Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Tập hợp các bài viết của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Ghi chép lang thang
  • Nhận bài mới qua email

Minh Lê: Đọc và Cảm “Một ngày kia… đến bờ”

15/05/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Đọc và Cảm “Một ngày kia… đến bờ”

Minh Lê

Các tùy bút của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc thường ngắn, dễ hiểu và hấp dẫn như “tiểu thuyết”. Đã đọc là không dừng được. Từ ngữ giản dị, giọng văn thân mật, dí dỏm. Nhưng đừng tưởng bở, tác giả toàn viết kiểu “ý ở ngoài lời”. Đọc lần thứ nhứt, cười ha hả. Đọc lần thứ hai, cười tủm tỉm. Đọc lần thứ ba và thứ n, gật gù “đúng hen!”.

Rồi trong tập mới nhứt “Một ngày kia… đến bờ”, tác giả đổi kiểu viết. Nói chi tiết, cụ thể, tuy giọng văn vẫn rất “Đỗ Hồng Ngọc”. Anh Ngọc viết riêng cuốn này cho bạn bè “cùng một lứa”, những người nhiều kinh nghiệm sống và có hiểu biết về Phật pháp, nên với những người còn đang “bận rộn” và những người vừa mới “gió heo may đã về”, đoc vô rất dễ “tẩu hỏa nhập ma”.

Biết mình chưa đủ trình để hiểu, tôi thử cảm bằng… trái tim. Cảm nhận luôn chủ quan, nếu có chỗ nào sai mong Anh Ngọc sẽ cười tha thứ.

Trịnh Công Sơn viết trong bài “Phôi pha”: “Về ngồi trong những ngày, nhìn từng hôm nắng ngời, nhìn từng khi mưa bay”. Để thấy được vẻ đẹp của nắng, của mưa thì tâm ta phải bình an, không chộn rộn với suy tính, lo âu. Ai sống mà không suy tính, lo âu? Anh Ngọc dặn: “Khi thấy những ý tưởng nọ kia xuất hiện cũng là chuyện bình thường thôi. Cứ để tự nhiên. Nó đến rồi nó đi.” (tr. 89 – 90) Không thèm nghĩ nữa, cho hết mấy thứ “sinh sự” đó đi rồi thì lòng ta nhẹ, tha hồ “về lại nơi cuối trời làm mây trôi”.

Có người hỏi, nó cứ dính mắc hoài, làm sao buông? Vì cái hiểu “đủ duyên thì hiện, hết duyên thì tan” có thể vô đầu ta mà chưa vô được trái tim ta. Ta không chịu chấp nhận “chuyện phải tới nó sẽ tới”, rằng không phải lúc nào nắng cũng hay, mưa cũng đẹp. Anh Ngọc giải cứu liền: “Chẳng vì ta mà hoa nở, hoa tàn. Chẳng vì ta mà gió mát trăng thanh. Nhưng ta biết thưởng thức. Ta enjoy cuộc sống của mình trong từng giây phút.” (tr. 43) Nếu lúc nào ta cũng biết thưởng thức và “cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy” thì ta sẽ “ung dung, tự tại, an nhiên” (tr. 43).

Nhưng chừng đó chưa đủ. Câu hỏi “ta là ai, tại sao ta sinh ra và khi chết sẽ đi về đâu” vẫn còn ám ảnh. Cả vũ trụ này là một khối năng lượng, và định luật bảo toàn năng lượng đã được các nhà khoa học khẳng định từ lâu: “Không có năng lượng nào tự sinh ra hay mất đi, chúng chỉ thay đổi từ dạng này qua dạng khác”.

Ai làm chủ sự thay đổi đó? “Stephen Hawking bảo chắc chắn phải có một design, một thiết kế vĩ đại từ trong con virus đến khủng long… nhưng không có designer, không có nhà thiết kế. Nhưng tôi tin có một cái gì đó, gọi bằng tên gì cũng được, tạo ra cái trò chơi này và ngắm nghía thú vị.” (tr. 13) Cái “trò chơi” này, nói nôm na là game, nó vô cùng vô tận, nên chúng ta, người chơi game, cũng sẽ chơi dài dài.

Mục đích của game là Chân – Thiện – Mỹ, level của thế gian là đạt thành Phật, thành Phật rồi sẽ được “chơi” cấp cao hơn. Tuy vậy có những vị Phật và Bồ Tát muốn giúp chúng sinh mau lên level, nên chịu khó dạy bảo, dẫn dắt như đàn anh trong game chỉ cho đàn em cách đánh quái vật. Và khi đàn em thua hoài thì được an ủi: “Phật cười: Ta là Phật đã thành, Ông là Phật sẽ thành!” (tr. 47) Hồi nhỏ dù ta học dốt tới đâu mà có một thầy cô tin tưởng khuyến khích, chắc chắn ta sẽ gắng học và trở nên giỏi hơn. Phật biết rõ điều đó!

“Ai nói gì không biết chớ tôi tin có kiếp trước kiếp sau. Phải có, mới tạo được sự công bằng, hoàn hảo chứ!” (tr. 105) Rốt cuộc ta là ai? Ta là một khối năng lượng có ý thức, nhờ duyên mà mượn thân xác kiếp này để học những gì cần học, học chưa xong ta lại sang kiếp sau học tiếp. Sau mỗi lần “ngủm” trong game, ta lại hồi sinh với nhiều kinh nghiệm hơn, có khả năng tới gần đích hơn. Một ngày nào đó trong tương lai, ta sẽ đạt tới level của Phật.

Vậy có gì đâu mà buồn mà sợ? Anh Ngọc nói không chỉ cần sống vui (well-being) mà còn cần chết vui (well-dying). Biết cái chết là tất yếu, nên sống hết mình từng giây phút để không tiếc nuối khi cái chết đến – đó là “chết vui”. Biết sống vui thì ta sẽ dễ dàng “chết vui”, ngược lại ngộ ra “chết vui” thì sống vui đâu có khó.

“Một ngày kia đến bờ, đời người như gió qua.” Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc luôn là cơn gió nồm nam mát rượi thổi bay sự oi bức trong đầu và trong lòng người đọc. Mọi thứ rồi sẽ “phôi pha”, nhưng những lời khai ngộ của Anh còn được nhớ hoài, như “bàn chân ai bước nhẹ, tựa hồn những năm xưa”.

Minh Lê

(Nha Trang, 05/2024)

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống

Nguyên Giác: Mỹ Học Của Hư Vỡ

07/05/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Mỹ Học Của Hư Vỡ

Nguyên Giác

B1 Buddha pexels-photo-

Đức Phật ngồi trong hư vỡ, vô thường. Hình: Pexels.com.

Hư vỡ là đặc tính bất biến của cuộc đời, của tất cả những gì có mặt trong vũ trụ này. Nghĩa là những gì hợp lại, thì sẽ tan; những gì sinh ra, rồi sẽ biến mất. Không có gì kiên cố, bất biến trên đời. Đức Phật đã chỉ ra sự thật đó, và biến những thái độ sống không vui thành sự kham nhẫn mỹ học: cái đẹp chính là vô thường. Bởi vì vô thường, nên có hoa mùa xuân nở, có những dòng suối chảy từ tuyết tan mùa hè, có những trận lá mùa thu lìa cành, và có những trận mưa tuyết mùa đông vương vào gót giày. Bởi vì sống hoan hỷ với hư vỡ là tự hoàn thiện chính mình, hòa hài làm bạn với hư vỡ là sống với sự thật, và cảm nhận toàn thân tâm trong hư vỡ từng khoảnh khắc là hòa lẫn vào cái đẹp của vũ trụ. Và sống với chân, thiện, mỹ như thế tất nhiên sẽ đón nhận được cái chết bình an.

Thân người chính là một bình gốm mong manh, dễ hư vỡ, và rồi sẽ một ngày tất nhiên phải hư vỡ. Đức Phật nói trong Kinh Pháp Cú, bài Kệ 40, qua bản dịch của Thầy Minh Châu là:

  1. “Biết thân như đồ gốm,
    Trú tâm như thành trì,
    Chống ma với gươm trí;
    Giữ chiến thắng không tham.”

Bài kệ trên nói rằng, thường trực biết thân mình, biết cơ thể mình mong manh như đồ gốm, là tâm sẽ khởi lên cái thấy của trí huệ, là tất nhiên lìa tham. Hiểu biết như thế, khi thấy đồ gốm quý tan vỡ, cũng sẽ tất nhiên không sân hận. Câu chuyện sau là dịch từ Thiền sử Nhật Bản.

Thiền sư Ikkyu, khi còn là thiếu niên đã lộ ra trí thông minh, nhanh nhẹn, và là một chú tiểu biết ứng biến. Thầy của Ikkyu có một tách trà quý giá, đó cũng là một cổ vật quý hiếm. Chú tiểu Ikkyu vô ý làm vỡ chiếc tách trà này và rất mực bối rối. Nghe tiếng bước chân của thầy, Ikkyu ôm những mảnh tách vỡ ra sau lưng. Khi thầy xuất hiện, Ikkyu hỏi: “Tại sao người ta phải chết?”

Vị thiền sư già giải thích, ““Đó là tự nhiên, vì mọi thứ có sinh thì phải có tử. Đó là luật vô thường, mọi thứ đều phải hư vỡ.”

Bấy giờ, chú tiểu Ikkyu lấy chiếc tách vỡ ra và nói với thầy: “Bạch thầy, đã đến lúc cái tách của thầy phải chết rồi.” Dĩ nhiên, vị thầy không giận.

Tất cả chúng ta trong đời đều phần nào chấp nhận mỹ học của sự hư vỡ. Nhiều người trong chúng ta, tại Việt Nam và cả tại Hoa Kỳ, đã từng đi lang thang trong các tiệm bán đồ cũ, vào các chợ trời, nhìn những thứ hư vỡ, và đôi khi mua những thứ còn có thể sử dụng được. Đôi khi, có những thứ không còn sử dụng được, nhưng mua về chỉ vì nó là đồ cũ, nó có giá trị của hư vỡ, cho dù hoàn toàn không có giá trị hiệu năng so với đời sống của thế kỷ 21 nữa, thí dụ, chiếc đèn dầu hột vịt, đồng hồ quả lắc…

Đức Phật đã lấy nhận thức về hư vỡ và thái độ sống hoan hỷ với hư vỡ thành một lộ trình giải thoát. Riêng chúng ta đã sống với hư vỡ theo một cách đơn giản đời thường, nhiều khi chỉ vì không có lựa chọn để được sống sang trọng, xa hoa. Trong khi đó, dân tộc Nhật Bản đã nâng tầm sống với hư vỡ, với sứt mẻ, với gãy đổ… thành một nghệ thuật. Đó là nghệ thuật Kintsugi, còn gọi là kintsukuroi, chữ này tiếng Anh dịch là “golden repair” – nghĩa là, sửa chữa bằng vàng.

Theo Wikipedia, Kintsugi là nghệ thuật sửa chữa đồ gốm bị nứt, bị vỡ của Nhật Bản bằng cách vá những chỗ bị vỡ bằng sơn mài urushi phủ bụi, hoặc trộn với bột vàng, bột bạc hoặc bột bạch kim. Về mặt triết lý, nghệ thuật này coi sự hư vỡ và việc sửa chữa như một phần lịch sử của một đồ vật, chứ không phải là thứ gì đó để ngụy trang, để che giấu. Phần lớn tập trung vào đồ gốm, vì dân Nhật Bản xem uống trà như một nghệ thuật.

Khi uống trà, tất nhiên là phải dùng tới những cái tách làm bằng đồ gốm. Thử hình dung, nếu uống trà bằng ly thủy tinh trong suốt, hay bình nhựa học trò… thì chẳng còn gì là nghệ thuật, và cũng không ai bận tâm sửa chữa những hư vỡ bằng bột vàng. Do vậy, uống trà phải là dùng tách làm bằng đồ gốm, hoặc với các vương triều, là tách làm bằng gốm tráng sơn mài. Kỹ thuật sơn mài, Nhật Bản gọi là maki-e, cũng là một nghệ thuật lâu đời tại Trung Hoa, Việt Nam, Đại Hàn…

B3 kintsugi_lay vang gan chen be lai

Dùng vàng để vá đồ gốm hư vỡ là truyền thống Nhật Bản.

Nhưng các thiền sư Nhật Bản chỉ uống trà trên các tách làm bằng đồ gốm trông có vẻ như thô, nhám. Và khi nâng tách trà lên, bên cạnh hương trà, là hai bàn tay cảm nhận chất thô, nhám của đồ gốm, của đất sét nung, của đất nước gió lửa… Trà đạo đối với Thiền Tông Nhật Bản không chỉ là lá trà, bột trà, chất trà, vị trà, mà là toàn bộ thân tâm hành giả trong từng cử chỉ nâng tách trà lên, nếm chút trà, tay xúc chạm vào đồ gốm, cảm nhận thế giới và thân tâm tan trong từng cử chỉ và cảm thọ.

Theo truyền thuyết Nhật Bản ghi lại, vào thế kỷ 15, Tướng quân Ashikaga Yoshimasa từng làm vỡ một bát trà Trung Quốc. Bát trà này là của hiếm, do từ nghệ nhân thủ công Trung Quốc gửi tặng, nghĩa là không có bát trà nghệ thuật thứ nhì giống như thế. Sau đó, Tướng quân gửi bát trà về Trung Quốc để sửa chữa, nhưng nó lại bị gửi lại bằng cách vá gốm, nhìn không vừa ý Tướng quân này. Yoshimasa sau đó đã yêu cầu các nghệ nhân của mình tìm cách vá gốm cho đẹp hơn, từ đó phát minh ra nghệ thuật vá đồ gốm bằng vàng của Nhật Bản.

Lịch sử ghi rằng, hồi thế kỷ 15, Nhật Bản vẫn còn chịu ảnh hưởng của Trung Quốc, nhưng sự tinh tế của văn hóa Nhật Bản vẫn tiếp tục phát triển… Dưới ảnh hưởng của Tướng quân Ashikaga Yoshimasa và những người kế vị ông, Nhật Bản đã phát minh ra một lối sống mới: văn hóa Higashiyama. Bắt nguồn từ dòng tư tưởng Thiền Tông, bầu không khí văn hóa này đã thúc đẩy sự phát triển của trà đạo, nghệ thuật cắm hoa (ikebana), kịch Nô và tranh thủy mặc vẽ bằng mực Tàu.

Trong nền văn hóa đầy Thiền vị này, nghệ thuật vá đồ gốm bằng vàng đã phát triển nhanh chóng… Đến mức một số nhà sưu tập bị thu hút bởi vẻ đẹp và triết lý của Kintsugi, đã cố tình đập vỡ một số đồ gốm cổ của nghệ thuật Nhật Bản để sửa chữa bằng vàng. Nghĩa là, làm thành một hóa thân mới, một kiếp sau của sản phẩm nghệ thuật. Thực tế, không phải ai cũng có điều kiện để sống huy hoàng như thế. Nhiều Thiền sư không cần vá gì, chỉ đơn giản sử dụng các chén, tách, tô… đã bị sứt mẻ. Và trong sứt mẻ đó, trong hư vỡ đó cũng là một thế giới mới được hình thành: sống hoan hỷ với hư vỡ. Đó cũng là ý nghĩa của Phật giáo.

Phong thái sống của các Thiền sư Nhật Bản là sống với hồn nhiên, đơn giản, khổ hạnh, tinh tế, lìa thói quen, tĩnh lặng, từ bi… Trong khi đó, giới nghệ nhân, từ nghệ thuật Kintsugi lấy vàng nấu chảy để vá gốm đã hòa lẫn với phong thái Thiền để hình thành một cách nhìn gọi là Wabi-sabi. Chữ này thịnh hành từ thế kỷ thứ 16, một chữ không còn mang ý nghĩa “lấy vàng vá gốm” nữa, mà là một nhận thức nhắc nhở chúng ta rằng tất cả chúng ta đều là những sinh vật nhất thời trên hành tinh này – rằng cơ thể chúng ta cũng như thế giới vật chất xung quanh chúng ta đang trong quá trình trở về cát bụi. Chu kỳ sinh trưởng, mục nát và xói mòn của tự nhiên được thể hiện ở các cạnh bị sờn, rỉ sét, đốm gan. Thông qua wabi-sabi, chúng ta học cách đón nhận cả niềm vui và nỗi buồn được tìm thấy trong những dấu vết của thời gian trôi qua.

Theo truyền thuyết Nhật Bản, một chàng trai trẻ tên là Sen no Rikyu đã tìm cách học hỏi những phong tục phức tạp được gọi là Trà Đạo. Anh ta đến gặp trà sư Takeeno Joo, người đã thử thách chàng trai trẻ bằng cách yêu cầu anh ta chăm sóc khu vườn. Rikyu dọn dẹp những rác vụn và cào đất cho đến khi nó thật hoàn hảo, sau đó xem xét kỹ lưỡng khu vườn sạch sẽ. Trước khi trình bày tác phẩm của mình với vị trà chủ, anh đã rung chuyển một cây anh đào khiến một vài bông hoa rơi ngẫu nhiên xuống đất. Chính cái bất toàn đó, những nụ hoa rơi trên nền cát trắng cho thấy cái đẹp của vô thường, của hư vỡ. Sách ghi rằng, cho đến ngày nay, người Nhật tôn kính Rikyu như một người hiểu rõ cốt lõi của sợi dây văn hóa sâu sắc được gọi là wabi-sabi.

Theo tự điển, Wabi là những thứ tươi mới, đơn giản và mang vẻ đẹp mộc mạc. Và Sabi là những rung động, cảm xúc trước vẻ đẹp của lớp gỉ đã cũ theo thời gian.

Chỉ có những người thấm đượm văn hóa Wabi-sabi mới hiểu được vẻ đẹp dịu dàng, nguyên sơ của những ngày tháng 12 xám xịt bao trùm lên một tòa nhà hoặc nhà kho bị bỏ hoang. Nó tôn vinh những vết nứt, kẽ hở, chỗ mục nát và tất cả những dấu vết khác mà thời gian, thời tiết và quá trình sử dụng để lại. Khám phá wabi-sabi là nhìn thấy vẻ đẹp đặc biệt ở một thứ mà thoạt nhìn có thể trông như là bất toàn và hư vỡ.

Theo dòng thời gian, tới thế kỷ 17, xuất hiện một Thiền sư được xem là sống trọn vẹn theo phong cách wabi-sabi.

Đó là Thiền sư Baisaō (1675-1763). Ông thuộc dòng thiền Ōbaku (Hoàng Bá). Thiền sử ghi rằng Hoàng Bá học từ Bách Trượng Hoài Hải. Hoàng Bá để lại một tác phẩm nổi tiếng là Hoàng Bá truyền tâm pháp yếu. Trong môn đồ của Hoàng Bá, nổi tiếng nhất là Lâm Tế. Baisaō nổi tiếng như một Thiền sư học giả, một nhà thơ, một nhà thư pháp… nhưng đã từ chối tất cả các lời mời trụ trì khi các tướng quân dâng cúng chùa, rồi cuối đời lang thang, ra đời làm một ông già lang thang Kyoto để bán trả. Một đời sống cực kỳ hồn nhiên, khổ hạnh, tĩnh lặng, từ bi… Tâm không vướng một niệm, nhưng toàn bộ thân tâm sống với cõi vô thường, lặng lẽ nghe hư vỡ từng ngày.

Để có thể hiểu về cách sống của Baisaō, chúng ta có thể dẫn ra tông yếu Thiền qua lời Hoàng Bá, trích theo bản dịch của Thầy Thanh Từ:

“… Người học Đạo hễ có một niệm vọng tâm là xa Đạo, ấy là điều tối kị. Hết thảy mọi niệm đều vô tướng, đều vô vi, tức là Phật. Người học Đạo nếu muốn thành Phật thì hết thảy Phật pháp đều không cần phải học, chỉ cần học cái không mong cầu, không chấp trước là đủ. Không mong cầu thì tâm không sinh, không chấp trước thì tâm không diệt.” (ngưng trích)

Thiền sử ghi rằng Baisaō là một Thiền sư nổi tiếng khi đi du lịch khắp Kyoto để bán trà. Quán trà của ông có ảnh hưởng rất lớn ở Kyoto, đặc biệt là với các nghệ sĩ và triết gia. Baisaō có nghĩa là, ông cụ bán trà. Nhưng tên trong nhà thiền ông là Gekkai Genshō (月海元昭, Nguyệt Hải Nguyên Chiêu). Sau này, ông về đời, sử dụng tên cư sĩ là Kō Yūgai (高遊外, Cao Du Ngoại).

Baisaō là một nhà thơ và là một tu sĩ Phật giáo, nhưng đã bỏ lại đằng sau những ràng buộc của cuộc sống chùa chiền và ở tuổi 49 du hành đến Kyoto, nơi ông bắt đầu kiếm sống bằng cách bán trà trên đường phố và tại các địa điểm có danh lam thắng cảnh xung quanh thành phố. Tuy nhiên, Baisaō còn pha chế nhiều thứ hơn là trà – khách hàng của ông, bao gồm các nghệ sĩ, nhà thơ và nhà tư tưởng có ảnh hưởng vào thời đó: họ xem việc tới gánh trà của ông có tầm quan trọng về mặt tôn giáo. Những chiếc giỏ đan bằng tre lớn chứa đầy dụng cụ pha trà của ông đã mang đến cho Baisaō và các khách hàng của ông cơ hội trò chuyện và làm thơ cũng như những loại trà đặc biệt.

B4 zen master Baisao

Thiền sư Baisaō. Hình trái do Ito Jakuchu vẽ. Hình phải do Tanomura Chikuden vẽ.

Baisaō sinh năm 1675 tại đảo Kyushu phía nam Nhật Bản. Là con trai của một trong những tầng lớp trí thức ưu tú trong vùng, anh nhận được một nền giáo dục sâu rộng và khi lên 11 tuổi, trở thành tu sĩ trong thiền phái Ōbaku, lấy tên là Gekkai Genshō. Năm 1687, ông cùng sư phụ Kerin Dōryū du hành đến Mampuku-ji, trụ sở của Ōbaku Zen. Một trong những nơi hai thiền sư đến thăm là Kōzan-ji, ở ngoại ô Kyoto, nơi trồng những vườn trà đầu tiên ở Nhật Bản.

Giống như nhiều thiền tăng khác, Baisaō trải qua nhiều nhiệm vụ khác nhau tại ngôi chùa riêng của mình, Ryūshin-ji. Sự nghiệp tôn giáo Baisaō có thể chia thành ba thời kỳ: thời kỳ rèn luyện trong trường thiền hơn hai thập niên, thời kỳ thứ hai, ông quản trị tăng chúng trong chùa và sau đó trên thực tế giữ chức quyền trụ trì tại Ryushin-ji ở Hasuike; và giai đoạn thứ ba, lang thang bụi đời ở Kyoto với tư cách là Ông già bán trà. Khi sư phụ qua đời, chức vụ trụ trì được chuyển giao cho một nhà sư trẻ hơn. Khi Baisaō được hỏi tại sao không nhận được chức trụ trì này, ông khiêm tốn trả lời “vì tôi không có trí tuệ hay đức hạnh.” Mặc dù nhiều lần được đề nghị tiếp quản ngôi chùa nhưng ông đều từ chối và ông lên đường về kinh đô Kyoto, nơi ông sẽ sống phần đời còn lại của mình.

Kyoto lúc đó là nơi tự do, phóng khoáng nhất Nhật Bản, nơi cho phép sự sáng tạo và nghệ thuật phát triển. Các nhà văn, nghệ sĩ và học giả rủ nhau đến thành phố, phá vỡ chủ nghĩa bảo thủ còn bao vây nhiều nơi ở Nhật Bản. Được bao quanh ba mặt bởi những ngọn đồi phủ đầy cây xanh rất đẹp và với dân số khoảng nửa triệu người, Kyoto là một trong những thành phố đẹp nhất trên trái đất (lúc đó, và cả bây giờ, khi trở thành cố đô Nhật Bản).

Vào thời điểm xã hội Nhật Bản chuyển đổi, Baisaō nổi bật nhờ kỹ năng của mình với tư cách là một nhà thơ và nhà thư pháp với kiến thức sâu rộng về văn học Trung Quốc, những kỹ năng được đánh giá cao ở Kyoto. Baisaō được tất cả những người tiếp xúc với ông đánh giá cao vì tâm hồn rộng rãi, từ bi, dịu dàng và cuộc sống dường như vô tư của ông, như dường từ chối hệ thống cấp bậc Phật giáo đã được thiết lập. Theo thời gian, ông trở thành một trong những nhân vật nổi tiếng nhất trong một thành phố đầy những nghệ sĩ và lập dị. Có rất nhiều nhân vật độc đáo ở Kyoto vào thời điểm này đến nỗi vào năm 1788, một cuốn sách đã được xuất bản, “Eccentric Figures of Recent Times” (Những dị nhân của thời đại gần đây), trong đó Baisaō đóng một vai trò nổi bật.

Ở tuổi sáu mươi, Baisaō mở một cửa hàng nhỏ hoặc có lẽ chỉ là một quầy hàng (ông gọi nó là “ngôi nhà ốc sên”) trên một cây cầu đông đúc bắc qua sông Kamo của Kyoto. Vào thời điểm đó, những người bán trà lưu động thuộc tầng lớp thấp nhất trong xã hội và bán loại trà bột kém chất lượng. Tuy nhiên, Baisaō đã giới thiệu sencha, một loại trà lá rời được đun trong nồi và được coi là loại trà cao cấp hơn nhiều; một loại trà mà chỉ cần “một ngụm, bạn sẽ vĩnh viễn thức dậy khỏi giấc ngủ trần tục.” Ngày nay chúng ta gọi loại trà này là trà xanh Nhật Bản. Trên thực tế, Baisaō không thực sự bán trà của mình mà chỉ nhận tiền quyên góp, nguyên tắc là miễn phí, nói rằng “Giá của loại trà này là từ một trăm đồng vàng đến nửa xu. Nếu bạn muốn uống miễn phí cũng không sao. Tôi chỉ tiếc là tôi không thể để bạn có nó với giá rẻ hơn.” Sau đó, Baisaō từ bỏ ‘cửa hàng’ nhỏ của mình và đi lang thang ở Kyoto và những ngọn đồi xung quanh, mang theo dụng cụ pha trà trên một chiếc sào tre và lập nghiệp ở bất cứ nơi nào có phong cảnh thu hút ông.

Những năm cuối đời của Baisaō đầy khó khăn khi tuổi già và bệnh tật ập đến. Mùa đông lạnh giá ở Kyoto tỏ ra đặc biệt khó khăn đối với một ông già ít tiền. Đói và lạnh là bạn đồng hành. Mặc dù ông được công nhận là một thiền sư nổi tiếng, nhưng chỉ trong những năm cuối đời ông mới nhận một số ít đệ tử. Trong suốt cuộc đời dài của mình, ông vẫn tiếp tục làm thơ và sáng tạo ra những tác phẩm thư pháp được đánh giá cao. Ngay trước khi ông qua đời ở tuổi tám mươi tám, bạn bè ông đã tặng ông một tuyển tập các tác phẩm in của ông, Baisaō Gego (“Những câu thơ và văn xuôi của người bán trà già”), khẳng định tầm quan trọng của ông trong đời sống văn hóa của Kyoto thế kỷ 17-18.

Ông đã sống lang thang trên những hư vỡ của đời. Gánh trà, vừa bán, vừa tặng. Viết thư pháp để tặng người hữu duyên. Làm thơ khi vào giữa cuộc đời xôn xao để hoằng pháp. Trong cái hư vỡ của vô thường, không thấy gì để mong cầu, không thấy gì để chấp trước. Thiền sư đã lấy vàng của chánh pháp để vá những mảnh gốm hư vỡ của thân tâm chúng sinh.

Nơi đây. xin trích từ mấy dòng thơ của Baisaō:
… Đừng nghĩ tôi là một ông già
với tình yêu say đắm dành cho trà.
Mục đích của tôi là đánh thức bạn
ra khỏi giấc ngủ trần gian của bạn.

Và cũng từ mấy dòng thơ khác, cũng của ông già bán trà, người đã lấy vàng của chánh pháp để vá những mảnh đời hư vỡ ở Kyoto:

… tuyệt đối không còn gì
chỉ còn lại duy nhất
một vầng trăng sáng và lạnh
nơi cửa sổ, lúc nửa đêm
chiếu sáng rực tâm Thiền
trên đường trăng về nhà.

Thiền sư Baisaō qua một đời sống dị thường đã trở thành một hóa thân của nghệ thuật Kintsugi, tự biến cuộc đời Thiền sư của mình trở thành chất vàng để nối kết những mảnh đời người hư vỡ vào với đường trăng giải thoát.

Nguyên Giác
(4/2024).

(tranthinguyetmai.wordpress.com)

Thuộc chủ đề:Uncategorized

Thư gởi bạn xa xôi: Khoẻ Để Tu

01/05/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc 2 Bình luận

 

Thư gởi bạn xa xôi (04/24)

Khoẻ Để Tu

 

Thân gởi bạn,

Gởi bạn một clip nhỏ, do em Quyền vừa mới làm xong.

Đó là buổi Trò chuyện thân tình của mình với các Sư cô Thiền Viện Trí Đức Ni tai Long Thành Đồng Nai, ngày 16.04.2024 vừa rồi, theo lời mời của Ni Sư Hạnh Chiếu, Trụ trì.

Mình hỏi, “Nói chuyện gì đây Ni sư?”. Ni sư nói năm xưa bác sĩ đã đến thăm Ni viện, đọc thơ, và hứa sẽ về Trò chuyện với các Sư cô một bữa, ai cũng mong, nhưng vì dịch Covid nên phải huỷ cuộc hẹn. Mình hỏi Ni sư muốn nói về đề tài gì hôm nay. Ni sư cười bảo bác sĩ cứ “ngẫu hứng” Trò chuyện, đề tài gì cũng được, à mà lần này nói về vấn đề sức khoẻ cho các Sư cô đang tu tập thì tốt.

Vì thế mà có cái clip này.

Cảm ơn Ni sư Hạnh Chiếu, các sư cô Thiền Viện Trí Đức Ni, Long Thành

Và riêng cảm ơn Lệ Mai, Thuỷ, Quyền, Hùng và chú Đức.

Thân mến,

ĐHN

 

 

Thuộc chủ đề:Lõm bõm học Phật, Nghĩ từ trái tim, Thiền và Sức khỏe

“Phép lạ là đi trên mặt đất” (tiếp theo)

08/04/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc 1 Bình luận

 

Thư gởi bạn xa xôi (tiếp theo)

“Phép lạ là đi trên mặt đất”

Như đã hứa, mình tiếp tục phần hoạt động “ngoại khoá” của mình để bạn coi cho vui nhe. Cũng xin chia sẻ với vài hình ảnh thôi. Làm biếng quá rồi!

Ngay buổi chiều đầu tiên đến Mũi Né, một vài vị đã đề nghị mình “kể chuyện học Phật”. Sc KN bảo, năm 2008, tại Huế, trong Tuần lễ Văn hoá Phật giáo, Sc có dịp dự, đã được nghe mình trình bày về Thở và Thiền rất ấn tượng.

Chị Nga, một doanh nhân có mặt kể chuyện 40 năm trước đã từng mang con gái 2 tuổi đến mình khám chữa bệnh, mình tiếp ở phòng khách chớ không có phòng mạch, và chỉ dặn cho bé ăn thêm dầu ăn để tăng cường calorie mà không cho thuốc men gì thêm. Vậy mà bé hết suy dinh dưỡng, hết bệnh, nay đã là cô giáo một ngôi trường lớn ở Sài gòn. Hồi đó mình nhớ mỗi khi khám bệnh cho một em bé`thì thường cho các bà mẹ khác bế con đứng sau lưng nghe… lóm. Đây là một phương pháp “giáo dục sức khoẻ” tốt nhất!

“Tiếng lành đồn xa”, sáng hôm sau, đã có buổi “văn nghệ” đặc biệt, khá rôm rả. Sư cô HN tặng mình cuốn “Tình Thầy” và đọc 2 bài thơ trong tập thơ “Đôi Khi” rất hay của Sư cô. Mình “đáp lễ” bằng cách đọc bài thơ “Thư cho bé sơ sinh”, viết từ năm 1965 ở Bệnh viện Từ Dũ, rồi bài “Trong một nhà giữ lão ở Montreal” viết năm 1997 ở Canada, sau cùng là bài Bông hồng cho Mẹ. Lê Bá Thông ôm đàn hát tiếp bài thơ của Đỗ Trung Quân về Mẹ thật cảm động. Rồi một vị sư cũng ôm đàn hát thêm mấy bài nữa. Buổi họp mặt tạm ngừng khi đoàn doanh nhân vừa tụ tập về đến Mũi Né, chuẩn bị cho buổi Khai mạc.

Thấy Pháp Lâm ở Darlak gởi tặng mình bản thư pháp do thầy vừa mới viết xong. Buổi trò chuyện bên lề trên bãi cỏ xanh cùng các bạn trẻ doanh nhân sau khi đi thiền hành về rất vui.

Theo yêu cầu của các bạn trẻ và cả các vị “xuất sĩ” muốn mình đọc bài thơ Mũi Né ngay tại Mũi Né này. Mình nói đây là bài thơ tình, có nên đọc ở đây không?

Càng tốt, sao không!

Vậy là mình đọc. Em có về thăm Mũi Né không? Hình như trời đã sắp vào xuân…

Một cô bé bỗng mở bài hát Mũi Né do nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo phổ nhạc với tiếng hát Thu Vàng…  da diết. Không khí trầm lắng hẳn. Năm nay người có về ăn Tết/ Có ngậm ngùi nghe chút ấu thơ?

Đọc bài thơ Mũi Né ở… Mũi Né.

 

Buổi tối 29.3.2024, trước buổi Toạ Đàm, mấy bạn trẻ còn yêu cầu mình nói vài điều đáng nhớ. Đang ở biển, mình nói về Sóng và Nước. Về “bổn lai vô nhất vật”. “Ta xô biển lại sóng về đâu…?” (TCS). Rồi nói chút về Năng lượng. Về điện. Về thể, tướng và dụng… vì đang ngồi trong quán Bar, đèn sáng trưng!

Trò chuyện với các doanh nhân trẻ (tối 29.3.2024 tại Mũi Né)

Chỉ có vậy. Thôi nhé,

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc

(Saigon 8.4.2024)

Thuộc chủ đề:Ghi chép lang thang, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Uncategorized

“Phép lạ là đi trên mặt đất”

06/04/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

Thư gởi bạn xa xôi (tháng 4. 2024)

“Phép lạ là đi trên mặt đất”

Đó là Khoá Thực hành cho Doanh nhân, lần thứ 6, tổ chức tại Mũi Né, Phan Thiết, do CLB Doanh Nhân Saigon phối hợp với các Sư Thầy Sư Cô Làng Mai từ nhiều nơi về hướng dẫn… Có các vị từ Pháp, từ Thái Lan, từ Huế, từ Ban Mê Thuộc, từ Cam Ranh, từ Đồng Nai… với hơn 20 vị và với trên 200 doanh nhân về tham dự trong 4 ngày tại một Resort rộng rãi, đẹp đẻ của khu du lịch nổi tiếng Mũi Né.

Mình không phải doanh nhân, cũng không xa lạ với các phương pháp tu tập của Làng Mai, nhưng vừa học xong Phẩm “Nhập Pháp Giới” của Kinh Hoa Nghiêm với Nhóm Học Phật ở chùa Xá Lợi nên  muốn trực tiếp “nhập” một phen xem sao. May mắn là Ban Tổ chức có các bạn Lê Bá Thông, chị Yến Ngọc (dân Phan Thiết) nên các bạn “hoan hỷ” cho mình đi ké, bên lề, không bị “dính” gì với Chương trình thực tập nghiêm túc, mình chỉ quan sát, ghi nhận, ngẫm nghĩ, phù hợp với sức khỏe, tuổi tác, cùng thói quen “tuỳ nghi, tự tại… vô ngại” của minh. Đã vậy mình chỉ tham dự được vài hôm thôi, vì phải về quê ở La Gi dự Họp Mặt bà con họ Đỗ mà mình nay đã gần là… Trưởng lão, với tuổi 85 rồi (Tuổi ta!).  Dù vậy, BTC đã không quên mời mình tham gia vào buổi Toạ đàm ở ngày thứ hai, về 5 Phương pháp Thực tập Chánh niệm, sẽ là nền tảng vững bền cho Doanh nghiệp, trên Chủ đề chung của Khoá thực hành này: “Phép lạ là đi trên mặt đất”…

Phải nói là BTC đã khéo léo sắp xếp một Chương trình “thực hành” vô cùng phong phú.  Có thiền tập, thiền ca, có pháp thoai, pháp đàm, tham vấn, lửa trại, đọc thơ, thiền hành… Mình chỉ hơi tiếc, giá thời gian kéo dài được vài tuần hẳn mọi người sẽ “thấm” sâu hơn. Nhưng không lo. Những người đến đây đều đã học Phật từ lâu, nay muốn có dịp trải nghiêm thực hành với những phương pháp cụ thể ra sao và dĩ nhiên sau đó sẽ thực hành dài lâu trong đời sống hàng ngày. Phần mình dĩ nhiên cũng có nhiều buổi “ngoại khoá’ với Chương trình kể chuyện, đọc thơ, ca hát, trao đổi… cũng không kém phần thú vị, sẽ kể riêng bạn sau nhe.

Như thường lệ, mình chỉ đưa lên đây một ít hình ảnh để chia sẻ cùng bạn xa xôi.

 

 

 

 

Hoàng hôn trên bãi biển Mũi Né (27.3.2024)

Bình minh trên bãi biển Mũi Né (28.3.2024)

Đi dạo quanh vườn.

 

 

 

 

 

 

 

Toạ đàm tối 29.3.2024 (từ trái: Thầy Linh Thứu, Doanh nhân Thuỳ Dương, Sư cô Khải Nghiêm, Doanh nhân Lê Bá Thông, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc).

 

Mỗi ngày đều có buổi thiền hành trên bãi biển Mũi Né.

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc.

(Saigon 6.4.2024)

Thuộc chủ đề:Ghi chép lang thang, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

GS Trần Văn Khê nói về cuốn “Nghĩ từ trái tim” của Đỗ Hồng Ngọc

19/03/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

GS Trần Văn Khê nói về cuốn “Nghĩ từ trái tim” của Đỗ Hồng Ngọc

( Ghi theo băng audio-cassette do chị Lý Thị Lý thu tại bệnh viện Triều An, ngày 17.10.2003. Chị Lý Thị Lý là phu nhân nhà báo Trần Trọng Thức, cũng là người đã thực hiện bộ Hồi ký Trần Văn Khê, NXB Trẻ, 2002).

Lời của Giáo sư Nhạc sĩ Trần Văn Khê:

Tôi đọc “Nghĩ từ trái tim” của Đỗ Hồng Ngọc trong lúc đang ở bệnh viện một cách say mê liên tục từ đầu tới cuối, vừa đọc vừa ghi chú bên lề những cảm giác có tại chỗ hoặc những ý gợi lại những chuyện xưa. Trước hết là con đường đi tới Tâm Kinh của tôi.

Thuở nhỏ tôi đã từng nghe đọc kinh, trong đó có Tâm Kinh. Khi đó tôi chỉ biết:

Quán Tự Tại Bồ tát hành thâm Bát Nhã Ba-la-mật-đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.

Xá lợi tử! Sắc bất dị không. Không bất dị Sắc. Sắc tức thị Không. Không tức thị Sắc.

Đến năm 8 tuổi tôi theo gánh hát cải lương của cô Ba. Trong màn Võ Đông Sơ tưởng Bạch Thu Hà chết rồi nên tổ chức đàn làm chay, cậu Năm tôi đưa cả thầy tu lên sân khấu đọc kinh, tụng kinh, tán và có thay đổi một số vần điệu để có tính chất cải lương. Từ một bài Tâm Kinh cậu Năm phổ nhạc ra thành hai bài gồm “Phật y phổ niệm” là đoạn đầu cho tới “diệc vô vô minh tận nãi chí vô lão tử diệc vô lão tử tận”, phần sau mang hơi buồn là “Bạch hạc minh bi” (Con chim hạc trắng kêu lên một tiếng buồn thảm). Hồi đó tôi bị nhạc của cậu Năm làm cho có một quan điểm sai về Tâm Kinh vì cậu Năm vốn không phải là người hiểu rõ về Phật học mà chỉ phổ nhạc Tâm Kinh theo tư tưởng của người không nắm được Phật giáo.

Đến năm 1965 tôi viết về nhạc của Phật giáo nên thường xuyên được thầy Nhất Hạnh giảng cho nghe những bài kinh, bài tán, nhờ đó tôi hiểu được với từng nội dung có những nét nhạc khác nhau. Thầy chỉ nói một câu rằng Tâm Kinh chính là bản tóm tắt hầu hết những điều Phật dạy. Điều quan trọng đối với tôi lúc đó không phải là giáo lý Phật giáo mà là nhạc Phật giáo, có mấy cách tán, khi nào thì tán rơi, tán sấp hay tán trạo, nhạc đánh làm sao… Sau đó tôi học qua với thầy Viên Châu về những cách niệm hương, khai kinh.

Năm 1995 khi qua Mỹ tôi tình cờ đọc được bài viết của thầy Nhất Hạnh nói về Trái tim hiểu biết. Thầy dịch rất sát nghĩa, tuy tôi hiểu được chữ Hán một phần nhưng chỉ theo cách hiểu của bản thân. Quyển sách chủ yếu mang tính chất giáo khoa.

Con đường đi tới Tâm Kinh của tôi vòng vo như vậy, mãi cho tới khi gặp bà Karfung tôi mới hiểu rõ hơn. Bà Karfung là một thầy thúôc châm cứu, dạy khí công của tôi. Suốt một năm rưỡi bà chỉ chuyên tâm cắt nghĩa Tâm Kinh bằng tiếng Pháp..

Bà Karfung đọc và giảng từng câu cũng như Đỗ Hồng Ngọc đã đề cập trong cuốn sách của mình. Bà Karfung cho rằng không dịch ra mà để nguyên chữ Phạn, chỉ đọc ra âm thanh thôi. Âm thanh đó nhắc nhở con người phải hành, phải đi tìm chân lý, bến giác. Đến chữ “Yết đế” trong câu Yết đế, Yết đế, Bala yết đế, Bala tăng yết đế, bồ đề, tát bà ha!, bà dịch là avant, encore en avant, toujours en avant et plus loin en avant (đi tới, đi tới, còn đi tới nữa và luôn luôn đi xa tới hơn nữa) để tới đáo bĩ ngạn, tới Paramita.

Thêm một cái may nữa là lần này về Việt Nam được đọc cuốn sách Nghĩ từ trái tim của Đỗ Hồng Ngọc, những điều tôi biết về Tâm kinh từ bà Karfung đều được Đỗ Hồng Ngọc nói rõ ràng bằng tiếng Việt, văn phong chẳng những giản dị mà còn dí dỏm, kèm thêm những thí dụ trong cuộc đời, lâu lâu lại chêm vài câu Kiều, thơ của Xuân Diệu hay lời ca của Trịnh Công Sơn. Càng đọc tôi càng thấy thấm thía và có phần gần gũi. Tôi đọc mà vô cùng thú vị, qua đó cho thấy hiểu biết của tác giả rất sâu sắc. Có những điều tôi hoàn toàn đồng ý với tác giả. Mọi người cho rằng trong Tâm Kinh, đức Phật phủ định tất cả những gì mình đã dạy. Nhưng Đỗ Hồng Ngọc lại nghĩ ngài không phủ định mà chỉ khẳng định lại những điều mình đã dạy một cách rõ ràng hơn. Điều đó đúng quá, Đức Phật nói lần lần cho người ta hiểu.

Đỗ Hồng Ngọc là một bác sĩ, làm như phải có khoa học thì mới tìm được những chi tiết trong Tâm Kinh. Người bác sĩ này có cả tâm hồn hướng về con người nên đã viết cho trẻ con, cho những người già, người sản phụ, tìm hiểu căn bệnh để trừ bệnh, để giúp cho người ta bớt bệnh bớt khổ. Tâm tư đó là tâm từ đi tới bi. Người bác sĩ đó có được một tinh thần phóng khoáng, một tâm từ, còn là một nhà văn dí dỏm, một nhà thơ mộc mạc dễ thương nên hiểu được Tâm Kinh như thế. Phải trải qua một trận đau, một lần bị giải phẫu, khi đó cả một cơ thể mình chuyển động thay đổi, tâm tư thay đổi thì tự tìm lấy cách để trị bệnh cho mình. Trong khi học trị bệnh tức là đã hành. Tâm Kinh không chỉ đọc hiểu không thôi mà phải hành. Đỗ Hồng Ngọc nhờ tổng hợp được những yếu tố đó mà viết ra được quyển Nghĩ từ trái tim như thế này thì tôi cho đây là một tuyệt tác, nắm được tinh hoa của đạo Phật giảng ra một cách dễ hiểu, dễ dàng để cho người ta tìm thấy được mỗi chuyện làm ở trong đời….

Theo bà Karfung, Tâm kinh tuy gồm 260 chữ nhưng gút lại có bốn chữ vô cùng quan trọng là “ngũ uẩn giai không”, tôi thấy Đỗ Hồng Ngọc cũng nói về ngũ uẩn giai không như thế. Đỗ Hồng Ngọc còn đi xa hơn một chút. Bà Karfung cắt nghĩa chữ Không là vacuité, tức là không mà có rồi lần lần đi tới chỗ không mà không có là đi tới chữ vô. Đỗ Hồng Ngọc cắt nghĩa rõ ràng từ chữ không đi tới chữ vô. Cái vô đó không phải phủ nhận nhưng phải một người như Đức Phật mới dám nói tới chữ vô vì ông đưa ra Tứ diệu đế, đưa ra cái khổ của con người ai cũng phải có mà bây giờ ông nói là không khổ gì hết. Không khổ như thế mới là vô quái ngại, không sợ sệt, vượt ra khỏi vòng sanh tử rồi mới thanh thản đi tới chỗ đời sống. Đọc Tâm Kinh này mà mình thưởng thức và hành được thì mới thành công. Trong cái hành đó có cái thiền. Cái thiền đó tác giả nói cũng rõ ràng lắm. Thiền đó không phải học chơi mà phải làm. Trong đó có nhiều chuyện làm cho mình thích lắm. Người bác sĩ như Đỗ Hồng Ngọc không phải chỉ có cái nhìn của nhà khoa học không mà còn có cái nhìn từ bi của con người thương con người, thấu hiểu được tâm kinh, hiểu được biết bao nhiêu chuyện đời, chắt lọc được tất cả những cái gì hay, đưa ra một cách giản dị, làm cho người mới đọc lần đầu sơ sơ đã thấy có cái gì như ánh sáng loé lên, càng đọc càng thấy rõ. Tôi cho rằng quyển sách này tuyệt vời.

Trong trang 37 Đỗ Hồng Ngọc nói người nào kiểm soát được hơi thở thì kiểm soát được cái tâm của mình.Khi kiểm soát hơi thở mình kiểm soát được cái tâm, cái tình cảm của mình rất là đúng. Đó là kinh nghiệm bản thân của tôi.

Ngoài ra đến trang 102, Đỗ Hồng Ngọc nói rằng: “Biết sống hôm nay, ở đây và bây giờ”. Đó cũng là kinh nghiệm của tôi theo một câu kinh. “Không nên hối tiếc quá khứ, đừng quá bận tương lai vì quá khứ đã qua rồi mà tương lai thì chưa tới. Hãy biết sống trong hiện tại”.

Trang 80 Hồng Ngọc có ghi rằng: “Mây lang thang vô định, xây thành rồi tan biến rồi lại xây. Mây thành mưa. Mưa thành suối, sông hồ, biển cả rồi lại bốc hơi thành mây”. Tôi đọc câu đó mà nhớ đến thời điểm năm 1952, tôi đang ở bịnh viện thì người ta nói rằng ráng một tháng nữa sẽ được ra viện. Tôi chờ đợi cho hết tháng rồi tới gặp bác sĩ, ông  nói chưa ra được ráng thêm ba tháng nữa. Từ tưởng tượng mình được ra viện bỗng cũng như mình được lên trời lại phải trở về chỗ cũ. Bữa đó buồn quá nên tôi ngồi viết bài “Mưa”. Lúc ấy tôi đang nghiên cứu về nhạc miền Trung nên bài Mưa mang hơi hướm của Nam bình Huế:

Hôm nay suối lạc dòng
Hôm nay suối lạc dòng
Dưới ánh nắng vàng nước tan thành hơi
Nước lên trời, lên trời thành mây, mây ơi!
Khi bay theo đám mây lành, bỗng gặp cơn gió lạnh
Hồn nước biến thành mưa trở về trần gian chảy kiếp thừa.

Đọc cuốn sách của Đỗ Hồng Ngọc, từng đoạn từng đoạn vừa hiểu được Tâm Kinh mà thấy rằng cách diễn tả đó nếu người nào chịu khó đọc rồi cũng sẽ hiểu được Tâm Kinh. Mà nếu chịu khó hành Tâm Kinh, trước nhứt là kiểm tra hơi thở của mình lần lần kiểm tra được tình cảm của mình, tìm thấy được mọi việc. Cái mà mình tưởng là có thì chỉ là ảo ảnh của chuyện đó. Từ đó mà cái mất cái còn đối với mình không còn quan trọng. Mất thì mình tiếc chuyện đó vì tưởng nó có hình thức nhưng thực ra nó không có gì hết, nó có mà không có, mất rồi thì sẽ có cái khác. Trong tất cả những chuyện đó mình đi lần tới chỗ vô ngã thì chừng đó người ta chửi thì mình cũng không giận. Mình giận là tại sao họ dám động tới “ta”. Làm sao đi tới chỗ mình thấy ngã không còn là quan trọng nữa. Thầy Thiện Siêu có nói vô ngã là niết bàn. Điều đó khi tôi đọc quyển sách hiểu thấu được như vậy, tôi vô cùng hoan nghênh.

Trang 54 Đỗ Hồng Ngọc có nói rằng khi có cảm gió thì thưởng thức lá xông, tô cháo hành. Cảm gió tùy theo loại cảm gió, nếu đó là gió luồng, gió mưa hay gió tuyết thì khi bị cảm thì khí âm nhập vào người mặc dầu nó làm mình nóng sốt nhưng trong cái sốt đó âm rất nhiều. Vì vậy mà khi cảm lạnh thì người Việt Nam mình ăn một chén cháo gừng vì gừng đem dương vô chế ngự khí âm. Nhưng nếu bị cảm nắng thì phải ăn cháo hành vì cảm nắng dương vô nhiều quá phải đem hành là cái âm vô để chế ngự lại. Cái đó chứng tỏ người Việt Nam mình trong cách ăn là đã trị bịnh phù hợp âm dương rồi. Cho nên có những câu cách ngôn thông thường mà suy nghĩ kỹ mình mới thấy hay thí dụ: “Mùa hè ăn cá sông mùa đông ăn cá biển”. Mùa hè thì chung quanh ta là khí dương mà cá sông có nước ngọt thấm vào có nhiều khí âm để chế ngự trong khi mùa đông khí âm tràn lan, cá biển thấm nước mặn và thấm cả khí dương nên ăn vô trị cái âm của trời đất.

Đọc cuốn sách của Đỗ Hồng Ngọc có nhiều cái suy tư, nhớ lại, trùng hợp nhiều cái thành ra thú vị vô cùng. Mỗi trang sách có sự thú vị khác nhau. Nhưng cảm giác này mãnh liệt dồi dào và xảy ra trong lúc đang bịnh nằm trong bịnh viện mà đọc đựơc Nghĩ Từ Trái Tim. Nhờ có cuốn sách mấy ngày đó tôi quên bịnh, chỉ đọc cái đó mà thú vị, đọc vô thấy khỏe trong người và ghi trở lại một vài điều hôm nay.

(tặng Thức-Lý)

Thuộc chủ đề:Nghĩ từ trái tim, Thiền và Sức khỏe, Vài đoạn hồi ký

Sư Giới Đức: Vài Lời Về Dịch Phẩm “Vị Thánh Tăng Cận Đại”

23/02/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Ghi chú:

Mùng 4 Tết Giáp Thìn (13. 02. 2024), tại Huyền Không Sơn Thượng, Huế, Sư Giới Đức trao cho tôi cuốn sách này, và dặn dò, bác sĩ nhớ đọc kỹ nhe.  Và, tôi đọc kỹ, ngạc nhiên, thì ra có một vị Sư đã “học” và đã “hành” Phật pháp theo “một lộ trình tu tập” như vậy đó…

Đỗ Hồng Ngọc.

 

Vài Lời Về Dịch Phẩm

“Vị Thánh Tăng Cận Đại”

 

Tỳ-khưu Giới Đức

(Minh Đức Triều Tâm Ảnh)         

Sư Tường Phát, đệ tử của ngài Pháp Tông, chùa Huyền Không-Huế, trao tôi một tập bản thảo dày hơn một trăm năm mươi trang khổ giấy A4, nói đây là bản dịch của một nhóm Phật tử chùa Bửu Long, đệ tử của thiền sư Viên Minh, về cuộc đời của một vị Thánh, nhờ tôi xem và nhuận sắc.

Nghĩ là cần một vài lời giới thiệu để độc giả nắm bắt khái lược những chi tiết nội dung mà tôi cho là hay, là độc đáo, là cần thiết cho mọi người tu Phật.

 

1- Đại đức Mahn Bhūridatta, sinh năm 1870 và mất năm 1949 tại Thái Lan, ngài khởi tâm tu và xuất gia từ nhỏ, học hành không được nhiều. Sau khi thọ giới tỳ-khưu năm 22 tuổi rồi theo thầy là đại đức Sao cùng vào núi rừng tu hạnh đầu-đà, và thọ trì được bảy trong mười ba chi pháp của đời sống khổ hạnh này.

2- Nhờ đại đức Sao hướng dẫn vài cách thức tập thiền ban đầu, sau đó ngài phải tự mày mò hành trì một mình. Khi gặp những hoài nghi hoặc bế tắc nào đó, đại đức hỏi thầy thì thầy đáp, đại lược là: “Tâm của ông khác tâm của tôi, vậy ông hãy tự tìm ra phương pháp, giải pháp cho mình”. Nghĩa là, bắt đầu từ đó, đại đức không còn ai là thầy nữa trên lộ trình đầy cam go, gian khổ để giải quyết những tham sân, phiền não của chính mình.

3- Không bao lăm chữ nghĩa, không trang bị kinh điển, không có thầy trực tiếp hướng dẫn, đời sống hoàn toàn cơ cực, thiếu thốn nhưng đại đức đã quyết tâm tự tu tập một cách kiên trì và bất khuất. Đối diện với cọp dữ, voi rừng, ma thiêng, chướng khí, đói rét… đại đức không hề thối chí, ngả lòng. Những khi ốm đau, nhất là bị bệnh sốt rét hành hạ, đại đức không dùng thuốc men, chỉ sử dụng “pháp dược” tự chữa trị cho mình. Và suốt đời, đại đức đã dùng “pháp” để đánh bại tất cả chướng ma ngoại giới cũng như nội tâm.

4- Lộ trình tu tập của đại đức ban đầu là thiền định; có định sâu, thành tựu một vài thắng trí, có thể cảm hóa hung thần, có thể đi thăm thiên đường, địa ngục. Sau, đại đức chuyển sang tu tập vipassanā, tuệ quán cho đến lúc giải thoát tất thảy mọi tham sân phiền não. Từ đó, đại đức tuyên bố định-tuệ song tu, không có tuệ thì định có thể bị lầm lạc, dính mắc.

5- Đại đức có giới luật nghiêm minh, suốt đời thân giáo, giáo giới nghiêm khắc, không mệt mỏi đến chúng đệ tử, nhất là chư sư đầu-đà khổ hạnh. Đại đức đã làm sống lại bảy trong mười ba pháp hạnh đầu-đà, đồng thời thổi vào nếp sống thiền môn không khí tu tập cổ xưa thời đức Phật, đấy là giới, định, tuệ một cách rất điển hình, mẫu mực và nghiêm túc. Các vị thiền sư nổi tiếng ở Thái Lan đương đại, đều là lớp đệ tử thế hệ thứ hai, thứ ba, thứ tư… nối tiếp được truyền thừa này và hiện đang phổ cập trên thế giới.

Tuy nhiên, điều tôi tâm đắc để giới thiệu cuộc đời đại đức không chỉ do tất thảy các tiêu biểu kể trên mà còn chính là “lộ trình tu tập”! Đa phần người ta thường nghiên cứu kinh điển, tìm nghĩa lý, nắm rõ giáo pháp rồi mới hạ thủ công phu. Lộ trình ấy tạm đúc kết theo tiến trình thứ tự là giáo, lý, hành và quả. Trường hợp này là phổ thông trên thế giới, xưa và nay vì dựa vào kinh điển. Tuy nhiên, nếu điểm tựa kinh giáo (giáo) chỉ cần bị “khúc xạ một ly” thì ý nghĩa (lý) trong đó đã “lệch lạc một dặm”; do đó, việc tu tập (hành) không biết đắc được cái đạo (quả) nào? Người dựa vào kinh điển hoặc chưa chứng nghiệm, giác ngộ, giải thoát mà đã dạy đạo, dạy thiền thường rơi vào trường hợp “sai một ly, đi một dặm” nêu trên.

Đại đức Mahn Bhūridatta không đi theo công thức ấy, vì có điều thật lạ lùng là ngài chẳng có giai đoạn giáo và lý; tuy có hành nhưng không có kinh điển, không có thầy, thế là tự mình mầy mò cho đến lúc giác ngộ (quả) giải thoát luôn. Sau đó mới xuống non hoằng pháp. Vậy thì đại đức đã đi ngược lại tiến trình do chư “học giả Phật giáo” thiết định. Đại đức đã đi thẳng, trực tiếp từ tâm, học “cái thực” từ nơi tâm, miệt mài đối trị, chuyển hóa, phấn đấu, lắng nghe, nhìn ngắm, “điều tra” cái bộ mặt thực của tham sân si nó ra sao – hoàn toàn trong cô liêu, đơn độc và thầm lặng. Sau khi giác ngộ, giải thoát (đạo) rồi, đại đức mới hướng dẫn đệ tử tu tập (hành) từ “cái thực” mà ngài đã chứng nghiệm. Lý và giáo như thực cũng từ đó mà sinh ra. Thật không ngạc nhiên gì, khi sau này, đại đức đọc kinh điển rồi giải thích nghĩa lý (lý, giáo) cho chư đệ tử nghe mặc dầu ngài không rành thông hoặc kinh qua kinh điển. Trường hợp này là đại đức chỉ lấy kinh điển để so sánh, đối chiếu với tâm và tuệ của mình thôi.

Con đường tu tập được bắt đầu học “cái thực” từ nội tâm là đúng đắn, là chơn chánh. Tứ đế nằm ở đấy. Chân lý, Sự Thật, Thắng Nghĩa, Tự Tánh, Bản Lai Diện Mục, Vô Vị Chân Nhân, Đạo, Niết-bàn, Bờ Kia, Tuyệt Đối, Bất Tử, Vô Sanh, Chân Phúc… ở đây và bây giờ trong mỗi chúng ta, trong tương quan vận hành duyên khởi. Nó không có biên ranh giữa tiểu thừa, nguyên thủy, đại thừa, kim cương thừa, Zen, thiền tông…

Viết đến đây, tôi sực nhớ cách đây khoảng mười mấy năm về trước, thiền sư Viên Minh đã thuyết giảng “cái thực” này tại Huế, sau đó, Phật tử ở Pháp xin in và họ lấy tên là “Thực tại hiện tiền”. Thiền sư Viên Minh là người đã bác lãm chư kinh điển Đại Thừa, đã nghiên cứu thấu đáo tinh hoa của Khổng, Lão; lại còn suốt thông các Nikāya và Abhidhamma, nhưng khi tu tập, ngài không trụ, không ly chư kinh giáo, lắng nghe “cái thực” trong tâm mà xử lý mọi vấn đề vi tế ở nội tâm. Khi đã nắm chắc, thấy rõ “cái thực” là gì rồi, nhiều năm nay, thiền về “cái thực” này đã được ngài giảng nói qua cả hằng chục khóa thiền ở Bửu Long, Hà Nội, Đà Nẵng, Huế, Úc, Malaysia, Mỹ quốc, Châu Âu… Ngài đã chỉ bày, gợi mở cho mọi người nắm “cái nguyên lý” mà lên đường chứ không đi qua “pháp môn phương tiện” nào cả! Và đã giúp cho rất nhiều hành giả giải thoát khỏi những vướng mắc về kinh giáo, lạc định, ước lệ, phạm trù của tâm trí cùng những bản ngã sở đắc! Trả vô thường lại cho vô thường, trả dukkha lại cho dukkha, trả vô ngã lại cho vô ngã! Và rồi, chư kinh giáo, nếu có nói đến cũng chỉ để nhằm đối chiếu, so sánh với “cái thực” này mà thôi!

Pháp đang hiện tiền, “cái thực đang hiện tiền” và nó luôn thuyết pháp không ngưng nghỉ, ngày cũng như đêm. Ai có tai hãy nghe, có trí hãy tìm hiểu!

 

Huyền Không Sơn Thượng, 

Mai Trúc Am, Sơ Xuân Giáp Ngọ

Tỳ-khưu Giới Đức

(Minh Đức Triều Tâm Ảnh)

 

Ảnh: Tịnh Thy

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Gươm báu trao tay, Lõm bõm học Phật

Họp mặt “bỏ túi” ở Lan Viên Cố Tích

20/02/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc 1 Bình luận

 

Thư gởi bạn xa xôi ( M5 Tết Giáp Thìn, 2024)

Họp mặt “bỏ túi” ở Lan Viên Cố Tích

 

Cứ tưởng là cổ tích, nhưng không. Cố Tích. Vết xưa. Dấu xưa. Lối xưa. “Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo…” (BHTQ).

Chiều Mùng 5, (ngày 14.2), có một buổi Họp mặt “bỏ túi” thân tình ở vườn nhà Thái Kim Lan, khu Kim Long, Huế.

Gọi là “bỏ túi” vì đó là một buổi họp mặt nho nhỏ, thân tình, đầu năm, giữa vài bạn bè thân quen với Đỗ Hồng Ngọc vừa từ phương Nam mang chút nắng vàng về… Kinh.

Thái Kim Lan “chủ xị”, lúc đầu tính mời rộng qua FB nhưng mình can, Tết nhứt, ai cũng bận bịu. Vậy mà cũng hơn vài ba mươi người chớ không ít.

Gởi bạn vài tấm hình coi chơi thôi nhe.

Khu vực vườn nhà Thái Kim Lan rất rộng, có cả bảo tàng cổ vật sông Hương, thư viện, hội trường…

 

 

bạn bè đến khá đông vui… nhiều người tóc đã trắng phau, vẫn áo dài truyền thống thướt tha đầy màu sắc…

Một… hội trường mở rộng vào không gian vườn vừa cổ xưa vừa hiện đại… Mình được mời nói một chút về chuyện Thơ văn, chuyện học Phật…

Và bắt đầu sôi nổi với những câu hỏi của nhà báo Nguyễn Khoa Diệu Hà, nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Thị Tịnh Thy, của bác sĩ Pham Đức Thành Dũng, của nhà Phật học Nguyễn Phố…

D

 

 

 

 

 

 

 

Thuộc chủ đề:Ghi chép lang thang, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Thăm Sư Giới Đức Triều Tâm Ảnh

19/02/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Thư gởi bạn xa xôi (Tết, tiếp theo)

Thăm Sư Giới Đức Triều Tâm Ảnh

Lần nào về Huế, mình cũng ghé Huyền Không Sơn Thượng thăm Sư Giới Đức Triều Tâm Ảnh. Một nhà thơ, một nhà thư pháp có tiếng từ thuở xa xưa và là một vị thiền sư bên cạnh các Thiền sư Viên Minh, Pháp Tông, Tuệ Tâm của Phật giáo Nguyên Thuỷ…

Năm ngoái, cùng với các bạn Tạp chí Quán Văn ghé thăm (trong đó, có nhà văn Nguyên Minh vốn là đồng môn Sư phạm Quy Nhơn hơn nửa thế kỷ trước với Sư Giới Đức), mình hỏi thầy về kinh nghiệm sau 3 năm nhập thất… Thầy kể rất chi tiết cái được cái không, cái thấy cái biết và kết: Bây giờ thì đã rõ “Bình thường. Thanh thản. Tự nhiên thôi/ Với cả nhân gian một nụ cười”.

`Thầy nói về cây hoa thuỷ tiên,

 

 

Và thật vậy, hôm nay gặp lại, đúng là thầy cười rất tươi, không còn chút gì căng thẳng, vất vả tìm kiếm như những ngày xa xưa nữa.

 

Từ trái: Nguyễn Thị Tịnh Thy, Đỗ Hồng Ngọc, Nguyễn Văn Dũng (Dũng Võ), Ngô Tiến Nhân và nhà báo Minh Tự. (Mùng 4 Tết Giáp Thìn, 13.2. 2024). Sư đều tặng cho mỗi người 3 cuốn sách to đùng về Lịch sử Phật giáo Ấn Độ, một tập Thơ. Ngoài ra còn có cuốn sách của Thầy Chơn Tín về chuyến hành hương Ấn Độ.

 

 

 

 

Sư gọi đệ tử gởi ngay 10 tập Thơ riêng cho “Nữ sĩ”, khi biết Tịnh Thy là người đã viết rất hay về Thơ Minh Đức Triều Tâm Ảnh trước đây.

 

 

 

Với Đỗ Hồng Ngọc, Sư tặng cuốn sách mới dịch: Cuộc Đời & Hành Trạng Ngài Ajahn Mun (1870-1949), một Tỳ Khưu độc đáo, Vị Thánh Tăng cận đại, có những cách học và hành Phật pháp rất đặc sắc.

 

 

 

T

Thuộc chủ đề:Gươm báu trao tay, Phật học & Đời sống, Vài đoạn hồi ký

HUẾ: Ni xá Diệu Trạm (Làng Mai)

17/02/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc 1 Bình luận

 

Thư gởi bạn xa xôi (Tết)

Thăm Ni xá Diệu Trạm, Huế

 

Lê Bá Thông dặn đến Huế, muốn ghé thăm Ni xá Diệu Trạm Làng Mai thì gặp các Sư cô Như Hiếu, Tịnh Hằng, Trí Nghiêm…

Mùng 3 Tết Giáp Thìn, mình sợ các Ni xá đều “cắt đứt dây chuông” thì thật đáng tiếc. Bởi mình và Lê Bá Thông vẫn thường đến thăm Ni xá Trạm Tịch ở Đồng Nai (nay đổi tên là Đạo tràng Phùng Xuân?) gặp các Sư cô Đức Nguyên, Trực Nghiêm…. Các vị còn mời có buổi Trao đổi, Trò chuyện cùng các Sư cô và Thiền sinh, còn viết tặng thư pháp các thứ v.v… May quá, Diệu Trạm, Huế ngay Mùng 3 Tết Giáp Thìn 2024 còn “nhộn nhịp” hơn.

Gởi bạn vài tấm hình như thường lệ thôi nhé.

Ni xa Diệu Trạm, Làng Mai, Huế

Ni xá Diệu Trạm Huế (ảnh ĐHN, 12.2.2024)

Các Sư cô trẻ bên bếp lửa hồng ngày Xuân

 

 

Sưởi ké chút đông xứ Huế. Bếp hồng đang chờ khoai bắp.

 

 

Các Sư cô đang dạy hát tiếng Anh cho các cháu bé… Hai vị khách cùng tham gia..

 

 

Mùng 3 Tết, ở Diệu Trạm là ngày bà con viếng thăm.

 

 

 

 

 

 

 

 

Các Sư cô gởi phong bao “lì xì” cho khách. 

 

 

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc.

Thuộc chủ đề:Uncategorized

Đỗ Hồng Ngọc: Vài hình ảnh cầu Tràng Tiền HUẾ (Tết Giáp Thìn 2024)

16/02/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Cầu Tràng Tiền HUẾ,

nhìn bởi Đỗ Hồng Ngọc 

 

Về Huế lần này, lạ lẫm. Mùng 4 và Mùng 5 Tết Giáp Thìn 2024.

Chụp vài tấm hình Cầu Tràng Tiền nhìn từ Khách sạn Hương Giang và Floating Restaurant:

 

Cầu Tràng Tiền, Huế
(ảnh Đỗ Hồng Ngọc, 14.2.2024)

 

Cầu Tràng Tiền, Huế,
(ảnh Do Hong Ngoc, 13.2.2024)

 

Cầu Tràng Tiền, Huế (ảnh Do Hong Ngoc, 14.2.2024)

 

Cầu Tràng Tiền, Huế
(ảnh Do Hong Ngọc, 13.2.2024)

 

Cầu Tràng Tiền, Huế
(ảnh Do Hong Ngoc, 13.2.2024. Mùng 4 Tết Giáp Thìn)

Thuộc chủ đề:Uncategorized

Mùng Một. Giáp Thìn 2024

10/02/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Mùng Một. Giáp Thìn 2024

Năm Mới. Tháng Giêng. Mùng Một Tết

Còn nguyên vẹn cả Một Mùa Xuân

(Nguyễn Bính)

 

Thiệp Xuân Giáp Thìn 2024.
Đinh Trường Giang

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

“VỀ THU XẾP LẠI…”

09/02/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

“VỀ THU XẾP LẠI…”

Nguyễn Thị Tịnh Thy

 

 

Ở tuổi 55, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc bần thần viết “Gió heo may đã về”, đến 60 thì viết “Già ơi… chào bạn!” như một reo vui, đến 75 còn… ráng viết “Già sao cho sướng?…” để sẻ chia cùng bè bạn đồng bệnh tương lân. Nhưng 80 thì thôi vậy. Đã đến lúc phải “VỀ THU XẾP LẠI”.
“Về thu xếp lại”… bởi “chút nắng vàng giờ đây cũng vội”…, “giật mình ôi chiếc lá thu phai”…
“Về thu xếp lại… bởi “cát bụi tuyệt vời” đã chuyển thành “cát bụi mệt nhoài”
“Về thu xếp lại…, “một ngày kia đến bờ”…, “đời người như gió qua”.
Hãy đón nhận ngày đó một cách bình thản, an nhiên như “mệt quá đôi chân này, tìm đến chiếc ghế nghỉ ngơi; mệt quá thân ta này, nằm xuống với đất muôn đời…” Có gì đâu! Nhẹ tênh mà!
Lấy cảm hứng từ những ca từ đầy tính triết lý phận người nhẹ nhàng mà sâu sắc của Trịnh Công Sơn, Đỗ Hồng Ngọc sẽ đưa chúng ta đến với các U80 bằng y học, tâm lý học, Phật học… trong dặt dìu của âm nhạc, thi ca.

 

minh hoạ Đỗ Trung Quân

Dí dỏm, duyên dáng, chất khoa học đan quyện trong chất nghệ thuật, sự nghiêm trọng chuyển tải qua các ngôn từ hài hước của cuốn sách nhỏ sẽ giúp những người già dễ dàng lắng nghe chính mình. Và đặc biệt, người trẻ sẽ hiểu hơn về người già.

minh hoạ Đỗ Trung Quân

Hiểu gì?
Hiểu rằng người già khó ăn, khó ngủ, khó tính, … nhưng lại dễ yêu: “…Có vẻ như càng già người ta càng yêu nhiều hơn, yêu vội hơn và càng yêu thì càng “sống khỏe sống vui” hơn! Khi “chút nắng vàng giờ đây cũng vội” thì mới thấy còn có bao nhiêu thời gian để yêu thương và được yêu thương? Dĩ nhiên, tình yêu bấy giờ có thể chỉ là một mối tình lãng mạn, hoặc một mối tình “ngỡ đã quên đi/ bỗng về quá rộn ràng”… để rồi “như bờ xa nước cạn/ đã chìm vào cơn mưa”. Tình yêu lãng mạn có ý nghĩa rất lớn ở người có tuổi. Như “nuôi sống” họ bằng tình yêu. Hình như họ chỉ giữ được chút kích thích tố vừa đủ để “lãng mạn” cho cuộc đời đẹp ra, đáng sống hơn, sức khỏe cũng tốt hơn vì nó làm cho tim đập nhanh hơn, tuần hoàn não tốt hơn, trí tuệ minh mẫn hơn, hệ thống miễn dịch hoạt động tốt hơn, ít bệnh vặt hơn và nếu có bệnh thì rất mau lành!”

Có chắc như thế không nhỉ? Các anh chị em Tag vào Facebook của ông bà nội, ông bà ngoại xem các cụ comment thế nào nhé!
****
FB Nguyễn Thị Tịnh Thy.

(“Về thu xếp lại”, Nxb. Tổng hợp tp HCM, 2019, bìa Lê Ký Thương)

Thuộc chủ đề:Già ơi....chào bạn, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

Thư gởi bạn xa xôi (30 Tết)

09/02/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Thư gởi bạn xa xôi (30 Tết)

Có gì lạ không ư? Có đó. Sáng 30 Tết, không khí như loãng ra, trời như cao hơn, đất như rộng hơn. Im ắng lạ thường. Không một tiếng động dù là tiếng rao bánh mì nóng, xôi vò xôi đậu, thậm chí không có một tiếng động cơ xe ầm ào như mấy ngày trước. Lạ. Ba mươi thì có khác gì đâu. Cũng hai mươi bốn giờ, mỗi giờ cũng sáu mươi phút, mỗi phút cũng sáu mươi giây. Vậy mà lạ mới kỳ chớ.

Nghe cho kỹ thì ra có cái gì đó. Hình như mùa đang chuyển. Hình như trái đất vừa quay được một vòng quanh mặt trời và hớn hở mĩm cười như đã thành công! Trời bỗng hơi bẽn lẽn se lạnh. Không khí loãng ra, không còn đặc quánh với bụi khói, với tiếng ồn kia nữa. Không khí ùa vào phổi, chẳng cần phải ráng hít thở chi.

Nhớ André Maurois, một hôm ngồi uống cafe sữa ở vỉa hè Paris, khi quậy lên từ đáy cốc thì thấy sữa cuộn lại và lốm đốm những hạt li ti, quấn quít, trắng đục. Ông kêu lên: Dải Ngân Hà đây rồi. Và biết ngay đã có một ai kia quậy một ly cafe sữa tình cờ đâu đó mà ra ngàn vạn dải Ngân Hà xoắn tít xưa nay trên bầu trời vời vợi kia.

Bỗng nhớ Sóng về đâu của Trịnh Công Sơn. Biển sóng biển sóng đừng xô nhau. Ta xô biển lại sóng về đâu! Thì về với nước. Có mất đi đâu. Nhưng không cần thiết phải xô nhau. Chỉ cần nước, gió, và bãi bờ  để làm duyên cho sóng. Có khi rầm rập vỗ tan vào gành đá, có khi lướt thướt mượt mà chạy cuốn loanh quanh. Nó như có một số phận. Một cái nghiệp và duyên khởi thì duyên sinh.

Có lần tôi viết bài thơ ngắn:

Sóng

Sóng quằn quại

Thét gào

Không nhớ

Mình

Là nước…

(ĐHN, Thơ Ngắn Đỗ Nghê)

Và nhớ năm 2011, một con sóng thần đã ập vào Nhật bản, quét sạch cả một thành phố… Tôi đã viết bài thơ Giả sử

đỗ hồng ngoc

Giả sử sóng thần ập vào Nha Trang

Ập vào Mũi Né

Anh chị kịp quẳng em lên một chiếc thuyền thúng

Vút qua những ngọn dừa

Những đồi cát trắng

Em nhớ mang theo đôi quả trứng

Vài nắm cơm

Vài hạt giống

Đừng quên mấy trái ớt xanh

 

Biết đâu mai này

Ta làm An Tiêm

Trở về làng cũ

Nơi này ta sẽ gọi là Nha Trang

Nơi kia gọi là Mũi Né

 

Cho nên

Sao chẳng sớm mà thương nhau hơn?…

(ĐHN)

Bạn biết không, không phải vô cớ mà nhà thơ Nguyễn Đình Toàn viết: Còn đêm nào vui bằng đêm Ba mươi… Anh nói với người phu quét đường. Xin chiếc lá vàng làm bằng chứng yêu em…

Chiếc lá vàng làm “bằng chứng” ư? Chớ còn gì nữa. Chiếc lá vàng, rụng rơi xuống đất kia chẳng đủ làm bằng chứng rằng anh sẽ yêu em mãi đến như chiếc lá vàng kia đó sao?

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc.

(Saigon, 30 Tết Giáp Thìn 2024)

 

Thuộc chủ đề:Ghi chép lang thang, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

Huỳnh Đình Tám: La Ngà, “Một ký ức không quên”

05/02/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

MỘT KÍ ỨC KHÔNG QUÊN

Huỳnh Đình Tám,

Long Hương, Cổ Thạch,

Ghi chú: Sáng nay tôi nhận được một bài viết của Thầy Huỳnh Đình Tám ở Long Hương, Cổ Thạch rất cảm động. Thầy là giáo viên dạy toán, đã về hưu, có đứa con gái thầy đặt tên La Ngà, như tên Đỗ Châu La Ngà, con tôi, đã mất vì tai nạn năm 1990, khi La Ngà đang là sinh viên y khoa năm 3 Đại học Y dược Tp Hồ Chí Minh trong một buổi đi công tác xã hội.

Xin chia sẻ nơi đây lời tâm tình của thầy Huỳnh Đình Tám về câu chuyện mà thầy gọi là  MỘT KÍ ỨC KHÔNG QUÊN.

Trân trọng cảm ơn thầy Huỳnh đình Tám.

Đỗ Hồng Ngọc.

(5.02.2024)

……………………………………………………………………

Kính gửi BS Đỗ Hồng Ngọc. Hôm qua em có xem trên trang nhà BS Đỗ Hồng Ngọc mục “Thư gửi bạn xa xôi”. BS đã viết chuyến đi dọc từ LaGi , Mũi Né, Bàu Trắng , Phan Rí  rồi đến  Long Hương, Cổ Thạch. Tiếc rằng không gặp trực tiếp anh, nhưng em rất vui vì BS còn nhớ đến em. Xin chúc anh dồi dào sức khỏe và có thật nhiều niềm vui đón chào Xuân mới. Kính thưa BS, em cũng có đăng bài viết về anh . Một BS em hằng ngưỡng mộ từ năm 1977…

 

MỘT KÍ ỨC KHÔNG QUÊN

Tôi rất vui, vào ngày 2 tháng 1/2024: không ngờ một vị BS mà tôi ngưỡng mộ cách đây 47 năm đã có dịp ghé lại Long Hương, chùa Cổ Thạch đã tặng cho tôi 2 quyển sách do BS là tác giả.  Hai quyển sách có tựa đề: “Một ngày kia… đến bờ”  và “ Bông hồng cho mẹ & những cảm nhận học Phật”.

Đó chính là BS ĐỖ HỒNG NGỌC. Ông từ Lagi  đi một mạch dọc biển về Phan Thiết, qua Mũi Né, Bàu Trắng, đến Phan Rí Cửa, rồi Long Hương, Cổ Thạch, thăm nhà văn Hồ Việt Khuê, Nguyễn Phương cùng các bạn vùng La Gàn, và gửi tặng sách cho tôi…
Tôi còn nhớ năm 1977, là một thầy giáo trẻ mới ra trường đầy nhiệt huyết. Tình cờ tôi vào hiệu sách đọc được quyển sách “Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng” của BS Đỗ Hồng Ngọc với văn từ thật giản dị, tình cảm của một người thầy thuốc. Tôi đọc đi, đọc lại quyển sách này nhiều lần mà không biết chán với lối văn dí dỏm ấy.
Rồi năm 1983 một kỷ niệm mà không bao giờ tôi quên được. Đứa con gái tôi lúc ấy lên 3 tuổi. Cháu bị một cơn bệnh ho gà rất nặng mà điều trị hơn cả tháng vẫn không bớt bệnh. Cơn ho đã có đặc tính của cơn ho gà: cháu ho từng tràng 15 – 20 tiếng, càng lúc càng mau, càng dữ dội, đỏ mặt tía tai, sau cơn ho bé bị hụt hơi, gần nín thở, phải hít hơi thực mạnh, nên gây ra một tiếng “cót” đặc biệt của cơn ho gà, giống tiếng gà trống sau cơn ho và ói ra thức ăn, đàm nhớt từng sợi dài lòng thòng ở miệng, ở mũi. Trong thời điểm ấy, kinh tế quá khó khăn, Tôi lại nhớ đến BS Đỗ Hồng Ngọc. Tôi mạnh dạn viết thư cho BS Ngọc về căn bệnh của con tôi. Không ngờ khoảng 3 ngày sau tôi nhận được thư của BS Ngọc đã tận tình cho toa thuốc điều trị và con tôi đã dứt bệnh. BS Ngọc là vị cứu tinh cho gia đình tôi.

Con gái tôi đặt tên Huỳnh Vũ La Ngà mà nhiều bạn bè , đồng nghiệp cho rằng vợ chồng chúng tôi có kỷ niệm gặp nhau ở dòng sông La Ngà. Không phải đâu, tôi xin nói thật: con gái tôi tên La Ngà là tôi lấy tên của con  gái của BS Đỗ Hồng Ngọc khi đọc quyển sách viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng, mà tôi  hằng ngưỡng mộ.
Mùa xuân Giáp thìn đến cận kề, BS Đỗ Hồng Ngọc đã 84 tuổi. Xin kính chúc BS Ngọc cùng gia đình một năm mới vui khỏe, an khang thịnh vượng.  Trân trọng cám ơn anh nhiều.

Huỳnh Đình Tám

( thầy giáo dạy Toán đã về hưu)

……………………………….

Huỳnh Vũ La Ngà hiện nay “nối nghiệp cha” cũng là cô giáo dạy toán.

Thuộc chủ đề:Vài đoạn hồi ký, Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng

  • « Chuyển đến Trang trước
  • Trang 1
  • Interim pages omitted …
  • Trang 5
  • Trang 6
  • Trang 7
  • Trang 8
  • Trang 9
  • Interim pages omitted …
  • Trang 123
  • Chuyển đến Trang sau »

Thư đi Tin lại

  • Lịch “Trò chuyện, giao lưu…”
  • Lại đính chính: “SAIGON BÂY GIỜ”
  • ĐÍNH CHÍNH: BSNGOC không phải là BS ĐỖ HỒNG NGỌC
  • Đính chính: BS NGỌC không phải là Bs Đỗ Hồng Ngọc
  • bsngoc đã lên tiếng đính chính
  • Thư cảm ơn và Đính chính về FACEBOOK Bác sĩ NGỌC
  • ĐÍNH CHÍNH: Bài viết "TÀN NHẪN" không phải của Bs Đỗ Hồng Ngọc

PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG

Bs Đỗ Hồng Ngọc với Khoá tu “Xuất gia gieo duyên” tại Tu viện Khánh An.

Hỏi chuyện Học Phật với Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Bản dịch tiếng Đức “Một Ngày Kia… Đến Bờ”

CON ĐƯỜNG AN LẠC Bài 6: Học cách Phật dạy con

Minh Lê: Đọc và Cảm “Một ngày kia… đến bờ”

Thăm Sư Giới Đức Triều Tâm Ảnh

Nguyên Cẩn: Đọc “Một ngày kia… đến bờ “của Đỗ Hồng Ngọc

“MỘT NGÀY KIA… ĐẾN BỜ” Tuỳ bút Đỗ Hồng Ngọc

Từ góc nhìn “Phê bình sinh thái” về bài thơ “Rùng mình” của Đỗ Hồng Ngọc

MỘT NGÀY KIA…ĐẾN BỜ V2

Xem thêm >>

Chuyên mục

  • Một chút tôi
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy

Bài viết mới nhất!

  • Thư gởi bạn xa xôi (tháng 12/2025)
  • Trò Chuyện với Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc về Tình Yêu và Cuộc Sống
  • Lương Thư Trung (Hai Trầu): TUỔI GIÀ THỬ ĐỌC “CHUYỆN HỒI ĐÓ” (ĐHN)
  • PNB giới thiệu: Sách “bỏ túi” CON ĐƯỜNG AN LẠC.
  • Video Podcast: Học cách Phật dạy con

Bài viết theo tháng

Ý kiến bạn đọc!

  • hai trầu trong Trò Chuyện với Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc về Tình Yêu và Cuộc Sống
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Mũi Né
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Gặp gỡ với Nhà thơ Huyền Chi của “Thuyền viễn xứ”
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Lương Thư Trung (Hai Trầu): TUỔI GIÀ THỬ ĐỌC “CHUYỆN HỒI ĐÓ” (ĐHN)
  • Jimmy Võ Bất trong Mũi Né
  • Jimmy Vo trong Mũi Né
  • Le Dinh Duc trong Gặp gỡ với Nhà thơ Huyền Chi của “Thuyền viễn xứ”
  • Hoang Nguyen trong Lương Thư Trung (Hai Trầu): TUỔI GIÀ THỬ ĐỌC “CHUYỆN HỒI ĐÓ” (ĐHN)
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Mũi Né
  • Jimmy Võ Bất trong Mũi Né

Cùng một tác giả

  • 0
  • 1
  • 1
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6

Thống kê

Nhà tài trợ

biệt thự vũng tàu
biệt thự vũng tàu cho thuê | biệt thự vũng tàu cho thuê theo ngày giá rẻ | cho thuê biệt thự vũng tàu có hồ bơi
© 2009 - 2016 Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Phát triển & Hỗ trợ kỹ thuật bởi SGC.
Trích dịch nội dung để dùng trong nghiên cứu, học tập hay dùng cho cá nhân đều được tự do nhưng cần phải chú thích rõ nguồn tài liệu và đối với các trích dịch với mục đích khác, cần phải liên lạc với tác giả.
  • Một chút tôi
    ?
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    ?
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    ?
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    ?
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    ?
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy
  • Nhận bài mới qua email