Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Tập hợp các bài viết của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Ghi chép lang thang
  • Nhận bài mới qua email

Cao Huy Thuần “Chia tay mà không biệt ly”

09/07/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

“Chia tay mà không biệt ly”

Khi anh Cao Huy Thuần gởi tôi tập Im Lặng, như lời chia tay… , tôi nghĩ: chắc là “Im Lặng thở dài…” đây rồi! “Tôi đang lắng nghe tôi đang lắng nghe im lặng đời mình” (Trịnh Công Sơn)? Nhưng không. Cao Huy Thuần nói về “chia tay mà không biệt ly”…

Nhưng đâu là cách chia tay mà không biệt ly? Cao Huy Thuần dẫn bài thơ Feuille morte (lá chết) của Hermann Hess, tác giả Siddhartha. Anh “phát hiện” một điều thú vị: người Việt không ai nói “lá chết” mà nói “lá khô”, “lá rụng”. Quét lá rụng, quét lá khô, không ai nói quét lá chết như ngôn ngữ Pháp, Đức. Bởi vì, lá không bao giờ chết. Nó khô, nó rụng, rồi nó tái sinh thành lá búp lá non (Im Lặng, CHT).

“Chân lý” ấy do hai con sên của nhà thơ Jacques Prévert trên đường đi dự đám tang một chiếc lá chết, tựa là: “Bài ca hai con sên đi dự đám tang”.

Hai con sên đi đưa

Đám tang chiếc lá chết

Hai cái vỏ thì đen

Hai sừng băng trắng hết…

Hỡi ôi khi chúng đến

Mùa xuân đã đến rồi

Bao nhiêu lá chết xong

Tất cả đều lại sống

Hai chú sên trở về

Với xiết bao cảm xúc

Lòng tràn ngập hân hoan

Và vô biên hạnh phúc…

Ôi, làm sao hai chú sên đi dự đám tang chiếc lá chết buồn xo giữa mùa thu… mà nay lòng lại tràn đầy hân hoan, hạnh phúc? Ấy bởi vì chúng là sên. Chúng “bò như sên”! Bò hết cả mùa đông, chưa kịp đến nơi mà xuân đã về rồi! “Bao nhiêu lá chết xong/ Tất cả đều lại sống…”.

Tiễn mùa thu thì gặp mùa xuân. Tiễn cai chết thì gặp cái sống. Tiễn ảm đạm thì gặp tưng bừng. Hai con sên chia tay mà chẳng biết biệt ly là gì! (Im Lặng,CHT).

Cao Huy Thuần nói: “chúng chẳng có cả khái niệm…”. Dĩ nhiên, Cao Huy Thuần đang nói về Kinh Kim Cang! Khi ta mà biết sống “ly niệm”, khi ta không còn bám chấp vào khái niệm… thì “trí bất đắc hữu vô”. Thong dong. Tự tại.

Descartes nói “Je pense, donc je suis – Tôi tư duy, nên tôi tồn tại”. Ta cũng có thể bắt chước nói: “Tôi thở, vậy có tôi”. Nghĩa là nếu tôi không thở thì không có tôi. Nhưng cái thời tôi còn trong bụng mẹ, tôi cũng không thở mà vẫn có tôi đó thôi. Từ đó, suy ra rằng cái thời tôi… hết thở, ngừng thở, thì tôi vẫn tồn tại đó chứ, sao không? Tôi lúc đó trở lại trong bào thai Mẹ (bào thai Như Lai, Tathagata garbha) đó chứ!

Anh Cao Huy Thuần thân mến, nếu thỉnh thoảng ta mà vào được Tam muội Phổ Hiền, sống trong Như Lai tạng thì ta cũng có thể nhận ra cái “vô tưóng” – bỗng “hiện tướng”… đùa vui giữa chốn Ta-bà chút vậy thôi.

Khi con chim bay, nó không cần biết trời là gì, đâu là giới hạn. Nó chỉ bay. Trong bầu trời vô tận. Cao Huy Thuần đang bay.

Đường bay của hạnh phúc. Lấp lánh ánh vàng!

 

Đỗ Hồng Ngọc

 

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Gươm báu trao tay, Nghĩ từ trái tim

“QUY TẮC 3 V” CHẾ ĐỘ ĂN TỐT NHẤT CHO MỖI NGƯỜI VÀ HÀNH TINH

27/06/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

“QUY TẮC 3 V”
CHẾ ĐỘ ĂN TỐT NHẤT CHO MỖI NGƯỜI VÀ HÀNH TINH

Lena Couffin
Cao Huy Hóa dịch

Sự lựa chọn thực phẩm của chúng ta có thể cứu hành tinh này. Bằng cách áp dụng quy tắc 3V, chúng ta cũng bảo đảm một chế độ ăn uống lành mạnh. Hai chuyên gia Émilie Steinbach và Anthony Fardet sẽ phân tích thêm.

———————-

Hãy bắt đầu với một quan sát kép. Trước hết, thực phẩm chúng ta tiêu thụ, quá trình sản xuất và chất thải của nó có tác động lớn đến hành tinh. Sau đó, một số thói quen ăn uống có hại cho sức khỏe của chúng ta. Quá ngọt, quá giàu chất béo không tốt và phần lớn bao gồm thực phẩm chế biến sẵn… “Vào năm 2030, 50% dân số thế giới có thể bị thừa cân và béo phì, Émilie Steinbach, nhà thần kinh học và Tiến sĩ Sinh học Tích hợp, cảnh báo. Đây là yếu tố nguy cơ chính gây ra bệnh tiểu đường loại 2, bệnh tim mạch, trầm cảm và suy giảm nhận thức.”

“Nhân loại có thể nuôi sống dân số 10 tỷ người trong tương lai bằng chế độ ăn uống lành mạnh trong giới hạn hành tinh không?” Để trả lời câu hỏi này, Ủy ban EAT-Lancet đã được thành lập. Năm 2019, 37 chuyên gia về sức khỏe, dinh dưỡng, về bền vững môi trường, về hệ thống thực phẩm và quản lý kinh tế và chính trị, đến từ 16 quốc gia khác nhau, đã công bố “chế độ ăn hành tinh”, một chế độ ăn có khả năng tôn trọng các giới hạn bền vững của hành tinh, đồng thời dựa trên phân tích dinh dưỡng chuyên sâu.

Làm thế nào chúng ta có thể tích hợp những khuyến nghị này vào cuộc sống hàng ngày của mình? Làm thế nào để ăn lành mạnh và bền vững? Câu trả lời là: tuân theo “quy tắc 3 V”, được phát triển bởi Anthony Fardet, bác sĩ dinh dưỡng, nhà nghiên cứu về ăn uống phòng ngừa và bền vững và Edmond Rock, giám đốc nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Quốc gia về Nông nghiệp, thực phẩm và môi trường (INRAE). Nó bao gồm việc ăn theo quy tắc 3V (theo tiếng Pháp, 3V là: Vrai, Végétal, Varié).

MANGER VRAI (Ăn chân thật)

Ăn chân thật đơn giản có nghĩa là giảm tiêu thụ thực phẩm đã qua chế biến sẵn, được thiết kế bởi các nhà sản xuất thực phẩm – với các tác nhân mỹ phẩm để điều chỉnh hương vị, màu sắc, mùi thơm, hình thức kết cấu – và rất nhiều trong số đó không tồn tại ở trạng thái tự nhiên. Anthony Fardet nhấn mạnh: “Nhìn chung, những sản phẩm này cung cấp ít chất xơ, vitamin và vi chất dinh dưỡng cho cơ thể chúng ta, thường quá ngọt và chứa các chất phụ gia mỹ phẩm”. Tiêu thụ quá mức, chúng có hại cho sức khỏe toàn bộ, tức là con người và hành tinh.” Phần lớn trong số 210 nghiên cứu dịch tễ học được thực hiện trên thực phẩm chế biến sẵn trên thực tế đã báo cáo mối liên hệ đáng kể giữa việc tiêu thụ quá nhiều các sản phẩm đó và nguy cơ mắc nhiều bệnh mãn tính và tử vong sớm.

Chuyên gia cho biết thêm, không nên quên rằng “chế biến siêu tốc có liên quan đến hệ thống thực phẩm không bền vững, làm giảm đa dạng sinh học, thúc đẩy độc canh và chăn nuôi thâm canh”. Số lượng rác thải nhựa và chất thải liên quan đến hoạt động sản xuất này cũng rất lớn. Đây là lý do tại sao Anthony Fardet khuyên bạn nên hạn chế tiêu thụ những thực phẩm như vậy.

Để ăn chân thật, Anthony Fardet khuyến nghị ba quy tắc khác cho sức khỏe. Ưu tiên thực phẩm ở dạng rắn hơn dạng lỏng “để tạo thuận lợi cho việc nhai và cảm giác chán ngấy”. Thật vậy, tiêu thụ cả quả cam thay vì nước cam ép sẽ cung cấp lượng chất xơ và vitamin tốt hơn, đồng thời điều chỉnh phản ứng đường huyết tốt hơn. Ngoài ra, ông còn khuyên “nên ăn thực phẩm giàu tinh bột hơn là loại đã tinh chế và tránh quá nặng tay khi thêm muối, đường và chất béo khi nấu”.

MANGER VÉGÉTAL (Ăn rau củ quả)

Vì lợi ích của Trái đất, việc giảm tiêu thụ thực phẩm có nguồn gốc động vật là điều không thể tránh khỏi. Anthony Fardet khẳng định: “Thức ăn thực vật trên đĩa của chúng ta làm giảm đáng kể lượng khí thải nhà kính, lượng nước sử dụng và dấu ấn cacbon trên môi trường toàn bộ. Chuyện đó thật đơn giản, chứ không có giải pháp nào khác để bảo tồn hành tinh của chúng ta.” Để so sánh, việc sản xuất một kg thịt bò thải ra 99 kg CO₂ tương ứng, trong khi sản xuất một kg cây họ đậu thải ra chưa đến một kg CO₂ tương ứng.

Những lợi ích cũng được tìm thấy trên sức khỏe của chúng ta. “Ví dụ, người ta đã chứng minh rằng chế độ ăn uống MIND – kết hợp chế độ ăn Địa Trung Hải truyền thống với DASH (chế độ ăn kiêng chống tăng huyết áp) và chủ yếu bao gồm thực phẩm thực vật (ngũ cốc nguyên hạt, trái cây và rau quả, các loại đậu, quả hạch và hạt) – có liên quan đến việc giảm nguy cơ mắc các bệnh thoái hóa thần kinh và làm chậm quá trình suy giảm nhận thức,” nhà khoa học thần kinh Émilie Steinbach bảo đảm. Ngược lại, tiêu thụ thịt đỏ có liên quan đến nguy cơ béo phì, bệnh tim mạch và ung thư.

Ở đây, không có vấn đề gì về việc giảm tổng lượng protein của chúng ta. Nhà thần kinh học cho biết: “Nó liên quan đến việc thay thế một lượng thịt nhất định bằng thực phẩm giàu protein có nguồn gốc thực vật”. Trong số đó, người ta tìm thấy đậu khô, đậu lăng, hạt có dầu, các loại hạt và thậm chí cả các sản phẩm làm từ đậu nành… “Trái ngược với suy nghĩ thông thường, những thực phẩm này không phải lúc nào cũng có lượng protein thấp hơn thịt, Émilie Steinbach giải thích. Nhiều nghiên cứu cho thấy chế độ ăn của người ăn chay thường có chất lượng dinh dưỡng tốt hơn chế độ ăn của người ăn tạp, vì nó cung cấp nhiều loại thực phẩm hơn và do đó có nhiều chất dinh dưỡng đa dạng hơn.

MANGER VARIÉ (Ăn thay đổi)

Và đây là toàn bộ mục tiêu quy tắc cuối cùng của 3V. Thay đổi chế độ ăn uống của chúng ta trên thực tế là điều cần thiết để kích thích đa dạng sinh học, đa canh và nâng đỡ các hệ sinh thái khác nhau. Nhà nghiên cứu Anthony Fardet lưu ý: “Ngày nay, FAO (Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc) báo cáo rằng chỉ có 12 loại động vật và thực vật cung cấp hơn 50% lượng calo hàng ngày cho 8 tỷ người trên Trái đất. Tuy nhiên, có nhiều ngàn không gian thực vật và động vật trên hành tinh này.” Từ đó nói lên tầm quan trọng của việc thay đổi thói quen ăn uống của chúng ta.

Đa dạng hóa đĩa thức ăn của chúng ta cũng sẽ thúc đẩy sức khỏe tốt hơn. Émilie Steinbach giải thích: “Chúng ta càng ăn nhiều loại thực phẩm đa dạng thì chúng ta càng cung cấp một loạt các phân tử phức tạp khác nhau để nuôi dưỡng sự đa dạng của hệ vi sinh vật, góp phần cải thiện sức khỏe đường ruột và tổng thể của chúng ta”.

Trên thực tế, các chuyên gia khuyên bạn nên tiêu thụ từ 35 đến 40 loại thực phẩm khác nhau mỗi tuần. Anthony Fardet giải thích: “Tương ứng với khoảng ba sản phẩm khác nhau cho mỗi loại thực phẩm”. Như vậy, trong nhóm ngũ cốc, chúng ta có thể tiêu thụ cả lúa mì, gạo nguyên hạt và bắp. Trong số các loại đậu, bạn có thể chọn ăn đậu lăng, đậu đa dạng và đậu xanh. Trong số các loại trái cây, chúng ta có thể chuyển sang chuối, táo và lê… “Như vậy, người ta đảm bảo đáp ứng mọi nhu cầu dinh dưỡng nhờ hấp thụ các chất chống oxy hóa, chất xơ, khoáng chất và vitamin,” bác sĩ dinh dưỡng tiếp tục. Cuối cùng mời bạn tiêu thụ trái cây và rau quả từ hệ sinh thái nông nghiệp, địa phương và theo mùa.

———————————-

Nguyên tác: “La «règle des 3 V», le meilleur régime alimentaire pour soi et la planète”; Le Figaro.fr, 01/5/2024.

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Thầy thuốc và bệnh nhân

Khoá hè học sinh tại Ni Viện Viên Không 2024 (tiếp theo)

22/06/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc 3 Bình luận

Thư gởi bạn xa xôi (tiếp theo)

Khoá hè học sinh tại Ni Viện Viên Không 2024

 

Tạo không khí sinh đông và tích cực tham gia của các em không gì tốt hơn… kể chuyện xưa và cho các em  đặt câu hỏi “một cách bí mật” trên giấy, không ghi tên tuổi gì cả, dĩ nhiên là vẫn trong chủ đề “Lối sống lành mạnh về Ăn uống, Ngủ nghỉ và Giải trí… của tuổi học sinh.

Và các em đã rất vui:

 

 

 

Tôi mời các “tình nguyện viên”, các Sư cô rỗi rảnh cùng tham dự, kể cả phụ huynh…

 

 

 

Dưới đây là vài câu Hỏi-Đáp gởi các bạn đọc vui:

 

  1. Chuyên khoa nào cũng khó con ạ. Phải học tới nơi tới chốn.
  2. Phải say mê con ạ. Thấy việc mình làm là có ích cho mọi người.
  3. Khác một chút thôi: Họ rất bận rộn. Tinh thần trách nhiệm cao. Căng thẳng. Phải luôn học hỏi vì nếu không, sẽ bị “lỗi thời” nhanh lắm. Bác sĩ phải là một sinh viên y khoa suốt đời. Còn phải có lối sống gương mẫu trong cộng đồng nữa…
  4. Vui trong công việc của mình. Mỗi sáng bác ngồi thiền 30 phút và thể dục 30 phút theo kiểu riêng của bác. Ăn uống đơn giản, không rượu, không thuốc lá… con ạ.
  5. Thấy vui lắm. Thấy rất hạnh phúc

Đâu có! Người chết thì không còn biết gì. Nỗi buồn thường là ở người thân, bạn bè. Ông thì hy vọng điều cuối cùng… để lại là nỗi nhớ của các con về buổi học hôm nay dưới mái chùa này…

Giả bệnh để chi? Để trốn học hả? Uổng lắm. Sau này, trong đời ta còn có chút kỷ niệm là buổi học hôm nay, tại chốn này, cùng bạn bè bốn phương đó con.

Nhiều người sống khỏe đến tuổi trên 100 đó con ạ. Sống lâu, sống khoẻ nhưng phải sống an vui, hạnh phúc nữa.

Bác cứu con hổng nổi! Bác cũng vậy thôi. Con biết nhà thơ Đỗ Trung Quân không? Ông có bài thơ viết hồi còn đi học như con bây giờ: “…là bài thơ cứ còn hoài trong cặp/ giữa giờ chơi mang đến lại mang về”…

Chỉ có một cách là con biến bài học thành… chuyện “tào lao” thì sẽ nhớ tốt. Nguyên tắc là làm cho bài học vui, bằng cách kể chuyện, đố nhau, hoặc giả bộ làm thầy cô đặt câu hỏi cho mình, hay giảng bài cho người bạn cùng lớp…

Tuổi con mà cao 172cm là tốt rồi, còn dài thêm được không thì bác cũng chịu thua! Hỏi khó quá!

Phải có điều kiện gì mới cần phải giữ “tế bào gốc” theo lời khuyên của bác sĩ chuyên môn con ạ.

Con phải chỉ chị ấy là ai thì bác mới hỏi giùm con được. Bác sẽ nói với chị rằng có em nhỏ kia muốn biết tên và tuổi của chị nè!

Cám ơn con.

 

 

Cuối giờ, một số các em xin chụp chung tấm hình kỷ niệm, một vài em còn tìm đến hỏi riêng…

 

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc

(22.6.2024)

Thuộc chủ đề:Hỏi đáp, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Khoá hè học sinh tại Ni Viện Viên Không 2024

21/06/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc 2 Bình luận

Thư gởi bạn xa xôi (tháng 6)

Khoá hè học sinh tại Ni Viện Viên Không 2024

Sư Cô Liễu Pháp, trụ trì Ni viện Viên Không mời tôi giảng dạy cho các em học sinh Khoá I tuổi từ 12-18, (học sinh cấp 2 và cấp 3) mùa Hè này trong “Chương trình Sống Trong Tỉnh Thức”.

Có khoảng hơn 80 em tham dự, từ khắp các nơi về. Các em được học 1 tuần ở chùa rất nghiêm túc, kỹ luật, có cả thiền tập, tâm lý do các Sư cô và Chuyên gia giảng dạy.

Tôi được mời dạy 2 giờ, chiều Chủ Nhật 9/6/2024 tại Ni viện Viên Không, Bà Rịa, một khung cảnh cây cao bóng cả, tựa lưng vào sườn núi đá rất đẹp vốn không xa lạ với tôi lâu nay.
Nội dung dành cho tôi: Lối sống lành mạnh về Ăn Uống, Ngủ Nghỉ và Giải trí…

Toi đã từng có nhiều buổi trao đổi, trò chuyện với các em, từng giữ Mục Phòng Mạch Mực Tím (báo Mực Tím, cho tuổi mới lớn) cả mười năm từ thuở mới thành lập 1989!

Tôi cũng đã có những cuốn sách viết cho các em: Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò,  Bỗng nhiên mà họ lớn, Những câu hỏi của Tuổi mới lớn, và Khi người ta lớn…

Tôi hiểu tuổi này các em quan tâm nhiều về vấn đề thay đổi Tâm sinh lý, giới tính… và nhiều vấn đề xã hội khác trong đời sống… nhưng nhà Chùa rất nghiêm chỉ “đặt hàng” 2 giờ về Lối sống lành mạnh trong Ăn uống, Ngủ nghỉ, Giải trí… mà thôi!

Tôi nghĩ làm cách nào cho giờ học được sinh động, tạo sự tham gia của các em ngay từ đầu, vì thế, tôi chon cách cho các em viết câu hỏi trên giấy, và tôi dùng Flipchart để viết vẽ…

Tôi bắt đầu bằng cách đặt câu hỏi: Tại sao phải ăn? Ăn để làm gì? Ăn thức ăn gì? Ăn bao nhiêu? Ăn cách nào? Thức ăn thể chất và thức ăn tâm hồn? Rồi, tại sao phải Thở…? Tại sao phải bảo vệ môi trường, cây xanh, không khí trong lành? Thở sao cho tốt? Tại sao phải ngủ? Ngủ để làm gì ở tuổi mới lớn? Ngủ bao nhiêu là đủ? v.v…

Và sau đó, do các em đã gởi hằng trăm câu hỏi… trên giấy, tôi chỉ đủ thì giờ giải đáp được hơn phân nửa.

Xin chọn một vài hỏi-đáp gởi bạn coi vui thôi nhe.

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc.

(21.6.2024)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Thuộc chủ đề:Hỏi-đáp, Tuổi mới lớn, Vài đoạn hồi ký

Ngày Của Cha: NGƯỜI CHA TRONG THƠ CA & ÂM NHẠC

16/06/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

NGƯỜI CHA TRONG THƠ CA & ÂM NHẠC

PHẠM HIỀN MÂY

Người Cha Trong Thơ Ca

Cha trong ca dao, tục ngữ, trong thơ, thì nhiều lắm lắm, nêu ra, có mà cả ngày.

Nào là: công cha như núi Thái Sơn. Nào là: ơn cha nặng lắm ai ơi.

Rồi thì: còn cha gót đỏ như son / một mai cha mất gót con lấm bùn. Rồi thì: ơn cha dưỡng dục bằng non; ơn cha bóng núi âm thầm.

Chưa hết: khi con tát cạn biển Đông / thì con mới hiểu tấm lòng của cha. Rồi đây nữa: Cha một đời oằn vai gánh nặng. Hay: con giữ cha, gà giữ ổ.

******

Còn thơ thì, tôi nhớ hoài, một bài thơ đã từng làm tim tôi rúng động. Không phải là bài thơ con viết cho cha, con viết về cha, con ca ngợi cha, mà ngược lại, đó là lời từ biệt của người cha đối với con của mình, khi con gặp tai nạn bất ngờ, và qua đời trong sự đau đớn tột cùng của người cha.

Khi cha mất con, con chỉ vừa ngưỡng tuổi hai mươi, thanh xuân, tươi trẻ, xinh đẹp, giỏi giang. Đó là bài thơ của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà thơ, khóc con của mình, Đỗ Châu La Ngà, một bác sĩ tương lai.

Đọc, để biết cha thương con đến thế nào

TÌNH YÊU

Trước mộ con còn ướt
Ba nói với bạn bè ba rằng
Hãy yêu thương con mình cách khác
Đừng như ba
Giấu kín trong lòng

Bởi tình yêu
Có bao giờ cho đủ
Có đâu sợ dư thừa
Ba đã sai lầm bao nhiêu

Hãy tỏ bày đi
Vồ vập đi
Âu yếm ồn ào đi

Tình yêu
Có bao giờ cho đủ
Có đâu sợ dư thừa
Ba đã sai lầm bao nhiêu

Vì cứ chờ cứ đợi
Có biết đâu
Đời như mây nổi
Như gió thổi

Như chiêm bao
Ơi bài học tự thuở nào
Sao bây giờ mới hiểu
Muốn vồ vập con hôm nay

Muốn âu yếm con mãi mãi
Thì đã muộn rồi
Có bao giờ thừa thãi
Tình yêu?
(1990)

Vậy thì các bạn ơi, đừng nén, đừng giấu sự thương yêu trong lòng. Vì chẳng có lý do nào hợp lý cho việc che đậy những tình yêu thiêng liêng ấy.

Tình yêu cho cha, có bao giờ cho đủ?
Tình yêu cho cha, có đâu sợ dư thừa?
Tình yêu cho cha, sao phải chờ, phải đợi?

Hãy nói thật nhiều lời yêu thương khi còn có thể.

******

Người Cha Trong Âm Nhạc

Nhạc Việt, phải kể đến các ca khúc như: Cha Và Con Gái của nhạc sĩ Nguyễn Văn Chung. Sao Cha Không của Phan Mạnh Quỳnh. Cha Và Con của nhóm Bức Tường. Làm Cha của Dương Trường Giang. Cảm Ơn Cha của Nguyễn Hồng Thuận. Cha của Anh Tuấn. Ba Kể Con Nghe của Nguyễn Hải Phong. Cây Vĩ Cầm của Lê Yến Hoa.

Nhạc nước ngoài thì có các ca khúc như: Father And Son của nhạc sĩ người Anh Cat Stevens. The Father’s Day Song của Bryant Oden. Thank You For Being My Dad của Jon Barker. Father And Daughter của Paul Simon. Seeing My Father In Me của Paul Overstreet. Daddy’s Little Girl của nhóm The Shires. That’s My Job của Conway Twitty. Daddy’s Hands của Holly Dunn. My Old Man của Zac Brown Band.

******

Nhưng hay và đặc biệt nhứt, vẫn là ca khúc vinh danh Papa của Paul Anka, một nhạc phẩm pop xúc động về tình phụ tử, được viết bởi nhạc sĩ người Canada, sinh năm 1941, một trong những khuôn mặt được yêu thích của giới trẻ vào cuối thập niên năm mươi của thế kỷ XX.

Papa ra mắt vào năm 1974, cho đến nay, đã vừa tròn năm mươi năm. Thế mà, chưa một ca khúc nào có thể qua mặt được nó, kể cả về nội dung, giai điệu lẫn số lượng người hâm mộ, yêu thích.

Được coi là ca khúc kinh điển nhất về cha, Papa của nam ca sĩ Paul Anka đã từng được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Những ca từ đầy ý nghĩa về tình yêu thương vô bờ bến của một người chồng dành cho vợ và của một người cha dành cho các con mình, đã làm đắm say biết bao thế hệ người yêu nhạc.

Papa là lời kể của một người con khi hồi tưởng lại quá khứ cùng với nỗi nhớ cha da diết. Người cha trong ca khúc đã trải qua biết bao vất vả, khó khăn và cả những giọt nước mắt của sự hy sinh thầm lặng để đem lại cuộc sống ấm no cho gia đình mình.

Có những lúc tưởng như người cha ấy đã gục ngã trước những đắng cay, oan nghiệt của cuộc sống. Nhưng không, ông vẫn luôn mạnh mẽ và vững vàng để nuôi dạy con mình nên người. Papa mang một lời nhắn nhủ rằng: Cha luôn là người vĩ đại nhất và là tấm gương sáng nhất để con cái noi theo.

******

PAPA

Every day my papa would work
To help to make ends meet
To see that we would eat
Keep those shoes upon my feet

Every night my papa would take and
Tuck me in my bed
Kiss me on my head
After all my prayers were said

Growing up with him was easy
Time just flew on by
The years began to fly
He aged and so did I

I could tell that mama wasn’t well
Papa knew and deep down so did she, so did she
When she died, Papa broke down and cried
All he said was, God, why not take me

Every night he sat there sleeping
In his walkin’ chair
He never went upstairs
All because she wasn’t there

Then one day my papa said
Son, I’m proud the way you’ve grown
Make it on your own
Oh, I’ll be ok alone

Every time I kiss my children
Papa’s words ring true
Your children live through you
They’ll grow and leave you, too

I remember every word
My papa used to say
I live that every day
He taught me well that way

Every night, my papa would take me
And tuck me in my bed
Kiss me on my head
All my prayers were said

Every night, my papa would take me
And tuck me in my bed
Tuck me in my bed
All my prayers were said.

******

NGƯỜI CHA DẤU YÊU

Tại sao phải đợi đến Ngày Của Cha?

Vì ngày đó, ta mới được nghỉ? Vì ngày đó, ta mới rảnh rỗi để mua quà? Vì ngày đó, nếu không thăm cha, nếu không có quà cho cha, cha sẽ buồn?

Không cần rình rang, không cần lớn lao, to tát chi. Lâu lâu, đôi, ba ngày, một cuộc gọi, một tin nhắn, ba khỏe không ba? Thấy gì ngon, thấy gì hay, thấy gì cha thường thích, ghé mua, tạt qua về nhà, gõ cửa phòng cha, đưa món quà, hỏi, đúng ý ba hơm ba? Rồi nhận lại từ ba một cái gật đầu. Nhận lại từ ba ngón tay cái đưa lên. Thấy lòng rộn vui xiết bao.

Là mình vui.

Không ai có thể đoán trước được điều gì. Nên cố gắng đừng hẹn với lòng mình, đừng tặc lưỡi một cái, thôi cuối tháng này, thôi cuối tuần này, dzìa nhà thăm ba cũng được mà.

Có ai đó nói nhỉ, hãy sống như bạn sẽ chết ngày mai, à, ông Mahatma Gandhi. Thì bây giờ, sửa lại chút, hãy cứ đối xử với cha mình, người thân mình, như thể, họ chỉ còn hôm nay để sống.

Ưu tiên cho ba, thời gian và tình cảm, chuyện đó dễ thương xiết bao. Và nhớ nữa, những lời ba dặn: Con trai à, cha tự hào vì con đã khôn lớn. Hãy bước ra và làm chủ cuộc đời của riêng con. Đừng lo cho cha, cha ở một mình ổn mà. Con cái con mới là cuộc sống của con.

Hãy sống như thế, mỗi ngày, và.

MÃI KHẮC GHI TRONG TIM LỜI KHUYÊN CỦA NGƯỜI!

Sài Gòn 16.06.2024
Phạm Hiền Mây

 

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

NGUYỄN THIÊN NGA: Từ Bài Thơ Cùng Tuổi Với Tôi

11/06/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Từ Bài Thơ Cùng Tuổi Với Tôi

NGUYỄN THIÊN NGA

Trên kệ sách của mình, tôi đang chỉ có trên mười đầu sách của Nhà Thơ – Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Trong đó có một cuốn tôi mới được bạn tặng và có chữ ký của chính tác giả, đó là tác phẩm “Áo Xưa Dù Nhàu…”, xuất bản năm 2022. So với số lượng trên 60 đầu sách của ông ở nhiều thể loại tùy bút, tản văn, Y học, Phật học, Thiền học… thì số sách tôi đang có còn quá khiêm tốn.

Tôi có thói quen đọc sách nên luôn mải mê với từng tác phẩm mình đã có trong tay hoặc đi mượn bạn bè. Tuy nhiên có một tác phẩm của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc mà tôi đọc rất nhiều lần, đó là “Thư Gửi Người Bận Rộn”, NXB Văn Nghệ TP.HCM xuất bản 2005.

Lẽ nào tôi là một trong nhiều người bận rộn nên thích đọc “Thư Gửi Người Bận Rộn” (?)

Cũng có thể lắm chứ!

Cuốn sách này tập hợp 60 bài viết – 60 bức thư thật dễ thương tác giả gửi những người bận rộn. Giọng văn dí dỏm, giàu cảm xúc đan xen nhiều kiến thức y khoa của Đông – Tây khiến người đọc cảm thấy nhẹ nhàng, thú vị. Con số 60 cũng gợi nhớ đến 60 bức thư trong cuốn “Thư Gửi Người Đàn Bà Không Quen Biết” của André Maurois – Dịch giả Nguyễn Hiến Lê (điều này đã được bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc nhắc đến một cách hóm hỉnh trong bài viết thứ 61, tôi hiểu đó như thay lời Bạt của “Thư Gửi Người Bận Rộn”).

Tôi dừng mắt nhiều lần hơn ở bức thư cuối cùng: “Về Một Bài Thơ”. Trong đó, tác giả nhắc trọn vẹn “Thư Cho Bé Sơ Sinh”, bài thơ được viết vội sau ca trực đỡ sanh đầu tiên của mình vào một đêm năm 1965. Vốn cũng là “bé sơ sinh” vào cùng năm ấy, tôi bây giờ đã… sắp già, hóa thân vào bạn ấy ngấu nghiến một lần nữa bức thư bác sĩ gửi và cảm xúc luôn dâng trào.

 

Thư Cho Bé Sơ Sinh

 

Khi em cất tiếng khóc chào đời
Anh đại diện đời chào em bằng nụ cười
Lớn lên nhớ đừng hỏi tại sao có kẻ cười người khóc
Trong cùng một cảnh ngộ nghe em!


Anh nhỏ vào mắt em thứ thuốc màu nâu
Nói là để ngừa đau mắt
Ngay lúc đó em đã không nhìn đời qua mắt thực
Nhớ đừng hỏi vì sao đời tối đen!

Khi anh cắt rún cho em
Anh đã xin lỗi chân thành rồi đó nhé
Vì từ nay em đã phải cô đơn
Em đã phải xa địa đàng lòng mẹ…


Em là gái là trai anh chẳng quan tâm
Nhưng khi em biết thẹn thùng
Sẽ biết thế nào là nước mắt trong đêm
Khi tình yêu tìm đến!


Anh đã không quên buộc étiquette vào tay em
Em được dán nhãn hiệu từ giây phút ấy
Nhớ đừng tự hỏi tôi là ai khi lớn khôn
Cũng đừng ngạc nhiên sao đời nhiều nhãn hiệu!


Khi em mở mắt ngỡ ngàng nhìn anh
Anh cũng ngỡ ngàng nhìn qua khung kính cửa
Một ngày đã thức giấc với vội vàng với hoang mang
Với những danh từ đao to búa lớn
Để bịp lừa để đổ máu đó em…


Thôi trân trọng chào em
Mời em nhập cuộc
Chúng mình cùng chung
Số phận… Con người…

Đỗ Hồng Ngọc (Bệnh viện Từ Dũ, Sài Gòn 1965)

 

***

 

“Bé sơ sinh” trong bài thơ được sinh ra ở bệnh viện Từ Dũ, Sài Gòn. Còn tôi, cũng năm 1965 ấy, tôi ra đời tại nhà Bảo sanh cô Nhung, gần cuối con đường Đào Duy Từ, Đà Lạt. Cùng một khoảng thời gian, khác về không gian, nhưng những bé sơ sinh chúng tôi đều chào cuộc đời bằng tiếng khóc, hòa vào chuỗi âm thanh buồn của chiến tranh.

Anh nhỏ vào mắt em thứ thuốc màu nâu
Nói là để ngừa đau mắt
Ngay lúc đó em đã không nhìn đời qua mắt thực
Nhớ đừng hỏi vì sao đời tối đen!

Có một sự hồi tưởng nhẹ nhàng về các câu hát của nhạc sĩ Xuân Hồng trong ca khúc “Đôi Mắt”:

Mẹ cho em đôi mắt tuyệt vời

Để nhìn đời, nhìn rõ đục trong

Thôi thì, “thứ thuốc màu nâu” mà bác sĩ đã nhỏ vào mắt dù ngay lúc đó khiến bé “không nhìn đời qua mắt thực”; sau này hy vọng cũng giúp mắt bé sáng hơn để nhìn rõ cuộc đời trong đục.

Bài thơ được tác giả khai thác một cách tinh tế các khía cạnh tương phản của đời sống. Nghe như lời thủ thỉ mà rất thấm, rất sâu. Giật mình nhìn lại, sau bao nhiêu năm nhập cuộc, tôi có bớt ngỡ ngàng, thôi vội vàng, ít hoang mang (?). Chiến tranh đã lùi xa nhưng chưa mất dấu. Cả những cuộc chiến không bom rơi đạn nổ mà tan nát, đau xé lòng từng năm tháng này qua năm tháng khác.

 

Từ bài thơ bằng tuổi của tôi, tôi tìm đọc những bài thơ khác của cùng tác giả. Những bài thơ ngắn, rất ngắn, súc tích và mang đến cho tôi thật nhiều cảm xúc.

Đó là sự thương yêu dịu dàng, tưởng nhớ “Nụ Cười Của Mẹ” khi Mẹ đã đi xa:

 Lúc tủm tỉm,

 lúc chế giễu,

lúc mỉa mai,

lúc chua chát,

lúc thứ tha,

lúc trách mắng…

hay ngậm ngùi, tiếc nhớ về đứa con gái bé bỏng, ra đi còn quá trẻ:

Mỗi năm

Mỗi người

Thêm một tuổi

Chỉ mình con

Mãi mãi

Tuổi đôi mươi…

(La Ngà 3 -1990)

Có khi là sự đồng cảm, bùi ngùi khi vào “Trong Một Nhà Giữ Lão Ở Montreal”. Đó cũng có thể là hình ảnh của mỗi chúng ta sau này:

Mới hôm qua thôi
Nào vương
Nào tướng
Nào tài tử
Nào giai nhân
Ngựa xe
Võng lọng

…

Họ ngồi đó
Không nói năng
Không nghe ngóng
Gục đầu
Ngửa cổ
Móm sọm
Nhăn nheo

Bài thơ “Rùng Mình” gây xúc động cho nhiều người. Những câu thơ là những câu hỏi không lời đáp, cả sự rùng mình giận dữ khi thiên nhiên bị săn đuổi, hủy diệt đến tận cùng:

Người rùng mình hỏi vì sao động đất sóng thần cứ triền miên
hết ngày này sang ngày khác?
…

Trái đất cũng đang rùng mình tự hỏi vì sao
những ngọn núi cứ triền miên đổ sập?
vì sao những dòng sông nghẽn tắt?
vì sao những mũi đao cứ ngày đêm xoáy sâu vào lòng đất?
vì sao chim rừng cá biển không chốn nương thân
vì sao cổ thụ mầm xanh bị tận diệt
vì sao lúa bắp phải cấy ghép gen người?…
vì sao và vì sao?

Và đau đớn, khi mà:

Ta nương tựa vào nhau.
Nay có vẻ đã không còn cần nhau nữa!
Đất rùng mình phận đất…
Người rùng mình phận người…

Rùng mình vì lạnh. Cái lạnh buốt khi tình cảm giữa con người và con người với nhau, giữa con người và thiên nhiên, vạn vật đã trở nên quá vô cảm, thờ ơ.

Rùng mình vì sợ hãi. Nỗi sợ hãi khi con người luôn thẳng tay tận diệt tự nhiên, hủy hoại môi trường sống. Nỗi sợ hãi vì những người sống và làm giàu trên mồ hôi, nước mắt của đồng loại một cách thản nhiên. Bao đại án về tham nhũng đang còn đó.

Khủng khiếp quá! Cứ nghĩ về mọi chuyện lại rùng mình.

 

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc còn rất nhiều bài thơ hay. Tôi tình cờ được “thưởng lãm” phác họa con đường Thơ của ông qua ngòi bút nhà văn Phan Chính – Hội Văn Học Nghệ Thuật Bình Thuận. Bài viết “ĐỖ HỒNG NGỌC – Thơ Mãi Với Đời Và Bảng Lảng Trên Những Trang Văn” giúp người đọc hình dung rất rõ nét về người bác sĩ, nhà thơ tài hoa này.

Tôi xin phép trích nguyên đoạn cuối cùng từ bài viết của nhà văn Phan Chính:

“Cuộc hành trình sáng tạo và chia sẻ của Đỗ Nghê/ Đỗ Hồng Ngọc quả là sinh động và đích thực chân dung Đỗ Hồng Ngọc – một người thông tuệ, nặng tình như lời giới thiệu trên đặc san Văn hóa Phật giáo (2021)/ Viên Giác Tùng Thư, Hannover Đức Quốc: “Ngoài vai trò là bác sĩ, nhà giáo ông còn là một nhà thơ, nhà văn nổi tiếng. Ông viết nhiều tác phẩm đa dạng và rất được độc giả yêu thích”.”

***

Nhà báo Hồng Dung trong một lần gặp Bác sĩ, nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc đã nhận xét: “Trò chuyện với ông, sẽ thấy một nhà khoa học nghiêm túc, nhưng dí dỏm và đầy thi vị.”

Tôi thật tiếc là chưa được gặp ông, tuy nhiên tôi cũng đã nhận ra điều đó khi đọc những tác phẩm của ông. Có thể nói rằng, tôi đã có thêm sự hiểu biết nhất định về Y học Đông Tây để chăm sóc gia đình, chăm sóc bản thân; hiểu thêm về Thiền học, Phật học, để rồi có cái nhìn đa chiều, cởi mở hơn và cảm xúc về cuộc sống dày dặn hơn. Tôi có mặt khá thường xuyên trên “Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc”, để đọc, để học, để hiểu và ngưỡng mộ người bác sĩ – văn thi sĩ này vô cùng.

Tôi rất thích sự gắn bó giữa văn thơ Đỗ Hồng Ngọc với âm nhạc Trịnh Công Sơn. Không chỉ là tựa những tác phẩm: “Áo Xưa Dù Nhàu…”, “Gió Heo May Đã Về”, “Về Thu Xếp Lại…”, … mà trong nhiều áng văn của mình, BS Đỗ Hồng Ngọc cũng thường đưa những ca từ của nhạc sĩ họ Trịnh vào một cách tự nhiên, như một cách chuyển ý thật mềm mại, tinh tế. Chính điều này giúp người đọc đọc hoài mà không thấy khô khan, dù bài đó đang nói về một sự kiện vừa diễn ra ở đâu đó hay đơn thuần là kiến thức nói về cách tự bảo vệ sức khỏe.

Đặc biệt, trong tác phẩm “Về Thu Xếp Lại…”, cả 10 chương đều được đặt tên bằng những ca từ thơ mộng, đầy tính triết học và nhân văn của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn – một người tôi vô cùng yêu kính.

Chương 1: Cát Bụi Tuyệt Vời
Chương 2: Tôi Chợt Nhìn Ra Tôi
Chương 3: Về Thu Xếp Lại… Ngày Trong Nếp Ngày
Chương 4: Con Tinh Yêu Thương Vô Tình Chợt Gọi
Chương 5: Người Đã Đến Và Người Sẽ Về Bên Kia Núi
Chương 6: Đôi Khi Thấy Trên Lá Khô Một Dòng Suối
Chương 7: Chìm Dưới Sương Thu Là Một Đóa Thơm Tho
Chương 8: Trên Hai Vai Ta Đôi Vầng Nhật Nguyệt
Chương 9: Trời Cao Đất Rộng Một Mình Tôi Đi
Chương 10: Để Lại Trong Cõi Thiên Thu Hình Dáng Nụ Cười

Cư sĩ Nguyên Giác đã có một bài viết về tác phẩm “Về Thu Xếp Lại…” đăng trên website Thư Viện Hoa Sen vào 04/04/2019. Bài viết phân tích rất sâu, rất hay và thấm; dĩ nhiên, tôi đã đọc nhiều lần.

Từ ngày xưa, cứ sau mỗi lần nghe lại một ca khúc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, ngẫm nghĩ, tôi lại như “ngộ” ra được một điều mới mẻ. Tôi cứ nghĩ, những giai điệu thiết tha, những ca từ khúc chiết thấm đẫm tình yêu thương con người mà phảng phất “hơi thở thiền” của ông, phải chăng là một loại “thánh ca” của một thứ tôn giáo nào đó? Tôn giáo đó, bây giờ – khi ông đã vĩnh biệt chúng ta hai mươi ba năm – khoảng thời gian quá đủ để lắng lại – tôi đã gọi được tên: tôn giáo Tình Yêu Con Người. Và trong thế giới tôn giáo đó, ông là một nhà tiên tri, một người truyền đạo không mệt mỏi, một thiên sứ đi lang thang trong cuộc đời để mặc khải cho mọi tín đồ về khoảnh khắc vô thường, ngắn ngủi của kiếp người, để mong mọi người sống nhân hậu hơn, bao dung hơn và yêu thương nhau hơn…

Cho đến bây giờ, đọc “Về Thu Xếp Lại…” và một số tác phẩm khác của bác sĩ, thi sĩ Đỗ Hồng Ngọc, tôi cũng cảm nhận được nguồn cảm xúc ấm áp tương tự vậy. Có chăng, khác một điều là: tác giả Đỗ Hồng Ngọc vừa là bác sĩ, vừa là nhà thơ nên tác dụng “chữa lành” còn bao hàm cả về Y học nữa. Nếu đọc kỹ, ngẫm ngợi lâu sẽ thấy rất tuyệt diệu.

Ông viết về tuổi già, về bệnh tật, về cả cái chết, nhưng giọng văn không hề bi quan, không chút bối rối, nhiều khi hóm hỉnh dễ thương.

Già ư?

“Già khú” là giai đoạn một, thêm một bước nữa thì gọi là “già khú… đế”. Khú, Từ điển tiếng Việt bảo là “để thâm lại và có mùi hôi”, thí dụ dưa khú, tức là một thứ dưa để lâu quá, sắp hư. “Khú đế” là “vua” của khú đó chăng?

(Chương 2 – Về Thu Xếp Lại)

Chết ư?

Ông viết:

“Lắng nghe hơi thở của mình
Mới hay hơi thở của nghìn năm xưa

 

Một hôm hơi thở tình cờ
Dính vào hạt bụi thành ra của mình

 

Của mình chẳng phải của mình
Thì ra hơi thở của nghìn năm sau”…

 Nói tình cờ chớ chẳng phải tình cờ chi đâu, do duyên, do nghiệp cả đó thôi. Nói cho cùng thì cái thân hơi – hơi thở – kia là của ngàn năm trước, ngàn năm sau, chớ chẳng phải của ta, riêng ta gì đâu. Đừng tưởng bở! Nó đến nó đi vô tình, ngạo nghễ. Nó Như Lai. Không phân biệt.

… Chẳng ai có thể thở giùm ai được đâu. Chẳng ai có thể “thiền” giùm ai được. Cho nên phải quay về nương tựa chính mình “một mình tôi đi, một mình tôi về… với tôi” mà thôi.

(Chương 9 – Về Thu Xếp Lại)

Nhẹ tênh. Lạc quan.

Cư sĩ Nguyên Giác viết rằng:

“Tác phẩm “Về Thu Xếp Lại…” của Đỗ Hồng Ngọc không chỉ để đọc một lần. Sách này có thể nên đưa vào túi xách, nên mang theo bên người để thỉnh thoảng đọc lại. Để không sợ già, không sợ chết, để biết cách đùa giỡn với bệnh, và cũng để biết cách Thiền tập trong những cách tự quan sát thân tâm mình không rời.”

Tôi đã làm như vậy. Cảm giác thật an nhiên.

 

***

Trả lời một bạn đọc Báo Thanh Niên, khi được hỏi:

– Bác sĩ có thể kể về một kỷ niệm sâu sắc nhất trong cuộc đời làm nghề y?

Ông vui vẻ:

– Đó là lúc thực tập đỡ đẻ ở Bệnh viện Từ Dũ, năm 1965. Khi đỡ được ca đầu tiên mẹ tròn con vuông, tôi xúc động viết liền một mạch bài thơ Thư cho bé sơ sinh, sau đó còn chép vào bản phúc trình nộp lên thầy. Thầy rầy: Đỡ đẻ không lo đỡ đẻ, lo làm thơ! Hôm sau đã thấy ai đó viết bài thơ lên bảng đen và được nhiều bạn sinh viên thời đó yêu thích. Còn chú bé sơ sinh của tôi lúc đó nay đã gần 40 tuổi rồi còn gì! Mới thôi!

(Nguồn: Báo Thanh Niên, 07/02/2004)

 

Tôi thấy vô cùng thú vị với điều này.

Dạ thưa bác sĩ, sang năm thôi, chú bé sơ sinh ấy bước vào tuổi “lục thập”, sẽ được liệt kê là người cao tuổi. (Còn với bác sĩ, nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc thì nhẹ nhàng hơn: Già ơi…, chào bạn!)

Tôi – cô bé sơ sinh đồng tuổi với chú bé ấy – dù được gọi là người cao tuổi, đã, đang và sẽ vẫn ngồi bên hiên nhà, sáng sáng chiều chiều đọc văn, thơ của Bác sĩ, thi sĩ Đỗ Nghê – Đỗ Hồng Ngọc.

Cô ấy sẽ mỉm cười thư thái, nhẹ nhàng đọc lại những bức “Thư Gửi Người Bận Rộn” được xuất bản lần đầu còn thơm hoài dấu tay lật từng trang sách; tiếp tục “Về Thu Xếp Lại…” khi ngoài kia nắng gió thời gian ân cần nhắc nhớ: “Già ơi…, Chào Bạn!”.

Chúng tôi luôn cầu mong bác sĩ, thi sĩ Đỗ Hồng Ngọc bình an, khỏe mạnh để tiếp tục được gặp ông trên văn đàn mỗi ngày, để vẫn được đọc những câu thơ “chan hòa, giản dị, như tự bật ra từ trái tim, và khi thấy lòng mình đã lên tiếng vừa đủ, thì thơ ông nhẹ nhàng rút lui hay ẩn mình trong khói sóng”. (Nhà NCVH Huỳnh Như Phương).

Khói sóng màu lam dịu dàng, khiêm tốn và đượm mùi hương Ngọc Lan.

 

Dalat, 3/2024

Nguyễn Thiên Nga

(Ngôn Ngữ, số đặc biệt Đỗ Nghê – Đỗ Hồng Ngọc, tháng 5/2024)

 

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác

ĐỖ NGHÊ, ĐỖ HỒNG NGỌC – BẰNG HỮU & VĂN CHƯƠNG

05/06/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc 1 Bình luận

 

ĐỖ NGHÊ, ĐỖ HỒNG NGỌC – BẰNG HỮU & VĂN CHƯƠNG

Phạm Hiền Mây

 

IB 1_NGON NGU - DO HONG NGOC BB/

MỐI DUYÊN VĂN NGHỆ

1.
Đầu tháng ba, nhà thơ Luân Hoán nhắn tin cho tôi: Mây có thể viết về bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc một bài được không, tạp chí Ngôn Ngữ dự định tháng Năm này, sẽ thực hiện một chuyên đề về ông ấy.

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc ư. Chèn ơi, tôi nói thầm trong bụng, tôi còn lạ gì ông ấy nữa. Ổng là thần tượng của các bà mẹ trẻ chúng tôi thời ấy, với cuốn sách Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng.

Cuốn sách ấy không chỉ là cẩm nang, mà nó còn như tấm lòng của một người mẹ hiền, hướng dẫn một cách tận tình và chu đáo từ lúc mang thai cho đến lúc đủ chín tháng mười ngày, sinh nở, ẵm bồng, bú mớm, nuôi nấng cho đến khi con nhỉnh nhao ba tuổi.

Tôi trả lời anh Luân Hoán, cuối tháng, em gởi bài, anh nha.

Qua hôm sau, anh Luân Hoán nhắn, à, không phải là tháng Năm, mà tháng Ba này, làm số Đỗ Hồng Ngọc luôn. Thế là, tôi vắt giò lên cổ, ngay đêm ấy, bài viết hoàn tất, và tôi chuyển email liền cho anh Luân Hoán.

Chiếc cầu nối thứ nhứt giữa tôi và bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đã hình thành!

******

2.
Đêm qua, tôi nhận email của nhà thơ Trần Vấn Lệ. Ảnh chuyển toàn bộ thư của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc viết, qua cho tôi: Trần Vấn Lệ ui, ông cho tui số điện thoại của Phạm Hiền Mây nhé. Phạm Hiền Mây viết nhận định rất xuất sắc, nhất là về thơ. Mình không có facebook. Bạn cho mình email nữa nhé.

Đây là chiếc cầu nối thứ hai, nối liền mối duyên văn nghệ giữa tôi và bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc.

******

3.
Sáng nay, tôi nhận được tin nhắn trên điện thoại: Gởi Tác Giả Phạm Hiền Mây. Tôi là Đỗ Hồng Ngọc. Tìm mãi mới được số phone này. Tôi không có facebook. Nhờ hai ông bạn là Trần Vấn Lệ và Luân Hoán mới biết Phạm Hiền Mây đó. Làm ơn cho địa chỉ để Grab mang sách Ngôn Ngữ – Đỗ Nghê đến Phạm Hiền Mây nhé. Bài viết tuyệt vời. Chỉ với ba bài thơ Đỗ Nghê mà vẽ nên cả một chân dung. Đa tạ!

Mối giao tình giữa tôi và bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc – một người mà ba mươi năm về trước, tôi thầm biết ơn, nhờ cuốn sách của ông, mà tôi biết cách nuôi trẻ sơ sinh – được bắt đầu từ đây.

Thấy vui vui, thấy cả buồn cười nữa, vì tôi và bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đều ở Việt Nam, vậy mà, biết nhau, phải đi một vòng qua Canada và Hoa Kỳ.

******

II/ ĐỖ NGHÊ, ĐỖ HỒNG NGỌC – BẰNG HỮU VÀ VĂN CHƯƠNG

Cuốn Ngôn Ngữ – Số Đặc Biệt, nặng và dày tới bảy trăm mười bốn trang, được chia làm bốn phần. Gồm:

Phần I: Tác Giả
Phần II: Thơ Đỗ Nghê – Đỗ Hồng Ngọc
Phần III: Văn Đỗ Nghê – Đỗ Hồng Ngọc
Phần IV: Bằng Hữu Viết Về Đỗ Hồng Ngọc

Thư Đầu Sách do nhà thơ Luân Hoán phụ trách. Luân Hoán phụ trách phần này thì khỏi chê rồi. Vì sao tôi nói vậy. Ấy là vì, ngoài việc Luân Hoán là một nhà thơ, một người làm văn nghệ kỳ cựu, kiến thức cũng như kiến văn rộng, thì anh ấy còn là một người làm sách, giới thiệu tác giả, giới thiệu tác phẩm rất chuyên nghiệp, uy tín, được bạn văn và bạn đọc kính trọng, cảm mến, vốn đã từ xưa đến nay.

Trong phạm vi bài viết này, tôi chỉ xin điểm qua phần thơ của tác giả mà thôi.

******

1. TÁC GIẢ

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc là một trí thức đúng nghĩa của cả trước và sau năm 1975. Thuở nhỏ thì đỗ đạt, khoa bảng. Vào đời thì nổi danh. Danh gì ư? Ông là bác sĩ Nhi số một của Sài Gòn trong nhiều thập niên. Bằng cấp và các chức danh của ông, nếu viết ra cho bằng hết, chắc hai trang A4 cũng không đủ.

Y khoa là một môn khoa học. Thế mà ông lại giỏi chữ, mới là lạ lùng, mới là khó tin. Từ những năm 1960, ông đã cộng tác với các báo và tạp chí uy tín, lừng lẫy thời bấy giờ, tại miền Nam. Những nhật báo và tạp chí, mà nhiều người viết mong tên mình được một lần, ghi lên trang bìa.

Tôi đếm không hết được những sách đã xuất bản của ông, về thơ, về văn, tùy bút, tạp bút và các sách y học phổ cập cũng như các sách về Phật học. Tôi đồ chừng, số sách ấy, nếu để lên bàn cân, chắc là sẽ ngang với trọng lượng nửa tạ của tôi.

******

Trong cuộc trò chuyện giữa ông với Ngô Nguyên Nghiễm, tôi thích câu này của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc: Thơ, bản chất đã là nhân bản, dù được thể hiện dưới hình thức này hay hình thức khác, ở thời đại này hay thời đại khác.
Người ta đẻ ra mà tĩnh, ấy là tính Giời cho nguyên như thế, cảm ở vật ngoài mà động, thời ấy mới là sự muốn của tính. Đã có muốn, thời phải có nghĩ. Đã có nghĩ, thời phải có nói. Đã có nói, thời những cái ý nhị không thể nói hết ra được mà hình hiện ở trong lúc ngậm ngùi, ngợi than, tự nhiên tất phải có những giọng điệu, cung bậc, như không thôi đi được. Ấy tại thế mà sinh ra có thơ.
Chu Hy đã viết như vậy, gần ngàn năm trước, trong Bài tựa tập truyện Kinh Thi, khi có người hỏi ông: Thơ tại sao mà làm ra? (Tản Đà dịch).
Như Không Thôi Đi Được, bạn thấy không? Những người làm thơ trên cõi nhân gian đều vậy đó – Như Không Thôi Đi Được!

******

Trong trò chuyện giữa ông với Trần Thị Nguyệt Mai, tôi lưu ý một đoạn, kể rằng, đã mười hai tuổi, mà ông vẫn chưa được đến trường, thì thời ấy chiến tranh mà, cứ chạy tới chạy lui, tránh đạn tránh bom, cũng nuốt hết thời gian sống. Cậu ông là nhà thơ Nguyễn Ngu Í (nhà thơ này, tôi đã muốn viết giới thiệu từ rất lâu, nhưng không đủ tư liệu), bèn dắt ông đến trường tiểu học của một người bạn thân, gởi học miễn phí. Họ xếp ông vào học lớp Ba; vài tháng sau, cho lên lớp Nhì; vài tháng nữa, cho lên lớp Nhứt luôn. Cuối năm, ông chở phần thưởng dzìa nhà bằng xe xích lô, bị nhiều quá mà. Nghĩ đến hình ảnh đó, thấy dzui thiệt chớ.

Mới nói, những người đặc biệt, kiệt xuất, họ luôn xuất hiện những dị thường, từ lúc tuổi còn thơ.

Vào Đệ Thất, lại tản cư, bỏ học. Tình cờ, ông đọc được cuốn Kim Chỉ Nam Của Học Sinh do học giả Nguyễn Hiến Lê viết, ổng bèn tỉnh bơ, viết thư cho học giả, hỏi ngon lành, chớ con như này, học nhảy nữa, có nên không? Nguyễn Hiến Lê hồi đáp, được, được, đọc thư thôi, tôi cũng đã nhận thấy cháu ngang trình độ với các trò lớp Đệ Tứ rồi.

******

2. THƠ ĐỖ NGHÊ – ĐỖ HỒNG NGỌC

Cuộc đời ông, dành cho Y khoa, nhiều nhứt. Thì chắc chắn rồi, nghề của ông là bác sĩ mà. Lại cộng thêm những công việc liên đới tới bác sĩ như, giảng dạy, nói chuyện, nghiên cứu, viết sách.

Dành thời gian thứ nhì, hẳn là cho việc viết văn xuôi, bao gồm: sách y học phổ cập, tùy bút, tản mạn, tạp văn, thiền, Phật học.

Và cuối cùng, mới là thơ.

Ông làm thơ, tính ra, không nhiều, khi mà số lượng thơ của người ta được tính bằng đơn vị ngàn. Thế mà, dường như, nghiệp thơ lại dành cho ông rất nhiều ưu ái.

Thơ ông thường là những bài thơ ngắn. Không chỉ ngắn về số câu, mà số chữ trong câu, mà số chữ thể hiện trên mỗi dòng cũng ngắn. Nhưng chắt lọc, nhưng không thừa, chữ nào cần có mặt mới được có mặt.

Ông viết đủ các thể thơ: bốn chữ, năm chữ, bảy chữ, tám chữ, lục bát, thơ xuôi.

******

Thơ ông phần lớn, đọc lên, nghe rất mênh mang: Nước vẫn muôn đời / Không đi chẳng đến / Ai người nỡ hỏi / Nước đến từ đâu? Ai người nỡ hỏi / Nước trôi về đâu? (Nước).

Đố bạn vậy chớ, tại sao ông lại dùng từ “nỡ” ở đây, ai người nỡ hỏi? Là vì, nếu hỏi, thì sợ nước buồn. Hỏi, sợ nước đau. Hỏi, sợ nước tủi thân.

Thơ ông đậm chất suy tư, thiền vị: Lắng nghe hơi thở của mình / Mới hay hơi thở đã nghìn năm xưa / Một hôm hơi thở tình cờ / Dính vào hạt bụi thành ra của mình / Của mình chẳng phải của mình / Thì ra hơi thở của nghìn năm sau (Thở).

Và những câu hỏi đặt ra, khiến người đọc cũng thú vị theo. Kiểu như, nhận ra, ừ nhỉ, để làm chi: Tham chẳng còn / Sân cũng hết / Si đã tuyệt / Niết Bàn / Tịch diệt / Để làm chi? (Ngộ)

Hoặc những bài thơ rất đời, rất đúng, nói rất trúng tim gan người ta, nói rất trúng tâm lý cuộc đời. Cái kết thơ, vì vậy, cũng rất đột ngột, và đặc biệt, làm ngẩn tò te: Đừng nói điều hạnh phúc / Chẳng ai tin đâu / Hãy nhắc điều bất hạnh / Ai nấy đều vui. (Niềm Tin)

Có bài, đọc lên nghe rất ngộ, rất thơ, và hay. Câu một, câu hai, câu bốn, sử dụng toàn vần bằng như thơ của Bích Khê: Mưa trên Đông Hồ mưa mênh mông / Tô Châu nghiêng mình nghe mưa giăng / Thuyền câu mấy lá chìm mưa rộng / Ai người xưa mưa trời một phương. (Hà Tiên Mưa)

Phải nói là ông làm thơ chắc tay. Bạn sẽ hỏi tôi, chắc tay là gì. Ờ, thì kiểu như, siêu, ngon lành, đâu ra đó, gọn bâng, tỉnh rụi, và, rất tới: Anh đọc bài thơ tình / Em ngồi nghe lặng thinh / Anh đọc thêm bài nữa / Em vẫn ngồi lặng thinh / Anh thôi không đọc nữa / Em chồm lên hôn anh / Như đổ dầu vào lửa. (Thơ Tình)

******

Hay nhứt vẫn là những bài thơ ông viết cho con gái ông, Đỗ Châu La Ngà. Nỗi đau, đau quá, nên như lận vào bên trong. Nỗi đau, đau quá, nên như bục ngực, vỡ toang ra ngoài. Nỗi đau âm ỉ, không vơi. Nỗi đau cứ thế theo ngày. Nỗi đau cứ thế theo tháng. Nỗi đau cứ thế theo năm.

Hay kế tiếp là những bài thơ ông viết tặng cho một người bạn thơ nào đó, như: Đinh Cường, Trịnh Công Sơn, Trần Hoài Thư, Trần Vấn Lệ.

Nhưng hay và gây một cảm xúc đặc biệt trong tôi là bài thơ, ông viết cho chính ông, thì phải. Ông viết cho chính ông, trong một cơn bạo bệnh, trong một lần đứng trước cửa tử, mà thần chết chê, nên ông được trở lại với gia đình, với người thân, với bạn hữu

XIN CÁM ƠN, CÁM ƠN

Xin cám ơn, cám ơn
Cơn bệnh ngặt nghèo quật ta gục ngã
Như cỏ cây trước cơn bão dữ
Như con thuyền tung hê lên vách núi cao
Cho ta trở về làm con thú hoang sơ
Trần truồng như nhộng
Kẻ cạo đầu người lột da
Kẻ đục sọ người giúp thở
Kẻ đặt ống sonde vào đường tiểu
Người bơm thuốc qua dịch truyền
Cho ta trở về làm con thú trinh nguyên
Cho ta trở về làm em bé sơ sinh
Không lý trí không nghĩ suy không toan tính

Xin cám ơn, cám ơn
Cơn bệnh ngặt nghèo như cơn bão dữ
Bản tin thời tiết chưa kịp loan truyền
Quất qua đời ta cây cỏ
Để khi tỉnh dậy ta nhìn ra em
Nhớ tiếng người này nhìn ra người nọ
Gọi tên người này nhớ mặt người kia
Như đã qua một kiếp khác
Bao năm xa vắng quê nhà!
Nhớ bước chân trâu nhớ giàn bông bí
Nhớ cây khế ngọt nhớ trái dừa xanh
Nhớ tiếng mẹ già nhớ đàn con trẻ
Nhớ người hàng xóm lâu nay còn lạ
Nhớ những người thương nhớ luôn người ghét
Thấy ai cũng tội nghiệp
Như ta
Đã bao lâu ta không sống với mình
Ta có ta mà quên ta phứt.

Xin cám ơn, cám ơn
Cơn bệnh ngặt nghèo quật ta kịp lúc
Cho ta trở lại với mình
Ta muốn ôm hôn tất cả mọi người
Và ôm hôn ta nữa
Cái đầu trọc lóc bình vôi
Hai lỗ thủng và mười tám vết khâu từ ái
Ta ngạc nhiên lắng nghe mình thở
Lắng nghe sự sống cục cựa trong mình.

Xin cám ơn, cám ơn
Những cơn đau vật vã toát mồ hôi
Những nhức buốt thiệt thà thú vật
Khi đứng được hai chân như con người
Thật vô cùng hạnh phúc
Khi bước đi những bước con người
Khi còn được nghe được nói
Được cầm cây viết vẽ bâng quơ
Được đọc vài trang báo
Ôi phép lạ nhiệm mầu!
Những hòn sỏi bỗng có linh hồn
Những lá cây đong đưa lạ lẫm
Tiếng chim và ánh nắng
Như đã lâu rồi ta mới gặp nhau
Như đã lâu rồi ta mới quen nhau

Xin cám ơn, cám ơn
Cơn bệnh ngặt nghèo quật ta gục ngã
Cho ta trở về làm con thú trinh nguyên
Cho ta trở về làm em bé sơ sinh
Tràn đầy hạnh phúc
Để ta biết chắc một điều có thực
Tình yêu
Đã giúp ta tìm lại chính mình
Đã giúp ta vượt thoát!
(Bệnh viện AB 12/97)

Ông phải trải qua một cơn bệnh ngặt nghèo, quật ông gục ngã, ông mới tìm lại được chính mình.

Ông phải trải qua một cơn bệnh ngặt nghèo, quật ông gục ngã, thì ông mới có thể vượt thoát, vượt được cửa tử, thoát được cái chết, chỉ tày gang.

Còn tôi, tôi đọc thơ ông xong thì thẫn thờ, ừ nhỉ, đã bao lâu ta không sống với mình, ừ nhỉ, ta có ta mà ta quên phứt.

Bài thơ Xin Cám Ơn, Cám Ơn, dùng chữ không cầu kỳ mà lại vô cùng thành ý; viết tự nhiên như đương nói chuyện mà lại rất đỗi nhạc, rất đỗi thơ. Mới thấy, cái gì xuất phát từ tim, thì sẽ một đường đến thẳng trái tim mà không cần phải dụng bất kỳ một phương thức phức tạp, một kỹ thuật cao siêu nào.

******

III/ KẾT

1.
Giọng thơ của Đỗ Hồng Ngọc chân tình mà ấm áp; thẳng thắn mà dỗ dành, vỗ về. Trải dài suốt bảy trăm trang là rất nhiều những tâm sự và bộc bạch của ông. Tâm sự nào, bộc bạch nào, cũng hay;  cũng ngộ, là ngộ nghĩnh; cũng hết sức có lý có tình. Đến mức, đọc đi đọc lại hai, ba lần rồi, mà vẫn còn muốn đọc nữa, đọc nữa. Là vì, các ý ấy hay quá, đọc thích quá, thậm chí, với tôi, chúng mang ý nghĩa nhiều hơn cả những danh ngôn, những châm ngôn, lãng nhách, lãng xẹt, không hiện thực, mơ hồ, mà tôi hàng ngày thấy đầy rẫy trên trang mạng.

Tỉ dụ: Câu châm ngôn của ông Nguyễn Hiến Lê là “viết để học và học để viết”. Tôi chịu lắm. Chỉ có cách đó mình mới học được nhiều, học được sâu. Tôi bây giờ còn đi dạy và vẫn nghĩ “dạy để học và học để dạy”. Ấy là tôi bắt chước ông Nguyễn Hiến Lê đó.

Tạp Chí Ngôn Ngữ, số đặc biệt về bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, thật sự hay và phong phú. Tôi rất tiếc, vì đã không nói đủ được hết tất cả chuyện hay của sách, trong một bài viết buộc phải giới hạn về độ dài này. Các bạn nếu có thể, mua một cuốn, từ từ đọc. Sách không chỉ nói về một cuộc đời, mà trong đó, chúng ta có thể tìm được, rất nhiều, rất nhiều điều quý giá, tỉ như niềm vui, tỉ như sự san sẻ nỗi buồn, tỉ như giúp chúng ta mở mang hơn về mặt hiểu biết, kiến thức. Tôi tin lắm, như vậy!

******

2.
Dù là tiến sĩ, bác sĩ trưởng khoa hay là thầy dạy trường Y; dù là giám đốc hay từng tu nghiệp tại Harvard – Hoa Kỳ, thì nhà văn, nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc, vẫn là một người vô cùng khiêm cung và bác ái, vẫn là một người vô cùng hiền hòa với tấm lòng yêu thương bao la trước những các cảnh ngộ khổ đau và bất hạnh. Ông bình đẳng và chan hòa, ngay với cả một đứa trẻ sơ sinh vừa mới thoát thai:

Thôi trân trọng chào em
Mời em nhập cuộc
Chúng mình cùng chung
Số phận
Con người.
(Thư Cho Bé Sơ Sinh, 1965 – Đỗ Hồng Ngọc)

******

3.
Năm 1990, Sài Gòn lúc ấy không đông người như bây giờ, nhà nào, cũng thường mua báo xem, không thì ở cơ quan, cũng hay có báo. Tôi nhớ hoài, từng đọc một cái tin, làm rúng động, con gái đầu của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc là Đỗ Châu La Ngà, đột ngột qua đời vì tai nạn xe cộ, trong một chuyến công tác xã hội của trường Y.

Nỗi đau nào mới là nỗi đau lớn? Thiệt là khó để so sánh, bởi vì, nỗi đau nào cũng là những mất mát lớn lao và quá sức chịu đựng của ta.

Con gái mất, Đỗ Hồng Ngọc làm nhiều bài thơ khóc con. Trong đó có một bài, nhan đề là Tình Yêu:

Trước mộ con còn ướt
Ba nói với bạn bè ba rằng
Hãy yêu thương con mình cách khác
Đừng như ba
Giấu kín trong lòng

Bởi tình yêu
Có bao giờ cho đủ
Có đâu sợ dư thừa
Ba đã sai lầm bao nhiêu

Hãy tỏ bày đi
Vồ vập đi
Âu yếm ồn ào đi
Tình yêu
Có bao giờ cho đủ
Có đâu sợ dư thừa

Ba đã sai lầm bao nhiêu
Vì cứ chờ cứ đợi
Có biết đâu
Đời như mây nổi
Như gió thổi
Như chiêm bao
Ơi bài học tự thuở nào
Sao bây giờ mới hiểu

Muốn vồ vập con hôm nay
Muốn âu yếm con mãi mãi
Thì đã muộn rồi
Có bao giờ thừa thãi
Tình yêu?
(Đỗ Hồng Ngọc – 1990)

Đừng nén, đừng giấu sự thương yêu trong lòng. Vì chẳng có lý do nào hợp lý cho việc che đậy những tình yêu thiêng liêng ấy.

Tình yêu, có bao giờ cho đủ?
Tình yêu, có đâu sợ dư thừa?
Tình yêu, sao phải chờ, phải đợi?

Học theo ông, tôi sẽ luôn dặn mình, hãy nói lời yêu thương khi còn có thể.

Bài viết hôm nay, thay cho lòng yêu quý, gởi tặng đến một bậc tài hoa rất mực – bác sĩ, nhà nghiên cứu Đỗ Hồng Ngọc, đồng thời là nhà văn, nhà thơ Đỗ Nghê!

Sài Gòn 05.06.2024
Phạm Hiền Mây

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

PHẠM HIỀN MÂY: Thơ Đỗ Nghê – Bông Hồng Cho Mẹ

04/06/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

 

Thơ Đỗ Nghê – Bông Hồng Cho Mẹ

PHẠM HIỀN MÂY

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc sinh năm một ngàn chín trăm bốn mươi tại Bình Thuận. Tính đến năm nay, ông đã bước vào tuổi tám mươi tư, tám mươi lăm, thế mà ông vẫn đều đặn viết sách, viết các tản mạn, làm thơ. Vẫn họp mặt bạn bè, tiếp xúc bạn đọc và nhận lời mời nói chuyện, trao đổi, giải đáp các thắc mắc hoặc tâm tình.

Từ năm hai ngàn không trăm lẻ một, cứ năm năm, ông lại ra một cuốn sách. Các sách ấy, ông dựa vào các vấn đề lớn của Kinh Phật mà viết.

Từ Tâm Kinh, ông viết Nghĩ Từ Trái Tim. Từ kinh Kim Cang, ông viết Gươm Báu Trao Tay. Từ kinh Pháp Hoa, ông viết Ngàn Cánh Sen Xanh Biếc. Từ kinh Duy Ma Cật, ông viết Cõi Phật Đâu Xa. Từ kinh Hoa Nghiêm, ông viết thêm một loạt các bài bổ sung sau này.

Và mới đây nhất, ông cho ra mắt Tôi Học Phật, được xem là một tổng tập Kinh Phật hoàn chỉnh. Dường có một dẫn dắt tâm linh, ông tâm sự như vậy, khiến cuốn sách, tưởng chừng rất khó để đọc với mọi người, nào dè đâu, nó lại hết sức mạch lạc, dễ hiểu.

Ông cho biết thêm, người thầy dẫn dắt lớn của ông, là ngài Thích Ca Mâu Ni Phật. Ngoài ra, ông còn học được rất nhiều từ các vị thầy khác như thầy Nhất Hạnh, thầy Thanh Từ, thầy Viên Minh và thậm chí, cả tự học với chính mình.

Ông diễn giải, ông học cách tiếp cận vấn đề một cách khoa học. Ông học cách trở về nương tựa với chính mình. Thực hành, thực nghiệm với chính mình mới thấy được điều đúng. Trong kinh Kalama, Phật có nói, đừng vội tin ai cả, kể cả tôi, hãy thực hành đi.

Như tôi có nói ở trên, ông là bác sĩ Nhi Đồng, và là một nhà văn, nhà thơ nữa. Thơ ông thường là các bài thơ ngắn viết theo thể tự do. Ngôn ngữ thơ của ông đơn giản, dễ hiểu, không kiểu cách. Đơn giản như khi ông hướng dẫn người mới đến với thiền, là tập hít vào, tập thở ra, cho đúng cách.

****

Ông viết bài thơ NỤ CƯỜI CỦA MẸ vào ngày giỗ của mẹ mình. Những câu thơ rất bình dị, rất giản đơn, không màu mè hoa lá cành, không sử dụng những mỹ từ cao sang, trọng vọng, chỉ là những từ rất gần gũi, đời thường, vậy mà làm người đọc, cảm thấy như mình chính là tác giả, còn bà mẹ trong thơ, ấy chính là bà mẹ của mình.

Lời thơ đơn sơ, như mẹ vậy, mà nặng biết bao tình, mà rất của đứa con, của người con có hiếu!

**

Nụ cười của mẹ

Mẹ tôi có nụ cười lạ lắm

Lúc nào bà cũng nhìn tôi mà cười cười

Không nói

Lạ là vì mỗi lúc bà cười mỗi khác

Đọc thơ, tôi hình dung ra, giữa người mẹ và đứa con, là tác giả, dường, có một gần gũi khác, kiểu như gần gũi của tri kỷ, nghĩa là, mẹ không chỉ thương yêu con mà mẹ còn là người bạn thấu hiểu con nữa.

Những thế hệ sau này, có ăn có học, lại sanh ít, nên họ có thời gian để bầu bạn cùng con. Chớ sanh nhiều như ông bà, cha mẹ mình thuở xưa, con đông, làm lấm mặt, lấy đâu ra thời gian để mà lắng nghe con tâm sự hoặc giãi bày mà cho con ý kiến, ý cò đặng.

Mở đầu bài thơ, tác giả giới thiệu mẹ của mình, bằng một đặc điểm riêng, đó là nụ cười, và nụ cười này rất lạ.

Nó lạ bởi vì, mỗi lần bà cười, là mỗi lần nụ cười một khác nhau.

**

Lúc nào tôi có vẻ vội vã chào bà

Như để đi đâu đó cho đúng hẹn

Chẳng hạn

Bà cười cười tha thứ

Vậy hả con

Ừ đi đi.

Nụ cười thứ nhứt là nụ cười cảm thông khi đứa con ham ra ngoài, ham đi chơi, ham tụ tập, ham bạn bè, ham bù khú hơn là ham ở nhà với mẹ.

Thay vì bà đợi đứa con nói rõ lý do, nghe xong, chẳng hạn, bà sẽ cằn nhằn, cửi nhửi, một vài câu, hoặc khuôn mặt lộ vẻ không vui, để đứa con phải cảm thấy áy náy, thì đằng này, bà lại cười, cái cười của thừa biết, cái cười của bao dung, cái cười của tha thứ, kèm theo sự đôn đốc, vậy hả con, trễ rồi hả con, ừ, con đi đi, đi cẩn thận nha.

**

Lúc nào tôi thấy mình có lỗi

Lần khân bên bà lâu lâu chút

Thì nụ cười của bà lại như mỉa mai

Biết rồi, khỏi nói.

Cứ vội vội vã vã hoài, nhiều khi, thấy dáng bà ngồi, lụi cụi, cô đơn, cảm ra, đứa con là mình, sao mà có lỗi quá, sao mà tệ quá, bèn lân la, bèn hỏi này hỏi kia, bèn nói thiên nói địa.

Hỏi, nói, vậy thôi, chớ có nhập tâm đâu mà có đầu có đuôi. Những lúc ấy, bà tinh lắm, bà nhận ra ngay, và để cho đứa con không phải tốn thời gian nhiều bên mình, bà cắt đứt mạch chuyện cho con được tự nhiên hơn, chuyện đó hả, biết rồi, khỏi nói.

**

Những lúc tôi mang chuyện bực mình đâu đó về

Thì bà nhẹ nhàng cười, thôi đi, đừng sinh sự

Nhột nhất là khi bà cười có vẻ châm biếm

Khi tôi có ý gì đó thiếu thành thật

Loanh quanh kiếm chuyện.

Nụ cười thứ ba của bà là nụ cười nhẹ nhàng, tháo gỡ, khi nhận ra con mình đang không vui, con mình đang không như ý với cuộc sống, với công việc, với gánh nặng cơm áo gạo tiền.

Thôi đi, thôi đi, đừng sinh sự, lời bà can gián. Chuyện lớn thành chuyện nhỏ. Chuyện nhỏ hóa thành không.

**

Ôi nụ cười của một bà mẹ mới lạ lùng làm sao

Lúc tủm tỉm

Lúc chế giễu

Lúc mỉa mai

Lúc chua chát

Lúc thứ tha

Lúc trách mắng

Những nụ cười đó, tác giả không thể tìm thấy ở đâu, ngoài mẹ. Chỉ mẹ thôi.

Hoặc thế này, hoặc thế kia, nhưng kiểu gì thì tác giả cũng thấy dễ chịu, chưa kịp nói mẹ đã hiểu, chưa kịp làm mẹ đã hay. Và nụ cười nào, cũng là nụ cười san sớt, sẻ chia.

Cùng con!

**

 

Vậy đó

Mẹ tôi vẫn cười cười như thế suốt ba năm qua

Từ tấm ảnh trên bàn thờ!

Cái tài tình của một người viết văn hay làm thơ, chính là lúc này đây, chính là cái không thể ngờ tới, chính là điều không thể đoán ra, là ngỡ ngàng, là chẳng nói nên lời. Và, ngập tràn xúc động.

Ngỡ ngàng trong quặn thắt và ngập tràn nỗi tiếc thương.

Tiếc thương mấy, hối lỗi mấy, thì cũng đã trễ muộn rồi, không thể làm lại được bất kỳ điều chi nữa!

 

****

Đỗ Nghê viết bài thơ MỚI HÔM QUA THÔI trong một lần đến nhà giữ lão ở Montréal năm một ngàn chín trăm chín mươi ba.

Chỉ mới đọc tựa đề mà tôi cũng đã thấy niềm xúc động trào dâng. Mới hôm qua thôi, là xanh, là tươi tốt, là niềm vui, là hạnh phúc. Mà hôm nay, đã úa, đã héo hon, đã nỗi buồn và sầu tủi.

Một khoảnh khắc ngày qua, hôm nay, mà biết bao đổi thay. Điều đó, có phải người ta hay gọi là vô thường không?

**

Họ ngồi đó

Bên nhau

Đàn ông

Đàn bà

Không nhìn

Không nói

Họ ngồi đó, ngồi bên nhau, mà cái gì cũng không, không nhìn nhau, không nói năng chi.

Cả đàn ông lẫn đàn bà. Giờ, thì giới tính ý nghĩa gì. Còn sức đâu mà làm màu làm mè. Còn sức đâu để mà hứa hẹn yêu thương. Đến cái ăn cũng phải có người đút, đến cái đi vệ sinh, cũng phải có người đỡ đần, thì còn ham hố chi nữa mà đàn ông với chẳng đàn bà lúc này.

**

Họ ngồi đó

Gục đầu

Nín lặng

Ngửa cổ

Giật nhẹ tay chân

Có người

Trên chiếc xe lăn

Chạy vòng vòng

Có người

Trên chiếc xe lăn

Bất động

Họ ngồi đó, hoặc gục đầu, hoặc ngửa cổ, hoặc bất động, hoặc giật nhẹ tay chân.

Cùng là trên chiếc xe lăn, nhưng có người chạy vòng vòng, lơ ngơ, lẩn thẩn. Lại có người, đặt đâu thì y đó, giống như, người ta hay nói, có xác mà chẳng có hồn.

**

Họ ngồi đó

Hói đầu

Bạc trắng

Móm sọm

Nhăn nheo

Họ ngồi đó, hoặc là hói đầu, hoặc là trắng phơ phơ tóc. Hàm răng thì móm sọm. Da dẻ thì nhăn nheo.

**

Mới hôm qua thôi

Nào vương

Nào tướng

Nào tài tử

Nào giai nhân

Ngựa xe

Võng lọng

Mới hôm qua thôi, ông là vua một cõi, hét ra lửa, vạn người phải sợ.
Mới hôm qua thôi, bà là vợ tướng, bước một bước có người nâng, bước hai bước có người đỡ, cầm giỏ, cầm tay.

Mới hôm qua thôi, nào tài tử, nào giai nhân, nào ngựa xe, nào võng lọng, nào thơm nào đẹp, nào xinh nào tươi, nào hào hoa, nào hương sắc.

Mà bây giờ!

**

Mới hôm qua thôi

Nào lọc lừa

Nào thủ đoạn

Khoác lác

Huênh hoang

Mới hôm qua thôi

Nào galant

Nào quý phái

Nói nói

Cười cười

Ghen tuông

Hờn giận

Mới hôm qua thôi, nào lọc lừa, nào thủ đoạn, nào đoạt người, nào chiếm của.

Mới hôm qua thôi, nào khoác lác, nào huênh hoang, nào xưng tên, nào vỗ ngực.

Mới hôm qua thôi, nào galant, nào quý phái, nào cuộc vui, nào tiệc tùng suốt sáng, thâu đêm.

Mới hôm qua thôi, nào nói nói, nào cười cười, nào nâng ly, nào nhấc đũa.

Mới hôm qua thôi, nào ghen tuông, nào hờn giận, nào vật vã khóc lóc, nào muốn có, muốn được nhiều hơn.

Mà bây giờ!

 

**

Họ ngồi đó

Không nói năng

Không nghe ngóng

Gục đầu

Ngửa cổ

Móm sọm

Nhăn nheo

Họ ngồi đó, không nói năng, không nghe ngóng, không thắc mắc, không quan tâm.

Họ ngồi đó, hoặc gục đầu hoặc ngửa cổ. Hàm răng thì móm sọm. Da dẻ thì nhăn nheo.

**

Ngoài kia

Tuyết bay

Trắng xóa

Ngoài kia

Dòng sông

Mênh mông

Mênh mông…

 

Ngoài kia, tuyết vẫn bay, trắng xóa một vùng, cùng giá lạnh.

Ngoài kia, sông vẫn chảy, người vẫn ngồi, đợi phút tàn hơi.

Mênh mông. Mênh mông!

****

Ông viết bài thơ BÔNG HỒNG CHO MẸ vào năm hai ngàn không trăm mười hai. Có bốn câu thôi mà khi đọc lên, không sao ngăn được dòng nước mắt. Chỉ chân tình, mới có thể mở cửa được trái tim.

Con cài bông hoa trắng

Dành cho mẹ đóa hồng

Mẹ nhớ gài lên ngực

Ngoại chờ bên kia sông…

.
Con mồ côi mẹ, nên Vu Lan này, con cài lên ngực con, một bông hoa trắng.

Con dành bông hồng này, tặng cho mẹ, mẹ ơi.

Mẹ nhớ cài nha, đừng quên, hoa ngực đỏ.

Bên kia sông, ngoại đang đợi, để ôm mẹ vào lòng đó, mẹ ơi!

****

Không chỉ là bác sĩ nhi giỏi, danh tiếng lẫy lừng, Đỗ Hồng Ngọc còn là một nhà văn, một nhà thơ và là một người có sức ảnh hưởng đến các bà mẹ trẻ, đến những người lớn tuổi muốn đi vào tu tập, hành thiền.

Tiếp xúc với ông, là tiếp xúc với một người thông minh, trí tuệ, duyên dáng, thú vị và thi vị, nên những cuộc trò chuyện với ông, bao giờ cũng là, hoặc nhận thêm được, hoặc học thêm được, những điều rất bổ ích cho cuộc sống, ví dụ, ông trao đổi, Bát Nhã Tâm Kinh có sáu trăm cuốn, rút gọn còn vài trăm chữ, và cuối cùng, chỉ còn một chữ “không”. Dễ hiểu lầm chữ không này là không có gì, Thực ra vẫn có. Có này không do dự tính mà là do tác động của nhiều yếu tố, gọi là duyên sinh.

Tôi có hai người bạn vong niên, một là nhà thơ Trần Vấn Lệ, hai là nhà thơ Luân Hoán. Cả hai nhà thơ này đều là những người tôi rất kính trọng và mến yêu. Và, cũng cả hai ông này, đều là bạn rất thân của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc.

Anh Luân Hoán nhắn, muốn tôi viết một bài cho cuốn sách anh sẽ ra sắp tới, chuyên đề về Đỗ Hồng Ngọc. Còn Trần Trung Tá, thì tôi có đọc được nhiều câu nồng nàn, ấm áp lắm, khi viết cho Đỗ Nghê: Thơ Đỗ Nghê không rườm rà, không làm duyên làm dáng, không lập dị. Thơ ông là Thơ Hồn Nhiên, Thơ Nhã Nhặn, Thơ Ngọt Ngào. Tôi đọc thơ ông rồi úp cuốn sách lên ngực nghe ấm.
Bút danh ông là Đỗ Nghê. Ông nói, Đỗ là họ cha, Nghê là họ mẹ, không có gì là cao siêu hay bí hiểm trong này cả. Nhưng không hiểu sao, nghe cái tên Đỗ Nghê ấy mà, tôi cứ hình dung ra một chú bê con, chú nghé con, kêu nghé ọ, nghé ọ, dễ thương, hồn nhiên và thơ trẻ.

Cái tên, dù là bút hiệu, cũng vận vào con người ta nhỉ. Phải đủ hồn nhiên và thơ trẻ, thì ông mới có thể viết được những cuốn sách, và làm được những việc mang tính cống hiến cho đời, như ông.

Mong ông nhiều sức khỏe để dâng tặng dài lâu, tài năng, trí tuệ, tấm lòng, cho đời, như đã!

Phạm Hiền Mây

Sài Gòn 08.03.2024

(Nguồn: Ngôn Ngữ: Đỗ Nghê – Đỗ Hồng Ngọc, số tháng 5. 2024)

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Vài đoạn hồi ký

Nguyên Giác: Đọc Ngôn Ngữ Số Đặc Biệt về Đỗ Nghê: Khi Đỗ Hồng Ngọc gặp Cao Huy Thuần

28/05/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Đọc Ngôn Ngữ Số Đặc Biệt về Đỗ Nghê: Khi Đỗ Hồng Ngọc gặp Cao Huy Thuần

Nguyên Giác

Đây là một tuyển tập đặc biệt của Tạp chí Ngôn Ngữ, chủ đề về Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc, ấn hành tháng 5 năm 2024. Nhan đề sách còn là “Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc: Bằng Hữu & Văn Chương.” Sách dày 716 trang, bao gồm tiểu sử, thơ và văn xuôi của vị bác sĩ nổi tiếng, khi làm thơ ký tên là Đỗ Nghê và khi viết văn xuôi ký tên thật là Đỗ Hồng Ngọc. Và phần cuối là tác phẩm của hơn 60 nhà văn, nhà phê bình, họa sĩ và nhạc sĩ viết về, vẽ chân dung, phổ thơ Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc. Tất cả các thơ, văn, bài viết trong tuyển tập đều xuất sắc.

B 1_NGON NGU - DO HONG NGOC BB
Bìa sách “Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc: Bằng Hữu & Văn Chương”

Hiển nhiên, có thể hiểu rằng tuyển tập là một món quà văn nghệ lưu niệm được nhóm chủ trương — Luân Hoán, Song Thao, Nguyễn Vy Khanh, Hồ Đình Nghiêm và Lê Hân — ấn hành để trao tặng cho Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc, một nhà thơ hy hữu trong dòng văn học Việt Nam, được nhiều nhạc sĩ phổ thơ và đưa các ca khúc này lên YouTube. Các bài thơ ghi lại trong Tạp Chí Ngôn Ngữ Số Đặc Biệt nằm trong Phần II là trọn tập thơ “Thơ Ngắn Đỗ Nghê.”

Phần III trong tuyển tập là văn xuôi Đỗ Hồng Ngọc, được Chủ biên Luân Hoán nhận xét: “Những bài viết này thường ngắn nhưng cũng xuất sắc như thơ, bởi qua đó những nhận xét tinh tế về cuộc sống, tình người, được ông phơi bày một cách đơn giản, nhưng sâu sắc như những bức ảnh chụp đủ chân tình, giàu dí dỏm. Mỗi tạp ghi là một cảnh sống linh động, chúng ta có cảm tưởng ông thật dồi dào vốn sống đời thường. Ông là một bác sĩ cao tay nghề, một người học Phật uyên thâm lại rất thích truyền đạt hiểu biết của mình theo một cách riêng. Tính ít nói cười nhưng sự nghiêm túc, được tâm hồn phóng khoáng giúp ông chơi thêm một trò vẽ vời nữa, cũng thi vị đậm đà không kém những bộ môn kể trên.” (trang 9)

Trong tuyển tập, tôi chú ý đặc biệt tới bài Đỗ Hồng Ngọc nơi các trang 265-270 có nhan đề “Đọc ‘Im Lặng, Như Lời Chia Tay’ của Cao Huy Thuần.” Hy hữu lắm, trong mắt tôi, họ Đỗ và họ Cao là hai đại cư sĩ đương thời của Phật Giáo Việt Nam. Hy hữu lắm, khi hai ngọn núi khổng lồ của nền văn học Phật Giáo bỗng nhiên ngồi chung một bàn, mời nhau ly cà phê và nói chuyện đạo với đời.

Từng dòng nơi bài viết, tôi đọc và có lúc thấy hiện ra trên mặt giấy hình ảnh hai vị lão niên cư sĩ đang ngồi trong nhà nói chuyện với nhau, và tôi, người đang đọc, y hệt như một kẻ hậu sinh còn đứng ngập ngừng nơi cửa, nhìn vào và lắng nghe. Đỗ Hồng Ngọc và Cao Huy Thuần đều ở tuổi U-90 (nói theo kiểu văn học đương thời tại Việt Nam, tức là dưới 90 tuổi và hơn 80 từ lâu). Cả hai đại cư sĩ ngồi bên nhau trong bài viết, y hệt như 2 cuốn tự điển Phật học xuất hiện bên nhau trên kệ sách, nơi đó, tôi đang nhìn vào và lắng nghe. Nơi đây, Đỗ Hồng Ngọc viết gì về Cao Huy Thuần?

Đỗ Hồng Ngọc viết, nơi trang 265: “Anh Cao Huy Thuần gởi tôi tập Im Lặng, như lời chia tay… dặn để đọc mấy ngày Tết. Tôi nghĩ: chắc là Im Lặng thở dài… đây rồi! “Tôi đang lắng nghe tôi đang lắng nghe im lặng đời mình” (Trịnh Công Sơn)? Nhưng không. Cao Huy Thuần không thở dài! Anh nói về “thiêng liêng” về “chia tay mà không biệt ly của cánh hoa rơi”…” (ngưng trích)

Im lặng, như lời chia tay. Lời chia tay của cánh hoa rơi. Đó là những chữ của Cao Huy Thuần được Đỗ Hồng Ngọc ghi lại. Đó là văn xuôi, và cũng là thơ. Một hình ảnh rất đẹp. Trong khi 2 đại lão cư sĩ hiện ra trên giấy như hai vị cõi Thiên có đại uy lực, với tâm được chế ngự, lặng lẽ nhìn chữ viết trong những ngày cuối đời mình như lời chia tay của cánh hoa rơi, tôi nhớ tới một hình ảnh được nói tới trong Kinh Trường Bộ DN 16, khi trái đất này chấn động sáu cách:

“Lại nữa này Ānanda, có vị Sa-môn hay Bà-la-môn có thần thông, tâm được chế ngự, hay hàng chư Thiên có đại thần thông, có đại uy lực; những vị này quán địa tánh có hạn, quán thủy tánh vô lượng, vị ấy có thể khiến quả đất này rung động, chuyển động mạnh. Đó là nhân thứ hai, duyên thứ hai khiến đại địa chấn động.” (Kinh DN 16, bản dịch của Thầy Minh Châu)

Trong khi Cao Huy Thuần nhìn sự chuyển hóa vô thường như chiêm ngắm một cánh hoa rơi, Đỗ Hồng Ngọc đã nói rõ hơn (than ôi, có những người, kiểu như tôi, cần được tác giả nói rõ hơn) rằng đó là Tử ma, là sự chết:

“Phật dạy có bốn thứ Ma thân thiết với ta. Phiền não ma, Ngũ ấm ma, Thiên ma, Tử ma. Tử ma chính là “thị giả” của ta, gần gũi ta và giúp đỡ ta, gắn với ta từ trong trứng nước. Tưởng là kẻ xấu mà không, hắn rất tử tế, luôn nhắc ta từng chút, nhờ vậy mà ta tránh biết bao tai ương, khổ nạn.

Nhìn lại, có hay không có tái sinh? Có hay không có “kiếp” sau? Có lần khi trò chuyện với Ni sư Trí Hải tôi hỏi một kiếp dài khoảng chừng 10 phút không cô? Cô cười, không trả lời. Có lẽ cô muốn nói… một kiếp dài cỡ một sát-na!” (trang 266)

Có phải một kiếp dài khoảng 10 phút, hay chỉ một sát na, hay là hơn 90 năm? Khi một cánh hoa rơi xuống, có phải những cánh bướm vẫn vỗ bay nơi góc rừng. Tử ma hiện diện khắp cõi này, kể cả trên chiếc lá khô. Nơi đây, hiển nhiên là Đỗ Hồng Ngọc rất mực tâm đắc với dòng văn Cao Huy Thuần khi nói về lá khô, lá rụng, rồi tái sinh thành lá búp, lá non. Trích:

“Im lặng bông hoa nở. Im lặng bông hoa tàn. Hoa rụng, nhưng mỗi cánh hoa rơi, bao nhiêu chân bướm vẫn còn lưu dấu… Đâu là cách chia tay mà không biệt ly? (Im Lặng). Rồi Cao Huy Thuần dẫn bài thơ Feuille morte (lá chết) của Hermann Hess, tác giả Siddhartha (Câu chuyện dòng sông, Phùng Khánh, Phùng Thăng dịch, Saigon 1966). Anh “phát hiện” một điều thú vị: ngôn ngữ Việt không ai nói “lá chết” mà nói “lá khô”, “lá rụng”. Quét lá rụng, quét lá khô, không ai nói quét lá chết như ngôn ngữ Pháp, Đức. Bởi vì, lá không bao giờ chết. Nó khô, nó rụng, rồi nó tái sinh thành lá búp lá non (Im Lặng).” (trang 268)

Có một hình ảnh khác nữa. Đỗ Hồng Ngọc nhắc về hình ảnh trong văn Cao Huy Thuần: hai con sên dự đám tang chiếc lá chết mà lòng tràn đầy hân hoan, hạnh phúc. Nhà thơ họ Đỗ ghi lại, trích:

“Ôi, làm sao hai chú sên đi dự đám tang chiếc lá chết buồn xo giữa mùa thu… mà nay lòng lại tràn đầy hân hoan, hạnh phúc? Ấy bởi vì chúng là sên. Chúng “bò như sên”! Bò hết cả mùa đông, chưa kịp đến nơi mà xuân đã về rồi! “Bao nhiêu lá chết xong/ Tất cả đều lại sống…”
Tiễn mùa thu thì gặp mùa xuân. Tiễn cái chết thì gặp cái sống. Tiễn ảm đạm thì gặp tưng bừng. Hai con sên chia tay mà chẳng biết biệt ly là gì! (Im Lặng)
Cao Huy Thuần nói nhỏ: “chẳng có cả khái niệm”. Phải, chúng chẳng có cả khái niệm. Dĩ nhiên, Cao Huy Thuần đang nói về Kim Cang đó! Khi ta mà biết sống “ly niệm”, khi ta không còn bám chấp vào khái niệm… thì “trí bất đắc hữu vô”, thong dong, tự tại.” (trang 269)

Chúng ta sẽ thấy trong từng trang giấy những phong cách dị biệt giữa hai nhà văn Cao Huy Thuần và Đỗ Hồng Ngọc. Trong khi họ Cao nói về Tử ma với hình ảnh cánh hoa rơi, lá khô, lá rụng… thì ngòi bút họ Đỗ lại chỉ vào hình ảnh thõng tay vào chợ, hiện tướng đùa vui giữa chốn Ta bà. Trích:

“Anh Cao Huy Thuần thân mến, nếu thỉnh thoảng ta mà vào được Tam muội Phổ Hiền, thì ta cũng có thể nhận ra cái “thiêng liêng” đó anh à, cái thiêng liêng từ “vô tướng” – trong Như Lai tạng – bỗng “hiện tướng”… đùa vui giữa chốn Ta-bà đó thôi.” (trang 270)

B 2 NGON NGU_ Do Hong Ngoc_Cao Huy Thuan_Mien Duc Thang
Từ trái: Đỗ Hồng Ngọc, Cao Huy Thuần, Miên Đức Thắng.

Nhìn chung, Tuyển tập này có rất nhiều bài để đọc. Và mỗi bài đều có sức lôi cuốn khác nhau. Danh sách các tác giả viết trong tuyển tập về Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc này là: “Ban Mai, Du Tử Lê, Duyên, Đinh Cường, Đinh Trường Chinh, Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc, Đỗ Thị Thanh Nga, Đỗ Trung Quân, Đỗ Trường, Elena Pucillo Truong, Hồ Đình Nghiêm, Hoàng Quốc Bảo, Huỳnh Như Phương, Huỳnh Ngọc Chiến, Khuất Đẩu, Khúc Dương, Lam Điền, Lê Chiều Giang, Lê Ký Thương, Lê Minh Quốc, Lê Ngọc Trác, Lê Uyển Văn, Luân Hoán, Lữ Kiều Thân Trọng Minh, Lương Thư Trung, Minh Lê, Ngân Hà, Ngô Nguyên Nghiễm, Nguyên Cẩn, Nguyên Giác Phan Tấn Hải, Nguyễn An Bình, Nguyễn Đức Tùng, Nguyễn Hậu, Nguyễn Lệ Uyên, Nguyễn Nhật Ánh, Nguyễn Quang Chơn, Nguyễn Thánh Ngã, Nguyễn Thị Khánh Minh, Nguyễn Thị Ngọc Hải, Nguyễn Thị Phương Trinh, Nguyễn Thị Tịnh Thy, Nguyễn Thiên Nga, Nguyễn Xuân Thiệp, Phạm Bảo Kim, Phạm Chu Sa, Phạm Hiền Mây, Phan Chính, Phat’s Blog, Tâm Nhiên, Thu Thủy, Thy Ngọc, Tô Thẩm Huy, Trần Hoài Thư, Trần Thị Nguyệt Mai, Trần Vấn Lệ, Trang Châu, Trịnh Công Sơn, Trịnh Y Thư, Trương Đình Uyên, Trương Trọng Hoàng, Vĩnh Điện, Võ Tá Hân, Ý Nhi.”

Nguyên Giác

(Nguồn: tranthinguyetmai wordpress 27.5.2024)

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Phạm Bảo Kim: Đọc văn Đỗ Hồng Ngọc

23/05/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

ĐỌC VĂN ĐỖ HỒNG NGỌC

Phạm Bảo Kim

Đỗ Hồng Ngọc là một nhà thơ trước khi tốt nghiệp Bác sĩ Y khoa Đại học đường Saigon vào năm 1969. Bài thơ đầu tiên được đăng trên tạp chí Bách Khoa năm 1960. Sau đó, ông đã có nhiều thơ đi trên các tạp chí Bách Khoa, Mai, Tình Thương, Ý Thức… Năm 1967, khi đang là sinh viên Y khoa, ông đã có tập thơ đầu tay “Tình Người” xuất bản. Thơ ông đẹp, hay. Đã hẳn. Vì được viết từ chính trái tim, từ xúc động chân thành “như không thôi đi được” mà Chu Hy đã nói đến trong Thi Kinh tập truyện. Ông tâm sự: “Tôi không có khả năng ‘hư cấu’ nên không viết được truyện dài truyện ngắn tiểu thuyết như các bạn mình… Tôi chỉ có một truyện ngắn duy nhất “Người thứ hai” đã đi trên tạp chí Mai xuất bản tại Saigon vào năm 1965, sau này được in lại trong tập truyện “Cuộc đi dạo tình cảm” của nhiều tác giả, Nhà xb Trẻ, 1998.

Georges-Louis Leclerc, Comte de Buffon (1707 – 1788) có lần phát biểu: “Phong cách chính là người” (Le style c’est l’homme même) mà người Việt chúng ta thường diễn dịch “Văn chính là người”. Đọc truyện ngắn này của ông, độc giả có thể nhận ra ngay điều đó.

Nhân vật chính trong truyện xưng “tôi” hoặc “anh” là hình ảnh của Đỗ Hồng Ngọc thời đang là sinh viên y khoa mà chắc chắn sản phụ nào cũng mong là người đỡ đẻ cho chính mình. Có thể thấy ông đã đặt cả trái tim mình trong công việc. “Tôi hỏi thật nhỏ nhẹ, lời lẽ cân nhắc đắn đo sao cho người đàn bà nằm đây chờ sanh tin cậy nơi tôi mà không thẹn thùng khi phải trả lời những câu hỏi của tôi đôi khi như chạm đến bí mật riêng tư của bà. Tôi hỏi về gia đình bà, và những đứa con của bà. Tôi giảng giải cho bà nghe những giai đoạn trong việc sanh nở. Tôi nhớ mang máng có đọc trong tạp chí nào đó một phương pháp đẻ không đau nên thử áp dụng… Bây giờ thì bà đã đau rột. Tôi bắt mạch, đo thời gian co tử cung, rồi nói chuyện cho bà nghe để bà quên đau… Người đàn bà cắn môi, nhăn mặt, chuẩn bị rặn. Tôi khuyên hãy đợi một lát, chờ cho cổ tử cung nở hẳn, để tránh nguy hiểm về sau. Bà uốn cong người, nhịn rặn, hả miệng to để thở và những giọt mồ hôi gặp dịp tốt không quên túa ra, tụ lại, chảy xuống thành dòng… Tôi đặt tay lên bụng bà, lo lắng, thầm khấn cho bà sanh dễ dàng, mau chóng…”

Nhớ hồi sinh cháu đầu lòng, cha mẹ hai bên đều không ở gần, không được chỉ vẽ điều gì, lại càng không có cơ may có trong tay cuốn sách “Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng” của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc nơi xứ lạ quê người, tôi đã lúng túng biết bao. Đỡ đẻ cho tôi là bác sĩ R.V. nổi tiếng mát tay ở thành phố nơi tôi sinh sống, nhưng ông không chỉ có tôi là sản phụ duy nhất trong phòng sanh. Chỉ có y tá vào ra, thăm độ nở của cổ tử cung và báo cho ông biết, trong khi ông còn lo cho những sản phụ khác. Không có bác sĩ hay y tá nào ngồi nói chuyện cho mình quên đau, hoặc chỉ dẫn điều này điều nọ. Chỉ khi cổ tử cung đã nở, bác sĩ mới vào cùng y tá, khuyến khích mình ráng rặn để cho con ra.

Từ cơn đau của người sản phụ, “Lấm tấm trên trán, trên mũi bà đọng mấy giọt mồ hôi – giọt mồ hôi của những người mẹ hợp với nước mắt của họ làm thành biển mẹ bình bồng những đứa con – tôi nghĩ về mẹ tôi một cách biết ơn hơn bao giờ hết.” Với trái tim mẫn cảm ông đã nhìn ra mẹ mình và tất cả những người mẹ đã chịu đớn đau cho con được ra đời vuông tròn, để từ đó lòng biết ơn Mẹ đã thêm ngập tràn trong trái tim ông.

Những câu tả cảnh tả tình trong bài cũng rất đẹp, chẳng hạn:

 “Trên bãi cát phẳng lì này, anh đã nằm nghe trời đất tự tình. Những đợt sóng lớn nhỏ đuổi nhau, đùa giỡn trên bãi, cuốn đến chân anh rồi ngại ngùng rút đi. Những con sò ca trên cát trắng. Em thấy còng gió đó không Mai? Nó chạy nhanh hơn gió. Đừng đuổi mất công. Để hôm nào anh đưa em đi xem cách người ta bắt còng nghe. Quê hương anh thật nghèo, thật đẹp. Rừng dương reo vi vu ru mình vào giấc ngủ.”

Một trong những tác phẩm của ông tôi cũng rất thích là “Áo Xưa Dù Nhàu…”, ghi lại 18 chân dung văn học mà ông có dịp gặp gỡ, quen biết, do Phanbook xuất bản 2022. Tôi yêu những đoạn văn ông tả mùa thu ở Boston rất nên thơ. “… lá như ráng níu lại chút xanh, và vì níu lại nên có vẻ chặt hơn, xanh hơn lên mà thôi. Bởi vì rất nhanh, lá bỗng vàng rượm, vàng rực, vàng tía, vàng buốt… và bầu trời rộng ra, thênh thang, yểu điệu kỳ cục.” Hay: “Tôi bước đi từng bước nhẹ dưới những vòm cây và nghe cho hết tiếng thu về. Dưới chân mình là từng lớp lá rụng, bước chân bỗng như hẫng đi và tôi chợt ngơ ngác. Thấy mình như không còn là mình nữa. Hay mình là nai? Có thể chứ? Con nai vàng ngơ ngác của Lưu Trọng Lư?” Phải đọc mùa thu Boston, tôi mới cảm thấy trân quý với thiên nhiên thời tiết mà mình đang được hưởng. Để biết thưởng thức “… Cái tiếng mùa đi, mùa về, cái tiếng đời của mỗi chúng ta. Nó ở trong không gian dằng dặc, đùng đục thênh thang kia, và ở cả trong thời gian hun hút, héo hon rơi rụng nọ, một thứ ‘tiếng động nào gõ nhịp không hay’ (TCS) đó chăng.”

Cách tả của ông cũng rất độc đáo. Với học giả Nguyễn Hiến Lê ghiền thuốc cỡ “thường thường bậc trung” thì “Lúc nào cũng có lon thuốc rê bên mình, ông vừa trò chuyện với khách vừa vấn vấn vê vê điếu thuốc lá, liếm nhẹ rồi bật quẹt hút. Các ngón tay ông nhanh nhẹn, thuần thục đến vàng sậm màu khói”. Còn với nhà văn Trang Thế Hy, việc hút thuốc đã trở thành một nghệ thuật, một “nghi lễ tôn giáo”: “Thấy cái cách ông ngậm điếu thuốc chếch qua một bên khóe miệng, thấy cái cách ông khum khum đôi bàn tay ấp ủ ngọn lửa như một bông hoa tự dưng thấy lòng xao xuyến… Một người gần 90 tuổi, ghiền thuốc lá từ ngày còn trẻ, ngồi bên cạnh mình, nhẹ nhàng rút một điếu, nâng niu đưa lên miệng, rồi ân cần xoay xoay chiếc hộp quẹt trong tay chuẩn bị bật lửa…” Bằng những nét chấm phá như thế, ông đã cho người đọc thấy được một Trang Thế Hy ghiền thuốc đến cỡ nào!

Văn ông dí dỏm, rất có duyên, khiến người đọc không muốn buông sách, mà cứ muốn tiếp tục đọc cho đến hết để tủm tỉm cười một mình. Như ông tả “chàng” Huy Cận chẳng nên thơ chút nào như trong trí tưởng, “một ông già lùn mập, trông giống như Bất Giới hòa thượng, ì ạch leo lên cầu thang. Trời, Huy Cận bằng xương bằng thịt đây sao? Người mà ‘em ơi hãy ngủ anh hầu quạt đây’ đây sao?” Nhưng khi nói về thơ thì Huy Cận lập tức biến thành một con người khác. “… Rồi ông lại ư ử. Hay. Câu này hay. ‘Một ngày Đập Đá nghiêng vai biếc người’. Một ngày Vỹ Dạ trăng soi, một ngày Đập Đá nghiêng vai biếc người. Ngày thì trăng không soi được rồi, mà tại sao lại biếc người? Không phải chỉ là cái quán cà phê bên dòng nước xanh um bóng cây kia mà chính là, à phải rồi, chính là con thuyền ai đó có chở trăng về kịp tối nay và vườn của ai kia lá có còn mướt xanh như ngọc. Vâng, xanh nên biếc và người nên ngọc. Ông Huy Cận này ghê thiệt. Quả là danh bất hư truyền. Ông đọc và cảm nhận thơ tinh tế không thể tưởng. Mới vừa thấy ông là Bất Giới hòa thượng đó bỗng đã thành Nghi Lâm tiểu sư muội, rồi bây giờ lại là Lệnh Hồ huynh đệ, chỉ dùng kiếm ý mà không cần kiếm chiêu…” Và tôi không thể không tủm tỉm cười khi đọc đến chỗ, “Bỗng nhiên ông hỏi: ‘Duyệt chưa?’ Tôi trả lời: ‘Chừng nào in mới đưa Nhà xuất bản duyệt’. ‘Không, vợ duyệt chưa?’ Trời đất quỷ thần cái ông Huy Cận này. Lại có vụ đó nữa ư? Tôi ấp úng đành cười trừ. Lê Phương Chi cười ha hả: Cái ông Huy Cận nhứt vợ nhì trời này, mày không biết sao?”

Qua tập sách này, tôi cũng thấy được ĐHN còn là một nhà báo có tài phỏng vấn. Như nhà văn Trang Thế Hy đã thổ lộ: “Hôm trước có cô nhà văn gì đó hỏi tôi tại sao không ưa… mà thích Lỗ Tấn? Tôi không trả lời, nhưng hôm nay nói cho Đỗ Hồng Ngọc nghe nha: Tôi thích Lỗ Tấn vì…”  Ông đến với mọi người bằng tấm chân tình, nên ông cũng được đối đãi lại như thế. Nhà thơ Quách Tấn đã không ngại chia sẻ với ông về tính dục. “Trước kia tôi có nhiều nhơn tình. Tôi cám ơn họ lắm vì nhờ họ tôi có nguồn cảm hứng luôn. Tôi quan niệm ‘làm thơ cũng như chơi gái’. Làm thơ không phải chỉ thuần có khoái cảm ở tâm hồn, nhiều lúc thấy vibrer cả cơ thể. Làm xong một bài thơ, cơ thể cũng rã rời, mệt mỏi. Có những bài thơ làm bằng nước mắt. Ngược lại, chơi gái cũng phải là một hành động thơ, chứ không phải chỉ là sự giải quyết sinh lý.”

Hiện nay ông tiếp tục dùng ngòi bút văn chương của mình, mang thơ nhạc để giảng giải lời kinh cũng rất hay, giúp người học Phật trình độ sơ cơ hiểu được và từ đó đến với Phật pháp dễ dàng hơn. Tôi rất “mê” cách ông giải thích kinh Kim Cang qua bài viết “Con mắt còn lại”.

“Bùi Giáng, một thi sĩ thấm đẫm Kim Cang thường hạ những câu ‘hà dĩ cố’ trong thơ có lần viết ‘Còn hai con mắt khóc người một con…’ mà Trịnh Công Sơn đã nối theo: Còn hai con mắt một con khóc người! Con mắt còn lại…? Ừ, con mắt còn lại thì sao? Con mắt còn lại… nhìn một thành hai, nhìn em yêu thương nhìn em thú dữ… (TCS). Phải rồi, cái con mắt còn lại quả thực là con mắt gây phiền hà! Nó bị diplopie, nhìn một thành hai! Nhưng người bị diplopie thì nhìn một thành hai giống hệt nhau còn đằng này nó nhìn em… yêu thương thành em thú dữ, rồi còn ‘nhìn tôi lên cao nhìn tôi xuống thấp…’, nghĩa là cái nhìn đầy “phân biệt đối xử”! Nó như của ai khác- nó quan sát ta, nhìn ngắm ta và rồi nó… thở dài thấy mà ghét (Con mắt còn lại là con mắt ai? Con mắt còn lại nhìn tôi thở dài! TCS)! Thở dài, bởi nó thấy ta tội nghiệp! Thấy ta đáng đời! “… đời tôi ngốc dại, tự làm khô héo tôi đây…” (TCS).

Đó chính là con mắt của “Thức”. Của biện biệt, so sánh, đếm đo. Khi “thức” biến thành “trí” thì mọi chuyện đã khác! Lúc đó,

Con mắt còn lại/ nhìn đời là không/ nhìn em hư vô/ nhìn em bóng nắng!

Là không, chứ không phải bằng không! Là không, đó là cái không của có, cái có của không… Tóm lại, còn hai con mắt…“khóc người một con” kia là con mắt của Bi! “Con mắt còn lại nhìn đời là không” này chính là con mắt của Trí. Bi mà không Trí thì cứ sẽ khóc hoài, dỗ không nín!

(trích từ Gươm báu trao tay – Đỗ Hồng Ngọc. Nhà xb Phương Đông 2008) 

Nơi đây xin được tỏ lòng biết ơn đến Nhà thơ – Bác sĩ – Cư sĩ Đỗ Hồng Ngọc, ông đã giúp tôi thêm vốn kiến thức văn chương, y khoa, âm nhạc, Phật học… Tôi vẫn thầm nghĩ mình là người may mắn được học hỏi từ những cuốn sách của ông, và từ những điều ông viết chia sẻ trên trang nhà Đỗ Hồng Ngọc cũng như trên các trang mạng khác.

 

(PBK)

24.3.2024

(Ngôn Ngữ đặc biệt Đỗ Nghê – Đỗ Hồng Ngọc, tháng 5-2024)

 

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Thầy thuốc và bệnh nhân

Ngôn Ngữ số đặc biệt: Đỗ Nghê – Đỗ Hồng Ngọc (tháng 5-2024)

23/05/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc 2 Bình luận

 

 

 

NGÔN NGỮ

TẠP CHÍ VĂN HỌC NGHỆ THUẬT SỐ ĐẶC BIỆT

ĐỖ NGHÊ  ĐỖ HỒNG NGỌC

THÁNG 5 NĂM 2024

 

NHÓM CHỦ TRƯƠNG:

Luân Hoán – Song Thao – Nguyễn Vy Khanh – Hồ Đình Nghiêm – Lê Hân

CỘNG TÁC TRONG SỐ NÀY:

Ban Mai, Du Tử Lê, Duyên, Đinh Cường, Đinh Trường Chinh, Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc, Đỗ Thị Thanh Nga, Đỗ Trung Quân, Đỗ Trường, Elena Pucillo Truong, Hồ Đình Nghiêm, Hoàng Quốc Bảo, Huỳnh Như Phương, Huỳnh Ngọc Chiến, Khuất Đẩu, Khúc Dương, Lam Điền, Lê Chiều Giang, Lê Ký Thương, Lê Minh Quốc, Lê Ngọc Trác, Lê Uyển Văn, Luân Hoán, Lữ Kiều Thân Trọng Minh, Lương Thư Trung, Minh Lê, Ngân Hà, Ngô Nguyên Nghiễm, Nguyên Cẩn, Nguyên Giác Phan Tấn Hải, Nguyễn An Bình, Nguyễn Đức Tùng, Nguyễn Hậu, Nguyễn Lệ Uyên, Nguyễn Nhật Ánh, Nguyễn Quang Chơn, Nguyễn Thánh Ngã, Nguyễn Thị Khánh Minh, Nguyễn Thị Ngọc Hải, Nguyễn Thị Phương Trinh, Nguyễn Thị Tịnh Thy, Nguyễn Thiên Nga, Nguyễn Xuân Thiệp, Phạm Bảo Kim, Phạm Chu Sa, Phạm Hiền Mây, Phan Chính, Phat’s Blog, Tâm Nhiên, Thu Thủy, Thy Ngọc, Tô Thẩm Huy, Trần Hoài Thư, Trần Thị Nguyệt Mai, Trần Vấn Lệ, Trang Châu, Trịnh Công Sơn, Trịnh Y Thư, Trương Đình Uyên, Trương Trọng Hoàng, Vĩnh Điện, Võ Tá Hân, Ý Nhi.

 

BÌA: Uyên Nguyên Trần Triết

HÌNH BÌA: Nhà thơ – Bác Sĩ Đỗ Hồng Ngọc (Ảnh: Tăng Hưng)

ĐỌC BẢN THẢO: Trần Thị Nguyệt Mai

DÀN TRANG: Công Nguyễn

 

LIÊN LẠC:

Thư và bài vở mời gởi về:

-Luân Hoán: lebao_hoang@yahoo.com -Song Thao: tatrungson@hotmail.com

TOÀ SOẠN & TRỊ SỰ:

Lê Hân: (408) 722-5626  han.le3359@gmail.com

 

THƯ ĐẦU SÁCH 

Cuốn Tác Giả Tác Phẩm Đỗ Nghê  Đỗ Hồng Ngọc này là bước tiếp theo sau các ấn bản về Cung Tích Biền, Ngô Thế Vinh, Phạm Cao Hoàng, cùng một thể loại, do tạp chí Ngôn Ngữ tại Hoa Kỳ chăm sóc, giới thiệu.

Tác phẩm này vốn đã được tác giả và nhóm bạn viết của ông thực hiện và phổ biến dưới dạng eBook. Theo nhà văn Nguyên Giác Phan Tấn Hải tổng kết đơn giản, sách có tên gọi “Thơ Đỗ Nghê – Đỗ Hồng Ngọc  Như Không Thôi Đi Được”. Sách tập trung bài viết của chừng 30 tác giả, gồm các nhà văn, nhà thơ và sách chỉ có mục đích để tặng; không thấy ghi năm phát hành.

Chúng tôi vốn rất thích thơ và tạp bút của Nhà thơ – Bác sĩ này từ trước 1975, và được biết nhà thơ Trần Thị Nguyệt Mai, một thành viên trong Ngôn Ngữ quen thân với ông, nên đã nhờ chị bắt liên lạc xin phép, nhằm thực hiện một số đặc biệt. Và nhà thơ Đỗ Nghê đã đồng ý.

Xin được nhắc lại, một số Ngôn Ngữ đặc biệt gồm hai phần: giới thiệu về một tác giả, và sáng tác thơ văn biên khảo từ nhiều người viết gởi đến. Trong thời gian qua, chúng tôi đã phát hành được các số về họa sĩ Khánh Trường, nhà phê bình Nguyễn Vy Khanh, nhà văn Trần Hoài Thư, nhà văn Nguyên Minh, nhà văn Song Thao, nhà văn Hồ Đình Nghiêm, nhà thơ Lê Hân. Các số này tư liệu của mỗi người đi phần đầu trong hơn nửa số báo. Với những tác giả vừa kể, phần tư liệu của họ cũng dồi dào, đủ để in riêng, tiếc rằng lúc đó chúng tôi chỉ nghĩ đến việc thực hiện theo khuôn báo cũ, mà cắt bớt, hạn chế số trang. Nhà văn Cung Tích Biền là người đầu tiên yêu cầu đi hết phần tư liệu của ông. Chúng tôi chấp nhận, và tiếp tục chấp nhận hình thức này cho đến nay, với số về nhà thơ Đỗ Nghê  Đỗ Hồng Ngọc. Nhưng lần thứ tư này, cũng là lúc chúng tôi quyết định trả lại tính cách sách cho tác phẩm, dẫu vẫn do tạp chí Ngôn Ngữ trực tiếp chăm sóc để in. Trong khi đó, những số Ngôn Ngữ đặc biệt gồm hai phần cũng sẽ được tiếp tục.

 

Phần I: Tiểu sử tác giả, tác phẩm đã in – chân dung tác giả qua ảnh chụp cùng phác họa của bè bạn hoặc tác giả tự họa.

Phần II: Phần thơ, văn tác giả tự chọn, đặc biệt chúng tôi đi trọn tập thơ “Thơ Ngắn Đỗ Nghê”, một thi phẩm chính tác giả và đa số người đọc ưa thích, ưu ái cảm nhận.

Phần III: Phần văn xuôi đi tiếp sau thơ. Tác giả Đỗ Hồng Ngọc tự nhận không giỏi hư cấu, nên ông chỉ cho giới thiệu một truyện ngắn duy nhất viết trước 1975; đa phần sáng tác còn lại là tùy bút, tạp ghi, tản mạn… Những bài viết này thường ngắn nhưng cũng xuất sắc như thơ, bởi qua đó những nhận xét tinh tế về cuộc sống, tình người, được ông phơi bày một cách đơn giản, nhưng sâu sắc như những bức ảnh chụp đủ chân tình, giàu dí dỏm. Mỗi tạp ghi là một cảnh sống linh động, chúng ta có cảm tưởng ông thật dồi dào vốn sống đời thường. Ông là một bác sĩ cao tay nghề, một người học Phật uyên thâm lại rất thích truyền đạt hiểu biết của mình theo một cách riêng. Tính ít nói cười nhưng sự nghiêm túc, được tâm hồn phóng khoáng giúp ông chơi thêm một trò vẽ vời nữa, cũng thi vị đậm đà không kém những bộ môn kể trên.

Bên cạnh đó, với ưu điểm thơ “hay” (xin gọi ngắn gọn như vậy) lại thường ngắn ngắn nên thơ ông được các nhạc sĩ Miên Đức Thắng, Phạm Trọng Cầu, Trương Thìn, Hoàng Hiệp, Khúc Dương Đặng Ngọc Phú Hòa, Nguyễn Thanh Cảnh, Hoàng Quốc Bảo, Vĩnh Điện, Tôn Thất Lan, Võ Tá Hân, Thuần Nhiên Nguyễn Đức Vinh… đồng cảm phổ thành ca khúc. Chuyện phổ thơ ông không nằm phong trào phổ cho có, phổ để in làm phụ bản. Thơ phổ nhạc của ông được đưa đến quần chúng thưởng ngoạn qua nhiều ca sĩ trình bày, trong đó có cả giọng ca rất được giới ưa thích nhạc thính phòng ái mộ, đó là tiếng hát của nữ ca sĩ Thu Vàng.

Phần IV: Tập trung những bài giới thiệu, cảm nhận… của rất nhiều cây viết chuyên nghiệp qua nhiều thời kỳ xuất hiện trên văn đàn.

Chân thành cảm ơn tác giả Đỗ Nghê  Đỗ Hồng Ngọc cùng tất cả nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, nhạc sĩ có tên, góp mặt trong cuốn sách này.

 

Luân Hoán

cùng nhóm chủ trương Ngôn Ngữ

…………………………………………….

Quý độc giả muốn có sách vui lòng
Liên lạc với Lê Hân: 
Cell: (408) 722-5626
eMail: han.le3359@gmail.com

 

Thuộc chủ đề:Một chút tiểu sử, Vài đoạn hồi ký

TRANG CHÂU: Chữ ‘’em’’ trong thơ Đỗ Nghê

18/05/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc 1 Bình luận

 

Chữ ‘’em’’ trong thơ Đỗ Nghê

Trang Châu

 

Kể từ thời Thơ Mới, hiếm nhà thơ trong đời làm thơ mà không hơn một lần dùng chữ em trong thơ của mình. Thông thường em là người yêu, người tình của một mối tình, công khai hoặc câm nín, hai chiều hay một chiều. Và hình dáng, màu sắc, âm vang của em cũng đổi thay theo thời gian, theo cảnh huống cùng nỗi lòng nhà thơ.

Tôi biết không nhiều về nhà thơ Đỗ Nghê, bút danh của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Thời tôi làm trưởng ban Thơ cho tờ Nguyệt San Tình Thương của sinh viên Y khoa Sài Gòn, từ đầu năm 1964 đến hết năm 1965, là năm cuối y khoa của tôi, thỉnh thoảng tòa soạn Tình Thương nhận được thơ của anh Đỗ Nghê. Có một bài thơ đã làm tôi nặng trĩu lòng sau khi đọc. Nhân vật trong bài thơ được tác giả trìu mến gọi là em. Nhưng em ở đây không phải là người yêu, người tình mà là một em bé sơ sinh. Em bé đó là ca đỡ đẻ đầu tiên của anh sinh viên Y khoa năm thứ 3 ở bảo sanh viện Từ Dũ. Đứa bé vừa chào đời được anh bác sĩ tương lai dự đoán cho một tương lai không mấy sáng sủa, với khung cảnh máu lửa của đất nước lúc bấy giờ:

 

“ Anh nhỏ vào mắt em thứ thuốc màu nâu

Nói là để ngừa đau mắt

Ngay lúc đó em đã không nhìn đời qua mắt thực

Nhớ đừng hỏi vì sao đời tối đen

 

Khi em mở mắt ngỡ ngàng nhìn anh

Anh cũng ngỡ ngàng nhìn qua khung kính cửa

Một ngày đã thức giấc với vội vàng, với hoang mang,

Với những danh từ đao to búa lớn

Để bịp lừa để đổ máu đó em

 

Khi niềm tin chỉ còn là nỗi đắng cay:

 

Thôi trân trọng chào em

mời em nhập cuộc

chúng mình cùng chung

số phận…

con người.’’

 

Bài thơ, ở một khía cạnh nào đó, có thể được xếp vào loại phản chiến vào thời điểm ấy.

Đỗ Nghê bước vào tuổi trẻ đầu nặng đầy thế sự, lòng nghẹn ngào, cay đắng với nỗi ám ảnh tang tóc gây nên bởi chiến tranh. Nhà thơ, xuyên qua người em, chẳng cần rõ trai hay gái, miễn là một em nhỏ, để nhắc nhở, để phụ họa cho thảm cảnh mà chính mình cùng nhân dân cả nước đang chịu đựng:

 

“ Em khóc đi em, khóc đi rồi anh dỗ

khóc nhiều hơn, khóc nhiều nữa đi nghen

Này tủi nhục với niềm đau nỗi khổ

của quê mình không đáng khóc sao em?“

 

Tuy vậy vẫn còn chút an ủi: Cái may mắn cho Đỗ Nghê, tác giả mấy bài thơ viết vào dạo đó và cả tôi, người chọn đăng mấy bài thơ ấy, không đứng ở đất phía bên kia.

Sống ở hải ngoại, sau mấy mươi năm, qua các diễn đàn, thấy thơ của Đỗ Nghê tái xuất hiện, bên cạnh những bài viết về Phật học, về thiền, về vô thường, về sắc không, về tứ khổ, diệt khổ. Về thơ, tôi tò mò muốn biết chữ em trong thơ Đỗ Nghê bây giờ đi về đâu. Em bây giờ của Đỗ Nghê có lúc là đại diện cho nhà thơ để anh gởi gắm nỗi niềm nhớ quê của mình:

 

‘’Em có về thăm Mũi Né yêu

Mười năm như một thoáng mây chiều

Mười năm vườn cũ chim bay mỏi

Áo trắng, chân mềm em hắt hiu.

Mũi Né ơi, người xưa đã xa

Mùa ơi, gió bấc nhớ không ngờ

Năm nay người có về ăn Tết

Có ngậm ngùi nghe chút ấu thơ?“

 

Mình xa quê hương thì mình nhớ. Người yêu xa thành phố cũ của hai người cũng làm nhà thơ cảm thấy mất mát để luyến tiếc chốn xưa:

``Thành phố nơi ta đã lớn lên

nơi ta hò hẹn buổi đầu tiên…“

“Thôi thế từ nay em sẽ xa

Nửa vòng trái đất cõi người ta

Mai sau dù có bao giờ nữa

Thành phố – lòng mẹ vẫn bao la.``

 

Tạm rời xa quê hương để đi tu nghiệp ở xứ người, em trong thơ Đỗ Nghê bây giờ là một thứ hương gây mùi nhớ. Cho nên món quà em tặng anh đầy hương vị, không phải hương vị từ em cho anh, mà hương vị qua em làm anh nhớ quê hương:

 

“Chiếc áo của em

Món quà em tặng

Chiếc áo lạ lùng

Có mùi biển mặn

Có mùi dừa xiêm

Có mùi cát trắng

Có mùi quê hương.“

 

Em trong thơ Đỗ Nghê ở đây chỉ còn là cái cớ để tác giả từ đó khơi tìm một hình ảnh khác bao la hơn:

 

“ Tôi sẽ về thăm quê em

Trìu mến tình dân miền biển

Tháng năm nghèo một con thuyền

Sóng khơi suốt đời yêu mến…“

 

Nhưng rồi cuối cùng Đỗ Nghê cũng phải đi theo lề phải với chữ em muôn thuở là người tình trong tình yêu nam nữ. Thơ tình của Đỗ Nghê thường đằm thắm, kín đáo nhưng cũng có lúc sôi nổi, bạo dạn, đôi khi pha chút lập luận có tính xác suất (probabilité) nghiêng lợi phía mình. Đây không biết có phải là cái tính hay cái tật của mấy chàng “toubib“ làm thơ:

 

“Lá chín vàng

 lá rụng về cội

Em chín vàng

chắc rụng

về anh.“

 

“Bởi em là riêng anh đó

Bởi anh là của em thôi

Như nắng là riêng của gió

Như biển là riêng của trời.“

 

Tuy vậy lập luận kiểu có tính xác suất đôi khi cũng đem lại âu lo cho nhà thơ: Nhận được thư người yêu không chịu mở ra xem ngay lại cất giữ mang về nhà mới đọc:

 

“Về nhà bó gối ngồi một mình

Sờ sờ nắn nắn thơ mong manh

Chắc chỉ đôi lời thăm hỏi vậy

Đọc chi cho thấy lòng buồn tênh.“ 

 

Cũng có đôi lúc nhà thơ nghe đời mình trống vắng, cô đơn khi tìm về chốn cũ thấy thiếu vắng người yêu:

 

“Ta về lối cũ

Nghe lòng lạnh băng

Thiếu em hoàng hậu

Ngai vàng như không.“

 

Hiếm lắm mới nhặt được một sợi buồn trên mái thơ tình của Đỗ Nghê:

 

“ Mới đó mà em đã cố nhân

Lòng đau như cắt hiểu gì không

Hoa vàng đã rụng đầy sân vắng

Tình cũng ngùi phai theo tháng năm.“

 

Nhưng nhìn chung, em mang vào cuộc đời nhà thơ niềm vui, hạnh phúc nhiều gấp bội so với nỗi buồn, nỗi khổ. Chính nhà thơ đã phải thốt lên lời cảm tạ:

 

“ Cám ơn em đến

Mùa xuân của anh

Hoa vàng nở muộn

Bên trời nắng hanh

Cám ơn em đến

Mùa xuân của anh

Nhịp đời bước chậm

Cho lòng còn xanh.“

 

“ Cám ơn em năm tháng

đã theo già cùng anh.“

 

“ Em mang biển mặn

lùa vào tay anh

Em mang rêu xanh

lùa vào ngực ấm

Em mang xuân thắm

lùa vào giá băng.’’

 

Để mong mỏi sự chăm sóc của người yêu, Đỗ Nghê tỏ ra hơi tham lam:

 

“Anh không có ngày sinh nhật

nên mỗi ngày

là sinh nhật của anh

Cám ơn em

nhớ đến anh

ngày sinh nhật.“

 

Nhà thơ còn táo bạo mang cả tôn giáo vào để dẫn chứng tình yêu của mình:

 

“Em tin có Chúa

ngự ở trên cao

còn anh tin Chúa

ngự ở trong nhau

 

Đưa em đi lễ

vầng trăng treo nghiêng

Em làm dấu thánh

anh làm dấu em.“

 

Bạo dạn khi cần nhưng đề cao nàng cũng đúng lúc. Viết tên nàng trên cát rồi nhờ gió cuốn đi, sóng cuốn đi để cho “tên em mênh mông đại dương“:

 

“Anh vẽ ngoằn ngoèo trên cát

không ngờ mà hóa tên em

Biển xanh, nắng vàng, sóng bạc

không ngờ cùng kéo nhau xem.“

 

Mặc dù ở đâu đó Đỗ Nghê có phát biểu chê những bài thơ sáng tác thời tuổi trẻ của mình là “nhà quê, na ná thơ tiền chiến. Thơ tình thì chẳng có gì đáng nói.“ Tôi cho đó là lời khiêm tốn của nhà thơ. Tôi nghĩ thơ hay, thì thời nào, dưới hình thức nào nó cũng vẫn hay.

Năm 1965, tôi có làm bài thơ tình ngắn:

“Nếu em không là Hồng, là Mai, là Cúc

thì xin gọi em là em

Người con gái phụng phịu trả lời: Em muốn

anh gọi em bằng… tên anh!“

Tài hoa và tên tuổi như Đỗ Nghê chắc không thiếu gì em xin gọi em bằng tên anh. Nhưng tôi tin người đầy Phật tính như Đỗ Nghê chắc chỉ cho một em lấy tên mình thôi.

 

Trang Châu

Montréal, 05/03/2024

(NGÔN NGỮ Số đặc biệt Đỗ Nghê – Đỗ Hồng Ngọc, tháng 5-2024)

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Vài đoạn hồi ký

NGUYỄN ĐỨC TÙNG: Đỗ Hồng Ngọc, Cuộc đời đầy kinh ngạc

17/05/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

 

Đỗ Hồng Ngọc, Cuộc đời đầy kinh ngạc

NGUYỄN ĐỨC TÙNG

 

Thơ làm chúng ta gần lại với nhau. Cảm hứng thơ ca của Đỗ Hồng Ngọc sinh ra từ sự hồn nhiên, thản nhiên, có phần phóng túng, nhờ thế anh gần với người đọc. Dù nghề nghiệp hoặc thói quen làm cho một người trở nên chừng mực và nghiêm cẩn đến đâu, khi làm thơ, người ấy buộc phải buông thả. Trong giây phút buông thả ấy, các giác quan tăng cường cảm xúc, thiết lập sự thân mật giữa người quan sát và sự vật, giữa người nói và người nghe. Vì thơ là các quan hệ bên trong, cái toàn thể, cái hiện tại. Một nhà thơ đến với người đọc với tất cả ngôn ngữ của chị ấy, anh ấy, tất cả quá khứ, khuyết điểm và ưu điểm, lòng thương xót, mang theo tất cả những thứ ấy, trọn vẹn, đến với chúng ta.

Sóng

Quằn quại

Thét gào

 

Không nhớ

Mình

Là nước

Thơ Đỗ Hồng Ngọc là tiếng kêu ngạc nhiên  trước cuộc đời, trước hạnh phúc và đau khổ, trước giản dị tầm thường và phép lạ. Đó là tiếng kêu nghệ thuật, nên được nén lại, kiểm soát. Thơ anh là hiện hữu, cái bây giờ, sự dừng lại của khoảnh khắc. Đỗ Hồng Ngọc chỉ ra cho tôi thấy một khoảnh khắc, làm tôi dừng lại bên anh, tiếp tục nhìn thấy nó lâu dài. Thơ anh là một hình thức của chú ý. Sự tập trung chú ý tạo ra tác phẩm sáng tạo. Nhờ lắng nghe mà anh nhìn ra cội rễ của tồn tại. Nhờ tập trung, chú ý đến các chi tiết mà thơ Đỗ Hồng Ngọc tạo nên sự thân mật giữa người viết và người đọc. Sự thân mật trong thơ là khoảng cách, khoảng cách ấy càng gần, sự tin tưởng lẫn nhau càng tăng lên.

Hội An còn ngái ngủ

Mái chùa ôm vầng trăng

Giật mình nghe tiếng chổi

Gà gáy vàng trong sương

Thơ trữ tình, vì vậy, không phải là lời kêu gọi, bản tuyên bố, mà là lời tâm sự, lời kể bên ngọn lửa ấm, sự im lặng khi câu chuyện ấy được kể xong. Thơ anh đầy chú ý lắng nghe. Mặc dù anh không thiên về sự mô tả chi tiết, vốn cũng không phải là điểm mạnh của thơ Việt, anh đến gần sự vật bằng  quan sát và linh cảm. Bài thơ “Đinh Cường vẽ Nguyễn Xuân Hoàng” là một bài thơ lạ, gần chất văn xuôi, ít sử dụng tu từ, giọng điệu ngang tàng. Thơ chống lại sự tiếp nhận tự động mà ta thường gặp trong ngôn ngữ nói hằng ngày, nó không ngừng thiết lập tình trạng tỉnh thức bằng sự ngạc nhiên: hình ảnh mới, các ý tưởng bất ngờ, cách sắp xếp lại các chữ. Đám đông độc giả có khuynh hướng chống lại sự làm mới của nhà thơ. Một người làm thơ yếu bóng vía có thể bị khuất phục dễ dàng bởi thẩm mỹ của đám đông, thói quen suy nghĩ của họ.

ôi trời ông Đinh Cường

vẽ Nguyễn Xuân Hoàng thời 60’ Đàlạt

rõ ra là một cô gái

dịu dàng hơn cả dịu dàng

 

cái thời 60’ Đàlạt

ai ngờ Nguyễn Xuân Hoàng mà rất gái

quá dễ thương

làm mê mẩn Đinh Cường

và, có thể… nhiều người khác nữa

Một nhà thơ có bản lãnh thản nhiên sử dụng các hình ảnh, lối nói của mình với tính cách độc đáo. Trong tiếng Anh có một khái niệm khó dịch là originality, có nghĩa là nguồn gốc, bản sắc, tính độc đáo riêng biệt. Tôi nghĩ thơ Đỗ Hồng Ngọc có tính chất ấy.

 

Đêm trên biển Lagi

tặng NNI

Sóng cuốn từng luồng trăng lại trăng

Đêm Hòn Bà dỗ giấc ai nằm

Phẳng lì bãi cát buồn hiu ngóng

Cao vút hàng dương quạnh quẽ trông

Đá cũ mòn rêu hoài đá Ngảnh

Nguồn xưa cạn nước vẫn Nguồn Chung

Về đâu mái tóc xanh ngày ấy

Câu hỏi ngàn năm có chạnh lòng?

Thơ cổ điển nhưng không cũ. Không có một bài thơ nào tồn tại độc lập. Dù được viết bởi ý định nào của tác giả, bài thơ là một giao điểm của đời sống và trí tưởng tượng, hiện tại và hoài niệm, cá nhân và cộng đồng, những quan hệ liên văn bản. Ngôn ngữ của thơ ca dù được viết dễ hiểu cách nào đều không thể đoán được, vì vậy người đọc cần chú ý đến mỗi chữ, mỗi âm.

Một trong những công việc của thơ là làm thay đổi đời sống thực, chuyển hóa nó, khiến cho chúng ta có thể nhìn thấy đời sống của chúng ta dưới một cách nhìn khác, trong một màu sắc khác. Mặt trời mỗi ngày một trở lại, không thay đổi, nhưng thơ làm cho mặt trời mới lại mỗi ngày. Điều đó cũng đúng cho khuôn mặt người yêu dấu: thơ làm cho nó mới hơn.

ngoài cái chợ ồn ào

mấy dãy phố thời trang dị hợm

quán ăn đầy ngõ hẻm

vài ngôi chùa trang nghiêm

và mấy trại hòm

Tập “Thơ ngắn Đỗ Nghê” đúng như tên gọi của nó, chứa những bài thơ ngắn, đôi khi như haiku. Xét về phương diện thể loại, thơ ngắn tự do là trường hợp cần chú ý. Trong những bài thơ ấy còn có câu chuyện kể. Anh là người kể chuyện thú vị, không nhiều lời. Những câu chuyện của anh gồm quan sát tinh tế, các ký ức mà dường như ai cũng có, câu chuyện đời thường, bằng một cách nào đó chúng đã đi vào thơ anh, chiếu sáng từ góc tối: sự rung động ban đầu, niềm thương xót đối với một người, sự suy nghĩ lúc ta dừng lại, sự hối hận, sự hài lòng. Làm công việc y khoa, chắc tác giả phải đối diện với nhiều cái chết, sự mất mát, thương đau. Tôi ngạc nhiên thấy anh ít viết về điều ấy, cái chết, cái mất, vết thương. Tôi nghĩ là người Việt đã đau khổ quá nhiều vì những thứ ấy, ở mức cá nhân và ở mức tập thể. Nhưng đó có thể là một chọn lựa có ý thức, cũng có thể chỉ là vấn đề cảm hứng, bạn không chọn đề tài, chúng tự chọn lấy tiếng nói. Các chi tiết cụ thể, góc nhìn, sự liên tưởng là quan trọng đối với việc đọc thơ Đỗ Hồng Ngọc. Anh có lối nói nồng nàn, say đắm, hài hước, bất ngờ:

Anh hôn đằng sau

Anh hôn đằng trước

Anh hôn phía dưới

Anh hôn phía trên

Chiếc áo của em

Thật dí dỏm, duyên dáng. Thời kỳ nào thì thơ cũng là sự trộn lẫn giữa cái mới và cái cũ, kế thừa những giá trị trong quá khứ và nói tiếng nói của hôm nay. Nhà thơ Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc, có lẽ không phải là người có ý định làm mới ngôn ngữ nhưng việc anh viết từ sớm và viết liên tục chứng tỏ anh tha thiết với thơ cũng như nhiều nhà thơ khác. Thơ tạo ra một không khí riêng biệt, có phần thân mật, riêng tư, nhưng góp phần làm phong phú tiếng nói của thơ hôm nay. Mỗi nhà thơ có cách ghi nhận và phản ứng đối với đời sống khác nhau. Trong khi giọng điệu của thơ mỗi ngày một thay đổi, ngôn ngữ cũng thay đổi, thì anh vẫn giữ được tiếng nói riêng mình, chung thủy với bản tính của mình, không chịu ảnh hưởng của người khác, nhưng cũng không cũ kỹ. Thực ra, Đỗ Hồng Ngọc sống cùng thời với rất nhiều sự kiện, tỏ ra quan tâm đến đời sống văn hóa xã hội. Trong thơ cũng vậy, tôi nhìn thấy ở đó nhiều khoảnh khắc khác nhau của đời sống, công việc chuyên môn, chia ly và đoàn tụ, mất mát và hân hưởng, tình yêu và sự tha thứ. Tôi không nhìn thấy ở đó những sự kiện lớn, chiến tranh và hòa bình, các vấn đề chính trị hay dân tộc gay gắt, vì vậy thơ anh đối với tôi có tính riêng tư, thân mật, trầm lặng. Đó là một loại thơ trữ tình cá nhân, với giọng điệu êm ả, cái nhìn nhân hậu đối với cuộc đời. Tôi tin rằng ngoài đời, anh cũng thế, một người hiền lành, sâu sắc, có cá tính nhưng từ chối tham gia các cuộc tranh cãi. Anh chứng tỏ lối viết điềm đạm chắc tay, nhưng lại phóng khoáng, và đôi khi bất cần. Làm được vậy, thật rất khó.

Ơi những con đường ta đã đi

Gia Long, Đồng Khánh mượt xuân thì

Chân run rẩy cát bờ Thương Chánh

Gió ở đâu về thơm bước khuya

Thơ anh có tính âm nhạc. Trong những bài thơ ngắn ấy, tính âm nhạc tinh tế hơn, nhưng nếu bạn đọc một cách đầy chú ý, chúng cũng thể hiện trong những bài thơ không có vần.

Cái nhìn của Đỗ Hồng Ngọc là cái nhìn có tính quan sát của một thầy thuốc, tuy vậy, anh không hề nhầm lẫn giữa thơ và các bài báo khoa học, như một số người có thể nhầm lẫn. Anh không mang những kiến thức uyên thâm của mình vào thơ, theo nghĩa sống sượng mà chúng nằm bên dưới các chữ tinh khôi, lành lặn, và đôi khi siêu thực. Cũng vậy thơ thiền của anh nhẹ nhàng, ngẫu hứng, không có ý răn dạy, khuyên bảo, không sử dụng nhiều từ ngữ Phật pháp. Sự tưởng tượng của Đỗ Hồng Ngọc là những liên kết có tính nhảy vọt từ truyền thống đến hiện đại, sự liên kết hình ảnh qua các thời gian khác nhau, nhưng thường anh vẫn trở về với hiện tại của đời sống.

Thư Cho Bé Sơ Sinh

Khi em cất tiếng khóc chào đời
Anh đại diện đời chào em bằng nụ cười
Lớn lên nhớ đừng hỏi tại sao có kẻ cười người khóc
Trong cùng một cảnh ngộ nghe em!

Anh nhỏ vào mắt em thứ thuốc màu nâu
Nói là để ngừa đau mắt
Ngay lúc đó em đã không nhìn đời qua mắt thực
Nhớ đừng hỏi vì sao đời tối đen.

Khi anh cắt rún cho em
Anh đã xin lỗi chân thành rồi đó nhé
Vì từ nay em đã phải cô đơn
Em đã phải xa địa đàng lòng mẹ.

Em là gái là trai anh chẳng quan tâm
Nhưng khi em biết thẹn thùng
Sẽ biết thế nào là nước mắt trong đêm
Khi tình yêu tìm đến!

Anh đã không quên buộc étiquette vào tay em
Em được dán nhãn hiệu từ giây phút ấy
Nhớ đừng tự hỏi tôi là ai khi lớn khôn
Cũng đừng ngạc nhiên sao đời nhiều nhãn hiệu!

Khi em mở mắt ngỡ ngàng nhìn anh
Anh cũng ngỡ ngàng nhìn qua khung kính cửa
Một ngày đã thức giấc với vội vàng với hoang mang
Với những danh từ đao to búa lớn
Để bịp lừa để đổ máu đó em…

Thôi trân trọng chào em
Mời em nhập cuộc
Chúng mình cùng chung
Số phận…
Con người…

Cuộc trò chuyện tưởng tượng, riêng tư, bình đẳng, nhưng gởi gắm nhiều suy nghĩ về xã hội, chiến tranh, đất nước, phận người. Đó là một bài thơ trữ tình- thế sự. Những suy tư của anh chuyển hóa thành xúc cảm. Một xúc cảm mạnh, nhưng được kiềm chế trong lời đối thoại- độc thoại.

Nhiều người than phiền rằng thơ Việt đã kết thúc. Đọc một người như Đỗ Hồng Ngọc, lặng lẽ viết, tôi tin thơ vẫn sống, vì nó chính là linh hồn của ngôn ngữ hôm nay. Thơ là tiếng nói riêng tư của tác giả, nhưng cũng là sự trao đổi trò chuyện giữa người viết và người đọc, lời tâm sự, sự tranh luận, quà tặng. Thơ giữ lại cho chúng ta những di sản của một thời đại, đời sống tinh thần, các giá trị văn hóa. Thơ Đỗ Hồng Ngọc là cuốn nhật ký về những năm tháng mà anh đã sống, trong một ngôn ngữ sống động như hơi thở, như đời sống thật ngoài kia. Thơ anh làm cho sự hiện hữu con người trở nên rõ rệt trước sự bôi xóa của thời gian. Tôi tin rằng một số bài thơ xuất sắc sẽ ở lại lâu dài trong lòng người đọc, chúng không chỉ là bức tranh của đời sống hôm nay, mà còn là sự cần thiết. Đôi khi anh cũng không tránh khỏi sự dễ dãi, và có những bài thơ hoặc câu thơ lặp lại một hình ảnh nào đó, hay mang dấu ấn, của người xưa:

Về thăm quê

Lâu không về thăm quê

Những người xưa biền biệt

Lũ trẻ lớn lên

Ngơ ngác

“Ủa, chú là ai?

Làm sao chú biết…?”

 

Thơ anh sự kết hợp tự sự và trữ tình. Câu chuyện trong thơ của anh làm tăng sự hiểu biết của chúng ta đối với người khác, về những tương tác giữa người và người, cho người đọc nhìn thấy một thế giới, cho phép họ đi xuyên qua đám đông, ghi nhớ, kể lại, trong khi đó thơ trữ tình tập trung vào một tình huống, nén chặt nó lại trong thời gian, làm bộc lộ các xúc cảm về nó, nhờ vậy đọc thơ anh vừa thấy được một thế giới mà chúng ta đang trải qua, vừa là những giây phút bồn chồn của đời sống.

Chỉ quanh quẩn đâu đây

Cuộc đời đầy sinh bệnh lão tử

Lòng yêu đời trong anh thật lớn, cái nhìn thanh thản đầy chất triết lý cũng sâu đậm. Thơ Đỗ Hồng Ngọc thường ở thể tự do, các ý tưởng được nén lại trong một thứ ngôn ngữ khá là phóng túng:

Còn nhớ không

Căn nhà ốm nhom khu Bàn cờ

Bạn từng trú mấy hôm

Đi coi mắt vợ

Tôi cũng rành khu Bàn Cờ. Tôi quen một thiếu nữ ở đó. Tôi thường chở nàng đi ăn trong một quán hủ tiếu đâu đó, không còn nhớ, nhưng câu thơ của anh làm tôi nghĩ ngợi.

Thơ mang cho người đọc sự tự do để nhìn thấy thế giới, để đáp ứng, để sửa lỗi, để cầu nguyện. Thơ Đỗ Nghê không có những tham vọng lớn lao, anh không đề cập đến các vấn đề thời sự, không có những đề tài nóng bỏng, đó là một loại thơ cá nhân, riêng tư và âu yếm, và suy nghĩ. Thơ anh giản dị nhưng không hoàn toàn dễ hiểu, vì anh đang cố gắng nói một điều gì không thể nói được. Đọc thơ anh cũng phải đọc giữa các hàng chữ. Thơ là xúc cảm nhưng thơ cũng là phân tích.

 

ngày đó mới thôi…

bọn mình rớt mồng tơi,

dĩa bánh cuốn ly café đã khó

tôi nằm chờ giải ngũ

bạn trốn trại về…

 

khu mình chẳng có gì vui…

ngoài mấy nhà bảo sanh

một nhà thương thí

phòng mạch bác sĩ

văn phòng luật sư…

nhà thuốc tây thuốc bắc

 

khu mình chẳng có gì vui

ngoài cái chợ ồn ào

mấy dãy phố thời trang dị hợm

quán ăn đầy ngõ hẻm

vài ngôi chùa trang nghiêm

và mấy trại hòm…

 

đâu có cần ra khỏi cổng thành

đâu có cần vượt sông anoma

chỉ quanh quẩn nơi đây

cũng đầy sanh bệnh lão tử…

 

ngày đó mới thôi,

căn nhà ốm nhom khu bàn cờ

bạn từng trú mấy hôm

đi coi mắt vợ…

rồi bảo sanh

rồi bệnh viện

rồi nursing home…

 

cuộc đời đầy kinh ngạc

phải không?

Đỗ Hồng Ngọc làm chủ giọng nói của mình, tiết kiệm chữ, chỉ nói vừa đủ, nhường lời cho sự hiểu biết và diễn dịch của người đọc. Thơ anh vì vậy khá kén người đọc. Thơ Việt Nam trong nửa thế kỷ qua viết về nhiều đề tài, nhưng giấu phía sau mình nó là chiến tranh, chia rẽ, bạo lực. Đó là một nền thơ đau khổ. Nhưng đó cũng là một nền thơ hướng tới tự do biểu hiện. Có một nỗi buồn mênh mông, kín đáo, trong thơ anh:

Mỗi năm

Mỗi người

Thêm một tuổi

Chỉ mình con

Mãi mãi

Tuổi đôi mươi

Vết thương khó nhận ra.  Trước khi đọc tập “Thơ ngắn”, tôi nghĩ rằng anh sẽ viết nhiều về công việc chuyên môn, nhưng không, anh dễ dàng tách ra khỏi công việc thực, tự cho phép mình hoàn toàn thuộc về thơ ca. Bởi vì thơ cũng như những hình thức văn chương khác, trước hết đến từ sự tưởng tượng. Sự tưởng tượng trong khi mang người đọc đi xa thì lại mang họ trở về, với cái nhìn mới mẻ. Thơ Đỗ Nghê, trong những bài xuất sắc nhất của anh, là những bài thơ có sức mạnh làm mới.

Có nhiều cách để làm mới. Có những người có ý định, với những tuyên ngôn, chủ trương, nhưng cũng có những người làm mới lặng lẽ bằng chính tác phẩm. Những bài thơ ngắn của anh là sự mô tả đời sống hàng ngày, những chi tiết bề ngoài có vẻ tầm thường, một kỷ niệm, với giọng điệu chừng mực, triết lý, hài hước.

Tìm kiếm

 Anh không sống

Anh đợi sống

Anh để dành anh

Anh chắt mót em

Anh cắt xén niềm vui

Anh gậm nhấm nỗi buồn

Anh tìm kiếm

Một điều anh chẳng biết

Chính là bằng cái nhìn của tác giả mà thế giới trở nên thân mật hơn, gần gũi hơn, đầy chiêm nghiệm. Thơ trữ tình ngày càng được mang gần tới cuộc đời thường nhật, va chạm với những tình tiết và số phận nhỏ bé, đi tìm sự cao thượng trong những thấp kém, tính chất huyền bí của đời sống trong sự quen thuộc tầm thường. Thơ vì vậy ngày càng ngoại biên, địa phương, kỳ dị, thậm chí gồm những tiếng lóng. Không có gì là vĩnh cửu, không có một lý thuyết nào là chân lý cuối cùng, không một thần tượng nào không sụp đổ, đời sống trở nên sâu sắc hơn vì vậy, vì chúng ta đối diện với cái chết. Vì chúng ta yêu mến đời sống này, ca ngợi tính chất bình thường của nó, chống lại cái vĩ đại và các đại tự sự bằng những quan tâm nhỏ nhặt, nhưng cần thiết, vừa thực vừa huyền ảo, chúng ta sống vì chúng ta nhớ lại, vì chúng ta nghĩ đến.

 

Nguyễn Đức Tùng

(NGÔN NGỮ số đặc biệt Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc, tháng 5/2024)

 

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định

Trịnh Y Thư: Cảm nhận nhân đọc “thơ ngắn đỗ nghê”

17/05/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Cảm nhận nhân đọc “thơ ngắn đỗ nghê”

Trịnh Y Thư

 

1.

Tôi thích đọc “thơ ngắn” của Đỗ Nghê. Những bài thơ “ý tại ngôn ngoại,” đọc đi đọc lại, mỗi lần đọc đều nhận ra thêm một cái gì mới, khác, mở ra những chiều kích bát ngát hương thơm. Hãy giở trang đầu tiên của tập thơ, bài Trái đất, cả bài thơ chỉ có vẻn vẹn sáu từ:

 

Giữa đêm

Thức giấc

Giữa ngày…

Boston, 1993

 

Từ chìa khóa để hiểu bài thơ là “Boston,” mặc dù nó chỉ là phụ chú cho bài thơ. Giữa đêm thức giấc, bên kia nửa vòng trái đất là giữa ngày, chợt bàng hoàng tỉnh giấc, thao thức nỗi nhớ nhà, chợt thấy cô đơn, ôm nỗi sầu vạn cổ, thấy cái tôi bé nhỏ không một chút trọng lượng lọt thỏm giữa vũ trụ bao la.

Tứ thơ cô đúc, được nén chặt đến cực độ trong sáu từ, đột ngột phóng ra như một tia chớp lóe, để người đọc mặc tình buông ra từ trí tưởng của mình những cảm xúc bát ngát diệu kỳ.

Trên bước đường lữ thứ của cuộc hành trình đời người, chúng ta ắt hẳn phải có lúc cảm thấy cùng một tâm trạng với bài thơ. Bài thơ chỉ có sáu từ sao lại có sức mạnh truyền tải cảm xúc mạnh mẽ đến thế!

Ý thức rất rõ về sự hữu hạn của vật thể hữu hình và tính vô thường của kiếp nhân sinh, thơ Đỗ Nghê chuyển hóa bi kịch đời sống thành những cung bậc cảm xúc đẹp buồn, trữ tình. Những dấu vết của đau thương, tan rã, chia lìa gần như được xóa nhòa để cái đẹp – dù là cái đẹp bi ai – thăng hoa thành nghệ thuật, và sau cùng đạt đến cõi như nhiên, tĩnh tại.

Từ nỗi đau xót như nhát dao cứa sâu vào da thịt:

 

Mỗi năm

Mỗi người

Thêm một tuổi

Chỉ mình con

Mãi mãi

Tuổi đôi mươi…

(La Ngà 3)

 

Nỗi đau xót ấy, như được sưởi ấm bằng những đốm lửa yêu thương, biến thành nỗi buồn man mác nhưng dịu ngọt:

 

Con cài bông hoa trắng

Dành cho mẹ đóa hồng

Mẹ nhớ gài lên ngực

Ngoại chờ bên kia sông…

(Bông hồng cho mẹ)

 

Những câu thơ đẹp, vì được kết tinh một cách ưu ái và trang trọng từ trái tim, từ trái tim người làm thơ sang thẳng trái tim người đọc, không cần qua một lăng kính hay một bộ phận chắt lọc nào. Nếu những cụm từ như “bông hoa trắng,” “đóa hồng” được dùng như một hoán dụ, thì hoán dụ ấy cũng chẳng thể ngăn cản cảm xúc dạt dào dâng lên như sóng vỗ tràn bờ. Thực chất, thơ Đỗ Nghê ít sử dụng ẩn dụ hoặc hoán dụ, mà phần nhiều là những câu nói (vâng, thơ là tiếng nói, tiếng nói tinh tuyền nhất) rất đơn sơ, rất thật và rất đậm tính người.

Có gì “người” hơn những câu thơ này?

 

Mùa xuân mừng tuổi thơm tho áo

Nắng cũng vàng phai ngày cũng xa

Anh thương nhớ quá làm sao nói

Gọi tên em vang động gốc cây già…

(Quê nhà)

 

Nó là tiếng kêu của muôn loài sống trên mặt đất, tiếng chim gọi nhau buổi ngày nắng tắt trên đầu non, tiếng kêu trầm thống của loài cá voi dưới mặt nước đại dương sâu thẳm. Nó là chất keo sơn giữ cho cuộc sống này bền chặt. Không có nó, thế giới vỡ tung mất thôi, và có vẻ như nó đang vỡ thật. Một mai nếu để mất nó, chúng ta sẽ rơi vào hố thẳm tuyệt vọng, vô phương cứu vãn, và linh hồn chúng ta sẽ mãi mãi trầm luân trong cõi huyền tẫn mịt mù, không ai có thể chuộc tội cho chúng ta, ngay cả người đóng đinh trên núi Sọ.

Vâng, tôi xin bắt chước nhà thơ, ngày xuân “gọi tên em vang động gốc cây già.”

 

2.

 

“Nước”, “sóng”, “sông”, “biển” là những thi ảnh xuất hiện nhiều trong thơ Đỗ Nghê. Trong bài thơ Nước – gồm 20 câu, một trong những bài thơ dài toàn tập thơ – thi sĩ vẽ hành trình của nước len lỏi qua nghìn dặm nẻo đường núi non sông lạch, thậm chí “từ cơn gió thoảng, từ làn mây trôi,” chỉ để bâng khuâng buông ra một suy nghiệm có tính siêu hình:

 

Nước vẫn muôn đời

Không đi chẳng đến

Ai người nỡ hỏi

Nước đến từ đâu?

Ai người nỡ hỏi

Nước trôi về đâu?…

 

Nước, trong ngữ cảnh bài thơ, là một hoán dụ ám chỉ khái niệm Duyên khởi và tính Không trong Phật giáo. Nước “không đi chẳng đến,” phải chăng ám chỉ khái niệm “vô thỉ vô chung” vốn chủ yếu liên quan đến sự hiểu biết về thời gian, sự tồn tại và quan hệ nhân quả.

Duyên khởi khẳng định rằng mọi hiện tượng phát sinh đều phụ thuộc vào các hiện tượng khác. Nó mô tả một chuỗi nhân quả, trong đó mỗi mắt xích phụ thuộc vào mắt xích trước đó, dẫn đến sự phát sinh của các hiện tượng tiếp theo. Theo quan điểm này, không có điểm bắt đầu hay điểm kết thúc biệt lập, độc lập đối với bất cứ điều gì trong chu kỳ tồn tại. Mọi thứ đều có mối liên hệ với nhau và phụ thuộc lẫn nhau.

Còn khái niệm tính Không thì nhấn mạnh đến sự thiếu vắng của bản chất nội tại cố hữu của sự vật. Sự vật không có sự tồn tại cố hữu. Sự tồn tại của chúng phụ thuộc vào các yếu tố khác. Do đó, khởi đầu hay kết thúc của tồn tại trở nên vô nghĩa. Thay vào đó, sự tồn tại trải qua vô tận các chu kỳ lặp đi lặp lại gồm có sáng tạo, hủy diệt và tái sinh (mà ta gọi là luân hồi). Trong những chu kỳ này, không có điểm bắt đầu hay điểm kết thúc cuối cùng.

Nó chính là “nước” của Đỗ Nghê: Không đi chẳng đến.

Theo Tứ Diệu Đế, khổ đau là cố hữu do tham ái và vô minh. Tái sinh được xem là sự tiếp nối của vòng đau khổ này cho đến khi người ta đạt được giải thoát (niết bàn). Theo nghĩa này, tồn tại được xem là không có khởi đầu, với khả năng giải thoát đánh dấu sự kết thúc của vòng tái sinh.

Hiểu được bản chất của “nước” là hiểu được chu kỳ của tồn tại, là hiểu được con đường dẫn ta đến giải thoát. Tôi đồ nhà thơ Đỗ Nghê chỉ muốn nói có bấy nhiêu. Một điều vô cùng giản dị mà sao chẳng mấy ai thực hiện nổi!

Khái niệm “Sắc tức thị không, Không tức thị sắc” còn được thi sĩ nhắc lại trong bài thơ Có không:

 

Tràn vào khắp ngả

Đất trời mênh mông

Nhẹ như không có

Có mà như không…

 

Thơ Đỗ Nghê thấm đẫm mùi Thiền, rất nhiều bài trong tập thơ mang phong vị Thiền học, nhưng nó là cái Thiền giúp ta thong dong đi vào phố chợ, nhập cuộc trần ai, mà lòng an nhiên như đang thảnh thơi dạo bước trên con đường mòn giữa cánh đồng hoa lá:

 

Duyên sinh vô ngã

Ngũ uẩn giai không

Từ đó thong dong

Thõng tay vào chợ…

(Vè thiền tập)

 

Bởi thi sĩ hiểu rõ chân lý sinh diệt của vũ trụ tuần hoàn, từ cát bụi, ta là ta hôm nay, ta là “đất động” hay “sóng thần,” nhưng rồi một ngày nào đó không xa, ta lại trở về cát bụi:

 

Đất động ta cũng động

Sóng thần ta cũng sóng

Giật mình chợt nhớ ra

Vốn xưa ta là đất…

(Đất)

 

3.

 

Một người làm thơ trữ tình như Đỗ Nghê ắt hẳn không thể nào dửng dưng với đất nước quê hương mình. Quê hương của ông là biển, là sông, là hồ, là cát, là cây, là đá, tất cả hòa quyện trầm mặc trong thơ. Các địa danh xa lạ với nhiều người nhưng thân thương với thi nhân, như hòn Bà, đá Ngãnh, được đem vào thơ, tái hiện hoài hoài trong những giấc mơ, hay một ký ức không thể bào mòn.

Tôi đặc biệt yêu thích bài Hội An sớm:

 

Hội An còn ngái ngủ

Mái chùa ôm vầng trăng

Giật mình nghe tiếng chổi

Gà gáy vàng trong sương…

 

Như một khúc Đường thi. Thi ảnh, tuy cổ điển, nhưng đẹp não nùng. Và, chao ơi, tiếng chổi. Sao lại tiếng chổi từ trong sân chùa một cách mơ hồ vọng ra? Sao không là tiếng tụng kinh, tiếng chuông, tiếng mõ vào buổi sớm? Chính sự bất ngờ ấy, đánh động tâm hồn khiến thi nhân giật mình, đã làm tăng thú vị khi đọc bài thơ. Bất ngờ hơn chuyện ông Trương Kế lúc từ Phong Kiều bước xuống thuyền nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn vọng lại. Bài thơ của Đỗ Nghê là bức tranh hiện thực được vẽ bằng bốn câu thơ năm chữ.

Và tiếng gà. À, thì ra ngôi chùa chẳng ở đâu xa mà nằm gần kề một thôn xóm quê nghèo. Nó cho ta cảm giác ám áp, gần gũi, thân thương. Cụm từ “vàng trong sương” là một thủ pháp tu từ mỹ học. Ở đây nó là điểm nhấn như điểm nhấn trong hội họa, để từ đó người đọc thơ có thể vin vào, đoạn phóng chiếu ra tổng thể một cảnh tượng lung linh bóng hình thật đẹp, gồm có cả hình ảnh lẫn ảo ảnh. Hình ảnh là ánh tinh quang nhạt nhòa trong sương sớm. Ảo ảnh là một thôn làng xa xôi rơi rớt trong mớ ký ức ngổn ngang buồn nhớ.

Ngôi chùa ở Hội An của Đỗ Nghê thân quen, gần gũi trong một tâm trạng cảm hoài nhưng một tâm thế u tĩnh, yên bình. Ngôi chùa Hàn Sơn của Trương Kế thì xa lạ, trống vắng trong một cảm giác bất an, mông lung, thậm chí bồn chồn, hoang mang, lạc lõng.

 

4.

 

Tình yêu là đề tài trong thơ của gần như mọi thi sĩ đông tây kim cổ. Tình yêu trong thơ Đỗ Nghê là một thứ tình yêu đằm thắm, nhẹ nhàng. Bạn đừng tìm kiếm những tứ thơ nồng cháy nóng bỏng, khốc liệt trong thơ ông. Ngôn ngữ tình yêu là những nét chấm phá thi vị. Và ý nhị, thâm trầm:

 

Cảm ơn em sợi bạc

Cảm ơn em sợi hung

Cảm ơn em năm tháng

Đã theo già cùng anh.

(Theo già)

 

Hay:

 

Lá chín vàng lá rụng về cội

Em chín vàng chắc rụng về anh…

(Lá)

 

Tôi thích những vần thơ tình nhẹ nhàng của Đỗ Nghê, bởi dù trong xa vắng, tình yêu của thi sĩ vẫn đẹp. Tháng năm trôi qua, đôi khi chạnh lòng nhớ lại kèm theo một chút bùi ngùi thương nhớ:

 

Hoa vàng đã rụng đầy sân vắng

Tình cũng ngùi phai theo tháng năm…

(Cố nhân)

 

Lòng còn vương vấn dù thời gian dâu biển bao mùa đã qua. Chẳng còn gì để nhớ, để thương… Không, hình như vẫn còn… Và chỉ chừng đó thôi đã đủ cho “ta” bồi hồi sung sướng:

 

Trái thông khô rớt vèo chiều tím

May mà còn ánh mắt dao cau…

(Tím)

 

Hình ảnh “bạo liệt” nhất trong thơ Đỗ Nghê là bài sau:

 

Anh đọc bài thơ tình

Em ngồi nghe lặng thinh

Anh đọc thêm bài nữa

Em vẫn ngồi lặng thinh

Anh buồn không đọc nữa

Em chồm lên hôn anh

Như dổ dầu vào lửa…

(Thơ tình)

 

Và, không kém quan trọng, tình yêu trong thơ Đỗ Nghê bao giờ cũng hòa quyện với tình yêu quê hương đất nước, với biển, cát, sóng, trời:

 

Anh… ngoằn ngoèo trên cát

Không ngờ mà hóa tên em

Biển xanh nắng vàng sóng bạc

Không ngờ cùng kéo đến xem…

 

Tình yêu trong thơ Đỗ Nghê là thứ tình yêu phổ quát, đẹp muôn đời, đáng ca tụng mãi mãi, thế hệ nào cũng có thể liên kết cá thể mình vào được. Ngôn ngữ ca ngợi tình yêu của thi sĩ giản dị, chân thành, biểu hiệu một tấm lòng thương quý dành cho món quà quý giá nhất Thượng đế ban cho loài người. Một món quà như thế mà hình như chúng ta đang đánh mất nó, đang để nó vuột khỏi tầm tay. Một mai không còn tình yêu nữa, chúng ta sống vô cảm, vô tính như một robot AI hay một con người văn minh, chỉ biết có khoái lạc nhục dục và soma gây mê, như Aldous Huxley miêu tả trong cuốn tiểu thuyết Brave New World của ông, thì liệu lúc đó con người có còn là con người nữa không? Đọc thơ tình Đỗ Nghê để giữ gìn, trân quý món quà Trời cho đó, xin bạn đừng bao giờ đánh mất.

 

5.

 

Ngôn ngữ thơ của Đỗ Nghê, nói chung, mang phong cách truyền thống. Cấu trúc và thi pháp cổ điển. Bởi thế, nhạc tính và cú điệu trong thơ du dương, trầm lắng.  Đêm trên biển Lagi là một bài thơ với niêm luật chỉn chu theo đúng tinh thần Đường thi. Ông không tìm kiếm sự cách tân trong thơ mình. Kỹ thuật được ưa chuộng bởi các nhà thơ cách tân, như thủ pháp đặt cặp phạm trù/ thi ảnh tréo ngoe liền kề, không hề thấy trong suốt thi tập. Chữ nghĩa ông thâm trầm, dung dị. Ông không nệ chữ, không chuộng sử dụng những từ lạ, hoa mỹ, không vắt dòng vô cớ, không tra tấn người đọc bằng những ký hiệu rối rắm, ngớ ngẩn. Nhưng chữ nghĩa của ông là thứ chữ nghĩa có trọng lượng và buộc người đọc thơ phải suy ngẫm, liên tưởng, để trèo từ tầng chữ nghĩa lên tầng cảm xúc của thơ, để khám phá, để đắm chìm vào những khung trời, trong đó tâm hồn mình được vuốt ve, yên ủi.

Tuy vậy, đó không phải loại thơ “khẩu khí” vốn đè nặng thi ca Việt Nam suốt mấy trăm năm qua và phần nào tiếp diễn cho đến ngày hôm nay. Thơ ông là tiếng nói, tiếng nói thầm thì nhưng trong veo và có sức mạnh chuyển tải cảm xúc, biểu hiệu cho một tâm hồn thơ giàu suy cảm.

Có thể có kẻ thấy thiếu vắng một ý thức lịch sử, xã hội hay chính trị trong thơ Đỗ Nghê, thiếu cả những thao thức, khao khát nội tâm, do đó, họ biện biệt, thơ thiếu chất sống, không tiếp cận với đời sống con người, thân phận con người, vốn là cơ bản cho tất cả các thao tác văn học nói chung, thơ nói riêng.

Tôi phản bác lập luận này. Đồng ý, thơ phải có một “đời sống thơ,” nhưng đời sống ấy không phải sinh ra để gồng gánh những trọng trách như minh họa kỷ nguyên lịch sử, miêu tả xã hội, bảo vệ ý thức hệ – dù là một ý thức hệ tốt đẹp – như Milan Kundera từng phát biểu nhiều lần. Mượn lời Kundera, tôi có thể nói là, thay vào đó, thơ tự cho nó một nhiệm vụ nói lên những điều “chỉ thơ mới nói được.” Ngôi nhà chữ nghĩa của thơ vốn ảo diệu, khó vào, thông thường chỉ mở lối cho người đọc thơ đi vào bằng con đường trực cảm hoặc linh cảm, thậm chí thần cảm. Khoác chiếc áo sứ mệnh nặng khôn kham lên thơ chỉ làm thơ thêm tội nghiệp và giết chết thơ.

Ý thức rất rõ về điều đó, nhà thơ Đỗ Nghê đã không khoác chiếc áo sứ mệnh lên thơ mình.

Nhưng “đời sống thơ” trong thơ Đỗ Nghê là gì, và ta phải hiểu như thế nào?

Nhờ thấm đẫm Thiền vị, như đã nói bên trên, thơ Đỗ Nghê thắt buộc sự hiện hữu của con người vào thế giới xung quanh, và quan trọng hơn, tìm ra được quan hệ hài hòa giữa sự hiện hữu ấy với thế giới. Con người và thế giới không là chủ thể-khách thể như được hiểu theo ý nghĩa triết học cổ điển, mà là một tương tác giao thoa. Triết học Hiện sinh đặt vấn nạn chúng ta bị ném ra ngoài thế gian này mà không biết tại sao. Chúng ta giống nhân vật thần thoại Hy Lạp Sisyphus, bị kết án vĩnh viễn lăn tảng đá lên đỉnh núi chỉ để nhìn nó lăn xuống lần nữa. Thơ Đỗ Nghê không thắc mắc chuyện đó. Thơ ông cho ta thấy khả năng con người nhận thức được thực tế của hiện tồn, để từ đó biết trực diện với khổ đau và cái chết, đối đầu với những thách đố của đời sống dựa trên sự thông hiểu sâu sắc về bản chất của hiện tồn.

Nhưng không thể gọi thơ Đỗ Nghê là thơ triết học. Đó là thơ. Thơ với tất cả những tố chất cố hữu của thơ. Bởi thơ ông không đưa ra một suy niệm tiên nghiệm nào, và bởi thơ đi thẳng từ trái tim thi nhân vào trái tim người đọc.

Đọc “thơ ngắn đỗ nghê” giữa một thế giới đảo điên như hôm nay, giữa một cuộc sống đầy gian truân, trắc trở, với tôi, là một hạnh phúc.

 

– Trịnh Y Thư

(Ngôn Ngữ số đặc biệt Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc, tháng 5/2024)

 

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

Thư gởi bạn xa xôi (5.2024)

15/05/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc 1 Bình luận

 

Thư gởi bạn xa xôi (5.2024)

“Nha Trang… ngày về”

Bạn biết không, bà xã mình thường “cằn nhằn” sao cứ đi hoài đi miết vậy, hết Huế tới Phú Yên, Mũi Né,  La Gi, La Gàn, rồi Long Thành, Phan Thiết… Mình bèn “phản biện” bây giờ còn không đi, đợi hết đi nổi mới đi hay sao? Vậy đó, bạn thấy có lý không?

Cao tốc Saigon – Nha Trang vừa làm xong, phải đi cho biết chớ. Nghe nói thay vì đi 9, 10 tiếng như xưa, nay đã rút ngắn còn 5 tiếng thôi. Nghe nói cao tốc mà chưa có chỗ dừng nghỉ, vệ sinh, nên người ta phải nhảy rào, nay mới được dựng tạm mấy chỗ. Phải đi cho biết chớ.

Vậy là lên đường. Đúng là cao tốc có dễ đi hơn trước, nhanh hơn trước, chui mấy đường hầm cũng ngộ, đến Nha Trang chỉ mất hơn 5 tiếng thiệt. Ghé nhà hàng “Nha Trang xưa” ăn cơm xem sao. Có mấy món Bà ngoại làm trong thực đơn. Có ao sen, có chuối, có cau, có cầu khỉ… Ôi, đông khách quá.

Nha Trang thấy lạ hoắc. Đường xá thênh thang. Cũng còn Ga xe lửa. Nhà thờ đá. Nhứt định bắt bác tài phải chạy ra biển cho mình coi một chút. Ôi, 4 mùa đã khác, không còn các ki ốt, hàng quán… nào nữa. Chỉ thấy khách sạn cao ngút chen chúc dày đặc. Nhớ năm 1960, mình từng đi xe lửa ra Nha Trang một mình, tìm người bạn học Võ Tánh không gặp bèn cỡi quần áo nhảy ùm xuống nước tắm một mình rồi leo lên xe lửa về lại Saigon. Bây giờ đèo Rù Rì cũng không còn. Cầu Đá thì vắng vẻ… Chỉ còn khu Du lịch là náo nhiệt xí xô xí xào, tây đầm, âu á… Tự nhiên thấy bơ vơ, lạc lõng. May sao, chùa Long Sơn còn đó với tượng Phật vĩ đại trên đồi cao. Phía sau là chùa Hải Đức, nơi ngày xưa có thầy Tuệ Sỹ, Ni sư Trí Hải, các văn nhân Quách Tấn, Võ Hồng, Phạm Công Thiện… thường lui tới. Nay còn có thầy Phước An.

Ra Hòn Chồng uống Cafe. May sao còn có vài chỗ như Hòn Chồng có cafe fin. Còn hiện nay ở đâu cũng thấy toàn cafe máy. Bãi Hòn Chồng đẹp, thân thiện, đông vui. Tắm cái chớ. Uống dừa ba nhát cái chớ.

Rồi thăm bạn bè. Còn chẳng mấy. Khuất Đẩu & Huyền Chiêu ở Ninh Hoà, vợ chồng Võ Tấn Khanh ở Phan Rang… Ai cũng kêu con cháu đi khắp nơi, chỉ còn hai ông bà già lui cui.

Trên đường về, mình không đi cao tốc nữa mà đi Quốc lộ 1 để qua Cam Ranh, Phan Rang, Cá Ná… quen thuộc.

Gởi bạn vài tấm hình coi vui nhe.

Chùa Long Sơn, Nha Trang mùa Phật Đản.

 

 

 

Tượng Phật Thích Ca trên đồi cao, sau chùa Long Sơn.

 

 

Bãi biển Hòn Chồng

uống dừa ba nhát

 

Tắm cái chớ! Ôi, nước thiệt ấm.

 

 

Khuất Đẩu và Đỗ Hồng Ngọc (Ninh Hoà, 9.5.2024)

Cafe với Khuất Đẩu & Huyền Chiêu ở Ninh Hoà (9.5.2024)

Võ Tấn Khanh

Ngọc, Bích, Trinh, Khanh, nhà VTK “ở một nơi nắng như Rang mà gió như Phang”, may còn mấy trái xoài xanh… (Phan Rang 11.5.2024)

Bãi biển Cà Ná: “… mình tôi phơi nắng trưa, tôi đi tìm con ốc, bơ vơ nằm trên cát…” (11.5.2024)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc.

Thuộc chủ đề:Ghi chép lang thang, Già ơi....chào bạn, Vài đoạn hồi ký

  • « Chuyển đến Trang trước
  • Trang 1
  • Interim pages omitted …
  • Trang 4
  • Trang 5
  • Trang 6
  • Trang 7
  • Trang 8
  • Interim pages omitted …
  • Trang 123
  • Chuyển đến Trang sau »

Thư đi Tin lại

  • Lịch “Trò chuyện, giao lưu…”
  • Lại đính chính: “SAIGON BÂY GIỜ”
  • ĐÍNH CHÍNH: BSNGOC không phải là BS ĐỖ HỒNG NGỌC
  • Đính chính: BS NGỌC không phải là Bs Đỗ Hồng Ngọc
  • bsngoc đã lên tiếng đính chính
  • Thư cảm ơn và Đính chính về FACEBOOK Bác sĩ NGỌC
  • ĐÍNH CHÍNH: Bài viết "TÀN NHẪN" không phải của Bs Đỗ Hồng Ngọc

PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG

Bs Đỗ Hồng Ngọc với Khoá tu “Xuất gia gieo duyên” tại Tu viện Khánh An.

Hỏi chuyện Học Phật với Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Bản dịch tiếng Đức “Một Ngày Kia… Đến Bờ”

CON ĐƯỜNG AN LẠC Bài 6: Học cách Phật dạy con

Minh Lê: Đọc và Cảm “Một ngày kia… đến bờ”

Thăm Sư Giới Đức Triều Tâm Ảnh

Nguyên Cẩn: Đọc “Một ngày kia… đến bờ “của Đỗ Hồng Ngọc

“MỘT NGÀY KIA… ĐẾN BỜ” Tuỳ bút Đỗ Hồng Ngọc

Từ góc nhìn “Phê bình sinh thái” về bài thơ “Rùng mình” của Đỗ Hồng Ngọc

MỘT NGÀY KIA…ĐẾN BỜ V2

Xem thêm >>

Chuyên mục

  • Một chút tôi
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy

Bài viết mới nhất!

  • Thư gởi bạn xa xôi (tháng 12/2025)
  • Trò Chuyện với Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc về Tình Yêu và Cuộc Sống
  • Lương Thư Trung (Hai Trầu): TUỔI GIÀ THỬ ĐỌC “CHUYỆN HỒI ĐÓ” (ĐHN)
  • PNB giới thiệu: Sách “bỏ túi” CON ĐƯỜNG AN LẠC.
  • Video Podcast: Học cách Phật dạy con

Bài viết theo tháng

Ý kiến bạn đọc!

  • hai trầu trong Trò Chuyện với Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc về Tình Yêu và Cuộc Sống
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Mũi Né
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Gặp gỡ với Nhà thơ Huyền Chi của “Thuyền viễn xứ”
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Lương Thư Trung (Hai Trầu): TUỔI GIÀ THỬ ĐỌC “CHUYỆN HỒI ĐÓ” (ĐHN)
  • Jimmy Võ Bất trong Mũi Né
  • Jimmy Vo trong Mũi Né
  • Le Dinh Duc trong Gặp gỡ với Nhà thơ Huyền Chi của “Thuyền viễn xứ”
  • Hoang Nguyen trong Lương Thư Trung (Hai Trầu): TUỔI GIÀ THỬ ĐỌC “CHUYỆN HỒI ĐÓ” (ĐHN)
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Mũi Né
  • Jimmy Võ Bất trong Mũi Né

Cùng một tác giả

  • 0
  • 1
  • 1
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6

Thống kê

Nhà tài trợ

biệt thự vũng tàu
biệt thự vũng tàu cho thuê | biệt thự vũng tàu cho thuê theo ngày giá rẻ | cho thuê biệt thự vũng tàu có hồ bơi
© 2009 - 2016 Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Phát triển & Hỗ trợ kỹ thuật bởi SGC.
Trích dịch nội dung để dùng trong nghiên cứu, học tập hay dùng cho cá nhân đều được tự do nhưng cần phải chú thích rõ nguồn tài liệu và đối với các trích dịch với mục đích khác, cần phải liên lạc với tác giả.
  • Một chút tôi
    ?
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    ?
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    ?
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    ?
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    ?
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy
  • Nhận bài mới qua email