nên không chết đi cho lý nhân quả dừng lại. Không những thế ta còn khám phá ra những dòng thơ ngắn, cô đọng, đời thường của Đỗ Nghê vậy mà “vỡ òa ngực biếc” bởi những gì là thân yêu nhất không thể thay thế: tình quê, tình Mẹ. Và rất nhiều nữa.
Cám ơn nhà văn Khánh Minh, không có những tản văn cô đọng và đúc kết như thế của cô, có lẽ chúng ta sẽ không thấy hết, thấy đầy đủ một viên ngọc quý: Đỗ Hồng Ngọc.

– Vũ Hoàng Thư

oOo

Cảm ơn anh Đỗ Hồng Ngọc và Khánh Minh đã tặng tập sách quý “Còn Chút Để Dành”. Cuốn sách tuy mỏng mà nặng… Bìa đẹp với mùa thu thơ mộng và lãng mạn, rất thích hợp với văn phong NTKM. Đọc sách điều TL cảm nhận được là một mối hòa điệu tri kỷ của người đọc và người được đọc. Thật không gì hạnh phúc hơn khi viết mà nhận được những đáp ứng sâu sắc ân tình như bảy bài viết của Khánh Minh. Tự nhiên TL nhớ mấy chữ Hiểu và Thương của thiền sư Nhất Hạnh, Khánh Minh viết cảm nhận về văn Đỗ Hồng Ngọc như thế, không chỉ là HIỂU mà còn THƯƠNG.

– Nguyễn Thị Thanh Lương

oOo

kẹp sách cho “Còn Chút để dành”, gửi nhà văn, thi sĩ Đỗ Hồng Ngọc.
duyên

………………………………………………..

Nguồn: https://tranthinguyetmai.wordpress.com/2021/10/19/gioi-thieu-con-chut-de-danh-nguyen-thi-khanh-minh-doc-do-hong-ngoc-do-nghe/

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Tập Thơ “Đêm” Của Nguyễn Thị Khánh Minh

18/10/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

 

Tập Thơ “Đêm” Của Nguyễn Thị Khánh Minh

ĐÊM

tập thơ NGUYỄN THỊ KHÁNH MINH
VĂN HỌC PRESS xuất bản, 2021

DML_Cover_PreOrder.jpg

Tựa: Tô Thẩm Huy
Tranh bìa: Phạm Cung
Ký họa chân dung Nguyễn Thị Khánh Minh:
Đinh Cường – Trương Thìn – Lê Thánh Thư –
Bảo Huân – Trương Đình Uyên – Phan Tấn Hải

 

Viết về Nguyễn Thị Khánh Minh:
Phan Tấn Hải – Nguyễn Xuân Thiệp – Trần Thị Nguyệt Mai –
Lê Lạc Giao – Hoàng Xuân Sơn – Hồ Đình Nghiêm – Trịnh Y Thư –
Lê Giang Trần – Tô Đăng Khoa – Nguyễn Lương Vỵ

@@@

Lời của Thơ

Tựa: Tô Thẩm Huy
–––––––––––––––––––––
Nguyễn thị Khánh Minh và thi tập
Đêm
Bóng Sáng – Bóng Tối

Night, the shadow of light,
and life, the shadow of death.
A.C. Swinburne

– Sao gọi là lời?
– Thưa: logos
– Là?
– Là ẩn ngữ ân điển từ cõi trời Hy La uyên nguyên vọng về.
– Vọng về điều gì?
– Thưa: Có một lỗ thủng màu trắng trên nền trời đen tối.

Trăng buồn
Lỗ thủng trắng
Trời đêm

– Thật vậy sao? Làm sao nghe ra tiếng vọng ấy?
– Thưa ấy là từ thuở con người vẫn hiểu tiếng nói của chim muông, cây cỏ, biết nghe tiếng đêm, biết tan vào bóng tối mà ẵm bóng sáng vào lòng.

Dằng dặc đêm. Trăng hoài không rơi
Vắng trong tôi. Tôi hoài không lời
Chịu không nổi. Một cành cây đập gió

Nghe thấy không? Trong đêm dằng dặc, một cành cây đang đập gió. Mà trăng hoài vẫn cứ không rơi. Làm sao chịu nổi! Cây ơi, ngừng lại, đừng đập gió nữa.

Tôi không nói
Chỉ có hàng cây gió thổi
Và bóng. Tối

Tôi không ngủ
Chỉ có đêm đang trôi
Có lẽ sẽ một lời
Để đừng tan vào bóng tối

Thi sĩ là ai trong đêm đang trôi? Thưa là bức tường xôn xao ở lại cùng bóng sáng sau khi cửa sổ đã bay đi:

Bóng trôi ra ngoài cửa sổ
Như với theo
Cái gì đó vụt bay
Gió bay đi
Đêm bay đi
Giấc mơ bay đi
Chiếc cửa sổ bay đi
Nỗi chờ đợi cũng bay đi

Và:

Rưng trên tay
Bóng sáng
Người để lại

Thi tập “Đêm” gom lại những bài thơ tác giả viết đây đó những 20 năm thao thức, sắp xếp theo những chủ đề xoay quanh hai dòng ý tưởng: Bóng Sáng và Bóng Tối.

Sao gọi là bóng sáng? Đã bóng sao lại sáng?

Thưa nếu không thế thì làm sao có thể làm đầy những lỗ hổng của giấc mơ:

Bầu trời sâu
Kéo đêm lên là những chấm sao
Bóng tối sâu
Đang vực tôi lên là đường tròn
Một đường tròn
Chở bóng sáng trong
Một đường tròn
Đang dịu dàng tròn mãi
Dựa vào nó
Tôi đi trên con đường khúc khuỷu của mộng
Dựa vào nó
Tôi làm đầy những lỗ hổng của giấc mơ trong cuộc sống.

Sao là những lỗ hổng của giấc mơ? Từ nay liệu chúng ta có thể yên tâm để mơ về những giấc mộng không còn lỗ hổng chăng?

Thế bóng tối là sao? Đã bóng thì hẳn phải tối chứ?

Thưa chuyện ấy cũng còn tùy. Phải bật lên đã, thì đêm mới tối:

Bật đêm lên
Một điểm bất ngờ
Vành trăng úp mặt hổ ngươi

Rồi phải với lấy vầng trăng đang trôi nổi trong đêm:

Sợ xa thêm ánh sáng vì sao
Sợ chìm xuống trong khuya sâu
Tôi với lên một vừng trăng đang nổi

Sau đó phải đi vời áng mây trắng:

Tìm trong đêm, mây trắng
Hỏi xem nhà ta đâu
Đêm cúi nhìn im lặng
Cả ba buồn như nhau

Đã có ai trò chuyện với mây, lặng lẽ nhìn đêm, mà ngậm ngùi thương nhớ người thân?

Nếu cho ba điều ước
Tôi xin đừng nhìn ngược
Tôi xin đừng nghe xuôi
Và ước mơ lúc nào cũng chờ tôi phía trước

Ước chi ai ai lúc nào cũng nhớ ba điều ước ấy.

Khi tôi nắm vào trong tay
Ít nắng
Thì cùng lúc tôi nắm vào chút nhỏ nhoi của bóng tối

Khi tôi ôm vào lòng
Ít gió
Cũng là lúc tôi đầy trống không, im lặng

Khi tôi bắt đầu một giấc mơ
Cũng là lúc tôi đã chìm sâu
Giấc ngủ
Và để biết có giữ được gì không
Tôi bắt đầu hy vọng

Và từ niềm hy vọng ấy:

Tôi nhóm lên một ngọn lửa
Gió thổi tắt đi

Tôi nhóm lên một ngọn lửa nữa
Gió lại thổi tắt đi

Khi tôi không còn hy vọng
Thì gió
Lại làm những que tàn kia bắt lửa…

Và niềm hy vọng từ đấy sẽ mãi mãi phục sinh trên thân phận chúng ta:

Tôi hút vào bóng tối
Đôi mắt mù không hay
Ánh sáng trong tôi nói
Cái sáng từ tôi đây

Hãy dùng nó làm khiên
Hãy dùng nó làm đèn
Hãy dùng nó để tỏ
Với lòng ngươi đêm đen

– Sao gọi là Minh?
– Thưa Minh có thể là nhật giao thoa với nguyệt mà chan hòa ánh sáng:

Mặt trời
Trong phút giây thức dậy đẹp đẽ nhất
Chàng mở mắt
Và trái đất có bình minh

Trăng
Nơi cao lồng lộng
Nàng hỏi bằng ánh mắt thơ ngây nhất
Và đêm có đêm rằm

Từ đó, khi nghe gọi tên:

Ánh sáng chọn
Ngày
Để tan ra

Ánh sáng chọn
Đêm
Để lấp lánh

Tôi chọn ánh sáng
Để tự vệ với bóng tối
Nơi mình

Đó cũng là tên
Khi người ấy gọi tôi
Âu yếm

(Gọi Tên)

Mà Minh cũng có thể là tiếng hót đến từ chiếc lưỡi của cánh chim đang chao lượn trong gió mà nếu không có vầng trăng trầm mình dưới mặt giếng tĩnh lặng thì làm sao nó có thể hân hoan xao xuyến với về tấm lòng trong thanh tơ trắng của Tố Như Tử: Trạm trạm nhất phiến tâm, Minh nguyệt cổ tỉnh thủy.

Không rộn lòng dâu bể
Tỉnh thủy vô ba đào
Nếu mà không hạt lệ
Thử tâm chung bất dao…

Nếu mà không trăng sáng
Làm sao nối xưa sau…

Và nếu không có bóng trăng lặng trên mặt giếng thì làm sao đêm có thể mọc lên từ bức tranh?

Đêm mọc lên từ bức tranh
Ứ đầy tĩnh lặng…

…Trên con đường ánh mắt đang đi
Đêm thiếu nữ. Òa vỡ…

Từ đấy, logos trong “Đêm” trở thành bức tranh chan hòa mầu sắc của lời thơ Khánh Minh:

Nếu bảo tôi vẽ bóng tối. Tôi sẽ vẽ
Những đôi cánh của chiêm bao mọc ra từ trái tim trong suốt. Vầng trăng trên gối ngủ bài thơ. Ngọn đèn cô đơn bên trang bản thảo.

Tôi sẽ vẽ cả tôi đang vượt qua đêm dài. Tôi sẽ vẽ làm sao để người xem tranh thấy được. Bóng tối chỉ là ảo ảnh…

Phải chăng vì đời sống chỉ là bóng hình của cái chết?

Và hỡi những họa sĩ thân yêu trên trần gian này, tôi xin được làm cậu Hoàng Tử Bé của St Exupery, yêu cầu quý vị vui lòng vẽ hộ tôi – không phải con cừu đang gặm cỏ trên tinh cầu xa xôi – mà làm ơn vẽ hộ tôi bức tranh của bóng khuya – không phải là bóng khuya lúc đang ngồi tỉ tê cạnh bóng đêm, mà là lúc đang lững thững đi dạo dưới trăng – để tôi có dịp được ngắm bức tranh vẽ lúc “bóng về” của họa sĩ Khánh Minh:

Ai vẽ được bóng khuya đi
Cho tôi đọ với bóng về. Của tôi

Lời của thơ trong “Đêm” là tiếng nói của con người nguyên sơ mà chúng ta đã lâu ít còn được nghe thấy ai nói, đến gần như đã quên mất. Xin mời nghe lại mấy lời:

Gió vườn nhà êm ả
Ai nói gì qua lá
Mà khuya đầy trăng thơm

Đêm ngó trời. Cao quá
Hỏi trăng gần, trăng xa
Đâu là chốn quê nhà…

Sáu câu thơ tuyền những lời giản dị mà vang vọng một trời âm nhạc, êm đềm mà man mác thớ vị chua xót, ngân nga trong đêm u hoài tiếng ai thầm thì qua lá. Và chao ôi, sao hai chữ “cao quá” trong lời thơ ấy nghe thất thanh, lặng ngắt một nỗi sợ hãi bâng quơ, đơn côi, nhỏ bé!

Thế giới của “Đêm” trong thơ Khánh Minh trừu tượng những hình ảnh tươi mát ban đầu, chan chứa những ý tưởng tinh khôi, ẩn hiện những tâm tình thanh cao, diệu vợi. Thế giới ấy trước khi bước vào thật nên làm theo lời khuyên của Tagore mà tắm gội, tẩm mình bằng hương trầm, để đón vọng:

Một mảnh trăng vắt cong ngoài cửa sổ
Yên bình đến nỗi
Để thưởng thức nó
Tôi có cảm giác như mình đang phạm lỗi…

Tôi cũng thế. Tôi cũng nhiều khi có cảm giác như mình đang phạm lỗi – những lúc đọc thơ Nguyễn Thị Khánh Minh.

Bốn câu thơ trên là những lời sau cuối của “Đêm”. Những câu thơ “sau dấm chấm hết”. Vậy nên tôi xin được có thêm lời ước thứ tư: Rằng chúng ta sẽ còn được thêm nữa nhiều đêm hạnh phúc nghe lời Khánh Minh trò chuyện.

Thật may mắn những ai thường được gặp gỡ, gần kề với cái thế giới tinh khôi ấy.

– Tô Thẩm Huy
Houston, Tiết Đại Thử, tháng 7, 2021

Ký họa chân dung Nguyễn Thị Khánh Minh. – Đinh Cường

………………………………………………….

Nguồn: tranthinguyetmai.wodpress

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Đọc sách

Hãy vui với tuổi vàng của mình

01/10/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc 3 Comments

 

Nhân Ngày Quốc tế Người Cao Tuổi 1.10.2021

 

(internet)

 

 

(internet)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Ghi chú: Bác sĩ Lê Quang Khánh, người bạn cùng khóa với tôi ở Y khoa Đại học đường Saigon (1962-1969) hiện sống ở Melbourne Úc vừa gởi tôi bài viết này của một người bạn nào đó đã trích từ cuốn sách Về Thu Xếp Lại của tôi (2019), đặt cho cái tựa mới, chèn mấy bức minh họa thiệt dễ thương…

Cảm ơn LQK.

Hãy Vui Với Tuổi Vàng Vì Đó Chính Là Tuổi Tuyệt Vời Nhất !

Đỗ Hồng Ngọc
 
Tôi nay ở tuổi 80. Thực lòng… đang tiếc mãi tuổi 75! Thấy những bạn trẻ… trên dưới bảy mươi mà “gato” ! Mới vài năm thôi mà mọi thứ đảo ngược cả rồi. Bây giờ có vẻ như tôi đang lùi dần về lại tuổi ấu thơ, tuổi chập chững, tuổi nằm nôi…
 
Vòng đời rất công bằng. Chỉ còn cách tủm tỉm cười một mình mà thôi!

Cái tuổi đẹp nhất của đời người theo tôi có lẽ ở vào lứa 65-75. Đó là lứa tuổi tuyệt vời nhất, sôi nổi nhất, hào hứng nhất… Tuổi vừa đủ chín tới, có thể rửa tay gác kiếm, tuyệt tích giang hồ, “nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo” (NCT), nhưng cũng là tuổi có thể lại vướng víu, đa đoan nhiều nỗi, để một hôm ngậm ngùi ta là ai mà còn khi giấu lệ/ ta là ai mà còn trần gian thế? (TCS)

Nhớ hồi ở tuổi 55, mới hườm hườm, tôi ngẫm ngợi, ngắm nghía mình rồi lẩn thẩn viết Gió heo may đã về. Đến 60 thì viết Già ơi… chào bạn! như một reo vui, đến 75 còn… ráng viết Già sao cho sướng?… để sẻ chia cùng bè bạn đồng bệnh tương lân. Nhưng 80 thì thôi vậy.

Đã đến lúc phải “Về thu xếp lại…”, bởi “chút nắng vàng giờ đây cũng vội”… rồi đó thôi!

Chu trình “khép kín” đó bắt đầu tăng tốc ở lứa 65-75 tuổi. Tăng tốc khô héo, tăng tốc nhăn nheo. Sự tăng tốc của lứa tuổi này cũng làm ta há hốc, muốn kêu lên kinh ngạc… như ở tuổi dậy thì, tuổi mới lớn. Cái vòng đời nó diễn biến tuyệt vời đến vậy, liên tục đổi thay đến vậy thì có gì đáng phàn nàn đâu! Nhiều bạn cùng lứa than với tôi sao thế này sao thế khác, tôi thường chỉ nói “Ai biểu già chi?” rồi cười xòa với nhau mà không khỏi có chút… ngậm ngùi.
 

Anh chàng Alexis Zorba (*) nói: “Cũng phải chăm nom đến thân thể nữa chứ, hãy thương nó một chút. Cho nó ăn với. Cho nó nghỉ với. Đó là con lừa kéo xe của ta, nếu không cho nó ăn, nó nghỉ, nó sẽ bỏ rơi mình ngang xương giữa đường cho mà coi”.

Từ ngày biết thương “con lừa” của mình hơn, tử tế với nó hơn, thì có vẻ tôi… cũng khác tôi xưa. Tôi biết cho con lừa của mình ăn khi đói, không ép nó ăn lúc đang no, không cần phải cười cười nói nói trong lúc ăn. Món gì khoái khẩu thì ăn, chay mặn gì cũng tốt. Cá khô, mắm ruốc gì cũng được, miễn là đừng nhiều muối quá, đừng nhiều mỡ quá!

Mỗi người có đồng hồ sinh học của riêng mình. Không ai giống ai. Như vân tay, như mống mắt vậy. Cho nên không cần bắt chước. Chỉ cần lắng nghe mình. Phương pháp này, phương pháp nọ của người này người kia bày vẽ chẳng qua cũng chỉ để tham khảo. Nắm lấy nguyên tắc chung thôi, rồi áp dụng vào hoàn cảnh riêng cụ thể của mình, tính cách mình, sinh lý mình. Phương pháp nào có sự ép buộc cứng ngắc thì phải cảnh giác!

Thời tôi học y khoa được học tế bào thần kinh không thể sinh sản, mất là mất luôn, hư hỏng thì không thể tự sửa được, không như tế bào ở các mô khác. Ngày nay người ta biết có khoảng 100 tỷ neuron thần kinh và 100 nghìn tỷ kết nối giữa chúng, nhưng thật ra não bộ còn rất nhiều điều bí ẩn chưa thể biết hết. Khoa học ngày nay tiến bộ, cho thấy tế bào thần kinh chẳng những rất nhu nhuyến (plasticity), có khả năng tự thích nghi, tự điều chỉnh mà còn có thể sinh sản tế bào mới (neurogenesis). Chúng có thể kết nối tự bên trong, hoán chuyển vị trí… chứ không phải tập trung từng khu vực cứng ngắc như ngày xưa đã tưởng. Khả năng thay đổi và thích nghi này của não không bị mất đi, tuy khi có tuổi thì các khả năng nhận thức, ngôn ngữ, trí nhớ, suy luận cũng kém đi theo tiến trình chung. Nghiên cứu gần đây cho thấy ở tuổi 80 não bộ vẫn còn tiếp tục tạo nên những con đường mới nối kết bên trong nên vẫn phát triển được.

Bây giờ thời đại cái gì cũng “thông minh” đáng ngại. Không lâu nữa, chắc con người sẽ có đủ “tam minh lục thông” chăng?
Tam minh là Túc mạng minh (biết rõ kiếp trước của mình), Thiên nhãn minh (biết rõ… kiếp sau của mình), Lậu tận minh (dứt tất cả lậu hoặc).
Lục thông gồm: Thiên nhãn thông, Thiên nhĩ thông, Tha tâm thông, Thần túc thông,…

Từ ngày có trang web riêng mình, do một bạn trẻ giúp cho, tôi bận bịu với nó nhiều hơn. Rồi nhờ nó mà tôi lần mò học cách post bài, đưa hình ảnh, chỉnh sửa tùm lum… Nó giúp tôi như quên ngày tháng, quên đi những buổi mai buổi chiều buổi trưa buổi tối… Nhưng cũng nhờ nó, tôi mở rộng việc học hỏi, mở rộng giao tiếp, thấy quả đất chỉ còn là một hòn bi xanh trong lòng bàn tay… Và chiếc điện thoại thông minh cũng giúp mình nhiều việc, dù thực tế nhiều lúc thấy nó thiệt là… ngu!

Mắt kém, đọc mỏi, tôi bắt đầu ít đọc báo, ít xem TV – ngày trước, mỗi ngày ngốn chục tờ báo là thường! Nay chỉ đọc lướt qua cái tựa là xong. Thời đại cần cái gì, gõ gõ vài cái có người đưa tới tận nhà! Hy vọng không lâu nữa, họ gởi các thứ qua mạng, bấm nút in ba chiều, muốn gì cũng có… Nghe nói người ta đã có thể “fax” một con người từ nơi này sang nơi khác… giúp ta không phải đợi chờ lâu! Máy móc, kỹ thuật, phương tiện nghe nhìn ngày càng chiếm ngụ trong ta, “thay mãi đời ta”…

(ĐHN)

………….
(*) nhân vật của Nikos Kazantzakis

Viết thêm: Cảm ơn chị Sương Lam Trần và anh Võ Tá Hân

 

Sương Lam

(Suong Lam Portland)

Chào BS Đỗ Hồng Ngọc,

Trong tinh thần sống vui vẻ trong tuổi “hoàng hạc”, Sương Lam thường giới thiệu hoặc chuyển tiếp những bài viết, những tài liệu đem lại niềm vui tinh thần  sống vui, sống khỏe, sống an nhiên tự tại đến các thân hữu của  Sương Lam.

Trang nhà của anh Ngọc Đỗ (www.dohongngoc.com) là một trong những trang nhà SL thích và muốn giới thiệu đến các thân hữu của SL như trang youtube  của thầy Thích Tánh Tuệ, của Thầy Thích Pháp Hòa, trang youtube của anh Võ Tá Hân, trang nhà Quán Ven Đường của anh Hùynh Chiếu Đẳng …

Kính chúc anh Đỗ Hồng Ngọc nhiều sức khỏe và an lạc trong cuộc sống,

Thân mến,

 

……………………………………………………………………………………

Võ Tá Hân

(hanvota.com)

Anh Đỗ Hồng Ngọc & Chị Sương Lam mến,

Anh Ngọc có khuyến khích người cao niên dùng máy vi tính thì cũng đừng quên khuyên họ nên … học đàn guitar nữa nhé.

Ngồi chăm chú tập đàn – quên hết mọi phiền toái cuộc đời – thì cũng là một cách “thiền”, luyện tập các ngón tay thì cũng giúp mình đỡ bị phong thấp, rồi 50 năm sau, nay mới ôm đàn hát được những những bài mình hằng yêu thích từ thuở 20 thì còn gì hạnh phúc hơn!

Sáng mai lớp Guitar Ngàn Thương sẽ có một buổi họp mặt ngoài trời – mọi người đều đã chích 3 mũi thuốc! (…)  Các “cụ nhạc sinh” góp mặt trong CD này hầu hết là các ông bà có trung bình 2 cháu nội ngoại, học đàn từ vài tháng đến khoảng 3 năm.

… và đây là hình ảnh lớp đàn đầu tiên mà tôi dạy năm 2017 cho nhóm bạn cao niên vùng Little Sài Gòn, Nam Cali.

 

Filed Under: Già ơi....chào bạn, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

Nguyên Giác: Đọc “Tôi học Phật” của Đỗ Hồng Ngọc

27/09/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Đọc “Tôi học Phật” của Đỗ Hồng Ngọc

Nguyên Giác

Báo GIÁC NGỘ TP.HCM, 26.09.2021

(https://giacngo.vn/doc-toi-hoc-phat-cua-do-hong-ngoc-post58829.html)

 

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc
Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc
GN – Có những người làm gì cũng hay, viết gì cũng hay. Tôi luôn luôn kinh ngạc về những người như vậy. Họ như dường lúc nào cũng chỉ ra một thế giới rất mới, mà người đời thường như tôi có ngó hoài cũng không dễ thấy ra.

Đỗ Hồng Ngọc là một người như thế.

Đỗ Hồng Ngọc là một bác sĩ; dĩ nhiên ai cũng biết, bởi vì anh nổi tiếng hơn rất nhiều bác sĩ khác, và được báo chí phỏng vấn thường xuyên. Nhưng anh cũng nổi tiếng làm thơ hay từ thời sinh viên. Thơ của anh nhiều đề tài, có cả thơ Vu lan, thơ tặng mẹ, thơ tình, thơ tặng em bé sơ sinh, thơ tặng bà bầu, và đủ thứ.

Trong khi tôi đọc, thưởng thức, và thán phục các vần thơ tuyệt vời của anh, nhưng tận cùng thích nhất vẫn là đọc Đỗ Hồng Ngọc viết về kinh Phật. Chính nơi lĩnh vực này, họ Đỗ viết gì cũng hay, viết ngắn cũng hay, viết dài cũng hay, viết về Thiền thở cũng hay, viết về ngũ uẩn giai không của Tâm kinh cũng hay, viết về ưng vô sở trụ của kinh Kim cang cũng hay, viết về kinh Pháp hoa, kinh Duy Ma Cật cũng hay. Và tôi tin, nhiều thế hệ sau sẽ nhớ tới một Đỗ Hồng Ngọc viết về lĩnh vực này, đó là những gì anh đã đọc, đã hiểu, đã sống và đã ghi xuống các trang giấy trọn một pháp giới học Phật của anh.

 

Đọc "Tôi học Phật" của Đỗ Hồng Ngọc ảnh 1
Thiết kế: Tống Viết Diễn (Báo Giác Ngộ số 1116-1119)

 

Nhiều thế hệ tương lai sẽ không nhớ tới một bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, và cũng chẳng thắc mắc chuyên ngành của anh có phải tai mũi họng hay nhi khoa, hay nội khoa. Cũng như chúng ta bây giờ chỉ mơ hồ hình dung về một bác sĩ Lê Đình Thám, nhưng dễ dàng nhớ về một cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám đã dịch kinh Lăng nghiêm, Đại thừa Khởi tín luận, v.v… cũng là người đã sáng lập Gia đình Phật Hóa Phổ, tiền thân của Gia đình Phật tử. Vâng, đời sau hẳn là sẽ nhớ tới Đỗ Hồng Ngọc với tuyển tập Tôi học Phật, một tuyển tập đã gom chung nhiều tác phẩm đã in rời trước kia.

Làm thế nào Đỗ Hồng Ngọc viết hay như thế? Phước đức, học lực của một đời hẳn là không đủ. Hẳn phải là nhiều đời. Tôi suy nghĩ về câu hỏi đó, khi đọc Tôi học Phật – phiên bản 2 của Đỗ Hồng Ngọc. Đây là ấn bản họ Đỗ biên tập lại nhân dịp nằm nhà khi cả nước rơi vào mùa dịch, như lời anh giải thích khi qua email:

“Cả gần 3 tháng nay nằm nhà. Tình hình Covid-19 ở Sài Gòn căng thẳng lắm như Hải đã biết. Trong suốt thời gian này, mình chỉ làm một việc là ‘biên tập’ lại toàn bộ cuốn Tôi học Phật, chủ yếu là một cách ôn tập cho bản thân. Nay tương đối hoàn chỉnh bản thảo này, mình in ra một ít để kỷ niệm. Bìa do mình tự ‘dàn dựng’, cảm hứng từ đặc san Liễu Quán (Huế), mang tính ‘lõm bõm’ ‘lãng mạn’ của mình…”

Đỗ Hồng Ngọc giải thích về cơ duyên học Phật sau 6 thập niên loanh quanh: “Khi là sinh viên ở Sài Gòn, tôi cũng đọc Bát-nhã, đọc Suzuki, Krishnamurti…nhưng đọc chỉ để mà đọc. Đến năm tuổi gần 60, sau một cơn bệnh thập tử nhất sinh, tôi thấy mọi sự khác hẳn đi. Tôi đọc Tâm kinh thấy không khó nữa. Như vỡ ra. Và với Tâm kinh, tôi thấy chỉ cần học một chữ thôi. Chữ không. Từ đó mà vô trụ, vô trí, vô đắc…”.

Nếu chúng ta nhìn về không khí học Phật nơi thế giới Tây phương, cụ thể là tại Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Úc châu… chúng ta có thể thấy 2 khuynh hướng lớn. Thứ nhất, khuynh hướng thế tục hóa Phật giáo, làm cho Phật giáo trở thành một ứng dụng đời thường, biến Phật pháp thành một pháp mindfulness đơn giản để thư giãn, để chữa bệnh, để làm một liệu pháp nơi góc bệnh viện, thậm chí để làm một pháp tỉnh thức bổ túc cho các tôn giáo khác. Thứ hai, khuynh hướng xuất thế gian, học Phật để bước đi trên đường giải thoát của Phật giáo, nơi đây lại chia ra ba tông phái lớn: Nam tông, Bắc tông, Kim Cang thừa (Phật giáo Tây Tạng).Đó là cơ duyên lớn của tác giả họ Đỗ. Vì có những người tụng Tâm kinh cả đời, nhưng không hiểu được. Cũng như có người đọc chú giải Tâm kinh từ nhiều thầy, nhưng lại không vào được. Có người sau nhiều năm không hiểu, lại ngờ vực Tâm kinh. Rồi có những người chọn thái độ kính nhi viễn chi, dặn nhau là nên tìm những gì cho đơn giản, thích nghi với đời sống hơn, nói sai lầm rằng Tâm kinh chỉ là kinh để tụng trong chùa. Hiển nhiên là trăm ngả rẽ. Hẳn là tùy cơ duyên.

Tuyệt vời nơi Đỗ Hồng Ngọc là chúng sinh muốn nghe chuyện gì thì anh nói chuyện đó. Muốn nghe chuyện ứng dụng thế gian, họ Đỗ trở thành một bác sĩ phân tích về sức khỏe thân và tâm. Muốn nghe chuyện giải thoát, họ Đỗ liền trở thành một người kể lại các kinh nghiệm học Phật mà ai cũng có thể học theo và tự chứng ngộ được.

Thí dụ, Đỗ Hồng Ngọc, trong tư cách bác sĩ, đã viết về chữa bệnh: “… Đặc biệt là phương pháp ‘thở Chánh niệm’ – mà Phật đã dạy từ những bài học đầu tiên sau khi giác ngộ – tôi thấy có thể có hiệu quả trong phòng ngừa và điều trị một số bệnh thời đại, những bệnh dịch không lây, nhưng rất nguy hiểm, gây khổ đau, tàn phế cho nhiều người mà Tổ chức Sức khỏe Thế giới (WHO) đã luôn cảnh báo trong những năm gần đây, làm giảm chất lượng cuộc sống của con người, chủ yếu do lối sống và môi trường sống đầy căng thẳng, bất an…”.

Như thế rất thực dụng, bất kỳ tín đồ tôn giáo nào cũng có thể áp dụng được. Phương pháp thiền Tỉnh thức dùng trong các trường học, và trong các bệnh viện tại Hoa Kỳ hiện nay cũng dựa nhiều vào pháp thở Chánh niệm. Khi Phật pháp ứng dụng để dùng trong trường học và bệnh viện, tất cả yếu tố tín ngưỡng và tôn giáo đều phải gỡ bỏ.

 

Đọc "Tôi học Phật" của Đỗ Hồng Ngọc ảnh 3
Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc chia sẻ chủ đề “Tôi học Phật” tại chùa Thiên Quang (Bình Dương)

 

Nơi mặt ngược lại, khi nói về giải thoát luận, Đỗ Hồng Ngọc đã chỉ ra những cách nhìn để xúc chạm sâu thẳm tới các pháp ấn: vô ngã, vô thường, khổ, không. Chúng ta có thể nhớ rằng, chư Tổ ngày xưa lấy cỗ xe ra để giải thích lý vô ngã, để nói rằng không hề có cái gì gọi là xe nào trong cỗ xe, gọng xe, bánh xe… Và rất hiện đại hóa, Đỗ Hồng Ngọc lấy cái đồng hồ ra để giải thích về lý vô ngã:

“Bị bó rọ, bị thành kiến che khuất, lấp chặt, dần dần ta bị lệ thuộc, bị níu kéo, ta giữ lề, cho ‘xứng với ta’, với vai ta đóng và bản ngã ta sẽ ngày càng to, càng dầy ra, chính là nguồn gốc của khổ đau. Cái gì có ‘ta’ trong đó thì tạo ra khổ đau. Nhà ta, của ta, con ta, người yêu ta và thân ta… Mà cái ta đó, theo cái nhìn Bát-nhã Tâm kinh chỉ là sự kết hợp của những thành tố do duyên mà tụ lại, tương tác, tương sinh, tương hợp, cái này có là do cái kia có, quấn quýt chằng chịt lẫn nhau – như những thành tố tạo nên cái đồng hồ gồm kim, bánh xe, con lắc… và sinh ra tiếng ‘tích tắc’. ‘Tích tắc’ vốn không có, thực không có, do kết hợp các thành tố riêng lẻ mà có. Gỡ bỏ các thành tố ra để tìm lấy tiếng tích tắc (cái ngã) sẽ không thấy đâu nữa! Ráp lại thì có. Cái tiếng tích tắc, không mà có, có mà không, trống rỗng mà tràn đầy là sự vận hành tuyệt diệu của cái đồng hồ. ‘Chân không’ cũng chính là ‘diệu hữu’. Dừng lại ở ‘không’ đơn thuần, như một xóa bỏ, từ chối, hư vô chủ nghĩa là một sai lầm tai hại”.

Có thể tin rằng, những gì tác giả Đỗ Hồng Ngọc viết về học Phật sẽ lưu giữ rất lâu trong nền văn học Phật giáo quê nhà, vì toàn văn tuy rời rạc, nhiều chủ đề, nhưng vẫn xuyên suốt là một tập luận thư để chú giải kinh Phật. Điều rất khác giữa Đỗ Hồng Ngọc và nhiều vị tiền bối là từ chỗ rất lơ mơ trong 6 thập niên, chứ không phải vào chùa học Phật từ thời thơ ấu, cho nên văn phong của anh là một pháp giới xen lẫn của một nhà văn, một nhà thơ, và là một nhà khoa học. Đây cũng là chỗ độc đáo không chỉ của anh, mà là của rất nhiều người từ một thế hệ học Phật cùng thời.

Nơi đó, để Phật hóa cõi nhân gian, một thế hệ học Phật đã từ nhiều cõi nước hẹn nhau bước tới Việt Nam, để học, để tu, để dịch, để dạy và để viết – trong đó có cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám, thầy Minh Châu, thầy Nhất Hạnh, thầy Thanh Từ, thầy Tuệ Sỹ, Giáo sư Lê Mạnh Thát, Ni trưởng Trí Hải, Ni trưởng Hải Triều Âm… Và nơi mặt khác, để thi hóa cõi trần gian đầy đau đớn này, để chỉ ra Khổ đế nhằm làm tiền đề cho Đạo đế hiển lộ, một thế hệ các văn nghệ sĩ đã hẹn nhau tới Việt Nam để sống và để viết lên những cõi thơ dị thường, trong đó có Bùi Giáng, Phạm Thiên Thư, Đỗ Hồng Ngọc, Thích Tánh Tuệ, Nguyễn Lương Vỵ…

Nói theo Phật giáo Tây Tạng, họ là những bậc tái sinh. Dĩ nhiên, tác giả Đỗ Hồng Ngọc không đồng ý về nhận xét này. Vì họ Đỗ sẽ dẫn ra ngay rằng anh không hề thấy có cái gì gọi là “cái ta, cái của ta” trong thân ngũ uẩn, thì hà huống gì lại nói rằng có một chàng họ Đỗ hẹn tới Việt Nam để làm thơ, để viết văn, để chú giải kinh Phật:

“Trong cái tánh “Không” đó, tất cả là Vô, hay nói khác đi, tất cả là không có! Không có hình thể, sắc tướng; không có cảm thọ – không có tưởng, hành, thức gì cả. Tóm lại, là vô ngã. Không có cái ta thực mà chỉ có cái ta giả tạm, bọt bèo, cái ta đang ăn uống, nói năng, huênh hoang, tự mãn, tự ti, tham lam, sân si, mê đắm… đủ thứ, đủ kiểu. Cái ta giả này làm khổ cái ta thật. Cái ta giả làm Tôn Ngộ Không bị kim cô siết đau muốn chết, còn cái ta thật thì Tôn Ngộ Không đã bay bổng biến ra vô số những Tôn Ngộ Không khác rồi! Mà đã vô sắc (cái thân xác) thì đương nhiên sẽ vô nhãn (mắt), vô nhĩ (tai), tỷ (mũi), thiệt (lưỡi), thân (xúc giác), ý (suy tưởng). Toàn thân đã không có lẽ nào có từng thành phần?”.

Một điểm đặc biệt trong Tôi học Phật của Đỗ Hồng Ngọc, và cũng hiếm thấy nơi các tác giả khác: bạn có thể ngưng ở bất kỳ trang nào, ở bất kỳ dòng chữ nào, để tự nghiệm những lời kinh được chú giải ngay trên thân và tâm của bạn. Bạn hãy đọc rất chậm và hãy nghiệm như thế, nơi từng hơi thở của bạn, nơi từng niệm và nơi từng cảm thọ của bạn. Những dòng chữ Đỗ Hồng Ngọc viết xuống trong sách cũng là từ các thể nghiệm thực chứng của tác giả. Đó là những dòng trực giải kinh Phật rất mực trang nghiêm, nơi đó từng dòng chữ đã trở thành những trận mưa hoa để cúng dường chư Phật. Nơi đó là hạnh phúc, là an lạc và là vô lượng công đức.

Nguyên Giác/ Báo Giác Ngộ
(26.09.2021)

Filed Under: Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Ngô Nguyên Nghiễm viết về Phan Bá Thụy Dương

22/09/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Phan Bá Thụy Dương: Đại Thiên Sa Giới Ngoại/ Hà Xứ Bất Vi Gia

Ngô Nguyên Nghiễm

PBTD
Hai câu kệ của tổ sư Thường Chiếu đời nhà Lý, được nhà thơ Phan Bá Thụy Dương chuyển ý “ngoài cõi trời bao la vô tận đó/ có nơi đâu chẳng thể gọi là nhà”. Cái khuynh khoái của người nghệ sĩ chất nhẹ trên đôi vai gánh tang bồng, thì thế sự chất chồng chung quanh nẻo sống chỉ là những cát bụi phù du. Bước đạt ngộ của kẻ làm văn nghệ hình như cũng tương đồng với thậm thâm vi diệu pháp của người tu chứng. Quẫy trên lưng cả một vũ trụ nghiệp chướng dầy đặt những hạnh phúc hay khổ đau, như quẫy nhẹ cả hư không trong lòng người đạt ngộ.
Thơ Phan Bá Thụy Dương có cái gì nhè nhẹ, loáng thoáng lúc khinh bạt như hình dáng một người hàn sĩ vác thanh kiếm hồng, vửa du hành vửa ca tụng thanh thoát giữa rừng bạch tùng đầy mù sương và khí thiêng. Nhưng người khách tiêu dao kia, không chỉ một đường đi thẳng trầm lặng trong vũ trụ riêng mình. Hàn sĩ vác thanh khí gươm hồng, ngoãnh lại sau lưng cười nhẹ nhàng chia sẻ dưỡng trấp hậu thiên cùng người đồng điệu nhân gian. Cái ngoáy nhìn lại trong giây phút vô hư chính là trang trải nỗi niềm thanh thản bồ tát đạo, hình như chỉ để chia sẻ những tinh hoa và hạnh phúc thường hằng, còn ẩn hiện trong hàng vạn lớp thượng tầng sinh khí với vạn vật của ba ngàn thế giới quy tông.
Dù Phan Bá Thụy Dương có giây phút phân trần “cõi trần thế lỡ đam mê sa đọa/mãi rong chơi ta lạc lối quay về”. Nhưng nhìn kỹ đi, lời nói ởm ờ được nhà thơ bạch sĩ đặt trang trọng đầu thi tập, như lời quảng bá tư thức và hành hiệp lãng bạt trong suốt tập thơ Lời Gọi Cỏ May, thì không phải vậy đâu… Có ý niệm quay về, là có tâm thức đáo bỉ ngạn, quay đầu là bờ.
Tất cả ngôn ngữ thi ca, trong suốt quãng đời phiêu bạt của người cuồng sĩ lãng đãng trên thi ca, Phan Bá Thụy Dương chính là người đạo sĩ tài ba thuần hóa từng chi tiết một cho hồn thơ con chữ “thôi thôi ta về ôm góc núi/ đẻo gỗ trầm hương tạc tượng nàng”, từ tinh túy mật diệu trầm hương, đến hứng tinh hoa nhật nguyệt mà lay động cả càn khôn, hầu “dựng am đường hội chứng vô âm”.
Chiêm nghiệm thơ lão mai Phan Bá Thụy Dương, khiến tôi chất ngất trong thanh khí tuyệt bích, lãng đãng lướt nhẹ trong hiện thức, rồi như cơn cuồng vọng bất chợt chìm lắng lặng lờ quanh cái có cái hư không. Cũng vậy, bỗng dưng và không hiểu tại sao tôi chợt bước vào hai ngõ rẽ, như hai con đường định mệnh bắt buộc, người trần gian từ đó trầm tưởng chọn lựa để quay về. Một là khí lực thượng thanh lão đạo của Phan Bá Thụy Dương, nhẹ nhàng như lão tiều già thoát tục gánh bó củi khô, như sương như khói thoạt ẩn thoạt hiện trên vách núi cheo leo. Một như âm khí đục lẳng, gom góp cả một trời ngôn ngữ của ngàn trùng, của gió hú và nghe thời khắc rơm rớm âm sầu của cầm dương trấng cầm dương xanh ngất lạnh (Nguyễn Lương Vỵ/ Tám câu lục huyền âm). Quả thật, giữa hai đối cực trùng trùng thần thông, trước cái lạnh chất ngất ma quái của thơ Nguyễn Lương Vỵ, lại là một thanh khí huyền bá phiêu lãng vi diệu trung đạo thì có màng gì cái sắc cái không trong thơ Phan Bá Thụy Dương! “trong chốn mơ hồ u tịch đó/thoáng nghe dìu dặt tiếng tiêu buông/thõng tay theo gió, theo mưa lũ/tâm trụ an nhiên/mộng bình thường”.
Nhìn đây, hình ảnh Trang Châu loáng thoáng theo gió, theo mưa lũ, mà trụ tâm. Thõng tay mà an nhiên, như Trang Tử bật thốt ngơ ngác, không hiểu gió thổi mình hay mình lướt theo gió. Cái thường trụ là hiển nhiên trong thế giới sắc dục, nhưng thể chất nhân gian vẫn là rào cản bước vận hành thanh khí chân như, huống hồ gì ngôn ngữ cũng chỉ là hiện thể vật chất có thành trụ hoại diệt, tạm bợ luân chuyển trong đời sống và nghệ thuật. Như vậy, tâm và ý bất chợt hiện nhập làm một, và thi ca và thi nhân cũng nhập thể hóa thân. Thì, thơ như đường trăng soi khi hoa nở, và mỗi nhân thế có một nét rung động khác nhau, nhưng thơ vẫn là một trong một ý niệm niêm hoa vi tiếu của thi nhân:
Chim thức giấc cất lời ru thật lạ
người phong trần
qua mấy độ truân chuyên
thấy gì chưa
tự ngã với uyên nguyên
hay ngần ngại chia xa lòng thung lũng?
từ tiềm thức đã lạc quên long trượng
đâu đây chừng thấp thoáng ánh vô ưu
thiền khách nầy-
thiền khách đã về chưa?
…………….
(Nói với thiền khách/Lời Gọi Cỏ May)
Bước vào thế giới thơ Phan Bá Thụy Dương, phải bằng bước chân thong thả nhẹ nhàng và chất chứa một thông thoáng đạo vị. Nhưng đừng lầm lẫn trong phong thái tiêu dao trên từng ngôn ngữ thơ, mà lạc bước trong vòng xoáy sắc không, đang huyển hóa từng thời khắc theo phóng bút của người thơ. Cái lãng đãng tiêu dao của một không khí mai lan trúc cúc, gió sớm mây chiều, giọng hát trong âm thanh sên phách, thì chính thị là khuynh thế Lão Trang. Từ “gánh càn khôn u uẩn tiếng mưa khơi” đến an nhiên của vô vi “tay ơ hờ vuốt gió hát buâng quơ”. Ý niệm đó, trong Bài Tâm Ca Vô Niệm, Phan Bá Thụy Dương đã đồng ý khi thi bá Vũ Hoàng Chương nhẹ gật đầu “Túy-ca bè đã thả rồi/ Túy-hương xưa hãy cùng trôi ngược về”.
Nhập thể tam thanh, là hình thức khiến thơ Phan Bá Thụy Dương phiêu hốt hằng hà sa số với cơn trốt hư không. Cuộc sống đi – về như mây trôi gió nổi, nửa tục nửa tiên ôm một giác đạo của hình thức hoạt ngộ giới xiển giáo. Đời tử sinh còn lẽo đẽo khiến thơ lúc quanh quẩn bụi hồng trần, lúc tiêu dao xua tự ngã u minh. Chính vậy, đường thơ đi như tạc hình ẩn khách, khiến xiêm y loạn lửa chân như “đèo hiu hắt bạt ngàn – đêm tận tuyệt/ rải sa mù khuất bóng nẻo từ ly”.
Uống khô dòng suối, tát cạn biển Đông… cũng có thể làm được, vì đó là một hiện thể dục giới. Nhưng hóa hiện chất ngất của một câu thơ mà đêm tận tuyệt chắc chắn phải trải dài trong không – thời gian vô định, bất phân ly thời khắc để biết đâu là nguyên thủy đâu là vô cực vô chung. Xá gì, lại rải mù sa phân kín hư không trong sắc giới chiêu hồn cho khuất bóng nẻo từ ly. Hàng hàng vi diệu trải dài trong cuộc đời, họa chăng hiện hữu cũng chỉ là dấu vết ký gởi nhỏ nhoi trong sắc giới. Cái ảo ảnh nhiểu lúc tương ly tương biệt cũng huyền biến cho tâm trần thi nhân phải trài ra mặt đất, dù có dưới ánh sáng thái dương hay giữa sương mù lãng đãng. Hiện hữu đó như kẻ thõng tay vào chợ, dù chưa thấy được trâu trắng nhưng cũng thảng thốt:

về đâu cánh vạc Chân Như
có qua thủy mộ huyết hư chập chờn
người đi sấm vỗ hoàng hôn
nhịp khua long trượng
động hồn lửa thiêng
nhập dòng sinh hóa vô biên
biển mê bến ngộ đôi miền tịch lương
bay đi-lão hạc vô thường!
(Túy mộng du du hề/Lời Gọi Cỏ May)
Mỗi người chiêm nghiệm sự hóa thân của thơ, như những hình tượng được đặt ở nhiều góc cạnh khác nhau, bốn phương tám hướng. Nhờ vậy, nét phân ly trong từng thẩm thấu tri ngộ như những giọt sữa tinh khiết, nhỏ giọt làm tươi xanh sức sống hạnh phúc. Nhưng mỗi ấn tượng tri ngộ hình như cũng chuyển hóa khác nhau, bởi từ góc đứng mà cảm thức theo trí tuệ tâm thông. Thơ Phan Bá Thụy Dương có một quan điểm nghệ thuật riêng biệt, của riêng một thế giới mã não mà tự Ông xây dựng. Thế giới như vậy, theo một kiến trúc kỳ vĩ quá, khiến thơ bát ngát, chứa đựng cà một không gian thời gian xấp lốp theo bạt ngàn của ý thơ sinh hóa. Hình thể của một cấu trúc, cư trú sang trọng, trang nghiêm, đã tách xa những địa hạt thổ cư của các dòng thơ khác. Quả thật, trong những hội ngộ bạch thoại với những lão thi sừng sõ bằng hữu, thơ Phan Bá Thụy Dương cũng trải dài trong tán thán của nhiều người quen. Nét hạnh ngộ tương phùng của tri kỷ tri âm, là hình thức tam hoa tụ đỉnh cung hiến cho thơ.
Thơ vô cùng vô tận, nhưng ngôn ngữ vẫn còn trong một giới hạn hữu hình. Người làm thơ vẫn là nhân dáng, mang trong nghiệp chướng nhiều ân điển thừa trừ từ nhân quả nào. Sự yên lặng giữa bộn bề cuồng quái của cuộc sống, thơ vẫn lặng chảy như dòng suối nhẹ nhàng trên hòn non bộ thu nhỏ đất trời. Thi nhân đạt quả vị, tâm hồn cũng trầm lặng như thế, nương thơ mà làm khách tha phương, không bận rộn chuyện thị phi vương vấn:

ghé quán bên đường cạn một ly
cơ hồ tiền kiếp gợi sân si
rót thêm chai nữa-thêm chai nữa
thì chuyện tới lui có xá gì
ngửa mặt cười khan cùng nắng quái
men nồng như phảng phất đâu đây
người xưa tích cũ trong thi sử
ai kẻ luận đàm việc tỉnh say
thôi tôi, cời chút than sưởi gió
vói tay bắt bóng trả cho mây
(Bài túy ca viết trên cố hương/Lời Gọi Cỏ May)

Với tay bắt bóng trả lại cho ngàn mây, những diệu ngã cũng vẫn là cái chấp, dù đó là bản ngã vi diệu thậm thâm. Những hình bóng hữu vi, vẫn thoắt ẩn thoắt hiện, không có gì nhập thể vô ngã. Thơ Phan Bá Thụy Dương, vịn trên ngôn ngữ mà trải dài những biến dịch vô thường. Chính nét nhìn xuyên thấu ngôn ngữ, chẻ vụn thần khí chữ nghĩa để tìm từng hạt ngọc quý mà lau chùi. Nét tinh quang rạng rỡ giữa tịch mịch hư không, khiến:

bến nhân gian ai quán niệm vô thường

hành trình xa ngựa đà lỏng dây cương
trên vách núi chân dung ai mờ tỏ
……………………………………….
đốt công án, buông kinh thư giác ngộ
vào chợ đời áo mỏng phất phơ bay
bụi khói mê man
chênh chếch nắng gầy
lời phố thị chập chờn như ảo giác
(Liên khúc vô thường/ Lời Gọi Cỏ May)
Nhập thể với vô thường, khiến dòng thơ trôi loáng thoáng trong gió nổi, Phan Bá Thụy Dương hình như vẫn luôn an nhiên rong chơi trên vùng đất mới, mà nhà thơ Trần Tuấn Kiệt thường phán đoán “hay đang trầm tư lắng nghe các chuyển động của hữu thể hòa nhập với thời gian trôi nổi vô lường…..”
NGÔ NGUYÊN NGHIỄM
…………………………………………………………….
Viết Thêm:

Thư gởi bạn xa xôi

Đỗ Hồng Ngọc


On Feb 3, 2020, at 09:44, Phan Ba Thuy Duong

Ngọc thân,

Gởi toa bài thơ Nói Với Thiền Khách mình làm tặng bạn và anh Trần Thiện Hiệp.

2 tuần nữa mình sẽ rời Kobe để về Thuỵ sĩ. Vẫn luôn ghi nhớ những ngày ngao du cùng Ngọc ở Saigon.

Ráng giữ gìn sức khoẻ để thường xuyên đi làm những điều tâm nguyện và hữu ích cho đời, cho người…

Cầu cho bạn thân tâm luôn an lạc.

Tình thân,

Phan Bá Thụy Dương

………………………………………………………..

 

PHAN BÁ THUỴ DƯƠNG

Nói Với Thiền Khách

Gởi ĐỗHồngNgọc, TrầnThiệnHiệp

 

Một bức phù điêu (Phan Thiết, ảnh ĐHN)

 

Cánh vạc nào bay trong triền nắng sớm

Tiếng hót xa xăm như tận cõi trời

Sao u trầm chất ngất khách thiền ơi

Xin nhẹ bước trên lối mòn tỉnh lặng

 

Rừng cô tịch có gì đâu tra vấn

Lửa Chân Như có đủ ấm linh hồn

Đất bùn nào còn ghi lại dấu chân

Tâm vô niệm đường xa gần đi mãi

 

Có phải người đang quay về bến đợi

Gom lá vàng gỗ mục dưới trăng trong

Về đi thôi, đêm lạnh giá mênh mông

Áo nâu mỏng sao che mưa đở gió

 

Chim thức giấc cất lời ru thanh nhã

Người phong trần qua mấy độ truân chuyên

Thấy gì chưa tự ngã với uyên nguyên

Hay ngần ngại chia xa lòng thung lũng

 

Từ tiềm thức đã lạc quên long trượng

Đâu đây chừng thấp thoáng ánh vô ưu

Thiền khách này, thiền khách đã về chưa

Xin trả lại cho ta quê, tình cũ.

PHAN BÁ THUỴ  DƯƠNG

…………………………………………………………………….

 

Lời Gọi Cỏ May của Phan Bá Thụy Dương

Đỗ Hồng Ngọc

Phan Bá Thụy Dương, tên thật Phan Bá Dương, sinh năm 1940 tại Tuy Phong, Bình Thuận, cùng học chung lớp Đệ thất A1 trường Phan Bội Châu Phan Thiết năm 1954 với Trần Vấn Lệ, Phan Đổng Lý, Huỳnh Ngọc Hùng, Huỳnh Tấn Thời, Đỗ Hồng Ngọc…

Bọn tôi “thất lạc” nhau mấy chục năm, người góc biển kẻ chân trời, năm nay bỗng gặp lại nhau- tình cờ cũng là dịp kỷ niệm 60 năm ngày thành lập trường Phan Bội Châu, Phan Thiết – đứa nào đứa nấy ngớ ra, đầu bạc răng long, ú ú ớ ớ rồi mày mày tao tao tíu tít như những cậu học trò nhỏ nghich ngợm ngày xưa bên bờ sông Cà Ty và bãi biển Thương Chánh (Phan Thiết)!

Bãi Phan Thiết (ảnh ĐHN)

Phan Bá Thụy Dương viết văn làm báo sớm, từ năm 1958 với nhiều bút hiệu, thân quen  nhiều người trong giới văn nghệ sĩ. Anh là một người “khoái hoạt”, vui tính, náo nhiệt, chuyện trên trời dưới đất gì cũng biết nên ai gặp cũng vui. Anh làm sách cho nhiều tác giả mà quên làm cho mình cuốn nào. Mãi nay bạn bè hối thúc quá mới in một cuốn “tuyển tập thơ văn Lời Gọi Cỏ May” cho vui. Lời gọi cỏ may có nhiều bài thơ cảm động, anh em bè bạn viết cho nhau.

Thơ Phan Bá Thụy Dương phải nói là hay, khoái hoạt mà khinh bạt, trầm lắng… Thử đọc một đoạn trong liên khúc vô thường:

 

liên khúc vô thường

ném công án, vất kinh thư bất ngộ

theo đường trăng-

trăng khi tỏ khi lu

tìm người hiền nơi thâm cốc âm u

thõng tay vào rừng giả làm ẩn sĩ

giòng sinh mệnh

chừng nhuộm màu chướng khí

bến nhân gian ai quán niệm vô thường

hành trình xa ngựa đà lỏng dây cương

trên vách núi chân dung in mờ tỏ

…….

(LGCM, tr 4)

Ảnh: Phan Thiết, Lagi (ĐHN)

 

 

 

Filed Under: Chẳng cũng khoái ru?, Già ơi....chào bạn, Góc nhìn - nhận định, Vài đoạn hồi ký

Lữ Kiều: CHÀNG NHO SINH DƯỚI GỐC TÙNG

20/09/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

CHÀNG NHO SINH DƯỚI GỐC TÙNG
thử bút & xuôi dòng
Lữ Kiều

DML_Cover_PreOrder.jpg

Tranh bìa: Lữ Kiều
Thiết kế bìa: Lê Giang Trần
Tựa: Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc
Bạt: Nguyên Minh – Cao Kim Quy – Trần Thị Nguyệt Mai
VĂN HỌC PRESS xuất bản, 2021

@@@
Tựa:

TÔI CŨNG TIN VẬY…

Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc

Hơn bốn mươi năm cầm bút, chàng “nho sinh” kia vẫn chỉ có mỗi một việc để làm, miệt mài, không mệt mỏi, ấy là thử bút. Chàng nắn nót, nâng niu, đưa ngọn bút lông lên ngang tầm mắt, ngắm nghía từng sợi nhỏ, xoay tới xoay lui đôi ba bận một cách thuần thục mà ngập ngừng, rồi thè lưỡi liếm nhanh mấy cái như vót cho các sợi lông bút quấn quít vào nhau, cho nhọn hoắt lại như gom nội lực vào nhất điểm; rồi thận trọng, nhẹ nhàng chàng nhúng bút sâu vào nghiên mực đã mài sẵn, ngập đến tận cán, rút nhanh ra rồi chắt vào thành nghiên, ấn ấn xoay xoay lúc nặng lúc nhẹ cho mực túa ra nức nở, ào ạt rồi thưa dần, đến lúc sắc nhọn vừa ý, chàng phết nhẹ một nét lên tờ giấy đợi chờ, như để đo độ đậm nhạt, hít một luồng chân khí, định thần, lim dim, rồi phóng bút… Chàng “nho sinh” mỉm cười khoái trá, trút đi gánh nặng ngàn cân, kiệt sức, nhanh tay nhúng bút vào lọ nước trong… Những giọt mực thừa rơi lả tả…

Thử bút, không phải tùy bút, không phải tản mạn, không phải tạp văn… Nó ùa ra, nó túa ra, nó lan ra, có lúc tòe loe, có khi hụt hẫng, những cảm hứng, những ngẫu hứng, những xúc động bất chợt, như không kềm chế được…

*  *  *

Bạn tôi, Lữ Kiều Thân Trọng Minh, con mắt thầy thuốc đắn đo, cái hồn thi sĩ mang mang, trái tim hiền triết Đông phương. Tuổi đôi mươi tự vấn văn chương, số phận, ý nghĩa đời người… Rồi “xuôi dòng” với bao bờ bến lạ. Có những phút tưởng thoát ra được. Giằng xé, hoang mang. Cuối cùng vẫn không thoát. Chàng vẫn là kẻ chỉ sống với cảm tính, viết với cảm tính, nếu có nhận ra một điều gì đó như là một khẳng định thì ấy chính là “chỉ có văn nghệ là vượt thoát, là giúp con người tử tế với nhau”. Chàng thổ lộ:

Thuở đôi mươi chữ nghĩa đã mê hoặc tôi.

… cho đến khi hiểu ra, cuộc sống vẫn hồn nhiên trôi đi, ta cũng trôi đi. (Lãng ca, 1982)

… chúng tôi không còn trẻ, quỹ thời gian của đời người đang hồi vét cạn. (Tự tình, 2001)

Khi nói về thơ, thứ mê hoặc hơn tất cả những mê hoặc, chàng cũng đã nhận ra của hôm nay và ngày tháng cũ:

Thơ bấy giờ là bài ca mê muội của lòng say đắm, có cái thất thanh của tiếng vỡ thủy tinh nhưng cũng đâu đó đã có cái bồi hồi im lặng của giới hạn.

… những điều tưởng như rất cũ xưa kia, giờ đây đã khác. Đã có sự giả hình, lòng khinh bạc, có cả sự thù hận lẫn trong tình thương yêu…

Những cuộc chia tay, những lần phụ tình, thấy lòng nghèo đi những xúc động cũ. Mới hoảng hốt thương mình đã sống quá xa đường hẹn ước… (Lãng ca, 1982)

Chàng không viết “những lần tình phụ” mà viết “những lần phụ tình”. Tôi thích cái cách viết của bạn tôi, khẳng khái, của một tâm hồn hào hoa mà nhân bản. Nhưng điều đắng cay đọng lại trong chúng tôi chính là “thấy lòng nghèo đi những xúc động cũ… hoảng hốt thương mình đã sống quá xa đường hẹn ước.”

Bởi đã có một thời chàng hùng hồn như đứng giữa đời mà hét: Con dế mèn có thể hát để mà hát nhưng tôi không thể viết để mà viết. Đó là những phút rời bỏ viễn mơ, thấy con đường trách nhiệm của người trí thức, thấy cần thiết một dấn thân.

Phải, nhưng rồi chàng đành thú thật: Đời sống trở nên đầy ắp giằng co. Sự giằng co giữa hai người trong một tấm thân làm ta kiệt quệ!

Đó chính là sự giằng xé giữa lý trí và cảm xúc để cuối cùng chỉ còn “chừa lại một sợi khói phù du”. Vâng, chính là sợi khói phù du đó mà ta “ưng tác như thị quán!’.

Đọc Lữ Kiều, thấy có những lúc ngọn bút của anh như những nhát dao phẫu thuật, sắc cạnh và chính xác; lại có những lúc như những nhát cọ mơn man, đắm đuối…

Tôi thương bạn như thương chính mình, cùng những anh em bạn bè mình một thuở khôn nguôi. Chàng như vùng vẫy giữa trùng vây của ngã nhân chúng sanh thọ giả, để rồi hốt hoảng nhận ra mình đang cheo leo: “Tôi vẫn thường ngồi thâu đêm, suy nghĩ và không suy nghĩ. Thời gian qua đi, tôi chiêm nghiệm được thời gian trên từng phân vuông da thịt, bởi khi người ta già, ta nhạy cảm với cái chết của từng tế bào trong cơ thể, vô hình nhưng có thật”. (Con đường nhan sắc, 1990)

Đó là những lúc bạn bè về trong trí nhớ, và đôi mắt nhung ai kia đã từng dòng lệ nhỏ, một chiều cuối năm hun hút nơi đầu hẻm cụt phố phường:

Bạn cũ gọi về trong trí nhớ
Lá vẫn bay và ta cuối năm
Đôi mắt nhung đen hàng lệ nhỏ
Thì thôi lá chọn đất ân cần.

Bạn cũ. Đất. Ân cần. Đó là tất cả những gì còn lại trong người đàn ông 60 chiều cuối năm. (Gió Mai, những ngày hoang dại, 2003).

Đọc Lữ Kiều, thương một thân phận. Cảm được cái chán chường, cái đắng cay lạ lùng không nói hết, không nói được. Tôi rưng rức nhớ hình ảnh buổi chiều, anh ngồi bên tôi ở một quán riêng. Để ánh sáng hắt từ phía sau lưng mình, không như thường lệ, chàng buồn bã nói với tôi về chiếc lá bàng đỏ hun hút cuối hành lang của một phòng thí nghiệm, ở đó, một người bạn chung của chúng tôi là bác sĩ giải phẫu bệnh lý chuyên khoa về ung thư, đã mỉm cười cùng chàng mà ánh mắt vời vợi xa xăm.

Với tôi, dẫu thế nào tôi cũng hiểu và thương bạn hơn bao giờ hết: Khi tác phẩm đã hình thành, mây tan, hồn tôi khánh kiệt. Bạn viết. Sự khánh kiệt nào cũng dễ thương, như một buông xả. Bởi buông xả nào mà không khánh kiệt, phải không?

Tôi có một thói xấu là mỗi khi soạn chồng sách cũ, giở lại những tờ thư xưa, những tấm ảnh hoen màu lại bần thần rã rượi, bị chìm đắm cuốn hút vào bao nhiêu kỷ niệm lúc nào không hay, quên cả thở chánh niệm! Đọc bản thảo Thử Bút của bạn, nhớ lời bạn dặn viết gấp mấy dòng mà đắm và sợ. Như ngọn lửa ngún trong một gốc cây to, chỉ cần thổi vài hơi là đủ bùng cháy. Bùi nhùi đâu mà sẵn sàng đến vậy?

Rồi bỗng lóe lên một niềm hy vọng mong manh khi bạn tôi viết:

Tìm trong kinh Dịch, bèn đắc ý với một hào dương dưới những hào âm, quẻ Phục đó!

Tôi cũng tin vậy.

(8/2006)

Nguồn: (tranthinguyetmai.wordpress)

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Ra mắt tuyển tập ‘Tiếng Hát Thu Vàng’  

18/09/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Ra mắt tuyển tập ‘Tiếng Hát Thu Vàng’  

Nguyên Giác  

(xin đọc đầy đủ trên https://tranthinguyetmai.wordpress.com/2021/09/16/voi-nang-vang-va-am-nhac-ra-mat-tuyen-tap-tieng-hat-thu-vang/)

 

Cuốn tuyển tập nhiều tác giả viết về Tiếng Hát Thu Vàng dày gần 250 trang bìa màu và bên trong có nhiều tranh phụ bản màu và trắng đen của các họa sĩ Bé Ký, Cao Bá Minh, Duyên, Lê Ký Thương, Nguyên Khai, Nguyễn Đình Thuần, Nguyễn Thiên Chương, Trương Đình Uyên, Trương Vũ. Họa sĩ Khánh Trường thiết kế bìa, ảnh bìa của nhà văn nhà báo Phan Tấn Hải, với lời giới thiệu của nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh và lời bạt của Trần Thị Nguyệt Mai.
Trong bài phỏng vấn ca sĩ Thu Vàng do nhà văn Trần Doãn Nho thực hiện, ca sĩ Thu Vàng đã kể về cơ duyên đến với âm nhạc của chị:

“Tôi còn nhớ những năm đầu Trung Học Đệ Nhất Cấp, tôi thích nghe nhạc của chương trình thương mại, thích thú hát theo những bản Bolero. Sau đó ba tôi hướng tôi nghe những bản nhạc xưa do những ca sĩ Thái Thanh, Kim Tước, Mai Hương, Anh Ngọc, Duy Trác… hát, nghe quen rồi dần dần yêu thích. Thời điểm này, tôi được sinh hoạt trong ban nhạc “Tuổi Thơ” ở Hội An do anh Thái Tú Hòa thành lập.

“Anh Hòa và  thầy Lê Khuê, hiệu trưởng trường Nam Tiểu Học, cùng một số anh văn nghệ trong phố đã tập cho bản “Tuổi Thơ” hát những trường ca quan trọng như “Mẹ Việt Nam,” “Con Đường Cái Quan” của Phạm Duy, những bản hùng ca, nhạc thiếu nhi của Hùng Lân, Lê Thương, Phạm Duy… và nhiều tác phẩm giá trị khác. Giai đoạn này thực sự định hình thể loại nhạc tôi theo đuổi đến giờ. Tôi có may mắn được học rất nhiều từ những người thầy rất có tâm này.”
Và chính nhờ được hun đúc bởi những “người thầy có tâm” mà ca sĩ Thu Vàng đã hát bằng cái tâm của chị để được nhiều người yêu thích như chị đã nói trong cuộc phỏng vấn của nhà văn Trần Doãn Nho:

“Nghĩ cho cùng, mọi việc đều đến từ cái duyên cả anh ạ. Cuộc đời đã cho tôi nhiều đau khổ, mất mát nhưng tôi nghĩ, có thật sự kinh qua những đau khổ, mất mát, thiếu thốn thì mới khao khát thương yêu, yêu hết thảy: quê hương, thiên nhiên, con người… Và tôi tin, cái gì xuất phát từ tâm thì sẽ đi vào lòng người.”
Trong bài “Lấp Lánh Sao Mai” là Lời Giới Thiệu CD Dạ Khúc do ca sĩ Thu Vàng hát, nhà thơ Đặng Tiến thì cho rằng tiếng hát của nữ sĩ Thu Vàng là “tiếng hát hồn nhiên, óng ả”:

“Khi xuất thần, những trắc ẩn bỗng thăng hoa thành tiếng hát. Tiếng hát hồn nhiên, óng ả đầy xúc cảm và truyền cảm.”
Trong bài “Thu Vàng – Một Tiếng Hát, Một Tài Hoa, Một Nhân Cách,” nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo đã viết về giọng ca Thu Vàng như là “tiếng hát đặc thù”:

“Nhưng điều hạnh hữu hôm nay, lại xuất hiện một tiếng hát Thu Vàng, tiếp nối được các đàn chị. Lắng nghe, ta sẽ thấy, 90% nghệ thuật của Mai Hương, Quỳnh Giao và Thái Thanh như đang ẩn hiện. Một tài hoa kết tinh tự nhiên có một không hai, đến lạ kỳ. Như thu nhiếp cái chung để làm nên cái riêng, làm nên tiếng hát đặc thù cho chính mình.”

Nhà văn và nhà báo Phan Tấn Hải trong bài viết “Những Đêm Nhạc Thu Vàng” đã nói lên cảm nghĩ thích thú của anh khi nghe nữ ca sĩ Thu Vàng hát:

“Trong chương trình đêm nhạc khoảng hai giờ đồng hồ, tôi ngồi nghe, như quên hết tháng ngày đang trôi. Có phải đây là đêm, sao giọng ca chị Thu Vàng như dường chói ngời ánh sáng của một chiều xuân? Có phải đây là ca khúc Bến Xuân của Văn Cao, sao nghe như nửa đêm có tiếng chim hót lảnh lót trong giọng ca của chị Thu Vàng?”

Nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh trong bài “Thu Vàng – Đêm Nay” đã mô tả tiếng hát của Thu Vàng có sức mạnh “đặt người ta vào nơi chốn vừa thực vừa mơ”:

“Tôi biết Thu Vàng có không ít tri kỷ, dù chị ít xuất hiện, chỉ thu đĩa rồi tặng bạn hữu, hoặc hát mê say ở nơi chỉ có bạn thân. Và những người nghe như tôi, một căn phòng vắng, một đêm rất đầy, một nỗi sầu chưa vơi, đó là những hòa âm chuẩn nhất với thánh thót buồn của tiếng hát Thu Vàng. Một âm giọng đẩy đưa người nghe lên nhiều cung bậc cảm xúc, đặt người ta vào nơi chốn vừa thực vừa mơ, và xóa thời gian dưới tiếng rót trong trẻo của âm thanh.”

Nhà văn Văn Công Tuấn đã nghe ca sĩ Thu Vàng hát bài “Chiều Về Trên Sông” của nhạc sĩ Phạm Duy mà ngộ ra một điều mà từ 40 năm ông chưa hiểu: “Hơn 40 năm lưu lạc xa xứ, phải chờ đến khi nghe Thu Vàng hát câu nhạc cuối của bản Chiều Về Trên Sông tôi mới hiểu được tại sao nhạc sĩ Phạm Duy viết như vậy: Bể sầu không nhiều, nhưng cũng đủ yêu!”.

(…)


Sự thành công của người ca sĩ đến từ giọng thiên phú, có kỹ thuật điêu luyện và biết chọn nhạc phẩm thích hợp cho mình. Qua khoảng 40 tác giả viết trong tuyển tập Tiếng Hát Thu Vàng, cho tôi thấy nữ ca sĩ Thu Vàng đã có đủ ba yếu tố trên. Ngoài ra, chị còn có tấm lòng không những với nghệ thuật mà còn với bạn bè và người nghe. Bởi thế, chị đã thành công và đã được nhiều người yêu thích là điều dễ hiểu.

Mong rằng chị sẽ tiếp tục góp tiếng hát truyền cảm của chị để làm cho cuộc đời lắng bớt những đau thương và khổ lụy.

Nguyên Giác Phan Tấn Hải

(Thứ bảy 11.9.2021)

……………………………………………………………

Vài hình ảnh Thu Vàng hát ở Hội An (2017)

Thu Vàng hát trong buổi Trò chuyện thân mật của Đỗ Hồng Ngọc với nhóm bạn bè ở Hội An (2017) về đề tài Nếp sống An lạc. Từ trái: Đỗ Hồng Ngọc, Khiếu Thị Hoài, Thu Vàng

 

 Nguyễn Quang Chơn và Tâm ngồi bên cửa sổ… lắng nghe Thu Vàng…

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Buổi tối, cùng nhóm nhỏ bạn bè bên bờ sông Hoài, Thu Vàng đã hát… “Chiều Về Trên Sông”: của Phạm Duy: Bể sầu không nhiều nhưng cũng đủ yêu…

 

Filed Under: Ghi chép lang thang, Góc nhìn - nhận định, Những người trẻ lạ lùng

  • « Go to Previous Page
  • Go to page 1
  • Go to page 2
  • Go to page 3
  • Go to page 4
  • Interim pages omitted …
  • Go to page 47
  • Go to Next Page »

Thư đi Tin lại

  • Lịch “Trò chuyện, giao lưu…”
  • Lại đính chính: “SAIGON BÂY GIỜ”
  • ĐÍNH CHÍNH: BSNGOC không phải là BS ĐỖ HỒNG NGỌC
  • Đính chính: BS NGỌC không phải là Bs Đỗ Hồng Ngọc
  • bsngoc đã lên tiếng đính chính
  • Thư cảm ơn và Đính chính về FACEBOOK Bác sĩ NGỌC
  • ĐÍNH CHÍNH: Bài viết "TÀN NHẪN" không phải của Bs Đỗ Hồng Ngọc

PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG

Kỳ 3 Lớp An Cư Chùa Xá Lợi, 2022

Bài đọc thêm: DƯỢC TÍNH TRONG TÂM…

Hiểu thêm về “giả dược” (Placebo)!

Nguyễn Hiền-Đức: Tập tuyển CÀNH MAI SÂN TRƯỚC

Minh Lê: Học Phật qua thơ Đỗ Hồng Ngọc

TẠP GHI (Lõm bõm… Kỳ 4b)

Tạp Ghi (lõm bõm… kỳ 4): Mười Hạnh Phổ Hiền

TẠP GHI (Lõm bõm…) kỳ 3

Tạp Ghi (Lõm bõm kỳ 2)

TẠP GHI (Lõm Bõm)

Xem thêm >>

Chuyên mục

  • Một chút tôi
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy

Bài viết mới nhất!

  • Vài ngày về thăm Lagi, Phan Thiết…
  • Ngày của Cha – Happy Father’s Day
  • Kỳ 3 Lớp An Cư Chùa Xá Lợi, 2022
  • Bài đọc thêm: DƯỢC TÍNH TRONG TÂM…
  • Hiểu thêm về “giả dược” (Placebo)!

Bài viết theo tháng

Ý kiến bạn đọc!

  • Tùng Phạm trong Bài đọc thêm: DƯỢC TÍNH TRONG TÂM…
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Giới thiệu
  • Đinh Hà Duy Linh trong Giới thiệu
  • Hồng trong Song Thao: GIÀ KHÚ ĐẾ
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Buổi trò chuyện về Thiền “Quán Niệm Hơi Thở”
  • Cao Huy Khiem trong Buổi trò chuyện về Thiền “Quán Niệm Hơi Thở”
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong “Xả”… stress !
  • “Xả”… stress ! | suonglamportland trong “Xả”… stress !
  • Phan Công Khương trong Nguyễn Mậu Pháp: CẢM NHẬN  “VỀ THU XẾP LẠI…”
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Có một “nghệ thuật”… ngủ!

Cùng một tác giả

  • 0
  • 1
  • 1
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6

Thống kê

Nhà tài trợ

biệt thự vũng tàu
biệt thự vũng tàu cho thuê | biệt thự vũng tàu cho thuê theo ngày giá rẻ | cho thuê biệt thự vũng tàu có hồ bơi
© 2009 - 2016 Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Phát triển & Hỗ trợ kỹ thuật bởi SGC.
Trích dịch nội dung để dùng trong nghiên cứu, học tập hay dùng cho cá nhân đều được tự do nhưng cần phải chú thích rõ nguồn tài liệu và đối với các trích dịch với mục đích khác, cần phải liên lạc với tác giả.
  • Một chút tôi
    ?
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    ?
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    ?
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    ?
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    ?
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy
  • Nhận bài mới qua email