Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Tập hợp các bài viết của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Ghi chép lang thang
  • Nhận bài mới qua email

Bs Đỗ Hồng Ngọc với Khoá tu “Xuất gia gieo duyên” tại Tu viện Khánh An.

14/08/2025 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc thuyết trình về “Thiền và sức khỏe” tại Tu viện Khánh An

Tuệ An

Sáng ngày 12/8/2025, tại Tu viện Khánh An, đại chúng đã có cơ duyên lắng nghe buổi thuyết trình của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc với chủ đề “Thiền và Sức khỏe”.
Trước giờ thuyết giảng, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc – một tên tuổi lớn trong y học và văn học Việt Nam đã có buổi gặp mặt thân tình với Thầy Viện chủ. Cùng chén trà thơm, Thầy và bác đã ân cần thăm hỏi nhau. Bác cũng trò chuyện chủ đề mà bác sẽ chia sẻ cùng đại chúng trong Khoá tu “Xuất gia gieo duyên” kỳ này tại Tu viện.
Là một bác sĩ nhi khoa với hơn bốn thập niên kinh nghiệm, đồng thời là một nhà văn, nhà thơ nổi tiếng với bút danh Đỗ Nghê, ông đã cống hiến nhiều năm tại Bệnh viện Nhi Đồng và các trường đại học y khoa Saigon. Dù đã nghỉ hưu nhiều năm, ông vẫn tiếp tục sáng tác và xuất bản hơn 40 tác phẩm, để lại dấu ấn sâu sắc trong cả hai lĩnh vực về Phật giáo và y học.
Tại Pháp đường Chánh Niệm, bác đã có gần một giờ đồng hồ chia sẻ với 100 hành giả những kiến thức quý báu về cách chăm sóc sức khỏe thể chất lẫn tinh thần trong xã hội hiện đại. Đặc biệt, bác chú trọng đến huấn luyện hơi thở, giá trị của hơi thở bụng, giá trị của việc riêng tập hơi thở đi xuống đan điền; sau đó là trả lời thắc mắc của hành giả tham dự.
Buổi nói chuyện khép lại trong niềm hoan hỉ của chư hành giả khóa tu Xuất gia gieo duyên lần 5 tại Tu viện Khánh An.
Tuệ An
(Tu viện Khánh An)

Lâu ngày gặp lại Thầy Trí Chơn, Viện chủ…

 

Trò chuyện cùng các hành giả khoá tu “xuất gia gieo duyên”… với sự tham dự của quý thầy giáo thọ.

 

 

Sau buổi thuyết giảng ở Pháp đường chánh niệm, đã cùng các vị giáo thọ trẻ thăm hồ sen Khánh An, nơi mái chòi tranh quen thuộc mà tôi rất thích từ nhiều năm trước nơi này.

Tiếp tục trò chuyện thân tình cùng quý thầy trẻ trong một không gian yên ả giữa hồ sen ngát hương…

(ảnh Đỗ Hồng Ngọc, 12.8.2025)

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Lõm bõm học Phật, Phật học & Đời sống

Hỏi chuyện Học Phật với Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

22/05/2025 By Bac Si Do Hong Ngoc 1 Bình luận

 

Hỏi chuyện Học Phật với Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

(Nhân đọc bản thảo Chuyện Hồi Đó)

Minh Lê (Nha Trang)

 

  1. Trong bài thơ “Xin cám ơn, cám ơn” viết sau cơn bạo bệnh năm 1997, anh viết:

“Đã bao lâu ta không sống với mình

Ta có ta mà quên ta phứt.”

 “Ta quên ta” là sao, và có gì liên hệ với lời dạy của Phật không?

 

Tôi sinh đẻ ở Phan Thiết. Nhà bà Ngoại dưới chân núi Tà Cú, nơi có chùa Linh Sơn Trường Thọ Tự, nên hồi nhỏ xíu ba bốn tuổi đã được Bamá, cậu, dì… cõng lên chùa chơi thường xuyên… Trong nhiều năm học hành rồi làm việc, quả thật tôi không nhớ tới tôi, tôi chỉ nhớ công việc ở khoa cấp cứu Nhà thương Nhi Đồng Saigon, chương trình Săn sóc Sức khoẻ Ban đầu… Sau đó làm công tác truyền thông giáo dục sức khoẻ, phòng chống sốt xuất huyết, viêm ruột hoại tử, não mô cầu… rồi phòng chống HIV/ AIDS…, quả thật tôi quên phứt tôi, đến một hôm người ta khiên tôi vào cấp cứu, mổ sọ não vì tai biến… Khi tỉnh lại, rồi bước được những bước như một em bé, biết nghe, biết nói… tôi viết bài thơ Xin cảm ơn, cám ơn này trong bệnh viện.

Xin cám ơn, cám ơn
Cơn bệnh ngặt nghèo quật ta gục ngã
Như cỏ cây trước cơn bão dữ
Như con thuyền tung hê lên vách núi cao
Cho ta trở về làm con thú hoang sơ
Trần truồng như nhộng
Kẻ cạo đầu người lột da
Kẻ đục sọ người giúp thở
Kẻ đặt ống sonde vào đường tiểu
Người bơm thuốc qua dịch truyền
Cho ta trở về làm con thú trinh nguyên
Cho ta trở về làm em bé sơ sinh
Không lý trí không nghĩ suy không toan tính

(…)

Xin cám ơn, cám ơn
Cơn bệnh ngặt nghèo quật ta kịp lúc
Cho ta trở lại với mình
Ta muốn ôm hôn tất cả mọi người
Và ôm hôn ta nữa
Cái đầu trọc lóc bình vôi
Hai lỗ thủng và mười tám vết khâu từ ái
Ta ngạc nhiên lắng nghe mình thở
Lắng nghe sự sống cục cựa trong mình.

(…)

Phật dạy phải quay về nương tựa chính mình. Phải từ bi với mình rồi mới từ bi với người. Đừng bao giờ để phải kêu lên: “đã bao lâu ta không sống với mình/ ta có ta mà quên ta phứt…”

  1. Anh viết trong Chuyện Hồi Đó muốn có an lạc chỉ cần làm “3 điều 4 chuyện”. Tất cả đều hay, chỉ riêng phần “hiểu thuật ngữ, ẩn dụ” có cần thiết không?

Rất cần thiết. “3 điều 4 chuyện” là cách đơn giản nhất để hiểu và thực hành lời Phật dạy, mang đến sự An Lạc cho nếp sống vui, sống khoẻ, tránh mê tín dị đoan… Cho đến nay, nhiều người vẫn hiểu lầm về những từ “chúng sanh”, “niết bàn”… Vì ngôn ngữ trong Phật học đa dạng… Phật còn dạy “y nghĩa bất y ngữ”. Nói vậy mà không phải vậy đâu! Khi thuyết giảng xong Kim Cang Bát- Nhã, đệ tử hỏi Thế Tôn, tên kinh này là gì. Phật nói: Kim Cang Bát-Nhã balamật. À, nói Kim Cang Bát- Nhã Balamật thiệt ra không phải Kim Cang Bát- Nhã Ba-la-mật, chỉ tạm gọi vậy thôi. Ấy là để khuyên ta đừng bám chấp. Thí dụ, nói Chúng sanh không phải là chúng sanh, nói Niết bàn không phải là niết bàn…  Còn “ẩn dụ” thì càng cần hiểu rõ, nếu không thì dễ mê tín dị đoan. Như niệm  Quan Thế Âm Bồ tát giúp làm cạn cơn lũ dữ, làm tắt ngọn lửa to. Tưởng thiệt thì nguy!

  1. Người đa tài ắt đa tình (ý của Giáo sư Cao Huy Thuần). Đa tình có thể hiểu thế nào theo anh? Làm sao để vừa “đa tình” mà tâm vẫn an?

Một người từ bi… luôn là một người đa tình đó. Từ bi với mình và từ bi với người. Trong Phật học còn có “Vô duyên từ” nghĩa là chẳng có lý do gì để mà “từ” cả! Chẳng phải người ta có thể từ với hòn đá cuội (ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau– Trịnh Công Sơn) đó sao? Hay từ với một cánh chim bay (Ta hỏi kiến nơi nào cõi tịnh? Ngoài hư không có dấu chim bay. Tuệ Sỹ)…  Văn chương không thiếu:  “Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn” (Thế Lữ), “Có nghĩa gì đâu một buổi chiều, nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt, bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu…” (Xuân Diệu). Kẻ đa tình vậy đó. Đa tình mà tâm vẫn an… có lẽ bởi đó là một thứ tình thương bao la hoặc một thứ tình yêu “tỉnh thức”, không bị vùi đắm trong đam mê, vị kỷ.

  1. Anh viết về cách Phật dạy con. Tại sao bài học đầu tiên La- Hầu- La được học lại là cách thở?

Chớ sao? Thở chẳng phải là việc làm đầu tiên của đứa bé sơ sinh vừa rời bụng mẹ sao? Trong bụng mẹ, chưa cần thở. Tiếng khóc chào đời là một nhịp thở đầu tiên của kiếp người. Lớn lên, ta thường quên cách thở. Rồi khi ta thở cà hước, thở cà giựt… mới tiếc hồi nhỏ không học thở. Thở tưởng của ta mà không phải của ta… Thở ở ngoài ta. Thở cóc cần ta. Thở vốn tự động, do áp suất trong phổi mà khí tuôn vào hay tuôn ra. Nó gắn liền với cảm xúc. Điều tức (là điều chỉnh, kiểm soát hơi thở) thì sẽ  “điều” được tâm. Muốn tâm an thì phải học cách điều tức là vậy. Phật mất nhiều năm tu thiền vất vả, nhịn thở, nhịn ăn mà không thành công. Nhớ lại một lần còn nhỏ theo phụ thân coi Lễ Tịch điền tự dưng thấy thân thể nhẹ nhàng, lâng lâng, như không còn hơi thở nào nữa, hoá ra đó mới thực là thiền. Cái đó, trong Nam Hoa Kinh gọi là “Toạ Vong”…  “ngồi yên, biến mất”. Không để ý gì chuyện thở hay không thở nữa. Cái đó chính là tứ thiền “xả niệm thanh tịnh” rồi đó. Khi còn niệm thì không thanh tịnh nổi đâu. Dù cho đã có hỷ có lạc.  Cho nên Lục tổ Huệ Năng lấy Vô niệm làm tông là rất đúng. Các kinh sách dạy thiền có thể phân tách từng bước, từ sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền…  Thực tế, các thiền sư thiện xảo ngồi xuống, ngay hơi thở đầu tiên đã có thể vào định sâu được rồi. Càng theo dõi, càng chia cắt, càng dính mắc, lúng túng. Ở tứ thiền đã gần như không cần thở nữa. Có thể vào diệt thọ tưởng định, mà không cần qua các tầng thiền vô sắc.

  1. Trong thời đại ngày nay, “khẩu không chỉ là lời nói trực tiếp mà còn là những status trên mạng Internet”, cả các comment nữa. Làm sao để phân biệt “khẩu thiện” và “khẩu ác” trên mạng?

Đó chính là lúc phải quay về nương tựa chính mình. Coi lại mình đã bị “rung động” thế nào, đã bị “xao xuyến” thế nào rồi? Tốt nhất lúc đó nhớ lại câu Đà-la-ni trong Kinh Kim Cang: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (Đừng trụ vào đâu cả để mà sanh cái tâm!) thì may ra mới thoát.  Status, comments… nào làm cho ta sanh tâm chạy theo những cảm xúc đó, bị lôi cuốn vào cảm xúc đó, như khi bị dụ dỗ kiểu thực phẩm giúp trẻ mãi không già, xinh đẹp như xưa, “ lương cao việc nhẹ”… thì thế nào cũng sụp bẫy.  Tóm lại, vì lòng tham mà không đạt thì sân (giận), thiệt ra cũng bởi vì Si, nghĩa là mê, là say, là ngu. Đáng đời. Ráng chịu. Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.

  1. Anh có thể giải thích một cách dễ hiểu về “duyên sinh” không?

Hiểu được “duyên sinh” thì hiểu được Bát- Nhã, trang bị cho mình được cái gọi là “viên thành thật tánh”, một cái tánh sáng suốt, không bị che mắt, không bị dẫn dụ bởi bên ngoài nữa… Dẫn dụ bằng cái gì? Bằng cái danh, bằng cái tướng. Cái “danh” thì rỗn rảng, cái danh thì kêu to, chớp loà, khiến ta tưởng thiệt, tưởng bỡ. Y như con “thiêu thân” bị dụ bởi ánh đèn. Những danh, những tướng đẹp đẽ,  hấp dẫn khiến ta dễ dính mắc gọi là “biến kế sở chấp”,  là “y tha khởi”…

Duyên? Là những “điều kiện”. Có thể lấy một ví dụ đơn giản, với 3 phân tử Carbone (C), Hydrogèn (H), Oxygèn (O)… riêng lẻ thì không sao, tự dưng có cái men (điều kiện) gì đó tác động vô, thành đường glucose C6H12O6 ngọt ngào; nếu gặp cái men khác, cũng 3 món đó lại thành rượu (C2H5OH) cay đắng, rồi với men khác nữa lại thành giấm (CH3COOH) chua chát… Những ngọt ngào, cay đắng, chua chát đó trong đời sống hàng ngày của ta chẳng phải là do “duyên” gì đó sao?. Rồi những RNA, DNA… kết hợp với nhau mà ra vi rus, vi khuẩn, khủng long, con người… Toàn là “duyên sinh” đó thôi.

Lý Duyên Sinh Duyên Khởi là cốt lõi của Phật giáo: cái này có vì cái kia có, cái này không vì cái kia không… Thập nhị nhân duyên, 12 nối kết, từ Vô minh sinh hành, hành sinh thức, thức sinh danh sắc, lục nhập… Nếu hiểu rõ con đường duyên sinh này – như một tiến trình tâm- từ ý thức đến hành động, cảm nhận, rồi “ái thủ hữu”, ta có thể “can thiệp” từng bước để cải thiện tiến trình duyên sinh của tâm, và… giải thoát nếu chấm dứt Vô minh. Có thể nói, hiểu được Duyên sinh, duyên khởi, ta hiểu nghiệp, luân hồi, nhân quả…

  1. “Vô thường” là gì?

Vô thường là… thường! Đúng vậy, một cánh hoa đào rực rỡ đẹp tươi bỗng tàn héo dần, ai cũng thấy mới đó mà đã đổi thay, một sự “vô thường” không thể chối cãi. Thế nhưng, thử nhìn một cách khác. Những cánh hoa tàn úa đó cứ mãi mãi còn, cứ mãi mãi ở đó và tàn úa… thì tội nghiệp quá. Nó phải được đổi thay chớ. Nó phải được làm mới. Nó phải được rực rỡ đẹp tươi chớ. Cách nào? Thì “tiết mùa” sẽ giúp. Không hẹn mà đến/ không chờ mà đi/ bốn mùa thay lá thay hoa thay mãi đời ta…(TCS). Và những cánh hoa đào theo tiết theo mùa kia vẫn mãi mãi rực rỡ đẹp tươi, chưa bao giờ tàn úa. Chàng thi sĩ một hôm dừng chân bên song cửa, thấy cô nàng xinh đẹp bên đoá hoa đào, năm nay trở lại, những đoá hoa kia vẫn còn rực rỡ đẹp tươi, mà cô gái xinh kia đâu rồi, không thấy nữa. Mọi thứ vô thường quá. Nhưng những cánh hoa đào rực rỡ thì đang cười chàng: “hoa đào năm ngoái còn cười gió đông”. Cái “tiếu” đó mới vui làm sao! Hoa cười nhạo chàng thi sĩ ngờ nghệch. Cho nên nếu nhìn bằng con mắt Như Lai, hẳn đã thấy năm nào hoa cũng nở dưới gió đông này, vẫn rực rỡ tươi vui như thế. Còn người đẹp kia ư? Thì hết Dương quý phi có Bao Tự, hết Bao tự còn Chiêu quân… Có gì là vô thường đâu. Nhìn bằng con mắt Như Lai, thì làm gì có vô thường phải không?

  1. Người sinh ra ai cũng có cái tôi (ngã), vậy “vô ngã” là sao?

Cái mà ta tưởng là Ngã đó, nó từ nhiều thứ mà ráp nối lại (Ngũ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức), có cái gì riêng có thực tánh của nó đâu.  Ta thử hít vào một hơi sâu, thật sâu, không được. Nó bắt ta phải thở ra. Ta thở ra thật dài, dài nữa. Không được. Nó bắt ta phải hít vào. Chuyện thở ra hít vào hàng ngày của ta mà ta cũng chẳng làm chủ nó được. Vậy có cái ta không? Nếu ta tưởng thiệt có cái ta thì ta sẽ khổ đau, vất và vì nó. Còn biết nó vô ngã, ta sống với cái vô ngã đó, chẳng phải hết khổ đau ư? Cho nên khi còn khổ đau, chưa “thấy biết” (giác ngộ) Phật dạy Vô Thường, Khổ, Vô Ngã, Bất tịnh… Khi đã thấu hiểu rồi, ta thấy Thường, Lạc, Ngã, Tịnh đó thôi. Phât là y vương, khi nguời ta bệnh hoạn, khổ đau, cho mấy thứ thuốc chữa triệu chứng, ráng nuốt. Khi hết bệnh không cần uống thuốc nữa. Phật nói ví như người say thấy đất đai nhà cửa cây cối ngả nghiêng, lúc tỉnh ra thấy đất đai bằng phẳng, nhà cửa cây cối… tĩnh yên. Cái “thấy biết” đó giúp ta cỡi bỏ khổ đau, thấy được an lạc.

  1. Phật là một Y vương. Chỉ cách phòng bệnh, lại chỉ ra nguyên nhân bệnh và cách trị bệnh. Bệnh ở đây chính là khổ đau. Anh có thể tóm tắt nguyên nhân, đơn thuốc và cách phòng bệnh của Phật không?

Đúng, Phật là bậc Y vương, chữa được cả đau và khổ. Khác với bác sĩ, lương y, thường chỉ chữa được cái đau, cái bệnh… Mà ta biết, Khổ mới là cái gốc của đau, của bệnh. Bênh thân và bệnh tâm. Khổ phát sinh từ Tham sân và si. Nhưng tham sân si cũng chỉ là triệu chứng. Căn nguyên là Vô minh. Từ vô minh mà sinh hành, thức, danh sắc… có thể nói là con đường  sinh bệnh học, sinh lý bệnh học.  Lục phủ ngũ tạng quấn quít lấy nhau. Chỉ cần “chiếu kiến ngũ uẩn giai Không” (Tâm Kinh) thì đã thoát được vô minh, tức khắc “độ nhứt thiết khổ ách”. Phật “chế” ra nhiều thứ “thuốc”, tuỳ căn cơ người bệnh mà “cho toa” sao cho phù hợp. “Sanh, bệnh, lão, tử”… có lẽ là nỗi khổ, nỗi lo lớn nhất của kiếp người. Khổ vì sanh ư? Đã có vị Phật tên là Bảo sanh (Ratnasambhava) đây rồi, giúp sanh đẻ an toàn, Khổ vì bệnh ư? Đã có vị Phật là Dược sư (Bhaisajyaguru)  cho thuốc. Khổ vì già ư? Có vị Phật Asucbệ (Asobhya), còn gọi Phật bất động, an nhàn. Khổ vì chết ư? Có vị Phật A Di Đà (Amitabha) rước về Tịnh độ… Vô số các vị “thuốc” để chữa vô số các bệnh khổ. Con đường phòng bệnh khổ chỉ cần gom lại trong Bát chánh đạo: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tính tấn, chánh niệm, chánh định.  Thực hiện được Bát chánh đạo thì  An vui và Hạnh phúc.  Trong Bát chánh đạo, cũng chỉ cần một thứ thuốc cốt loĩ: Chánh định. Có chánh định thì có chánh kiến, chánh tư duy… Có chánh định thì thấy “Vô tướng thực tướng” thấy Như Lai.

  1. Anh có thể giải thích và cho ví dụ về “Từ Bi Hỷ Xả”? Sao lại cần “Từ Bi Hỷ Xả”?

Nếu không Từ Bi Hỷ Xả thì ta cứ sống với lòng Sân hận, oán thù, ganh ghét, ghim gút… “Thù trả chưa xong đầu đã bạc!”. Từ là lòng Thương. Biết thương.Còn thương… Thí dụ “còn thương rau đắng mọc sau hè”! Cọng rau mà còn thương được thì lòng thảnh thơi biết bao. Lấy oán báo oán/ oán oán chồng chất/ lấy đức báo oán oán tiêu vong… Bi là làm vơi khổ. Một miếng khi đói bằng một gói khi no. Nếu chỉ biết thương thôi mà không có cách gì làm cho bớt khổ thì không đủ. Cho nên Từ đi với Bi là vậy. Hỷ là cái vui theo người. Khó. Người vui thì ta ganh ghét dễ hơn. Còn vui theo kiểu đãi bôi, nịnh bợ thì càng hại người. Xả là buông bỏ, là không còn dính mắc. Từ bi hỷ xả là Tứ vô lượng tâm. Mênh mông, không ngằn mé. Được chút mừng chút.

  1. Có người tiếp cận Đạo Phật như một tôn giáo, có người lại coi là môt triết lý sống. Theo anh, cách nào đúng?

Trong cuộc sống bình thường, ta cần có một “triết lý sống”, tìm kiếm một cuộc sống an lạc, hạnh phúc. Chúng ta có thể thực hành Giới Định Huệ để giảm trừ Tham sân si. Chỉ cần giữ ngũ giới, có thể là đã đủ. Không sát sanh, không trộm cắp, không nói dối, không tà dâm, không nghiện ngập… Và nếu được, Từ Bi Hỷ Xả. Nhưng con người còn có phần tâm linh. Chưa biết hết, chưa hiểu hết được. Dân gian gọi “ba hồn chín vía”. Các nhà xã hội học tìm thấy có những đứa trẻ sống trong rừng sâu, không hề biết đến con người, khoảng tám tuổi bỗng đặt mấy cục đá xếp thành tầng cao, rồi quỳ lạy, cầu nguyện. Cái gì vậy? Không biết. Có cái gì đó thuốc về “tâm linh”…

  1. Theo cách anh hiểu về Đạo Phật, sau cái chết có còn linh hồn không? Linh hồn đó sẽ làm gì, đi về đâu?

Phật giáo không nói về “Linh hồn”. “Linh hồn” là vĩnh cửu, trường tồn, không thay đổi gắn vào thể xác, và cái chết là tách rời thể xác với linh hồn. Thiện, được vào nước Thiên đàng vĩnh viễn; Ác, thì vào địa ngục vĩnh viễn. Phật giáo không tin có một Đấng Tạo hoá quyết định việc ban thưởng hay trừng phạt. Phật giáo cho rằng mọi thứ do Duyên sinh. Một kẻ làm ác, ở địa ngục, có thể trở thành nguời Thiện, lên làm người, làm Phật. Một người ở cõi thiên, có thể bị đoạ xuống địa ngục vì làm Ác . Quan niệm này cho con người một Tự do tuyệt đối. Cho nên Phật giáo chỉ nói “Thần thức” là phần tách khỏi thể xác khi chết, tuỳ nghiệp duyên mà tái sanh.

  1. Anh từng nói “trái tim nghĩ bằng tình, khối óc nghĩ bằng lý”. Phật pháp là tình hay lý?

Phật lúc nào cũng có hai vị Đại Bồ-tát đứng hai bên. Bên trái là Văn Thù Bồ-tát, cưỡi sư tử, tay cầm kiếm báu. Tiếng sư tử rống lên thì muôn thú đều khiếp vía. Vung gươm báu thì chặt đứt phiền não. Còn bên phải là Phổ Hiền Bồ-tát, cưỡi voi 6 ngà và tay cầm đoá hoa sen… Voi mới đủ sức chở nặng giáo pháp đến giúp chúng sanh. Voi 6 ngà tượng trưng cho 6 phương pháp giúp thành tựu trên con đường học Phật: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí huệ. Đó là ”Lục độ Balamật”.  Thú vị, khoa học biết rõ hai bán cầu não mỗi bên chịu trách nhiệm một thứ: bện trái, lý; bên phải tình.Nặng một bên sẽ không đạt kết quả tốt. Ngày nay khoa học não bộ cũng thấy hai bán cầu não có khả năng nối kết được với nhau.

  1. Theo Đạo Phật, con người sinh ra trên đời để làm gì?

Có người nói sinh ra trên đời để… chết? Có người bảo sinh ra trên đời để… sống? Có người nói “bất sinh bất diệt”, không có sống có chết gì cả!

Nhưnng có lẽ người ta sinh ra trên đời là để “trả” cái Nghiệp của mình. Nghiệp phát xuất từ Thân, Khẩu,Ý, nhiều kiếp sống đã tạo nên, đã tích luỹ. Có Nghiệp thiện và nghiệp ác. Có thể coi nghiệp là nhân sẽ sinh ra quả. Nhưng từ nhân mà sinh quả, phải có duyên. Không có duyên thì hạt giống  tốt cũng bị huỷ hoại đi. Duyên là những điều kiện tác động để nghiệp thành quả.  Hiểu Duyên sinh thì hiểu luân hồi, tái sinh, nhân quả là vậy…

Thật ra có nhiều câu hỏi Phật cũng bảo không nên trả lời. Một người bị tên, phải cứu chữa ngay cái đau của họ, đừng hỏi ai bắn mủi tên này, tại sao bắn, bắn để làm gì… vô ích.

  1. Trước một người muốn bớt đau khổ nhưng chưa biết về đạo Phật, anh sẽ cho lời khuyên gì?

Có khi không cần phải khuyên gì cả. Khuyên cũng chẳng ai nghe. Đau khổ của mỗi người do nghiệp do duyên của họ. Họ phải được trải nghiệm. Tự rút ra bài học. Tuy nhiên cũng có khi Phật cho lời khuyên như chuyện một bà mẹ có con bệnh chết, bà đau khổ cùng cực, muốn chết theo. Có người khuyên tìm Phật xin phương thuốc cứu con sống lại. Phật khuyên bà đi vào từng nhà trong làng, hỏi nhà nào xưa nay chưa từng có ai chết thì xin môt nắm tro trong bếp, mang về Phật sẽ chỉ cách làm thuốc cứu con. Bà đi nhiều năm tháng, hết làng này sang làng khác, không tìm thấy nhà nào không từng có người chết nên trở về lạy Phật xin quy y. Nếu ngay từ đầu Phật bảo “Ai mà chả chết, nhà nào chả có người chết, đừng buồn đau nữa…” liệu có khuyên được bà mẹ đó không?

  1. Anh viết: “Một hôm hơi thở tình cờ / Dính vào hạt bụi thành ra của mình.” Có ngụ ý gì liên quan đến Phật pháp trong câu này không?

Có đó chớ. Nhưng phải đọc luôn hai câu đầu: “Lắng nghe hơi thở của mình/ Mới hay ra hơi thở đã nghìn năm xưa…”  Nếu ta biết nhìn bằng con mắt ngàn năm, ta thấy trên Hy mã lạp sơn vốn xưa kia là biển, nay vẫn còn muối và các vỏ sò ở đó. Còn dưới đáy biển sâu kia, những thành phố đang chìm trong nước… Từ khi có loài người trên quả địa cầu ta đang sống này đã có bao nhiêu nugời đã chết? Họ chỉ để lại những hạt bụi đó thôi. Trong Phật giáo cũng có một thứ Ấn gọi là “Ấn điạ xúc” rất hay. Khi nổi cơn giận dữ, ta đưa ngón tay ấn vào trong đất, sẽ hết giận ngay vì nhớ ra rằng ta chính là hạt bụi trong đất này thôi. Kẻ thù ta cũng vậy. Hơi thở mà “tình cờ” dính vào hạt bụi thì lại do duyên. Hai chị em Thuý Kiều Thuý Vân, cùng cha cùng mẹ, vậy mà hai kiếp sống khác nhau đế ngàn sau đoạn trường đó thôi?

  1. Anh khuyến khích mọi người nên sống “ở đây và bây giờ”. Anh có thể lấy ví dụ cụ thể không?

Tôi đang khuyến khích mình đó chớ. Nếu biết sống “Ở đây” và “Bây giờ” thì hẳn đã là hạnh phúc. Có điều hết tiếc dĩ vãng thì mơ tương lai… Tiếng Anh có một từ hay: Present là “có mặt”, Present là “hiện tại” và Present cũng có nghĩa là món quà. Đó là món quà dành cho người có mặt ở thời… hiện tại. Còn ta cứ mãi loay hoay…

  1. Nói về chuyện ăn, anh viết: “Men tiêu hoá được tiết ra từ tâm hồn chớ không chỉ từ cái bao tử “

Ăn là một chuyện “lớn” không thua gì thở. Vì thức ăn kết hợp với hơi thở tạo nên năng lượng cho ta hoạt động hàng ngày. Năng lượng đó được tạo ra từ trong mỗi tế bào. Mỗi tế bào có Mitochondria (Ty thể) là nhà máy sản xuất năng lượng. Phật nói về thức ăn của thể chất và thức ăn của tâm hồn. Thực ra, thức ăn của thể chất cũng là thức ăn của tâm hồn đó chớ! Tàn Dà nói: Đồ ăn ngon, người ngồi ăn không ngon, không ngon. Đồ ăn ngon, chỗ ngồi ăn không ngon, không ngon. Cái chuyện ngon không ngon là chuyện tâm hồn phải không. Ăn là một vấn đế… văn hoá. Nhiều món quý chỗ này thì chỗ kia chê, không biết ăn. Camembert của Pháp. Mắm Bò hốc của Kampuchia. Mắm ruốc, mắm sặc ở ta… Món bánh căn nghèo của Phan Rang, Phan Thiết chẳng phải là món ngon nhứt sao? Nhiều bạn bè tóc bác phơ, ở nước ngoài về thăm quê bao giờ cũng đòi ăn cho được mấy món “nhà quê” đó.

  1. Theo anh, có thể có những giây phút “giác ngộ” trong đời sống thường nhật không?

Có chớ. Và thường nữa. Có điều ta không ghi nhận và duy trì nên nó tự xoá đi. Ta làm vỡ một cái chén sứ đẹp. Tiếc quá, sực nhớ cái chén đó làm từ gốm và… gốm thì trở về với đất để chờ làm cái chén sứ khác. Thấy cánh hoa tàn úa, tiếc quá, phải chi nó cứ mãi đẹp như thế. Ta thấy ta… già đí, tiếc quá, phải chi cứ còn trẻ mãi. Mà quên nghĩ rằng cánh hoa phải tàn đi để tạo nên một cánh hoa khác rực rỡ, đẹp đẽ hơn. Ta phải… già đi để con cháu ta có cơ hội lớn lên, nếu không… Cái đó là cái “Thấy biết của Phật” (Phật trí kiến). Vì ta cũng có Phật tánh, có Pháp thân như Phật nên ta cũng thấy biết chút chút, khác với Phật chỗ ngài thấy biết hoàn toàn, “toàn giác”. Phật không chỉ thấy biết gốm sứ từ đất, thuỷ tinh từ cát… nên bể cái gốm sứ, vỡ ly thuỷ tinh Phật cười còn ta khóc. Thiệt ra Phật thấy rõ, tất cả đều đến từ vô tướng, nên cái ta thấy, ta có, chỉ là cái giả tướng, cái thực tướng mong manh đó thôi, nó vô thường, vô ngã. Khi ta thấy vô tướng thực tướng thì ta đã thấy… Như Lai.  Người khéo tu hành, luôn an nhiên, tự tại. Rồi đến một tuổi nào đó, ta không muốn giác cũng giác, không muốn ngộ cũng ngộ… đó thôi!

  1. “Chữa lành” là một trong những từ đang được nhắc nhiều nhất trên mạng, đặc biệt với người trẻ. Đạo Phật có thể chữa lành cho người trẻ không?

Được quá đi chớ! Nhưng “người trẻ” đã mắc phải bệnh gì mà muốn “chữa lành”? Bệnh thì có bệnh thể chất, bệnh tâm thần và bệnh xã hội… Về thể chất, nói chung, người trẻ thường là người khoẻ mạnh, ít đau ốm bệnh hoạn như người… già. Thế nhưng nguời trẻ thường nhìn người hàng xóm, thấy họ cao ráo, vai u thịt bắp, lực lưỡng, bèn đi cắt xương ống chân, nâng cao thêm vài tấc, tập thể lực và dùng thuốc cường cơ cho thịt săn cứng lại khoe 6 múi… thì chữa không lành được. Cô gái yểu điệu thục nữ, giờ muốn giống hoa hậu, bơm mông, nơm vú, độn chỗ này, xẻ chỗ kia để bằng bè bạn… chữa lành hổng nổi! Tóm lại, cũng chỉ vì lòng tham, muốn, ganh tị… mà ra! Khi không đạt được mong muốn, thì sân hận, căm thù… Sửa mũi thì mũi xẹp, sửa mắt thì mắt mờ. Đại khái, họ không chấp nhận mình là mình. Cho nên suy gẫm cuộc đời với biết bao nhiêu khổ đau… Phật gom lại chỉ có 3 nguyên nhân chánh: Tham- sân- si. Con đường an lạc chính là Giới- định- huệ. Giới thì giảm lòng tham, lành bệnh tham, Định thì giảm lòng sân và Huệ thi… hết vô minh. Ít nhất dòm qua cũng biết cái đẹp hào nháng kia, cái đẹp mơ ước kia là của giả, độn thôi, có khi là vài túi nước muối, nhẹ tay coi chừng vỡ. Chỉ có cách tự mình chữa cho mình thôi. Gặp thầy thuốc không tốt, thầy sẽ dọa thêm cho tăng nỗi lo âu, tốn kém. Gặp thầy tu bất hảo thầy sẽ hù thêm cho sợ hãi… Căng thẳng, lo âu, sợ hãi… dẫn đến trầm cảm, khó mà lành nổi. Nếu hiểu biết, chấp nhận mình, sống không đua đòi, ganh tị, hoà hợp với thên nhiên, xã hội thì không chữa cũng lành. Các nhà khoa học khuyến khích người trẻ nên sống gần gũi với thiên nhien, thiểu dục tri túc, thực tập 3 thứ: Thể dục, trí dục, đức dục như người xưa dạy, và tìm cho mình một chút giải khuây: cầm, kỳ, thi, hoạ… có thể từ đó mà an nhiên, tự tại, không chữa cũng lành!

  1. Lòng tin vào nhân quả đôi khi khá trừu tượng. Khi một người sống tốt nhưng lại luôn gặp bất công, họ rất dễ mất lòng tin.

Nhân quả có thể thay đổi. Nhân quả do nghiệp, do duyên.  Án Anh đi sứ nước Sở nhớ không? Cây quít ngọt ở Giang Nam, đem trồng ở Giang Bắc thì sinh trái chua… Ấy là do thổ nhưỡng, do chăm sóc, tưới tẩm của con người. Nghiệp cũng có thể thay đổi. Cách sống của ta ngay ở đây và bây giờ là do ta quyết định, ta tự do chọn lựa. Phật giáo tin vào con người. “Tánh Phật”có  ở mỗi người.

  1. Tại sao muốn sống an lạc cần có cả trí tuệ và từ bi?

“Từ” là lòng Thương. “Bi” là giúp giảm khổ. “Từ năng dữ lạc. Bi năng bạt khổ”. Không chỉ phải có lòng thương rộng lớn, không phân biệt, mà còn phải có cách cứu giúp, làm cho vơi bớt khổ đau. Tình thương có thể an ủi, làm vui, nhưng vẫn không  giảm được khổ. Từ bi mà không có trí tuệ còn dễ bị mắc bẫy, bị gạt gẫm. Thời buổi này càng cần phải cảnh giác. Nên phải có Trí Tuệ đi với Từ Bi. Quan Thế Âm Bồ- tát có ngàn tay ngàn mắt, trong mỗi bàn tay đều có một con mắt là thế!

  1. Đức Phật là một vị thánh toàn năng, hay cũng là người thường như chúng ta?

Phật không phải thánh, không phải thần. Phật là người… thường như chúng ta, có điều, Phật là ngưới đã giác ngộ rốt ráo, đã “thấy biết” toàn diện (Tri kiến Phật), chớ không loay hoay như  ta… Ta cũng có Phật tánh. Cho nên Phật bảo “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”. Ai cũng sẽ là Phật cả, nếu giác ngộ, giải thoát. Kinh Pháp Hoa chỉ có một mục đích là “Khai thị chúng sanh ngộ nhập Tri kiến Phật”. Khai thị là “mở ra, bày ra cho thấy”. Thấy cái gì? Thấy cái “Tri kiến Phật”, tức là cái thấy cái biết của Phật. Đó là cái thấy biết “Vô tướng thực tướng”, thấy biết Như Lai.

  1. Có cần niệm Phật hay tụng kinh mỗi ngày không, hay chỉ cần thiền và thở đúng thôi, để có an lạc?

Niệm Phật là một cách tốt nhắc nhở ta một tấm gương để noi theo. Nhưng niệm Phật cũng là cách để tâm không vướng bận những thứ linh tinh khác. Niệm có nghĩa là đặt tâm vào ngay thời điểm hiện tại, quên đi tất cả chung quanh, phiền não các thứ, từ thân đến tâm… Cho nên có pháp môn Niệm Phật. Tụng kinh cũng vậy. Tâp trung vào kinh, vào “tụng” thì không còn vướng bận những thứ khác. Vậy tụng kinh, niệm Phật cũng là những pháp môn. Nhưng với Kinh, còn cần phải hiểu, phải thực hành. Nếu không, dễ tẩu hoả nhập ma vì mê tín, tưởng Phật là thánh thần mà cầu xin, lạy lục. Thiền sư Như Huyễn (năm nay 98 tuổi) có bài thơ  “Thay lời Phật” thú vị như sau: Ta nói kinh cho chúng nó nghe/ Chẳng ngờ chúng “tụng” bắt ta nghe/ Tuổi già tám chục nghe gì nữa! Chín tiếng ngồi trân sụm bánh chè! (Thich Từ Thông, Như Huyễn Thiền Sư Thi Tập). Học kinh phải hiểu để ứng dụng vào đời sống, chớ không chỉ “tụng” rồi cầu Phật chứng giám, ban phước !

  1. Không ăn chay có thể có an lạc không?

Ăn chay để làm gì? Phật đâu có ăn chay. Phật ăn gì cũng được. Thí chủ cho gì ăn nấy. Đi khất thực mà. Không lẽ đi khất thực mà nói tôi chỉ ăn chay thôi. Chắc dễ bị đói. Nhưng Phật chỉ khất thực vừa đủ… và ăn bất cứ thứ gì trong bình bát khất thực cũng là “ăn chay” cả đó thôi.

Phật dạy có 4 nhóm thức ăn là Đoàn thực, Xúc thực, Tư niệm thực, Thức thực. Bốn nhóm thức ăn đó chỉ có Đoàn thực dành cho thân, còn Xúc thực, Tư niệm thực, Thức thực dành cho tâm. “Xúc thực” đáng sợ, nhất là thời đại AI, internet … Với cái điện thoại thông minh trên tay, mỗi ngày ta “xúc thực” biết bao nhiêu điều, cả tôt lẫn xấu, tràn ngập trong tâm trí. Ta căng thẳng, ta mất ăn mất ngủ… Tư niệm thực là những món nhớ nghĩ triền miên, quay cuồng đầu óc, với những lo âu, oán trách, căm thù, sợ hãi… Rồi Thức thực mới là món ăn đáng sợ nhất, đó là phân biệt, là tranh cãi, là hơn thua, là đấu đá… là chiến tranh một mất một còn…

  1. Anh có thể giải thích lý do Phật chọn năm giới căn bản cho Phật tử không? Giữ năm giới này thì được lợi lạc gì?

Lợi lạc nhiều chớ. Không sát sanh. Không trộm cắp. Không nói dối. Không tà dâm, Không nghiện ngập… Chừng đó đã đủ cho một nếp sống An lạc, Hạnh phúc cho một kiếp người. Bão lũ, động đất, núi lửa, sóng thần… chưa đủ sao mà con người còn tự gây chiến tranh khắp nơi với những thứ vũ khí ngày càng ghê gớm. Cái ăn của con người cũng vậy, sát sanh ngày càng nhiều.  Không trộm cắp ư? Tham nhũng là một dạng trộm cắp kinh khủng nhất. Một dạng tạo nghiệp lớn nhất. Không nói dối? Thử xem… “Quân tử nhứt ngôn là quân tử dại, quân tử nói đi nói lại là quân tủ khôn”! Fake news, deep fakes… phổ biến, phát triển mạnh mẽ. Không nghiện ngập ư? Xưa chỉ nói đến rượu, bây giờ thì nghiện đủ thứ, ngày càng nguy hiểm độc hại. Thực hiện được phần nào trong năm giới là tốt phần đó. Từ ngũ giới còn tiến lên “thập thiện” là 10 điều lành.  Không chỉ không sát sanh mà còn “dưỡng sanh”. Bảo vệ môi trường. Chống biến đổi khí hậu…; Không chỉ không trộm cắp mà còn “bố thí”- bố thí “balamật” tốt nhất vì không có tính toán lợi dụng trong đó.  Không nói dối, mà còn nói lời chánh ngữ, ái ngữ…

  1. Phật có nói một Kinh tên là “Người biết sống một mình”. Cái tên Kinh rất lạ! Anh có thể nói đôi điều về kinh này không?

Sống một mình tưởng là sống một mình mà không phải một mình. Nhiều người cũng thường sống một mình, thậm chí trốn lên núi cao rừng thẩm mà không thể sống  một mình được. Bởi tâm họ không sao thoát được những hình bóng khác, những chuyện đã qua và luôn tràn ngập những chuyện sắp tới. Họ buồn, họ tiếc, họ vẽ vời… Nói chung, là “bấn xúc xích” với những lo âu, phiền muộn, sợ hãi, yêu thương, ước vọng, hờn oán… “Người biết sống một mình” thực sự như trong Kinh Phật dạy là biết sống “Ở đây và bây giờ”, không ước vọng tương lai, không tiếc nuối quá khứ… Sống được như thế thì lòng mới thanh thản, mới “một mình” được vậy. Bằng cách nào ư? Có đó. Con đường Thiền mở rộng trước mắt.

 Đỗ Hồng Ngọc – Minh Lê (Nha Trang)

16.5.2025

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống

Bản dịch tiếng Đức “Một Ngày Kia… Đến Bờ”

17/01/2025 By admin Để lại bình luận

 

GHI CHÚ:

Một ngày kia… đến bờ?

Tuỳ bút

Đỗ Hồng Ngọc.

Lời ngỏ

Bờ nào? Bờ bên kia hay bờ bên này? Đáo bỉ ngạn? Là mong cho tới bờ bên kia? Ý rằng bờ bên kia hẳn là hay hơn, đẹp hơn, tốt hơn bờ bên này? Sao biết? Đã có ai nói cho biết chưa? Có con rùa nào từng đi dạo lang thang từ dưới biển lên đất liền nói cho biết chỗ nào đáng sống hơn chăng?

Gaté, Gaté, Paragaté, Parasamgaté… một đại thần chú, đại minh chú, vô thượng chú, vô đẳng đẳng chú… năng trừ nhất thiết khổ chân thật bất hư ư? Sao người ta vẫn đọc hà rầm khắp nơi, đọc hằng ngày câu chú trong Tâm kinh Bát Nhã đó mãi mà vẫn thấy cứ còn khổ, thậm chí “cực khổ”, nên chỉ mong sao được mau về miền “cực lạc”, được vãng sanh qua nơi khác, qua bờ bên kia. Vậy mà lạ, hình như ai cũng muốn sống lâu, thậm chí trường sinh bất tử, nghĩa là ở mãi nơi này, nơi “cực khổ” này? Tại sao?

Tôi viết những cảm nghĩ này ở tuổi U90 của mình, viết cho riêng mình đọc, lai rai đọc cho đến khi không cần đọc nữa! Và dĩ nhiên có thể chia sẻ cùng bè bạn thân quen “cùng một lứa bên trời lận đận” của mình để có dịp “chí chóe” cho vui…!

Đỗ Hồng Ngọc

(6.2023)

 

……………………………..

Bản dịch Anh ngữ  trên Thư viện Hoa Sen

“One Day… Reaching the Other Shore”

Dr Do Hong Ngoc, MD
Saigon, June 2023
(
Manuscript – write for myself aged U90)

Translated by Red Pine  

https://thuvienhoasen.org/a40640/mot-ngay-kia-den-bo-one-day-reaching-the-other-shore-song-ngu-vietnamese-english-

………………………………………..

Bản dịch tiếng Đức “Một Ngày Kia… Đến Bờ” của Văn Công Tuấn và Prof. Beuchling, được trích đăng nhiều kỳ trên báo Viên Giác của Hòa Thượng Thích Như Điển, Hannover, Đức Quốc.

Đỗ Hồng Ngọc

Eines Tages… das andere Ufer erreichen 

[ Die 26 Essays in Eines Tages … das andere Ufer erreichen sind wertvolle, leicht verständliche und wissenschaftlich fundierte Dharma-Vorträge, die mit Zustimmung des Autors von Văn Công Tuấn ins Deutsche übersetzt wurden. Lektorat: Prof. Olaf Beuchling.]

Thuộc chủ đề:Phật học & Đời sống, Đọc sách

CON ĐƯỜNG AN LẠC Bài 6: Học cách Phật dạy con

22/11/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

 

“Sách bỏ túi” cho người cao tuổi

CON ĐƯỜNG AN LẠC

Bài 6: Học cách Phật dạy con

Đỗ Hồng Ngọc
Translated by Nguyên Giác

blank

(Phan Tấn Hải)

 

Khi Phật thành đạo, có dịp về thăm Vua cha thì La-Hầu-La đã lên bảy tuổi. Và ngay dịp đó, La Hầu La cũng xin theo Phật, xuất gia.

Coi Phật đã dạy La Hầu La những gì và cách nào nhe!

Trước hết, Phật giao La Hầu La cho… ông “thầy dạy kèm” đáng tin cậy là Xá Lợi Phất. Sao lại Xá Lợi Phất mà không phải ai khác như Mục Kiền Liên chẳng hạn? Xá Lợi Phất thì mới đúng là một ông giáo, kiến thức uyên bác, đệ tử trí tuệ bậc nhất của Phật. Phật giao cậu bé La Hầu La cho Xá Lợi Phất dạy dỗ là muốn La Hầu La đi vào con đường tu tập bằng trí tuệ trước hết. Nếu Mục Kiền Liên mà làm thầy có khi La Hầu La mê… thần thông mất! Phật không trực tiếp dạy La Hầu La vì cha mà dạy con không dễ, nhứt là ông con có máu làm vua!

Và bài học đầu tiên Xá Lợi Phất dạy La Hầu La là thở. Tức là dạy kỹ năng đầu tiên của thiền định. Bởi đây cũng chính là con đường khai mở trí huệ. Có chánh định rồi mới mong có chánh kiến, chánh tư duy… chớ phải không? Thở là nhu cầu thiết yếu của cuộc sống.

“Chào đời” bằng một tiếng khóc nên mới có “Khổ, Tập, Diệt, Đạo”!

Cuộc sống càng căng thẳng, càng đam mê, càng nhiều tham sân si nghi mạn tà kiến… thì người ta càng dễ quên thở. Người ta chỉ thoi thóp thở, khò khè thở, hời hợt thở, cà giựt thở, cà hước thở cho qua ngày đoạn tháng! Cho nên phải dạy thở trước hết cho La Hầu La là đúng.

Nhưng thở không chỉ là thở. Thở để thấy một kiếp người. Thở để thấy vô thường, vô ngã. Thở để thấy duyên sinh, thấy thực tướng vô tướng. Dĩ nhiên, Xá Lợi Phật sẽ dạy La Hầu La một cách đúng sư phạm, không sợ “ tẩu hỏa nhập ma”!

Phật… vẫn phải theo dõi sát chuyện học hành của cậu bé La Hầu La. Khi thấy cậu đã biết thở, có chánh niệm, tỉnh giác, tinh cần rồi thì Phật mới bắt đầu dạy… đạo đức, lối sống. Nào không được nói dối – nào phải nghĩ kỹ trước mỗi ý tưởng, cử chỉ, lời nói… xem điều nào nên hay không nên làm, điều nào có hại, xấu ác thì không được làm, điều nào hay phải, lợi mình, lợi người thì làm.

“Trong khi chuẩn bị làm điều chi bằng thân, khẩu, ý, con phải quán chiếu: hành động này có gây tổn hại cho mình hoặc cho kẻ khác không. Nếu, sau khi suy xét, con thấy rằng hành động đó sẽ có hại, thì con hãy đừng làm. Còn nếu con thấy rằng hành động đó có ích lợi cho con và cho kẻ khác, thì con hãy làm.”

Trong các yếu tố thân khẩu ý thì “khẩu” có lẽ là quan trọng nhất để tạo nghiệp mặc dù nó được dẫn dắt bởi ý (ý dẫn các pháp) nhưng ý không bộc lộ ra để dễ nhận biết, chỉ có khẩu mới ầm ỉ, náo nhiệt, là đầu mối sinh sự, gây chiến! “Khẩu” chính là kẻ tạo nghiệp số một vậy. Ngày nay “khẩu” không chỉ là lời nói trực tiếp mà còn là cả hệ truyền thông, cả những “status” trên mạng internet, lan truyền khắp thế giới trong nháy mắt. Cho nên Phật dạy La Hầu La rất kỹ về “khẩu nghiệp”, bắt đầu bằng sự không nói dối. “Thập thiện” dành tới 4 món cho riêng khẩu: Không nói dối, không nói thêu dệt, không nói hai lưỡi, không nói lời hung ác…

Ở tuổi mới lớn, biết mình là con Phật, được mọi người vì nể, quý trọng, chắc không khỏi có lúc La Hầu La làm phiền nhiễu, buồn lòng người khác. Thậm chí, thỉnh thoảng có thể còn chạy vào méc (mách) Phật điều này điều khác… Phật sẽ mỉm cười xoa đầu dạy hạnh Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn…

Rồi khi La Hầu La lớn dần lên, Phật dạy những bước tiếp theo.

Hãy học hạnh của Đất. Hãy như đất. Đất ở khắp nơi. Đất trong ta. Đất trong vũ trụ. Không có đất, ta không nên hình nên dạng. Không có đất, nhựa nguyên không thành nhựa luyện. Điều quan trọng: đất không hề phân biệt. Ném một thỏi vàng hay một đống rác xuống đất, đất vẫn “như như bất động”…Chẳng mừng chẳng giận.

Hãy học hạnh của nước. Hãy như nước. Nước ở khắp nơi. Nước ở trong ta chiếm  đến ba phần tư thể trọng. Cũng như biển cả sông ngòi chiếm ba phần tư mặt địa cầu. “Nước trôi ra biển lại tuôn về nguồn” (Tản Đà). Chẳng thêm chẳng bớt…

Hãy học hạnh của gió. Hãy như gió. Gió ở khắp nơi. Gió trong ta. Trong bầu khí quyển. “Gió không có nhà/ Gió đi muôn phương…”. Đâu cũng là nhà của gió. “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng. Để làm gì em biết không? Để gió cuốn đi!” (Trịnh Công Sơn).

Hãy học hạnh của lửa. Hãy như lửa. Lửa ở khắp nơi. Lửa trong ta. Lửa trong vũ trụ. Lửa ở mặt trời. Lửa giữa lòng đất. Lửa ở trong cây. Không có lửa sao cọ xát thì cây bốc lửa? Lửa đốt cháy hết tham sân si. Lửa tam muội ngùn ngụt trong chánh định…

Tứ đại “đất, nước, gió, lửa”, chính là những yếu tố cơ bản, Nitrogen (đất) Hydrogen (nước) Oxygen (gió), Carbon (lửa),  những nguyên tố C, H, O, N tạo nên protein, chất liệu cuộc sống. Từ đó mà có vạn vật, từ đó mà có ngũ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức… 

…. o ….

 

A pocketbook for the elderly

A PATH TO PEACE & JOY

Chapter 6: Learning How Buddha Taught His Son

Do Hong Ngoc, MD

translated by Nguyen Giac

After the Buddha attained enlightenment, he visited his father, King Suddhodana. At that time, the Buddha’s son, Rahula, was seven years old. During this visit, Rahula expressed his desire to follow the Buddha and become a monk.

Let us explore what the Buddha taught Rahula and how he imparted this wisdom!

First, the Buddha assigned Rahula to his trusted tutor, Sariputra. Why Sariputra and not someone else, such as Maudgalyayana? Sariputra was a true teacher, possessing profound knowledge and recognized as the Buddha’s most intelligent disciple. The Buddha chose Sariputra to instruct the young Rahula because he wanted him to embark on the path of cultivation through wisdom first. If Maudgalyayana had been his teacher, Rahula might have become enamored with supernatural powers! The Buddha did not initially teach Rahula directly, as it can be challenging for a father to teach his son, especially one who is of royal lineage.

The first lesson that Sariputta taught Rahula was focused on breathing, which is the foundational skill of meditation. This practice serves as a pathway to developing wisdom. Only with the right concentration can one aspire to attain the right view and the right thinking, correct? Breathing is an essential aspect of life.

Being born with a cry is the reason for Suffering, Origin, Extinction, and the Path.

The more stressful life becomes, the more passionate it can be. However, this heightened intensity often leads to increased greed, anger, ignorance, doubt, arrogance, and misguided beliefs. As a result, people tend to forget to breathe properly. They may gasp for air, wheeze, or breathe superficially, struggling to get through their days and months. Therefore, it is essential to teach Rahula the importance of proper breathing first.

However, breathing is not merely an act of inhalation and exhalation. Breathing guides us to see the essence of human existence. Breathing allows us to perceive impermanence and the non-self. Breathing reveals the principle of dependent origination and unveils the true nature of reality, which is inherently formless. At that moment, Sariputra would instruct Rahula in a pedagogical manner, undeterred by the fire demon raging in his mind!

The Buddha closely observed the studies of the young boy Rahula. Noticing that Rahula was capable of correct breathing, mindfulness, alertness, and diligence, the Buddha began to instruct him on morality and lifestyle. He emphasized that Rahula should not lie and should carefully consider every thought, gesture, and word. He taught him to distinguish between good and evil actions, avoid those that are evil, and pursue those that are good, right, and beneficial for himself and others.

The Buddha advised Rahula, “Before engaging in any action with your body, speech, or mind, you should reflect: Will this action cause harm to yourself or to others? If, upon reflection, you determine that the action will cause harm, then you should refrain from doing it. However, if you conclude that the action will benefit both yourself and others, then you should proceed with it.”

Among the factors of body, speech, and mind, speech is perhaps the most significant in creating karma, even though it is guided by the mind (the mind leads the dharmas). However, the mind is not easily recognized. In contrast, the mouth is often noisy and bustling, serving as a source of trouble and conflict. The mouth is the primary creator of karma. In today’s world, the mouth encompasses not only direct speech but also the entire communication system, including  on the internet, which can spread globally in the blink of an eye. Therefore, the Buddha taught Rahula with great care about the karma associated with speech, beginning with the principle of not lying. The ten good deeds include four specific guidelines related to speech: do not lie, do not exaggerate, do not speak with a double tongue, and do not speak harshly.

At a young age, knowing that he was a child of Buddha—respected and honored by all—Rahula sometimes found himself annoying and upsetting others. Occasionally, he would run to tell Buddha about various incidents. Buddha would smile and gently pat his head, teaching him the virtues of Precepts, Patience, and Diligence.

As Rahula grew older, the Buddha taught him the next steps.

Learn the virtues of the Earth: one should embody its qualities. The Earth is omnipresent; it exists within us and throughout the universe. Without the Earth, we cannot take form. Without the Earth, raw resin cannot be transformed into refined resin. The key point is that the Earth does not discriminate. Whether a bar of gold or a pile of trash is placed upon it, the Earth remains unchanged—neither happy nor angry.

Learn the virtue of Water: one should embody its qualities. Water is omnipresent; it constitutes three-quarters of the human body and covers a similar proportion of the Earth’s surface through oceans and rivers. The poet Tản Đà once wrote, “Water flows to the ocean and then flows back to its source.” This cycle is neither excessive nor insufficient.

Learn the virtue of the Wind: one should embody its qualities. The wind is omnipresent; it exists within the human body and throughout the atmosphere. The wind has no fixed home; it travels in all directions, making every place its dwelling. Musician Trịnh Công Sơn once wrote, “To live in this world, one needs a heart. For what, do you know? To be carried away by the wind!”

Learn the virtue of Fire: one should embody its qualities. Fire exists everywhere: within the body, throughout the universe, in the sun, in the earth, and in the trees. If there is no fire, then why does friction cause the tree to ignite? Fire consumes all greed, anger, and delusion. The fire of samadhi burns brightly when one maintains the right concentration.

The four fundamental elements—earth, water, wind, and fire—are the basic building blocks of life. Nitrogen represents earth, hydrogen symbolizes water, oxygen corresponds to wind, and carbon signifies fire. These elements—carbon (C), hydrogen (H), oxygen (O), and nitrogen (N)—combine to form proteins, which are essential for life. From these elements arise all things, including the five aggregates: form, feeling, perception, mental formations, and consciousness.

(Đỗ Hồng Ngọc)

Translated by Nguyên Giác

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống

Minh Lê: Đọc và Cảm “Một ngày kia… đến bờ”

15/05/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Đọc và Cảm “Một ngày kia… đến bờ”

Minh Lê

Các tùy bút của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc thường ngắn, dễ hiểu và hấp dẫn như “tiểu thuyết”. Đã đọc là không dừng được. Từ ngữ giản dị, giọng văn thân mật, dí dỏm. Nhưng đừng tưởng bở, tác giả toàn viết kiểu “ý ở ngoài lời”. Đọc lần thứ nhứt, cười ha hả. Đọc lần thứ hai, cười tủm tỉm. Đọc lần thứ ba và thứ n, gật gù “đúng hen!”.

Rồi trong tập mới nhứt “Một ngày kia… đến bờ”, tác giả đổi kiểu viết. Nói chi tiết, cụ thể, tuy giọng văn vẫn rất “Đỗ Hồng Ngọc”. Anh Ngọc viết riêng cuốn này cho bạn bè “cùng một lứa”, những người nhiều kinh nghiệm sống và có hiểu biết về Phật pháp, nên với những người còn đang “bận rộn” và những người vừa mới “gió heo may đã về”, đoc vô rất dễ “tẩu hỏa nhập ma”.

Biết mình chưa đủ trình để hiểu, tôi thử cảm bằng… trái tim. Cảm nhận luôn chủ quan, nếu có chỗ nào sai mong Anh Ngọc sẽ cười tha thứ.

Trịnh Công Sơn viết trong bài “Phôi pha”: “Về ngồi trong những ngày, nhìn từng hôm nắng ngời, nhìn từng khi mưa bay”. Để thấy được vẻ đẹp của nắng, của mưa thì tâm ta phải bình an, không chộn rộn với suy tính, lo âu. Ai sống mà không suy tính, lo âu? Anh Ngọc dặn: “Khi thấy những ý tưởng nọ kia xuất hiện cũng là chuyện bình thường thôi. Cứ để tự nhiên. Nó đến rồi nó đi.” (tr. 89 – 90) Không thèm nghĩ nữa, cho hết mấy thứ “sinh sự” đó đi rồi thì lòng ta nhẹ, tha hồ “về lại nơi cuối trời làm mây trôi”.

Có người hỏi, nó cứ dính mắc hoài, làm sao buông? Vì cái hiểu “đủ duyên thì hiện, hết duyên thì tan” có thể vô đầu ta mà chưa vô được trái tim ta. Ta không chịu chấp nhận “chuyện phải tới nó sẽ tới”, rằng không phải lúc nào nắng cũng hay, mưa cũng đẹp. Anh Ngọc giải cứu liền: “Chẳng vì ta mà hoa nở, hoa tàn. Chẳng vì ta mà gió mát trăng thanh. Nhưng ta biết thưởng thức. Ta enjoy cuộc sống của mình trong từng giây phút.” (tr. 43) Nếu lúc nào ta cũng biết thưởng thức và “cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy” thì ta sẽ “ung dung, tự tại, an nhiên” (tr. 43).

Nhưng chừng đó chưa đủ. Câu hỏi “ta là ai, tại sao ta sinh ra và khi chết sẽ đi về đâu” vẫn còn ám ảnh. Cả vũ trụ này là một khối năng lượng, và định luật bảo toàn năng lượng đã được các nhà khoa học khẳng định từ lâu: “Không có năng lượng nào tự sinh ra hay mất đi, chúng chỉ thay đổi từ dạng này qua dạng khác”.

Ai làm chủ sự thay đổi đó? “Stephen Hawking bảo chắc chắn phải có một design, một thiết kế vĩ đại từ trong con virus đến khủng long… nhưng không có designer, không có nhà thiết kế. Nhưng tôi tin có một cái gì đó, gọi bằng tên gì cũng được, tạo ra cái trò chơi này và ngắm nghía thú vị.” (tr. 13) Cái “trò chơi” này, nói nôm na là game, nó vô cùng vô tận, nên chúng ta, người chơi game, cũng sẽ chơi dài dài.

Mục đích của game là Chân – Thiện – Mỹ, level của thế gian là đạt thành Phật, thành Phật rồi sẽ được “chơi” cấp cao hơn. Tuy vậy có những vị Phật và Bồ Tát muốn giúp chúng sinh mau lên level, nên chịu khó dạy bảo, dẫn dắt như đàn anh trong game chỉ cho đàn em cách đánh quái vật. Và khi đàn em thua hoài thì được an ủi: “Phật cười: Ta là Phật đã thành, Ông là Phật sẽ thành!” (tr. 47) Hồi nhỏ dù ta học dốt tới đâu mà có một thầy cô tin tưởng khuyến khích, chắc chắn ta sẽ gắng học và trở nên giỏi hơn. Phật biết rõ điều đó!

“Ai nói gì không biết chớ tôi tin có kiếp trước kiếp sau. Phải có, mới tạo được sự công bằng, hoàn hảo chứ!” (tr. 105) Rốt cuộc ta là ai? Ta là một khối năng lượng có ý thức, nhờ duyên mà mượn thân xác kiếp này để học những gì cần học, học chưa xong ta lại sang kiếp sau học tiếp. Sau mỗi lần “ngủm” trong game, ta lại hồi sinh với nhiều kinh nghiệm hơn, có khả năng tới gần đích hơn. Một ngày nào đó trong tương lai, ta sẽ đạt tới level của Phật.

Vậy có gì đâu mà buồn mà sợ? Anh Ngọc nói không chỉ cần sống vui (well-being) mà còn cần chết vui (well-dying). Biết cái chết là tất yếu, nên sống hết mình từng giây phút để không tiếc nuối khi cái chết đến – đó là “chết vui”. Biết sống vui thì ta sẽ dễ dàng “chết vui”, ngược lại ngộ ra “chết vui” thì sống vui đâu có khó.

“Một ngày kia đến bờ, đời người như gió qua.” Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc luôn là cơn gió nồm nam mát rượi thổi bay sự oi bức trong đầu và trong lòng người đọc. Mọi thứ rồi sẽ “phôi pha”, nhưng những lời khai ngộ của Anh còn được nhớ hoài, như “bàn chân ai bước nhẹ, tựa hồn những năm xưa”.

Minh Lê

(Nha Trang, 05/2024)

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống

Thăm Sư Giới Đức Triều Tâm Ảnh

19/02/2024 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Thư gởi bạn xa xôi (Tết, tiếp theo)

Thăm Sư Giới Đức Triều Tâm Ảnh

Lần nào về Huế, mình cũng ghé Huyền Không Sơn Thượng thăm Sư Giới Đức Triều Tâm Ảnh. Một nhà thơ, một nhà thư pháp có tiếng từ thuở xa xưa và là một vị thiền sư bên cạnh các Thiền sư Viên Minh, Pháp Tông, Tuệ Tâm của Phật giáo Nguyên Thuỷ…

Năm ngoái, cùng với các bạn Tạp chí Quán Văn ghé thăm (trong đó, có nhà văn Nguyên Minh vốn là đồng môn Sư phạm Quy Nhơn hơn nửa thế kỷ trước với Sư Giới Đức), mình hỏi thầy về kinh nghiệm sau 3 năm nhập thất… Thầy kể rất chi tiết cái được cái không, cái thấy cái biết và kết: Bây giờ thì đã rõ “Bình thường. Thanh thản. Tự nhiên thôi/ Với cả nhân gian một nụ cười”.

`Thầy nói về cây hoa thuỷ tiên,

 

 

Và thật vậy, hôm nay gặp lại, đúng là thầy cười rất tươi, không còn chút gì căng thẳng, vất vả tìm kiếm như những ngày xa xưa nữa.

 

Từ trái: Nguyễn Thị Tịnh Thy, Đỗ Hồng Ngọc, Nguyễn Văn Dũng (Dũng Võ), Ngô Tiến Nhân và nhà báo Minh Tự. (Mùng 4 Tết Giáp Thìn, 13.2. 2024). Sư đều tặng cho mỗi người 3 cuốn sách to đùng về Lịch sử Phật giáo Ấn Độ, một tập Thơ. Ngoài ra còn có cuốn sách của Thầy Chơn Tín về chuyến hành hương Ấn Độ.

 

 

 

 

Sư gọi đệ tử gởi ngay 10 tập Thơ riêng cho “Nữ sĩ”, khi biết Tịnh Thy là người đã viết rất hay về Thơ Minh Đức Triều Tâm Ảnh trước đây.

 

 

 

Với Đỗ Hồng Ngọc, Sư tặng cuốn sách mới dịch: Cuộc Đời & Hành Trạng Ngài Ajahn Mun (1870-1949), một Tỳ Khưu độc đáo, Vị Thánh Tăng cận đại, có những cách học và hành Phật pháp rất đặc sắc.

 

 

 

T

Thuộc chủ đề:Gươm báu trao tay, Phật học & Đời sống, Vài đoạn hồi ký

Nguyên Cẩn: Đọc “Một ngày kia… đến bờ “của Đỗ Hồng Ngọc

31/12/2023 By Bac Si Do Hong Ngoc 1 Bình luận

 

Đọc “Một ngày kia… đến bờ “của Đỗ Hồng Ngọc

Nguyên Cẩn

 

hà thảo

 

Khi Đỗ Hồng Ngọc viết  “Thư cho bé sơ sinh”, anh đã chân thành nói :

Khi anh cắt rún cho em

Anh đã xin lỗi chân thành rồi đó nhé

Vì từ nay em đã phải cô đơn

Em đã phải xa địa đàng lòng mẹ.

….

Thôi trân trọng chào em

Mời em nhập cuộc

Chúng mình cùng chung

Số phận…

Con người.

(ĐHN 1965)

 

Và rồi “tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người “ ( Trịnh Công Sơn ) đã cùng đứa bé ấy bước vào hành trình “ Sinh- Lão- bệnh – Tử “ với tất cả thất tình lục dục cho tới “ Một ngày kia …đến bờ “. Hôm nay đây Đỗ Hồng Ngọc ( ĐHN) vị bác sĩ viết bài thơ ấy nhìn lại toàn bộ hành trình của mình và anh , qua 26 đề mục của những bài tùy bút , viết theo dòng cảm hứng ngỡ như bất chợt , đã lý giải sự hiện hữu của kiếp người , những thắc mắc băn khoăn về Ngã , về Ma chướng , về Nghiệp, về Phật tánh , về chân Không diệu Hữu , về Như lai tạng… , đồng thời đúc kết những giải pháp giúp ta sống trọn vẹn , đầy đủ , viên mãn . Anh viết với tư cách một hành giả , trải nghiệm thực chứng bằng chính kinh nghiệm tu tập của mình , và dưới lăng kính một bác sĩ , một nhà khoa học , lý giải nhiều vấn đề bằng tri thức về y học . Anh viết “ tưng tửng “ , nhẹ nhàng , dễ hiểu nhưng sâu sắc , thấp thoáng sau bài viết nụ cười của một thiền giả . Ví dụ anh “ thấy tức cười |” vì tự nhiên mình có mặt trên cuộc đời này , vì sao ? Anh lý giải “ từ cái duyên của cha mẹ ông bà từ muôn vạn thứ duyên khác , từ đất , nước , gió lửa…”Nhà Phật gọi là thân tứ đại .Rồi nhìn vũ trụ này , vạn vật này, anh nhận xét :

“Tóm lại trùng trùng những dây mơ rễ má , dính chùm dính chụp, mà ngộ , con nào ra con đó ..Gene chăng , DNA, RNA, virus vi khuẩn rào rào kiếm ăn rồi nhân giống , con này ăn con kia , rồi đơn bào đa bào , đâu đó răm rắp nề nếp chẳng chơi…phải có một design , một thiết kế vĩ đại từ con virus đến con khủng long nhưng không có designer .”Anh hiểu vạn pháp do duyên sinh .

Lý luận về Nghiệp , ĐHN không giải thích cầu kỳ mơ hồ về quan hệ nhân-duyên- quả , tiền kiếp hay hậu kiếp mà anh dùng chính ý kiến của Thiền sư Tuệ Sỹ “

Ngoài cơ chế vật lý của ký ức , còn có sự tham gia của một yếu tố phi vật chất , không nhất thiết là ý thức , để lấy đó làm cơ sở tiếp cận đến vấn đề nghiệp tích lũy, cho đến trong đời sau được xử lý cho quả dị thục của nó “ Thế nên , Nghiệp theo ĐHN không chỉ từ gène mà còn từ môi trường ( biểu sinh = ngoại di truyền epigenetic) chế độ ăn uống , bệnh tật, nghiện ngập , lối sống là cơ chế của y báo (ngoại di truyền , epigenetic mechanisms, có tác động đến hoạt động của các gène , điều hòa các gène.”

Đặc biệt anh giải thích Phật và Như lai là một mà không phải một vì Phật cũng ốm đau bệnh hoạn già chết nhưng Như lai thì không.” Thiện nam tử , Thân Như lai là thân thường trụ , thân không thể hư hoại , thân kim cang , càng không phải thân do sự ăn uống mà thành , chính là pháp thân “ ( Đại bát Niết bàn kinh ) “Phật thị hiện bệnh khổ , thị hiện : là hiện ra cho thấy trước sau gì cũng …già, cũng bệnh cũng chết . Thôi đừng có tham sân si gì nữa cho …mệt … Hãy sống trong pháp thân trường cửu “

Ở đây chúng ta cần phân biệt báo thân, pháp thân và ứng thân là khác nhau . Ứng thân (hóa thân ) chịu mọi đau khổ của già chết bệnh tật . sau khi chết ứng thân tự tiêu diệt . Báo thân thường mang ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp và chỉ Bồ Tát mới thấy trong giai đoạn cuối cùng của thập địa . Riêng pháp thân ( mà trong MKKĐB , ĐHN gọi là Như lai ) thì không ,vì Như lai thì “ vô sở tùng lai , diệc vô sở khứ “ ( không từ đâu mà đến , chẳng đi về đâu ) Như lai được xem là danh hiệu Phật , là sứ gỉả trực tiếp của Chân như , là gạch nối giữa hiện tượng và bản thể . Nên ĐHN viết “Khóm cây ngọn cỏ cũng là Như lai;con ong cái kiến cũng là Như lai …”Phải chăng cũng trong suy nghĩ ấy , Phạm Thiên Thư viết :

Mười con nhạn trắng về tha

Như lai thường trụ trện tà áo xuân

Và Bùi giáng cũng tha thiết nhìn cuộc đời qua diệu pháp

“ Trần gian ơi , cánh bướm cánh chuồn chuồn

Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại

Con vi trùng sâu bọ cũng yêu luôn “

Vì như ĐHN nhận thức “ Một là tất cả “,khi anh nhìn người thợ tạo hình từ đất sét, đã tạo nên nhiều hình tượng khác nhau ( duyên sinh ) Đất sét là một tạng . Từ một đó mà cho ta tất cả . Rồi một hôm tất cả các vật dụng , sắc tướng này đổ bể , tan vụn lại thành đất sét .Như nhạc sĩ họ Trịnh viết “ Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi / để một mai tôi về làm cát bụi “ Chẳng phải một là tất cả và tất cả là một sao ?Chân không mà diệu hữu đó sao ?”Cho nên bảo thực tướng là vô tướng mà chẳng phải vô tướng .’Kiến tướng phi tướng tức kiến Như lai’ ( Kinh Kim Cang )

ĐHN nhận định “Trong thân chúng sanh vốn có Phật tánh , tức Như lai tạng cũng đã thấy biết Thường , Lạc , Ngã, Tịnh . Hãy tự quy y chỗ ‘tam quy chân thật này , chẳng cần tìm kiếm đâu xa .” Người trí biết rõ tánh đó vốn không có hai (Bất nhị), đó là thật tánh .”

Như lai tạng vốn lìa ngoại tướng hữu vi .Cho nên Như lai tạng là ‘cái duy trì , cái thiết lập ‘( Kinh Thắng Man ) Đến đây , ĐHN đưa ra ví dụ Francis Crick , người cùng James D. Watson đồng phát hiện ra cấu trúc phân tử DNA và tuyên bố ‘ Phân từ DNA là hệ thống chứa thông tin hiệu quả nhất trong toàn vũ trụ …Hình thành sự sống là một phép mầu. ”

 

 

Anh giải thích giản dị nhưng sâu sắc “ Thực tướng là ta vừa vô tướng , vừa hữu tướng . Vô tướng vì hiểu Bát Nhã , hiểu chân Không . Hữu tướng vì ta biết cái duyên sinh , với vô vàn hình tướng , cái diệu Hữu ( Hoa Nghiêm ) Cho nên “ sự sự vô ngại “ đó thôi… Ung dung , tự tại , an nhiên. Chẳng vì ta mà hoa nở , hoa tàn chẳng vì ta mà gió mát trăng thanh , nhưng ta biết thưởng thức , ta “ enjoy” cuộc sống của mình trong từng giây phút .

Chúng ta hiểu sống trong pháp giới Hoa Nghiêm là sống trong “tánh khởi” hay trong Nhất Tâm của tất cả chúng sanh và thế giới. Tâm bất tịnh thì biến pháp giới trở thành thế giới bất tịnh, do đó sống trong chia cắt, chướng ngại, xung đột, khổ đau. Tâm thanh tịnh thì thấy và sống trong pháp giới thanh tịnh của Phật. Tâm Phật thì tạo ra cảnh giới Phật. Tùy mức độ thanh tịnh của tâm đến đâu thì chứng nghiệm được sự thanh tịnh của pháp giới đến đó.

Nói như Tô Thùy Yên

“Ta về cúi mái đầu sương điểm

Nghe nặng từ tâm lượng đất trời

Cảm ơn hoa đã vì ta nở

Thế giới vui từ nỗi lẻ loi“

( Ta về )

Theo Tâm kinh thì “ Xá Lợi Tử, thị chư pháp không tướng: Bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm” Các pháp vốn không tướng nhưng khi có ảo tưởng, vọng thức thì liền có các giả tướng B’, B’’. Khi trí tuệ bát-nhã chiếu soi thì không tướng hay thực tướng của pháp xuất hiện. Vì vậy trí tuệ bát-nhã còn gọi là tuệ không. Tuệ không nghĩa là không vô minh, ái dục, không ảo giác, ảo tưởng, không lý trí, vọng thức v.v. Nhìn pháp bằng tuệ không thì thấy pháp là không tướng, không tướng lại chính là thực tướng nên mới nói:

“Có thì có tự mảy may

Không thì cả thế gian này cũng không”.( Từ Đạo Hạnh )

Tướng không của pháp vượt ngoài ý niệm sinh diệt, sống chết, nhưng vẫn có thực tánh sinh diệt, vì đó là bản chất của pháp hữu vi mà Dịch Lý gọi là “sinh sinh chi vị dịch”. Cho nên em bé có sinh thì đương nhiên có chết. Chỉ có pháp vô vi mới thực sự không sinh không diệt, nhưng vì không sinh nên không diệt chứ không có nghĩa là trường tồn bất biến theo ý niệm thời gian của thường kiến luận.

ĐHN cũng đề cập ý này : “ Cho nên Tâm kinh viết ‘ Vô vô minh, diệc vô vô minh tận,’ Không có vô minh mà cũng chẳng bao giờ hết vô minh ! Khoái thật. “ Hay nói cách khác , không có lão tử cũng không có hết lão tử, tức không có 12 nhân duyên.

Anh cũng đã từng trải qua giai đoạn làm việc quá độ rồi bị tai biến.Khi thoát được giai đoạn thập tử nhất sinh ấy , anh thấy phải đi tìm một con đường khác. Đọc Tâm kinh ,anh thấy câu “…chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. ”Anh thấy phải ‘ tự tại “ thôi . Phải dựa vào chính mình . Phải thực hành thôi .”

Chúng ta đã biết rõ ngũ uẩn được cấu tạo như thế nào nên cũng có thể hiểu tại sao soi thấy ngũ uẩn đều không thì vượt qua tất cả sự trói buộc của phiền não khổ đau. Chính hành làm cho sắc, thọ, tưởng, thức bị rối loạn, nhưng khi hành được tuệ chuyển hóa thì tưởng và thức không còn chấp trì kinh nghiệm, thành kiến, quan niệm để bóp méo sự thật nữa, nghĩa là ngũ uẩn trở thành không: không ảo tưởng, ảo giác, không còn cái gọi là A’, A’’, B’, B’’, không vô minh, ái dục.

Và thiền định là một giải pháp . ĐHN thấy rằng có sẵn một con đường mà bấy lâu mình xa lạ. Con đường” chiếu kiến ‘ đó chính là Thiền Quán niệm hơi thở (Anapanasati) An ban thủ ý , nhập tức xuất tức niệm “Thở vào thì biết thở vào , thở ra thì biết thở ra. Trong 40 đề mục thiền quán , anh chọn một : chọn hơi thở . Thở luôn trong thì hiện tại , ở đây và bây giờ Khi vào sâu trong thiền , hành gỉả sẽ không cảm nhận mình còn thở nữa . Đó chính là “ quãng lặng :” ở cuối thì thở ra ..

Yếu tố quyết định nữa là thả lỏng toàn thân , giảm tiêu hao năng lượng ..Tác giả cho biết nhúc nhích cơ hoành 1cm , đã có 250 ml không khí vào ra , bấy giờ họ cần rất ít oxy …hiện tượng thiếu oxy kinh niên ( chronic hynoxia) tạo ra các hormones như dopamine, serotomine, endorphine , oxytocin giúp sảng khoái . lâng lâng , dễ chịu , gia tăng trí nhớ , giảm đau .. chính là trạng thái thiền duyệt vậy. tác giả viết :”“Khi học Phật chữ Anapanasati tôi bèn tự đề ra cho mình chữ Pranasati ,nghĩa là đặt chánh niệm vào giữa khoảng thở vào và thở ra đó. Nó là quãng lặng , là nghỉ ngơi , là ’ bardo’ giữa hai hơi thở , giữa sự sống và chết , tái sinh .”

Như Thiền sư Nhất Hạnh dạy chúng ta

Thở vào tâm tĩnh lặng

Thở ra miệng mỉm cười

An trú trong hiện tại

Giây phút đẹp tuyệt vời

Khi đã thiết lập được đời sống thăng bằng, bước tiếp nữa là điều phục tâm. “Hãy chú tâm cảnh giác, chánh niệm tỉnh giác” là pháp hành quan trọng, cần duy trì liên tục. Tâm luôn bị các chướng ngại pháp xâm chiếm. Chỉ một giây lơ là, vọng tưởng sẽ dẫn dắt và lôi kéo chúng ta rời xa chánh niệm. Luôn nhớ nghĩ về đề mục, nhiếp tâm vào đề mục với sự tỉnh thức và rõ biết tất cả. Những hoạt động trong đời sống hàng ngày đều được ghi nhận rõ ràng. Chánh niệm, tỉnh giác hỗ trợ nhau và là nền tảng quan trọng để tiến sâu vào thiền định.

ĐHN chỉ chúng ta Tứ niệm xứ .” Tứ Niệm xứ là con đường Thiền định .Thân thọ tâm pháp mà các vị Tổ sau này rút gọn cho dễ nhớ :Thân bất tịnh , Thọ thị khổ, Tâm vô thường , pháp vô ngã …Quán thân , thọ , tâm , pháp để đi vào Samadhi ( định ) .Phật lúc nảo cũng ở trong “ định “ và theo con đường Trung đạo.Vì chính Phật lúc tưởng đâu chết vì ép xác tu khổ hạnh thì chén cháo sữa của Sujata làm cho Người tỉnh táo . ĐHN đã rút ra bài học xương máu ấy và kết luận “ Thực tập thiền Tứ niệm xứ ,quán, thấy biết và chứng cái tâm vô thường thì tất cả mọi việc mình coi như gió thoảng mây bay. Cuối cùng thực chứng pháp vô ngã, phá được tất cả trần lao, nghiệp chướng của chúng ta. Thật vậy, các pháp vô ngã thì ta, người và sự vật đều vô ngã, không có thực tánh vì các pháp do duyên sanh. Quán sát và thực chứng pháp vô ngã, tất nhiên phiền não không khởi lên, mình trở thành thanh tịnh Tỳ-kheo giải thoát.” Và anh viết :”Ta cứ thuận pháp mà sống , hồn nhiên như nhiên. ‘Đến nay ngẫm lại chừng quên hết / chỉ nhớ trên đầu một chữ Như ‘( TS Phước Hậu ) .

Vì anh nói “Tôi cho rằng chính lúc cận kề vối cái chết , giai đoạn cận tử đó là đang ở trong trạng thái “ Diêt thọ tưởng định “ mới thấy được cái vô tướng từ Như lai tạng mà ra, từ Pháp thân của chính mình mà tỉnh ngộ … Từ đó có Tứ Diệu đế , Bát Chánh đạo , Thập nhị nhân duyên để dần dần xóa bỏ Tham sân si của kiếp người “ Cũng nên chú giải thêm về Thập nhị nhân duyên , Hành là nhân chính tạo ra ngũ uẩn mới, vòng duyên khởi mới. Và nếu hóa giải được sự tác nghiệp của hành là vượt khỏi tam giới, là thoát ra luân hồi sinh tử, đến bờ kia và vượt qua mọi khổ ách. Sở dĩ hành (ái, thủ, hữu) tạo tác được là do vô minh. Như vậy, khi trí tuệ hay tri kiến như thực soi chiếu thì tưởng – hành không còn khả năng biến A thành A’, A’’, không thấy B thành B’, B’’ được nữa, nghĩa là toàn bộ ảo tưởng, ảo giác, ảo ảnh, ảo kiến, vọng thức trong khái niêm A’, A’’ – B’, B’’ đều biến mất, nhường chỗ cho thực tánh hiển lộ. Đó chính là qua bờ bên kia (paramitā), là đáo bỉ ngạn.

Vì vậy trí tuệ này gọi là bát-nhã ba-la mật-đa (paññā paramitā). Từ lâu nguyên tính A và B bị ngăn cách bởi sông mê (vô minh) bể khổ (ái dục).

Vượt qua – vượt qua bờ bên kia – chính là vượt qua vô minh ái dục, vượt qua ngũ uẩn mà cụ thể là tưởng – hành. “Biển khổ mênh mông hồi đầu là bến”, cho nên bỉ ngạn cũng chính là thực tại hiện tiền,không phải lúc nào, nơi nào khác. Quay lại là thấy ngay tức khắc, chẳng cần rong ruổi tìm kiếm đâu xa.

Bờ đây là bờ mé của giác ngộ hay bờ vực cận kề cái chết ? Trí tuệ bờ kia (paññā pāramitā) , bờ trên (paññā upapāramitā ) hay bờ cao thượng (paññā paramattha pāramitā) là trí tuệ vượt qua vô minh ảo vọng, chấm dứt sự tạo tác luân hồi sinh tử của các hành qua trực tiếp liễu tri thực tánh của pháp là chính.

Gate là vượt qua sông mê biển khổ ; Paragate là vượt qua luân hồi sinh tử bằng trí tuệ này ;Parasamgate là trải nghiệm đại dụng của các pháp ,vượt qua trầm luân sinh tử, vượt thoát vô minh ái dục bằng trí tuệ này…

ĐHN viết về “ ngày kia đến bờ” phải chăng nói về cái chết khi anh viết “Giác ngộ tốt nhất là hiểu được cái chết là tất yếu và …thiết yếu , không có không được của cuộc đời ta.”

Khi tôi viết bài này, một nhà văn dịch giả vừa qua đời ngay trong đêm Noel 2023,anh Mai Sơn . Nhắc về anh, người ta đăng lại bài phỏng vấn anh về tác phẩm “ Hư cấu “ . Người ta hỏi “Vậy trong Hư cấu (NXB Hội Nhà văn, 7/2004) với 10 truyện ngắn, những ý tưởng mà anh cần bám đuổi và mổ xẻ nhiều nhất là gì? “Mai Sơn trả lời “:

– Nhiều nhất vẫn là cái chết. Không phải vì nó bí ẩn và đáng sợ mà vì cái chết đã bị quên lãng trong cuộc tồn tại bề bộn này. Thật ra ai cũng biết, để vượt qua cuộc sống khổ ải này thì cần phải rũ bỏ bớt những gánh nặng, đặc biệt là gánh nặng về cái chết tất yếu. Nhưng cũng rất nhiều người tưởng mình sẽ sống mãi. Chính vì những người này mà chúng ta cần phải phục hiện bộ mặt đáng kính của cái chết. Và để thấy rằng sự chết là một thành phần sống động trong hiện hữu đầy ắp của con người. Martin Heidegger nói: “Bản chất con người là luôn luôn bị ném về phía trước, mà phía trước xa nhất là gì nếu không phải là cái chết.”

ĐHN đã tìm ra lời giải hay đáp số cho bài toán ấy. Anh viết “Chữ không ( sunyata) như trả lời tôi câu hỏi ‘ Tại sao ?’ ( Why ?) Thắc mắc bấy nay về ‘ Tại sao có ta ?

Ta từ đâu đến ?Đến để làm gì ? ‘ … Và chuẩn bị cho một cái chết tốt ( good death ) và một giai đoạn cận tử vui…vui..”

Vậy giai đoạn cận tử ấy ,sau hơn 80 năm sống trên cõi đời này ,trải qua những giây phút cận kề cõi bên kia , sống như thế nào ? ĐHN cho rằng sống với chữ Như, trong thiền định và quán hơi thở, là “sống trong từng giây phút một . Mỗi khoảnh khắc , mỗi sát na là vô tận .Bởi không có thời gian chẳng có không gian , là sống với Như lai , sống cùng Như lai , sống trong Như Lai với Thường , Lạc , Ngã, Tịnh… và hiểu ngay Không đây không phải là không có mà do mà do duyên sanh , duyên khởi , không có tự tánh riêng biệt . “Vì anh biết rằng “..cái tướng mà ta đang sống đầy khổ đau đây vì “ vô thường , khổ , vô ngã , bất tịnh “ chẳng qua chỉ là cái thấy biết vì “ điên đảo mộng tưởng “ không có thiệt , bởi nó chỉ là thực tướng ‘ ảo‘. “ Và hãy nhớ “ well-being and well-dying nhé !”

Ta nhớ lời kinh nguyện “ngày an lành , đêm an lành , ngày đêm 6 thời đều an lành

… sống an lành và chết cũng an lành .“

 

Rồi nhắm mắt ta đi vào cõi mộng

Như sương mai như ánh chớp mây chiều (Tuệ Sỹ )

Xin mượn lời Thiền sư Tuệ Sỹ để kết bài viết này .

“Sống, tuy có danh nhưng không cần, không bám vào nó. Sống an nhiên với tâm niệm rồi đây thân và danh này cũng mục nát với cỏ cây. Nếu có tài, gặp cơ duyên thích hợp thì đem ra phụ giúp cho đời, đem khả năng của mình ra để phục vụ nhân sinh. Hợp thời thế thì làm, bằng không thì cũng chẳng buồn bã chi. “Bất đắc chí, độc hành kỳ đạo” có bạn đồng hành để xây dựng xã hội thì mình đi vào, không thì sống với triết lý riêng của mình. Sống với thiên nhiên, với vũ trụ của mình. …Cái triết lý sống này rất đẹp, nó gián tiếp tạo nên một cái trật tự xã hội, tạo nên một sự cần thiết. Chúng ta sống làm sao cho đến lúc chết không có gì hối hận, không có gì sai lầm. Đối với bạn bè không có sự lường gạt. Giao tiếp với mọi người không có sự gian dối. Cho tới khi mình chết, mình an tâm, an toàn. Chết đi về đâu, không cần biết. Chỉ cần biết mình đã làm những điều chân chánh , hợp đạo lý thì khi chết nhất định sẽ đến những chỗ an toàn. (HT. Thích Tuệ Sỹ)

Tác phẩm của ĐHN được viết nhẹ nhàng , nhưng sâu lắng , nói bâng quơ như những câu chuyện nhàn đàm nhưng là kết tinh của bao năm nghiên cứu Phật học thâm sâu , với bao kinh nghiệm thực chứng của một hành giả trên hành trình tìm chân lý , kể lại cho chúng ta nghe , để cùng cảm nhận và chia sẻ , dù khó khăn hay dễ dàng tùy quá trình tu tập hay căn cơ từng người để rồi hiểu ra mình cũng sẽ “ một ngày kia …đến bờ “ vì ‘ đời người như gió qua. “ ( Trịnh Công Sơn )

Hãy hoan hỷ đọc và chiêm nghiệm với một nụ cười thanh thản .

Nguyên Cẩn

27.12.2023

Thuộc chủ đề:Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định, Phật học & Đời sống

“MỘT NGÀY KIA… ĐẾN BỜ” Tuỳ bút Đỗ Hồng Ngọc

26/12/2023 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

                                                                     MỘT NGÀY KIA… ĐẾN BỜ

 

 

                                                                                        Tuỳ bút

                                                                                   Đỗ Hồng Ngọc

 

Cuốn sách gồm 26 tiểu mục với những chủ đề dàn trải, đề cập đến hầu hết các phần giáo lý cốt yếu từ những bộ kinh quan trọng của Phật giáo như Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Kim Cang, Duy-ma-cật… và đề cập đến những vấn đề quan trọng trong sự tu tập, từ sự nhận hiểu tinh yếu giáo pháp cho đến kinh nghiệm thực hành.

Đỗ Hồng Ngọc đã biến mọi vấn đề khô khan hay trừu tượng, siêu hình trở nên gần gũi, dễ hiểu và thiết thực, đó là những chia sẻ từ chính kinh nghiệm của người viết- những điều không thể tìm thấy trong bất kỳ bài thuyết giảng hay luận văn Phật giáo nào.

Tác giả đưa người đọc đi vào nội dung quyển sách từ những chiêm nghiệm của cả một đời người. Ở đó, ông tự mình vấn đáp về các vấn đề vĩnh hằng của vũ trụ: “con người từ đâu tới và sẽ đi về đâu?”.

Thư pháp của Thầy Viên Thức, Đà Lạt
(Viết tại Đường Sách Tp.HCM, ngày 16.12.2023)

 

Trước những truy vấn đó, trong vai trò bác sĩ, ông lần lượt tìm kiếm câu trả lời dưới góc độ khoa học về sinh lý con người như: Tế bào, DNA, Gen… Và khi tất cả đáp án đều chưa thỏa nan đề của tạo hóa, ông lại trở thành một thiền giả, luận giải từ góc nhìn của nhà Phật, bằng con mắt pháp, bằng triết lý duyên, nghiệp, sắc, không…

Để từ đó giúp tất cả chúng ta thấy rằng “Một ngày kia… đến bờ” là tất yếu, là lẽ đương nhiên, vì vậy mà không cần sợ hãi, lo lắng, đau khổ khi đối diện với biệt ly sinh tử.

“Well-Being & Well-Dying” Đỗ Hồng Ngọc viết.

 

Trần Đăng Khoa

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống

Từ góc nhìn “Phê bình sinh thái” về bài thơ “Rùng mình” của Đỗ Hồng Ngọc

15/09/2023 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Từ góc nhìn “Phê bình sinh thái”

về bài thơ “Rùng mình” của Đỗ Hồng Ngọc

Đỗ Thị Thanh Nga

(Học viên Cao học K31. Trường ĐH Sư Phạm Huế)

 

Rùng mình… 

                                  Tùng địa dũng xuất (Kinh Pháp Hoa)

Người rùng mình hỏi vì sao động đất sóng thần

cứ triền miên hết ngày này sang ngày khác?

Vì sao núi lửa cứ phun trào?

Vì sao băng tan vì sao bão táp…?

Vì sao trẻ con người già bị cuốn trôi bị thiêu đốt

thành phố tan hoang cửa nhà đổ nát

như món đồ chơi của một đứa trẻ đang giận dữ

Vì sao và vì sao?

 

Nhưng hãy lắng nghe

Dù trong giây lát

 

Trái đất cũng đang rùng mình tự hỏi

vì sao những ngọn núi cứ triền miên đổ sập?

vì sao những dòng sông nghẽn tắt?

vì sao những mủi đao cứ ngày đêm xoáy sâu vào lòng đất?

Vì sao chim rừng cá biển không chốn nương thân

Vì sao cổ thụ mầm xanh bị tận diệt

Vì sao lúa bắp phải cấy ghép gen người?…

Vì sao và vì sao?

 

Ta nương tựa vào nhau.

Nay có vẻ đã không còn cần nhau nữa!

Đất rùng mình phận đất…

Người rùng mình phận người…

 

(Tạp chí sông Hương, 4/6/2018)

 

Đỗ Hồng Ngọc (bút danh Đỗ Nghê) là một bác sĩ, thi sĩ, một nhà văn tận tụy với

nghề và tận tâm với đời. Nói như Nguyễn Hiến Lê: “…Một bác sĩ mà lại là một

thi sĩ thì luôn luôn làm cho chúng ta ngạc nhiên một cách thú vị…”. Thơ của ông

vừa hồn nhiên, mộc mạc, pha chút lãng tử hiện đại; lời thơ ngẫu nhiên không theo

một khuôn khổ, nhưng người đọc lại tìm được một khoảng không bình yên. Ông

từng chia sẻ: “Tôi viết sách là những thể hiện riêng tư và chiêm nghiệm của tôi.

Khi mới ra trường, tôi viết cho học trò như người bạn, người anh viết cho bạn

mình, em mình. Khi tôi có con, tôi viết cho những bà mẹ sinh con đầu lòng. Đến

50 tuổi, tôi cảm thấy chút heo may và tôi viết “Gió heo may đã về”. 60 tuổi về

hưu, tôi viết “Già ơi chào bạn”…

 

Thơ tại sao mà làm ra? Là bởi “như không thôi đi được” (Chu Hy). Những người

làm thơ trên cõi nhân gian đều “không thôi đi được”. Không thể thôi đi tiếng nói

trước cuộc sống. Đó là tiếng nói được bật lên khi tâm hồn va chạm với những vấn

đề đau đớn của cuộc đời, những trằn trọc suy tư về phận mình, phận người và thế

giới xung quanh. Thế giới vốn bình yên bỗng dưng bị sụp đổ, môi trường bị tàn

phá, thiên tai dữ dội hơn… Bức xúc và đau đớn, lo âu và bất bình, mẫn cảm với

vấn đề môi trường có ý nghĩa toàn cầu, cũng có nghĩa là tính mệnh con người bị

đe dọa, những tiếng nói tự phát bằng văn nghệ đã cất lên. Trong dòng văn học

sinh thái của nước ta phải kể đến những tác giả như: Nguyễn Huy Thiệp, Lê Văn

Thảo, Nguyễn Ngọc Tư, Võ Diệu Thanh, Trương Gia Hòa, Mai Văn Phấn, Đặng

Bá Tiến, Trần Anh Thái…. Thơ “sinh thái” của Đỗ Hồng Ngọc viết chưa nhiều

nhưng đã góp tiếng nói riêng trong dòng văn học sinh thái. Một số bài thơ “sinh

thái” của ông như: Nước, Giỗ một dòng sông… Nhưng hay hơn cả có lẻ là bài thơ

“Rùng mình”. (In trên Tạp chí Sông Hương ngày 4 tháng 6 năm 2018).

 

Thiên nhiên trong thơ ông vốn giản dị, trong sáng, bình thản như hơi thở, như khí

trời. Nước, gió, trăng, sao, sông, sóng…vô thủy, vô chung, an nhiên tồn tại từ

ngàn năm trước đến ngàn năm sau:

 

Nước từ đâu đến

Nước trôi về đâu

Từ con suối nhỏ

Từ dòng sông sâu

Từ khe núi lở

Từ dưới nhịp cầu

Từ cơn thác lũ

Từ giọt mưa rơi…

Nước vẫn muôn đời

Không đi chẳng đến

Ai người nỡ hỏi

Nước đến từ đâu

Ai người nỡ hỏi

Nước trôi về đâu…

(Nước, Vòng Quanh, NXB Trẻ 1997)

 

Sông ơi cứ chảy

Cứ chảy về trời

Cứ về biển khơi

Cứ làm suối ngọt

Cứ làm thác cao

Cứ đổ ầm ào

Cứ làm gió nổi

Cứ làm mây trôi…

(Giỗ một dòng sông, Thơ Ngắn Đỗ Nghê, NXB Văn hoá – Văn nghệ, Tp.HCM 2017)

 

Vạn vật bình đẳng, sự hòa điệu giữa con người và vũ trụ mang lại cho người đọc

cảm nghiệm mới về thời gian, về sự sống trong guồng quay của tạo hóa. “Nó

thôi thúc con người ý thức về mối quan hệ của cá nhân và vũ trụ, để kết nối, để

sống hết mình trong sự sống chứ không phải để thở than nhân sinh như mộng”

(Tịnh Thy) Nhưng đến với bài thơ “Rùng mình” mối quan hệ giữa vạn vật và con

người không còn là mối quan hệ tương hổ, hài hòa mà là mối quan hệ đổ vỡ:

Người rùng mình hỏi vì sao động đất sóng thần cứ triền miên hết ngày này sang

ngày khác? Vì sao núi lửa cứ phun trào? Vì sao băng tan vì sao bão táp…? Vì sao

trẻ con người già bị cuốn trôi bị thiêu đốt thành phố tan hoang cửa nhà đổ nát

như món đồ chơi của một đứa trẻ đang giận dữ Vì sao và vì sao?…

Những hình tượng sinh thái chỉnh thể bị phá vỡ cấu trúc nên nảy ra bao tai họa:

động đất sóng thần, núi lửa, băng tan, trẻ con người già bị cuốn trôi bị thiêu đốt

thành phố tan hoang cửa nhà đổ nát như món đồ chơi…Con người “rùng mình”

hỏi – hỏi trái đất, hỏi vạn vật, hỏi thế giới xung quanh nhưng lại không tự hỏi

chính mình. Hướng ra bên ngoài với hàng loạt câu hỏi không có câu trả lời, con

người giận dữ như một đứa trẻ giận dữ? Những câu hỏi dồn dập như là một sự

thắc mắc, oán thán, hờn trách, đau đớn và bất lực trước những tai họa mà thiên

nhiên đã và đang mang đến. Nhưng có lẽ con người vẫn cứ vô tâm, vô tình, vô ơn

đến mức không nhận ra chính mình đang hủy hoại chính ngôi nhà của mình. Khi

mà những câu hỏi ai oán, đau đớn, dằn vặt, buồn thương và cả xót xa bật lên

nhưng không một lời đáp trả thì nhà thơ như một nhà khoa học, nhà sinh học, nhà

địa lí, nhà xã hội học đã yêu cầu ta hãy lắng nghe- lắng nghe tiếng nói của trái đất:

 

Nhưng hãy lắng nghe

Dù trong giây lát

 

Lắng nghe để thấy không chỉ con người kêu gào, đau đớn và tuyệt vọng mà cả trái

đất cũng đang “đau” đang “sợ”, đang “rùng mình” “tự hỏi”:

Trái đất cũng đang rùng mình tự hỏi vì sao những ngọn núi cứ triền miên đổ sập?

vì sao những dòng sông nghẽn tắt? vì sao những mũi đao cứ ngày đêm xoáy sâu

vào lòng đất? Vì sao chim rừng cá biển không chốn nương thân Vì sao cổ thụ

mầm xanh bị tận diệt Vì sao lúa bắp phải cấy ghép gen người?… Vì sao và vì

sao?

Ngay từ khi sinh ra, con người đã có tương quan mật thiết với môi trường sống.

Nhưng họ được dựng nên, được đặt vào trong thế giới với lời nhắn nhủ đong đầy

thương yêu: “Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời và mọi giống vật bò trên mặt

đất”. Thời gian thấm thoát trôi nhanh, con người ít nghĩ tới, và chẳng mấy quan

tâm về mối tương quan với sinh thái. Nguy hại hơn, chính những hành động “bá

chủ” quá mức và thiếu ý thức của con người khiến cho Trái đất phải gánh gồng

nỗi đau, phải lâm cảnh hiểm nguy đến độ đang kêu gào than khóc.

Khi sáng tạo trời đất, Thiên Chúa chúc phúc và làm cho mọi sự đều tốt đẹp. Vẻ

đẹp tuyệt mỹ của của Ngôi nhà chung khiến thánh Phanxicô thành Assisi không

thể kìm lòng mà hát lên: “Con xin chúc tụng Chúa, lạy Chúa của con”. Ngôi nhà

chung ấy sẽ mãi luôn tuyệt đẹp nếu như những ngọn núi không triền miên sụp đổ,

những dòng sông không tắc nghẽn…. Nếu con người kêu gào trong đau đớn và

tuyệt vọng thì trái đất cũng kêu gào trong đau đớn và tuyệt vọng. Trái đất vốn là

nhà, con người và vạn vật nương tựa, tương giao và bình đẳng. Giờ đây, trái đất

và con người vẫn nương tựa vào nhau nhưng cứ thờ ơ, vô cảm, và bỏ mặc nhau:

 

Ta nương tựa vào nhau.

Nay có vẻ đã không còn cần nhau nữa!

Đất rùng mình phận đất…

Người rùng mình phận người…

 

Dù đau đớn thì nỗi đau ấy cũng là nỗi đau riêng. Con người không hiểu vì sao

mình gặp tai họa, và tiếng khóc của trái đất cũng không ai nghe thấu để tất cả đều

“rùng mình”, đều sợ hãi, đều đổ vỡ. Vì sao?

Phải chăng vì sự cẩu thả, vô đạo, vô ơn mà gây nên thảm họa sinh thái. Nhà thơ là

người nói hộ cho tự nhiên và thay lời cho nhà khoa học: Trái đất cũng đang rùng

mình tự hỏi vì sao những ngọn núi cứ triền miên đổ sập? Là vì mũi đao cứ xoáy

sâu vào lòng đất và tất nhiên cũng là do rừng bị phá, núi đồi bị trọc hóa.

Từ đề tài cho thấy chủ đề sinh thái của bài là thái độ quan tâm, tôn trọng môi

trường – trái đất, là phải nhận thức con người với trái đất song hành quyền lợi và

tồn tại: Ta nương tựa vào nhau

 

Theo Laurence Buell (Anh): Văn học sinh thái là văn học viết vì một thế giới lâm

nguy nên cảm hứng cơ bản của thơ sinh thái là cảm hứng phê phán. Phê phán thói

cẩu thả, vô đạo, vô ơn của con người gây nên những thảm họa sinh thái. Từ cảm

hứng và chủ đề, bài nói riêng và văn chương sinh thái nói chung góp tiếng nói

phản biện để lay gọi, thức tỉnh thái độ, thay đổi tư duy của con người về môi

trường.

Từ cảm hứng phê phán mà các tác phẩm đượm chất bi ca, dư âm của tác phẩm là

nỗi buồn đau khắc khoải, là niềm sám hối của lương tri con người. Chất bi ca này

biểu hiện qua những hình ảnh sống động giàu tính khái quát: động đất, sóng thần,

núi lửa, băng tan, núi sụp đổ, dòng sông tắc nghẽn, chim rừng cá biển không chốn

nương thân…. dội lên từng hình ảnh sinh thái là một niềm đau nhức nhối:

Chất bi ca còn biểu hiện qua giọng điệu. Thơ Đỗ Hồng Ngọc vốn giản dị và hồn

nhiên. Nhưng trong bài thơ này lại là giọng điệu day dứt, dằn vặt, buồn đau.

Giọng điệu buồn đau đắng đót ấy đã phản ánh thời đại bi kịch của chúng ta: khoa

học phát triển nhưng bệnh tật thì nhiều hơn. Có thể nói nội hàm văn học sinh thái

có ý nghĩa giáo dục bằng con đường phản cảm. Văn học phải cất lên tiếng nói

đánh động ý thức, thay đổi quan niệm về sinh thái để cân bằng bảo vệ môi sinh và

thời gian không chờ đợi.

Đọc “Rùng mình” ta nhận thấy có cái tôi trải ra ba chiều không gian để lắng nghe

lời than thở, đắng cay của sông, đất, nước… Tư tưởng sinh thái nâng đỡ mà cái

tôi (cũng là tiếng nói của cái ta) lớn lao mang tầm vóc thời đại.

 

Thơ ca sinh thái đã xuất hiện tại Việt Nam gần ba thập niên trở lại đây, đạt được

những thành tựu cơ bản về nội dung tư tưởng song về thi tứ và bút pháp thì vẫn

chưa thật rõ rệt hoặc nổi bật sắc thái. Nhưng với bài thơ “Rùng mình” của Đỗ

Hồng Ngọc nhà thơ đã góp một tiếng nói trong đấu tranh bảo vệ môi trường cũng

chính là bảo vệ ngôi nhà của chúng ta.

(ĐTTN, Trường ĐHSP Huế)

9.2023

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Phật học & Đời sống

MỘT NGÀY KIA…ĐẾN BỜ V2

11/09/2023 By admin 1 Bình luận

Tải sách (file pdf) , bấm vào đây

Thuộc chủ đề:Phật học & Đời sống

MỘT NGÀY KIA…ĐẾN BỜ

25/08/2023 By admin Để lại bình luận

Thuộc chủ đề:Phật học & Đời sống, Đọc sách

Bản dịch Anh ngữ của Nguyên Giác: “NƯƠNG TỰA CHÍNH MÌNH” (ĐHN)

28/06/2023 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Rely on yourself / Nương Tựa Chính Mình

Ghi chú: Nguyên Giác Phan Tấn Hải vừa gởi tôi bản dịch Anh ngữ bài viết Nương Tựa Chính Mình về Thiền Anapanasati (Quán Niệm Hơi Thở) của Phật dạy từ hơn 2500 năm trước. Anh nói cần dịch để các bạn trẻ ngày nay có thể đọc và thực hành một phương pháp Thiền rất khoa học này để được “Thân tâm thường an lạc”. Bài này đã được đăng trên trang Bilingual của Thư viện Hoa Sen.

Bilingual: Rely on yourself / Nương Tựa Chính Mình
https://thuvienhoasen.org/a39549/bilingual-rely-on-yourself-nuong-tua-chinh-minh

Đa tạ Nguyên Giác.

Đỗ Hồng Ngọc.

(28.6.2023)

 

Nương Tựa Chính Mình

Đỗ Hồng Ngọc

Có một sự nhất quán, xuyên suốt trong lời dạy hướng dẫn kỹ năng thiền định của Phật, từ Tứ niệm xứ (Satipatthàna) tới Thân hành niệm (Kàyagatàsati), rồi Nhập tức xuất tức niệm (Ànàpànasati), đó là thở: “Thở vào thì biết thở vào, thở ra thì biết thở ra. Thở vào dài thì biết thở vào dài, thở ra ngắn thì biết thở ra ngắn…” Chỉ có vậy. Mà vô vàn. Mà nói không được.

Dù gọi là Thiền (Việt) hay Chan (Hoa), Zen (Nhật)… thì cũng đều có nguồn gốc từ Dhyana (Sanskrit) hay Jhanas (Pali). Theo ngữ nguyên thì Jha là nhìn, là quan sát, là theo dõi và Ana là thở, hơi thở, là khí. Vậy, jhanas hay dhyana chính là quán sát hơi thở, nhận thức hơi thở. Đơn giản vậy mà thực ra không giản đơn chút nào. Nó như một chìa khoá căn bản. Phải mở cái cửa này đã rồi các cửa khác mới mở tiếp được. Vấn đề là tại sao và cách nào để chỉ từ một việc là quán sát hơi thở lại có thể dẫn tới tuệ giác, một sự chuyển hoá từ “khí” mà thành “trí”?

 

Quán sát hơi thở

Thật ra quán sát cái gì cũng được cả, bởi tất cả đều là pháp – nhứt thiết pháp giai thị Phật pháp – nhưng quán sát hơi thở thì có điều kiện để thấy “ngũ uẩn giai không” hơn, tức thấy vô ngã hơn. Vô ngã ở đây không còn là một ý niệm, một khái niệm mà là một trạng thái. Để thấy vô ngã thì tốt nhất là quán sát từ “ngã”, từ hơi thở chẳng hạn, một đối tượng sẵn có ngay trong bản thân mình. Lúc nào cũng phải thở. Ở đâu cũng phải thở. Hơi thở lại rất nhạy với cảm xúc. Trước một cảnh đẹp, ta “nín thở”. Lúc sợ hãi, hồi hộp ta thở nhiều kiểu khác nhau, muôn hình vạn trạng. Và nhờ đó mà thấy vô thường. Nhờ đó mà quán sát được cái tâm. Thở cũng gắn với các hoạt động cơ bắp, khi mệt ta “bở hơi tai”; khi khoẻ ta thở nhẹ nhàng sảng khoái, nhờ đó mà quán sát được cái thân. Không chỉ thế, thở còn vừa là ý thức, vừa là vô thức. Như không cần ta. Như ở ngoài ta. Như không có ta. Quán sát thở, ta thấy thở gắn với sự sống chết của kiếp người. Khi chào đời em bé khóc thét lên một tiếng thật to để hít mạnh không khí vào phổi, rồi khi lìa đời cụ già lại thở hắt ra một cái, trả lại cho đời tất cả những gì mình đã vay mượn. Giữa hai lần thở vào, thở ra đó là những đợt thở… lăn tăn như những làn sóng nhỏ, mà nối kết các làn sóng nhỏ đó lại ta có cuộc rong chơi trong cõi ta bà.

Thở có thể làm chuyển biến tâm trạng ta, chuyển hoá cảm xúc ta, cả hành vi ta nữa. Đang sôi giận mà kịp nhớ lại, quán sát sự thở của mình, thấy nó phập phều kỳ cục, tức cười, bèn quên giận, hơi thở được điều hoà trở lại lúc nào không hay: điểm hưng phấn trên vỏ não đã bị dịch chuyển! Giận dữ, lo âu, sợ hãi vốn tiêu tốn rất nhiều năng lượng. Vì vậy mà những lúc đó ta dễ cảm thấy kiệt sức, rã rời. Ngủ là một cách giảm tiêu hao năng lượng nhưng vẫn còn co cơ, còn chiêm bao. Thiền giúp tiết giảm tiêu thụ năng lượng một cách đáng kể, còn hơn cả giấc ngủ, nhờ đó các tế bào được nghỉ ngơi, toàn thân cảm thấy sảng khoái.

Phổi ta như một cái máy bơm, phình xẹp để đưa khí vào ra là nhờ có áp suất thay đổi. Có một thời điểm áp suất cân bằng nhau, đó chính là quãng lặng. Quãng lặng đó ở cuối thì thở ra – trước khi thở vào trở lại – thường kéo dài, thong dong, nhẹ nhàng vì không hề tốn năng lượng. Đó chính là giai đoạn “prana”. Pra có nghĩa là trước và ana là thở vào (cũng có nghĩa là sau thì thở ra). Prana đã được biết đến từ xa xưa. Trong yoga có pranayama, kiểm soát hơi thở. Trong thiền định không còn phải kiểm soát hơi thở nữa mà hơi thở tự kiểm soát. Đến một lúc nào đó hành giả không cảm nhận mình thở nữa. An tịnh. Tan biến.

 

Thả trôi theo dòng nước

Khi nói đến thiền, ta thường nghĩ ngay đến ngồi thiền. Rồi nào kiết già, nào bán già, hết sức phức tạp và bí hiểm như chỉ dành riêng cho một giới nào đó. Thiền thực ra không nhất thiết phải như thế. Đi đứng nằm ngồi gì cũng thiền được cả. Người Nhật, người Tây Tạng đều có cách “ngồi” thiền riêng của mình, người Tây phương còn khác hơn nữa, miễn sao có một tư thế thoải mái, dễ chịu, buông xả toàn thân là được. Thế nhưng cách ngồi tréo chân (kiết già, bán già) lại có lợi thế hơn, vì khi ta đứng, ta đi, các bắp cơ phía trước của chân phải co lại để nâng đỡ cả thân mình, trong khi các bắp cơ phía sau duỗi ra. Lúc ngồi tréo chân ta đã làm cho các bắp cơ đổi chiều. Đây là phương pháp “đối chứng trị liệu”.

Giữ lưng thẳng đứng cũng là một yêu cầu vô cùng quan trọng trong thiền. Ta dễ có khuynh hướng chiều theo độ cong tự nhiên của cột sống dưới sức nặng của thân thể do trọng lực, và nhất là tuổi tác, do đó dễ dẫn đến cong vẹo cột sống hoặc đau cột sống cổ, đau thắt lưng. Giữ lưng thẳng đứng kết hợp với tập thể dục bụng sẽ làm chậm tiến trình lão hoá. Trong thiền, một yếu tố rất quyết định nữa là sự thả lỏng toàn thân, “buông xả” toàn thân, mà có người ví như thả trôi theo dòng nước. Y học chứng minh tiêu hao năng lượng trong thiền rất thấp, dưới mức chuyển hoá cơ bản, thấp hơn cả khi ngủ, nhờ vậy mà năng lượng được tích luỹ tốt hơn. Khi cơ thể đã chùng xuống, đã giãn cơ, tức giảm tiêu hao năng lượng một cách đáng kể rồi thì cũng sẽ thấy bớt cần thiết phải cung cấp các dưỡng chất qua thức ăn như glucid, lipid, protid… vốn là nguồn tạo năng lượng. Ăn ít đi mà vẫn đáp ứng đủ nhu cầu năng lượng thì cơ thể đỡ vất vả, các tế bào đỡ hùng hục làm việc, tinh thần sẽ sảng khoái.

Đời sống tiết độ, tri túc, kham nhẫn, chánh niệm, tỉnh giác… phải chăng có thể góp phần giải quyết những vấn đề sức khoẻ thời đại và bảo vệ môi trường sống của chúng ta hôm nay? Đừng tìm đâu cho mất công. Hãy quay về nương tựa chính mình. Quả đúng như vậy. Bởi nói cho cùng, ai có thể thở giùm ai? Ai có thể thiền giùm ai?

 

 

Rely on yourself / Nương Tựa Chính Mình

 

Author: Đỗ Hồng Ngọc

Translated by Nguyên Giác

 

There is a consistent approach throughout the teaching of Buddhist meditation techniques, from the Four Foundations of Mindfulness (Satipatthana) to Mindfulness of the Body (Kayagatasati), to Mindfulness of Breathing (Anapanasati), which is breathing: “Breathing in, you know you are breathing in; breathing out, you know you are breathing out. Breathing in a long breath, you know you are breathing in a long breath; breathing out a short breath, you know that you are breathing out a short breath…” That’s all. But countless things. And nobody can say it fully.

Whether the name is Thiền (in Vietnamese), Chan (in Chinese), or Zen (in Japanese), they are all derived from Dhyana (Sanskrit) or Jhanas (Pali). In etymology, Jha is to look, to observe, and Ana is to breathe, and to be air. So, Jhanas or dhyana is the contemplation of the breath or awareness of the breath. It’s that simple, but it’s not really that simple. It’s like a basic key. This door must be opened before the other doors can be opened. The question is: why and how can the mere act of observing the breath lead to insight, a transformation from ‘qi’ to ‘wisdom’?

 

Observe the breath

Actually, viewing anything is fine because each of the All is a dharma – and all dharmas are Buddha dharmas – but observing the breath has the conditions for seeing more about “the five aggregates are all emptiness,” which means you perceive the non-self. Here, the non-self is a state rather than an idea or concept. To see the non-self it is best to observe the image of the “self” from the breath, for example, as an object already present within yourself. You always have to breathe. And everywhere you are, you have to breathe.

Breathing is very sensitive to emotions. Before a beautiful scene, we “hold our breath.” When we are terrified or nervous, we breathe in a variety of forms and sizes. As a result, it is sensed as impermanence; as a result, you can examine the mind. Muscle movements are also related to breathing, and when we are tired, we “breathe with the ears”; To observe the body, we breathe comfortably and gently when we are healthy. Furthermore, breathing is both conscious and unconscious: Just as breathing does not require you, neither does the outside of you, nor does any of the self.

Observing the breath, you see that breathing is associated with the life and death of human life. When a baby was born, the baby cried out with a loud scream to suck air into his or her lungs. Then, when a person died, the old person exhaled again, giving back to life all that he or she had borrowed. Between the two cycles of inhalation and exhalation, there are waves of breathing, rolling like small waves, which connect those small waves to have a human life in the realm of samsara.

Breathing can change your mood, your emotions, and your behavior. When you’re seething with anger, you can remember, watch your breath, find it weird and funny, then forget the anger, then the breath will regulate again without ever knowing it – the arousal point in the cerebral cortex is already gone. Anger, anxiety, and fear consume a lot of energy; therefore, at those times, we easily feel exhausted and tired. Sleep is a method of reducing energy expenditure while still having muscular contractions and dreaming. Meditation reduces energy use substantially more than sleep, allowing cells to relax and the entire body to feel rejuvenated.

Our lungs are like a pump, rising and falling to bring air in and out thanks to the change in pressure. There is a moment when the pressures are equal, which is the silence. That silence at the end of exhalation—before breathing in again—is usually long, leisurely, and gentle because it doesn’t use any energy. That is the “prana” stage. Pra means before, and ana means to breathe in (which also means after the exhaling). Prana has been known since ancient times. In yoga, there is pranayama, which controls the breath. In meditation, there is no longer a need to control the breath; the breath is self-controlled. There comes a time when the meditator does not feel himself breathing anymore. Peaceful. Vanishing.

 

Float with the water

We frequently associate seated meditation with meditation. Then there’s the full lotus stance and the half-lotus posture, which are both incredibly difficult and enigmatic as if they’re just for a certain type of humanity. Meditation really doesn’t have to be like that. You can meditate while walking, standing, lying down, or sitting. The Japanese and Tibetans each have their own method of “sitting” meditation; however, Westerners are even more diverse, as long as they have a soothing and comfortable position in which to let go of the entire body, which is great.

However, sitting cross-legged (full or half-lotus posture) has more benefits because when we stand or walk, the muscles in the front of the legs must contract to support the entire body, whereas the muscles in the front of the legs must contract to support the entire body after stretching. We cause the muscles to change direction when we sit cross-legged: this is the “therapeutic control” technique.

Keeping your spine straight is also a crucial need for meditation. We tend to follow the natural curvature of the spine under the weight of the body due to gravity, especially with age, so it is easy to lead to scoliosis, cervical spine pain, or low back pain. Keeping the back upright, combined with abdominal exercises, will slow down the aging process. In meditation, another very decisive factor is the relaxation of the whole body, the “letting go” of the whole body, which some people liken to floating with the water.

Medicine has proven that the energy consumption in meditation is very low, below the basal metabolic rate, and lower than even during sleep, so that energy is better accumulated. When the body has slacked and muscles have relaxed, resulting in greatly reduced energy consumption, it is also less essential to deliver nutrients through food such as glucose, lipids, and protein… which is a source of energy. If you eat less and still meet your energy needs, your body will be less tired, your cells will be less active, and your spirit will be refreshed.

A life of moderation, contentment, patience, mindfulness, and awareness—can it contribute to solving modern health problems and protecting our living environment today? Don’t waste your time looking anywhere. Come back and rely on yourself. That’s right. After all, who can breathe for whom? Who can meditate for whom?

 

Nguồn: https://thuvienhoasen.org/a39549/bilingual-rely-on-yourself-nuong-tua-chinh-minh

 

 

Thuộc chủ đề:Phật học & Đời sống

Thư gởi bạn xa xôi III

17/06/2023 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

Thư gởi bạn xa xôi III

Tôi Học Phật (tiếp theo)

Thuộc chủ đề:Phật học & Đời sống

Thư gởi bạn xa xôi II

17/06/2023 By Bac Si Do Hong Ngoc 2 Bình luận

TÔI HỌC PHẬT

(Tiếp theo)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Thuộc chủ đề:Phật học & Đời sống

Thư gởi bạn xa xôi: Tôi Học Phật (tóm tắt)

17/06/2023 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

Thư gởi bạn xa xôi I (6/2023)

TÔI HỌC PHẬT

(Tóm tắt)

Lúc này làm biếng, 84 rồi chớ ít gì! Phải vẽ hình, viết chữ to, cho dễ đọc, dễ thấy, dễ nhớ.

Gởi bạn… coi vui. Rảnh thì ngẫm ngợi, thắc mắc nếu có nhe.

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc.

 

 

 

 

 

 

Thuộc chủ đề:Phật học & Đời sống

  • Trang 1
  • Trang 2
  • Trang 3
  • Interim pages omitted …
  • Trang 8
  • Chuyển đến Trang sau »

Thư đi Tin lại

  • Lịch “Trò chuyện, giao lưu…”
  • Lại đính chính: “SAIGON BÂY GIỜ”
  • ĐÍNH CHÍNH: BSNGOC không phải là BS ĐỖ HỒNG NGỌC
  • Đính chính: BS NGỌC không phải là Bs Đỗ Hồng Ngọc
  • bsngoc đã lên tiếng đính chính
  • Thư cảm ơn và Đính chính về FACEBOOK Bác sĩ NGỌC
  • ĐÍNH CHÍNH: Bài viết "TÀN NHẪN" không phải của Bs Đỗ Hồng Ngọc

PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG

Bs Đỗ Hồng Ngọc với Khoá tu “Xuất gia gieo duyên” tại Tu viện Khánh An.

Hỏi chuyện Học Phật với Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Bản dịch tiếng Đức “Một Ngày Kia… Đến Bờ”

CON ĐƯỜNG AN LẠC Bài 6: Học cách Phật dạy con

Minh Lê: Đọc và Cảm “Một ngày kia… đến bờ”

Thăm Sư Giới Đức Triều Tâm Ảnh

Nguyên Cẩn: Đọc “Một ngày kia… đến bờ “của Đỗ Hồng Ngọc

“MỘT NGÀY KIA… ĐẾN BỜ” Tuỳ bút Đỗ Hồng Ngọc

Từ góc nhìn “Phê bình sinh thái” về bài thơ “Rùng mình” của Đỗ Hồng Ngọc

MỘT NGÀY KIA…ĐẾN BỜ V2

Xem thêm >>

Chuyên mục

  • Một chút tôi
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy

Bài viết mới nhất!

  • PNB giới thiệu: Sách “bỏ túi” CON ĐƯỜNG AN LẠC.
  • Video Podcast: Học cách Phật dạy con
  • Video Podcast: Vận động ở tuổi già
  • Video Podcast: Đỗ Hồng Ngọc “GIÚP CHA MẸ VUI TUỔI GIÀ”
  • Video Podcast. Phùng Minh Bảo: Chia sẻ trải nghiệm Chăm sóc Mẹ già

Bài viết theo tháng

Ý kiến bạn đọc!

  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Một vài góp ý về Video Podcasts trên dohongngoc com.
  • NamPhuong Ngo trong Một vài góp ý về Video Podcasts trên dohongngoc com.
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Phòng mạch của chim
  • H.Tuyen trong Phòng mạch của chim
  • Phạm Anh Trang trong Lịch “Trò chuyện, giao lưu…”
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Nước Mắm Phan Thiết
  • QN trong Thư gởi bạn xa xôi
  • Nguyễn Lê Hải Minh trong Nước Mắm Phan Thiết
  • Trần Liên Hương trong “Sách bỏ túi” cho người cao tuổi: CON ĐƯỜNG AN LẠC
  • Minh Trí trong Giao Lưu-Ra Mắt Sách Chuyện Hồi Đó của Đỗ Hồng Ngọc (10.8.2025)

Cùng một tác giả

  • 0
  • 1
  • 1
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6

Thống kê

Nhà tài trợ

biệt thự vũng tàu
biệt thự vũng tàu cho thuê | biệt thự vũng tàu cho thuê theo ngày giá rẻ | cho thuê biệt thự vũng tàu có hồ bơi
© 2009 - 2016 Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Phát triển & Hỗ trợ kỹ thuật bởi SGC.
Trích dịch nội dung để dùng trong nghiên cứu, học tập hay dùng cho cá nhân đều được tự do nhưng cần phải chú thích rõ nguồn tài liệu và đối với các trích dịch với mục đích khác, cần phải liên lạc với tác giả.
  • Một chút tôi
    ?
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    ?
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    ?
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    ?
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    ?
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy
  • Nhận bài mới qua email