Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Tập hợp các bài viết của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Ghi chép lang thang
  • Nhận bài mới qua email

Giao Lưu-Ra Mắt Sách Chuyện Hồi Đó của Đỗ Hồng Ngọc (10.8.2025)

21/08/2025 By Bac Si Do Hong Ngoc 1 Bình luận

Video Clip: Giao Lưu – Ra Mắt Sách CHUYỆN HỒI ĐÓ của Đỗ Hồng Ngọc (10.8.2025)

Nguyễn Văn Quyền:

Cám ơn Nguyễn Văn Quyền đã thực hiện Video Clip này.

Đỗ Hồng Ngọc.

(21.8.2025)

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Nếp sống An Lạc

21/08/2025 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Ghi chú: Đây là LỜI NGỎ cho cuốn Nếp Sống An Lạc của tôi, xuất bản năm 2016. Tôi bất ngờ mới nhận được từ Vy Trầnkim (em ruột ca sĩ Hà Thanh) gởi về hỏi có phải bài của anh không? Lại chèn rất nhiều hình ảnh và đặc biệt cả bài Thoi Tơ, thơ Nguyễn Bính, nhạc Đức Quỳnh qua tiếng hát Ý Lan.

Xin gởi bạn đọc lại vui nhe.

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc

(21.8.2025)

Nếp sống an lạc – Đỗ Hồng Ngọc

An lạc không phải là hạnh phúc, sảng khoái, hài lòng, vui sướng… nhất thời, trái lại nó như dòng suối mát tưới tẩm ở bên trong. An lạc là một trạng thái hỷ lạc tự bên trong mỗi cá nhân, nhẹ nhàng, bền bỉ, mang lại sự bình an cả thân và tâm cho chính mình và lan tỏa đến người khác.
cắm hoa nghệ thuật nhật bản

An lạc là một trạng thái hỷ lạc tự bên trong mỗi cá nhân, nhẹ nhàng, bền bỉ, mang lại sự bình an cả thân và tâm cho chính mình và lan tỏa đến người khác.

An lạc thường đến từ tuệ giác, đưa đến sự tự tại, ung dung, cân bằng cả về vật chất lẫn tinh thần.

Một người trúng số độc đắc, một thí sinh hoa hậu đoạt vương miện, một người có tên trên bảng vàng, có thể đang cảm nhận rất hạnh phúc, rất sướng vui… nhưng chẳng bao lâu sự bất an sẽ dồn dập đến, nỗi khốn khổ sẽ kề bên…
cắm hoa nghệ thuật nhật bản

Một người thực sự an lạc chẳng thấy có hào hứng rộn rã bộc phá tầm ĩ nào cả; chẳng có đám đông vỗ tay với những tiếng hò reo, chẳng có vòng nguyệt quế, mà chỉ có sự lặng im, nhiều khi một mình, âm thầm, lặng lẽ. Nụ cười đến tự bên trong, nụ cười của toàn thân, của từng tế bào, không ở đầu môi khóe miệng…

Cho nên an lạc không dễ. Nó đòi hỏi sự kham nhẫn, tri túc, và cả Từ, Bi, Hỷ, Xả.

Nhiều khi phải qua cái tuổi nào đó, thấm đẫm một chút cuộc đời, nghe được cái tiếng kêu ‘trần thế’ thì mới nhận ra sự thiết yếu của tự tại. Nhưng đợi đến lúc  “nhìn lại mình đời đã xanh rêu” (Trịnh Công Sơn) thì thường đã trễ.
cắm hoa nghệ thuật nhật bản

Bởi người ta có thể an lạc ở đây và bây giờ.

Ta hay chúc nhau “Thân tâm thường an lạc” như một ước vọng. Phải, an lạc thì phải cả thân và tâm. Thân tâm nhất như. Tâm có an thì thân mới lạc. Tâm có lạc thì thân mới an. Mà đời thì vô thường. Làm sao thấy thường trong vô thường đây. Trừ phi thấy Thực tướng, thấy Chơn Như…

Mấy năm gần đây, tôi thường được mời nói chuyện về “Một nếp sống an lạc” nơi này nơi khác. Có khi ở một ngôi chùa, có khi ở một trung tâm mục vụ, có khi ở một hội quán, câu lạc bộ doanh nhân, một nhóm bạn trẻ, hoặc cùng các bậc trí thức ở một quán café thân quen… Những buổi chuyện trò đó, với tôi, đều là một cơ hội để học hỏi, giao lưu, chia sẻ. Lời lẽ do vậy mà nhiều khi rề rà, cà kê… chớ không mạch lạc, khúc chiết. 
cắm hoa nghệ thuật nhật bản
Có một số buổi được thu âm, ghi hình. Thế rồi một hôm, có bạn đề nghị hay là ta gom mấy bài nói chuyện này lại, chọn ra một ít rồi in thành tập sách chia sẻ với mọi người cũng hay! Nhưng nghe thì thoáng qua, trực tiếp, còn in sách thì không dễ tí nào. Nói thì cà kê, rề rà được, lại còn có những phụ trợ như chiếu slides, vẽ viết lên fl ipchart, có ‘body language” (ngôn ngữ hình thể) diễn tả… trong truyền thông trực tiếp, bây giờ phải làm sao? 
cắm hoa nghệ thuật nhật bản
Dù vậy, người bạn cũng đã gom được 31 bài có thu băng, ra đĩa gì đó, cả trên mạng, chọn ra mấy bài có chung chủ đề “Nếp sống An lạc” rồi nhờ ‘’phiên tả’’, rồi biên tập… Tôi yêu cầu làm sao giữ được giọng điệu trò chuyện cà kê, kể cả tiếng địa phương, kể cả chuyện tếu táo của mình… để người đọc như đang nghe trực tiếp thì tốt. Tóm lại, đây là một cuốn sách “nói’’ chớ không phải sách viết. Người đọc thì… nghe chớ không phải xem.
cắm hoa nghệ thuật nhật bản

Hôm rồi, ngồi với một người bạn trẻ trong một quán café nhỏ, chúng tôi bàn với nhau về hai chữ “An lạc”. An lạc có phải là well-being, là bien-être không? hay An lạc là eudaimonia, một tiếng cổ Hy Lạp thời Aristote gồm “eu” (“good”) và “daimon” (“spirit”), một đức hạnh, đòi hỏi có sự rèn tập?

Phải chăng đó cũng chính là điều Phật đã dạy trong “An lạc hạnh”, một phẩm của kinh Pháp Hoa hơn hai ngàn năm trăm năm trước: biết sống trong Hành xứ và thân cận xứ, biết an trụ trong pháp Không, trong Tùy hỷ, trong đại Từ đại Bi?

Thử “chiết tự” từ Hán Việt xem sao, thì ra An là ‘dưới mái nhà có người con gái’, còn Lạc là ‘ngôi nhà tràn đầy ánh sáng, có vườn cây xanh mát, có tiếng hát, tiếng đàn, tiếng dệt cửi, quay tơ…’:.
cắm hoa nghệ thuật nhật bản

Rồi cùng mà cười. “Em lo gì trời gió/ em lo gì trời mưa…/ em cứ yêu đời đi/ như lúc ta còn thơ/ rồi để anh làm thơ/ và để em dệt tơ…” . (Thoi tơ, thơ Nguyễn Bính, nhạc Đức Quỳnh)

.

Đỗ Hồng Ngọc

 

Thuộc chủ đề:Chẳng cũng khoái ru?, Ghi chép lang thang, Góc nhìn - nhận định

Đỗ Hồng Ngọc kể ‘Chuyện hồi đó’

17/08/2025 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Đỗ Hồng Ngọc kể ‘Chuyện hồi đó’

Thu Giang:

(https://vnexpress.net/do-hong-ngoc-ke-chuyen-hoi-do-4925525.html)

Tên sách Chuyện hồi đó xuất phát từ ý niệm đời người như một vở kịch ba hồi. “Chuyện hồi đó” là hồi thứ ba, sau thơ ấu và trung niên. “Khi người ta bắt đầu thường nhắc chuyện hồi đó thì người ta đã già”, ông viết.

Không theo lối viết hồi ký truyền thống, cuốn sách là chuỗi những cuộc trò chuyện, nơi tác giả dẫn dắt người đọc từ ký ức tuổi thơ tại quê nhà La Gi, Lâm Đồng (Bình Thuận cũ) qua hành trình theo học và hành nghề y, rồi đến con đường nghiên cứu, ứng dụng đạo Phật vào đời sống.

Bìa sách Chuyện hồi đó. Ảnh: Đỗ Hồng Ngọc.

Với hơn 30 năm tìm hiểu và thực hành Phật pháp, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc cho biết con đường này đã giúp ông giữ được sự an nhiên trước tuổi già, bệnh tật và những biến động của cuộc sống.

Những chiêm nghiệm ấy không chỉ đến từ sách vở hay thiền đường, mà còn từ những trải nghiệm cá nhân của tác giả. Ông từng nhiều lần đối mặt với bệnh tình “thập tử nhất sinh”, trong đó có ca phẫu thuật sọ não khi tuổi đã xế chiều. Nhờ giữ tinh thần lạc quan trong giây phút nguy kịch, ông vượt qua bệnh tật và kể lại trải nghiệm “bác sĩ mà cũng bệnh” bằng giọng văn hóm hỉnh. “Trách móc điều chi? Để làm chi? Ngay cả bệnh tật, nhiều khi cũng có ích”, ông viết.

Tác giả Đỗ Hồng Ngọc trong buổi giao lưu sách Chuyện hồi đó. Ảnh: Phanbook.

Tác giả Đỗ Hồng Ngọc trong buổi giao lưu và ra mắt sách “Chuyện hồi đó”. Ảnh: Phanbook

Từ góc nhìn giao thoa giữa y học và Phật học, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đưa ra nhiều lời khuyên thực tiễn về chăm sóc sức khỏe trong sách. Ông đề cao lợi ích của thiền, đồng thời nhấn mạnh việc điều trị song song thể chất và “tâm bệnh” – vấn đề phổ biến nhưng thường bị bỏ sót trong quá trình chữa trị.

Trong buổi giao lưu ngày 10/8 tại Đường Sách TP HCM, tác giả Đỗ Hồng Ngọc cho biết thông điệp trung tâm của cuốn sách là lời nhắc nhở mỗi người tìm về chính mình. Ông nói: “Khi quay trở lại với chính mình, con người sẽ tìm thấy sự an lạc”. Theo tác giả, quá trình này không phải là quay lưng với thế giới bên ngoài, mà là học cách lắng nghe nội tâm giữa những xô bồ, biến động của đời sống hiện đại.

Tác giả Đỗ Hồng Ngọc (giữa) trong buổi giao lưu sách Chuyện hồi đó. Ảnh: Phanbooks.

Tác giả Đỗ Hồng Ngọc (giữa) trong buổi giao lưu và ra mắt sách “Chuyện hồi đó”. Ảnh: Phanbook

Tại sự kiện ra mắt sách, độc giả Hoàng Kim Oanh nhận xét: “Chuyện hồi đó cho chúng tôi những giây phút được lắng lại với đứa trẻ trong mình”. Hòa thượng Thích Thiện Đạo – một độc giả – cho rằng cuốn sách mới kế thừa “cái nhìn an lạc và xuyên suốt” có trong nhiều tác phẩm trước đó của Đỗ Hồng Ngọc.

Bác sĩ, tác giả Đỗ Hồng Ngọc sinh năm 1940 tại Phan Thiết (Lâm Đồng), hiện sống tại TP HCM. Ông từng là bác sĩ khoa Nhi Bệnh viện Nhi Đồng 1 TP HCM, sau đó giữ chức giám đốc Trung tâm Truyền thông Giáo dục Sức khỏe TP HCM.

Ông đã xuất bản hơn 60 đầu sách, được xem là một trong những người tiên phong viết về sức khỏe cộng đồng và kỹ năng sống. Trong số đó, nhiều tập tản văn như Gió heo may đã về, Khi người ta lớn, Thư gửi các bà mẹ sinh con đầu lòng được nhiều độc giả yêu thích.

Thu Giang

 

Thuộc chủ đề:Ghi chép lang thang, Góc nhìn - nhận định

Ở tuổi 86, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc ra mắt ‘Chuyện hồi đó’

16/08/2025 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Ở tuổi 86, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc ra mắt ‘Chuyện hồi đó’

Nguyên Hoài
(Znews)

Bác sĩ – tác giả Đỗ Hồng Ngọc vừa ra mắt quyển sách “Chuyện hồi đó”, tập hợp những câu chuyện bình dị thấm đẫm chiêm nghiệm qua hành trình sống cùng văn học, y học và Phật học.

Ở tuổi 86, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc vẫn duy trì sự minh mẫn khi chia sẻ những câu chuyện từ thời sinh viên y khoa đến hành trình văn chương kéo dài hơn 6 thập kỷ. Cuốn Chuyện hồi đó không theo định dạng hồi ký thông thường mà tập hợp những trải nghiệm được chắt lọc qua 7 chương, từ “Một chút tôi” đến “Con đường an lạc”.

Từ “thầy thuốc” đến triết lý làm người

Cuốn Chuyện hồi đó không viết theo lối hồi ký thông thường mà tập hợp những câu chuyện được chắt lọc qua 7 chương: “Một chút tôi”, “Nghề và nghiệp”, “Dạy để học”, “Đi để học”, “Chút văn chương chữ nghĩa”, “Những gần gũi thân thiết” và “Con đường an lạc”.

Xuyên suốt tác phẩm là triết lý về nghề thầy thuốc mà tác giả theo đuổi: “Trong tên gọi “người thầy thuốc” có 3 phần – người có nhân đạo, thầy có nhân đức, thuốc có nhân thuật. Ba yếu tố này hợp lại thành y đức”. Đây cũng chính là kim chỉ nam giúp ông vượt qua những thử thách trong nghề y, từ việc chọn chuyên khoa nhi vì “thích trẻ em” đến những kỷ niệm đỡ đẻ thời sinh viên.

Tại buổi giao lưu, tác giả cũng chia sẻ về mối liên hệ giữa y học và văn chương trong hành trình của mình. Từ bài thơ Thư cho bé sơ sinh viết năm 1965 sau ca đỡ đẻ đầu tiên, đến những tác phẩm về Phật học sau tai biến não năm 1997, mỗi giai đoạn đều đánh dấu sự trưởng thành về tâm hồn và trí tuệ.

“Mỗi người phải trở lại chính mình. Nếu biết quay về chính mình, sẽ thấy sự an lạc, hạnh phúc hơn, chứ không phải tìm kiếm bên ngoài” – tác giả nhấn mạnh thông điệp chính của cuốn sách.

Những câu chuyện đời thường và giá trị truyền cảm hứng

Cuốn sách được viết bằng giọng văn thủ thỉ, dung dị như một buổi thưởng trà cùng bạn bè tri kỷ. Tác giả đưa độc giả theo từng trang sách về với những nơi ông từng đặt chân, những người đã gặp gỡ và những điều được học, truyền dạy.

Đặc biệt, tác phẩm không chỉ là những hồi ức tuổi thơ mà còn có những chia sẻ mang tính “truyền trao kinh nghiệm” và không ít câu chuyện từng được bạn bè, đồng nghiệp, báo chí viết tặng tác giả, nay được sắp xếp thành một hồi ức liền mạch.

bac si do hong ngoc anh 2

 

Quang cảnh buổi ra mắt sách Chuyện hồi đó hôm 10/8 tại Đường sách TP.HCM.

Tất cả đều là những kiến thức, trải nghiệm có giá trị truyền động lực và cảm hứng cho độc giả, đặc biệt là giới trẻ đang lựa chọn và theo đuổi đam mê nghề nghiệp. Cuốn sách như một hành trình nhìn lại những điều đã trao đi và nhận được, là món quà dành tặng cho chính tác giả và những người thân quý đã đồng hành suốt nhiều năm qua.

Tại buổi ra mắt sách, nhiều khách mời đã chia sẻ cảm nghĩ về tác phẩm. Các đồng nghiệp, bạn bè lâu năm đánh giá cao giá trị nhân văn trong từng câu chuyện, khẳng định đây là tác phẩm mang tính định hướng cho những ai đang tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống. Đặc biệt, nhiều độc giả trẻ tuổi bày tỏ việc tác phẩm đã tạo động lực để họ trân trọng hơn các mối quan hệ gia đình và tìm lại những giá trị đích thực trong cuộc sống.

Nguyên Hoài

Znews (12.08.2025)

Thuộc chủ đề:Ghi chép lang thang, Góc nhìn - nhận định, Đọc sách

Bs Đỗ Hồng Ngọc với Khoá tu “Xuất gia gieo duyên” tại Tu viện Khánh An.

14/08/2025 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc thuyết trình về “Thiền và sức khỏe” tại Tu viện Khánh An

Tuệ An

Sáng ngày 12/8/2025, tại Tu viện Khánh An, đại chúng đã có cơ duyên lắng nghe buổi thuyết trình của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc với chủ đề “Thiền và Sức khỏe”.
Trước giờ thuyết giảng, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc – một tên tuổi lớn trong y học và văn học Việt Nam đã có buổi gặp mặt thân tình với Thầy Viện chủ. Cùng chén trà thơm, Thầy và bác đã ân cần thăm hỏi nhau. Bác cũng trò chuyện chủ đề mà bác sẽ chia sẻ cùng đại chúng trong Khoá tu “Xuất gia gieo duyên” kỳ này tại Tu viện.
Là một bác sĩ nhi khoa với hơn bốn thập niên kinh nghiệm, đồng thời là một nhà văn, nhà thơ nổi tiếng với bút danh Đỗ Nghê, ông đã cống hiến nhiều năm tại Bệnh viện Nhi Đồng và các trường đại học y khoa Saigon. Dù đã nghỉ hưu nhiều năm, ông vẫn tiếp tục sáng tác và xuất bản hơn 40 tác phẩm, để lại dấu ấn sâu sắc trong cả hai lĩnh vực về Phật giáo và y học.
Tại Pháp đường Chánh Niệm, bác đã có gần một giờ đồng hồ chia sẻ với 100 hành giả những kiến thức quý báu về cách chăm sóc sức khỏe thể chất lẫn tinh thần trong xã hội hiện đại. Đặc biệt, bác chú trọng đến huấn luyện hơi thở, giá trị của hơi thở bụng, giá trị của việc riêng tập hơi thở đi xuống đan điền; sau đó là trả lời thắc mắc của hành giả tham dự.
Buổi nói chuyện khép lại trong niềm hoan hỉ của chư hành giả khóa tu Xuất gia gieo duyên lần 5 tại Tu viện Khánh An.
Tuệ An
(Tu viện Khánh An)

Lâu ngày gặp lại Thầy Trí Chơn, Viện chủ…

 

Trò chuyện cùng các hành giả khoá tu “xuất gia gieo duyên”… với sự tham dự của quý thầy giáo thọ.

 

 

Sau buổi thuyết giảng ở Pháp đường chánh niệm, đã cùng các vị giáo thọ trẻ thăm hồ sen Khánh An, nơi mái chòi tranh quen thuộc mà tôi rất thích từ nhiều năm trước nơi này.

Tiếp tục trò chuyện thân tình cùng quý thầy trẻ trong một không gian yên ả giữa hồ sen ngát hương…

(ảnh Đỗ Hồng Ngọc, 12.8.2025)

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Lõm bõm học Phật, Phật học & Đời sống

Thư gởi bạn xa xôi: Vài hình ảnh Ra Mắt Sách CHUYỆN HỒI ĐÓ

13/08/2025 By Bac Si Do Hong Ngoc 1 Bình luận

 

Thư gởi bạn xa xôi:

Vài hình ảnh về buổi Ra Mắt Sách CHUYỆN HỒI ĐÓ

Thật bất ngờ. Buổi Ra Mắt Sách CHUYỆN HỒI ĐÓ của mình ở Đường Sách Saigon không ngờ mà đông vui đến vậy.

Tin thời tiết doạ sắp có bão, nhưng may quá, vẫn nắng đẹp.

Rất nhiều bạn bè y khoa của mình, Thân Trọng Minh, Nguyễn Chấn Hùng, Võ Văn Thành, Trương Xuân Liễu, Định, Hải Sơn, Quốc Việt, Trương Trọng Hoàng, Hải Ngươn… Ls Ngô Tiến Nhân, Cô Mỹ Yến SIY, Và các điều dưỡng ở Bệnh viện Nhi Đồng Saigon những năm 1960s thuở đó. Các “bạn đạo” trong Lớp Phật học & Đời sống, Nhóm học Phật chùa Xá Lợi… Hòa thượng Thích Thiện Đạo, Ni cô Phước Ngọc (đệ tử Ni Sư Trí Hải)… Các bạn văn: Ban Mai từ Quy Nhơn, Hồ Đắc Thiếu Anh, Hoàng Kim Oanh, Trương Văn Dân với Elena… và các bạn Quán Văn ở Sg,… các nhà báo Ngân Hà, Hồng Vân… Rồi những bạn từ các nơi xa, Đà Lạt, Vũng Tàu, Tuy Hoà, Đà Nẵng… cùng các độc giả nhiều thế hệ…

Thật vui phải không? Mình chỉ có thể nói lời chân thành cám ơn tất cả nơi đây.

Mình đã 86 tuổi rồi, hai chân đã bắt đầu lỏng lẽo, tay bắt mặt mừng… mà không sao tránh khỏi thiếu sót.

Tha cho nó đi nhe.

Chia sẻ vài hình ảnh coi vui thôi.

Đỗ Hồng Ngọc.

 

 

 

 

 

Bs Nguyễn Chấn Hùng… Gs chuyên khoa đầu ngành về Ung Thư, hào hứng nhảy lên sân khấu giành làm MC kể chuyện… Ông Nguyễn Hiến Lê khuyên Gs nên viết Y học thường thức… như Đỗ Hồng Ngọc mới phổ cập được cho mọi người…!

Bs Thân Trọng Minh, chuyên khoa tim mạch, cùng khoá với mình ở Y khoa Đai học đường Saigon (1962-1969) là kịch tác gia, nhà văn với bút danh Lữ Kiều, người đã làm bìa tập Thơ TÌNH NGƯỜI của Đỗ Nghê, năm 1967, nhắc chuyện hồi đó…

 

 

 

Ls Ngô Tiến Nhân, trong Nhóm học Phật cùng mình ở Chùa Xá Lợi 10 năm nay nói về “Cách học Phật” của ĐHN.

 

 

Hoàng Kim Oanh, nhóm Quán Văn của Nguyên Minh… nhà văn, nhà báo,

nhà giáo…

 

Cô Ngọc Ngyuễn, đệ tử của cô Nguyễn Thị Oanh năm xưa, nói về những buổi học với Thầy Ngọc về Chăm sóc Sức khoẻ Ban đầu ở Khoa Công Tác Xã Hội, Đại học Mở Bán Công Thành phố HCM những năm 80s.

 

BS Vũ Hải Sơn cho biết anh là Sinh viên Y khoa cùng lớp vói Đỗ Châu La Ngà…

 

Các Cô Võ Kim Sa, Cầm, Nhung, Dung, Gấm… điều dưỡng cùng làm việc với ĐHN o BV Nhi Đồng Saigon trước 75 (sau này là BVNĐ 1 Tp HCM).

 

Hoà Thượng Thích Thiện Đạo… Viện chủ chùa Phi Lai Tuy Hoà, Phú Yên và chùa Phi Lai Đồng Nai.

Thân mến,

ĐHN

(11.8.2025)

 

 

Thuộc chủ đề:Ghi chép lang thang, Góc nhìn - nhận định, Vài đoạn hồi ký

Chủ nhật 10/08/2025: Có một buổi trò chuyện cùng Đỗ Hồng Ngọc ở Đường Sách.

04/08/2025 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Chủ nhật 10/08/2025:

Có một buổi trò chuyện cùng Đỗ Hồng Ngọc ở Đường Sách.

 

 

CHUYỆN HỒI ĐÓ
của Bác sĩ ĐỖ HỒNG NGỌC

Tôi đã nhận được tập sách này đã một tháng nay do Bs. Ngọc riêng gởi, góc trang bìa sau ghi rõ Bản thảo 2025-Sách tặng, dày 930 trang. Tôi rất ngạc nhiên sao lại dừng ở chỗ “Bản thảo” nhưng vui vì thấy có lý, khi vừa nhận tin nhắn là sáng CN 10/8 này tại Đường Sách TP/HCM tổ chức ra mắt tập sách này và có buổi giao lưu của chính tác giả. Tôi càng tin mình nghĩ đúng, vì trước đó tôi đã coi đây với một nội dung không khác gì một tác phẩm Văn học đích thực. Và đúng vậy, Phanbook và Nxb Phụ Nữ nhạy bén đã thuyết phục được anh để chuyển qua xuất bản chính thức, dù còn 460 trang, để giới thiệu đến mọi người từng yêu mến Bs. Đỗ Hồng Ngọc qua trên 60 đầu sách đã xuất bản.

Đọc ở “Lời Ngỏ”, anh viết: “Tới một tuổi nào đó, người ta hay nói… chuyện “Hồi đó”. Và tiếp “mà chuyện gì Hồi Đó cũng hay, cũng đẹp, cũng ngon… hơn bây giờ”. Ồ, vậy là cái tựa tập sách Chuyện Hồi Đó không phải là Tập Hồi Ký, quá tinh tế, sâu sắc dù có nói về cuộc đời mình. Bs. ĐHN muốn tránh đặt “loại” cho tập sách này là Hồi ký đang lan tràn hiện nay… Anh coi đây là chuyện của mình -cũng đáng kể, đáng viết lại- Cái “Ngã” tích cóp to đùng 85 năm nay vậy. Cách phân trần dí dỏm nhưng đúng với tính cách khiêm nhường, chân thật của anh.

Tập sách (sơ thảo) gồm 7 chương và phần Phụ lục… Nội dung đã phản ánh những “cái đáng nhớ”, đáng trân trọng về bản thân, gia đình, bè bạn, quê hương… Những dấu ấn qua các tác phẩm văn học, những công trình nghiên cứu y học, Phật học… Đặc biệt, ở tập sách này đã hội tụ được những anh tài, trí thức học giả, nhà văn nổi tiếng đã nói về tác phẩm của anh… hiếm lắm!

Có thể nói Chuyện Hồi Đó, theo anh là những chuyện cũ, xưa, kể lại bởi một người có tuổi, già khú, có thể trong một buổi “trà dư tửu hậu” cùng bạn bè… hãy coi đây là một ghi chép (ký) theo thời gian. Bs. Ngọc vẫn băn khoăn dù danh chánh ngôn thuận tập sách đã có nhà xuất bàn làm bà đỡ là vui và tập sách xứng đáng với tư cách một tác phẩm, một công trình của một đời văn, một đời không mệt mỏi cho hoạt động khoa học…

*PHAN CHÍNH
La Gi – 6/8/2025

 

Vài cảm nghĩ về “Chuyện Hồi Đó” của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

(Nhân ngày Ra Mắt Sách 10.8.2025 tại Đường Sách Tp.HCM) 

  • Thời gian có thể làm mờ nhiều thứ, nhưng lại khiến vài người, vài điều trở nên lấp lánh hơn. Có những mối duyên, càng lâu càng sâu và cũng có những câu chuyện, càng xưa càng đáng để kể lại. Nhất là những câu chuyện gắn liền với hành trình trưởng thành – những nơi đã đi qua, những người đã từng gặp, những nghề đã làm và cả những điều âm thầm đã góp phần tạo nên chúng ta của hiện tại.

Và đôi khi chúng ta chọn kể lại chuyện hồi đó không phải để níu giữ thời gian, mà như một cách để tri ân những điều đã nhận, những người đã tin yêu và đồng hành.

Và hôm nay, một buổi sáng cuối tuần đẹp trời chúng ta có dịp cùng nhau gặp gỡ và lắng nghe một vị bác sĩ, một người thầy, một nhà văn, người hành thiền đã đi qua hơn 85 năm cuộc đời kể về rất nhiều câu chuyện hồi đó đầy giá trị.

 

  • Hầu hết chúng ta đều biết đến bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc là một bác sĩ Nhi khoa có tiếng trong ngành, đồng thời cũng có một khoảng thời gian dài giảng dạy tại Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch TP.HCM.

Bên cạnh đó, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc còn là một cái tên quen thuộc với bạn đọc qua các đầu sách về sức khỏe, giáo dục, đời sống tinh thần như:          Viết cho những bà mẹ sinh con đầu lòng, Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò, Già sao cho sướng? để có một tuổi già hạnh   phúc;  Thiền và sức khỏe; Một ngày kia … đến bờ; Buông; Khi người ta lớn; Ăn vóc học hay… Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc chinh phục được mọi giới, mọi        lứa tuổi từ các em tuổi mực tím mộng mơ, sinh viên y khoa, các vị phụ huynh đến quý vị lão niên không chỉ bởi nội dung sách đa dạng mà trong         cách viết, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc luôn nhẹ nhàng, hóm hỉnh, chân thành tạo cảm giác dễ chịu như một người bạn đang đối thoại trực tiếp với người  đọc.

Ở tuổi 85, tác giả – bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc một lần nữa trở lại cùng độc giả với tác phẩm mang tên Chuyện hồi đó. Cuốn sách không viết theo lối        hồi ký thông thường, mà tập hợp những câu chuyện bình dị, thấm đẫm chiêm nghiệm được chắt lọc qua năm tháng tác giả sống cùng văn học, y        học, Phật học và thiền định.

  • Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc sẽ đưa độc giả theo từng trang sách về với những nơi ông đã từng đặt chân đến, những người đã từng gặp gỡ và trò chuyện, những điều đã được học và truyền dạy…

Trong cuốn sách này, ông dành hẳn một phần để nói về chuyện học nhưng không theo cách thông thường. Bác viết “Dạy để học” và “Đi để học”.         Hai cụm từ tưởng như đơn giản, mà thật ra là cả một quá trình khám phá: vì sao dạy lại là để học? Và bác đã “đi để học” như thế nào trong           hành trình làm nghề của mình?

Có lẽ, ở ngã rẽ chọn ngành nghề ban đầu,  người ta đều ít nhiều mang theo một chút mơ hồ, một chút tò mò, có người chọn nghề vì đam mê, có        người vì hoàn cảnh, cũng có người chỉ nhận ra ý nghĩa của con đường mình đi sau rất nhiều năm đã bước. Vậy ngày đó bác đã chọn và học              ngành y ra sao? Có khó khăn gì hay không? Và vì sao bác lại chọn khoa Nhi?

  • Bác giải thích thêm cho các độc giả về ý nghĩa của từ “Y đức” được không ạ? Và theo bác Y đạo – Y đức – Y thuật khác nhau như thế nào?  trong suốt nhiều năm làm nghề, bác không chỉ chữa bệnh mà còn rất kiên trì với một điều tưởng chừng đơn giản nhưng lại vô cùng nền tảng đó là thực hiện Chương trình Chăm sóc Sức khỏe Ban đầu (Primary Health Care). Cụm từ này ngày nay được nhắc đến nhiều hơn, nhưng có lẽ không phải ai cũng hiểu đúng. Với bác, Chăm sóc Sức khỏe Ban đầu thật sự là gì? Và bác đã từng góp phần làm gì để thực hiện cho chương trình này?
  • Có một câu nói nghe qua thì có vẻ nửa đùa nửa thật nhưng lại khiến người trong nghề y đôi khi phải ngẫm nghĩ: “Bác sĩ mà cũng bệnh à?” Ở vị trí là một bác sĩ, bác nghĩ thế nào về câu hỏi này? Và bác có thể chia sẻ thêm những trải nghiệm thực tế khi bác sĩ bệnh thì khác gì với mọi người?

Những tác phẩm của bác luôn cho thấy mối liên hệ bền chặt giữa nghề y và đời sống tinh thần. Vậy tất cả những trang viết về văn chương, thơ          ca, những bài học từ Thiền… có mối liên hệ như thế nào với nghề y của bác?

  • Có lẽ nhiều người từng là học sinh, sinh viên vào thập niên 80–90 vẫn còn nhớ một chuyên mục rất đặc biệt trên báo Mực Tím mang tên “Phòng mạch Mực Tím”. Ở đó, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc không chỉ là người giải đáp sức khỏe mà còn như một người bạn lớn nhẹ nhàng, thân tình. Thưa bác, cơ duyên nào đã đưa bác đến với chuyên mục đặc biệt này? Và trải nghiệm ấy đã để lại cho bác những điều gì đáng nhớ nhất không chỉ với tư cách một bác sĩ, mà còn là một người viết cho tuổi trẻ?
  • Bs Đỗ Hồng Ngọc không chỉ cầm ống nghe, mà còn cầm bút viết về sức khoẻ, về Phật học, về thi ca mà điều đặc biệt là dù viết gì, chữ của bác cũng khiến người ta thấy nhẹ lại, lắng lại, và đôi khi được “chữa lành”. Với bác, chữ nghĩa có phải cũng là một hình thức chữa lành không? Và bác bắt đầu hành trình viết như thế nào?

Có lẽ ai trong chúng ta cũng từng ít nhất một lần tự hỏi: Giữa cuộc sống bộn bề và nhiều bất an này có hay không một con đường dẫn tới an             lạc? Là một người đã có quãng thời gian dài chiêm nghiệm từ y học đến Phật học, vậy theo bác liệu có một con đường an lạc thật sự? Và trong         nhịp sống hối hả ngày nay, bác nghĩ bước đầu tiên mỗi người có thể làm gì để tìm được sự an lạc, không chỉ cho thân mà còn cho tâm?

Hiện nay có một cụm từ thường hay được nhắc đến đó là “chữa lành”, đặc biệt là đối với người trẻ – những người thường xuyên đối diện với rất         nhiều áp lực và cần tìm kiếm các phương pháp “chữa lành” để hồi phục lại năng lượng cũng như tinh thần. Vậy theo bác có thể giúp “chữa lành”         cho người trẻ được hay không?

Là một người đã tự học, nghiên cứu, chiêm nghiệm và chia sẻ về đạo Phật rất nhiều. Vậy nếu trước một người muốn bớt đau khổ nhưng chưa           biết về đạo Phật, bác sẽ có lời khuyên như thế nào?

  • Tham dự buổi trò chuyện ngày hôm nay cũng có rất nhiều độc giả trẻ tuổi – những người đang trong hành trình chinh phục đam mê và sự nghiệp hay thậm chí cũng có rất nhiều người vẫn đang đi tìm niềm đam mê thật sự của mình. Điều đó đôi khi khiến người trẻ cảm thấy kiệt sức và hoang mang. Vậy bác có thể cho thế hệ trẻ một lời khuyên khi chọn và đi trên con đường nghề nghiệp của mình?

Những ai đã biết đến bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đều biết từ xưa đến tận bây giờ bác vẫn luôn cần mẫn và dành hết tâm huyết cho cả y học lẫn văn           chương và Phật pháp. Vậy bác có thể chia sẻ bí quyết để có thể cân bằng được nhiều việc như vậy không ạ?

Thảo Nguyên (theo Phanbook).

……………………………………

Vincent Ngô phỏng vấn Bs Đỗ Hồng Ngọc về cuốn sách mới: CHUYỆN HỒI ĐÓ

(Ghi chú: Vincent Ngô ở Úc về, hẹn Cafe với tôi ở Press Coffee Tp.HCM ngày 20.7.2025, lúc sách chưa kịp ra mắt. Buổi trò chuyện có ghi hình. Và anh mới gởi tôi clip video đặc biệt này do anh dàn dựng, thực hiện nhân dịp có buổi Ra Mắt Sách tại Đường Sách ngày 10.8.2025).

Cảm tạ Vincent Ngô.

Và xin chia sẻ đến bạn bè.

Đỗ Hồng Ngọc.

 

Thuộc chủ đề:Già ơi....chào bạn, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Đọc lại “Thư gởi người bận rộn”.

22/07/2025 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

 Thư gởi bạn xa xôi,

Minh Lê, người bạn trẻ xa xôi vừa gởi cho một bài mới viết còn nóng:

Đọc lại “Thư gởi người bận rộn”.

Vui ghê! Hơn 15 năm rồi đó, kể từ ngày cuốn Thư Gởi Người Bận Rộn ra mắt, và đã được tái bản liên tục nhiều lần. Rồi im re. Thời đã khác. Thế đã khác. Người “bận rộn” đã khác, hay chẳng còn ai bận rộn nữa! Ai cũng vui thú an nhàn rồi chăng?

Mình gởi thêm cho bạn một đoạn Lời Ngỏ của cuốn sách xưa và kèm bài “Chữ Nhàn” coi lại cho vui nha.

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc.

 

Tài bản lần thứ tư, 2010

Đọc lại: “Thư gửi người bận rộn”

Minh Lê (NT)

Bạn thân mến,
Bắt chước Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, tôi cũng thầm tưởng tượng ra hình ảnh một doanh nhân trung niên, hay thanh niên vì thời nay người trẻ lập nghiệp sớm khá nhiều, hiểu biết và đam mê kinh doanh nên rất là bận rộn. Nhiệm vụ của tôi là “bán” được cho bạn cuốn Thư gởi người bận rộn của ông bác sĩ kiêm văn sĩ trên.
Chắc bạn đang cười mỉm, “Đã bảo bận rộn thì sao có thì giờ đọc thư?” Vậy là bạn bị trúng ngay cái bẫy của ông bác sĩ luôn cười tủm tỉm kia rồi, vì hai bài đầu tiên trong Thư viết về “nhàn” và “không có thì giờ”. Ổng không phải doanh nhân, nhưng đã từng cực kỳ bận rộn tới một ngày ổng… vô cấp cứu, nên coi bộ ổng dễ dàng “đi guốc trong bụng” những người bận rộn. Ổng “đi guốc” kiểu nào, thì bạn đọc đi rồi coi đúng không nha.
Chưa hết đâu, ông bác sĩ còn bàn luận sang chuyện khó nói như rối loạn dương cương, và vài bệnh thời đại như mất ngủ, bệnh giả (sợ bệnh quá mà sinh bệnh), v.v. Ổng còn đi lo chuyện trời ơi như lo người bận rộn “không ăn vì đói, vì ngon, vì vui mà vì để giao tiếp, để làm việc, để tranh luận, thương thảo” (bài “Hột mít lùi tro”) Rồi ổng lo người bận rộn không có thì giờ gần gũi con, cho con đầy đủ vật chất nhưng để mặc con tự lớn thành… con hư hồi nào không hay. (“Cũng không phải là chuyện dễ!”)
Và dĩ nhiên, ổng là bác sĩ nên tránh sao khỏi chuyện… kê toa thuốc. Toa gì đây? Bạn nhớ đọc bài “Cái rún của vũ trụ…” và “Êm chậm sâu đều…” nha. Ông bác sĩ nói về một chuyện đơn giản nhứt, thiết thân nhứt mỗi ngày mà ta thường dễ dàng quên béng đi mất. Quà tặng kèm là bài “Khúc khích trên lưng…”. Cười rất quan trọng đó, hỡi người bạn doanh nhân của tôi ơi, hãy tự hỏi mình xem mỗi ngày bạn cười một cách thoải mái và chân thật được bao nhiêu lần?
Ai lo lắng chuyện khó nói thì đọc “Bò, tại sao điên?” và “Rối loạn…”, có lẽ cả “Thầy trò Đường tăng…”. Đọc “Bò, tại sao điên?”, tôi không thể không cười khúc khích một mình. Thừa nhận, tôi đang “cười trên nỗi đau của người khác”, nhưng muôn sự là tại ông bác sĩ nói chuyện “tế nhị” một cách quá hài hước và dí dỏm. “Rối loạn…” và “Thầy trò Đường tăng” là hai khía cạnh khác nhau của vấn đề, lúc “không được” thì cần làm gì và lúc “được quá” cũng nên nhớ gì.
Muốn trị “bệnh giả”, đọc “Tùy hỷ!”, “Chích một phát!”, “Những người biết quá nhiều…”, “Safe”. Thông tin về bệnh tật và thuốc giờ tràn lan trên mạng, ngoài khía cạnh tích cực cũng làm nhiều người tự lo lắng, nghi mình bị bệnh này kia. Đi khám bệnh dĩ nhiên lòi ra một đống bệnh, trong đó đa số là “bệnh thời đại” như mỡ máu, tiểu đường, huyết áp cao, v.v. Vậy là uống thuốc, ăn kiêng, lo lắng triền miên. Người bận rộn ngày nay không thiếu tiền để lo cho sức khỏe, nhưng lo cách nào cho đúng và làm sao phòng chữa bệnh đúng cách thì sao không thử nghe ông Bác sĩ?
Làm cha mẹ thời nay là việc khá đau đầu so với vài chục năm trước. “Cũng không phải là chuyện dễ” bàn chuyện “mê đắm thần tượng” của tuổi mới lớn. “Canh cánh bên lòng” cố vấn về giáo dục giới tính cho con. “Nói “không” hổng dễ!” phân tích tâm lý con trẻ trước những cám dỗ và thói quen xấu. Vừa là người cha vừa có kinh nghiệm làm truyền thông giáo dục sức khỏe nhiều năm, người viết cứ vậy tâm sự với người đọc một cách nhẹ nhàng mà thấm thía.
Ông Bác sĩ còn “tài lanh” nhắc nhẹ bạn về cách chăm sóc cha mẹ ở tuổi già bằng “Một bông hồng cho những ai…” và “Chẳng cũng khoái ư?” Ai quan tâm tới vấn đề này nên đọc thêm cuốn Gió heo may đã về và Già ơi chào bạn, cả hai cuốn này tôi đều đã giới thiệu với bạn trước đây rồi đó.
Thực ra Thư gởi người bận rộn không chỉ dành cho doanh nhân, mà còn cho cả người rảnh rỗi. Ờ, rảnh quá nên mới quan tâm chuyện “Cắt nghĩa tình yêu?”, từ “làm sao cắt nghĩa được tình yêu” (Xuân Diệu) của vài chục năm trước, tới “tình bạn là tô hủ tiếu, tình yêu là tô bún riêu” của một tác giả hiện đại không biết tên. Đến “Chời ơi! áo dzài…” bình loạn về lễ hội áo dài ở Huế, “Đứa con của nàng Kiều” nghe mà… giật mình, và nhiều bài khác.
Cuối cùng, tôi cực kỳ tâm đắc với nhận xét của Bác sĩ về doanh nhân trong bài “Những người lãng mạn”: “Khác với nhà thơ lãng mạn để mà lãng mạn, nhà doanh nghiệp có khả năng biến lãng mạn thành hiện thực”. Đúng vậy, một doanh nhân có đam mê, có nghị lực, “biết làm ăn mà cũng biết hưởng nhàn, biết giữ gìn sức khỏe, không xa hoa lãng phí, không kiêu căng ngạo mạn, lại có lòng thương người, giúp đời” (“Giấy ngắn tình dài…”) ắt sẽ là người vừa đọc “Thư” vừa cười tủm tỉm, trách ông bác sĩ khéo lo xa… Nhưng trước hết, bạn phải có sách để đọc đã, đúng không?
Thân mến,
Minh Lê

………………………………………………………..

Trích Thay lời ngỏ Thư gởi người bận rộn

Tôi là một kẻ làm biếng, lại hành cái nghề mà ông tổ là cụ Hải thựơng Lãn ông, ông già lười ở làng Hải Thương, vậy mà bỗng trở thành một người bận rộn lúc nào không hay!
Số là ông bạn nhà báo của tôi, ông Trần Trọng Thức, một hôm gõ cửa bảo: “Nghe nói ông sắp về hưu, rỗi rãnh, viết cái gì đó cho báo Doanh nhân Saigon Cuối tuần cho vui đi”!

Nghe “doanh nhân” tôi đã hoảng vì cái sự bận rộn của họ. Biết ý, ông cười: Đây là “Doanh nhân cuối tuần”, không phải chuyện làm ăn đâu! Viết cái gì cũng đựơc, miễn là cà kê dê ngỗng.có hơi hướm sức khỏe một chút… là đựơc! Tôi bèn tra tự điển: cà kê, có nghĩa là dài dòng, hết chuyện này sang chuyện khác, còn dê ngỗng thì ai cũng biết! Thôi thì nể bạn…

Tôi nhớ André Maurois, người mà tôi rất mến mộ đã từng víết Lettres à l’inconnue (Thư gởi người đàn bà không quen biết, Bản dịch Nguyễn Hiến Lê) bằng cách tưởng tượng ra một người phụ nữ xinh đẹp, tuổi khoảng ba mươi, có nhan sắc, thông minh và nhạy cảm… để ông viết mỗi tuần một bức thư gởi cho người trong… mộng, trao đổi về mọi thứ chuyện trên đời. Tôi thử bắt chước tạo ra cái mục Thư gởi người bận rộn, lấy ý từ chữ “business”, là ‘bận rộn’ xem sao. Và tôi cũng tưởng tượng ra người bận rộn của tôi. Nghĩ gì viết đó. Cà kê dê ngỗng mà. Nhưng viết chỉ được ít lâu thì hết chuyện.

Nhớ hồi xưa có đọc một cái truyện ngắn đâu đó kể một người cô đơn, cả đời không ai thèm viết thư cho mình, thấy bạn bè ai cũng có thư đọc mà giận, bèn mỗi ngày tự viết cho mình một bức, đem ra bưu điện gởi về địa chỉ với tên mình đàng hoàng, rồi cũng ung dung mở thư ra đọc, tủm tỉm cười một mình khoái trá…Tôi lại bắt chước anh ta mỗi tuần viết cho mình một bức thư như vậy. Chẳng ngờ đựơc độc giả khen, nói cà kê dê ngỗng mà coi cũng được! Từ đó tôi trở thành một ngừơi bận rộn…Thứ Tư nào cũng phải nộp cho tòa sọan một bức thư bất kể trời mưa hay nắng! Mà độc giả mới dễ thương làm sao…

………………….

Chữ “NHÀN”

Chữ NHÀN là chữ làm sao! Nguyễn Công Trứ đã kêu lên như vậy, từ mấy trăm năm trước. Kêu chứ không phải hỏi. Bởi vì trước đó ông đã giải thích rõ ràng rồi: Thị tại môn tiền náo/ Nguyệt lai môn hạ nhàn. Chợ ở cửa trước thì “náo”, còn trăng vào cửa sau thì “nhàn”. Thế thôi! Không biết ai là người đầu tiên đã nghĩ ra một định nghĩa đơn giản mà thâm thúy đến vậy qua cách viết tượng hình của chữ Hán: giữa chữ môn mà có chữ thị thì thành náo, còn giữa chữ môn mà có chữ nguyệt thì thành nhàn. Thời buổi “thị trường” toàn cầu hóa như chúng ta đang sống hiện nay thì chợ ở tứ phía, ở ngay trong nhà cũng có chợ chen vào, cho nên không dễ mà tìm một chút ánh trăng qua cửa sổ! Ở các nước Âu Mỹ, workmania là một thứ bệnh “điên vì mê làm việc” đến nỗi tình trạng tâm thần, tự tử, tim mạch… ngày càng tăng. Ở Châu Á, bệnh karoshi chẳng hạn, một thứ bệnh dịch do làm việc quá nhiều, quá sức, làm như điên, đến nỗi sinh nhiều biến chứng và gây cả tử vong như chúng ta từng nghe thấy ở một số doanh nhân Nhật và đang lan ra nhiều nước. Liên Hiệp Quốc đưa “quyền nhàn tản” vào trong Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền để khuyến khích người ta nghỉ ngơi mà chả ai thèm nghe! Nghe sao được, nhàn hay không là ở mỗi người chứ. Bắt người ta làm việc, cưỡng bức lao động thì dễ chớ ai nỡ bắt người ta nhàn, khi người ta muốn được “bận rộn”!
Thực ra nhàn cũng có nhiều cách: có cách nhàn nhã, có cách nhàn hùng hục. Nhàn nào cũng tốt, miễn là đừng quá. Nguyễn Công Trứ ưa kiểu nhàn “Gót tiên đeo đủng đỉnh một đôi dì. Bụt cũng nực cười ông ngất ngưỡng.” Một đôi dì “đeo” thì sợ khó mà đủng đỉnh, khó mà ngất ngưỡng. Rồi ông còn ganh tị với Tô Đông Pha, đời Tống, hơn ngàn năm trước: “Sông Xích Bích buông thuyền năm Nhâm Tuất. Để ông Tô riêng một thú thanh tao!” Chẳng qua là ông Tô đi chơi thuyền trên sông, ngắm trăng với vài người bạn, đánh cờ, làm thơ xướng họa, dĩ nhiên là cũng có vài… người mẫu đi theo mài mực, rót trà! Ta bây giờ thỉnh thoảng cũng đi thuyền rồng trên sông Hương, có đàn có sáo…, có tiếng ca tiếng hát náo nhiệt, thuyền ngược thuyền xuôi tấp nập đó thôi. Nhưng cài nhàn của ta là nhàn ồn, không phải nhàn nhã! Sau một ngày vất vả, “người bận rộn” nào cũng sẵn sàng xách vợt ra sân làm vài ván tennis. Cởi veston cà vạt ra, mặc áo pull quần short vào, chạy ngược chạy xuôi hùng hục, toát mồ hôi hột, chẳng phải cũng là nhàn ư? Nhưng cái đó là nhàn… hùng hục. Nhàn nhã là phải có “nguyệt lai môn hạ” kìa. Vì thế mà Trịnh Công Sơn mới có bài Nguyệt ca rất dễ thương: “Từ khi trăng là nguyệt cho tôi bóng mát thật là”. “Thật là” sao thì anh không nói rõ nhưng chắc chắn anh đã có được sự nhàn nhã “thật là”, chẳng thua gì ông Tô ngày xưa. Nhưng sau đó anh thật thà thú thiệt: “Từ khi trăng là nguyệt, tôi như từng cánh diều vui. Từ khi em là nguyệt, trong tôi có những mặt trời!” Thì ra cũng tại em thôi. Tại em là nguyệt mà trăng của tôi đã biến thành những mặt trời nóng bức, nhễ nhại, vất vả, bận rộn đó thôi. Lúc đó hẳn nhạc sĩ cũng đã kêu lên: chữ nhàn là chữ làm sao!

Đỗ Hồng Ngọc
(2010)

 

Thuộc chủ đề:Chẳng cũng khoái ru?, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

Đỗ Nghê  Đỗ Hồng Ngọc, Như Không Thôi Đi Được*

21/07/2025 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Đỗ Nghê  Đỗ Hồng Ngọc, Như Không Thôi Đi Được*

TRẦN THỊ NGUYỆT MAI

Nếu hỏi tên một tác giả đương thời có nhiều đầu sách, được nhiều tầng lớp độc giả ở mọi tuổi tác thích đọc lẫn ngưỡng mộ và có nhiều bạn bè quý mến, có lẽ trong trí nhiều người sẽ nghĩ đến Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Thật vậy, ông có khoảng 60 đầu sách thuộc loại Văn chương, Y học và Phật học; đáp ứng cho nhiều độ tuổi, thường được trưng bày ở các vị trí trang trọng trên các kệ của các nhà sách, thuộc loại best seller, được xuất bản tái bản nhiều lần như “Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng”, “Gió Heo May Đã Về”, “Nghĩ Từ Trái Tim”, “Gươm Báu Trao Tay”… Đó là chưa kể những buổi chia sẻ, đàm đạo, thuyết giảng của ông về sức khỏe, nếp sống an lạc, thở và thiền, v.v… qua những phương tiện truyền thông khác. Cũng nên thêm, trong mục “Chuyện trò trên dutule.com”, tác giả Đỗ Hồng Ngọc là người có nhiều độc giả tham gia, đặt nhiều câu hỏi nhất, kéo dài với con số kỷ lục 24 kỳ và số lượt người vào đọc mỗi kỳ dao động trong khoảng từ 4.273 đến 7.500 (tính cho đến ngày 12-3-2024). Cuộc đời của ông cũng rất thú vị. Từ một đứa trẻ sinh ra trong thời loạn lạc, phải tản cư đến nhiều nơi không có trường học, cha bị bệnh mất sớm… Ông rất may mắn được người cậu (nhà văn Nguiễn Ngu Í) giúp đến trường và tình cờ sở hữu được cuốn sách “Kim chỉ nam của học sinh” của học giả Nguyễn Hiến Lê bày bán “xôn” trên lề đường. Vốn rất thông minh, lại thêm ý chí và nghị lực, ông quyết tâm thực hành những điều trong sách để có thể học nhảy lớp theo kịp các bạn cùng trang lứa và thi đậu các kỳ thi…

Bài viết này chỉ là những mảnh ghép đó đây góp nhặt từ sách báo hoặc trên các trang mạng hầu giúp bạn đọc được biết thêm về một tác giả mà mình yêu mến. Hy vọng hành trình đến với cuộc đời của ông sẽ tạo cảm hứng và động lực cho những bạn trẻ muốn vươn lên và tiến xa (the sky is the limit).

CHÂN DUNG TỰ HỌA

Đỗ Hồng Ngọc là tên thật và cũng là bút hiệu. Trước năm 1975, ông dùng bút hiệu Đỗ Nghê (ghép họ cha và họ mẹ) khi sáng tác. Bút hiệu Giang Hồng Vân chỉ được dùng một lần khi viết bài Dẫn nhập cho tập “Qê hương” của Nguiễn Ngu Í. Khi viết về y học, ông dùng tên thật Đỗ Hồng Ngọc, thậm chí ghi rõ Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, theo nguyên tắc, để chịu trách nhiệm chuyên môn về những bài viết của mình. Trả lời phỏng vấn của nhà thơ Ngô Nguyên Nghiễm (2010) về câu hỏi, “Sau 1975, rời bỏ bút hiệu Đỗ Nghê, bước sang giai đoạn Đỗ Hồng Ngọc, ấn hành khá nhiều tản văn truyền đạt Y học rồi Phật học. Sự chuyển hướng này có ảnh hưởng thế nào giữa Đỗ Nghê và Đỗ Hồng Ngọc?” Ông cho biết, “Không phải ‘rời bỏ bút hiệu Đỗ Nghê’ đâu. Chỉ là ‘rửa tay gác kiếm tạm thời’ thôi! Thời đó có quá nhiều ‘Ông Đồ xứ Nghệ’, nên Đỗ Nghê tạm lánh đi để tránh nhầm lẫn. Đỗ Nghê / Đỗ Hồng Ngọc vẫn là một đó chứ dù là viết dưới dạng nào đi nữa bạn không thấy sao?”

Ông viết sách dành cho mọi người ở mọi lứa tuổi và được biết đến với nhiều tư cách: bác sĩ, nhà văn, nhà thơ, nhà tư vấn tâm lý…

Đỗ Hồng Ngọc tự nhận xét về mình: “Tôi vốn ít hay cười. Ngay từ nhỏ, người ta đã gọi tôi là “một ông cụ non”, vì lúc nào cũng có vẻ đạo mạo, nghiêm túc quá. Sau này ra hành nghề, làm một người thầy thuốc, một người dạy học, tôi như càng nghiêm túc, đạo mạo hơn. Tại cái tạng, biết sao! Thấy bạn bè vui vẻ, khoái hoạt… tôi cũng thích lắm mà không làm sao bắt chước được. Chỉ đôi khi đọc sách có chỗ nào dí dỏm thâm trầm kín đáo một chút, tôi mới tủm tỉm cười một mình. Tôi cũng không biết hút thuốc, không uống rượu, không bia bọt, thường chỉ ‘phá mồi’ trong những bữa họp mặt đông vui làm bạn bè vừa thương vừa giận! Cũng tại cái tạng thôi.”
(Trích Lời ngỏ Như Ngàn Thang Thuốc Bổ)

“Đó là một người có cái tên rất ‘đàn bà’ nhưng lại là một người đàn ông thứ thiệt. Hồi tôi giữ mục Phòng mạch Mực Tím trên báo Mực Tím dành cho tuổi mới lớn, nhiều em viết thư: Thưa cô, em có điều này rất bí mật, không dám nói với ai…

Thứ hai, đó là một ông già mà nhiều người tưởng hãy còn trẻ lắm, nhờ tóc chưa bạc nhiều và viết lách lăng nhăng làm cho người ta cười…

Thứ ba, đó là một bác sĩ nhà quê đến nỗi người ta không biết là bác sĩ, vì toàn nói chuyện làm sao cho người ta biết tự bảo vệ và nâng cao sức khỏe mình, ít phải lệ thuộc vào thầy vào thuốc…”
(Trích Phụ lục Biết Ơn Mình)

TUỔI THƠ TRONG THỜI LOẠN

Cha ông tên Đỗ Đơn Trì và mẹ là bà Nghê Thị Như, nhưng khi đi làm thẻ căn cước, người làm hộ tịch ghi bừa là họ Lê. Ngày còn nhỏ, ông thường được nghe mẹ đọc truyện Kiều, ca dao, hát ru…

Ông tâm sự, “mình chỉ có ‘Tháng Sinh Nhựt’ (!). Vì bà Má nói tuổi thì Canh Thìn (1940), sanh tháng 8, ở nhà bảo sanh Cô mụ Bé, dưới chân cầu sắt Phan Thiết, ngày thì Bà không nhớ, giờ thì hình như… sáng sớm, vì thế tử vi coi cũng không được! Tản cư trong rừng bảy năm, về thành trễ học, phải làm lại Thế vì Khai sanh 1943 (con Dê) để vào lớp. Tóm lại tuổi thì vừa Rồng vừa Dê.”

“Lúc 5 tuổi, tôi cùng gia đình từ La Gi (Bình Tuy, nay là Bình Thuận) tản cư lên rừng ở vùng Láng Găng, Bưng Riềng (Xuyên Mộc, Bà Rịa – Vũng Tàu). Bị sốt rét triền miên, kiết lỵ, suy dinh dưỡng… đủ thứ.

Lúc 10 -11 tuổi (khoảng 1950), tôi ở nhà Ngoại đi học trường Gò Ông Nồm (gần Gò Đình bây giờ). Xung quanh lớp học, có đào nhiều hầm chữ U, chữ V, chữ Z để khi có máy bay đến thì tất cả nhào xuống hầm tránh bom… Ngày ngày đi học chân trần trên bờ ruộng, có mấy gốc mù u rậm rịt nghe nói có ma cũng ớn. Hàng ngày chỉ mang theo lủng lẳng cơm bó trong mo cau, kèm với con cá khô nướng. Buổi trưa cả bọn tắm ở mấy cái mương lớn, rồi đi móc đất sét vò thành mấy viên bi, bỏ vào lò gạch gần đó, đợi ít ngày thì viên bi chín cứng, màu sắc khá đẹp. Thời đó, bắn bi với đánh chõng là thú vui duy nhất của đám học trò. Các anh chị lớn, 15, 16 tuổi cũng học chung. Chỉ có tới lớp Ba là hết.”

Người bạn cùng quê – nhà văn Nguyễn Hiệp – cũng chia sẻ, “Trường Gò Ông Nồm, đó là ngôi trường nhỏ vài ba lớp tiểu học, được cất sơ sài trong thời kháng chiến, trên gò đất cao thuộc thôn Hiệp Trí, xã Tân Hiệp, quận lỵ Hàm Tân (nay thuộc xã Tân Thuận, Hàm Thuận Nam, Bình Thuận), nơi bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc có những buổi học đầu tiên trong đời. Ngày nay trường không còn nữa nhưng thỉnh thoảng những người thân trong nhà cứ nhắc câu chuyện đôi giày của cậu bé Ngọc như một giai thoại đáng yêu của tuổi học trò miền quê. Chuyện rằng: Bé Ngọc được mẹ đi Phan Thiết mua cho đôi giày vải mới, cậu quý lắm, cứ ngắm hoài không chán. Sáng hôm sau, Ngọc mang đôi giày mới đến lớp với niềm vui thích hân hoan trong lòng, nhưng khi gần vào đến sân trường, nhìn chân các bạn hầu hết là mang guốc gỗ hoặc không giày dép gì cả, bé Ngọc dừng lại hồi lâu, nghĩ rằng mình mang giày mới mà các bạn thì không ai có, sợ các bạn buồn, Ngọc cởi giày đem giấu trong lùm cây và đi chân trần vào lớp cho giống các bạn. Chuyện của con nít, không có gì lớn lao, nhưng quả thực nó là tín hiệu nhạy cảm, tinh tế đầu tiên được biểu lộ của tâm hồn một con người biết thật sự quan tâm, thật sự yêu thương những người sống quanh mình.”

Ý CHÍ VÀ NGHỊ LỰC VƯƠN LÊN

Theo lời ĐHN, cha ông bị bệnh lao mất khi tản cư ở rừng Bàu Lời vì thiếu thầy, thiếu thuốc khi ông mới 12 tuổi (1952). Ông theo mẹ về tá túc trong một ngôi chùa với người cô bị tật nguyền. Lúc đó ông chỉ cân nặng 25kg, da xanh mét, lá lách sưng to, mỗi ngày phải đi nhà thương thí để chích thuốc. Riết rồi ghiền cái mùi nhà thương. Và cũng từ lúc đó ông có ý muốn học Y khoa.

Ông kể, “Thế rồi, một hôm cậu Ngu Í điên của tôi đến thăm. Người ta nói ông điên vì ngộ chữ dù ở quê tôi ông là người hay chữ nhất, được bà con rất quý trọng. Thấy tôi 12 tuổi rồi mà học hành ấm ớ trong rừng, ông dẫn tôi tới trường tiểu học của một người bạn gửi cho học miễn phí. Ông còn tặng tôi một đống sách báo từ Sài Gòn mang về. Tôi mê tít. Mới đầu, nhà trường cho tôi vào học thử lớp 3. Vài tháng sau nói tôi học được cho lên lớp nhì (lớp 4 bây giờ). Vài tháng sau nữa cho tôi vào thẳng lớp nhất (lớp 5). Trường tư, trong một ngôi chùa, nếu học giỏi thì được miễn phí. Tôi học giỏi. Cuối năm nhất lớp, chở phần thưởng về chùa bằng… xe xích lô! Cô tôi khen ngợi thưởng cho 10 đồng, đủ ăn năm chén chè sâm bổ lượng với mấy người bạn thân!

Tôi thi đậu cao vào đệ thất (lớp 6) Phan Bội Châu. Hằng ngày vừa đi học, vừa lo cơm nước cho mẹ tôi bán hàng ngoài chợ. Thế rồi, giữa chừng lại bỏ học vì cả gia đình dời về quê cũ La Gi. Tỉnh mới thành lập, chưa có trường trung học. Tôi thất học, phụ bán hàng xén với mẹ ở chợ La Gi. Ba năm sau mới có lớp đệ thất đầu tiên trong một ngôi nhà thờ. Nhớ lại hồi nhỏ học nhảy tưng bừng của mình, tôi tính chuyện học nhảy tiếp. Nhân một chuyến theo xe chở cá nước đá về Sài Gòn bổ hàng cho mẹ, tôi lang thang lề đường nơi bán sách cũ, vớ được cuốn “Kim chỉ nam của học sinh” của tác giả Nguyễn Hiến Lê. Tôi đọc thấy trúng ý mình quá, bèn đánh bạo viết thư hỏi ý kiến ông nói muốn học nhảy có nên không. Ông trả lời ngay: “Cháu có thể học nhảy được, vì đọc thư thấy sức cháu có thể học lớp đệ tứ (lớp 9) rồi đó”. Tôi bèn lập chương trình học nhảy.

Thi đậu ngay Trung học đệ nhất cấp, lại nhảy tiếp bỏ đệ tam, đậu tú tài I rồi tú tài II. Khi đó tôi băn khoăn trước ngã ba đường giữa học y, học sư phạm hay học văn khoa. Cái nào cũng thích. Ông Nguyễn Hiến Lê lần nữa khuyên nên học y để giúp gia đình, giúp đời, nếu học giỏi có thể dạy học và nếu có tâm hồn vẫn có thể viết lách được. Đã có nhiều nhà văn là bác sĩ như Chekhov, Cronin, Sommerset Maugham… Tôi đã làm đúng như thế. Tôi học y nhưng ghi danh học thêm văn khoa, xã hội học, những ngành tôi thích. Những năm này tôi đã vào Sài Gòn ‘du học’, ở nhà trọ, ăn cơm tháng trong khu ổ chuột Bàn Cờ (Q.3) và thường xuyên đến thăm ông Nguyễn Hiến Lê. Ông luôn động viên, khuyến khích việc học của tôi. Khi báo Bách Khoa ra số đặc biệt kỷ niệm 100 đầu sách của ông, tôi viết bài ‘Ông Nguyễn Hiến Lê và tôi’. Ông nói đây là ‘món quà’ quý nhất của ông. Ông đã coi tôi như một người học trò ‘chân truyền’ rồi vậy.”

NHỮNG NGƯỜI CÓ ẢNH HƯỞNG LỚN

Trong một trả lời phỏng vấn, ĐHN cho biết: “Chính là nhờ mẹ tôi luôn động viên khuyến khích – bà là người rất có ý chí – lại nhờ cậu tôi là nhà văn Nguiễn Ngu Í dẫn đến trường và nhất là nhờ những cuốn sách quý giá của ông Nguyễn Hiến Lê đã ảnh hưởng lớn đến tôi như Kim chỉ nam của học sinh, Gương danh nhân, Gương can đảm, Gương kiên nhẫn… Tuổi thơ tôi gặp nhiều khó khăn nhưng may mắn là luôn có những tấm gương tốt quanh mình để tôi noi theo.”

Về nhà văn Nguiễn Ngu Í, tên thật Nguyễn Hữu Ngư (1921-1979), ĐHN chia sẻ:

Mẹ tôi và ông là chị em cô cậu ruột. Mẹ ông họ Nghê nên ông còn có bút danh là Ngê Bá Lí, với cách viết “đặc biệt” của ông. Tôi gọi ông bằng cậu, gần gũi và thân thiết. Cha tôi mất sớm, mẹ con tôi về trú ngụ ở nhà cô tôi trong một ngôi chùa nhỏ ở Phan Thiết, lúc đó ông đang làm báo ở Saigon về thăm, thấy tôi thất học bèn dẫn tôi tới gởi vào trường tiểu học của bạn ông là cô Hồ thị Tiểu Sính (con ông Hồ Tá Bang) để tôi được đi học lại. Sau này khi vào Saigon học, tôi gần như sống hằng ngày bên ông.

Ông viết văn, làm báo, có nhiều bút hiệu: Trinh Nguiên, Tân Fong Hiệb (ghép địa danh quê nhà Tam Tân, Phong Điền, Hiệp Nghĩa), Ngê Bá Lí, Trần Hồng Hừng, Ki Gob Jó Cì, Fạm Hoàn Mĩ… Bút danh Nguiễn Ngu Í được nhiều người biết đến, nổi tiếng là một ký giả chuyên phỏng vấn các vấn đề văn học nghệ thuật cho tạp chí Bách Khoa thập niên 1960s tại Sài Gòn.

Ông có lối viết tiếng Việt rất đặc biệt, rất riêng, gây ít nhiều tranh cãi, ít nhiều khó chịu cho người đọc, nhưng vẫn có cái lý riêng của ông. Thí dụ ông thấy không hợp lý khi ta viết NGA, nhưng lại NGHE (ông sửa lại NGE), GA nhưng GHE (ông sửa lại GE…).

Ông có một vài tác phẩm về sử, đặc biệt về Quang Trung và về Hồ Quý Ly trong thời gian dạy sử ở vài trường trung học, ký Fạm Hoàn Mĩ; ông cũng có vài cuốn tiểu thuyết như “Suối Bùn Reo”, “Khi người chết có mặt”, v.v… Nhưng tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là “Sống và Viết với …”, do Ngèi xanh xuất bản (1966), tập hợp các bài phỏng vấn trên báo Bách Khoa với các nhà văn nổi tiếng đương thời Nhất Linh, Đông Hồ, Bình Nguyên Lộc, Nguyễn Hiến Lê, Hồ Hữu Tường, Sơn Nam, Doãn Quốc Sỹ… (sau này Xuân Thu in lại ở nước ngoài). Ông cũng chuẩn bị ra mắt các cuốn “Sống và Vẽ với…” phỏng vấn các họa sĩ, và “Sống và Đàn với…” phỏng vấn các nhạc sĩ. Tiếc thay ý nguyện chưa tròn. Ngoài ra ông còn có một tập thơ “Có những bài thơ”, do Trí Đăng xuất bản, 1973.

Trong thời gian nằm ở Dưỡng trí viện Biên Hòa vì bệnh thần kinh, ông cùng các “bạn điên” có ra một tập thơ, lấy tên là “Thơ điên thứ thiệt” rất thú vị, do ông làm chủ biên (có mấy bài của Bùi Giáng). Thời đó, ngoài thuốc men, các bác sĩ ở Dưỡng trí viện Biên Hòa còn khuyến khích bệnh nhân làm thơ, vẽ tranh, đánh cờ, lao động tay chân, v.v… như một liệu pháp chữa trị tâm bệnh. Khi được hỏi vì sao gọi là “Thơ điên thứ thiệt”, thì ông cười bảo vì lúc này có nhiều người làm thơ giả điên quá!

Ông thường xuyên ra vào các nhà thương điên Biên Hòa và Chợ Quán:

Cũng tưởng một đi không trở lại
Nào ngờ duyên nợ lại dằng dai
Bỗng nhiên sực tỉnh nằm trong “khám”
Khám của lòng ai, ai của ai…
(Bài thơ tái ngộ Dưỡng trí viện, 1966)

Trong một bài thơ khác, ông viết:

Ta đi lang thang
Ta nói tàng tàng
Ta cười nghinh ngang
Ta chửi đàng hoàng
…
(Bài thơ tự giết, 1966)

“Chửi đàng hoàng” quả không phải là chuyện dễ, nhưng với ông thì ông làm được. Hỏi chửi ai? Ông nói: “Chửi cả và thiên hạ, trong đó có mình!”

Ông có nhiều bài thơ hay. Bài thơ viết cho Mẹ rất cảm động:

Má ơi con má điên rồi
Má còn trông đứng đợi ngồi mà chi…

Năm 1960, một lần tôi có dịp đi với ông trên bãi biển từ La Gi về Ngảnh Tam Tân (Bình Thuận) đến Nước Nhỉ, ông dừng chân nghỉ và nằm lim dim trên đống cát gạch vụn, dưới bóng mát của các bụi dứa gai um tùm nhìn lên trời mây… Một lúc ông gọi tôi đến và đọc cho nghe bài thơ vừa làm xong. Tôi còn nhớ mấy câu:

Nằm đây mà ngó lên trời
Lá cây dứa đã mấy đời đong đưa
Nằm đây mà nhớ mơ hồ
Những xanh tóc ấy bây giờ về đâu…

Thì ra ông nhớ mấy người bạn cũ, trong đó có Ba tôi, đã cùng nhau xây cái giếng Nguồn Chung ở Nước Nhỉ này cho khách bộ hành qua đường nghỉ ngơi, uống bụm nước ngọt, nhỉ ra từ động cát, giữa trưa nắng gắt trên đường dọc biển mênh mông đầy nắng và gió.

Cuộc đời ông nhiều truân chuyên, tài hoa nhưng mắc bệnh không thể chữa được. Tuổi lớn, cơn điên ngày càng nhặt. Có lần ông nằm giữa xa lộ Biên Hòa cho xe Mỹ cán, nhưng họ kịp dừng, chở thẳng vào nhà thương điên. Có lần ông trốn viện, bắt đom đóm làm đèn đi trong giờ giới nghiêm cũng bị bắt lại…

Trước đó, hình như ông biết trước cái chết của mình, viết một bức thư như là một di chúc cho vợ ông. Ông ước ao được thả trôi trên một chiếc thuyền nhỏ, đục thủng đáy, nhét nút lại, rồi để thuyền trôi lênh đênh trên biển Thái Bình Dương, để được nhìn trời mây nước cho thỏa thích, rồi rút nút cho thuyền chìm dần và chết trong bụng cá, cho “Ngư về với Cá”. Thế nhưng ông chết với lửa. Ông được hỏa táng ở An dưỡng địa Phú Lâm và đưa về đặt kề ông bà và dì Nga ở Ngảnh Tam Tân. Tôi nhớ hai câu thơ từ lâu của ông:

Bao nhiêu chí trẻ rồi tro bụi
Một thoáng tình xa cũng ngậm ngùi.

Ông là bạn cùng lớp, cùng trường Pétrus Ký với Trần văn Khê, Lưu Hữu Phước… Gia đình có làm một tập tư liệu về ông: Ngu Í Nguyễn Hữu Ngư, qua ký ức người thân, do mợ tôi, bà Nguyễn Thị Thoại Dung thực hiện (1996), gồm các bài viết của Bà Tùng Long, Trần Văn Khê, Lê Ngộ Châu, Lê Phương Chi, Phan Chính, Hoàng Hương Trang, Hồ Trường An, Trần Huiền Ân, Tô Dương Hiệp, Đỗ Đơn Chiếu, Phan Khắc Khoan, Đỗ Hồng Ngọc…

Sau này, khi về La Gi – Tam Tân, tôi có một bài thơ viết cho ông:

Đêm trên biển La Gi
(tặng cậu tôi, Nguiễn Ngu Í)

Sóng cuốn từng luồng trăng lại trăng
Đêm Hòn Bà dỗ giấc ai nồng
Phẳng lì bãi cát buồn hiu ngóng
Cao vút hàng dương quạnh quẽ trông
Đá cũ mòn rêu hoài đá Ngảnh
Nguồn xưa cạn nước vẫn Nguồn Chung
Về đâu mái tóc xanh ngày ấy
Câu hỏi ngàn năm có chạnh lòng…
 (ĐHN 1990)

Còn về học giả Nguyễn Hiến Lê (1912-1984), trả lời câu hỏi của ông Hai Trầu trên trang dutule.com (2013), ĐHN cho biết, “Tôi may mắn được quen biết với ông NHL từ năm 1957 đến năm ông mất, 1984. Suốt thời gian đó, tôi thường gặp ông, khi trực tiếp khi thư từ qua lại. Đến nay tôi vẫn còn giữ nhiều thư viết tay của ông như một kỷ niệm. Tôi học được ở ông lối sống và lối viết. Ông là tấm gương nghị lực, gương tự học, chọn con đường làm văn hóa suốt đời mình.

Câu ‘châm ngôn’ của ông là ‘Viết để học và học để viết’. Tôi chịu lắm. Chỉ có cách đó mình mới học được nhiều, học được sâu. Tôi bây giờ còn đi dạy và vẫn nghĩ: ‘Dạy để học và học để dạy’.

Ấy là bắt chước ông đó.

… Tôi vẫn luôn nghĩ ông là một ‘người hiền’ – người hiền Nam bộ, dù sinh ở đất Bắc. Khiêm tốn, giản dị, chính trực. Ông sống tri túc, kham nhẫn, hết lòng vì sự nghiệp “trồng người”. Năm 1986, hai năm sau ngày ông mất, báo Thanh Niên nhờ tôi viết một bài về ông. Đó là bài đầu tiên viết về NHL sau 1975. Tôi đặt tựa là ‘NHL, nhà giáo dục’, nhưng tòa soạn sửa thành ‘NHL, một tấm gương kiên nhẫn’. Tôi nghĩ ông xứng đáng được gọi là ‘Nhà giáo dục’. Anh biết không, thật bất ngờ khi sách của ông bây giờ được rất nhiều bạn trẻ ở miền Bắc đọc, nghiền ngẫm, ứng dụng. Họ thực hiện các tủ sách Nguyễn Hiến Lê, trao đổi cho nhau…”

Trong bài viết “Nguyễn Hiến Lê và tôi” (tạp chí Bách Khoa số 426 ngày 24-4-1975), ĐHN cũng nhắc đến, “Quen biết ông mới thấy ít ai yêu tiếng mẹ như ông. Muốn cho ông ‘thao thao bất tuyệt’ thì cứ việc nói đến tiếng Việt, nói về tiếng Việt với ông. Ông chịu không nổi khi thấy một chữ bị dùng sai. Còn nhớ khi bọn sinh viên chúng tôi vận động chuyển ngữ Việt tại trường Y khoa, ông đã hỗ trợ bằng những bài báo nẩy lửa. Lúc đó giọng không còn cái vẻ nghiêm túc, hiền lành, điềm đạm thường ngày nữa mà sôi nổi, gay gắt, phẫn nộ, đầy khích động.

Tôi chịu nhiều ảnh hưởng của ông. Cuốn sách đầu tay của tôi, ‘Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò’, chỉ là phần bổ túc cho cuốn ‘Kim chỉ nam của học sinh’. Sau tôi viết thêm một cuốn khác, cũng loại y học phổ thông, cũng nằm trong chiều hướng nâng cao trình độ đại chúng mà ông đã vạch. Ông nói muốn cho nước giàu, dân mạnh thì không phải chỉ một người hay một nhóm người làm được, mà phải toàn dân cùng ý thức, cùng thực hiện. Muốn vậy phải đặt nặng vấn đề giáo dục đại chúng.

Với tôi, ông là một tấm gương sáng. Tấm gương của Nghị lực, của Tự học và của Phụng sự.

Nhìn lại toàn bộ tác phẩm ông, không ai chối cãi giá trị của những Đông Kinh nghĩa thục, Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười, Đại cương triết học Trung Quốc, Ngữ pháp Việt Nam… và những Chiến tranh và hòa bình, Sử ký Tư Mã Thiên, Chiến quốc sách… Những tác phẩm đó thực sự có ích cho các nhà nghiên cứu, các sinh viên đại học và đã đóng góp một phần đáng kể cho nền văn hóa miền Nam. Nhưng theo tôi, những tác phẩm quan trọng trong đời ông, đáng cho ông hãnh diện chính là những tác phẩm nho nhỏ, ông viết nhằm giáo dục thanh thiếu niên, hướng dẫn họ trong việc tự huấn luyện trí đức. Đó là Kim chỉ nam của học sinh, Tự học để thành công, Tương lai trong tay ta, Rèn nghị lực… Và nhất là bộ Gương danh nhân của ông.

Cuộc đời ông quả thật là một tác phẩm lớn. Tôi là độc giả của ông từ ngày còn là một học trò đệ thất, lại được quen biết ông hơn 15 năm nay, nghĩ lại, nếu trong thời thơ ấu không được đọc những sách đó của ông, không được gặp ông, có lẽ tôi cũng đã khác; nên tuy không được may mắn học với ông một ngày nào, từ lâu tôi vẫn xem ông là một vị thầy của mình, hơn thế, một người thân. Tôi đâu có cần phải nói cám ơn ông!”

NGHỀ

Nghe theo lời khuyên của học giả Nguyễn Hiến Lê, ĐHN đã nộp đơn và trúng tuyển kỳ thi vào Lớp Dự bị Y khoa (APM) năm 1962. Bên cạnh đó, ông cũng ghi danh ở Văn Khoa và về sau học thêm Xã Hội Học ở Đại học Vạn Hạnh. Theo chương trình thời đó, Y khoa học 7 năm, sinh viên năm thứ ba được đi thực tập tại các bệnh viện. Ra trường phải thi tốt nghiệp, đậu bốn môn Bệnh lý (Nội, Ngoại, Sản, Nhi) thì được gọi là bác sĩ và hành nghề bác sĩ, sau khi đã đăng ký vào Y sĩ đoàn và thực hiện đúng Nghĩa vụ luận Y khoa. Sau đó, những ai làm luận án và bảo vệ thành công thì được nhận Văn bằng Tiến sĩ Y khoa Quốc gia (Doctorat en Médecine, Diplôme d’Etat). Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đã đậu kỳ thi tốt nghiệp năm 1969 và trình luận án Tiến sĩ, đề tài “Bệnh Sốt rét cấp tính ở Trẻ em” vào năm 1970 với Hội đồng Giám khảo gồm GS Phan Đình Tuân, GS Nguyễn Văn Út và GS Nguyễn Thế Minh…

Ông là Bác sĩ chuyên khoa Nhi. Nguyên nội trú ủy nhiệm Bệnh viện Nhi Đồng Sàigòn (1968-1969), Trưởng phòng cấp cứu Nhi (1973-1975), sau 1975 là Trưởng khu Phòng khám Cấp Cứu BV Nhi Đồng 1 TP. HCM (từ 1975-1985), Giám đốc Trung tâm Truyền thông – Giáo dục Sức khỏe TP. HCM (1985-2005), Tu nghiệp Y tế công cộng tại Đại học Harvard Hoa Kỳ (1993) và Giáo dục sức khỏe tại CFES, Pháp (1997), Giảng viên thỉnh giảng Bộ môn Nhi, Đại học Y dược TP. HCM (1981-1995), Trưởng Bộ môn Khoa học hành vi & Giáo dục sức khỏe, Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch (1995- 2014). Từ 2014 là cố vấn Bộ môn Y Đức – Khoa học hành vi, Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, TP. HCM. Hiện nghỉ hưu ở Sài Gòn.

ĐHN chia sẻ, “Ngay từ khi còn là một sinh viên y khoa, đi thực tập ở Bệnh viện Nhi Đồng, tôi đã mê trẻ con để trở thành một bác sĩ nhi khoa. Khám chữa bệnh cho trẻ con có cái thú là chúng không… biết nói, thỉnh thoảng còn giật kiếng cận và ống nghe của mình, lúc cao hứng còn… tè vào mặt mình. Thú vị nữa là chỉ cần bẵng đi một thời gian, đã thấy chú nhóc bệnh nhi dạo nọ bế trên tay một… chú nhóc khác – là con của chú – đến nhờ khám chữa bệnh tiếp!”

Nói về nghề thầy thuốc, Bs ĐHN cho biết, “Tôi nghĩ y đức không chưa đủ. Còn phải có tay nghề, kỹ thuật chuyên môn nữa. Không nên tách bạch bởi hai cái là một. Nói y đức suông mà không có tay nghề thì… hại người ta nhiều hơn, làm người ta “đau” nhiều hơn. Còn giỏi kỹ thuật chuyên môn mà thiếu y đức thì làm cho người ta “khổ” nhiều hơn. Người thầy thuốc phải quan tâm cả cái đau và cái khổ của con người. Y đức không đơn giản, không phải là một khẩu hiệu, phải được học tập và rèn luyện xuyên suốt quá trình học y khoa và hành nghề.

Tôi không cảm thấy có bước chuyển nào cả khi bước vào tuổi hưu. Y khoa vốn là một nghề độc lập. Người thầy thuốc có thể làm việc suốt đời nếu còn đủ sức khỏe. Nghề văn cũng vậy, là một nghề tự chủ, có thể làm việc suốt đời, nếu còn thấy hứng thú. Tôi rất hoan nghênh các bạn trẻ muốn theo nghề y. Đây là một ngành đang có nhu cầu rất lớn của xã hội. Nhưng chọn học y là chọn con đường gian nan, tiếp xúc thường trực với những nỗi đau, nỗi khổ của kiếp người (sinh, lão, bệnh, tử)… Phải thật sự yêu nghề và có năng lực. Nói chung, học y cần có lý tưởng nhân đạo, một “tiếng gọi sâu thẳm” (vocation) của nghề nghiệp. Nếu học y để mong đầu tư… làm giàu trên bệnh nhân thì không nên! Thật ra, học y cũng rất thú vị, nhiều thử thách, đòi hỏi trách nhiệm cao. Người bác sĩ luôn đứng trước lương tâm của mình. Hạnh phúc rất lớn khi thấy mình sống hữu ích cho gia đình, cho cộng đồng, cho xã hội. Cứu sống một mạng người bằng lập năm bảy kiểng chùa, phải không?

VÀ NGHIỆP

ĐHN chia sẻ, “Tôi mê văn thơ từ hồi nhỏ, đọc gần hết tủ sách trong một tiệm cho mướn sách ở Phan Thiết. Cô Hai tôi (đi xe lửa trúng mìn, bị gãy cả hai chân) cư ngụ trong một ngôi chùa nhỏ, thường kêu tôi đi mướn sách về cho cô đọc, nhưng lại cấm tôi đọc vì con nít đọc truyện không tốt, mê, bỏ học. Mỗi lần đi mướn truyện, tôi lén đọc hết dọc đường đi, có khi ngồi gốc cây đọc xong mới về. Tôi còn ghi chép tóm tắt nội dung, các nhận xét của mình vào một cuốn vở.

Tôi nhớ những bài văn của mình hồi học lớp Nhứt (lớp 5) thường được thầy khen và đọc trước lớp. Rồi cậu tôi là ông Ngu Í Nguyễn Hữu Ngư làm báo ở Saigon về thăm, cho một đống sách báo, tranh ảnh. Tôi mê tít.

Bài thơ đầu tiên đăng trên báo Bách Khoa năm 1960, ký với một cái tên tắt. Tuy biết ông Ngu Í cậu mình làm ở đó nhưng tôi giấu ông. Khi báo đăng, tôi mới nói. Ông ngạc nhiên và khen ngợi. Sau đó tôi lấy bút hiệu Đỗ Nghê và đăng nhiều thơ trên Bách Khoa, Mai, trong Ban biên tập báo Tình Thương (với Phạm Đình Vy, Ngô Thế Vinh, Trần Mộng Lâm…), rồi ở trong nhóm chủ trương bán nguyệt san văn học nghệ thuật Ý Thức (Nguyên Minh, Lữ Kiều, Lữ Quỳnh, Trần Hoài Thư, Lê Ký Thương…).

Năm 1967, đang là sinh viên Y, tôi in tập thơ đầu tay Tình Người và sau đó là các tập Thơ Đỗ Nghê (1974), Giữa hoàng hôn xưa (1993), Vòng Quanh (1997), Thư cho bé sơ sinh & Những bài thơ khác (2010) …

Tôi không viết ‘chuyên nghiệp’ được như Nguyễn Hiến Lê, tôi chỉ viết khi có hứng. Bây giờ có máy vi tính cũng tiện. Khi hứng đến, tôi cứ viết ào ào rồi để đó, năm bảy ngày sau cho nó ‘hoai’ đi mới ‘chỉnh’ lại đôi chút. Tuy nhiên, khi báo đặt bài gấp thì cũng viết ngay được. Lâu lâu gom lại có thể in thành một cuốn sách như Thư gởi người bận rộn, Chẳng cũng khoái ru, Nhớ đến một người, … Tôi không viết được truyện, vì không có khả năng… hư cấu!”

Đến nay, họ Đỗ có khoảng 60 đầu sách thuộc ba tủ sách Văn học, Y học, và Phật học được xuất bản, trong đó vài cuốn được dịch ra ngoại ngữ. Có thể nói nhờ có văn chương mà sách Y học và Phật học của ông dễ đi vào lòng người, được độc giả ưa chuộng.

Riêng về phần thơ, với người viết, thơ Đỗ Nghê / Đỗ Hồng Ngọc không bí hiểm, kiểu cách hoặc màu mè… Những từ, những chữ rất đời thường được ông khéo léo đặt vào đúng vị trí nên thành “đắc địa”, rất tuyệt, khiến người đọc có thể cảm được cái không khí, cái thời tiết được nhắc đến trong bài thơ nên rất thích và rất thấm. Chẳng hạn:

Đi giữa Sài Gòn
Phố nhà cao ngất
Hoa nở rực vàng
Mà không thấy Tết

Một sáng về quê
Chợt nghe gió bấc
Ơ hay xuân về
Vỡ òa ngực biếc!
(ĐHN – Gió bấc)

Hay là:

Tuyết bay
Bay nhẹ
Phố Tàu

Gió co
Ro lạnh
Phố
Đìu hiu
Theo
(ĐHN – Tuyết)

Người viết rất đồng thuận với nhà thơ Trịnh Y Thư, “Thơ ông là tiếng nói, tiếng nói thầm thì nhưng trong veo và có sức mạnh chuyển tải cảm xúc, biểu hiệu cho một tâm hồn thơ giàu suy cảm. Nhờ thấm đẫm Thiền vị, thơ Đỗ Nghê thắt buộc sự hiện hữu của con người vào thế giới xung quanh, và quan trọng hơn, tìm ra được quan hệ hài hòa giữa sự hiện hữu ấy với thế giới.”

VÀ CŨNG CÓ MỘT “HỌA SĨ” ĐỖ HỒNG NGỌC

Có lẽ ít người biết ĐHN vẽ tranh, trừ nhóm bạn của ông. Những tranh bút sắt ông vẽ rất “tới” như Đà Lạt, Quê Nhà, Tà Cú, Phan Thiết, Harvard Square… Ông cũng vẽ những phác thảo chân dung bạn bè: Thầy Tuệ Sỹ, Đinh Cường, Lữ Kiều, Lữ Quỳnh, Khuất Đẩu, Lê Ký Thương, Nguyễn Lệ Uyên, Trần Vấn Lệ… Và cả những bức chân dung rất thú vị khi “len lén” quan sát những nhân vật mà ông có dịp gặp gỡ đã được kể lại trong “Áo Xưa Dù Nhàu…” như nhà thơ Huy Cận (1996), Giáo sư Trần Văn Khê (1997).

Còn nhớ năm 2014, khi biết tôi về thăm nhà lúc cuối năm, họa sĩ Đinh Cường “bỏ nhỏ”: “Khi nào về Sài Gòn nhớ nói Ngọc vẽ cho một bức…” Tôi chỉ trả lời: “Em không dám đâu…” vì nghĩ tới Khánh Minh… Thời đó, anh Ngọc toàn vẽ các bạn nam, chưa người nữ nào có hân hạnh được anh vẽ. Một bữa, chị KM nói anh Ngọc vẽ cho một bức chân dung, nhưng anh thoái thác bằng một bài thơ:

thục nữ
gởi khánh minh

em bảo vẽ cho em một bức chân dung
chân dung người làm thơ
một người làm thơ nữ
trời đất ơi
làm sao vẽ được chân dung
một người làm thơ nữ
đom đóm hái sao

tôi nhắm mắt lại nhìn em
cho rõ
lần đầu gặp ở trương thìn,
đây khánh minh
rồi làm thinh

tôi thấy em thục nữ,
tại sao mà làm thơ
rồi nhìn thêm lần nữa
oan oan thư cưu

cho đến một hôm nơi ồn ào kia
quanh bè bạn thân quen đâu từ kiếp trước
em tặng mỗi người tập thơ còn ướt
những bài thơ hình hiện muôn đời
như không thôi đi được…

tôi nhắm mắt nhìn em cho rõ
thử hình dung ra cái hình dung
rồi vẽ vào không gian trong
một người làm thơ nữ

khi mở mắt ra
em tan biến
đành ghi vội mấy dòng
tạ lỗi!

Đỗ Hồng Ngọc
(9.2014)

Nhưng cuối cùng, chị KM đã đạt được ước mơ có một bức phác thảo chân dung do anh Ngọc vẽ vì cảm bài thơ “Sắc Màu Bay” của chị.

Nghĩ mình kém cỏi, không thể nào làm thơ hay được, nên tôi chọn im lặng… Chẳng ngờ, anh Đinh Cường nói với anh Ngọc sao đó, nên rốt cuộc tôi cũng được một bức phác thảo anh vẽ tặng. Vui ơi là vui! Anh Đinh Cường khen bức đó lắm “nét là tài hoa hồn là người”… Sau này, anh Ngọc còn vẽ cho chị Duyên và Thu Vàng nữa…

BÀI THƠ “THƯ CHO BÉ SƠ SINH”

Giáo sư Huỳnh Như Phương nhận xét, “… Với bài ‘Thư cho bé sơ sinh’, ngòi bút Đỗ Nghê không chỉ tranh đấu cho hòa bình như một lẽ phải đương nhiên, mà còn suy ngẫm về thân phận con người trong một thời buổi nhiễu nhương và phả hơi ấm tình yêu con người trong một cấu trúc ngôn ngữ hiện đại. Thật kỳ lạ, ở tuổi 25, Đỗ Hồng Ngọc đã tự đặt cho mình một cột mốc thơ ca mà chính ông không dễ gì vượt qua. Ni sư Giải Nghiêm ở Canada có lý khi cho rằng nhiều bài thơ và bài viết của Đỗ Hồng Ngọc về sau này dường như là một sự nối dài ‘Thư cho bé sơ sinh’.

‘Thư cho bé sơ sinh’ còn đặc trưng cho thơ Đỗ Hồng Ngọc ở điểm này: tác giả khai thác nhiều khía cạnh tương phản của đời sống: tiếng khóc và nụ cười, màu sáng và màu tối, thực chất và nhãn hiệu, cái bé bỏng nhỏ nhoi và cuộc đời rộng lớn; nhưng không đẩy nó vào thế đối lập mà đưa những tương phản đó thành những hợp thể. Phải chăng đây cũng là dấu ấn của lý tưởng hòa hợp trong thơ ông sau này, khi ông viết những bài thơ mang hơi thở thế sự hay mang tâm thức thiền học.”

Trường hợp sáng tác bài thơ này được Bác sĩ ĐHN chia sẻ:

“Bài thơ ‘Thư cho bé sơ sinh’ tôi viết năm 1965, trong một đêm trực ở Bệnh viện Từ Dũ, sau một ca đỡ đẻ đầu tiên trong đời của một sinh viên y khoa thực tập. Hồi đó, phải học đến năm thứ ba y khoa chúng tôi mới được phép đỡ đẻ trên người. Mỗi sinh viên phải đỡ ít nhất 20 ‘ca’ sanh thường, không bệnh lý. Tối tối, chúng tôi túc trực ở phòng nhận bệnh để ‘bắt ca’. Một hôm, tôi bắt được ca ‘4 cm’, nghĩa là ca mà cổ tử cung đã nở gần trọn, sắp sanh. Tôi đưa sản phụ lên phòng sanh, thăm khám, làm vệ sinh các thứ, theo dõi cơn co tử cung, ghi chép cẩn thận vào hồ sơ bệnh án rồi ngồi bên trò chuyện cho sản phụ quên đau. Tôi nghĩ đến mẹ mình, đến những giọt mồ hôi của biết bao bà mẹ chờ sanh khác. Đến gần sáng thì cơn đau đã rột. ‘Lúng túng’ một cách lành nghề, tôi cũng đã đỡ được ca đầu tiên mẹ tròn con vuông! Lòng lâng lâng tôi đẩy xe cho hai mẹ con về phòng, rồi viết bản ‘phúc trình’. Trời đã hửng sáng. Bên ngoài khung kính cửa phòng sanh, Sài Gòn tấp nập và hừng hực không khí ngột ngạt những ngày tháng này của năm 1965.
Đột nhiên, một cảm xúc trào dâng, tôi viết liền một mạch ngay sau phần bệnh án một bài thơ nhỏ:

Thư cho bé sơ sinh

Khi em cất tiếng khóc chào đời
Anh đại diện đời chào em bằng nụ cười
Lớn lên nhớ đừng hỏi tại sao có kẻ cười người khóc
Trong cùng một cảnh ngộ nghe em

Anh nhỏ vào mắt em thứ thuốc màu nâu
Nói là để ngừa đau mắt
Ngay lúc đó em đã không nhìn đời qua mắt thực
Nhớ đừng hỏi vì sao đời tối đen

Khi anh cắt rún cho em
Anh đã xin lỗi chân thành rồi đó nhé
Vì từ nay em đã phải cô đơn
Em đã phải xa địa đàng lòng mẹ

Em là gái là trai anh chẳng quan tâm
Nhưng khi em biết thẹn thùng
Sẽ biết thế nào là nước mắt trong đêm
Khi tình yêu tìm đến

Anh đã không quên buộc étiquette vào tay em
Em được dán nhãn hiệu từ giây phút đó
Nhớ đừng tự hỏi tôi là ai khi lớn khôn
Cũng đừng ngạc nhiên sao đời nhiều nhãn hiệu

Khi em mở mắt ngỡ ngàng nhìn anh
Anh cũng ngỡ ngàng nhìn qua khung kính cửa
Một ngày đã thức giấc với vội vàng, với hoang mang,
Với những danh từ đao to búa lớn
Để bịp lừa để đổ máu đó em

Thôi trân trọng chào em
Mời em nhập cuộc
Chúng mình cùng chung
Số phận
Con người…

Đỗ Nghê
(Đỗ Hồng Ngọc, Bv Từ Dũ, 1965)

Sáng hôm sau, giáo sư HNM đọc bản phúc trình của tôi, gọi tôi vào rầy: ‘Đỡ đẻ không lo đỡ đẻ, lo làm thơ!’. Chẳng ngờ bài thơ viết vội trong đêm trực đã phổ biến nhanh trong giới sinh viên và nữ hộ sinh thời đó. Không biết ai đã viết lên bảng đen! Bài thơ được đăng trên báo Tình Thương, rồi in lại trong tập thơ ‘Tình Người’ của tôi, năm 1967.

Số phận bài thơ khá ly kỳ. Năm 1973, Bác sĩ Lương Phán đăng lại ‘Thư cho bé sơ sinh’ trong một tạp chí y học do ông phụ trách, và đã trả nhuận bút rất hậu! Tôi nhớ thời đó thơ ít khi được trả nhuận bút. Ngay cả báo Bách Khoa cũng chỉ trả trung bình 50 đồng cho một bài thơ, nhưng bác sĩ Lương Phán đã trả tôi… 5000 đồng! Ông nói, ‘vì tôi rất thích bài thơ này’. Điều cảm động là sau ngày đất nước thống nhất, nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu (sinh ở Phnom-Penh 1935 và mất ở Saigon 1998, tốt nghiệp nhạc viện Paris, còn có bút danh là Phạm Trọng) chống nạng đến thăm tôi – trước đó chúng tôi chưa từng quen biết nhau – nói chỉ để tặng cho tác giả thơ bài hát ‘Thư cho bé sơ sinh’ mà anh đã phổ nhạc từ trong nhà tù nhờ đọc được cuốn tạp chí y học của bác sĩ Lương Phán. Anh nói anh viết bài này là để dành riêng cho ca sĩ Thái Thanh hát! Và cũng từ đó nhạc sĩ đã rất thân thiết với tôi. Chúng tôi vẫn thường gặp nhau luôn, nhất là mỗi khi anh có bài hát mới, thường kêu tôi tới để hát cho nghe! Anh luôn ‘mày tao’ rất dễ thương, vì anh lớn hơn bọn tôi đến mấy tuổi!

Còn chú bé – hay cô bé? – sơ sinh của tôi lúc đó thì nay đã gần 40 rồi còn gì! Biết đâu cũng đang là một người “bận rộn”, chẳng có thì giờ để đọc những dòng chữ này. Dầu vậy, tôi vẫn rất muốn nói cảm ơn em!

Khoảng năm 1995 tôi có dịp làm việc với ba vị bác sĩ, là giảng viên của Trường Trung học Y tế tỉnh Phú Thọ ở miền Bắc lần đầu vào Saigon. Trong lúc chuyện trò, có người tình cờ nhắc bài thơ ‘Thư cho bé sơ sinh’ của tôi thời sinh viên thì thầy Nguyễn Hồng Hải, một trong ba vị bác sĩ đến từ Phú Thọ bỗng chồm lên, ôm lấy tôi, mừng rỡ: ‘Thế ra anh là tác giả bài thơ đó ư?’.

Rồi thầy đọc liền một mạch. Thầy nói gần 20 năm nay, năm nào dạy lớp nữ hộ sinh ở Phú Thọ, thầy đều đọc cho họ nghe bài thơ mà thầy không biết tác giả là ai, chỉ nói ‘khuyết danh’ thôi. Gần đây, tôi tình cờ phát hiện trên mạng, có một bản dịch sang tiếng Anh bài ‘Thư cho bé sơ sinh’ của Phát (Phat’s blog), một người không quen biết, với những lời bình thật sâu sắc!”

NHỊP CẦU Ô THƯỚC

Nhà văn Trần Hoài Thư chia sẻ, “Tôi có được cơ duyên gần gũi với nhà thơ họ Đỗ này trong một thời gian khi tôi làm lính vùng hai. Cứ mỗi lần đi phép, tôi hay chọn SG để về. Có hai nơi để tôi qua đêm. Đó là cái cabin của vợ chồng họa sĩ Hồ Thành Đức & Bé Ký và căn lầu của Đỗ Nghê tại một hẻm gần khu Bàn Cờ.

Và những lần rảnh rỗi, Đỗ Nghê vẫn hay chở tôi bằng chiếc Vespa đi rong chơi các phố SG, hoặc có khi đêm đêm hai đứa ghé tại một quán bánh cuốn lộ thiên ở đầu hẻm. Một chàng bác sĩ luôn luôn chỉnh tề chững chạc, miệng hay nở nụ cười, với đôi kính trắng, dáng người phốp pháp, đi đứng thì ung dung, nói năng từ tốn, không bao giờ chửi thề, hiền như bụt… lại làm bạn với một tên lính bụi đời, phóng đãng, thì quả là chuyện lạ, khiến một số bạn bè ngạc nhiên không ít.

Làm sao họ biết có một thứ chung như keo kết dính chúng tôi. Đó là lòng yêu mến nghệ thuật, thi ca chảy trong máu huyết.

Bằng chứng? Hãy nhìn quanh ông: bạn bè toàn là nhà văn, nhà thơ.

Với mẫu người như vậy, nào ai biết ông đã lập một kỳ công là xây cái nhịp cầu Ô Thước ngay tại con đường Phan Đình Phùng SG gần tòa soạn Bách Khoa để giúp một chàng Ngưu Lang từ chót vót Trường Sơn và nàng Chức Nữ ở mút tận đồng bằng châu thổ gặp nhau! Cái cầu ấy được thực hiện bằng chiếc Vespa mà ông đã làm tài xế để thả chàng xuống trước tòa soạn, rồi sau đó dzọt lẹ!”

ĐHN cũng kể: Trần Hoài Thư từ xa về, ở tạm nhà tôi mấy hôm để tôi đưa đến Tòa soạn Bách Khoa “coi mắt” người trong mộng đã hò hẹn qua thư. Nàng ở tận miền Tây, mê THT qua thơ văn… Hai người chưa hề biết mặt nhau. Suốt mấy ngày, THT đi vào đi ra nôn nao lắm. Tôi đưa anh đi bằng cái xe Vespa cà tàng của tôi nơi này nơi khác, lúc café, lúc bánh cuốn nóng đầu hẻm cho vui, nhưng anh không vui mấy mà có vẻ lo lo. Đi phép có mấy ngày. Thời chiến. Bách Khoa có Lê Ngộ Châu như ông mai, môi giới cho hai trẻ…

Hôm đó đúng hẹn với Y, người trong mộng tại báo Bách Khoa, tôi thấy anh hồi hộp lắm, ăn mặc có chút chải chuốt hơn như chàng rể đi coi mắt vợ. Tôi lấy xe Vespa cà tàng của mình đưa anh đến BK và lén bỏ đi ngay cho họ tự do tâm tình mà không có mặt mình. Ai dè lát sau THT về nhà, tiu nghỉu, đầy vẻ thất vọng vì nàng không đến như lời ước hẹn mà cũng không một lời giải thích. Ngay sáng sớm hôm sau, anh “cuốn gói” lên đường, trong một nỗi tuyệt vọng rã rời chưa bao giờ tôi thấy ở một chàng trai “giang hồ” đầy khí phách nơi gió cát như vậy. Tôi không dám có một lời khuyên. Đành đưa anh lên đường và hai bạn vào một quán café góc phố trên con đường Phan Đình Phùng xóm Bàn Cờ quen thuộc.

Tôi nhìn anh rít thuốc lá như nuốt hết khói vào trong. Thời chiến. Mùa hè đỏ lửa. Tôi biết anh đi không chắc trở lại. Bỗng dưng tôi viết rất nhanh:

Ta cũng muốn ngâm tràn câu tống biệt
Đưa người đi tiếng sóng ở trong lòng
Nhưng khói thuốc đã cay sè đôi mắt
Có ai còn thổi sáo trên sông…

Trời buổi sáng mù sương lớp lớp
Người hành trang nỗi tuyệt vọng rã rời
Và khí phách thôi một thời trẻ dại
Ta nói gì cho bớt chút chia ly…

Rồi đột nhiên không cầm lòng được, tôi bỗng viết tiếp:

Người yêu thương cũng vội vàng lỗi hẹn
Còn gì không hay một thoáng chiêm bao
Ơi cánh chim của mùa xuân lỡ đến
Khoảng trời xanh còn chất ngất xôn xao

Ta bè bạn dám đâu lời can gián
Một giờ yêu cũng đủ một đời vui
Hãy tin tưởng có hôm nào trở lại
Cho trời xanh và mây trắng đẹp đôi…

Rồi tôi quay trở lại với dòng thơ “tống biệt” của mình:

Đưa người ta nâng ly cà phê nhỏ
Rồi quan san rồi bụi đỏ người đi
Rồi khói súng người tập tành nỗi chết
Ta trở về hiu hắt đường khuya

Ta đã nói gì hình như chưa nói
Những dặn dò những hứa hẹn bâng quơ
Rồi người bước đường hoang lạnh quá
Ta đứng nhìn nghe ngày tháng đong đưa…
(Đỗ Nghê, 1972)

Khi in tập Thơ Đỗ Nghê năm 1974 – (Ý Thức xuất bản, ronéo, dành tặng bạn bè anh em – do Lữ Kiều Thân Trọng Minh, Trần Hữu Lục, Nguyễn Sông Ba … thực hiện ở Đà Lạt với hình bìa tranh Nguyễn Trung do Hoàng Đăng Nhuận trình bày, rồi Hoàng Khởi Phong mang xe chở sách về tận Saigon cho Đỗ Nghê) thì tôi đã đăng nguyên 6 khổ của bài Buổi tiễn đưa này, thế nhưng 20 năm sau, khi in lại trong tập Giữa hoàng hôn xưa, tôi cắt bỏ hai khổ giữa, vì nghĩ đây là chuyện rất riêng tư, không nên nhắc, có thể khiến THT buồn! Vả lại, bài thơ cắt gọn sẽ cô đọng hơn.

May thay, tôi còn giữ được bản thảo do Lữ Kiều gởi lại cho. Chuột gậm, mối nhấm, nhưng có hề gì! Bản thảo đánh máy trên giấy pelure mỏng, máy chữ Olivetti, cắt dán, phết keo phía sau thời đó trông cứ tưởng như bài thơ bị xóa.
Không đâu, keo hồ đó thôi, phải không Trần Hoài Thư?

ĐỖ CHÂU LA NGÀ

La Ngà là con sông lớn chảy qua La Gi quê nhà của Đỗ Hồng Ngọc. Theo Wikipedia, sông La Ngà bắt nguồn từ cao nguyên Di Linh ven khu vực thành phố Bảo Lộc thuộc tỉnh Lâm Đồng, chảy qua các tỉnh Lâm Đồng, Bình Thuận, Đồng Nai. Đó cũng là tên người con gái đầu lòng của ông đã mất năm 1990 vì tai nạn giao thông trong một chuyến đi công tác xã hội tại Bình Chánh với các bạn ở trường Y.

Câu chuyện được Bác sĩ / Nhà văn Minh Ngọc, người bạn cùng lớp với Đỗ Châu La Ngà, hiện ở Nữu Ước, Hoa Kỳ, là Clinical Assistant Professor khoa Gây mê, Chăm sóc chu phẫu và Thuốc giảm đau tại Trường Y khoa NYU Grossman Long Island, chia sẻ trong tùy bút “Người Bạn Trong Mơ” sau đây:

“Đỗ Châu La Ngà, con gái đầu lòng của BS. Đỗ Hồng Ngọc, là bạn cùng lớp với tôi hai năm đầu sinh viên. Lúc đó BS. Đỗ Hồng Ngọc phụ trách Trung tâm Truyền thông – Giáo dục sức khỏe Sở Y Tế, ông bà dạy con rất nghiêm theo nề nếp gia đình trí thức hồi xưa nên Ngà giản dị hồn nhiên, bạn bè ai cũng thương mến. Tôi bây giờ gần nửa đời, gặp gỡ không biết bao nhiêu người, vẫn thấy hiếm có ai như Ngà, luôn luôn nở nụ cười tươi tắn trên môi, hòa nhã ôn tồn với mọi người, không hề thấy Ngà cao giọng hay lớn tiếng, giận hờn trách móc ai.

Lúc đó chúng tôi chuẩn bị lên năm thứ ba. Nghỉ hè, các lớp được phân công trực đêm ở trường. Đêm đó lớp tôi trực, cũng đủ trò như mọi khi, ăn uống, cười giỡn, kể chuyện ma, đánh bài, đàn hát. Đám con gái ngồi bàn tán chuyện mua sách giáo khoa vì đã lâu trường chưa tái bản nên rất khó tìm. Tôi khoe vừa mua được ở tiệm sách cũ gần trường Dự bị Đại học, Ngà biết tiệm đó nhưng không hiểu sao một mực bắt tôi hứa phải đi mua sách với Ngà, tôi hứa để hai ba bữa nữa rồi đi. Sáng, chúng tôi thu dọn đồ đạc đi về, Ngà ngồi một mình trên băng đá trước phòng bảo vệ đọc cuốn “Kiến và chim bồ câu” của Leo Tolstoy. Tôi hỏi sao chưa về, Ngà cười nói Ngà chờ đoàn công tác xã hội của trường. Tôi nói vậy đi vui nghe, rồi tôi về nhà ngủ.

5

Buổi chiều trời mưa dông nên sập tối sớm, tôi mới ngủ dậy thì nghe đám con trai trong lớp kêu cửa inh ỏi. Chị tôi ra mở cửa và lấy nước cho rửa chân. Kim Minh thấy mặt tôi nói liền: “Bà thay đồ đi với tụi tui. La Ngà chết rồi!”. Tôi nói: “Giỡn gì kỳ vậy?”. Mân và Thái Minh kể sáng hôm đó Ngà đi theo đoàn công tác xã hội lên trường khuyết tật ở Bình Chánh. Ngà đạp xe đi song song với Thúy Nga, tới Phú Lâm thì bị chiếc xe buýt từ phía sau tông trúng. Lúc đó đường vắng không có xe, anh trưởng đoàn phải kêu chiếc xích lô chở Ngà về Chợ Rẫy, một nhóm chạy về nhà báo tin cho ba mẹ Ngà. BS. Đỗ Hồng Ngọc chạy tới phòng cấp cứu bệnh viện Chợ Rẫy thì Ngà đã tắt thở trên đường đến bệnh viện, ông đứng khóc ròng. Ngà bị thương tích quá nặng.

Tôi vào hỏi ba má tôi, chắc mặt tôi thất thần lắm nên ba má tôi khuyên để hôm sau hãy đi, sợ tôi xúc động quá (tôi vốn bị loạn nhịp tim nhanh, supraventricular tachycardia). Chiều hôm sau tôi đến, đã có một nhóm bạn trong lớp. Ngà nằm trên chiếc giường trong phòng khách, mặc chiếc áo trắng quen thuộc, thanh thản như ngủ say. Chúng tôi lên thăm căn phòng xinh xắn của Ngà, những cuốn nhật ký, sổ tay chép thơ dán ảnh trang trí, Ngà cũng có làm thơ nữa mà chúng tôi không biết. Ngày đưa tang Ngà lên nghĩa trang nằm bên bờ sông La Ngà quê nội, trời mưa dầm sụt sùi. Chúng tôi nhìn tấm ảnh Ngà tươi cười lồng trên bia mộ mà không cầm được nước mắt, nụ cười và đôi mắt tinh nghịch sau cặp kính đó vĩnh viễn chúng tôi không bao giờ còn thấy được nữa.

Sau ngày đưa tang Ngà, đêm nào ngủ mơ tôi cũng thấy Ngà mặc chiếc áo trắng, năn nỉ đi mua sách với Ngà đi. Má tôi bàn hay là đem cuốn sách đốt cho Ngà rồi khấn cho Ngà siêu thoát.

Chưa kịp làm thì cuốn sách của tôi tự nhiên biến mất tìm không ra, rồi tôi cũng không thấy Ngà nữa.

Ngày Ngà mất, BS. Đỗ Hồng Ngọc làm một bài thơ với những câu cuối như sau:

Cô học trò Minh Khai
– Gia Long của mẹ –
Cô sinh viên trường thuốc
– Tuổi trẻ của ba –
Con đã lớn lúc nào ba má không hay biết
Cứ tưởng con còn nhỏ xíu thôi
Đến khi con mất đi rồi
Mới biết con đã lớn!”

Minh Ngọc
Tháng 10/2018

Đó là vết cứa sâu thẳm trong tim, nỗi đau âm ỉ vô cùng, và sự mất mát quá lớn mà bậc cha mẹ phải gánh chịu, dù vẫn nhận biết: “Cuộc sống tự nó là nỗi hiểm nguy và sự bất an, sự chuyển động bất tuyệt, và tự nó cũng là nỗi hân hoan, là niềm cực lạc. Thật là tuyệt khi ý thức cuộc sống là vô thường, luôn thay đổi, chuyển động… để rồi tuyệt vọng, thất vọng vì không được như ý”.

Đã bao nhiêu năm qua nhưng không lúc nào ông quên người con yêu với nụ cười hiền dịu, tươi tắn. Những bài thơ ông viết cho La Ngà là những bài thơ xót xa nhất, xúc động nhất, không thể ngăn được dòng lệ tiếc thương.

Tình yêu

Trước mộ con còn ướt
Ba nói với bè bạn ba rằng
Hãy yêu thương con mình cách khác
Đừng như ba
Giấu kín trong lòng

Bởi tình yêu
Có bao giờ cho đủ
Có đâu sợ dư thừa
Ba đã sai lầm bao nhiêu

Hãy tỏ bày đi
Vồ vập đi
Âu yếm ồn ào đi
Tình yêu
Có bao giờ cho đủ
Có đâu sợ dư thừa

Ba đã sai lầm bao nhiêu
Vì cứ chờ cứ đợi
Có biết đâu
Đời như mây nổi
Như gió thổi
Như chiêm bao
Ơi bài học tự thuở nào
Sao bây giờ mới hiểu

Muốn vồ vập con hôm nay
Muốn âu yếm con mãi mãi
Thì đã muộn rồi
Có bao giờ thừa thãi
Tình yêu?
 (ĐHN 1990)

La Ngà 5

Ba dạy con
Mỗi ngày
Một chút

Không bài học nào
Như ba đã học
Từ con:

Nỗi mất! (ĐHN – 1990)

Ngày giỗ con, ông viết bài thơ “Giỗ một dòng sông” se sắt được nhạc sĩ Thuần Nhiên Nguyễn Đức Vinh ở Đà Lạt phổ thành bài nhạc “Sông ơi cứ chảy…” vào mùa Giáng sinh 2017 như một khúc réquiem cho nước mắt lặng lẽ trôi ngược vào tim.

Giỗ một dòng sông

Sông ơi cứ chảy
Cứ chảy về trời
Cứ về biển khơi
Cứ làm suối ngọt
Cứ làm thác cao
Cứ đổ ầm ào
Cứ làm gió nổi
Cứ làm mây trôi…

Sông ơi cứ chảy
Chảy khắp châu thân
Chảy tràn ra mắt
Chảy vùi bên tai

Dòng sông không tắt
Dòng sông chảy hoài… (ĐHN)

MỘT NGÀY CỦA BÁC SĨ ĐỖ HỒNG NGỌC

Trò Chuyện với Bác Sĩ Đỗ Hồng Ngọc (Nhà thơ Đỗ Nghê) kỳ 23 – 30.9.2013
(Nguồn: dutule.com)

Sáng thức dậy, không cần biết mấy giờ. Trừ những ngày phải đi dạy học còn thì cứ ngủ… thẳng giấc. Ngủ cần thiết cho tuổi già lắm. À, mà già chưa nhỉ thì không biết. Vệ sinh cá nhân các thứ xong,… ngồi thiền chừng 30 phút, tựa lưng vào giường, lim dim nhìn vào vách (diện bích?) vì nhà chật quá. Chỉ theo phương pháp thiền “quán niệm hơi thở” (Anapanasati) vì đây là một phương pháp thiền có cơ sở khoa học, sinh học, đáng tin cậy nhất, dưới cái nhìn của một bác sĩ, không có chuyện thần bí, mê tín dị đoan ở đây. Mươi năm nay, ngày nào cũng vậy, đã thành một thói quen, thiếu thì thấy… thiếu! Tiếp đó là thể dục, cũng chừng 30 phút, với những động tác tự “sáng chế” riêng phù hợp với thể chất mình, sức khỏe, tuổi tác mình. Phật dạy “hãy quay về nương tựa chính mình” là vậy. Bởi nếu có thầy dạy cho thì thầy thường ép mình phải theo cách của thầy. Chỉ nên nắm lấy nguyên tắc thôi! Nhờ thiền và thể dục đều đều như vậy mà mươi năm nay không bị đau lưng, nhức mỏi như trước, làm việc dẻo dai hơn và không phải dùng nhiều thuốc. Chỉ dùng mỗi một thứ để ổn định huyết áp sau cái vụ stroke phải mổ năm xưa.

Từ những trải nghiệm bản thân này, tôi cũng vừa cho in cuốn “Thiền và Sức khỏe” để chia sẻ kinh nghiệm cùng bè bạn gần xa, nhất là những người có tuổi hay ốm đau, phiền muộn.

Tắm rửa xong thì tự pha cho mình một ly café filtre, với yaourt thay vì sữa đặc có đường (trừ những ngày đi dạy hoặc đi “nói chuyện sức khỏe” đâu đó thì tăng cường một gói mì gói cho đủ calo). Café-yaourt ư? Phải. Cũng tự chế ra vậy thôi, vì yaourt tốt hơn sữa đặc! Nhớ André Maurois kể, một hôm ngồi café vỉa hè Paris, đang dùng muỗng lách cách khuấy tách café sữa thì đột nhiên “ngộ” ra một điều thú vị: Thì ra cái dải Ngân hà (la Voie lactée) vĩ đại kia hình thành chỉ do ai đó tình cờ hí hoáy khuấy tách café sữa khiến dòng sữa vỡ ra thành những dải tinh vân xoay vần trong vũ trụ…

Lúc này tôi vẫn còn dạy chút ít ở Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch Saigon, ít thôi, lai rai thôi. Đi dạy thì có cái thú được gặp sinh viên và nhớ lại thuở đôi mươi của mình. Tôi dạy kiến thức chút chút, những điều cốt lõi thôi, còn thì dành thì giờ kể chuyện xưa nay, đông tây kim cổ cho các em nghe, để từ đó rút ra bài học về cách sống, cách học, cách hành nghề sau này… Mấy năm nay tôi cũng ít trực tiếp khám bệnh, vì đã có đứa con “nối nghiệp”. Chẳng bao lâu nữa, tôi nghĩ mình cũng sẽ như người bắn cung thiện xạ nọ không còn biết cây cung, mũi tên là cái chi chi! Trái lại, tôi thường được mời đi đây đó để “nói chuyện sức khỏe” (health talk), với các đề tài như Thở để chữa bệnh, Thiền và sức khỏe, Một nếp sống hạnh phúc, Một tuổi già hạnh phúc, Cân bằng cuộc sống, Stress trong đời sống hằng ngày v.v… Mỗi buổi đi nói chuyện như vậy, với tôi, là một cơ hội để giao lưu và học hỏi.

Sau đó rồi thì ngồi vào máy vi tính. Trả lời “meo”. Đọc chút báo mạng. Có hứng thì lọc cọc gõ chút gì đó, sai be bét cũng mặc, đợi ít lâu cho nó “hoai” đi rồi sửa dần. Có cái vi tính cũng hay. Không khổ sở như hồi máy đánh chữ! Lại tiện lợi gởi “meo”, gởi hình trong nháy mắt. Ở Việt Nam, người ta đùa: “Dân ta phải biết sử ta / Ai mà không biết thì tra Google!”…

Từ ngày về hưu rồi thì thứ Bảy và Chủ nhật mới là ngày… làm việc thực sự! Lu bu nhất mấy ngày đó. Đi dự đám cưới đủ mệt. Thỉnh thoảng dạo cảnh chùa. Có dịp thì lang thang đây đó, lên rừng xuống biển, về quê. Tôi vẫn thường ngồi tán gẫu với bạn bè ở các quán café vắng vẻ, nơi bờ ao, bờ hồ, còn chút thiên nhiên… Nhớ lần ngồi café với Nguyễn Tường Bách ở Đức về, nói chuyện trên trời dưới đất, từ Big Bang đến Niết Bàn các thứ, lúc ra về Bách nói ai mà nghe mình nói chuyện sáng nay chắc nghĩ bọn mình điên!

Bây giờ đọc ít thôi. Mắt kém. Đọc trên mạng nhiều hơn sách báo vì có thể phóng to lên được. Lạ, từ ngày nghiền ngẫm kinh sách Phật, thấy cũng mê như đọc kiếm hiệp!

Xưa viết cho nhiều báo, nay gần như chỉ viết cho Văn hóa Phật giáo, Giác Ngộ, Từ Quang…

Nhớ năm đó nhóm bạn Ý Thức ngồi café cùng Nguyễn Mộng Giác, Giác bảo viết như Đỗ Nghê mà hay đó, hỏi tại sao, đáp tại vì Đỗ Nghê viết về “sanh lão bệnh tử”… của kiếp người! Lúc đó Giác vừa mới mổ gan về thăm anh em. Nhớ Jean Paul Sartre bảo cuốn La Nausée của ông không có ý nghĩa gì trước một em bé sắp chết đói ở Châu Phi! Lúc đó ông chỉ mong có một ổ bánh mì!

Cũng tại cái “nghiệp” thầy thuốc của tôi thôi! Nó thế. Tôi không có khả năng “hư cấu” nên không viết được truyện dài truyện ngắn tiểu thuyết như các bạn mình. Thơ tôi bây giờ cũng đặc quánh lại, có khi chỉ vài câu như khi viết mấy câu cho Mẹ trong ngày Vu Lan năm ngoái:

Con cài bông hoa trắng
Dành tặng mẹ đóa hồng
Mẹ nhớ gài lên ngực
Ngoại chờ bên kia sông…

Hoặc một bài cho tình xa:

Lá chín vàng
Lá rụng về cội
Em chín vàng
Chắc rụng
Về anh…

Đại khái vậy. Không biết có phải là thơ không nữa!

Nhắc lại, giấc ngủ rất quan trọng. Phải ngủ đủ. Khoảng 7-8 tiếng một đêm ở tuổi này. Khi nào buồn ngủ thì đi ngủ, không thì thôi. Bài viết “Có một nghệ thuật ngủ” của tôi được nhiều bạn bè chia sẻ. Nhà văn Hồ Anh Thái ở Hà Nội bảo đã photocopy ra khá nhiều để gởi cho bạn bè vì lúc này nhiều người mất ngủ quá! Trên thế giới thì thuốc ngủ vẫn là thuốc bán nhiều nhất! Tuổi càng cao, càng cần ngủ, như pin điện thoại xài lâu, sạc phải càng lâu. Ăn thì rất đơn giản thôi. Có gì ăn nấy. Tôi thường tự chế biến thức ăn cho mình, theo ý mình. Càng ngày tôi càng học tốt hơn hạnh sống “độc cư”, “kham nhẫn / tri túc”.

QUỸ THỜI GIAN

Hình như tôi không có ý niệm có một “quỹ thời gian” nào đó, bởi tôi không thể biết trước tôi có bao nhiêu, đã xài hết bao nhiêu, còn lại bao nhiêu để… lên kế hoạch. Bùi Giáng có câu “Một đời lận đận đo rồi đếm / Gối mỏi người đi đứng lại ngồi” nhớ không?

Tôi sống có vẻ hồn nhiên quá chăng? Lúc Mẹ tôi còn sống bà hay bảo tôi ngu hạng nhất, nhưng tôi cãi, chỉ ngu hạng nhì hay hạng ba thôi! Bà đành cười trừ!

“Xưa nay hiếm” là cái thời của Khổng Tử. Mới mấy hôm trước đây, tôi làm “em xi” (MC) cho một buổi “giao lưu” của những người cao tuổi, có bác sĩ-họa sĩ Dương Cẩm Chương, 103 tuổi, giáo sư nhạc sĩ Trần Văn Khê, 93 tuổi; nhà giáo Đàm Lê Đức, 83 tuổi, nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương. Với họ, tôi hãy còn quá trẻ! Kinh nghiệm là khi mình có tuổi, nên thường xuyên gặp gỡ những người cao tuổi hơn để lúc nào mình cũng “quá trẻ” như vậy! Nhớ nhà văn Võ Hồng ở Nha Trang năm xưa kể vào năm tuổi 70 của ông, người ta làm một buổi họp mặt long trọng mừng thầy Võ Hồng, ai cũng phát biểu chúc mừng thầy “cổ lai hy”. Khi đứng lên đáp từ, ông trịnh trọng đưa tay sờ vào cổ mình và nói thất thập cổ lai hy, rồi lần tay xuống ngực lục thập ngực lai hy, ngũ thập bụng lai hy… và tứ thập… làm mọi người la hoảng và cười vỡ một trận!

Lâu lâu gặp bạn cũ tôi giật mình thấy bạn già quá, da mồi tóc bạc, nhăn nhúm trong khi tôi… vẫn như xưa! Dĩ nhiên, lúc đó bạn tôi cũng thấy tôi già quá, da mồi tóc bạc, nhăn nhúm trong khi bạn vẫn như xưa. Thì ra, đó là một diễm phúc của cuộc sống! Không ai ngờ mình già cả. Nguyên Sa bảo “người ta chỉ có thể đo đếm được tuổi mình qua ánh mắt cố nhân”. Mà lạ, khi gặp lại “cố nhân”, bạn bè hồi niên thiếu, ôn lại chuyện xưa một lát, bỗng thấy mình nhỏ xíu lại, như không hề có thời gian. Mà thật, không hề có thời gian. Cái đồng hồ, cái ngày tháng nọ kia, chẳng qua là những giả định, vui thôi! Khi tôi viết những dòng này, thì tôi đang ở giữa trưa ngày thứ bảy trong khi bạn đang ở nửa khuya ngày thứ sáu! Cho nên Phật dạy: đừng bám vào ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng thì mới “thoát” được. Thế nhưng, tuổi già sinh học thì có. Một lần nọ, một chị còn khá trẻ bồng đứa bé đến tôi khám bệnh. Đứa bé la khóc om sòm, chị dỗ: “Nín đi, nín cho ông ngoại khám con!”. Thì ra tôi đã đến ông ngoại rồi mà không hay. Tôi hỏi theo thói quen: Chị là gì của cháu? “Dạ, bà ngoại”. Chị trả lời ngon ơ. Rồi bỗng đâm ra bẽn lẽn. Tôi phải đánh trống lảng ngay! Nhưng chuyện đó xưa rồi, hai mươi năm trước rồi. Mới đây, tôi gặp lại một người quen cũ quê nhà, hơn nửa thế kỷ chưa gặp. Nàng nhắc chuyện đi câu cá, hái chùm ruột đến trèo động cát như mới ngày nào. Đột nhiên nàng nói bây giờ em đã có cháu gọi bằng bà Cố!

Tôi nhớ Trịnh Công Sơn viết: “Về thu xếp lại/ Ngày trong nếp ngày/ Vội vàng thêm những lúc yêu người… Cuồng phong cánh mỏi/…” mà tôi đã trích dẫn trong cuốn Gió heo may đã về (1997), nhưng khi gởi tặng cho anh bạn nhạc sĩ Miên Đức Thắng lúc đó đang ở Đức, anh phone phản đối: làm gì có chuyện vội vàng thêm những lúc yêu người! Tôi hiểu, anh vẫn đang còn rất… ung dung, từ tốn kia mà!

Phần tôi, đôi khi cũng thấy mình cần về thu xếp lại/ ngày trong nếp ngày mà… không dễ.

Bừa bãi quen rồi. Lười biếng quen rồi. Xung quanh chỗ ngồi là một chồng sách ngổn ngang, cao nghệu, rất mất trật tự, nhưng có ai lỡ tử tế sắp xếp lại thế nào tôi cũng la toáng lên! Mất trật tự mà tôi biết cái nào nằm ở đâu!

Còn “làm những việc mình thích” ư? Đương nhiên rồi. Nhân sinh quý thích chí. Không cần phải đợi “cổ lai hy” mới vậy. Phải làm những việc mình thích ngay bây giờ đi! Bởi già dẫn tới già cả, già khú đế mau lắm đó!

THI SĨ – BÁC SĨ ĐỖ HỒNG NGỌC

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc là một trong những tên tuổi rất quen thuộc những ngày này. Một bạn trẻ đã vào “còm” trên trang nhà của ông thật cảm động:

“Ngôn từ không thể diễn đạt hết sự biết ơn của con (hay của mọi độc giả). Trang nhà của Bác, nơi trở về của con. “Như không thôi đi được”, phải ghé qua, dạo qua, canh xem bài mới, đọc chầm chậm, thưởng thức, như sợ hết món ngon. Nghiền ngẫm, ứng dụng, tự nhắc nhở, và luôn thấy mình quá may mắn!!

Chúng con như có GPS dẫn đường, một đại lộ sáng sủa, với 26 “cửa hàng” là những hàng hiệu, chất lượng miễn bàn, an tâm, bình yên, thong dong mà well-being và well dying.”
– Đồng Xuân viết – 23/01/2024 lúc 6:34 sáng

Dù là Đỗ Hồng Ngọc hay Đỗ Nghê, ông đều được nhiều người yêu quý. Nói về ông, học giả Nguyễn Hiến Lê nhận định, “Một bác sĩ mà lại là một thi sĩ thì luôn luôn làm cho chúng ta ngạc nhiên một cách thú vị.”
Còn với nhà thơ Phạm Chu Sa, “Nhiều người nghĩ Đỗ Hồng Ngọc là một bác sĩ làm thơ, viết văn và gọi anh là bác sĩ – nhà văn. Nhưng tôi vẫn thích gọi anh là thi sĩ – bác sĩ bởi Đỗ Hồng Ngọc có cốt cách thi sĩ trong con người bác sĩ.”

Trần Thị Nguyệt Mai
Tháng 3/2024

(Nguồn: bienkhoi.com Số 107 Tháng 7.2025)


Tham khảo:
1) Trang nhà Đỗ Hồng Ngọc
2) Trang nhà Du Tử Lê
3) Thư Viện Hoa Sen và các trang mạng khác
4) Sách báo Đỗ Hồng Ngọc
5) Tạp chí Thư Quán Bản Thảo
——-

* “Có người hỏi rằng: Thơ tại sao mà làm ra? Ta giả nhời rằng: Người ta đẻ ra mà tĩnh, là tính Giời cho nguyên như thế; cảm ở vật ngoài mà mới động, thời ấy mới là sự muốn của tính. Đã có muốn thời phải có nghĩ; đã có nghĩ phải có nói; đã có nói thời những cái ý nhị không thể nói hết ra được mà hình hiện ở trong lúc ngậm ngùi ngợi than, tự nhiên tất phải có những giọng điệu cung bực, như không thôi đi được. Ấy tại thế mà sinh ra có thơ.” (Chu Hy, Bài tựa Thi tập truyện 詩集傳, Tản Đà dịch)

 

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Một chút tiểu sử, Thư gởi người bận rộn

Vanvn: Bác sĩ – nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc bị nhầm lẫn và gán ghép trên không gian mạng

15/07/2025 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Bác sĩ – nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc bị nhầm lẫn và gán ghép trên không gian mạng

Cập nhật ngày: 15 Tháng 7, 2025 lúc 11:34
https://vanvn.vn/ua-ong-chua-tien-si-ha-sao-khong-lam-mot-cai/

Vanvn- Cách đây hơn mười năm trên không gian mạng xuất hiện bài viết “Ủa, ông chưa tiến sĩ hả? Sao không ‘làm’ một cái”?, và mới đây nhiều trang cá nhân facebook dẫn lại. Bài viết ký tên Bs.ngoc làm nhiều người nhầm lẫn là của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, gây phiền phức cho ông. Ngoài ra, tên ông còn bị kẻ xấu gán ghép vào quảng cáo thuốc chữa tiểu đường, xương khớp rồi họ dùng cả manchette Báo Thanh Niên gắn vào đấy.

Bác sĩ – nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc

Đỗ Hồng Ngọc là một bác sĩ nổi tiếng, có uy tín lớn. Ông sinh năm 1940 ở Phan Thiết, học tập và làm việc tại Sài Gòn từ trước năm 1975 đến nay. Ông còn là tác giả của nhiều cuốn sách về y học, tâm lý học được đông đảo bạn đọc yêu mến, đồng thời ông còn là nhà thơ với bút danh Đỗ Nghê.

Là một trí thức chuẩn mực, một con người hiền lành, nên văn phong trong bài viết “Ủa, ông chưa tiến sĩ hả? Sao không ‘làm’ một cái”? hoàn toàn không phải là tính cách và diễn ngôn của Bác sĩ – nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc. Ngay cả tác giả bài viết là bsngoc cũng đã đính chính trên trang cá nhân http://bsngoc.wordpress.com rằng, bài viết trên không phải của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, mong mọi người đừng hiểu nhầm.

Bài viết trên có toàn văn như sau:

 

““Ủa, ông chưa tiến sĩ hả? Sao không ‘làm’ một cái”?

Tác giả: bsngoc (http://bsngoc.wordpress.com)

(bị nhầm là của Bs Đỗ Hồng Ngọc lan toả trên mạng).

“PGS-TS-BS” – đó là viết tắt của “Phó giáo sư – Tiến sĩ’ – Bác sĩ”. Nó là biểu hiện của căn bệnh mới phát sinh trong ngành y. Đó là bệnh hám danh, đang làm tan nát hệ thống y khoa và đang biến hóa thành một đại dịch nguy hiểm cho người bệnh.

Ngày nay, cái bằng tiến sĩ như là một cái bùa hộ mệnh. Nó cũng là cái vé xe cho những chuyến xe đò thăng quan tiến chức. Nó là cái boarding pass để leo lên vị trí trưởng khoa, làm hiệu trưởng trường Y.

Tuần rồi đi dự một hội thảo chuyên đề và gặp một anh bạn đồng môn trên bàn cà phê.

“Ủa, ông chưa tiến sĩ hả? Sao không ‘làm’ một cái”? Anh bạn tôi hỏi.

Tôi ngạc nhiên về chuyện “làm một cái”. Tiến sĩ là một cái gì như đồ chơi. Tôi lắc đầu.

“Mình đã già. Mình không có khả năng làm nghiên cứu. Cũng chẳng có thầy đỡ đầu”.

Anh bạn tôi cười lớn nói: “Ông mà già gì, đâu cần khả năng làm nghiên cứu, cũng không cần thầy hướng dẫn, chỉ cần bỏ tiền ra mua thôi”.

Tôi cám ơn tấm lòng của bạn cũ và vẫn thấy mình vui với việc giúp người mà không có những râu ria trước tên mình. Bạn cũ tôi bây giờ là một PGS-TS-BS.

TS-BS bây giờ nhan nhản trong các bệnh viện. Thử dạo một vòng các phòng trong bệnh viện ngoài Hà Nội, sẽ thấy trước cửa phòng ai cũng có danh xưng TS-BS in ngay chính giữa cửa phòng. Bảng hiệu đó cho chúng ta biết người đang ngự trị hoặc chiếm lĩnh căn phòng là một bác sĩ và có bằng tiến sĩ.

Bằng tiến sĩ là học vị cao nhất trong thế giới khoa bảng. Tôi không có con số thống kê để nói, nhưng tôi cảm thấy số bác sĩ có danh hiệu TS-BS nhiều hơn bác sĩ trong các bệnh viện Hà Nội. Sài Gòn đang đuổi theo Hà Nội, sắp đến đích nay mai.

Với đà này, một ngày không xa bệnh nhân sẽ không còn gặp bác sĩ nữa, họ chỉ gặp TS-BS.

Danh và thực lúc nào cũng là hai khía cạnh nhức nhối trong y giới.

Bao nhiêu tiến sĩ của nước ta là do thực tài, bao nhiêu là giả, dỏm. Không ai biết được, nhưng xã hội biết.

Xã hội đã từ lâu phong danh tước “tiến sĩ giấy” cho những kẻ bất tài, hám danh, mua quan bán tước. Cụm từ “Tiến sĩ giấy” ngày càng xuất hiện nhiều trên báo chí, trong những câu chuyện thường ngày.

Tức là xã hội biết rằng ngày nay chúng ta có nhiều tiến sĩ dỏm hơn là tiến sĩ thực.

Anh bạn tôi vừa đề cập trên đây không ngần ngại nói rằng để có cái bằng tiến sĩ, anh phải chi ra nhiều tiền. Hỏi bao nhiêu, anh chỉ cười. Nhưng xã hội biết. Những cái giá 5.000 USD,10.000 USD, 20.000 USD đã được đề cập đến. 100 triệu đồng. 200 trăm triệu đồng. 400 triệu đồng. Có khi 500 triệu.

Đó là những con số chóng mặt cho bệnh nhân nghèo. Ai trả tiền?

Xin thưa không phải bác sĩ, mà là bệnh nhân. Họ sẽ ăn tiền các hãng dược. Hãng dược nâng giá thuốc. Bệnh nhân là người cuối cùng trong vòng tròn này. Bệnh nhân lãnh đủ.

Vì thế, mua bán bằng cấp là một trong những yếu tố làm cho giá thuốc cao đến mức “cắt cổ” như ở nước ta. Những kẻ hám danh và bất tài xem chuyện mua bằng tiến sĩ là một đầu tư. Họ có thể chi ra vài trăm triệu hôm nay, nhưng nay mai thì sẽ được chức quyền.

Một khi đã ngồi vào vị trí quyền lực, họ ra sức vơ vét tiền của người dân để trả lại chi phí mua bằng, mua chức vụ. Người dân

cũng chính là đối tượng sau cùng trong đường dây này.

Đừng trách tại sao dân mình nghèo vẫn hoàn nghèo. Cái cơ chế này làm cho họ nghèo. Đã nghèo thì thường chịu phận hè Ngọc.

bsngoc

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Thư đi tin lại, Vài đoạn hồi ký

10 Năm: GS Nhạc sĩ TRẦN VĂN KHÊ

19/06/2025 By Bac Si Do Hong Ngoc 2 Bình luận

 

Buổi giao lưu tưởng nhớ, kỷ niệm 10 năm ngày mất của Giáo sư – Tiến sĩ Trần Văn Khê đã diễn ra trong không khí ấm cúng do Hội Quán Các Bà Mẹ và Chi nhánh NXB Phụ Nữ TP.HCM phối hợp tổ chức sáng 14/06/2025 tại TP.HCM.

Các khách mời, học trò, những người mến mộ Thầy Khê đã tham dự và cùng dạo lên những bản nhạc, chia sẻ những cảm xúc về Thầy rất xúc động.

(…)

TS Phạm Thị Hồng Phượng

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Nguyễn Linh:

Cuộc gặp gỡ đầy cảm xúc đã khơi dậy trong tôi những kỷ niệm sâu sắc về Thầy Trần Văn Khê, người mà chúng tôi luôn tự hào gọi bằng danh xưng “Thầy”.

Mười năm trôi qua từ ngày Thầy rời bỏ cõi tạm, nhưng hình ảnh hiền hòa và tình yêu văn hóa dân tộc trong Thầy vẫn sống mãi trong tâm trí tôi. Những câu hát ru ầu ơ, bài vọng cổ hay những làn điệu Quan họ Bắc Ninh luôn gắn liền với di sản văn hóa phong phú của dân tộc, khiến lòng tôi ngập tràn tự hào.

Thầy không chỉ là một tài năng lớn mà còn là nguồn cảm hứng cho bao thế hệ yêu mến nghệ thuật. Tôi cảm thấy may mắn khi được gặp và học hỏi từ Thầy, người đã để lại dấu ấn mãi mãi trong trái tim của những người yêu văn hóa Việt Nam”.

phunuhiendai.vn

(hình ảnh: ĐHN)

 

Thuộc chủ đề:Ghi chép lang thang, Góc nhìn - nhận định

Hỏi chuyện Học Phật với Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

22/05/2025 By Bac Si Do Hong Ngoc 1 Bình luận

 

Hỏi chuyện Học Phật với Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

(Nhân đọc bản thảo Chuyện Hồi Đó)

Minh Lê (Nha Trang)

 

  1. Trong bài thơ “Xin cám ơn, cám ơn” viết sau cơn bạo bệnh năm 1997, anh viết:

“Đã bao lâu ta không sống với mình

Ta có ta mà quên ta phứt.”

 “Ta quên ta” là sao, và có gì liên hệ với lời dạy của Phật không?

 

Tôi sinh đẻ ở Phan Thiết. Nhà bà Ngoại dưới chân núi Tà Cú, nơi có chùa Linh Sơn Trường Thọ Tự, nên hồi nhỏ xíu ba bốn tuổi đã được Bamá, cậu, dì… cõng lên chùa chơi thường xuyên… Trong nhiều năm học hành rồi làm việc, quả thật tôi không nhớ tới tôi, tôi chỉ nhớ công việc ở khoa cấp cứu Nhà thương Nhi Đồng Saigon, chương trình Săn sóc Sức khoẻ Ban đầu… Sau đó làm công tác truyền thông giáo dục sức khoẻ, phòng chống sốt xuất huyết, viêm ruột hoại tử, não mô cầu… rồi phòng chống HIV/ AIDS…, quả thật tôi quên phứt tôi, đến một hôm người ta khiên tôi vào cấp cứu, mổ sọ não vì tai biến… Khi tỉnh lại, rồi bước được những bước như một em bé, biết nghe, biết nói… tôi viết bài thơ Xin cảm ơn, cám ơn này trong bệnh viện.

Xin cám ơn, cám ơn
Cơn bệnh ngặt nghèo quật ta gục ngã
Như cỏ cây trước cơn bão dữ
Như con thuyền tung hê lên vách núi cao
Cho ta trở về làm con thú hoang sơ
Trần truồng như nhộng
Kẻ cạo đầu người lột da
Kẻ đục sọ người giúp thở
Kẻ đặt ống sonde vào đường tiểu
Người bơm thuốc qua dịch truyền
Cho ta trở về làm con thú trinh nguyên
Cho ta trở về làm em bé sơ sinh
Không lý trí không nghĩ suy không toan tính

(…)

Xin cám ơn, cám ơn
Cơn bệnh ngặt nghèo quật ta kịp lúc
Cho ta trở lại với mình
Ta muốn ôm hôn tất cả mọi người
Và ôm hôn ta nữa
Cái đầu trọc lóc bình vôi
Hai lỗ thủng và mười tám vết khâu từ ái
Ta ngạc nhiên lắng nghe mình thở
Lắng nghe sự sống cục cựa trong mình.

(…)

Phật dạy phải quay về nương tựa chính mình. Phải từ bi với mình rồi mới từ bi với người. Đừng bao giờ để phải kêu lên: “đã bao lâu ta không sống với mình/ ta có ta mà quên ta phứt…”

  1. Anh viết trong Chuyện Hồi Đó muốn có an lạc chỉ cần làm “3 điều 4 chuyện”. Tất cả đều hay, chỉ riêng phần “hiểu thuật ngữ, ẩn dụ” có cần thiết không?

Rất cần thiết. “3 điều 4 chuyện” là cách đơn giản nhất để hiểu và thực hành lời Phật dạy, mang đến sự An Lạc cho nếp sống vui, sống khoẻ, tránh mê tín dị đoan… Cho đến nay, nhiều người vẫn hiểu lầm về những từ “chúng sanh”, “niết bàn”… Vì ngôn ngữ trong Phật học đa dạng… Phật còn dạy “y nghĩa bất y ngữ”. Nói vậy mà không phải vậy đâu! Khi thuyết giảng xong Kim Cang Bát- Nhã, đệ tử hỏi Thế Tôn, tên kinh này là gì. Phật nói: Kim Cang Bát-Nhã balamật. À, nói Kim Cang Bát- Nhã Balamật thiệt ra không phải Kim Cang Bát- Nhã Ba-la-mật, chỉ tạm gọi vậy thôi. Ấy là để khuyên ta đừng bám chấp. Thí dụ, nói Chúng sanh không phải là chúng sanh, nói Niết bàn không phải là niết bàn…  Còn “ẩn dụ” thì càng cần hiểu rõ, nếu không thì dễ mê tín dị đoan. Như niệm  Quan Thế Âm Bồ tát giúp làm cạn cơn lũ dữ, làm tắt ngọn lửa to. Tưởng thiệt thì nguy!

  1. Người đa tài ắt đa tình (ý của Giáo sư Cao Huy Thuần). Đa tình có thể hiểu thế nào theo anh? Làm sao để vừa “đa tình” mà tâm vẫn an?

Một người từ bi… luôn là một người đa tình đó. Từ bi với mình và từ bi với người. Trong Phật học còn có “Vô duyên từ” nghĩa là chẳng có lý do gì để mà “từ” cả! Chẳng phải người ta có thể từ với hòn đá cuội (ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau– Trịnh Công Sơn) đó sao? Hay từ với một cánh chim bay (Ta hỏi kiến nơi nào cõi tịnh? Ngoài hư không có dấu chim bay. Tuệ Sỹ)…  Văn chương không thiếu:  “Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn” (Thế Lữ), “Có nghĩa gì đâu một buổi chiều, nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt, bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu…” (Xuân Diệu). Kẻ đa tình vậy đó. Đa tình mà tâm vẫn an… có lẽ bởi đó là một thứ tình thương bao la hoặc một thứ tình yêu “tỉnh thức”, không bị vùi đắm trong đam mê, vị kỷ.

  1. Anh viết về cách Phật dạy con. Tại sao bài học đầu tiên La- Hầu- La được học lại là cách thở?

Chớ sao? Thở chẳng phải là việc làm đầu tiên của đứa bé sơ sinh vừa rời bụng mẹ sao? Trong bụng mẹ, chưa cần thở. Tiếng khóc chào đời là một nhịp thở đầu tiên của kiếp người. Lớn lên, ta thường quên cách thở. Rồi khi ta thở cà hước, thở cà giựt… mới tiếc hồi nhỏ không học thở. Thở tưởng của ta mà không phải của ta… Thở ở ngoài ta. Thở cóc cần ta. Thở vốn tự động, do áp suất trong phổi mà khí tuôn vào hay tuôn ra. Nó gắn liền với cảm xúc. Điều tức (là điều chỉnh, kiểm soát hơi thở) thì sẽ  “điều” được tâm. Muốn tâm an thì phải học cách điều tức là vậy. Phật mất nhiều năm tu thiền vất vả, nhịn thở, nhịn ăn mà không thành công. Nhớ lại một lần còn nhỏ theo phụ thân coi Lễ Tịch điền tự dưng thấy thân thể nhẹ nhàng, lâng lâng, như không còn hơi thở nào nữa, hoá ra đó mới thực là thiền. Cái đó, trong Nam Hoa Kinh gọi là “Toạ Vong”…  “ngồi yên, biến mất”. Không để ý gì chuyện thở hay không thở nữa. Cái đó chính là tứ thiền “xả niệm thanh tịnh” rồi đó. Khi còn niệm thì không thanh tịnh nổi đâu. Dù cho đã có hỷ có lạc.  Cho nên Lục tổ Huệ Năng lấy Vô niệm làm tông là rất đúng. Các kinh sách dạy thiền có thể phân tách từng bước, từ sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền…  Thực tế, các thiền sư thiện xảo ngồi xuống, ngay hơi thở đầu tiên đã có thể vào định sâu được rồi. Càng theo dõi, càng chia cắt, càng dính mắc, lúng túng. Ở tứ thiền đã gần như không cần thở nữa. Có thể vào diệt thọ tưởng định, mà không cần qua các tầng thiền vô sắc.

  1. Trong thời đại ngày nay, “khẩu không chỉ là lời nói trực tiếp mà còn là những status trên mạng Internet”, cả các comment nữa. Làm sao để phân biệt “khẩu thiện” và “khẩu ác” trên mạng?

Đó chính là lúc phải quay về nương tựa chính mình. Coi lại mình đã bị “rung động” thế nào, đã bị “xao xuyến” thế nào rồi? Tốt nhất lúc đó nhớ lại câu Đà-la-ni trong Kinh Kim Cang: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (Đừng trụ vào đâu cả để mà sanh cái tâm!) thì may ra mới thoát.  Status, comments… nào làm cho ta sanh tâm chạy theo những cảm xúc đó, bị lôi cuốn vào cảm xúc đó, như khi bị dụ dỗ kiểu thực phẩm giúp trẻ mãi không già, xinh đẹp như xưa, “ lương cao việc nhẹ”… thì thế nào cũng sụp bẫy.  Tóm lại, vì lòng tham mà không đạt thì sân (giận), thiệt ra cũng bởi vì Si, nghĩa là mê, là say, là ngu. Đáng đời. Ráng chịu. Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.

  1. Anh có thể giải thích một cách dễ hiểu về “duyên sinh” không?

Hiểu được “duyên sinh” thì hiểu được Bát- Nhã, trang bị cho mình được cái gọi là “viên thành thật tánh”, một cái tánh sáng suốt, không bị che mắt, không bị dẫn dụ bởi bên ngoài nữa… Dẫn dụ bằng cái gì? Bằng cái danh, bằng cái tướng. Cái “danh” thì rỗn rảng, cái danh thì kêu to, chớp loà, khiến ta tưởng thiệt, tưởng bỡ. Y như con “thiêu thân” bị dụ bởi ánh đèn. Những danh, những tướng đẹp đẽ,  hấp dẫn khiến ta dễ dính mắc gọi là “biến kế sở chấp”,  là “y tha khởi”…

Duyên? Là những “điều kiện”. Có thể lấy một ví dụ đơn giản, với 3 phân tử Carbone (C), Hydrogèn (H), Oxygèn (O)… riêng lẻ thì không sao, tự dưng có cái men (điều kiện) gì đó tác động vô, thành đường glucose C6H12O6 ngọt ngào; nếu gặp cái men khác, cũng 3 món đó lại thành rượu (C2H5OH) cay đắng, rồi với men khác nữa lại thành giấm (CH3COOH) chua chát… Những ngọt ngào, cay đắng, chua chát đó trong đời sống hàng ngày của ta chẳng phải là do “duyên” gì đó sao?. Rồi những RNA, DNA… kết hợp với nhau mà ra vi rus, vi khuẩn, khủng long, con người… Toàn là “duyên sinh” đó thôi.

Lý Duyên Sinh Duyên Khởi là cốt lõi của Phật giáo: cái này có vì cái kia có, cái này không vì cái kia không… Thập nhị nhân duyên, 12 nối kết, từ Vô minh sinh hành, hành sinh thức, thức sinh danh sắc, lục nhập… Nếu hiểu rõ con đường duyên sinh này – như một tiến trình tâm- từ ý thức đến hành động, cảm nhận, rồi “ái thủ hữu”, ta có thể “can thiệp” từng bước để cải thiện tiến trình duyên sinh của tâm, và… giải thoát nếu chấm dứt Vô minh. Có thể nói, hiểu được Duyên sinh, duyên khởi, ta hiểu nghiệp, luân hồi, nhân quả…

  1. “Vô thường” là gì?

Vô thường là… thường! Đúng vậy, một cánh hoa đào rực rỡ đẹp tươi bỗng tàn héo dần, ai cũng thấy mới đó mà đã đổi thay, một sự “vô thường” không thể chối cãi. Thế nhưng, thử nhìn một cách khác. Những cánh hoa tàn úa đó cứ mãi mãi còn, cứ mãi mãi ở đó và tàn úa… thì tội nghiệp quá. Nó phải được đổi thay chớ. Nó phải được làm mới. Nó phải được rực rỡ đẹp tươi chớ. Cách nào? Thì “tiết mùa” sẽ giúp. Không hẹn mà đến/ không chờ mà đi/ bốn mùa thay lá thay hoa thay mãi đời ta…(TCS). Và những cánh hoa đào theo tiết theo mùa kia vẫn mãi mãi rực rỡ đẹp tươi, chưa bao giờ tàn úa. Chàng thi sĩ một hôm dừng chân bên song cửa, thấy cô nàng xinh đẹp bên đoá hoa đào, năm nay trở lại, những đoá hoa kia vẫn còn rực rỡ đẹp tươi, mà cô gái xinh kia đâu rồi, không thấy nữa. Mọi thứ vô thường quá. Nhưng những cánh hoa đào rực rỡ thì đang cười chàng: “hoa đào năm ngoái còn cười gió đông”. Cái “tiếu” đó mới vui làm sao! Hoa cười nhạo chàng thi sĩ ngờ nghệch. Cho nên nếu nhìn bằng con mắt Như Lai, hẳn đã thấy năm nào hoa cũng nở dưới gió đông này, vẫn rực rỡ tươi vui như thế. Còn người đẹp kia ư? Thì hết Dương quý phi có Bao Tự, hết Bao tự còn Chiêu quân… Có gì là vô thường đâu. Nhìn bằng con mắt Như Lai, thì làm gì có vô thường phải không?

  1. Người sinh ra ai cũng có cái tôi (ngã), vậy “vô ngã” là sao?

Cái mà ta tưởng là Ngã đó, nó từ nhiều thứ mà ráp nối lại (Ngũ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức), có cái gì riêng có thực tánh của nó đâu.  Ta thử hít vào một hơi sâu, thật sâu, không được. Nó bắt ta phải thở ra. Ta thở ra thật dài, dài nữa. Không được. Nó bắt ta phải hít vào. Chuyện thở ra hít vào hàng ngày của ta mà ta cũng chẳng làm chủ nó được. Vậy có cái ta không? Nếu ta tưởng thiệt có cái ta thì ta sẽ khổ đau, vất và vì nó. Còn biết nó vô ngã, ta sống với cái vô ngã đó, chẳng phải hết khổ đau ư? Cho nên khi còn khổ đau, chưa “thấy biết” (giác ngộ) Phật dạy Vô Thường, Khổ, Vô Ngã, Bất tịnh… Khi đã thấu hiểu rồi, ta thấy Thường, Lạc, Ngã, Tịnh đó thôi. Phât là y vương, khi nguời ta bệnh hoạn, khổ đau, cho mấy thứ thuốc chữa triệu chứng, ráng nuốt. Khi hết bệnh không cần uống thuốc nữa. Phật nói ví như người say thấy đất đai nhà cửa cây cối ngả nghiêng, lúc tỉnh ra thấy đất đai bằng phẳng, nhà cửa cây cối… tĩnh yên. Cái “thấy biết” đó giúp ta cỡi bỏ khổ đau, thấy được an lạc.

  1. Phật là một Y vương. Chỉ cách phòng bệnh, lại chỉ ra nguyên nhân bệnh và cách trị bệnh. Bệnh ở đây chính là khổ đau. Anh có thể tóm tắt nguyên nhân, đơn thuốc và cách phòng bệnh của Phật không?

Đúng, Phật là bậc Y vương, chữa được cả đau và khổ. Khác với bác sĩ, lương y, thường chỉ chữa được cái đau, cái bệnh… Mà ta biết, Khổ mới là cái gốc của đau, của bệnh. Bênh thân và bệnh tâm. Khổ phát sinh từ Tham sân và si. Nhưng tham sân si cũng chỉ là triệu chứng. Căn nguyên là Vô minh. Từ vô minh mà sinh hành, thức, danh sắc… có thể nói là con đường  sinh bệnh học, sinh lý bệnh học.  Lục phủ ngũ tạng quấn quít lấy nhau. Chỉ cần “chiếu kiến ngũ uẩn giai Không” (Tâm Kinh) thì đã thoát được vô minh, tức khắc “độ nhứt thiết khổ ách”. Phật “chế” ra nhiều thứ “thuốc”, tuỳ căn cơ người bệnh mà “cho toa” sao cho phù hợp. “Sanh, bệnh, lão, tử”… có lẽ là nỗi khổ, nỗi lo lớn nhất của kiếp người. Khổ vì sanh ư? Đã có vị Phật tên là Bảo sanh (Ratnasambhava) đây rồi, giúp sanh đẻ an toàn, Khổ vì bệnh ư? Đã có vị Phật là Dược sư (Bhaisajyaguru)  cho thuốc. Khổ vì già ư? Có vị Phật Asucbệ (Asobhya), còn gọi Phật bất động, an nhàn. Khổ vì chết ư? Có vị Phật A Di Đà (Amitabha) rước về Tịnh độ… Vô số các vị “thuốc” để chữa vô số các bệnh khổ. Con đường phòng bệnh khổ chỉ cần gom lại trong Bát chánh đạo: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tính tấn, chánh niệm, chánh định.  Thực hiện được Bát chánh đạo thì  An vui và Hạnh phúc.  Trong Bát chánh đạo, cũng chỉ cần một thứ thuốc cốt loĩ: Chánh định. Có chánh định thì có chánh kiến, chánh tư duy… Có chánh định thì thấy “Vô tướng thực tướng” thấy Như Lai.

  1. Anh có thể giải thích và cho ví dụ về “Từ Bi Hỷ Xả”? Sao lại cần “Từ Bi Hỷ Xả”?

Nếu không Từ Bi Hỷ Xả thì ta cứ sống với lòng Sân hận, oán thù, ganh ghét, ghim gút… “Thù trả chưa xong đầu đã bạc!”. Từ là lòng Thương. Biết thương.Còn thương… Thí dụ “còn thương rau đắng mọc sau hè”! Cọng rau mà còn thương được thì lòng thảnh thơi biết bao. Lấy oán báo oán/ oán oán chồng chất/ lấy đức báo oán oán tiêu vong… Bi là làm vơi khổ. Một miếng khi đói bằng một gói khi no. Nếu chỉ biết thương thôi mà không có cách gì làm cho bớt khổ thì không đủ. Cho nên Từ đi với Bi là vậy. Hỷ là cái vui theo người. Khó. Người vui thì ta ganh ghét dễ hơn. Còn vui theo kiểu đãi bôi, nịnh bợ thì càng hại người. Xả là buông bỏ, là không còn dính mắc. Từ bi hỷ xả là Tứ vô lượng tâm. Mênh mông, không ngằn mé. Được chút mừng chút.

  1. Có người tiếp cận Đạo Phật như một tôn giáo, có người lại coi là môt triết lý sống. Theo anh, cách nào đúng?

Trong cuộc sống bình thường, ta cần có một “triết lý sống”, tìm kiếm một cuộc sống an lạc, hạnh phúc. Chúng ta có thể thực hành Giới Định Huệ để giảm trừ Tham sân si. Chỉ cần giữ ngũ giới, có thể là đã đủ. Không sát sanh, không trộm cắp, không nói dối, không tà dâm, không nghiện ngập… Và nếu được, Từ Bi Hỷ Xả. Nhưng con người còn có phần tâm linh. Chưa biết hết, chưa hiểu hết được. Dân gian gọi “ba hồn chín vía”. Các nhà xã hội học tìm thấy có những đứa trẻ sống trong rừng sâu, không hề biết đến con người, khoảng tám tuổi bỗng đặt mấy cục đá xếp thành tầng cao, rồi quỳ lạy, cầu nguyện. Cái gì vậy? Không biết. Có cái gì đó thuốc về “tâm linh”…

  1. Theo cách anh hiểu về Đạo Phật, sau cái chết có còn linh hồn không? Linh hồn đó sẽ làm gì, đi về đâu?

Phật giáo không nói về “Linh hồn”. “Linh hồn” là vĩnh cửu, trường tồn, không thay đổi gắn vào thể xác, và cái chết là tách rời thể xác với linh hồn. Thiện, được vào nước Thiên đàng vĩnh viễn; Ác, thì vào địa ngục vĩnh viễn. Phật giáo không tin có một Đấng Tạo hoá quyết định việc ban thưởng hay trừng phạt. Phật giáo cho rằng mọi thứ do Duyên sinh. Một kẻ làm ác, ở địa ngục, có thể trở thành nguời Thiện, lên làm người, làm Phật. Một người ở cõi thiên, có thể bị đoạ xuống địa ngục vì làm Ác . Quan niệm này cho con người một Tự do tuyệt đối. Cho nên Phật giáo chỉ nói “Thần thức” là phần tách khỏi thể xác khi chết, tuỳ nghiệp duyên mà tái sanh.

  1. Anh từng nói “trái tim nghĩ bằng tình, khối óc nghĩ bằng lý”. Phật pháp là tình hay lý?

Phật lúc nào cũng có hai vị Đại Bồ-tát đứng hai bên. Bên trái là Văn Thù Bồ-tát, cưỡi sư tử, tay cầm kiếm báu. Tiếng sư tử rống lên thì muôn thú đều khiếp vía. Vung gươm báu thì chặt đứt phiền não. Còn bên phải là Phổ Hiền Bồ-tát, cưỡi voi 6 ngà và tay cầm đoá hoa sen… Voi mới đủ sức chở nặng giáo pháp đến giúp chúng sanh. Voi 6 ngà tượng trưng cho 6 phương pháp giúp thành tựu trên con đường học Phật: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí huệ. Đó là ”Lục độ Balamật”.  Thú vị, khoa học biết rõ hai bán cầu não mỗi bên chịu trách nhiệm một thứ: bện trái, lý; bên phải tình.Nặng một bên sẽ không đạt kết quả tốt. Ngày nay khoa học não bộ cũng thấy hai bán cầu não có khả năng nối kết được với nhau.

  1. Theo Đạo Phật, con người sinh ra trên đời để làm gì?

Có người nói sinh ra trên đời để… chết? Có người bảo sinh ra trên đời để… sống? Có người nói “bất sinh bất diệt”, không có sống có chết gì cả!

Nhưnng có lẽ người ta sinh ra trên đời là để “trả” cái Nghiệp của mình. Nghiệp phát xuất từ Thân, Khẩu,Ý, nhiều kiếp sống đã tạo nên, đã tích luỹ. Có Nghiệp thiện và nghiệp ác. Có thể coi nghiệp là nhân sẽ sinh ra quả. Nhưng từ nhân mà sinh quả, phải có duyên. Không có duyên thì hạt giống  tốt cũng bị huỷ hoại đi. Duyên là những điều kiện tác động để nghiệp thành quả.  Hiểu Duyên sinh thì hiểu luân hồi, tái sinh, nhân quả là vậy…

Thật ra có nhiều câu hỏi Phật cũng bảo không nên trả lời. Một người bị tên, phải cứu chữa ngay cái đau của họ, đừng hỏi ai bắn mủi tên này, tại sao bắn, bắn để làm gì… vô ích.

  1. Trước một người muốn bớt đau khổ nhưng chưa biết về đạo Phật, anh sẽ cho lời khuyên gì?

Có khi không cần phải khuyên gì cả. Khuyên cũng chẳng ai nghe. Đau khổ của mỗi người do nghiệp do duyên của họ. Họ phải được trải nghiệm. Tự rút ra bài học. Tuy nhiên cũng có khi Phật cho lời khuyên như chuyện một bà mẹ có con bệnh chết, bà đau khổ cùng cực, muốn chết theo. Có người khuyên tìm Phật xin phương thuốc cứu con sống lại. Phật khuyên bà đi vào từng nhà trong làng, hỏi nhà nào xưa nay chưa từng có ai chết thì xin môt nắm tro trong bếp, mang về Phật sẽ chỉ cách làm thuốc cứu con. Bà đi nhiều năm tháng, hết làng này sang làng khác, không tìm thấy nhà nào không từng có người chết nên trở về lạy Phật xin quy y. Nếu ngay từ đầu Phật bảo “Ai mà chả chết, nhà nào chả có người chết, đừng buồn đau nữa…” liệu có khuyên được bà mẹ đó không?

  1. Anh viết: “Một hôm hơi thở tình cờ / Dính vào hạt bụi thành ra của mình.” Có ngụ ý gì liên quan đến Phật pháp trong câu này không?

Có đó chớ. Nhưng phải đọc luôn hai câu đầu: “Lắng nghe hơi thở của mình/ Mới hay ra hơi thở đã nghìn năm xưa…”  Nếu ta biết nhìn bằng con mắt ngàn năm, ta thấy trên Hy mã lạp sơn vốn xưa kia là biển, nay vẫn còn muối và các vỏ sò ở đó. Còn dưới đáy biển sâu kia, những thành phố đang chìm trong nước… Từ khi có loài người trên quả địa cầu ta đang sống này đã có bao nhiêu nugời đã chết? Họ chỉ để lại những hạt bụi đó thôi. Trong Phật giáo cũng có một thứ Ấn gọi là “Ấn điạ xúc” rất hay. Khi nổi cơn giận dữ, ta đưa ngón tay ấn vào trong đất, sẽ hết giận ngay vì nhớ ra rằng ta chính là hạt bụi trong đất này thôi. Kẻ thù ta cũng vậy. Hơi thở mà “tình cờ” dính vào hạt bụi thì lại do duyên. Hai chị em Thuý Kiều Thuý Vân, cùng cha cùng mẹ, vậy mà hai kiếp sống khác nhau đế ngàn sau đoạn trường đó thôi?

  1. Anh khuyến khích mọi người nên sống “ở đây và bây giờ”. Anh có thể lấy ví dụ cụ thể không?

Tôi đang khuyến khích mình đó chớ. Nếu biết sống “Ở đây” và “Bây giờ” thì hẳn đã là hạnh phúc. Có điều hết tiếc dĩ vãng thì mơ tương lai… Tiếng Anh có một từ hay: Present là “có mặt”, Present là “hiện tại” và Present cũng có nghĩa là món quà. Đó là món quà dành cho người có mặt ở thời… hiện tại. Còn ta cứ mãi loay hoay…

  1. Nói về chuyện ăn, anh viết: “Men tiêu hoá được tiết ra từ tâm hồn chớ không chỉ từ cái bao tử “

Ăn là một chuyện “lớn” không thua gì thở. Vì thức ăn kết hợp với hơi thở tạo nên năng lượng cho ta hoạt động hàng ngày. Năng lượng đó được tạo ra từ trong mỗi tế bào. Mỗi tế bào có Mitochondria (Ty thể) là nhà máy sản xuất năng lượng. Phật nói về thức ăn của thể chất và thức ăn của tâm hồn. Thực ra, thức ăn của thể chất cũng là thức ăn của tâm hồn đó chớ! Tàn Dà nói: Đồ ăn ngon, người ngồi ăn không ngon, không ngon. Đồ ăn ngon, chỗ ngồi ăn không ngon, không ngon. Cái chuyện ngon không ngon là chuyện tâm hồn phải không. Ăn là một vấn đế… văn hoá. Nhiều món quý chỗ này thì chỗ kia chê, không biết ăn. Camembert của Pháp. Mắm Bò hốc của Kampuchia. Mắm ruốc, mắm sặc ở ta… Món bánh căn nghèo của Phan Rang, Phan Thiết chẳng phải là món ngon nhứt sao? Nhiều bạn bè tóc bác phơ, ở nước ngoài về thăm quê bao giờ cũng đòi ăn cho được mấy món “nhà quê” đó.

  1. Theo anh, có thể có những giây phút “giác ngộ” trong đời sống thường nhật không?

Có chớ. Và thường nữa. Có điều ta không ghi nhận và duy trì nên nó tự xoá đi. Ta làm vỡ một cái chén sứ đẹp. Tiếc quá, sực nhớ cái chén đó làm từ gốm và… gốm thì trở về với đất để chờ làm cái chén sứ khác. Thấy cánh hoa tàn úa, tiếc quá, phải chi nó cứ mãi đẹp như thế. Ta thấy ta… già đí, tiếc quá, phải chi cứ còn trẻ mãi. Mà quên nghĩ rằng cánh hoa phải tàn đi để tạo nên một cánh hoa khác rực rỡ, đẹp đẽ hơn. Ta phải… già đi để con cháu ta có cơ hội lớn lên, nếu không… Cái đó là cái “Thấy biết của Phật” (Phật trí kiến). Vì ta cũng có Phật tánh, có Pháp thân như Phật nên ta cũng thấy biết chút chút, khác với Phật chỗ ngài thấy biết hoàn toàn, “toàn giác”. Phật không chỉ thấy biết gốm sứ từ đất, thuỷ tinh từ cát… nên bể cái gốm sứ, vỡ ly thuỷ tinh Phật cười còn ta khóc. Thiệt ra Phật thấy rõ, tất cả đều đến từ vô tướng, nên cái ta thấy, ta có, chỉ là cái giả tướng, cái thực tướng mong manh đó thôi, nó vô thường, vô ngã. Khi ta thấy vô tướng thực tướng thì ta đã thấy… Như Lai.  Người khéo tu hành, luôn an nhiên, tự tại. Rồi đến một tuổi nào đó, ta không muốn giác cũng giác, không muốn ngộ cũng ngộ… đó thôi!

  1. “Chữa lành” là một trong những từ đang được nhắc nhiều nhất trên mạng, đặc biệt với người trẻ. Đạo Phật có thể chữa lành cho người trẻ không?

Được quá đi chớ! Nhưng “người trẻ” đã mắc phải bệnh gì mà muốn “chữa lành”? Bệnh thì có bệnh thể chất, bệnh tâm thần và bệnh xã hội… Về thể chất, nói chung, người trẻ thường là người khoẻ mạnh, ít đau ốm bệnh hoạn như người… già. Thế nhưng nguời trẻ thường nhìn người hàng xóm, thấy họ cao ráo, vai u thịt bắp, lực lưỡng, bèn đi cắt xương ống chân, nâng cao thêm vài tấc, tập thể lực và dùng thuốc cường cơ cho thịt săn cứng lại khoe 6 múi… thì chữa không lành được. Cô gái yểu điệu thục nữ, giờ muốn giống hoa hậu, bơm mông, nơm vú, độn chỗ này, xẻ chỗ kia để bằng bè bạn… chữa lành hổng nổi! Tóm lại, cũng chỉ vì lòng tham, muốn, ganh tị… mà ra! Khi không đạt được mong muốn, thì sân hận, căm thù… Sửa mũi thì mũi xẹp, sửa mắt thì mắt mờ. Đại khái, họ không chấp nhận mình là mình. Cho nên suy gẫm cuộc đời với biết bao nhiêu khổ đau… Phật gom lại chỉ có 3 nguyên nhân chánh: Tham- sân- si. Con đường an lạc chính là Giới- định- huệ. Giới thì giảm lòng tham, lành bệnh tham, Định thì giảm lòng sân và Huệ thi… hết vô minh. Ít nhất dòm qua cũng biết cái đẹp hào nháng kia, cái đẹp mơ ước kia là của giả, độn thôi, có khi là vài túi nước muối, nhẹ tay coi chừng vỡ. Chỉ có cách tự mình chữa cho mình thôi. Gặp thầy thuốc không tốt, thầy sẽ dọa thêm cho tăng nỗi lo âu, tốn kém. Gặp thầy tu bất hảo thầy sẽ hù thêm cho sợ hãi… Căng thẳng, lo âu, sợ hãi… dẫn đến trầm cảm, khó mà lành nổi. Nếu hiểu biết, chấp nhận mình, sống không đua đòi, ganh tị, hoà hợp với thên nhiên, xã hội thì không chữa cũng lành. Các nhà khoa học khuyến khích người trẻ nên sống gần gũi với thiên nhien, thiểu dục tri túc, thực tập 3 thứ: Thể dục, trí dục, đức dục như người xưa dạy, và tìm cho mình một chút giải khuây: cầm, kỳ, thi, hoạ… có thể từ đó mà an nhiên, tự tại, không chữa cũng lành!

  1. Lòng tin vào nhân quả đôi khi khá trừu tượng. Khi một người sống tốt nhưng lại luôn gặp bất công, họ rất dễ mất lòng tin.

Nhân quả có thể thay đổi. Nhân quả do nghiệp, do duyên.  Án Anh đi sứ nước Sở nhớ không? Cây quít ngọt ở Giang Nam, đem trồng ở Giang Bắc thì sinh trái chua… Ấy là do thổ nhưỡng, do chăm sóc, tưới tẩm của con người. Nghiệp cũng có thể thay đổi. Cách sống của ta ngay ở đây và bây giờ là do ta quyết định, ta tự do chọn lựa. Phật giáo tin vào con người. “Tánh Phật”có  ở mỗi người.

  1. Tại sao muốn sống an lạc cần có cả trí tuệ và từ bi?

“Từ” là lòng Thương. “Bi” là giúp giảm khổ. “Từ năng dữ lạc. Bi năng bạt khổ”. Không chỉ phải có lòng thương rộng lớn, không phân biệt, mà còn phải có cách cứu giúp, làm cho vơi bớt khổ đau. Tình thương có thể an ủi, làm vui, nhưng vẫn không  giảm được khổ. Từ bi mà không có trí tuệ còn dễ bị mắc bẫy, bị gạt gẫm. Thời buổi này càng cần phải cảnh giác. Nên phải có Trí Tuệ đi với Từ Bi. Quan Thế Âm Bồ- tát có ngàn tay ngàn mắt, trong mỗi bàn tay đều có một con mắt là thế!

  1. Đức Phật là một vị thánh toàn năng, hay cũng là người thường như chúng ta?

Phật không phải thánh, không phải thần. Phật là người… thường như chúng ta, có điều, Phật là ngưới đã giác ngộ rốt ráo, đã “thấy biết” toàn diện (Tri kiến Phật), chớ không loay hoay như  ta… Ta cũng có Phật tánh. Cho nên Phật bảo “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”. Ai cũng sẽ là Phật cả, nếu giác ngộ, giải thoát. Kinh Pháp Hoa chỉ có một mục đích là “Khai thị chúng sanh ngộ nhập Tri kiến Phật”. Khai thị là “mở ra, bày ra cho thấy”. Thấy cái gì? Thấy cái “Tri kiến Phật”, tức là cái thấy cái biết của Phật. Đó là cái thấy biết “Vô tướng thực tướng”, thấy biết Như Lai.

  1. Có cần niệm Phật hay tụng kinh mỗi ngày không, hay chỉ cần thiền và thở đúng thôi, để có an lạc?

Niệm Phật là một cách tốt nhắc nhở ta một tấm gương để noi theo. Nhưng niệm Phật cũng là cách để tâm không vướng bận những thứ linh tinh khác. Niệm có nghĩa là đặt tâm vào ngay thời điểm hiện tại, quên đi tất cả chung quanh, phiền não các thứ, từ thân đến tâm… Cho nên có pháp môn Niệm Phật. Tụng kinh cũng vậy. Tâp trung vào kinh, vào “tụng” thì không còn vướng bận những thứ khác. Vậy tụng kinh, niệm Phật cũng là những pháp môn. Nhưng với Kinh, còn cần phải hiểu, phải thực hành. Nếu không, dễ tẩu hoả nhập ma vì mê tín, tưởng Phật là thánh thần mà cầu xin, lạy lục. Thiền sư Như Huyễn (năm nay 98 tuổi) có bài thơ  “Thay lời Phật” thú vị như sau: Ta nói kinh cho chúng nó nghe/ Chẳng ngờ chúng “tụng” bắt ta nghe/ Tuổi già tám chục nghe gì nữa! Chín tiếng ngồi trân sụm bánh chè! (Thich Từ Thông, Như Huyễn Thiền Sư Thi Tập). Học kinh phải hiểu để ứng dụng vào đời sống, chớ không chỉ “tụng” rồi cầu Phật chứng giám, ban phước !

  1. Không ăn chay có thể có an lạc không?

Ăn chay để làm gì? Phật đâu có ăn chay. Phật ăn gì cũng được. Thí chủ cho gì ăn nấy. Đi khất thực mà. Không lẽ đi khất thực mà nói tôi chỉ ăn chay thôi. Chắc dễ bị đói. Nhưng Phật chỉ khất thực vừa đủ… và ăn bất cứ thứ gì trong bình bát khất thực cũng là “ăn chay” cả đó thôi.

Phật dạy có 4 nhóm thức ăn là Đoàn thực, Xúc thực, Tư niệm thực, Thức thực. Bốn nhóm thức ăn đó chỉ có Đoàn thực dành cho thân, còn Xúc thực, Tư niệm thực, Thức thực dành cho tâm. “Xúc thực” đáng sợ, nhất là thời đại AI, internet … Với cái điện thoại thông minh trên tay, mỗi ngày ta “xúc thực” biết bao nhiêu điều, cả tôt lẫn xấu, tràn ngập trong tâm trí. Ta căng thẳng, ta mất ăn mất ngủ… Tư niệm thực là những món nhớ nghĩ triền miên, quay cuồng đầu óc, với những lo âu, oán trách, căm thù, sợ hãi… Rồi Thức thực mới là món ăn đáng sợ nhất, đó là phân biệt, là tranh cãi, là hơn thua, là đấu đá… là chiến tranh một mất một còn…

  1. Anh có thể giải thích lý do Phật chọn năm giới căn bản cho Phật tử không? Giữ năm giới này thì được lợi lạc gì?

Lợi lạc nhiều chớ. Không sát sanh. Không trộm cắp. Không nói dối. Không tà dâm, Không nghiện ngập… Chừng đó đã đủ cho một nếp sống An lạc, Hạnh phúc cho một kiếp người. Bão lũ, động đất, núi lửa, sóng thần… chưa đủ sao mà con người còn tự gây chiến tranh khắp nơi với những thứ vũ khí ngày càng ghê gớm. Cái ăn của con người cũng vậy, sát sanh ngày càng nhiều.  Không trộm cắp ư? Tham nhũng là một dạng trộm cắp kinh khủng nhất. Một dạng tạo nghiệp lớn nhất. Không nói dối? Thử xem… “Quân tử nhứt ngôn là quân tử dại, quân tử nói đi nói lại là quân tủ khôn”! Fake news, deep fakes… phổ biến, phát triển mạnh mẽ. Không nghiện ngập ư? Xưa chỉ nói đến rượu, bây giờ thì nghiện đủ thứ, ngày càng nguy hiểm độc hại. Thực hiện được phần nào trong năm giới là tốt phần đó. Từ ngũ giới còn tiến lên “thập thiện” là 10 điều lành.  Không chỉ không sát sanh mà còn “dưỡng sanh”. Bảo vệ môi trường. Chống biến đổi khí hậu…; Không chỉ không trộm cắp mà còn “bố thí”- bố thí “balamật” tốt nhất vì không có tính toán lợi dụng trong đó.  Không nói dối, mà còn nói lời chánh ngữ, ái ngữ…

  1. Phật có nói một Kinh tên là “Người biết sống một mình”. Cái tên Kinh rất lạ! Anh có thể nói đôi điều về kinh này không?

Sống một mình tưởng là sống một mình mà không phải một mình. Nhiều người cũng thường sống một mình, thậm chí trốn lên núi cao rừng thẩm mà không thể sống  một mình được. Bởi tâm họ không sao thoát được những hình bóng khác, những chuyện đã qua và luôn tràn ngập những chuyện sắp tới. Họ buồn, họ tiếc, họ vẽ vời… Nói chung, là “bấn xúc xích” với những lo âu, phiền muộn, sợ hãi, yêu thương, ước vọng, hờn oán… “Người biết sống một mình” thực sự như trong Kinh Phật dạy là biết sống “Ở đây và bây giờ”, không ước vọng tương lai, không tiếc nuối quá khứ… Sống được như thế thì lòng mới thanh thản, mới “một mình” được vậy. Bằng cách nào ư? Có đó. Con đường Thiền mở rộng trước mắt.

 Đỗ Hồng Ngọc – Minh Lê (Nha Trang)

16.5.2025

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống

Thư gởi bạn xa xôi (5.2025)

22/05/2025 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

Thư gởi bạn xa xôi (5.2025)

Lại về LaGi

Lại về LaGi nữa à?

Bạn hỏi khó đó. Chớ còn biết đi đâu nữa giờ!

Hồi xưa, đi LaGi quê mình mất chừng… 5 tiếng đồng hồ, bây giờ có cao tốc, chạy vèo có 2 tiếng thôi. Khởi hành ở Saigon khoảng 6g30 sáng thì về LaGi ăn sáng, tắm biển, đi Đập Đá Dựng uống cafe hoặc nước dừa rồi ghé ăn bánh canh chả cá hoặc nem nướng, sau đó lại ra biển nằm võng ngủ một giấc, dậy ăn cháo cá ở Dốc Trâu (Bàu Giòi ngày xưa) rồi về lại Saigon vẫn còn sớm nếu không bị kẹt xe từ Vũng Tàu đổ về nữa.

Có gì mới không? Có đó. Cái cảm giác về quê bây giờ… “không còn ai, đâu còn ai!…” càng lúc càng rõ, nó cứ ngấm từ từ nhưng ngày càng ngấm sâu. Xưa, tệ lắm còn gặp mấy đứa trẻ, hỏi con ai, nói tên cha mẹ, hổng biết, hỏi đến ông bà nội ngoại may ra còn biết. Bây giờ thì như Từ Thức về trần. Ngơ ngác.

Lại chỉ chụp mấy tấm hình gởi bạn coi chơi thôi nhe,

Thân mến,

Do Hong Ngoc.

 

Lần nào về Lagi cũng chọn ở farmstay này còn ít nhiều quen thuộc.

 

nơi chốn thân quen

 

Xoài tím… Lagi

 

 

 

Cái mới, chính là… cây gậy! Cây gậy mây này nhờ TTrà mua từ Chợ Đầm Nha Trang mang về trở thành “vật bất ly thân”, sau cú té rất đau ở quán Bốn Mùa vài tháng truớc.

 

 

Thăm gia đình. Chị Ba nay đã 94 tuổi, mù. Chị L 76, điếc…

 

 

Bãi Tân Hải, Mõm Đá Chim. Ngãnh Tam Tân ngày xưa.

 

Một mình…

 

 

 

Thuộc chủ đề:Ghi chép lang thang, Góc nhìn - nhận định

Thư gởi bạn xa xôi

18/04/2025 By Bac Si Do Hong Ngoc 5 Bình luận

 

Thư gởi bạn xa xôi

Một buổi Trò chuyên tại Chùa Xá Lợi 

Thứ bảy 12/4/25 vừa rồi, nhân Ngày Giỗ Cụ Mai Thọ Truyền (1905-1973), Ban Phật học Chùa Xá Lợi mời mình trao đổi một chút về “Vai trò người Cư sĩ hộ pháp trong thời đại truyền thông 4.0”.

Đề tài khó nhằn quá. Mình lại già cả rồi, chỉ muốn tránh xa những “thảo luận” này nọ, nhất là thời đại Truyền thông đang “khủng hoảng” như nay. Nhưng cũng không thể từ chối vì các bạn đều biết mình xưa từng làm ở Trung tâm Truyền thông & Giáo dục sức khoẻ… Thời gian cho mình chỉ có 45 phút, dành thì giờ cho Lễ tưởng niệm Cụ Mai Thọ Truyền nên… cũng đỡ vất vả!

Không ngờ mà cũng khá đông.

 

Em Nguyễn Van Quyền cũng đã chịu khó thu clip.

Cảm ơn Quyền, Anh Thư và các bạn…

 

 

Sau buổi Nói chuyện, cũng đã có vài phản hồi… Xin được chia sẻ.

Dương Minh Trí

Trong chủ đề buổi nói chuyện, có ba từ khóa chính: Cư sĩ, hộ pháp và thời đại truyền thông 4.0. Hai khái niệm đầu nói chung ý nghĩa không có gì thay đôi, còn khái niệm thứ 3 là mới  –  nó đã được Bác Ngọc giải thích khá rõ nghĩa và vẻ sơ đồ ra trên bảng bao gồm các thành phần sender, receiver, channel, feedback, noise … Tôi muốn nói vài ý về sơ đồ này:

  1. Sender gửi thông tin cho receiver thì đến lượt receiver này trở thành sender mới và lại gửi thông tin đi tiếp đến receiver mới … Vòng lặp này được lặp lại liên tục, kết quả là thông tin được lan truyền với tốc độ chóng mặt và đi khắp mọi nơi. Quá trình này có thể dẫn đến sự lan tỏa tích cực (thông điệp tốt) hoặc sự méo mó, sai lêch (tin giả, tam sao thất bản).

Trường hợp nếu nội dung liên quan đến giáo lý nhà Phật và không đúng chánh pháp, thì tà pháp phát tán khắp nơi.

  1. Một feedback được phản hồi từ receiver ngược trở về sender. Nếu feedback này là lời phê phán, chỉ trích, miệt thị, công kích thì sao nhỉ? Phần nhiều Sender cũng sẽ nổi giận đáp trả lại cũng với y chang lời feedback trên. Thế là thị phi sẽ lan truyền trên mạng xã hội với tốc độ ánh sáng.

Người cư sĩ hộ pháp nếu chưa có đạo lực cao dễ bị nóng giận, phản ứng theo cảm xúc, rồi bị lôi cuốn vào thị phi này. Hóa ra chưa “độ” được người đã bị người “độ” lại.

  1. Thông tin được truyền từ sender sang receiver qua một channel (sóng radio, internet …). Một hacker có thể xâm nhập vào chanel, chặn tin nhắn, nghe lén, thay đổi nội dung và lại truyền đi. Đây gọi là hiện tượng nhiễu (noise). Kết quả thông tin bị bóp méo, sai lệch được lan truyền.

Trường hợp một bài giảng chánh pháp nếu rơi vào hiện tượng này thì có thể trở thành tà pháp (bị thay đổi ác ý). Từ đó có thể làm mất niềm tin vào Phật pháp trong cộng đồng mạng.

Thời đại truyền thông 4.0 mang lại nhiều cơ hội cho người hộ pháp ngoài những hình thức hộ pháp truyền thống, nhưng cũng có rất nhiều thách thức mới được đặt ra.

Trước khi đóng vai trò “cư sĩ hộ pháp”, nên là một “cư sĩ” sống tốt với văn – tư – tu đã.

4. Trong buổi nói chuyện, Bác Ngọc có nhắc đến một khái niệm “Tâm truyền tâm” – một cách truyền đạt chân lý trong Thiền Tông giữa thầy (sender) và trò (receiver) thông qua trực nhận chứ không thông qua lời nói, văn tự. Một giai thoại nổi tiếng thể hiện cách truyền này là câu chuyện “Niêm hoa vi tiếu” – Đức Phật giơ cành hoa lên và Ngài Ca Diếp mĩm cười.

Tạm gọi “Tâm truyền tâm” cũng là một cách truyền thông. Như vậy channel trong trường hợp này là gì? Đó chỉ là một ánh mắt, nụ cười, cử chỉ nào đó của sender và cái vi diệu là receiver vẫn hiểu đúng điều thầy muốn khai ngộ. Đây là một dạng truyền thông thuần khiết, không nhiễu loạn, không hiểu lầm. Vì sao?

– “Tâm truyền tâm” không đi qua ngôn ngữ hay khái niệm, nên không bị giới hạn bởi từ ngữ mập mờ, cách hiểu khác biệt.

– Khi tâm của người truyền hoàn toàn thanh tịnh, định tĩnh, giác ngộ, và tâm người nhận trống rỗng, cởi mở, sẵn sàng đón nhận, thì sự tiếp xúc tâm linh ấy xảy ra trực tiếp, không qua trung gian suy nghĩ → không nhiễu, không hiểu sai.

Tuy nhiên, đó là nói trong trường hợp lý tưởng, còn trong thực tế thì sao? Nếu tâm người nhận chưa tĩnh, còn thành kiến, loạn động, vọng tưởng thì vẫn có thể hiểu sai điều thầy muốn truyền đạt.

 

Lăng Lệ Mai

Giữa ngày trăng tròn tháng ba, trong tinh thần “ẩm thủy tư nguyên” – uống nước nhớ nguồn, chúng con trở về Chùa Xá Lợi, thành kính dâng nén tâm hương tưởng niệm 52 năm ngày Ngài Chánh Trí – Mai Thọ Truyền về với Phật . Dẫu thời gian đã hơn nửa thế kỷ, nhưng ân đức và dấu ấn tuệ giác của Ngài vẫn còn đó – thâm trầm mà sáng tỏ giữa lòng người học Phật.

Sau lễ tưởng niệm, chúng con hữu duyên được tham dự buổi pháp thoại nhẹ nhàng mà sâu sắc của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc – Bác, một bậc hiền trí, một người thầy mà chúng con kính quý từ lâu. Trong không khí trang nghiêm, Bác chia sẻ về những ân nghĩa sâu dày mà Ngài Chánh Trí để lại, như một đóa sen chưa từng rời khỏi bùn, luôn tỏa hương ngát giữa cuộc đời đầy biến động.

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đã chạm đến thứ cảm xúc rất thật rằng: thời đại 4.0 là thời đại mà “cả thế giới nằm gọn trong lòng bàn tay”. Một cái chạm màn hình có thể mở ra vô số thông tin, nhưng cũng dễ khiến lòng người dao động. Bác kể, mỗi ngày nhận cả trăm email, nhưng chỉ giữ lại vài cái để đọc, còn lại là phải… xoá. Vì có những dòng tưởng như sâu sắc, nhưng lại chỉ là sự giận dữ, thị phi và nhiễu loạn. Giữa bối cảnh truyền thông bùng nổ, Bác nhấn mạnh: người cư sĩ phải biết tự hộ trì chính mình, tự mình gìn giữ chánh niệm, tự mình học hỏi Phật pháp, đặc biệt phải biết phân biệt giữa chánh pháp và tà kiến. Bác nhắc: “Hộ pháp bây giờ là phải dám chống lại các hiện tượng mê tín dị đoan – những thứ đang lan truyền ngày càng mạnh mẽ qua mạng xã hội, qua AI, qua những lời đường mật mà thiếu căn cứ đạo lý”.

Điều khiến chúng con đặc biệt tâm đắc là khi Bác dẫn lại lời Phật dạy về bốn loại thức ăn: đoàn thực (thức ăn vật chất), xúc thực (cảm thọ từ xúc chạm), tư niệm thực (ý nghĩ và mơ ước), và thức thực (nhận thức, tâm thức). Để từ đó nhắc nhở mỗi chúng ta cần chánh niệm trong từng bữa ăn, từng xúc cảm, từng dòng suy nghĩ, và cả trong từng nhận thức mỗi ngày. Chỉ có như thế, ta mới có thể sống an và không gieo thêm lo âu cho chính mình và người khác.

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc cũng nhắc lại lời chư Tổ: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” – không trụ vào đâu cả, không cố chấp vào một hình thức nào, để khỏi sinh tâm tham, sân, si giữa thời đại vốn dễ khiến con người đánh mất chính mình. Đó là bài học lớn, nhất là với người hộ pháp – cần giữ tâm không dính mắc, nhưng không buông lơi.

Nhớ lúc còn thuở bé , chúng con đã đọc “Mực Tím” và say mê với những bài viết tuổi mới lớn của Bác. Rồi lớn lên, chúng con lại gặp Bác trong những trang sách “Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng”, “Gió heo may đã về”, “Thư gửi người bận rộn”, “Biết ơn mình”, ”Ngàn cánh sen xanh biếc”… mỗi cuốn sách là một đóa hoa thiện lành thật dễ thương trong khu vườn tâm linh đang lớn dần theo năm tháng đời người.

Hạnh phúc hơn, khi gần một thập niên nay, chúng con lại có duyên được gần gũi, hầu chuyện và học hỏi trực tiếp với Bác. Ở Bác luôn toát lên một nguồn năng lượng rất đặc biệt: lạc quan, mạnh mẽ và tràn đầy yêu thương.

Bác là người thầy, người cha, đôi khi là người bạn vong niên – mà mỗi lần chúng con đọc lại sách Bác là một lần… tủm tỉm cười một mình. Cái cười hiền, nhẹ như mây trôi – vì thấy mình trong đó, thấy đời trong đó, và thấy cả một con đường thiền vị đang dần hé mở giữa bộn bề thế gian.

Chúng con tri ân Bác – người gieo duyên lành và đã tiếp thêm cho chúng con niềm tin, động lực và ánh sáng của chánh pháp.

(13.4.2015)

 

Thân mến,

Đỗ Hồng ngọc.

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Lõm bõm học Phật, Nghĩ từ trái tim

Đọc CÕI NHỚ, thơ Chiêu Đề (Thích Đồng Bổn).

08/04/2025 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Đọc CÕI NHỚ,

thơ Chiêu Đề (Thích Đồng Bổn).

Đỗ Hồng Ngọc

Tôi nhớ, khoảng cuối năm 2011, tôi thường đến Xá Lợi viếng cảnh chùa và thăm thầy Đồng Bổn, nhà thơ Chiêu Đề. Thầy ngồi ở góc phòng trò chuyện với vài người bạn thân, sau lưng có một tấm bảng to đề chữ “Thôi Kệ”. Thầy mời tôi ly cà phê và nói đây là “Quán café Thôi kệ” đó bác sĩ. Rồi mở nhạc Trịnh cho tôi nghe.

Sau này khi tôi là cố vấn Ban Phật học chùa Xá Lợi, tôi thường gặp thầy hơn, cũng đã có vài buổi thầy mời Nói chuyện cùng thính chúng nơi giảng đường Chánh Trí, và mời viết cho Tạp chí Từ Quang. Cũng từ “duyên” đó, tôi trở thành “nhà tham vấn” cho thầy về sức khoẻ.  Hoá ra thầy có nhiều bệnh nền quá! Tiểu đường. Viêm gan siêu vi, Dạ dày, Tim, Gan, Phổi…

Thầy tâm sự: “Tôi là hệ lụy của chất Dioxin bác à…/ Sau hòa bình là mất sức lao động hoàn toàn/  Nhờ Phật độ lại ngập tràn hạnh nguyện/ Trả nghiệp xưa trải thêm lắm chuyện/ Dạ dày, gan, tim, phổi chẳng còn nguyên/ Giờ lão rồi cột sống nghịch duyên/ Tiểu đường liên miên chướng duyên tu tập/ Lão bệnh tử hiểu rồi nguyện lập/ Kệ thân đi ta cố chấp làm gì/ Sao cho tâm như mặt nước phẳng lì/ Chuyện đến đi có gì nghi với ngại…..”

Rồi ít lâu sau, thầy cho tôi xem kết quả xét nghiệm mới nhất: Viêm gan đã chuyển thành Chai gan (cirrhosis). Giai đoạn cuối!

Bỗng nhiên thầy “biến mất”. Không biết đi đâu. Thì ra thầy đã “trốn” ra một thiền xá ở miền núi phương Bắc xa xôi, quyết tâm  “tu tập”:

Tiếng kêu kẽo kẹt bởi gió mưa

Mái tôn như thở giữa ban trưa..

(Căn nhà gỗ của tôi)

Ở đó, tưởng đã “xả ly” mà lại càng quấn quít:

Cố quên lại thấy nhớ nhiều hơn

Nhìn đâu cũng thấy nỗi cô đơn

 

Và một “cuộc chiến” đã bắt đầu:

Cái tâm chiến đấu với cái tôi

Không lẽ buông xuôi vì ma chướng

Dã tràng xe cát chẳng đường lui ?

 

Không dễ chút nào ngay cả với một tu sĩ:

Lối nào hướng đến Chân Như

Bệnh nào cố chữa dường như cháy nhà

Tâm nào còn mãi bôn ba

Ý nào vượn mã vào ra liên hồi

(Lối nào)

 

Có khi gần như tuyệt vọng:

Nhớ chiều vàng võ ánh hoàng hôn

Ngày trôi nhanh ánh mắt vô hồn

Xuân sắc thời gian nào ngưng nghỉ

Sinh già bệnh chết nấm mồ chôn...

 

Lạ thay, từ đó, sáng nào anh em, bè bạn vẫn đều đều nhận được một bài thơ online của Chiêu Đề… viết từ căn nhà gỗ.

“Bệnh không ngủ được thì tôi sáng tác chờ sáng, bác à… Làm xong một bài thơ, như trút được nỗi lòng tâm sự, nhẹ nhõm và cảm thấy vui trong lòng. Nỗi đau về bệnh tật cũng vơi đi…”. “Với tôi, hình như làm thơ hiệu quả hơn trong chữa bệnh thân và bệnh tâm, vì nó cảm xúc thực tế cuộc sống của mình…” .

Cõi Nhớ là tập thơ thứ 6 của Chiêu Đề Thích Đồng Bổn. Ông mới gởi bản thảo cho tôi sáng nay và nói bác viết đôi dòng… để in vào tập thơ làm kỷ niệm.

Cõi Nhớ không phải là nỗi nhớ, nhưng cũng đầy nỗi nhớ: Nhớ hoài, nhớ mãi, nhớ thương, nhớ thuở, nhớ về, nhớ quê, nhớ sáng, nhớ chiều, nhớ quên, nhớ đi, nhớ đến…

Đó là Tựa của những bài thơ trong Cõi Nhớ. Những nỗi nhớ cứ chằng chịt quấn quít, phan duyên với nhau như thế mà tạo ra những “chúng sinh” không lối thoát…

Mở đầu tập Nỗi Nhớ là Nhớ hoài,

Nhớ hoài thời lận đận bôn ba/ Nhớ hoài khi tỉnh giấc cuộc đời/ Nhớ hoài lúc khoát áo nâu sồng…

Rồi suốt tuần này đến tuần khác, ông cứ nhớ triền miên không ngớt:

Thứ Hai, nhớ về

Nhớ về quá khứ lắm vô minh

Trượt dài nhân ngã chuốc tội tình

Tánh tướng vốn không, nào thấy lỗi

Đâu ngờ quả báo nghĩ mà kinh!

 

Thứ ba Nhớ lắm, Nhớ lắm trời đêm dưới bóng chùa; Thứ tư: Nhớ mãi; Thứ năm: Nhớ sao; Thứ sáu: Nhớ thêm; Thứ bảy: Nhớ thương…

Nhớ triền miên, không ngơi nghỉ.

May sao, Chủ Nhựt kịp trở về với CÕI NHỚ:

nhớ Giả, nhớ Không, nhớ Trung đạo, Bất hư, Duyên sinh, Duyên khởi , Vô dư niết bàn…

***

Cõi Nhớ thì đã không còn là nỗi nhớ nữa rồi!  Nỗi nhớ chỉ là những “tạp niệm đan xen”, Tâm nào còn mãi bôn ba/ Ý nào vượn mã vào ra liên hồi…

Cõi Nhớ làm nhớ Một cõi đi về của Trịnh Công Sơn “Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt… Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt…” (TCS). Đôi vầng nhật nguyệt ấy là Minh. Hành, thức, danh sắc, lục nhập… gì “thôi kệ”.

Mai này tuệ giác nở hoa

Trở về tánh Phật nương nhà Như Lai.

Đã lý sự vô ngại, sự sự vô ngại rồi chăng?

“…Lý nhân duyên chờ tâm ý mênh mông

Động tĩnh nơi thân lay chuyển càn khôn

Đâu cũng thấy pháp môn chân vi diệu

 

Và bóng trăng Lăng Già đã sẵn:

Nhớ tìm ánh sáng bóng Lăng Già

Chiếu soi tâm thức ngụ trong ta

Trăng ở đáy sông từ ảnh hiện

Trời đâu lưu dấu vết chim qua.

 

Cho nên, từ trong Cõi Nhớ, nhà thơ Chiêu Đề viết

Mai này tôi có đi xa

Câu thơ để lại làm quà tiễn đưa

(…)

Mai này tôi sẽ đi luôn

Về trong cát bụi đã tuôn mạch sầu

Thơ buồn ghi lại mấy câu

Trao người đón nhận trên đầu non xa

(Mai này)

***

Khi được hỏi cõi Phật ở đâu? Phật trả lời “Các loài chúng sanh là cõi Phật của Bồ tát” (chúng sinh chi loại thị Bồ-tát Phật độ). Thì ra vậy. Thì ra cõi Phật của Bồ tát không ở đâu xa. Ở nơi các loài chúng sanh thôi. Quanh ta và trong ta. Đó là những chúng sanh muôn hình vạn trạng, nheo nhóc, khổ đau, chằng chịt, quấn quít, xà quần sáu nẻo, bay nhảy không ngừng sáng trưa chiều tối, kiếp này kiếp khác, quần quật không an. Bồ-tát chỉ cần “thành tựu” chúng sanh đó, tức thì cõi Phật hiện ra ngay. Không phải tìm kiếm đâu xa (Duy Ma Cật).

Bây giờ sáng sáng thầy vẫn có một bài thơ gởi đến mọi người từ trong CÕI NHỚ.

Và, hình như, bệnh cũng đã lui dần thì phải.

Đỗ Hồng Ngọc

(Saigon 04/8/2024)

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Thiền và Sức khỏe

  • « Chuyển đến Trang trước
  • Trang 1
  • Trang 2
  • Trang 3
  • Trang 4
  • Interim pages omitted …
  • Trang 123
  • Chuyển đến Trang sau »

Thư đi Tin lại

  • Lịch “Trò chuyện, giao lưu…”
  • Lại đính chính: “SAIGON BÂY GIỜ”
  • ĐÍNH CHÍNH: BSNGOC không phải là BS ĐỖ HỒNG NGỌC
  • Đính chính: BS NGỌC không phải là Bs Đỗ Hồng Ngọc
  • bsngoc đã lên tiếng đính chính
  • Thư cảm ơn và Đính chính về FACEBOOK Bác sĩ NGỌC
  • ĐÍNH CHÍNH: Bài viết "TÀN NHẪN" không phải của Bs Đỗ Hồng Ngọc

PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG

Bs Đỗ Hồng Ngọc với Khoá tu “Xuất gia gieo duyên” tại Tu viện Khánh An.

Hỏi chuyện Học Phật với Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Bản dịch tiếng Đức “Một Ngày Kia… Đến Bờ”

CON ĐƯỜNG AN LẠC Bài 6: Học cách Phật dạy con

Minh Lê: Đọc và Cảm “Một ngày kia… đến bờ”

Thăm Sư Giới Đức Triều Tâm Ảnh

Nguyên Cẩn: Đọc “Một ngày kia… đến bờ “của Đỗ Hồng Ngọc

“MỘT NGÀY KIA… ĐẾN BỜ” Tuỳ bút Đỗ Hồng Ngọc

Từ góc nhìn “Phê bình sinh thái” về bài thơ “Rùng mình” của Đỗ Hồng Ngọc

MỘT NGÀY KIA…ĐẾN BỜ V2

Xem thêm >>

Chuyên mục

  • Một chút tôi
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy

Bài viết mới nhất!

  • Thư gởi bạn xa xôi (tháng 12/2025)
  • Trò Chuyện với Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc về Tình Yêu và Cuộc Sống
  • Lương Thư Trung (Hai Trầu): TUỔI GIÀ THỬ ĐỌC “CHUYỆN HỒI ĐÓ” (ĐHN)
  • PNB giới thiệu: Sách “bỏ túi” CON ĐƯỜNG AN LẠC.
  • Video Podcast: Học cách Phật dạy con

Bài viết theo tháng

Ý kiến bạn đọc!

  • hai trầu trong Trò Chuyện với Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc về Tình Yêu và Cuộc Sống
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Mũi Né
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Gặp gỡ với Nhà thơ Huyền Chi của “Thuyền viễn xứ”
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Lương Thư Trung (Hai Trầu): TUỔI GIÀ THỬ ĐỌC “CHUYỆN HỒI ĐÓ” (ĐHN)
  • Jimmy Võ Bất trong Mũi Né
  • Jimmy Vo trong Mũi Né
  • Le Dinh Duc trong Gặp gỡ với Nhà thơ Huyền Chi của “Thuyền viễn xứ”
  • Hoang Nguyen trong Lương Thư Trung (Hai Trầu): TUỔI GIÀ THỬ ĐỌC “CHUYỆN HỒI ĐÓ” (ĐHN)
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Mũi Né
  • Jimmy Võ Bất trong Mũi Né

Cùng một tác giả

  • 0
  • 1
  • 1
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6

Thống kê

Nhà tài trợ

biệt thự vũng tàu
biệt thự vũng tàu cho thuê | biệt thự vũng tàu cho thuê theo ngày giá rẻ | cho thuê biệt thự vũng tàu có hồ bơi
© 2009 - 2016 Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Phát triển & Hỗ trợ kỹ thuật bởi SGC.
Trích dịch nội dung để dùng trong nghiên cứu, học tập hay dùng cho cá nhân đều được tự do nhưng cần phải chú thích rõ nguồn tài liệu và đối với các trích dịch với mục đích khác, cần phải liên lạc với tác giả.
  • Một chút tôi
    ?
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    ?
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    ?
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    ?
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    ?
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy
  • Nhận bài mới qua email