Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Tập hợp các bài viết của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Ghi chép lang thang
  • Nhận bài mới qua email

Đọc “IM LẶNG, như lời chia tay” của Cao Huy Thuần

20/01/2023 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

Đọc “IM LẶNG, như lời chia tay” của Cao Huy Thuần

"Im lặng như lời chia tay" - sách mới của GS.Cao Huy Thuần - Ảnh: HĐ
“Im lặng như lời chia tay” – sách mới của GS.Cao Huy Thuần – Ảnh: HĐ
———————-
20/01/2023 14:41
https://giacngo.vn/doc-im-lang-nhu-loi-chia-tay-cua-cao-huy-thuan-post65521.html
Đỗ Hồng Ngọc
———————-
GNO – Anh Cao Huy Thuần thân mến, nếu thỉnh thoảng ta mà vào được Tam muội Phổ Hiền, thì ta cũng có thể nhận ra cái “thiêng liêng” đó anh à, cái thiêng liêng từ “vô tưóng” – trong Như Lai tạng – bỗng “hiện tướng”… đùa vui giữa chốn Ta-bà đó thôi.
  • Anh Cao Huy Thuần gởi tôi tập Im Lặng, như lời chia tay… dặn để đọc mấy ngày Tết. Tôi nghĩ: chắc là Im Lặng thở dài… đây rồi! “Tôi đang lắng nghe tôi đang lắng nghe im lặng đời mình” (Trịnh Công Sơn)? Nhưng không. Cao Huy Thuần không thở dài! Anh nói về “thiêng liêng” về “chia tay mà không biệt ly của cánh hoa rơi”…

Bồng đứa bé mới sanh đỏ hỏn trên tay mà không thấy “thiêng liêng” sao? Đứa bé bỗng nhoẻn miệng cười không vì đâu cả mà không thấy “thiêng liêng” sao?… Người bạn, kêu sáng Mùng Một Tết chợt thấy “thiêng liêng”? Lạ quá. Thiêng liêng đến từ đâu? Thì đến từ thiêng liêng chớ từ đâu nữa! Từ cái nhoẻn miệng cười của đất trời, từ cái đất nước gió lửa run rẩy trong ta vì già nua giữa ngày Mồng Một Tết chớ đâu nữa!

Đọc “IM LẶNG, như lời chia tay” của Cao Huy Thuần ảnh 1
Một trong những minh họa trong “Im lặng như lời chia tay” – Ảnh HĐ chụp lại từ sách

Họa sĩ Poussin (1594-1665), bàn tay run rẩy bệnh hoạn không chịu nghe lời ông nữa, ông phải từ giả bút màu với nỗi buồn chán… Nhưng, bất ngờ, những bức tranh run rẩy của ông về sau được giới phê bình tán thưởng hơn bao giờ hết. Họ phát hiện ra rằng “không phải tay họa sĩ run mà là thời gian run”.

Còn họa sĩ Cézanne (1839-1906) viết “Tôi già và bệnh, nhưng tôi thề sẽ chết trong khi vẽ…”. Danh họa Nhật, Hokusai nói từ năm 73 tuổi mới hiểu cấu trúc của thiên nhiên, bởi vậy, 80 ông sẽ, 90, 100, 110… ông sẽ…

Để rồi cuối cùng, Cao Huy Thuần và người bạn đồng ý “ly cà phê buổi sáng là thiêng liêng”, “cái má núm đồng tiền là thiêng liêng”, “cái răng khễnh là thiêng liêng”… Ôi chao!

Phật dạy có bốn thứ Ma thân thiết với ta. Phiền não ma, Ngũ ấm ma, Thiên ma, Tử ma. Tử ma chính là “thị giả” của ta, gần gũi ta và giúp đỡ ta, gắn với ta từ trong trứng nước. Tưởng là kẻ xấu mà không, hắn rất tử tế, luôn nhắc ta từng chút, nhờ vậy mà ta tránh biết bao tai ương, khổ nạn.

Nhìn lại, có hay không có tái sinh? Có hay không có “kiếp” sau? Có lần khi trò chuyện với Ni sư Trí Hải tôi hỏi một kiếp dài khoảng chừng 10 phút không cô? Cô cười, không trả lời. Có lẽ cô muốn nói… một kiếp dài cỡ một sát-na!

Thầy Tuệ Sỹ trong cuốn Tổng quan về Nghiệp viết: Có hay không có Nghiệp? Có hay không có Tự ngã? Có hay không có Thời gian?…

Nghiệp, là kinh nghiệm được tích lũy và tồn tại trong nhiều đời sống. Không có thời gian, không có ký ức thì lấy đâu cho nghiệp vận hành, tạo tác, lưu trữ, lưu xuất, dị thục, nhân quả? (Tuệ Sỹ)

Có thực không có nhiều đời sống? Một đời trước và đời sau – những đời sau- để cho ký ức gợi lại, nhân quả. Bằng chứng đâu?

Nhưng, nếu hỏi tôi tin không? Tôi tin. Tại sao tin? Không biết! Phải chăng, thỉnh thoảng ta gặp một người nào đó thấy như đã từng hẹn nhau từ muôn kiếp trước, hay một nơi chốn nào đó thấy như về mái nhà xưa?

Ký ức được lưu trữ ở đâu để tạo thành Nghiệp mà truyền đi? Khoa học não bộ trả lời: ở hippocampus (hồi hải mã) trong não. Thế nhưng, khi thân này tan rã, hippocampus và toàn bộ thể viền của não bộ cũng không còn, ký ức được tàng trữ trong thân vật lý này cũng biến mất theo. Phải chăng “ngoài cơ chế vật lý của ký ức, còn có sự tham gia của một yếu tố phi vật chất, không nhất thiết là ý thức, để lấy đó làm cơ sở tiếp cận đến vấn đề nghiệp tích lũy, cho đến trong đời sau được xử lý để cho quả dị thục của nó”? (Tuệ Sỹ).

Đức Phật dạy: Có nghiệp được tạo tác, có quả dị thục được lãnh thọ, nhưng không có người tạo tác, không có người lãnh thọ.

Nhà khoa học cũng bảo: “Có design nhưng không có designer”. Nhưng sao chim bồ câu thì cứ bay ngàn dặm về đưa thư, cá hồi cứ bốn năm lại quay về chốn cũ để sinh đẻ rồi chết? Ngày nay, sinh vật từ hạt đậu đến chuột bọ, khỉ vượn… cũng được can thiệp vào gène để tạo ra những “dị thục” những “quả” bất ngờ, gọi là transgenic.

“Je pense, donc je suis – Tôi tư duy, nên tôi tồn tại” (Descartes). Vậy tôi không tư duy, thì không… có tôi? Phải chăng “vô niệm” thì vô ngã? Trong Tam muội Phổ Hiền (Samadhi) thì quả thấy vô ngã khi tan biến vào vô tướng của Như Lai tạng đó thôi. Cho nên nhìn mọi sự vật bằng cái nhìn Như Thực, cái nhìn “thật tướng vô tướng” thì chân không mà diệu hữu. Từ đó mà lý vô ngại, sự vô ngại, sự sự vô ngại vậy.

Ta cũng có thể bắt chước Descartes nói: “Tôi thở, vậy có tôi”. Nghĩa là nếu tôi không thở thì không có tôi. Nhưng cái thời tôi còn trong bụng mẹ, tôi cũng không thở mà vẫn có tôi đó thôi. Từ đó, suy ra rằng cái thời tôi… hết thở, ngừng thở, thì tôi vẫn còn đó chứ, sao không? Tôi lúc đó trở lại trong bào thai Mẹ (bào thai Như Lai) chứ? Tôi mới phải mang nghiệp theo để trả quả chứ? …

Tuệ Sỹ nói: Tồn tại trong quá khứ và vị lai là những thực thể vi tế, ẩn áo, không phải tri giác thường nghiệm mà có thể bắt nắm được.

Ta biết ngày nay, thời gian sẽ chảy chậm trong con tàu vũ trụ chạy nhanh. Với một vận tốc nào đó thời gian đứng lại. Cho nên Từ Thức lạc động Thiên thai là chuyện có thực.

Đọc “IM LẶNG, như lời chia tay” của Cao Huy Thuần ảnh 2
Một trang trong “Im lặng như lời chia tay” – Ảnh HĐ chụp lại từ sách

***

Im lặng bông hoa nở. Im lặng bông hoa tàn. Hoa rụng, nhưng mỗi cánh hoa rơi, bao nhiêu chân bướm vẫn còn lưu dấu… Đâu là cách chia tay mà không biệt ly? (Im Lặng). Rồi Cao Huy Thuần dẫn bài thơ Feuille morte (lá chết) của Hermann Hess, tác giả Siddhartha (Câu chuyện dòng sông, Phùng Khánh, Phùng Thăng dịch, Saigon 1966). Anh “phát hiện” một điều thú vị: ngôn ngữ Việt không ai nói “lá chết” mà nói “lá khô”, “lá rụng”. Quét lá rụng, quét lá khô, không ai nói quét lá chết như ngôn ngữ Pháp, Đức. Bởi vì, lá không bao giờ chết. Nó khô, nó rụng, rồi nó tái sinh thành lá búp lá non (Im Lặng).

“Chân lý” ấy do hai con sên của nhà thơ Jacques Prévert trên đường đi dự đám tang một chiếc lá chết, tựa là: “Bài ca hai con sên đi dự đám tang”.

Hai con sên đi đưa

Đám tang chiếc lá chết

Hai cái vỏ thì đen

Hai sừng băng trắng hết…

Hỡi ôi khi chúng đến

Mùa xuân đã đến rồi

Bao nhiêu lá chết xong

Tất cả đều lại sống

Hai bạn sên chúng ta

Ôi buồn ôi thất vọng…

Rồi hai chú sên rủ nhau đi Paris chơi! Mùa hè đã lại đến. Nắng đã rực vàng, tưng bừng ca hát khắp nơi.

Hai chú sên trở về

Với xiết bao cảm xúc

Lòng tràn ngập hân hoan

Và vô biên hạnh phúc…

Ôi, làm sao hai chú sên đi dự đám tang chiếc lá chết buồn xo giữa mùa thu… mà nay lòng lại tràn đầy hân hoan, hạnh phúc? Ấy bởi vì chúng là sên. Chúng “bò như sên”! Bò hết cả mùa đông, chưa kịp đến nơi mà xuân đã về rồi! “Bao nhiêu lá chết xong/ Tất cả đều lại sống…”.

Tiễn mùa thu thì gặp mùa xuân. Tiễn cai chết thì gặp cái sống. Tiễn ảm đạm thì gặp tưng bừng. Hai con sên chia tay mà chẳng biết biệt ly là gì! (Im Lặng)

Cao Huy Thuần nói nhỏ: “chẳng có cả khái niệm”. Phải, chúng chẳng có cả khái niệm. Dĩ nhiên, Cao Huy Thuần đang nói về Kim Cang đó! Khi ta mà biết sống “ly niệm”, khi ta không còn bám chấp vào khái niệm… thì “trí bất đắc hữu vô”, thong dong, tự tại.

Nhớ Huy Cận xưa có 2 câu thơ: Hạnh phúc rất đơn sơ/ Nhịp đời xin bước chậm…

Bước chậm. Chậm như sên càng tốt. Cái tội nghiệp của thời đại này là cái gì cũng tốc độ. Già cũng tốc độ. Để chỉ kịp khi “nhìn lại mình đời đã xanh rêu” (Trịnh Công Sơn).

Hình như có một nhà văn Pháp nào đó nói về chuyện đi bộ (promenade): đi không phải để đến, đi lang thang, dừng lại chỗ này chỗ nọ, ngắm hạt sương mai lấp lánh, nghe tiếng chim hót líu lo, tiếng dế mèn đang gọi người yêu, những cọng cỏ non vươn mình dưới nắng sớm… Thiệt khác với…Marathon!

Anh Cao Huy Thuần thân mến, nếu thỉnh thoảng ta mà vào được Tam muội Phổ Hiền, thì ta cũng có thể nhận ra cái “thiêng liêng” đó anh à, cái thiêng liêng từ “vô tưóng” – trong Như Lai tạng – bỗng “hiện tướng”… đùa vui giữa chốn Ta-bà đó thôi.

Trước mắt, hãy nhấp một ly cà phê thiêng liêng buổi sáng đã nhé.

Năm mới. Tháng Giêng. Mồng Một Tết.

Còn nguyên vẹn cả một mùa Xuân…

(Nguyễn Bính).

 

(28 Tết Quý Mão, 2023)

Đỗ Hồng Ngọc/Báo Giác Ngộ

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Gươm báu trao tay, Nghĩ từ trái tim

Thích Phước An: GIÓ BẤC CUỐI NĂM

19/01/2023 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

GIÓ BẤC CUỐI NĂM

Thích Phước An

(Chùa Hải Đức, Nha Trang)

 

Trong một lá thư viết cách đây hơn một năm (2021) gởi cho bác sĩ, nhà thơ

Đỗ Hồng Ngọc, GS Cao Huy Thuần đã nhắc đến Mark Epstein, là một bác sĩ

nổi tiếng của Mỹ, đã từng cộng tác trong ngành chuyên môn về phân tâm học

với Freud với Jung. Từ môi trường này, Epstein đã bắt gặp được tư tưởng Phật giáo,

ông say mê Phật giáo đến độ phải lặn lội qua Tây Tạng để học Phật. Và rồi cuối cùng

ông đã nổi tiếng cả hai, nghĩa là vừa là một bác sĩ giỏi lại vừa là một nhà Phật học uyên thâm,

và Giáo sư Cao Huy Thuần đã cho rằng, việc đó chẳng có gì lạ,

vì theo lời ông “Đức Phật của chúng ta đã chẳng phải là một thầy thuốc đó hay sao?”

Nhưng vì sao Đức Phật lại được tôn xưng là Y Vương? Và Ngài đã có

phương thuốc gì hay để chữa bệnh cho chúng sanh mà một thầy thuốc lỗi lạc như

Epstein phải rời thế giới văn minh tiến bộ của Tây Phương để lặn lội đến Tây

Tạng, một quốc gia sống biệt lập trên núi cao nhất thế giới, và gần như không bận

tậm gì mấy đến nền văn minh hiện đại của nhân loại để nghiên cứu Phật Giáo?

“Thầy thuốc chỉ chữa được cái đau mà không chữa được cái khổ, chữa được cái

bệnh mà không chữa được cái hoạn.

Phật là bậc Y Vương, giúp chúng sanh giải thoát mọi khổ đau, ách nạn.

Tại sao ta không học Phật?”

Đó là lời bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc được đặt trang trọng nơi trang đầu của tác

phẩm, có đầu đề rất khiêm tốn là Tôi Học Phật, dày khoảng 800 trang.

Chính vì thế, chúng ta thấy trong các bộ kinh Đại Thừa thì bác sĩ Đỗ Hồng

Ngọc có vẻ đã say mê nhất là Kinh Kim Cang. Vì sao? Nơi trang 211 tác phầm Tôi Học

Phật, bác sĩ đồng thời cũng là nhà nghiên cứu Phật học đã cho biết lý do vì sao ông

lại say mê Kinh Kim Cang:

“Hơn 2600 năm trước, Tu Bồ Đề – một đại đệ tử của Đức Phật , người “Giải

Không Đệ Nhất” đã đặt một câu hỏi có lẽ còn vang vọng đến ngày nay, giữa thời

đại toàn cầu hóa, thế giới phẳng này “Làm thế nào để an trụ tâm? Làm thế nào để

hàng phục tâm?” (Vân hà ưng trụ, Vân hà hàng phục kỳ tâm?) và câu trả lời của

Đức Phật hết sức giản dị “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, nghĩa là “ Đừng có trụ

vào đâu cả mà sanh cái tâm”

Trong Kinh Trung A Hàm, một bộ kinh quan trọng của Phật giáo Nguyên Thủy,

Đức Phật cũng đã giải thích rõ ràng hơn cho các các Tỳ Kheo – đệ tử của Ngài về

cách an trụ và hàng phục cái Tâm:

“Này các Tỳ Kheo, Tâm dẫn thế gian đi, Tâm bị nhiễm trước, Tâm sinh khởi mà tự

tại. Này các Tỳ Kheo, chính nó dẫn thế gian đi, chính nó làm nhiễm trước và cũng

chính nó khởi tự tại. Này các Tỳ Kheo, Đa Văn Thánh đệ tử không để Tâm dẫn đi,

không để Tâm nhiễm trước, không để Tâm tự tại. Này các Tỳ Kheo, không vâng

theo sự tự tại của Tâm mà Tâm tùy theo tự tại của Đa Văn Thánh đệ tử.”

Không còn hồ nghi gì nữa, chính cái nghề thầy thuốc đã ảnh hưởng sâu sắc

đến việc nghiên cứu Phật học của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, và chính ông cũng đã thừa

nhận như vậy, nơi trang 215 trong bài Vận Dụng Kinh Kim Cang “là một thầy

thuốc, tôi đâu dám lạm bàn những chuyện “thậm thâm vi diệu khác” – nghĩa là ông

chỉ muốn mọi người đọc ông rồi đem áp dụng vào đời sống hàng ngày, như chính

bản thân ông cũng đã làm như vậy để khởi đầu “ hàng phục” cái Tâm của mình,

như bài thơ có tên là Thiền Tập ông đã cho chúng ta biết :

Thả lòng toàn thân / Như treo móc áo / Ngồi xếp bằng tròn / Vai nghiêng lưng sổ /

Dõi theo hơi thở / Như mượn từ xa / Khi vào khi ra / Khi sâu khi cạn

Nhà thơ khuyên chúng ta cứ nỗ lực như vậy, một lúc nào đó sẽ đạt được kết quả:

Thân tâm thanh tịnh / Không còn ý tưởng / Chằng có thời gian / Hạt bụi lang

thang / Dính vào hơi thở / Duyên sinh vô ngã / Ngũ uẩn giai không / Từ đó thong dong/ Thỏng tay vào chợ.

 

Trong lời ngỏ mở đầu cho tác phẩm của mình, Đỗ Hồng Ngọc đã cho biết lý

do tại sao ông phải học Phật, và đặt biệt là vì sao ông phải bỏ thời gian, công sức

ngồi ghi lại những cảm xúc của bản thân về Phật học, vì theo tác giả “thuốc men

chỉ chữa được cái đau mà không chữa được cái khổ, chữa được “triệu chứng” bên

ngoài mà không chữa được “căn nguyên” sâu xa lớp lớp bên trong”. Trong khi đó,

theo Đỗ Hồng Ngọc “thời đại của chúng ta , con người dùng khối óc quá nhiều,

nhiều đến nỗi người ta luôn luôn ở trong tình trạng “muốn điên cái đầu”, và thực

vậy bệnh tâm thần ngày càng phát triển, tự tử , ma túy, stress,… ngày càng gia tăng

trong xã hội mà người ta luôn luôn bị quay cuồng, luôn luôn chạy đua với tốc độ,

tuổi trẻ, nhan sắc, thành đạt… Có lẽ đã đến lúc nghe lại tiếng nói của trái tim.

Tác giả Tôi Học Phật không quên nhắc lại bài thơ nổi tiếng của Quách Thoại

ở đầu thế kỷ XX, một hôm bất chợt nghe được “lời em ca thiên thu” từ một bông

hoa dại đứng bên bờ rào đã khiến cho thi nhân phải sụp lạy cúi đầu. Theo tác giả

Tôi Học Phật, lời ca đó không phải phát xuất từ bông hoa vô tri, vô giác của đóa

hoa kia, mà nó đã được phát ra từ trái tim sâu thẳm của thi nhân.

Tập sách nghiên cứu về Phật học của ông cũng như vậy, ông đơn giản chỉ muốn

giúp chúng ta nghe lại tiếng hát thiên thu từ trái tim mà từ lâu ta đã vô tình đánh

mất giữa một xã hội chỉ biết đề cao khối óc, nghĩa là chỉ biết tính toán hơn thua mà

thôi .

Từ tiếng thở dài xót xa của ông đối với thời đại ông đang sống, thời đại của

khối óc mà bỏ quên trái tim yêu thương đó, khiến tôi chợt nhớ lại những bài thơ

mà Đỗ Hồng Ngọc đã sáng tác vào khoảng thập niên 70 của thế kỷ trước, lúc ông

còn trẻ, còn hoài bão nhiều cho quê hương đất nước. Ở đây tôi chỉ đề cập đến Quê

Nhà, nơi ông đã chào đời mà thôi :

 

Anh thương nhớ quá làm sao nói

Gọi tên em vang động gốc cây già

(Quê Nhà)

 

Thi nhân ngậm ngùi nhớ lại những mùa xuân của tuổi thơ mà bây giờ đã quá xa

xôi:

 

Mùa Xuân mừng tuổi thơm tho áo 

Nắng cũng vàng phai ngày cũng xa

(Quê Nhà)

 

Khi xuân về Tết đến thì bông cúc, bông mai được trưng bày rực rỡ nơi các thành

phố giàu sang như Sài Gòn chẳng hạn, vậy mà tuyệt nhiên nhà thơ của chúng ta

không hề thấy Tết:

 

Đi giữa Sài Gòn

Phố nhà cao ngất

Hoa nở rực vàng

Mà không thấy Tết

(Gió Bấc)

 

Chỉ khi được trở lại quê nhà, nghe được gió Bấc thổi thì đối với ông mới thực sự

thấy được cái hồn của Tết :

 

Một sáng về quê

Chợt nghe gió Bấc

Ô hay Xuân về

Vỡ òa ngực biếc

(Gió Bấc)

 

Bởi vậy, cứ đến những ngày cuối tháng Chạp thì thi nhân chúng ta lại náo

nức muốn bỏ lại phố phường chật chội sau lưng lên đường trở về lại quê nhà. Nơi

đó có ngọn gió Bấc của mùa Xuân đang thổi như chờ đợi người con xa xứ:

 

Hình như gió Bấc lùa trong Tết

Những chuyến xe đò giục bước chân

 

(Mũi Né)

 

Chắc chắn có nhiều người ngạc nhiên, tại sao một bác sĩ có đời sống khuôn

thước, mẫu mực như Đỗ Hồng Ngọc mà lại có thể trở thành một nhà thơ? Điều này

đã được ông tâm sự với Ngô Nguyên Nghiễm trong tác phẩm Đồng Hành Cùng

Tôi xuất bản năm 2010. Xin được trích ra đây như lời kết cho bài viết ngắn này:

 

“Ai bảo Y khoa là cái Thực và thi ca là cái Huyễn? Y khoa vừa là khoa học vừa là

nghệ thuật! Đọc được một bài thơ hay ta chẳng phải đã rung cảm đến tận tâm cang

đó sao.”

 

(TPA)

Nha Trang, những ngày cuối năm 2022

Thuộc chủ đề:Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

Minh Anh: “Mời người lên xe, về miền quá khứ…”   

09/01/2023 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Mời người lên xe, về miền quá khứ…

 NGƯỜI ĐÔ THỊ:  11:54 | Thứ hai, 09/01/2023

https://nguoidothi.net.vn/moi-nguoi-len-xe-ve-mien-qua-khu-38056.html

Minh Anh

Đỗ Hồng Ngọc dành ra nhiều trang viết về những văn – nghệ sĩ đã lui từ lâu vào trong quá khứ, và việc ông làm như đang phủi đi lớp bụi trần gian, để làm lộ ra một thứ “vàng mười” như đúng bản chất…

Độc giả trong nước chắc hẳn đã từng quen thuộc với bác sĩ, nhà văn, nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc qua số lượng tác phẩm đồ sộ. Mới đây ông đã giới thiệu tập ghi chép – chân dung về những “người hiền” của nền văn chương, thi ca, nghệ thuật nước nhà, mang tên “Áo xưa dù nhàu…”

Mượn một câu hát từ bài Hạ Trắng của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: “Áo xưa dù nhàu/ Cũng xin bạc đầu/ Gọi mãi tên nhau…”, đây là tác phẩm điểm lại, cũng như “ôn cố tri tân” những gương mặt cũ, không chỉ của mỗi tác giả mà còn là của rất nhiều thế hệ người đọc. Có người đã khuất, có người còn đó, tựu trung lại một cuộc hành trình “gọi mãi tên nhau”.

Gồm 18 chân dung văn học trải dài từ Nguyễn Hiến Lê, Quách Tấn, Trần Văn Khê cho đến Trang Thế Hy, Cao Huy Thuần, Du Tử Lê… Đỗ Hồng Ngọc có cách ghi chép rất riêng, khai thác được những khía cạnh mà trước đến nay độc giả rất ít nhận thấy, và cũng phần nào mang tính chuyên môn của ông. Đó là, như một câu giễu trong bài Để người quân tử… hò ơ… về Nguyễn Hiến Lê, là cách phê bình “bệnh-lý-học”.

Những người thầy đầu tiên

Trong tập sách này, một Nguyễn Hiến Lê nặng lòng với Hà Nội, với sắc nước hương trời, với sương lam nhè nhẹ… đã được hiện ra. Ngoài cương vị là một học giả, Đỗ Hồng Ngọc cũng chia sẻ lại những trải nghiệm của mình khi được “đồng hành” cùng ông, lấy hình bóng ông làm động lực chính cho con đường sự nghiệp của mình.

Bác sĩ, nhà văn, nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc.

Một gương mặt khác cũng đóng góp thành công lớn cho tác giả là Ngu Í Nguiễn hay Nguyễn Hữu Ngư. Nếu trong tác phẩm gần đây của Nguyễn Trương Quý người ta biết ông cũng từng có thời hoạt động sôi nổi với Lưu Hữu Phước cũng như nhóm Hoàng Mai Lưu, thì trong bài Người điên thứ thiệt, một nhà thơ “điên” với những tiếng thét uất hận, cõi lòng thổn thức và nhiều hờn căm đã được kể ra.

Cả hai chân dung đều là những người nặng lòng cùng với nghệ thuật. Bên cạnh khát khao “toàn tâm toàn lực cung cấp món ăn tinh thần cho bạn đọc”, Đỗ Hồng Ngọc cũng tiết lộ rằng với Nguyễn Hiến Lê thì “trước tác đã được xây dựng một phần trên bệnh tật của ông”, đó là căn bệnh dạ dày kinh niên liên tục tái đi tái lại, để từ đó ta thêm yêu quý một con người lớn của văn hóa nước nhà.

Những câu chuyện vãn, các chuyện “trà dư tửu hậu” cũng được ông kể vô cùng gần gũi và lắm chân thành. Đó là một Trang Thế Hy – “ông già khó tính”, “người tình thoáng chốc của văn chương”, nhưng khi đến nhà trong bộ pyjama vẫn nói với nhau về Francoise Sagan, về Cao Hành Kiện.

Đó cũng còn là họa sĩ Dương Cẩm Chương, hậu duệ của nhà yêu nước Dương Bá Trạc và “định mệnh” có phần tương đồng với chính tác giả, khi y nghiệp gắn liền học nghiệp và còn nuôi mãi khát vọng vươn tới cái đẹp thanh cao.

Hành trình tìm lại

Đỗ Hồng Ngọc cũng dành ra nhiều trang viết về những văn – nghệ sĩ đã lui từ lâu vào trong quá khứ, và việc ông làm như đang phủi đi lớp bụi trần gian, để làm lộ ra một thứ “vàng mười” như đúng bản chất. Đó là Võ Hồng, nhà văn mà mỗi lần đọc lại thấy lòng lành hẳn ra. Đó là con người với nỗi “cô đơn uy nghi”, cũng như thi sĩ Quách Tấn, người giờ đã quên những chuyện mới đây, nhưng vẫn ghi khắc lại những chuyện xưa cũ, với tính kỹ càng cũng như nghiêm khắc trong sáng tạo văn chương.

Ông cũng mải miết đi tìm những chân dung khác, những người từ bỏ hào quang để lùi vào sâu trang viết của mình. Đó là nhà thơ Huyền Chi – người đứng đằng sau bài ca phổ thơ Thuyền viễn xứ của Phạm Duy và lý do vì sao bà chưa một lần thật sự xuất hiện ra trước công chúng. Đó cũng là “nhà thơ” Võ Phiến, nhà văn Nguyễn Bắc Sơn hay Cao Huy Thuần… những người mà nghệ thuật viết đã hòa cùng với thiền học, làm nên tác phẩm có nhiều chiều sâu.

Đó cũng là chân dung khác, như cuộc gặp gỡ giáo sư Trần Văn Khê ở tận nước Pháp, với dáng vẻ tự nhiên, nếp sống mộc mạc và đầy chân tình. Ở căn chung cư trên tầng 9 ấy, dù bị bao vây bởi đủ thứ bệnh nhưng ông vẫn đầy xúc cảm.

Và bởi chỉ có “tình thương để lại đời”, nên những nhà thơ như Tôn Nữ Hỷ Khương hay Khánh Minh cũng đã xuất hiện trong tập sách này, với thơ cũng như hơi thở, không cố gắng, không lên gân, không chứng tỏ, không màu mè…

Bìa cuốn Áo xưa dù nhàu…


Đỗ Hồng Ngọc với tính hóm hỉnh cũng kể những chuyện vô cùng thú vị, như cố “giải chữ” của Phạm Thiên Thư, hay tìm một Huy Cận khác trong cuộc gặp gỡ tình cờ. Rốt cuộc thì “tha” trong câu “Mười con hạc trắng về tha” là có nghĩa gì? Và liệu ta có bao giờ biết đến có một Huy Cận có lúc bẽn lẽn, có lúc quạu quọ nhưng cũng là một con người hoàn toàn khác biệt mỗi khi bình thơ, đắm mình vào trong dòng chảy thơ ca?

Những ghi chép của Đỗ Hồng Ngọc chứa đựng cả bầu thương mến dành cho người hiền trong cõi đời này. Đó là những câu chữ gần gũi mà không thiếu đi những cảm xúc riêng. Đọc Đỗ Hồng Ngọc ta còn u sầu bởi mùa thu Boston, với bài Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư là dùng để nghe, hay để thấy Du Tử Lê trong nhiều dáng vẻ, từ hoang mang, khắc khoải cho đến mềm yếu, đam mê và rất lãng mạn.

Tập sách cũng chứa đựng nhiều những tư liệu quý, là những bức ảnh, là những bức họa được ký họa nhanh đôi khi trên mẫu giấy ăn, đôi khi trên chiếc phong bì… nhưng lại có đủ chiều sâu để ta nhìn thấy những “con người cũ” trong góc nhìn mới, riêng tư hơn nhưng cũng độc đáo hơn.

Với Áo xưa dù nhàu…, tác giả Đỗ Hồng Ngọc đã đưa chúng ta “đi lại từ đầu” trong cuộc gặp gỡ với những yếu nhân, những con người lớn của đất nước mình. Từ đó có những câu chuyện, có những bài học cùng nhiều triết lý giản đơn trong cuộc đời này. Bởi đời như một “chiếc lá thu phai”, nên hãy thả mình để “thu xếp lại” và rồi để còn “gọi mãi tên nhau”.

Minh Anh

Thuộc chủ đề:Ghi chép lang thang, Góc nhìn - nhận định, Vài đoạn hồi ký

Mấy ngày gần Tết… Tây!

31/12/2022 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Thư gởi bạn xa xôi

Mấy ngày gần Tết… Tây!

Tuổi già. Sức yếu. Lâu nay vẫn nghe người ta nói vậy mà chẳng mấy tin. Bây giờ thì già thiệt, yếu thiệt rồi mới biết. Vài tháng cuối năm, trời bỗng trở lạnh bất thường, vùng nhiệt đới, đang 32-34 độ C bỗng tụt xuống 17-18 độ. Thiên hạ ho sù sù, cảm- cúm tùm lum, không biết covid hay kitvô… gì đó cứ liên tục phát triển. Mình cũng không thể không hòa nhập với mọi người.

Tuy vậy, lâu lâu cũng trốn đi nơi này nơi khác một chút và ghi nhân vài hình ảnh gởi bạn coi vui.

Thân mến,

Đỗ Hông Ngọc.

 

Ngày 23.12.2022:

 

Nhân có TS Nguyễn Tường Bách ở Đức về, cùng nhóm bạn đến thăm Thầy Viên Minh ở Chùa Bửu Long, quận 9.

Ngày 24.12.2022

Đường Sách cạnh bên Nhà Thờ Đức Bà Saigon.

 

 

Noel rồi! Đường Sách cạnh Nhà thờ Đức Bà cũng đông vui, nhộn nhịp

Với nhà thơ Lê Minh Quốc tình cờ gặp ở Đường Sách… cùng chia sẻ cái bánh nướng thơm bên vệ đường’

 

 

 

 

 

 

Ngày 26.12.2022

Một ảnh cũ trên FB của Ngô Tiến Nhân.

Bàn tròn “bỏ túi” tại nhà Ngô Tiến Nhân

 

 

 

 

……………………………………………………………………………………………..
FB của Ngô Tiến Nhân
mấy dòng về buổi “Thảo luận nhóm “,  ngày 26.12. 2022.
Thế giới Hoa nghiêm
và Thế gian lưới trời… ai dệt ?
Tam Nhân Đồng Hành bữa nay hội ngộ và mở đầu cuộc “ tao ngộ chiến” do BS ĐHN  “ đề dẫn “ với chủ đề Thế giới quan Phật giáo !
Nhập cuộc đầu tiên là TS NTB trình bày tóm tắt các luận điểm trong Lưới trời ai dệt ( cuốn tiểu luận về Triết học Phật giáo anh đã xuất bản trước đây ) nói rõ cách thức chúng ta “ nhìn “ và “ thấy “ vũ trụ và Thế gian này !
Câu chuyện dẫn tới thuyết trình của TS Lê Mạnh Thát về Thế giới Hoa nghiêm và Khoa học lượng tử, về cuốn sách cuối đời của nhà vật lý học lừng danh Stephen Hawking : Grand design without designer và trùng hợp ( không ngẫu nhiên ) Hoa nghiêm cũng là bộ kinh Nhóm học Phật Xá lợi đang học !
Thật là… trùng trùng duyên khởi !
Và không thể không bàn đến Thiền Định
Bản chất ?
Phương pháp ?
Con đường ?
Với góc độ của Phật học, Khoa học Thần kinh…
Tạm nghỉ bằng bữa cơm chiều ngon miệng .
Rồi trao đổi chia sẻ trái nghiêm cá nhân trong quá trình Tu và Học .
Thời gian cứ trôi rồi cũng phải… người về lòng chẳng muốn về …
Ôm tạm biệt NTB nói : riêng chiều nay đã xứng đáng mua vé từ Đức về !
Vậy “ lãi “ to rồi !

(Ngô Tiến Nhân)

 

 

Thuộc chủ đề:Ghi chép lang thang, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

“ÁO XƯA DÙ NHÀU…”

13/12/2022 By Bac Si Do Hong Ngoc 2 Bình luận

 

“ÁO XƯA DÙ NHÀU…”

ĐỖ HỒNG NGỌC

 

“ÁO XƯA DÙ NHÀU…”
Đỗ Hồng Ngọc
(tháng 12.2022)

 

Đỗ Hồng Ngọc với Áo xưa dù nhàu…

Trần Thị Nguyệt Mai

 

Được biết những năm sau này, tác giả Đỗ Hồng Ngọc chọn “về thu xếp lại” khi một “chiều hôm thức dậy / ngồi ôm tóc dài / chập chờn lau trắng trong tay”.[1]

Áo xưa dù nhàu… là tựa tác phẩm mới nhất của ông do Phanbook xuất bản với mười tám chân dung:

 

  1. Nguyễn Hiến Lê, “… để cho người quân tử… hò ơ…”
  2. Võ Hồng, “nỗi cô đơn uy nghi”
  3. Cậu tôi, Ông Ngu Í Nguiễn Hữu Ngư, “người điên thứ thiệt”
  4. Giáo Sư Trần Văn Khê, “Đời thường…”
  5. Dương Cẩm Chương, “Kẻ lữ hành không mệt mỏi của đường dài”
  6. Thăm nhà văn Trang Thế Hy “… thì cứ hỏi cuộc đời”
  7. Thi sĩ Quách Tấn, “đọng bóng chiều”
  8. Gặp gỡ với Nhà thơ Huyền Chi của Thuyền viễn xứ
  9. Tôn Nữ Hỷ Khương, “Chỉ có tình thương để lại đời”
  10. Phạm Thiên Thư, “Như Lai thường trụ trên tà áo xuân”
  11. Nhớ Tiếng thu giữa Boston
  12. Một hôm, “có chàng Huy Cận”
  13. Võ Phiến, “Cuối cùng là sự Mộc mạc”
  14. Nguyễn Bắc Sơn… “Thy Đạo”
  15. Trần Vấn Lệ “may mà còn nhớ thương”
  16. Du Tử Lê “tung cánh vàng xưa hạc vút bay”
  17. Khánh Minh “còn chút để dành”
  18. Cao Huy Thuần, “Người khuân đá”

 

Ngoài là bác sĩ, Đỗ Hồng Ngọc còn là một nhà thơ (Đỗ Nghê), một họa sĩ của những bức ký họa được bạn bè yêu thích. Nên những chân dung được ông “vẽ” lại theo cách rất riêng không giống với một ai (unique), bằng đôi mắt của người thầy thuốc yêu nghề, chọn lọc những góc cạnh độc đáo của họa sĩ và trải lòng với tâm cảm của nhà thơ, nên có những bài viết đẹp như thơ mà “Nhớ Tiếng thu giữa Boston” là một.

 

Với học giả Nguyễn Hiến Lê, người đã viết nên những tác phẩm “kinh điển” làm kim chỉ nam cho tác giả từ thuở thiếu niên (Kim chỉ nam của học sinh, Tự học để thành công, Rèn nghị lực…) thì “Các nhà phê bình sau này nhắc đến sự nghiệp ông mà quên không nói đến sức khỏe ông là một điều thiếu sót lớn! Thực không ai ngờ rằng một người viết hàng trăm tác phẩm như vậy lại là một người đau yếu liên miên… Nhiều lúc tôi ngờ rằng sự nghiệp trước tác của ông một phần xây dựng từ những bệnh tật của ông. Mắc bệnh đau bao tử, một thứ bệnh đòi hỏi phải sống, phải làm việc có tiết độ, ông chú trọng nhiều đến tổ chức, viết Tổ chức công việc theo khoa học, Tổ chức gia đình, v.v… Để có thể tự chữa thứ bệnh tâm thể (Psychosomatique) đó của mình, ông viết Sống 365 ngày một năm, Sống theo sở thích, Chấp nhận cuộc đời, v.v… Những lúc buồn phiền, lo lắng, ông viết Quẳng gánh lo đi, Trút nỗi sợ đi, Xây dựng hạnh phúc… Những lúc bệnh bớt, thấy khỏe khoắn, hăng hái trở lại, ông viết Thẳng tiến trên đường đời, Tương lai trong tay ta… Và khi mệt mỏi, căng thẳng ông xả hơi bằng Tô Đông Pha, Sống Đẹp…”.

Nhà văn Võ Hồng được ông diễn tả: “Quạnh hiu. Hoang vắng. Cô đơn. Không muốn ‘độc cư’ mà thành độc cư. Với một tâm hồn vô cùng nhạy cảm, ông héo hắt dần với tháng năm”.

Còn “Jáo sư, kí jả kông chuiên ngiệb” (Giáo sư, ký giả không chuyên nghiệp, theo danh thiếp, viết bằng lối chữ của ông) Ngu Í Nguiễn Hữu Ngư, là cậu và cũng là người đã đưa tác giả lần đầu tiên đến trường học: “Tôi thấy cậu ốm nhom, tóc hớt ngắn, quần rộng thùng thình, sơ-mi sạch sẽ nhưng nhàu nhè, chỉ có đôi mắt là sáng rực sau cặp kiếng cận tròn, gọng đồi mồi. Bộ ria mép che bớt cái miệng với hàm răng hơi hô, nhưng nhờ hay cười nên cũng có duyên, mũi hơi quặp, chịu đựng cặp mắt kiếng khá nặng, tay thì ôm một chồng sách báo, đi nghiêng nghiêng tất tả”.

Giáo sư Trần Văn Khê khi 89 tuổi: “Ông hãy còn rất trẻ, nhiệt tình, năng động và làm việc không ngừng. Ông nói ông vẫn luôn rung động trước ‘cái đẹp’. Tôi chắc ông hẳn tủm tỉm cười, bắt chước Nguyễn Công Trứ: ‘Bảy mươi năm trước, qua mới… mười chín tuổi!’. Bởi ông vẫn nói cười rổn rảng, trí nhớ vẫn tuyệt vời, sẵn sàng bay đi khắp nơi để thuyết trình, để ca hát, để ngâm thơ… Thực ra thì ông có đủ các thứ bệnh trên đời, nhưng ông biết sống chung ‘hòa hợp’ với nó. Nào phổi, nào thận, nào tim, nào huyết áp, nào khớp, nào tiểu đường… thứ nào cũng có, từ hồi còn nhỏ đến bây giờ. Bệnh tật sống chung với ông làm như hai bên dựa vào nhau, cộng sinh với nhau để ‘hai bên cùng hưởng lợi’! Tôi tưởng các nhà y học có thể làm một nghiên cứu về ông, để biết thế nào là chất lượng cuộc sống của một bệnh nhân. Có lẽ nó khác xa với cách đánh giá của thầy thuốc nếu chỉ dựa vào các xét nghiệm vô hồn!”

Viết về bác sĩ / họa sĩ Dương Cẩm Chương, “Ông vẫn miệt mài đi, miệt mài vẽ, vẫn viết thư và vẫn làm thơ ở tuổi 93 như thế. Sức khỏe vẫn dẻo dai. Trí nhớ vẫn tuyệt vời. Thật lạ lùng! Như không hề có tuổi. Trái tim vẫn luôn xao động, luôn đắm đuối, say mê, luôn yêu người, yêu đời, yêu thiên nhiên”.

Còn nhà văn Trang Thế Hy thì “Ốm nhom ốm nhách trong bộ pyjama lụa lùng nhùng đặc sệt Nam bộ. Tóc bạc lênh đênh chuồi về phía sau, dồn cái trán rộng về phía trước, miệng móm mém, mũi cao, thẳng, mắt sâu và sắc như một thiền sư khổ hạnh”. Đặc biệt cách ông hút thuốc, “Nhưng lần này tôi bỗng thấy mê một người hút thuốc lá. Mê thiệt. Thấy cái cách ông ngậm điếu thuốc chếch qua một bên khóe miệng, thấy cái cách ông khum khum đôi bàn tay ấp ủ ngọn lửa như một bông hoa tự dưng thấy lòng xao xuyến. Một người gần 90 tuổi, ghiền thuốc lá từ ngày còn trẻ, ngồi bên cạnh mình, nhẹ nhàng rút một điếu, nâng niu đưa lên miệng, rồi ân cần xoay xoay chiếc hộp quẹt trong tay chuẩn bị bật lửa… có cái gì đó như một nghi lễ tôn giáo, khiến tôi chỉ biết ngồi im, lặng ngắm, không dám hó hé”.

Tả nhà thơ Quách Tấn, “Cái gọng kính trễ xuống sống mũi, đôi mắt sâu sâu như cũng mỉm cười sau hai lưỡng quyền cao, nhưng chưa cao bằng cái trán rộng và càng rộng nhờ cái đầu sói, tóc điểm sương”.

Còn với nhà thơ Huyền Chi, “Cô đẹp quá. Sao thời đó, một người phụ nữ 7 con, 35 tuổi mà dịu dàng, đoan trang, tươi mát đến vậy, khiến ngay cả nhà văn Nguyễn Đông Thức cũng kêu lên: ‘Giá mà hồi đó, sanh sớm nửa thế kỷ được gặp cô cũng không thể không mê!’”.

Đặc biệt với Nữ sĩ Tôn Nữ Hỷ Khương, không một lời tả nhan sắc, nhưng tác giả đã dùng chính thơ của cô để thể hiện (thơ là người, có phải vậy không?):

“Còn gặp nhau thì hãy cứ vui / Chuyện đời như nước chảy hoa trôi / Lợi danh như bóng mây chìm nổi / Chỉ có tình thương để lại đời…”.

Ta có thể hình dung đó là người có nụ cười tịnh lạc, tình yêu thương luôn rộng mở với tha nhân.

***

Nhưng tôi thích nhất ông diễn tả nhà thơ Huy Cận. Khi mới gặp thì: “Bảy giờ rưỡi tối, cậu Lê Phương Chi đến với một ông già lùn mập, trông giống như Bất Giới hòa thượng, ì ạch leo lên cầu thang”. Đến khi được hỏi, “Huy Cận biết yêu vào lúc mấy tuổi”: “Một ông già Tết này đã 78, bụ bẫm, tay chân ngắn ngủn, mũi hỉnh, trán dẹt, môi dưới dài hơn môi trên, tóc lưa thưa bạc, cổ có nọng, bụng to quá cỡ, quần chật cứng, túi phình như con cá phồng mang, thắt cái cà vạt hơi chật, to bản, đánh một vòng cung quanh bụng, ngồi dựa ngửa trên ghế salon không thoải mái lắm. Ông phì cười vì câu hỏi ngộ nghĩnh của Lê Phương Chi. Và nụ cười làm ông bỗng có vẻ gì trẻ thơ ngơ ngác như chàng Huy Cận thuở nào. Tôi chăm chú nghe. “Đâu hồi tám tuổi”, ông nói. “Tám tuổi à?”. “Phải, nhưng đó chỉ là mối tình bâng quơ thôi mà”. “Nhưng người đó là ai vậy? Bây giờ người đó ở đâu?”. Lê Phương Chi tấn công tới tấp. “À, một cô gái quê, ở nông thôn…”. Tôi lại giật mình nghe Lê Phương Chi hỏi: “À, còn mối tình của Huy Cận và Xuân Diệu? Có phải là…”. “Không không, Tô Hoài viết bậy đó”. Huy Cận có vẻ quạu. “Tôi với Xuân Diệu là tình bạn thân thiết, không phải tình trai, đồng tính luyến ái chi đâu”. Tôi lại quan sát ông. Cái ông già cũng ngộ. Lúc bẽn lẽn, lúc quạu quọ khá dễ thương dù ngó bên ngoài thấy ông giống Bất Giới hòa thượng, nhưng trong ông như lại có Nghi Lâm tiểu sư muội.” Rồi khi đọc bài thơ Huế ơi của Đỗ Nghê, “ông lại ư ử. Hay. Câu này hay. ‘Một ngày Đập Đá nghiêng vai biếc người’… ‘Một ngày Vỹ Dạ trăng soi, một ngày Đập Đá nghiêng vai biếc người’. Ngày thì trăng không soi được rồi, mà tại sao lại biếc người? Không phải chỉ là cái quán cà phê bên dòng nước xanh um bóng cây kia mà chính là, à phải rồi, chính là con thuyền ai đó có ‘chở trăng về kịp tối nay’ và vườn của ai kia lá có còn mướt ‘xanh như ngọc’. Vâng, xanh nên biếc và người nên ngọc. Ông Huy Cận này ghê thiệt. Quả là danh bất hư truyền. Ông đọc và cảm nhận thơ tinh tế không thể tưởng. Mới vừa thấy ông là Bất Giới hòa thượng đó bỗng đã thành Nghi Lâm tiểu sư muội, rồi bây giờ lại là Lệnh Hồ huynh đệ, chỉ dùng kiếm ý mà không cần kiếm chiêu”.

***

Rồi còn có biết bao điều được tác giả chia sẻ rất thú vị.

Chẳng hạn: “Phong thái ông (Nguyễn Hiến Lê) là phong thái của một nhà nho, giao tình dù thật thắm thiết thì bên ngoài vẫn có vẻ hờ hững, khác xa với cái vồn vã ồn ào của người Tây phương. Chính cái ánh mắt ông và cái bắt tay chặt chẽ của ông đã bộc lộ tâm tình ông nhiều hơn… Ông không thích đổi thay… Quen biết ông mới thấy ít có ai yêu tiếng mẹ như ông. Muốn cho ông ‘thao thao bất tuyệt’ thì cứ việc nói đến tiếng Việt với ông. Ông chịu không nổi khi thấy một chữ bị dùng sai”.

Hay “Cuộc đời cậu (Nguiễn Ngu Í) nhiều truân chuyên, tài hoa nhưng mắc bệnh không thể chữa được. Tuổi lớn, cơn điên ngày càng nhặt. Có những đợt cậu nằm Dưỡng trí viện Biên Hòa dài ngày, tưởng đã không qua khỏi. Có lần cậu nằm giữa xa lộ cho xe Mỹ cán, nhưng xe chở thẳng vào Biên Hòa. Có lần trốn viện, bắt đom đóm làm đèn đi trong đêm vì thời điểm giới nghiêm. Cậu làm thơ thật nhanh, thật dễ dàng ngay trong lúc lên cơn. Cậu chủ biên tập Thơ điên thứ thiệt như để phản đối những người giả điên thời đó. Rồi xuất bản tập Qê hương để nói về quê mẹ và nơi chôn nhau cắt rún của mình ở Tam Tân…”. Với mong muốn lúc rời khỏi cõi đời: “Cậu ước ao được thả trôi trên một chiếc thuyền nhỏ, đục lủng đáy, nhét nút lại, rồi để thuyền trôi lênh đênh trên biển Thái Bình Dương, để cậu được nhìn trời mây nước cho thỏa thích, rồi rút nút cho thuyền chìm dần và chết trong bụng cá, cho ‘Ngư về với Cá’.”

Hoặc thi sĩ Quách Tấn chia sẻ: “Nhiều bài tôi ấp ủ hằng chục năm. Bài Đêm khuya nghe quạ kêu 12 năm, bài Ấp ủ 15 năm. Trong một bài mà có một chữ không đạt là tôi bỏ. Tản Đà có lần định sửa một chữ trong một bài thơ của tôi mà không tìm ra chữ nào ổn, trong ba năm, đành thôi… Tôi dịch thơ chữ Hớn của Nguyễn Du và Thái Thuận, thi sĩ đời Lê Thánh Tôn… Có ai ngờ là Nguyễn Du đã từng sống lữ thực hằng chục năm? Có ai ngờ con Nguyễn Du đói, Nguyễn Du đau trong nhiều năm mà không có thuốc men? Ngay cả vấn đề Nguyễn Du có phải là trung thần của nhà Lê không cũng cần phải đặt lại. Những điều này trong các tập thơ chữ Hớn của ông có nói rõ. Về Nguyễn Trãi và Thái Thuận cũng có lắm điều lý thú bất ngờ”.

Đặc biệt, Nhà văn Trang Thế Hy nói về “tóc bánh bèo” (mà có lẽ ngày nay hiếm người biết) trong bài thơ Đắng và Ngọt thật cảm động của ông được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc với tựa Quán bên đường: “‘À, mà ‘tóc bánh bèo’ là tóc làm sao anh Tư? Có phải ba vá không?’. ‘Không, không phải ba vá. Tóc bánh bèo, này Tùng’ – ông bỗng gọi – ‘Tùng biết tóc bánh bèo không?’ Tùng nói: ‘Dạ có phải cạo trọc, để lại một chùm đằng sau ót, tròn tròn…’. Ông cầm cái chén lên, vo vo theo miệng chén bảo: ‘Đúng rồi, cạo trọc, để lại một miếng tròn như vầy, nhưng ở giữa phải có một chùm tóc như cái nhưn bánh bèo vậy!’”.

***

Nơi đây chỉ xin chỉ trích một số ít chân dung và chia sẻ để bạn còn tự khám phá khi đọc sách. “Mai sau dù có bao giờ…” vẫn sẽ còn đây những kỷ niệm của một thời. Như trong bài Hạ trắng của Trịnh Công Sơn với tiếng hát Khánh Ly thật da diết: ‘Đời xin có nhau / Dài cho mãi sau / Nắng không gọi sầu / Áo xưa dù nhàu / Cũng xin bạc đầu / Gọi mãi tên nhau…’. Vâng, một ngày áo không còn thẳng nếp, vạn vật đổi thay, nhớ thuở xưa xa, vẫn mong “của tin gọi một chút này làm ghi”…

 

Trần Thị Nguyệt Mai

Đầu Thu – 03/10/2022

[1] Trịnh Công Sơn – Chiếc lá thu phai.

Thuộc chủ đề:Ghi chép lang thang, Góc nhìn - nhận định, Vài đoạn hồi ký

Nếu không ra ngoài được thì hãy đi… vào trong

11/12/2022 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

 

Nếu không ra ngoài được thì hãy đi… vào trong

THANH HƯƠNG
Báo Lao Động Cuối Tuần
Chủ nhật, 11/12/2022 08:04 (GMT+7)
https://laodong.vn/lao-dong-cuoi-tuan/neu-khong-ra-ngoai-duoc-thi-hay-di-vao-trong-1125524.ldo
***
Trong cuốn sách “Buông”, ngoài những trải nghiệm về chuyện học Phật của bản thân, tác giả – bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc còn chia sẻ với độc giả về vai trò của thiền định như là phương tiện rốt ráo giúp mọi người biết “dừng lại”, “thôi đi”, giúp ta nhận ra những “điên đảo mộng tưởng”, để từ đó biết sống cân bằng hơn, có sức khỏe tốt hơn, thảnh thơi và hạnh phúc hơn.
Nếu không ra ngoài được thì hãy đi... vào trong
Tác giả – bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Ảnh: Nhật vật cung cấp

Trong đời sống thường ngày, chúng ta cũng có thể có những phút “giác ngộ” – đời là vô thường, là bóng câu qua cửa sổ, là bọt bèo, là giấc mộng… Nhưng ta chỉ giật mình “ngộ” một chút rồi quên, rồi “trôi lăn” theo những tham sân si, những quấn quýt chằng chịt vô cùng hấp dẫn không sao thoát nổi.

Một góc nhìn hài hước, độc đáo của Đỗ Hồng Ngọc

Trong bức thư Giáo sư Cao Huy Thuần gửi cho tác giả Đỗ Hồng Ngọc trích ở đầu tác phẩm “Buông” có viết: “Tiên học Phật, hậu học cái gì cũng được…”. Nhận xét hóm hỉnh này đã khái quát tinh thần chung của cả cuốn sách, đó chính là tâm an lạc là điều thiết yếu cần phải có trước tiên, những cái khác tự khắc sẽ đến sau.

Với “Buông”, tác giả – bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đã giải thích ngắn gọn những vấn đề phức tạp bằng cách tiếp cận hài hước, dí dỏm nhưng đem lại cho người đọc nhiều bất ngờ. Điều này thể hiện rõ nhất qua bài thơ viết ngay đầu sách là “Biết rồi còn hỏi!”:

“Tôi ngồi trước tượng Phật

Viết lăng nhăng mỗi ngày

Để khi nào bí thì hỏi 

Phật tủm tỉm cười

Biết rồi còn hỏi!”

Chỉ với 5 câu thơ ngắn gọn, trực tiếp vào thẳng vấn đề, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đã có thể gửi gắm một thông điệp rất ý nghĩa là: Câu trả lời đã có sẵn trong mỗi người, không phải ở một đấng tối cao nào. “Viết lăng nhăng” ở đây không phải là xem nhẹ những gì mình viết mà là không đặt nặng những vấn đề bên lề, những kết quả hay hào quang có thể đến từ việc viết. Viết không phải để làm việc. Viết là để vui, cũng như bất cứ hoạt động an dưỡng tinh thần nào khác.

Dung lượng ngắn gọn, truyền tải được nhiều thông điệp ý nghĩa

Cũng trong bài thơ “Biết rồi còn hỏi!” ở ngay khổ tiếp theo, tác giả – bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc còn nhìn thấy một vấn đề phổ quát khác vốn là nguyên cớ gây ra cơn phiền muộn cho nhiều người. Với góc nhìn độc đáo, ông nhận ra bài học cuộc đời ở ngay chính tấm biển hiệu mà có lẽ nhiều người qua đường chẳng mấy ai chú ý:

“Sáng ra đường phố

Từng bước như đi dạo

Không thấy nở hoa sen

Ngước mắt nhìn lên

Một tấm biển to chữ đỏ

Đồ ngu cao cấp

Cửa hàng Fashion

Rơi dấu hỏi…” 

Phát hiện này của ông có thể khiến người đọc dễ dàng bật cười nhưng đồng thời cũng nhận ra được thông điệp ngầm ẩn rằng: Vật chất chỉ là chuyện phù du. Tất cả những bài viết còn lại trong “Buông” cũng đều ngắn gọn như thế với tinh thần “ý tại ngôn ngoại” vốn kiệm lời của thiền.

Do đó, dù “Buông” là tập hợp 15 bài viết xen kẽ thơ của tác giả – bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, nhưng sách tổng cộng chỉ có 141 trang, thích hợp cho cả người bận rộn đọc giữa những khoảng thời gian nhàn rỗi hiếm hoi.

Sách “Buông” do Nhà xuất bản Thế giới và Phương Nam Book liên kết phát hành. Ảnh: Phương Nam Book

Sách “Buông” do Nhà xuất bản Thế giới và Phương Nam Book liên kết phát hành. Ảnh: Phương Nam Book

Cách tiếp cận đa dạng về thiền

Ở tác phẩm “Buông”, tác giả – bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc cũng có một bài viết ghi lại những suy tư vào thời kỳ dịch bệnh căng thẳng trong năm vừa qua. Trước tình cảnh không thể đi ra ngoài vì giãn cách, ông điềm nhiên nhận thấy có một giải pháp rất đơn giản mà hiệu quả là: “Nếu không ra ngoài được thì hãy đi… vào trong”.

Thoạt tiên, người đọc có thể bật cười nhưng sau đó phải gật gù trước cách ông dùng thiền để giải thích và mở rộng vấn đề. Thông qua đó, ông cho rằng, nếu ta có thể sống với tâm tĩnh lặng thì dù bên ngoài có biến động thế nào, ta vẫn sẽ an nhiên tự tại.

Không chỉ có góc nhìn hóm hỉnh, với nền tảng kiến thức sâu rộng, tác giả – bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc còn có thể giải thích một vấn đề ông đưa ra bằng nhiều hướng tiếp cận đa dạng, phong phú. Đặc biệt, ông vừa bộc lộ quan điểm bản thân, vừa tổng hợp được cả những quan điểm từ cổ chí kim để giới thiệu đến độc giả.

Ví dụ, trong bài viết “Mùa Cô-vi: Nhắc chuyện Độc cư/ Thiền định/ Kham nhẫn/ Tri túc”, ông vừa trích dẫn bài kệ của Trần Nhân Tông, vừa nêu ra liệu pháp dùng thiền để chữa trị cho căn bệnh thời đại ngày nay là S.A.D (viết tắt của Stress: căng thẳng; Anxiety: lo âu; Depression: trầm cảm). Chính vì vậy, những ý kiến của ông trong mỗi bài viết đều mang tính thuyết phục cao mà đọc vẫn nhẹ nhàng dưới cách diễn đạt hài hước.

Một điểm đặc biệt nữa trong cuốn sách “Buông” chính là những tranh minh họa của họa sĩ Lê Ký Thương. Ông từng có thời gian dài sống ở chùa, ăn chay trường nên vô cùng thấm nhuần tinh thần thiền và Phật giáo. Chính vì vậy, toàn bộ tranh minh họa Lê Ký Thương vẽ cho “Buông” với những đường nét tròn, cách điệu đơn giản, tạo cảm giác thư thái, nhẹ nhõm khi ngắm nhìn đã truyền tải trọn vẹn tinh thần mà tác giả – bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc muốn gửi gắm đến độc giả qua cuốn sách này.

………………………………………………………………………………………

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc sinh năm 1940 tại Phan Thiết, Bình Thuận. Ông tốt nghiệp tiến sĩ y khoa quốc gia, Y khoa Đại học đường Sài Gòn năm 1969. Ông đã xuất bản hơn 30 tác phẩm với nhiều chủ đề như viết cho tuổi mới lớn, viết cho các bà mẹ, tùy bút, tạp văn, thơ… Nhiều tác phẩm của ông được công chúng yêu thích gồm “Già ơi chào bạn”, “Gió heo may đã về”, “Thư gửi người bận rộn”…

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Thiền và Sức khỏe

Phan Chính: ĐỖ HỒNG NGỌC, Thơ mãi với đời và bảng lảng trên những trang văn

04/12/2022 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

ĐỖ HỒNG NGỌC

Thơ mãi với đời và bảng lảng trên những trang văn
______________________.
*PHAN CHÍNH
Văn Nghệ Bình Thuận, số 230, 11-12/2022
          Nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc, sinh năm 1940 tại La Gi, tỉnh Bình Thuận. Từ nhỏ theo học trường Phan Bội Châu (Phan Thiết). Tốt nghiệp Tiến sĩ y khoa quốc gia Đại học đường Sài Gòn (1969). Từng tu nghiệp Y tế công cộng tại Đại học Harvard Hoa Kỳ (1993) và Giáo dục sức khỏe CFES tại Pháp (1997)- Nguyên Giảng viên thỉnh giảng Đại học Y khoa Sài Gòn và Trưởng bộ môn Khoa học hành vi- Giáo dục sức khỏe Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch.
            Với những tác phẩm Văn học, Y học, Phật học,Thiền định và đặc biệt về thơ của Đỗ Nghê/ Đỗ Hồng Ngọc từ hơn 60 năm qua đã khẳng định tên tuổi của anh. Đó cũng là niềm tự hào với vùng đất đã sản sinh ra một tài năng, một phẩm chất trong sáng tạo nghệ thuật…
_________________________________
            Dù Đỗ Nghê hay Đỗ Hồng Ngọc đến nay với bút danh này cũng đã đặt dấu ấn qua 6 tác phẩm thơ trên chặng đường văn chương 60 năm, vẫn chưa biết mỏi. Nhưng chỉ có 6 tập thơ sao? Khi so với số lượng trên 60 đầu sách của Đỗ Hồng Ngọc ở nhiều thể loại tùy bút, tản văn, Y học, Phật học, Thiền học… đang có được một số đông “công chúng” nể trọng, đón nhận. Rất dễ nhận ra thơ và âm hưởng từ thơ của anh dường như luôn khắc khoải, đeo đẳng theo từng trang chữ.
             Cho nên nhiều nhà nghiên cứu, bạn văn viết về các tác phẩm của Đỗ Hồng Ngọc không ít phân vân, anh là một nhà thơ hay một thầy thuốc…Cách đây gần 30 năm, Đỗ Trung Quân khi đọc tập thơ Giữa Hoàng Hôn Xưa (1993) đã viết: “Có một chàng thi sĩ một hôm vì lẽ gì đó bỏ đi làm thầy thuốc. Mười năm…hai mươi năm…anh cặm cuội chăm sóc, chữa lành, làm dịu nỗi đau của trẻ thơ; anh buồn vui cùng nỗi buồn vui của những người làm cha làm mẹ”. Hay theo nhà nghiên cứu văn hóa Gs.Cao Huy Thuần cảm nhận qua tập tạp bút Buông (2022) về Thiền trong Phật học, đã thốt lên: “Tôi cũng lấy từ “tổng quan về nghiệp” của Tuệ Sỹ mà ra: Thơ đến với anh từ trước khi anh làm thơ. Thơ là tiếng nói trong tận cùng thâm cung bí sử của tư tưởng. Cái gì mà tư tưởng không nói nên lời được thì phải diễn tả bằng thơ”. Thơ có một vị trí duyên nợ và chung thủy trong đời sống của Đỗ Hồng Ngọc.
            *Đến với Thơ …
             Tính từ những bài thơ khởi đầu với bút hiệu Đỗ Nghê đăng trên các tạp chí có giá trị văn học trước năm 1975, như Bách Khoa, Mai, Tình Thương, Ý Thức… và đến sau này với tên thật Đỗ Hồng Ngọc (ĐHN) đã đủ phác họa con đường Thơ của Đỗ Nghê/ Đỗ Hồng Ngọc với một ý thức sáng tạo và một phong cách nghệ thuật riêng cho mình.
              Anh kể, bài thơ đầu tay được đăng trên tạp chí Bách Khoa vào năm 1960. Lúc ấy còn rất trẻ, chỉ dám ký tên tắt vì muốn giấu không cho người cậu biết – vì nhà văn Ngu Í đang làm trong báo này- Nhưng khi cậu biết ĐHN có bài thơ đăng ở Bách Khoa lại tỏ ra vui và khuyến khích. Và tiếp đó là thơ trên báo Mai năm 1965 và các báo, giai phẩm ở Sài Gòn. Lâu quá…và anh chỉ nhớ những bài thơ tình, tuổi học trò (xin trích): “Những bước chân mềm trên cát thơm/ Em đi sa mạc rợn trong hồn/ Buổi chiều lên đọng hai vành mắt/ Màu áo hôm nào làm sao quên”. Hay như : “Em đến nắng vàng theo tóc xanh/ Tôi nghe xa vắng vạn ân tình/ Có gì vướng víu trong hơi thở/ Ơi những ngày xưa của chúng mình”(báo Mai). Và còn nữa, một chút gì lãng mạn ở tuổi chớm yêu: “Lúc đó trời xanh xanh cao thêm/ Biển dăng tay rộng thuyền lênh đênh/ Em đi cúi mặt thẹn trong tóc/ Cát trắng hôn tròn bước bước em”… Ngồi lại bây giờ, người đọc ở lứa tuổi trên 70- 80, với nét mặt đạo mạo, tay run, chậm chạp qua tròng kính tuổi già mà đọc lại những câu thơ mộng mơ, đẹp hồn nhiên thuở ấy, mới giật mình. Bởi người già hay nhớ, hay cứ lặp lại bao nhiêu lần, “hồi ấy, hồi xưa…”, quá thương sao!
           Có lần Đỗ Hồng Ngọc viết một truyện ngắn duy nhất lấy tựa Người Thứ Hai, ký Đỗ Nghê, cảm xúc từ bối cảnh bệnh viện và thấp thoáng bóng quê nhà La Gi, được đăng trên báo Mai năm1965. Được đăng nhưng cũng không mấy ưng ý. Có lẽ thơ mới cuốn hút được tâm hồn nhạy cảm của anh, như anh đã thật lòng bộc bạch: “Tôi không có khả năng “hư cấu” nên không viết được truyện dầu truyện ngắn, tiểu thuyết như các bạn mình”. Vì vậy từ đó, anh đã dồn hết cho thơ với một tâm hồn chất ngất mà không phải chịu tiết chế nào chi phối đến sự rung động, cảm xúc chân thật của mình. Với những bài thơ buồn, mộng tưởng ở tuổi 17- 18 thời sinh viên được anh chọn lọc đưa vào tập thơ Tình Người sau này.
            Năm 1967, Đỗ Nghê với tác phẩm thơ đầu tay Tình Người. Đến năm 1973, tuy gặp khó khăn về xuất bản, nhưng bạn bè anh in bằng ronéo tập Thơ Đỗ Nghê lưu hành trong giới văn chương. Lứa tuổi bấy giờ, sống giữa đô thị miền Nam luôn ngột ngạt, bất an “bên trời lận đận” và khát khao một quê hương thanh bình. Trong bối cảnh đó với bài thơ “Thư cho bé sơ sinh” viết một mạch ngay tại bệnh viện Từ Dũ năm 1965 khi anh chỉ là sinh viên trường Y thực tập ca đỡ đẻ đầu tiên. Bài thơ này ắp đầy sự rung cảm về thân phận kiếp người, nỗi hân hoan trong tiếng thở và trở thành đề tài của một thời nặng nề những ám ảnh, phiêu tán ngay trên quê hương mình. Anh viết:
               “Khi em cất tiếng chào đời/ Anh đại diện đời chào em bằng nụ cười/ Lớn lên nhớ đừng hỏi tại sao có kẻ cười người khóc/ Trong cùng một cảnh ngộ nghe em…”- “Khi anh cắt rún cho em/ Anh đã xin lỗi chân thành rồi đó nhé/ Vì từ nay em đã phải cô đơn/ Em đã phải xa địa đàng lòng mẹ”. Rồi bằng thái độ ấm áp để nhắn nhủ với bé sơ sinh: “Thôi trân trọng chào em/ Mời em nhập cuộc/ Chúng mình cùng chung/ Số phận/ Con người”. Hình ảnh bàn tay một thầy thuốc trẻ nhân hậu, nhẹ nhàng, trong lòng với bao nỗi miên man tâm trạng. Đỗ Hồng Ngọc đã nhiều lần kể lại sự ra đời bài thơ với quanh đó cũng có thể coi là giai thoại thú vị khó quên.
            Cánh cửa mở cho Đỗ Hồng Ngọc đến với Thơ cũng rất tự nhiên, lặng lẽ không như nhiều người cứ tưởng bên anh có người cậu ruột là nhà văn -nhà báo Nguiễn Ngu Í sẽ có ảnh hưởng đến con đường sáng tác của anh. Dù Ngu Í trước hết là một nhà thơ. Thực ra tuổi thơ ĐHN sớm mồ côi cha, với đàn em cùng tựa vào vai bà mẹ góa tảo tần ở vùng đất Hàm Tân- La Gi sau chiến tranh. Nhưng anh là người hiếu học, thông minh biết vượt lên hoàn cảnh. Trở ra Phan Thiết trọ nhà bà cô ở chùa Hải Nam và học trường Phan Bội Châu một thời gian, rồi vào Sài Gòn từ đó. Anh rất ham học, nổi tiếng học nhảy lớp, bỏ Đệ Tứ (lớp 9 bây giờ) để học dồn Đệ Tam- Đệ Nhị (10-11), thi Tú Tài I và năm sau thi Tú Tài II (Toàn phần) đậu, thời đó tỷ lệ đậu khoảng 10%, gay lắm. Con đường thênh thang, anh thẳng vào Y khoa đại học đường Sài Gòn.
            Anh kể, người cậu Nguiễn Ngu Í đã dẫn dắt anh đến trường và cho anh cơ hội tiếp cận với những sách báo, đặc biệt là các cuốn sách khai tâm của Nguyễn Hiến Lê như Kim chỉ nam của học sinh, Gương danh nhân, Gương can đảm, Gương kiên nhẫn…Cạnh đó, còn có người chú ruột, nhà văn Châu Anh (Đỗ Đơn Chiếu), nhà báo Lê Phương Chi (gọi bằng cậu) cũng đang là cây bút có quan hệ trong giới ở Sài Gòn lại không ngờ Đỗ Hồng Ngọc đang âm thầm, nắn nót với những câu thơ vừa viết khá tròn trịa. Bài học một bên nhưng bản thảo thơ cũng một bên… Đến khi anh có bài thơ đăng trên các báo Bách khoa, Mai, Tình thương (tạp chí của Sinh viên Trường Đại học Y khoa – anh cũng là thành viên Ban biên tập gồm Phạm Đình Vy, Ngô Thế Vinh, Trần Mộng Lâm…) với bút danh Đỗ Nghê, mấy ông cậu, ông chú càng thêm bất ngờ…Nhưng có lẽ đến năm1969 tốt nghiệp bằng Tiến sĩ y khoa quốc gia, anh mới có rộng thời gian để đứng cùng nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Lữ Kiều, Lữ Quỳnh, Trần Hoài Thư, Lê Ký Thương…), một tạp chí văn học sang trọng, quy tụ nhiều cây bút trẻ nổi tiếng bấy giờ. Diện mạo thơ Đỗ Nghê được định hình và được giới văn chương, người đọc đón nhận bởi giọng thơ đầy hoài niệm, thâm trầm nhưng đau đáu, thương xót mà không rên rỉ…Đó mới thực là một tâm hồn thơ lãng mạn và giàu suy cảm. Mỗi khi trở lại quê nhà, anh đã trải lòng với thời tuổi thơ đầy nỗi nhớ:“Năm năm không về thăm Phan Thiết/ Năm năm đã hẹn trăm lần về/ Nghe nói người xưa chừng lỡ bước/ Nghe nói lòng ta chừng chưa nguôi…”(Trên sông khói sóng- Đỗ Nghê,1971). Khoảng năm 1972 trong một bài viết, học giả Nguyễn Hiến Lê đã có dòng nhận xét về Đỗ Nghê/ Đỗ Hồng Ngọc: “Một bác sĩ mà lại là một thi sĩ thì luôn làm cho chúng ta ngạc nhiên một cách thú vị”. Như nhà thơ Du Tử Lê nói: “Đỗ Hồng Ngọc – thơ như một hạnh phúc” và nhà thơ tiếp: “Nhưng dù các bài viết về cõi- giới văn chương của ông, thâm trầm hay nhẹ nhàng, đơn giản thì, tự thân những bài viết ấy, cũng đã thắp sáng những thành tựu, hiểu theo nghĩa “hạnh phúc” mà Đỗ Hồng Ngọc đã đạt được” (trong Như không thôi đi được- 2017).
            *Khôn nguôi nỗi nhớ
            Tâm hồn thơ là dòng sông thơ mộng nhưng nỗi nhớ luôn đọng lại ở những ghềnh đá, khúc chảy quặn mình.Với Đỗ Hồng Ngọc cảm xúc đó đã không phải lệ thuộc hình thức thể hiện mà người đọc vẫn nhận ra ý nghĩa sâu xa trong ngôn ngữ hình tượng, tác giả âm ỉ giữ cho mình. Bài thơ ngắn với tựa Bông Hồng Cho Mẹ:
              Con cài bông hoa trắng
              Dành cho mẹ đóa hồng
              Mẹ nhớ gài lên ngực
              Ngoại chờ bên kia sông…
                                    (Vu Lan 2012)
            Qua thấu cảm của nhạc sĩ Võ Tá Hân chuyển thành giai điệu lung linh, nghe rấm rứt đến thắt lòng. Nỗi nhớ tinh khôi mà cũng là nỗi nhớ nghẹn ngào. Thế mà lời thơ dung dị như thủ thỉ, đâu đó vẫn bên mẹ bên ngoại còn trên cõi đời ngày nào…Bài thơ này bỗng dưng gặp duyên với “thay lời muốn nói” cho những ai không còn mẹ khi mùa Vu Lan- mùa báo hiếu, bảng lảng đang về.
             Đỗ Hồng Ngọc nghĩ về Mẹ cũng là nhớ về đất quê của mẹ một thời cơ cực trong chiến tranh: “Nhớ bước chân trâu nhớ giàn bông bí/ Nhớ cây khế ngọt nhớ trái dừa xanh/ Nhớ tiếng mẹ già nhớ đàn con trẻ”…Nhưng sự thay đổi với không khí thị thành, cuộc sống dường như đảo lộn, mà vẫn nhớ : “Nhớ người hàng xóm lâu nay còn lạ/ Nhớ những người thương nhớ luôn người người ghét/ Thấy ai cũng tội nghiệp/ Như ta…”. Trong lòng chẳng bận chút sân si mà để nhớ, vì “Thấy ai cũng tội nghiệp/ Như ta”. Khi nhớ về quê nhà, cái thời trai trẻ của Đỗ Hồng Ngọc vẫn ám ảnh với cảnh điêu linh: “Mảnh đất thân cha nắng sáng đan vườn/ Nghe da thịt đã bao lần thối rữa” (Đỗ Nghê-1964).
            Trong tập Thơ Ngắn Đỗ Nghê xuất bản năm 2017, viết về Mẹ đã qua đời (2011): “Mẹ tôi có nụ cười lạ lắm! Lúc nào bà cũng nhìn tôi mà cười. Không nói, lúc tôi có vẻ vội vã chào lẻn đi đâu đó, bà cười cười tha thứ/ Vậy hả con (… )/ Mẹ tôi vẫn cười như thế/ suốt ba năm trên bàn thờ!”. Câu thơ cuối thật sự làm cho ta ngỡ ngàng. Bất chợt lúc nào đó, nhìn lên di ảnh mẹ ta xưa nhà mình, mới thấy nét mặt đôn hậu, độ lượng đến xao lòng.
             Với Con – điều không may đưa đến sự mất mát rất lớn với Đỗ Hồng Ngọc đó là cái chết của con gái Đỗ Châu La Ngà, sinh viên năm thứ 3 trường Y do bị tai nạn trên đường cùng bạn học đi làm công tác xã hội hồi năm 1990. Chắc chắn trong anh phải ghìm nén nỗi đau…dù anh đã từng ngộ ra: “Cuộc sống tự nó là nỗi hiểm nguy và sự bất an, sự chuyển động bất tuyệt, và tự nó cũng là nỗi hân hoan, là niềm cực lạc. Thật là tuyệt khi ý thức cuộc sống là vô thường, luôn thay đổi, chuyển động…(…) để rồi tuyệt vọng, thất vọng vì không được như ý” (trong Nghĩ Từ Trái Tim -ĐHN, 2003). Tuy biết vậy, là quy luật của đời người nhưng ĐHN vẫn ngậm ngùi, chia đôi giọt lệ, một nửa giữ trong lòng, một nửa thành câu thơ xa xót: “Ba dạy con/ Mỗi ngày/ Một chút/ Không bài học nào/ Như ba đã học/ Từ con: Nỗi mất”- (La Ngà 5). Lại nói cùng con: “Mỗi năm/ Mỗi người/ Thêm một tuổi/ Chỉ mình con/ Mãi mãi/ Tuổi đôi mươi!” (La Ngà 3)…
              *Tác phẩm thơ Đỗ Nghê/ Đỗ Hồng Ngọc
              Với 6 tập thơ đã xuất bản: Tình Người (1967), Thơ Đỗ Nghê (1973), Giữa Hoàng Hôn Xưa (1977), Thư Cho Bé Sơ Sinh &Những Bài Thơ Khác (2010), Thơ Ngắn Đỗ Nghê (2017)…Có thể coi 2 tập đầu mang bút danh Đỗ Nghê xuất bản trước năm 1975 là cuộc khởi đầu cho chặng đường thơ Đỗ Hồng Ngọc với phong cách ngôn ngữ thơ dung dị mà tinh tế, giữa cảnh bao trùm bởi ảo ảnh thân phận, quê hương…Tính thời đại có sự chi phối đến trái tim và tác phẩm của người làm thơ nhưng thái độ ở anh biểu hiện mỗi con đường với cái tạng riêng. Với thơ Đỗ Hồng Ngọc người đọc dễ nhận ra tinh thần trầm tỉnh, ung dung nhưng không thôi nỗi trăn trở. Nhà văn Lữ Kiều -Thân Trọng Minh là đồng nghiệp, người bạn thân từ thời tạp chí văn chương Ý Thức, đã nhận xét về ĐHN: “Tôi không nhầm- những bài “Niềm tin chưa mất”, “Bông hồng cho tuổi thơ” đã xác nhận với tôi điều đó. Phải rồi, anh là kẻ yêu cuộc đời này, dù bất hòa với nó”. Xin được trích vài dòng trong bài thơ Niềm Tin Chưa Mất”: “Bởi còn có những buổi mai/ Những buổi chiều buổi trưa buổi tối/ Bản tin thời tiết cho 24 giờ sắp tới/ Vịnh Bắc phần có nhiều mây/ Và mưa giông rải rác/ Gió Đông đông nam từ 10 đến 15 gút…/ Duyên hải Trung phần từ mũi Dinh đến mũi Cà Mau/ Nghe rạt rào chữ S…”.(Đỗ Nghê-1967).
            Khó mà xếp thứ tự các tập thơ của Đỗ Hồng Ngọc đã xuất bản để có một “khái niệm” cho mỗi chặng đường thơ của anh. Tập thơ Giữa Hoàng Hôn Xưa – thời Đỗ Hồng Ngọc với những câu thơ dẫu mang nỗi cô đơn nhưng thật an nhiên, dịu dàng: “Rồi thôi rồi chỉ một lần/ Áo vàng em mặc mùa xuân gọi về/ Thời gian sông nước trôi đi/ Tóc phai sợi nhỏ thương hoài ngàn năm” hay mượt mà hơn: “…Nhớ em qua đó/ Mà hồn như mơ/ Mây trời phiêu lãng/ Ngàn năm hững hờ…”. Chắc chắn với tâm trạng phiêu bồng, mà anh viết lên cái đẹp hồn nhiên như vậy là giữa những tháng ngày thanh xuân của mình.
          Tập Giữa Hoàng Hôn Xưa (1993) đánh dấu biểu cảm nỗi niềm qua ngôn ngữ thơ với nhiều ẩn dụ hơn. Anh đứng giữa đám đông của thời đại nhưng vẫn chọn một thái độ trong thơ của mình một lối riêng, một cách tự tại và nhịp thở của mình. Nhưng đến Vòng Quanh (1997), cách tập trước 4 năm, Đỗ Hồng Ngọc không những vòng quanh về mặt địa lý mà với Hà Nội, Đà Lạt, Chiang Mai, đó đây… như Một ngày ở Huế:“Một ngày lăng tẩm cung vua, Một ngày đi sớm về trưa một ngày/ Một ngày Vỹ Dạ trăng soi/ Một ngày Đập Đá nghiêng vai biếc người/ Một ngày Thiên Mụ câu thề/ Đông Ba Gia Hội chưa về kịp thăm/ Một ngày Từ Hiếu băn khoăn/ Đồi sương dốc dựng té lăn cù rồi/ Một ngày sông nước thuyền trôi/ Tam Giang sóng vỗ đâu hồi còn thơ/ Một ngày ngày xửa ngày xưa/ Một ngày ở Huế…đã vừa trăm năm”. Đỗ Hồng Ngọc ít làm thể thơ lục bát, nhưng đây là bài thơ hay đã cho người đọc một cảm xúc giai điệu đầy chất Huế, những hình ảnh trong bài thơ trở nên kỳ diệu với nét trầm mặc trong cổ kính rêu phong. Rồi các địa danh Boston, Paris, Australia… của những quốc gia anh đã có dịp đi tu nghiệp, hội thảo khoa học, du lịch với góc nhìn khám phá, khác hẳn bao lữ khách nhàn du. Như đã gợi cho ta Mùa Đông Boston” : “Còn cây/ Trơ lại/ Với cành/ Với linh hồn lá/ Ngập ngừng/ Trút qua”- Bài thơ từng đó câu chữ thôi…Hay khi anh đến Bảo tàng sáp Grévin (Paris)! “Tưởng người thiệt/ Chào, không nói/ Tưởng người sáp/ Sờ một cái!”- Đã biết những danh tài được tôn vinh, nặn tượng bằng sáp mà sao còn “tưởng là” người sáp? Trình độ mỹ thuật hay cái hồn của Grévin…Cái độ trầm tích trong những bài thơ ngắn, rất ngắn mà mang đến bao điều để nghĩ ngợi, liên tưởng.
            Trong các tập thơ Đỗ Hồng Ngọc đã xuất bản, có lẽ đầy đặn nhất đó là tập Thư cho bé sơ sinh & những bài thơ khác, gần 230 trang. Trong đó cũng có nhiều bài đã xuất hiện trên một số tạp chí văn học và các tập thơ trước. Có thể anh muốn “khuôn” lại để có một bầu trời thơ của mình và cho mình. Sắc độ thơ của mỗi thời kỳ tuy có chút khác về ngôn ngữ thể hiện. Nhưng ĐHN vẫn giữ cái riêng trước sau của mình sự thanh cao của giá trị nhân văn, tình cảm chân thành. Theo anh từng nói về nỗi nhớ: “Đã bao lâu ta không sống với mình/ Ta có ta mà quên ta phứt”. Và thế là với Đỗ Hồng Ngọc không bao giờ rời xa thơ.
             Người bạn văn một thời cùng học trường Phan Bội Châu (Phan Thiết) với anh, nhà thơ Trần Vấn Lệ đã viết:“Thơ Đỗ Hồng Ngọc/ Đỗ Nghê không rườm rà, không làm duyên làm dáng, không lập dị. Thơ ông là Thơ Hồn Nhiên, Thơ Nhã Nhặn, Thơ Ngọt Ngào. Tôi đọc thơ ông rồi úp cuốn sách lên ngực nghe ấm… Gió Bấc đang thổi ở ngoài quê nhà, ngày Xuân đang đến không riêng ai…”. Có lẽ ai cũng đồng cảm với những nét khắc họa về Đỗ Hồng Ngọc như thế này.
            Với tập thơ có tựa Thơ Ngắn Đỗ Nghê của Đỗ Nghê/ Đỗ Hồng Ngọc đã phát hành cuối năm 2017 là tập thơ mới nhất- Đúng nghĩa với hình thức là “ngắn”, ngắn có bài vỏn vẹn 3 câu 6 từ, như bài Trái Đất (Giữa đêm/ Thức giấc/ Giữa ngày…). Ừ nhỉ, đêm ở Việt Nam và ngày ở Mỹ. Cách nhau chẵn chòi nửa vòng trái đất, nhưng với một bài thơ ngắn mà làm cho ta chợt nghĩ…biết bao điều, thật là thú vị. Đơn giản nhưng tinh tế trong đó. Cho nên anh thấy “Vũ trụ chừng nhỏ lại/ Còn chút xíu trong ta!” (Vũ trụ). Nhà báo Lam Điền sau khi đọc tập thơ ngắn Đỗ Nghê, viết: “Đỗ Nghê đã có một kiểu duyên ngầm trong những bài thơ tượng thanh từ sự bùng phát của cảm xúc hay ông tự chưng cất những suy tư đến cái độ mà Chu Hy xưa kia từng gọi rằng: như không thôi đi được”.(trong tập Như Không Thôi Đi Được -Nhiều tác giả).
           Ngay từ cái bìa tên tác giả Đỗ Nghê/ Đỗ Hồng Ngọc, anh nhắc lại một bút hiệu Thơ thời ban đầu cách đây 60 năm mà sao lại Thơ Ngắn Đỗ Nghê, mặc dù trong tập nhiều bài lâu nay đích danh Đỗ Hồng Ngọc? Nay mới rõ hơn, thời mới “chạm duyên” với thơ, anh e dè không dám nói tên nên kết hợp hai họ cha (Đỗ), họ mẹ (Nghê) thành Đỗ Nghê. Khổ nỗi có người cứ nhầm bút danh Đồ Nghệ (ông Đồ xứ Nghệ) nên thôi, để đúng tên thật Đỗ Hồng Ngọc khi tốt nghiệp bác sĩ ra trường.Vậy mà cũng khó tránh khỏi, có người chê: “Bác sĩ mà bày đặt làm thơ”! Mà mấy ai biết bác sĩ đã làm thơ từ tuổi 17- 18, lúc chưa là bác sĩ. Cho nên tập thơ ngắn phải nhắc lại Đỗ Nghê của một thời và Đỗ Hồng Ngọc bây giờ là vậy.
             Nhà nghiên cứu văn học Huỳnh Như Phương nhận xét về thơ Đỗ Hồng Ngọc: “Ông không xem thơ như mục đích tự thân, cũng không xem thơ như một công cụ, mà để thơ tựa vào cuộc đời, tựa vào tình người. Câu thơ của ông chan hòa, giản dị, như tự bật ra từ trái tim, và khi thấy lòng mình đã lên tiếng vừa đủ, thì thơ ông nhẹ nhàng rút lui hay ẩn mình trong khói sóng”.
           *Vẫn thơ… thấm vào những trang văn
           Ngoài thơ, Đỗ Hồng Ngọc là bút danh trên gần 60 tập văn với nhiều thể loại. Tập sách về Y học, dưới tên Bs.Đỗ Hồng Ngọc có tựa Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò” (1972), tức chỉ mới 3 năm sau ngày tốt nghiệp bác sĩ. Tập sách thứ 2 cùng thể loại Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng (1974). Đặc biệt các tập này còn tái bản nhiều lần với số lượng hàng nghìn bản in…Những tập sách về y học vốn đòi hỏi kiến thức chuyên môn trong ứng dụng rất phức tạp, Nhưng với cách viết, diễn giải của Bs.Đỗ Hồng Ngọc, người có một tâm hồn thơ văn nên luôn dễ dàng được tiếp nhận. Theo Bs.Đỗ Hồng Ngọc sức khỏe con người có mối quan hệ “thân tâm bất nhị”, chịu sự tác động từ môi trường tự nhiên, văn hóa, xã hội…
           Tình cờ thôi, người viết được xem trên trang Trang nhà của Bs.Đỗ Hồng Ngọc, những lượt mail của một “bạn đọc” từ xa, ngưỡng mộ những tập thơ, văn của anh phải nói là nhiệt tình, quý giá. Người ấy chỉ khiêm tốn ghi tên Hai Trầu/ Lương Thư Trung, cũng đam mê chuyện văn chương và Đỗ Hồng Ngọc. Anh Hai Trầu có một bản thống kê hầu hết các tác phẩm của Đỗ Nghê/ Đỗ Hồng Ngọc đã xuất bản mà chính tác giả cũng không nhớ hết. Điều càng ngạc nhiên truyện ngắn đầu tay Người Thứ Hai của Đỗ Nghê trên báo Mai đã in từ năm nào, làm cho tác giả Đỗ Nghê cũng phải ngạc nhiên…Cũng là người phương xa -Nguyễn Thị Khánh Minh từ Santa Ana (Mỹ) với những trang biểu lộ sự quý mến, cảm xúc qua những tập thơ và những trang văn trong tạp bút, tản văn, y học… Trường hợp khác, với một người bạn xa mà Đỗ Hồng Ngọc chưa một lần gặp đã biên soạn 3 cuốn (bản thảo) Tuyển tập Đỗ Hồng Ngọc dầy cả ngàn trang A4 gửi tặng, là một tập hợp gần như cả hành trình viết lách của anh. Đó là nhà báo Nguyễn Hiền Đức, trước 1975 có thời làm Thư ký tòa soạn tạp chí Tư Tưởng Đại học Vạn Hạnh…Đúng là hữu duyên!
              Những tác phẩm tản văn, tùy bút của Đỗ Hồng Ngọc không những về kiến thức y học mà ở đó còn là những trang văn có giá trị văn học, tạo được hấp dẫn đối với người đọc từ những tên tập sách Gió heo may đã về, Già ơi…Chào bạn! Những người trẻ lạ lùng… Những sách về Phật học, về Thiền như Nghĩ từ trái tim, Gươm báu trao tay, Thiền và sức khỏe, Tôi học Phật…Có những tập tái bản nhiều lần, cho thấy độ hút từ người đọc, đủ lứa tuổi. Với những tập sách về Sức khỏe – đời sống, về Phật học (về Tâm kinh, Thiền định…) theo cách luận giải của Bs.Đỗ Hồng Ngọc đã dẫn dắt người đọc dễ hiểu, nhẹ nhàng bởi những thuật ngữ, ẩn dụ đậm chất thơ. Hình thức các tác phẩm của ĐHN với khổ hình vuông như tờ Ý Thức ngày xưa và có những tựa bài từ lời ca khúc của người bạn thân- nhạc sĩ Trịnh Công Sơn và đôi ba trang phụ bản do anh ký họa bằng bút kim rất có hồn, đã thêm phần mượt mà cho trang chữ.
            Đỗ Hồng Ngọc dù luôn nhận mình là “Người học Phật”, một cách nói khiêm nhường. Nếu có dịp hãy gõ lên “YouTube-dohongngoc” có đến hàng chục đề tài mà Đỗ Hồng Ngọc được mời đăng đàn pháp thoại ở các thiền viện, nhà chùa về Sức khỏe và Phật giáo, về Thở và thiền, về Ăn và chay… Không những với đối tượng tu sĩ, phật tử mà còn có những buổi đàm đạo cùng các nhà nghiên cứu, nghệ sĩ mới thấy năng lượng sống và sự am hiểu thấu đáo của “người học Phật” như Đỗ Hồng Ngọc. Trong một clip, với chương trình Hoa Mặt Trời do chùa Hoằng Pháp (Hóc Môn) tổ chức, khung cảnh trang nghiêm ở một giảng đường rộng, đông đảo có đến 3 ngàn người để nghe Bs.Đỗ Hồng Ngọc nói về cái duyên học Phật của chính mình, những căn bệnh tham sân si đời người, niềm hạnh phúc của anh khi “ngộ” ra sau ca mổ sọ não và thế nào là sống an nhiên…
         Cuộc hành trình sáng tạo và chia sẻ của Đỗ Nghê/ Đỗ Hồng Ngọc quả là sinh động và đích thực chân dung Đỗ Hồng Ngọc- một người thông tuệ, nặng tình như lời giới thiệu trên đặc san Văn hóa Phật giáo (2021)/ Viên Giác Tùng Thư, Hannover Đức Quốc:“Ngoài vai trò là bác sĩ, nhà giáo ông còn là một nhà thơ, nhà văn nổi tiếng. Ông viết nhiều tác phẩm đa dạng và rất được đọc giả yêu thích”.
Phan Chính (La-Gi).
Ghi chú:
Thơ Phan Chính:
Giọt sương (1983); Giữa truông đời (1997); Biển trắng như lòng ta thức đợi (2006); Bảng lảng gió giêng (2016); An nhiên (2021)

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác, Vài đoạn hồi ký

Trâm Anh: Có một buổi “khám bệnh” như thế

28/11/2022 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Có một buổi “khám bệnh” như thế

(Trâm Anh kính gửi tặng bác Đỗ Hồng Ngọc)

Sau 30 phút trò chuyện, hỏi han ân cần như một người bạn với một người bạn, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc kết lại với Ba tôi, một bệnh nhân 84 tuổi – từ Buôn Ma Thuột xuống chữa bệnh 2 tháng nay tại TP.HCM (cho Ba, Mẹ tôi và cả tôi cùng nghe) như vầy:

“Với một người ở tuổi 84-85 và cũng không sợ chết như anh nói, thuốc men chỉ có tác dụng chữa trị bệnh một phần thôi. Sức khỏe của anh xét ở mọi góc độ, tôi chấm là 8,5 điểm đó, còn ngon lắm đó, không hề tệ đâu! Giờ anh chịu khó tập những động tác cho cơ, xương, khớp như tôi hướng dẫn để giúp máu lưu thông. Ăn uống khá lên. Ngủ nghỉ đầy đủ. Phần quan trọng còn lại là bồi bổ cho ‘sức khỏe tinh thần’.
Tinh thần cần gì? Cần kết nối với bên ngoài thay vì thu mình vô trong. Cần đưa mình ra khỏi chiếc vỏ ốc cô độc và buồn phiền, chỉ nghĩ đến cái đau và cái bệnh của mình. Cần gặp gỡ bạn bè ‘tán dóc’ chuyện xưa chuyện nay (dù số bạn bè thân thiết cùng trang lứa chỉ còn đếm trên đầu ngón tay, hay xa cách cả đại dương không biết có lần nào gặp lại nữa không!)… Đó chính là thuốc của lứa tuổi này, của tụi mình, anh à!
Anh còn xem tivi, còn đọc sách báo hàng ngày là tốt rồi, nhưng còn sở thích gì khác không? Văn nghệ, làm thơ? Mấy cô bạn gái cũ giờ còn liên lạc ai không (cười khà khà)…”
Nghe bác sĩ Ngọc hỏi về bạn bè, sở thích, World Cup này nọ, hỏi Ba có sợ chết không, Ba trả lời lần lượt, và cười. Một nụ cười thoải mái hiếm hoi lắm tôi mới thấy lại từ khi Ba đau. Trong khi trước đây Ba tôi vốn là một ông già cởi mở, có khiếu hài hước và hay cười.
Hơn hai tháng nay khi đưa Ba đi khám bệnh, gặp nhiều bác sĩ với tuổi đời và học vị khác nhau, từ bệnh viện này qua bệnh viện khác, hết khoa nọ khoa kia, tôi mong mỏi “gặp thầy gặp thuốc” nào đó giúp Ba giảm đau nhức-tê chân, giúp Ba ngủ được; thậm chí chỉ mong bác sĩ nào đó nói chuyện “tào lao” với Ba nhiều xíu trong lúc khám để ông phấn chấn, lạc quan hơn. Nhưng hầu như ai cũng khám cho Ba như bệnh-nhân-nhiều-tuổi chứ không phải một người già đang bất lực vì cái đau bệnh già. Bản thân Ba cũng thấy hụt hẫng vì có khi chờ đợi cả tiếng để đến lượt khám mà bác sĩ không nhìn tới chân đau của Ba, chỉ hỏi và kê toa 😞 .
Mấy tuần trước, trong lúc chính tôi cũng “tuột mood” vì không giúp gì được hơn cho Ba, tôi liều nhắn tin cho bác Ngọc, hỏi thăm ông liệu có cách gì cho Ba đỡ đau, cải thiện tình trạng sa sút tinh thần và thể chất của Ba. Gọi là “đánh liều” vì tôi và Ba Mẹ là độc giả sách của BS Đỗ Hồng Ngọc hơn 20 năm nhưng chỉ mới được gặp gỡ trực tiếp và trò chuyện với ông một lần trong buổi giao lưu của ông tại Hội quán Các bà mẹ mấy tháng trước mà thôi.
Bác Ngọc cho tôi vài lời khuyên và bất ngờ gọi lại cách đây mấy hôm, hỏi về tình trạng của Ba và hỏi tôi có thể đưa Ba tới Hội quán để ông thăm bệnh giúp không? Ông còn nói đùa là ông chỉ “khám chui” vì đã không khám phòng mạch tư mười năm rồi.
Thật sự, cho đến giờ Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc là bác sĩ duy nhất hỏi đủ thứ và nói với Ba tôi những điều không nằm trong chỉ số xét nghiệm máu và trong toa thuốc. Từ thuốc bổ không nằm trong toa đến chế độ ăn, từ thuốc huyết áp đến vấn đề tiêu hóa. Đúng hơn là một cuộc “tư vấn tinh thần” của một bác sĩ về hưu đã từng viết rất nhiều sách tâm lý cho tuổi già. Mà ông bác sĩ hiền từ này chỉ thua bệnh nhân là Ba tôi 2 tuổi thôi.
7 giờ sáng nay (28.11.2022) tôi nhận tin nhắn bác Ngọc: “Nhờ con để ý coi Ba con có vui hơn, có “thoải mái” hơn sau buổi gặp Bác không nhé”.
“Dạ, con sẽ để ý và chia sẻ cho Bác ạ“. Tôi gửi tin nhắn đi với lòng biết ơn tràn ngập. Tôi biết toa thuốc tinh thần chính là một ưu ái mà vị bác sĩ nổi tiếng – tác giả sách đáng kính đã dành cho Ba mình.
Hôm qua khi tôi chia sẻ hình và video bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc thăm khám Ba cho anh chị ngoài quê xem, anh trai tôi đã nói vui: “Ông đúng là Idol của Ba!”.
Cảm ơn chị Thanh Thúy – HQCBM đã hỗ trợ mối duyên này!
SG, 28/11/22
Ngô Thị Trâm Anh
                                                     

Thuộc chủ đề:Ghi chép lang thang, Già ơi....chào bạn, Vài đoạn hồi ký

Tâm Nhiên: TINH THẦN BẤT NHỊ TRONG THƠ NGẮN ĐỖ NGHÊ 

27/11/2022 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

TINH THẦN BẤT NHỊ TRONG THƠ NGẮN ĐỖ NGHÊ

Tâm Nhiên

 
Đỗ Nghê là bút hiệu của Đỗ Hồng Ngọc. Anh sinh năm 1940 tại Phan Thiết, Bình Thuận. Tốt nghiệp Tiến sỹ Y khoa Quốc gia, Sài Gòn (1969) là bác sỹ chuyên khoa Nhi.
Ngoài việc là giảng viên tại Đại học Y khoa, anh còn là nhà thơ, nhà văn nổi tiếng. Viết nhiều thể loại đa dạng, đặc biệt gần đây, anh viết chuyên sâu về Phật học, Thiền học với các tác phẩm giá trị, được rất nhiều độc giả mến mộ, ưa thích.

Bình đạm mà thiết tha với thi ca, Đỗ Nghê đã xuất bản 6 thi phẩm, tập mới nhất gần đây là Thơ ngắn Đỗ Nghê, do Văn Hóa-Văn Nghệ xuất bản 2017. Mở đầu tập thơ là bài Trái đất:

Giữa đêm
Thức giấc
Giữa ngày…

Bài thơ được viết tại Boston, Hoa Kỳ (1993). Giữa đêm bên Mỹ là đúng giữa ngày ở Việt Nam. Một cái nhìn toàn diện trái đất đang xoay quanh mặt trời. Chỗ này tối thì chỗ kia sáng, tùy theo thời tiết, nhân duyên, địa phương mỗi nơi mà thấy mỗi khác đó thôi. Thấy được như vậy là hiểu lý Bất nhị, dung thông Sóng là nước:

Sóng
Quằn quại
Thét gào
 
Không nhớ
Mình
Là nước

Nước tức là sóng, sóng tức là nước, thanh âm Tâm kinh đồng vọng đâu đây: “Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị…” 
Khi hiểu được như thế rồi thì không ai phải mất công đi hỏi nước từ đâu đến hay nước trôi về nơi đâu nữa:

Nước vẫn muôn đời
Không đi chẳng đến
Ai người nỡ hỏi
Nước đến từ đâu?
Ai người nỡ hỏi
Nước trôi về đâu?

Thi nhân bỗng nhiên thấy ra ngay cả thân xác tứ đại giả hợp của mình cũng chính là Đất:

Đất động ta cũng động
Sóng thần ta cũng sóng
Giật mình chợt nhớ ra
Vốn xưa ta là đất

Đó là cái thấy bằng con mắt Hoa Nghiêm trùng trùng duyên khởi: “Tất cả là một, một là tất cả.” Hòa trong vô thủy vô chung, vô cùng vô tận giữa thiên hà, vũ trụ càn khôn, con người là một sinh thể nhỏ bé thì bận tâm chi chuyện Có không:

Chắt ra cho hết
Giọt hơi cuối cùng
Thả mình như lá
Rơi vào hư không
 
Tràn vào khắp ngả
Đất trời mênh mông
Nhẹ như không có
Có mà như không…

Suốt mất nghìn năm qua, vô số các triết gia, đạo sỹ khắp Đông Tây kim cổ đều luận thuyết, triết lý om sòm về có không, sống chết, đến đi, được mất, chân vọng, thật giả, hơn thua, đúng sai, phải trái, tốt xấu, trí ngu, phàm thánh, tỉnh điên, thiện ác, mê ngộ…mà chẳng ai chấp nhận ai, chẳng đưa đến mọt kết luận nào cả.

Kể từ khi cư sỹ Duy Ma Cật tuyên bố lý Bất nhị thì thiên hạ ồ lên một tiếng bàng hoàng. Họ bừng sáng ra, bước đi trên con đường Trung đạo, vào ra giữa có và không một cách tự do tự tại, thong dong.

Không và có…tuy hai mà một, cùng viên dung vô ngại trong lý sự huyền đồng Chân Không Diệu Hữu. Diệu Hữu là thấy ngay trong bất cứ sự vật gì cũng đều vi diệu, như thấy hơi Thở:

Lắng nghe hơi thở của mình
Mới hay hơi thở đã nghìn năm xưa
Một hôm hơi thở tình cờ
Dính vào hạt bụi thành ra của mình
Của mình chẳng phải của mình
Thì ra hơi thở của nghìn năm sau…

Phải chăng, đó là hơi thở sát na thường trụ vĩnh hằng của một con người hoát nhiên bừng chứng Ngộ:

Tham chẳng còn
Sân cũng hết
Si đã tuyệt
 
Niết bàn
Tịch diệt
Để mà chi?

Một câu hỏi nêu ra quá bất ngờ, bức bách. Trả lời đi, trả lời đi… Vô ngôn là hồi đáp tối thượng nhất. Phủi tay, cất bước rỗng rang Thiền:

Thực chẳng dễ dàng
Sống trong cái chết
Và chết trong cái sống…

Chết trong cái sống là chết đi hết những danh từ, khái niệm mà mình thường vướng kẹt, mắc dính, chết đi cái ngã chấp thâm căn cố đế, chết đi sự nô lệ vào danh lợi, tài sắc, thần tượng, tôn giáo, tổ quốc…

Không chấp trước vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp thì thênh thang, phóng khoáng, tiêu dao du chơi giữa vô thường. Tuy giữa vô thường nhưng vẫn Chân thường, đó là niềm hân hoan sáng tạo của Đỗ Nghê, một thi nhân đã đến tận đầu nguồn nếm được giọt nước trong ngần của mạch suối Tào Khê.

Để rồi trở về nhập cuộc, hòa điệu chịu chơi với bụi cát trần gian, thõng tay vào chợ, cười vang giọng cười hào sảng như Duy Ma Cật ngay giữa cái Đang là, luôn luôn mới lạ và mới lạ…


(Thị xã La-Gi 19. 11. 2022)

Thuộc chủ đề:Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

Tâm Nhiên: TIÊU DAO ĐỖ HỒNG NGỌC

26/11/2022 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

TIÊU DAO ĐỖ HỒNG NGỌC

Tâm Nhiên

Nghĩ từ trái tim* nhiệm mầu quá
Ba nghìn thế giới ở đây thôi
Thì ra tất cả do tâm tạo
Bản lai diện mục vốn sẵn rồi
              Gươm báu trao tay* cầm Bát Nhã
              Tuệ kiếm Kim Cang chém sạch làu
              Ưng vô sở trụ cười Buông* xả
              Dứt liền điên đảo tuyệt khổ đau
Cõi Phật đâu xa* ngoài vũ trụ
Mà ngay sinh hoạt giữa đời thường
Bước chân Bất nhị Duy Ma Cật
Nhập diệu vô lường với yêu thương
Tâm Nhiên
Vô Trú Am, hòn Sơn Rái, Kiên Giang
Tác giả: Diệu Tâm Ca, Thanh Tịnh Ca, Thiên Thu Ca, Vô Trú Ca, Lang Thang Sĩ…
(*) tác phẩm viết về Phật học của Đỗ Hồng Ngọc.
…………………………………………………………..
Trò chuyện với Đỗ Hồng Ngọc trong quán cà phê Phố Cổ ở La Gi,
Hàm Tân, Bình Thuận, sáng 19. 11. 2022 :

Tâm Nhiên và Đỗ Hồng Ngọc tại La-Gi, 19.11.2022

– Trong mấy chục tác phẩm của anh, nổi bật lên là tập Tôi học Phật. Vậy anh có thể cho biết anh học Phật như thế nào ?
– Tôi đến với Phật rất trễ. Lại đến một mình. Lúc trẻ đọc Tâm kinh, Tứ diệu đế, Suzuki, Krishnamurti…nhưng đọc chỉ để mà đọc.
Đến năm tuổi gần 60, sau một cơn bệnh thập tử nhất sinh, tôi thấy mọi sự khác hẳn đi.
Tôi đọc Tâm kinh thấy không khó nữa. Như vỡ ra – Và với Tâm kinh tôi thấy chỉ cần học một chữ thôi : Chữ Không.
Từ đó mà vô trụ, vô trí, vô đắc…Nó trả lời câu hỏi tại sao ? Rồi bằng cách nào thì câu trả lời ở kinh Kim Cang : Vô ngã và Thiền định.
Ở Pháp Hoa học Vô tướng, Thực tướng, gặp Như Lai Đa Bảo của mình như luôn tủm tỉm cười, chọc quê mình.
Rồi ở Duy Ma Cật, học Bất nhị để thấy biết Như Lai, tập sống với Như Lai…
Rồi nào với Lăng Nghiêm, Viên Giác, Lặng Già…
Dĩ nhiên không thể không học những bước căn cơ, bởi gốc rễ có vững chắc thì cành lá mới sum suê…
– Là một bác sỹ, anh áp dụng những điều Phật học, Thiền học vào cuộc sống hằng ngày ra sao ?
– Nhờ học Phật, học Thiền mà tôi thấy rõ hơn vai trò của người thầy thuốc, cứu chữa bệnh nhân.
Những vị Bồ tát Thường Bất Khinh, Dược Vương, Diệu Âm, Quán Thế Âm đã cho tôi một thái độ sống khiêm hạ và phát khởi lòng yêu thương rộng lớn hơn…
– Ngoài công việc bác sỹ, anh còn mần thơ, viết văn nữa. Về thơ, anh xuất bản mấy tập rồi ?
– Sáu tập thơ : Tình người (1967) Thơ Đỗ Nghê (1974) Giữa hoàng hôn xưa (1993) Vòng quanh (1997) Thư cho bé sơ sinh và những bài thơ khác (2010) Thơ ngắn Đỗ Nghê (2017).
– Thơ anh có vài nhạc sỹ phổ nhạc, rất tuyệt. Còn về văn ?
– Về văn thì có những tập : Gió heo may đã về (1997) Già ơi…Chào bạn (1999) Những người trẻ lạ lùng (2001) Nghĩ từ trái tim (2003) Như ngàn thang thuốc bổ (2004) Cành mai sân trước (2005) Thư gởi người bận rộn (2005) Như thị (2007) Gươm báu trao tay, Cõi Phật đâu xa, Thấp thoáng lời kinh, vân vân…
Nói chung, kể cả thơ văn cũng gần 60 tác phẩm tôi đã xuất bản lâu nay…
– Dường như anh có vẽ tranh nữa ?
– Ờ, vẽ theo cảm hứng bất chợt cho vui thôi.
– Có lần anh đến thăm thầy Tuệ Sỹ, thầy nói anh là cư sỹ Duy Ma Cật thời hiện đại phải không ?
– À à…thầy Tuệ Sỹ nói với một nụ cười hoan hỷ. Khi ký tặng tác phẩm Huyền thoại Du Ma Cật, thầy viết : “Quý tặng Duy ma Cư sỹ Đỗ Hồng Ngọc. Đông 2016”
Tâm Nhiên

Thuộc chủ đề:Già ơi....chào bạn, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

Trường Phan Bội Châu Phan Thiết kỷ niệm 70 năm thành lập.

23/11/2022 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Thư gởi bạn xa xôi

Trường Phan Bội Châu Phan Thiết kỷ niệm 70 năm thành lập.

Gởi Trần Vấn Lệ, Phan Bá Thụy Dương, Huỳnh Tấn Thời, Phan Đổng Lý, NT Thúy Phượng, Đàm Thị Tồn… và các bạn Đệ thất PBC 1954…

Trường Phan Bội Châu cũ ở đường Trần Hưng Đạo, đến 1956 mới dời về 70 Lê Hồng Phong bây giờ.

Bạn nhớ không, cái hồi gần 70 năm trước (năm 1954), bọn mình 12-13 tuổi, lóc nhóc ôm tập vào Trường Trung học Phan Bội Châu Phan Thiết với lòng hớn hở, tự hào, vì đã thi đậu được vào lớp Đệ thất (Lớp 6 bây giờ) của ngôi trường Trung học đầu tiên của tỉnh Bình Thuận (1952), ngôi trường uy nghi lúc đó còn nằm bên đường Trần Hưng Đạo.

Năm 2002, kỷ niệm 50 năm thành lập trường, có cháu Nội cụ Phan Bội Châu về dự. Dịp đó mình được Thầy hiệu trưởng Hoàng Công Bình mời có buổi Trò chuyện thân mật cùng học sinh PBC về đề tài “Tuổi Mới Lớn”.

Năm nay, 2022, kỷ niệm 70 năm thành lập Trường PBC Phan Thiết thì thầy cũng nhắc BTC đừng quên mời ĐHN nhe, một CỤ (cựu) học sinh ngoài 80 về dự cho vui!

Buổi Lễ kỷ niệm 70 năm lần này khá hoành tráng, diễn ra trong 2 ngày 18 và 19/11/2022. Ngày đầu tổ chức một Hội chợ “Hội tụ và Kết nối 70 năm” chủ yếu dành cho học sinh vui chơi, văn nghệ… Ngày thứ hai là Lễ chính thức kỷ niệm 70 năm thành lập trường.

Mình chỉ dự ngày có “Hội chợ” là đủ, để gặp gỡ bạn bè và chung vui cùng các học sinh… Nhìn các em, mình thấy mình giống như Từ Thức, đi lạc trên non mới về. Dĩ nhiên, dịp này cũng được gặp gỡ các bạn văn: Liên Tâm, Nguyễn Như Mây, Nguyễn Thái Bình (con Nguyễn Bắc Sơn)…

Gởi bạn vài tấm hình coi vui thôi nhe.

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc

 

 

Nhà thơ Liên Tâm với các em học sinh PBC (18-11-2022)

Ban Giám Hiệu nhận sách của ĐHN tăng Thư viện.

Đỗ Hồng Ngọc và Nguyễn Như Mây.

Nhà thơ Nguyễn Thái Bình (con Thi sĩ Nguyễn Bắc Sơn)

Đỗ Hồng Ngọc và các học sinh PBC tại Hội chợ “Hội tụ và Kết nối 70 năm”, Phan Thiết 18.11.2022

 

Thuộc chủ đề:Ghi chép lang thang, Vài đoạn hồi ký, Viết cho tuổi mới lớn

Nhân Ngày Nhà Giáo 20/11

20/11/2022 By Bac Si Do Hong Ngoc 1 Bình luận

 

Thư gởi bạn xa xôi

“NGÀY NHÀ GIÁO 20.11…”

 

Từ trái: Đỗ Hồng Ngọc, Lê Thành Tân, Trương Trọng Hoàng (20.11.2022)

 

Sáng nay hai “em học trò cũ” hiện là giảng viên ở Đại học Y Khoa PNT bỗng nhớ đến mình, phone “mời Thầy đi ăn sáng… “, rồi cùng nhắc những chuyện xưa tích cũ… Rồi một em học trò cũ nữa hiện là giám đốc một bệnh viện tư có tiếng ở PT, cũng đã có con là… bác sĩ nối tiếp, cháu ngoại lớn bộn, cũng nhắn tin Chúc mừng Thầy.

Thì ra… đã qua nhiều thế hệ… rồi ư?

Tôi đã viết trong phần Ghi Chú (2014) trước đây, xin được nhắc lại: “Tôi mê dạy học, mê văn chương và cũng mê làm nghề y. Hồi xưa, đậu Tú Tài 2 xong (1962), tôi băn khoăn không biết nên học Văn khoa, Sư phạm hay Y khoa… Ông Nguyễn Hiến Lê khuyên nên học y, vì ngành y có thể giúp đời cụ thể và nếu có tâm hồn, có năng khiếu thì làm nghề y cũng có thể viết văn và dạy học được. Tôi nghe lời.

Thực tế, ngay lúc còn là sinh viên y khoa, tôi đã dạy ở trường HTN bên Tân Định.  Thú vị, ngoài môn Vạn vật, tôi còn dạy cả môn Văn cho lớp Đệ ngũ (lớp 8)… Bây giờ nhiều em học sinh hồi đó còn mang… cháu ngoại đến nhờ tôi khám bệnh. Từ năm 1972 đến 1982 tôi dạy môn Nhi khoa cho Trường Nữ Hộ Sinh quốc gia (BV Từ Dũ). Ở đại học, tôi vẫn tiếp tục tham gia với tư cách giảng viên thỉnh giảng ở Đại học Y dược Tp HCM (từ năm 1981 đến 1996) ở Bộ môn nhi của Giáo Sư Tạ Thị Ánh Hoa, hướng dẫn lâm sàng và đỡ đầu một số luận văn tốt nghiệp cho Sơ bộ chuyên khoa Nhi từ những năm xa xưa đó, bây giờ nhiều em cũng đã… về hưu! Từ năm 1989, tôi phụ trách Bộ môn Tâm lý-Xã hội học Sức khỏe của Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch (lúc đó còn mang tên Trung tâm đào tạo). Sau này Bô môn Tâm lý- Xã hôi học Sức khỏe đổi tên thành Bộ môn Khoa học hành vi & Giáo dục sức khỏe, rồi sau đó là Y đức-Khoa học hành vi & Giáo dục sức khỏe..

Năm kia, tôi quyết định… xin rút : “Biết đủ dầu không chi cũng đủ/ Nên lui đã có dịp thì lui”, (Ưng Bình Thúc Giạ Thị) về làm “cố vấn” từ xa cho các bạn trẻ!”

Xin được chia sẻ một vài nơi đây nhân Ngày Nhà Giáo 20.11,

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc.

 

“Những người thầy hạnh phúc sẽ thay đổi thế giới”

Trương Trọng Hoàng

Hôm rồi tôi tình cờ được xem bức vẽ trong đó tôi rất thích hình ảnh khuôn mặt tươi vui của những người Thầy (tôi xin phép dùng chung từ này cho cả các Thầy và Cô)  và nhất là câu “Những người thầy hạnh phúc sẽ thay đổi thế giới” của Thầy Thích Nhất Hạnh.

Hồi nhỏ tôi hay nghe người ta nói nhiều câu khá u ám như dạy học là nghề “bán cháo phổi”, dạy học là một nghề “bạc bẽo” khiến tôi cũng tự thấy sờ sợ nghề này mặc dù từ hồi lớp 9 tôi đã đi dạy kèm cho mãi đến sau khi ra trường gần 5 năm tôi mới nghỉ. Thực tế cũng cho thấy tình trạng bồi dưỡng công lao động giảng dạy không đủ bù đắp sức khỏe (hay nói một cách hình tượng là người thầy phải tự “ăn” vào cái vốn sức khỏe của mình) và rằng chuyện nhiều người học trò khi thành đạt ít khi nghĩ đến những người thầy đã góp phần vun đắp cho sự phát triển của mình đã phần nào củng cố cho những nhận định như thế.

Thế nhưng số phận lại run rủi tôi đến với nghề làm thầy giáo khi tôi ra trường và làm việc với bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc – vừa là thủ trưởng, vừa là người anh, người bạn và nhất là một người Thầy mà tôi hằng kính mến. Thầy có nói nếu chữa bệnh thì mình chỉ cứu được một số ít người còn nếu mình hướng dẫn được cho người dân cách tự chăm sóc sức khỏe để phòng ngừa bệnh, tật thì tác dụng sẽ gấp nhiều lần. Và Thầy cũng đã đề cập mình là người thầy thuốc đã từng được học nhiều điều từ thầy cô thì phải có trách nhiệm truyền đạt lại cho những thế hệ thầy thuốc sau mình những điều mình đã được học hoặc thu nhận thêm từ nghề nghiệp của mình. Vì vậy ngay từ khi tôi về cơ quan truyền thông sức khỏe của Thầy, Thầy đã dắt tôi theo để làm quen với công tác giảng dạy ở trường đại học và nhờ Thầy dìu dắt mà tôi đã trở thành một thầy giáo từ bấy lâu nay.

Ngoài Thầy Đỗ Hồng Ngọc tôi cũng có may mắn học từ nhiều Thầy, Cô khác và nhân đây cũng xin gởi lời tri ân chân thành đến tất cả Thầy, Cô trong đó có những Thầy, Cô giáo nước ngoài mà tôi đã được học. Sỡ dĩ tôi nhắc đến các Thầy, Cô nước ngoài ấy vì tôi đã học được không phải chỉ kiến thức mà còn về cung cách ứng xử tôn trọng, thân tình mà các Thầy, Cô là những chuyên gia hàng đầu của thế giới dành cho các sinh viên tầm thường như tôi. Viết đến đây mà tôi đã khóc vì rất nhớ những khi có Thầy thì đãi chúng tôi ăn gỏi đu đủ lề đường, có Cô thì chất hết một đám sinh viên lên chiếc xe hơi nhỏ xíu đi dạo phố phường hoặc những bữa cơm gia đình mà Thầy, Cô đã mời chúng tôi ăn cùng. Có lẽ chính những điều này đã ảnh hưởng đến phong cách của tôi bây giờ và thực tế nó giúp tôi cảm thấy hạnh phúc khi không phải chỉ gặp các em trên lớp mà còn được sống cùng với các em trong cuộc đời nhờ đó mà thực tế tôi được học rất nhiều từ các em và điều đó đã là động lực thúc đẩy tôi phải nỗ lực không ngừng trong giảng dạy để đáp lại chân tình và mong đợi của các em dành cho tôi.

“Những người thầy hạnh phúc sẽ thay đổi thế giới”. Đúng là chỉ khi những người Thầy cảm thấy hạnh phúc với công việc giảng dạy thì họ mới cống hiến hết sức mình nhờ đó sẽ đào tạo nên những con người có thể thay đổi thế giới.

20 Mười một 2014

Trương Trọng Hoàng

 

Thầy Đỗ Hồng Ngọc

Trương Trọng Hoàng

Hôm nay dù chưa đến ngày 20/11 tôi vẫn muốn viết về BS Đỗ Hồng Ngọc – một người Thầy với phong cách giảng dạy đặc biệt đã để lại những ấn tượng và ảnh hưởng sâu sắc đối với công việc giảng dạy của tôi.

Còn nhớ cách đây đã lâu lắm rồi, ngày tôi học năm thứ 4 Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, tôi được học một buổi với Thầy – chỉ một buổi thôi nhưng đã để lại nhiều ấn tượng sâu đậm. Ngày đó Thầy đến lớp, giảng bài Săn sóc sức khỏe ban đầu trong Nhi khoa, khác với tất cả các giảng viên khác đó là Thầy chỉ giảng bằng hình. Thời đó hình không phải dễ làm, phải chụp bằng phim dương bản (slide), vô khung và phải dùng máy chiếu slide để trình chiếu. Và chính là nhờ những hình ảnh ấy của Thầy mà tôi thấy được Săn sóc sức khỏe ban đầu là những hoạt động thực tế, thấy được cuộc sống thật, thấy được những cảm xúc của người dân thể hiện qua những nụ cười, những vẻ mặt hân hoan, những hoạt động tích cực của họ. Nhờ đó mà tôi có được những cảm nhận sâu sắc, điều mà những bài giảng khác không cho tôi được và đó chính là điều mà tôi nhớ nhất.

Bẵng đi một thời gian tôi không có dịp gặp Thầy cho đến ngày tôi vào Trung tâm Thông tin & Giáo dục sức khỏe để Thầy phỏng vấn khi tôi xin làm việc tại Trung tâm. Thầy hỏi tôi nhiều về các hoạt động xã hội, văn nghệ mà tôi đã tham gia. Đó là điều mà tôi không ngờ tới. Nhưng điều mà tôi không ngờ tới hơn nữa đó là Thầy bảo tôi trang trí cho một tờ giấy bristol trên gắn những tấm ảnh mới chụp về các hoạt động của một chương trình thí điểm giáo dục sức khỏe thông qua mạng lưới nhân viên sức khỏe cộng đồng ở xã Hiệp Phước, huyện Nhà Bè. Cùng ngồi với tôi, Thầy đọc các chú thích ảnh cho tôi viết và Thầy đã hướng dẫn thêm nhiều điều lý thú ví dụ như cách ghi thứ bậc bằng số khi viết tên người như “chị 4 Điện” thay vì “chị Tư Điện” theo cách viết của người dân tại địa phương. Việc để tôi tận tay làm và hướng dẫn trực tiếp tại “hiện trường” giúp tôi cảm thấy tự tin hơn và cũng “nhớ bài” tốt hơn. Đó cũng chính là cách mà Thầy đã định hướng cho Bộ môn Khoa học hành vi & Giáo dục sức khỏe tổ chức cho sinh viên học qua thực hành, thực tế.

Tính đến nay tôi đã làm việc chung với Thầy 22 năm và tôi cũng đã đi dạy chung với Thầy rất nhiều lần. Tôi nhớ cách đây hơn 15 năm, lần đó tôi cùng với Thầy giảng cho lớp Bác sĩ Chuyên khoa cấp I Vệ sinh dịch tễ tại Cần Thơ. Tôi phụ trách giảng một bài và tôi đã chuẩn bị nội dung bài giảng khá chi tiết. Tôi nhớ đó là vào một buổi chiều và tôi đã giảng đến hơn 5 giờ, vượt hơn giờ kết thúc chính thức gần 10 phút. Kết thúc buổi giảng, Thầy không nhận xét nhiều chỉ nhẹ nhàng bảo tôi rằng đúng là tôi dạy rất bài bản, tuy nhiên Thầy cũng hỏi tôi là liệu rằng người ta có tiếp thu được gì không vào thời gian cuối cùng nhất là vào những phút vượt giờ. Lúc ấy tôi giật mình và nhận ra rằng tôi đã cố giảng để hoàn thành nhiệm vụ của mình mà không để ý gì đến việc tiếp thu của người học mà đó mới chính là điều quan trọng nhất trong việc dạy-học. Từ đó tôi tập giảng bài thoải mái hơn, bớt lệ thuộc vào những nội-dung-chuẩn-bị-trước của mình mà hướng đến việc đáp ứng những nhu cầu của người học.

Tôi có nói với nhiều học trò hoặc người quen rằng cách giảng dạy của Thầy Ngọc rất khó bắt chước thậm chí là không thể bắt chước vì không lần nào Thầy giảng giống lần nào. Tất nhiên Thầy có chuẩn bị trước và đến với các lớp tập huấn Thầy với tôi thường trao đổi với nhau về những nội dung gì cần đề cập và những hoạt động gì của học viên cần triển khai. Tuy nhiên đó chỉ là cái sườn còn lại thì Thầy nói tùy cảm nhận mà mình quyết định sẽ nói điều gì, nói cách nào, kể những câu chuyện vui gì… Vì vậy mà về sau này tôi cũng nhập tâm dần cách giảng dạy của Thầy, đến với bất cứ một lớp học nào, nhất là những lớp học lần đầu gặp mặt, tôi cũng dành ra một thời gian để cảm nhận rằng học viên đang muốn gì, đang không muốn gì và kể cả đang có những ưu tư, trăn trở gì ngoài việc học. Trên cơ sở đó mà tôi quyết định nội dung hoặc cách thức mà tôi giảng dạy giống như Thầy vậy.

Còn một điều nữa cũng rất khó bắt chước ở Thầy đó là trong giảng dạy Thầy kể rất nhiều câu chuyện dí dỏm, dùng nhiều sự so sánh rất đắc, chiếu nhiều hình ảnh ấn tượng… Cái nghệ thuật ấy, tôi phải dùng chữ “nghệ thuật”, mang phong cách nghệ sĩ đặc trưng Đỗ Hồng Ngọc. Nhiều khi chỉ bằng một câu chuyện vui mà Thầy làm cho người học “nhớ đời”, chỉ một trò chơi mà làm người học giật mình, hoặc chỉ một sự so sánh, một cách giải thích từ ngữ mà khiến mọi người hiểu rõ những khái niệm và kể cả thêm yêu ngôn ngữ Việt nhuần nhị, sâu sắc. Thật sự thì tôi cũng “cọp-dê” những câu chuyện, sự so sánh, những hình ảnh, những trò chơi Thầy đã dùng để đưa vào các buổi giảng của mình nhưng mãi vẫn không toát được cái phong cách của Thầy. Thôi thì tôi sẽ cố trau dồi thêm… cái “máu nghệ sĩ” của mình để có thêm sự nhạy cảm, sự tinh tế ngõ hầu trong giảng dạy có thể bật ra những “nốt nhạc” riêng của mình.

Có lẽ những điều tôi nêu trên đây chưa thể nói hết về phong cách giảng dạy của Thầy, nhưng có một điều mà tôi muốn nói đó là nếu không có sự hướng dẫn, khơi gợi của Thầy thì tôi đã không chọn giảng dạy là cái nghiệp của mình vì lẽ nhờ Thầy mà đối với tôi hiện giờ giảng dạy không chỉ là một khoa học mà còn là một nghệ thuật, không chỉ là cái nghề mà còn là cái nghiệp trong đó mình trở thành một đóm lửa nhỏ nhen nhóm cho những ngọn lửa lớn cháy lên trong lòng người học, trong lòng con người.

 

23g30 28 Chín 2011

 

………………………………………………………………………………………………………………

 

Đỗ Hồng Ngọc, ba trong một

Nguyễn Thị Phương Trinh

 

Ghi chú: Bài viết ngắn dưới đây của một cô học trò khác: Bác sĩ Nguyễn Thị Phương Trinh, tốt nghiệp Đại học Y dược Tp.HCM năm 1991, hiện làm từ thiện tại một Phòng khám Lão khoa ở Gia Kiệm, Đồng Nai. Phương Trinh viết bài này gởi thầy Ngọc từ mấy năm về trước, cũng nhân Ngày Nhà giáo VN  20.11 khi cô còn đang công tác về Y tế học đường ở một trường Trung học phổ thông tại Bà rịa -Vùng tàu…

 

Tôi biết Đỗ Hồng Ngọc (ĐHN) trước hết là một Bác sĩ, một Thầy dạy của trường Y, nhưng sau đó, cái làm tôi đến với Thầy BS đó là  ông dạy Cộng đồng, và cho đến sau này, kết nối tôi, để cho tôi qui ngưỡng, cúi đầu là vì ông giảng kinh, nói pháp.

Tôi học Y, đi xã hội, làm giáo dục. Trong công cuộc đổi mới toàn diện & căn bản nền giáo dục VN hiện nay, cần kết hợp hai nhà: nhà giáo và nhà Phật. Riêng lãnh vực  Giáo dục sức khỏe (GDSK) trong nhà trường thì phải thêm một nhà nữa để thành bộ ba: Nhà Y – Nhà Giáo – Nhà Phật. Nói như thế để thấy ĐHN ba trong một đặc biệt thích hợp với học trò.

Xa hơn, rộng hơn, cao hơn, là  Nâng cao sức khỏe (NCSK), liên quan đến những nguồn lực xã hội, chúng ta sẽ thấy rằng Sức khỏe liên quan chặt chẽ với Xã hội. Muốn nâng cao SK, phải nâng cao XH. Mà ĐHN, nhìn kỹ lại, là nhà hoạt động xã hội trong từng lãnh vực, y tế, giáo dục, Phật học. Vậy thì đó là người đang làm sự nghiệp NCSK.

Nhưng trên hết, tôi thích ĐHN vì ông là Nhà văn. Ông đã chuyển thể giáo trình, giáo án, kinh điển ra văn chương, mà văn chương bao giờ cũng thích hơn. Tôi vẫn thích cái nhìn, phân tích mọi chuyện mọi sự trên đời, kinh tế, chính trị, văn hóa, giải trí, pháp luật, hình sự, tào lao, bát nháo… dưới con mắt Đạo Phật, sâu sắc & đơn giản với giọng văn nhẹ nhàng, dí dỏm.

Như vậy, xét về Kiến thức – Kỹ năng thì ĐHN hội tụ đủ.

Một lý do nữa để tôi thích đọc ĐHN là ông viết về Tác giả, Tác phẩm. Tôi biết thêm một nhân vật, một cuốn sách nữa để tìm mua. Tôi thích kiểu đó, vì lười và vì có đọc cũng không hiểu hết, cho nên tủ sách của tôi, ngoài sách ĐHN, còn những sách khác, tôi mua về chưng, làm của.

Ví như Giáo sư Cao Huy Thuần (CHT), tôi biết đầu tiên là trên báo Văn hóa Phật giáo, tôi đã phải nhảy nhổm lên đi tìm xem ông này là ai, ở đâu, thế hệ nào, thuộc đảng phái chính trị ý thức hệ nào. Thấy sách ra mang tên CHT là tôi mua về ngâm. Đến khi thấy CHT trong “Nhớ đến một người” của thầy Ngọc thì tôi vô cùng khoái chí, vậy là cùng fan. Lúc đọc giới thiệu Chuyện  trò của BS ĐHN thì tôi tốc ra mua liền, đem về ngâm tiếp. Coi như đọc rồi.

Tôi ước mong BS ĐHN tiếp tục đọc và tiếp tục chuyển thể, phiên dịch (nói theo cách của ông), giới thiệu sách. Việc này sẽ muôn đời bất tận không bao giờ hết. Xin chân thành cảm ơn BS ĐHN, Thầy ĐHN, Giảng sư ĐHN, Nhà văn ĐHN. Chúc cho ông trường sanh bất lão. (Ông đang rất trẻ khỏe vui vẻ yêu đời yêu người).

 

Nguyễn Thị Phương Trinh

 

Thuộc chủ đề:Ghi chép lang thang, Nghiên cứu khoa học, giảng dạy, Vài đoạn hồi ký

Giai phẩm THƯ QUÁN BẢN THẢO: Những Nhà Văn Nhà Thơ Sống và Viết ở Phan Thiết, Bình Thuận

06/11/2022 By Bac Si Do Hong Ngoc 2 Bình luận

 

Giai phẩm THƯ QUÁN BẢN THẢO

Những Nhà Văn Nhà Thơ Sống và Viết
ở Phan Thiết, Bình Thuận

 

 

Sưu tập & biên soạn: Phạm Văn Nhàn
Kỹ thuật, trình bày: Trần Hoài Thư
Sửa lỗi: Ngọc Bút
Sách dày 352 trang
Thư Ấn Quán xuất bản 2022
Địa chỉ liên lạc: tranhoaithu16@gmail.com

 

Danh sách:
1) Vũ Anh Khanh 2) Bích Khê 3) Nguiễn Ngu Í 4) Hoài Khanh 5) Huyền Chi
6) Đỗ Nghê (Đỗ Hồng Ngọc) 7) Phạm Văn Nhàn 8) Từ Thế Mộng 9) Nguyễn Lệ Tuân
10) Huỳnh Hữu Võ 11) Tô Duy Thạch 12) Nguyễn Thị Minh Ngọc 13) Phạm Cao Hoàng
14) Nguyễn Thị Liên Tâm 15) Lê Nguyên Ngữ 16) Y Uyên 17) Nguyễn Như Mây
18) Nguyễn Dương Quang 19) Nguyễn Bắc Sơn 20) Lê Trọng Nghĩa (Đinh Quý Nhưỡng)
21) Nguyễn Nghiệp Nhượng 22) Phan Bá Thụy Dương 23) Trần Vấn Lệ
24) Chu Trầm Nguyên Minh 25) Cái Trọng Ty 26) Thiếu Khanh
27) Trần Văn Sơn 28) Đoàn Thạch Biền 29) Đài Nguyên Vu (Tôn Thất Trâm)

Chân thành cảm ơn anh Trần Hoài Thư và trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

Nguồn: https://tranthinguyetmai.wordpress.com/page/3/

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Đọc sách

Clip “Một Nếp sống An lạc” ở chùa Quảng Đức La-Gi 16.10.2022

01/11/2022 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Rất cảm ơn Nguyễn Văn Quyền đã gởi video clip Buổi Trò chuyện về “Một nếp sống An Lạc: Thở và Thiền, Ăn và Chay” tại Chùa Quảng Đức La-Gi ngày 16.10.2022.

Xin chia sẻ cùng các Cô bác, anh chị em quê nhà và Bạn bè những nơi xa không có dịp tham dự trực tiếp buổi Trò chuyện này. Do hệ thống âm thanh của chùa gặp trở ngại nên cũng có “trục trặc” đôi chút, mong thông cảm.

Một lần nữa, trân trọng cảm ơn Thầy Đức Thành trụ trì Chùa Quảng Đức La-Gi, thầy Minh Chánh chùa Quảng Hạnh và Nhóm Phật tử chùa Khánh An lần đầu theo bác Ngọc về thăm La-Gi quê nhà.

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc.

 

 

Cảm nhận của Thầy Đức Thành, trụ trì Chùa Quảng Đức, La-Gi.

TỪ TRÁI TIM ĐẾN TRÁI TIM

Đi qua một đoạn đường dài,
Dừng chân ngoảnh lại, nắng phai ít nhiều.
Tình thương kết nối thương yêu,
Tâm trong tâm ấy, nói điều an vui.

Nhân duyên hội đủ, ngày 21/9/ Nhâm Dần (16/10/2022), chùa Quảng Đức, thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận, được kết nối duyên lành, đón tiếp Bác sĩ – nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc (người con La Gi) về thăm chùa, thăm quê hương và chia sẻ với bà con Phật tử về những gì mà Bác sĩ, đi qua…và “truyền lại” cho mọi người: về sức khoẻ y khoa, cười, thở và thiền hành.

Có quý vị “cao niên” như: các nhà nghiên cứu, các nhà thơ, thầy cô giáo và các em nhỏ…

Có thể “đầy đủ” thành phần… lớp đi trước, lớp kế thừa…

Buổi chia sẻ của Bác sĩ , mang lại sự hữu ích mọi người, trong niềm hoan hỷ…chạm nhau từ lúc ban đầu, thân nhau từ lúc buông sầu bi tâm.

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, đã tặng cho đời gần 60 đầu sách…. 60 tác phẩm, viết về nhiều lĩnh vực, đề cập nhiều vấn đề khác nhau.

Xin trân trọng cảm ơn Bác sĩ, quý vị trong đoàn, cảm ơn quý vị trí thức, các nhà thơ, nhà văn, nhà giáo… CLB Hướng Đạo, cùng toàn thể quý vị.

Hy vọng, trong thời gian gần nhất, sẽ được đón những tấm lòng của quý vị về ngôi chùa thân thương, mang tính “lịch sử” của Phật giáo nơi này.

Ngưỡng nguyện sự an lạc lan tỏa khắp muôn nơi.

P/s: tổ truyền thông Quảng Đức, xin lưu lại những ân tình… trong niềm hoan hỷ vô biên.

💙🙏💙

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Thiền và Sức khỏe, Vài đoạn hồi ký

Thư gởi bạn xa xôi (10.2022)

23/10/2022 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Thư gởi bạn xa xôi (10.2022)

Về thăm Chùa Quảng Đức, LaGi

Quê gốc mình Lagi, tuy sanh đẻ ở Phan Thiết. Lagi cách Phan Thiết 50km, đường dọc biển và cách Saigon 160km. Lúc nhỏ, mình học ở Phan Thiết rồi vào Saigon, tính ra xa… Lagi đến 60 năm không ít, chỉ thỉnh thoảng về thăm. Nhiều người đọc không được chữ Lagi. Có người đọc thành Laghi, Người đọc Ladzi… ! Đọc đúng là phải đọc giống như “Là-Gì” (La Di). Vùng này rất nhiều La: La Ngà, La Ngâu, La Gàn… tiếng dân tôc có nghĩ là sông,  cũng như Tà là núi: Tà Cú, Tà Đặng, Tà Lài, Tà Bao… Lagi trước là huyện lỵ của huyện Hàm Tân, tỉnh lỵ của tỉnh Bình Tuy (thành lập 1956), thuộc Nam phần, nay trở về với Bình Thuận, tách khỏi huyện Hàm Tân, thành Thị Xã Lagi.

Chùa Quảng Đức có hàng trăm năm trước, với mái lá đơn sơ, sau xây dựng thành chùa Phật Học, rồi Chùa Quảng Đức ngày nay, qua nhiều đời Sư trụ trì, đã được chỉnh trang ngày càng hoành tráng, trang nghiêm.

Thầy Đức Thành trụ trì hiện nay mời mình về thăm chùa và có buổi Trò chuyện với bà con quê nhà. Mình gởi trước về chùa mấy thùng sách, để tặng thư viện, gồm cả sách Phật học, y học và văn chương. Đề tài buổi Trò chuyện là: Một nếp sống An Lạc, với Thở và Thiền, Ăn và Chay, có tính khoa học và thực tiễn, áp dụng vào đời sống hàng ngày.

Gởi bạn vài hình ảnh coi vui nhe.

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc

 

Thầy Thích Đức Thành, Trụ trì chùa Quảng Đức giới thiệu Bs Đỗ Hồng Ngọc, “người con của Lagi” về thăm quê nhà và có buổi Trò chuyện với bà con…

 

 

các chú tiểu dễ thương…

 

và các bạn trẻ

… hỏi đáp sôi nổi

rồi ký tên tặng sách

 

Thầy Đức Thành trao tặng tượng Phật cho Bs Đỗ Hồng Ngọc (16.10.2022)

 

 

chụp hình lưu niệm (16.10.2022)

 

Một bài viết của Phan Chính trên Fb

 

NGHĨ VỀ NHỮNG SINH HOẠT CHÙA QUẢNG ĐỨC, LA-GI

*Phan Chính

Nhân buổi nói chuyện “Sức khỏe và Thiền hành” với bà con Phật tử của chùa sáng 16/10/2022 mới đây.

Tôi không ngờ, vì khác với các buổi pháp thoại thường diễn ra ở nhà chùa bởi với đề tài của Bs.Đỗ Hồng Ngọc lại không kém phần hấp dẫn và quan tâm của những người đến dự với tinh thần Phật pháp của ngôi chùa vừa long trọng sự kiện “Lễ lạc thành” sau 7 năm trùng kiến quy mô, hoành tráng trên nền đất cũ của ngôi chùa đầu tiên cách đây 60 năm ở vùng đất La Gi.

Điều tôi hết sức ngạc nhiên, bên cạnh những hạng mục công trình thờ tự, tu tập gắn với lời Phật dạy:”Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian pháp”- đạo ở tại đời, đi từ đời vào đạo là thế! Đó là phòng truyền thống lịch sử, sinh hoạt, nghiên cứu… của đạo tràng qua các thời kỳ hình thành ngôi chùa Quảng Đức. Dù chỉ mới mở cửa nhưng với kế hoạch dài hạn phải đạt được điều đó. Dịp này Bs.Đỗ Hồng Ngọc đã chuyển về tặng 6 thùng sách về Sức khỏe, về Văn học và các đề tài Thiền tịnh, Phật học…
Tại giảng đường nghiêm tịnh chùa Quảng Đức- sau phần lễ Phật- qua lời giới thiệu rất trọng thị của Thượng tọa trụ trì Thích Đức Thành, Bs.Đỗ Hồng Ngọc đi ngay vào đề tài sức khỏe liên quan với thiền và thở như thế nào? Bằng những ví dụ dí dỏm, thân tình, dễ hiểu: “Hãy nương tựa chính mình. Bởi nói cho cùng, ai có thể “thở” giùm ai? Ai có thể “thiền” giùm ai! Hồi giờ tôi cũng đọc nhiều sách về Thiền, nhưng lần này tôi nghĩ không riêng bản thân mình mà có lẽ bà con Phật tử dự nghe cũng nhận ra phương pháp “Thiền và Thở” của ông thầy thuốc Tây y không khó mấy, để ứng dụng trong đời sống mỗi người. Các sinh hoạt như thế này ở một số chùa tại TP.HCM là bình thường. Cám ơn Chùa Quảng Đức đã có những sinh hoạt thiết thực, không chỉ Phật sự của nơi tâm tịnh, cho tu tập Phật pháp, mà coi Đạo Phật là đạo của con người, do con người và vì con người… Từ tư tưởng đó mà những sinh hoạt như chùa Quảng Đức đang phát huy là rất thiết thực có ý nghĩa, rất nhân văn.
Nói về Bs. Đỗ Hồng Ngọc là người con sinh ra ở đất La Gi, họ hàng gia tộc nội ngoại đều ở đây. Thật sự tự hào La Gi hiếm có một người thành đạt về mặt tri thức, nhân cách… và nặng lòng với quê hương. Tên tuổi của ông cả nước và rộng ra nước ngoài đều biết đến. Với trên 60 đầu sách đã xuất bản, gồm các tác phẩm thơ, văn và các đề tài về Y học, Phật học, Thiền học…Từng có sự hiểu nhầm ở số đông người đọc khi danh xưng là “Bác sĩ” Đỗ Hồng Ngọc, giữa hàng vạn bác sĩ trong nước- dù ông đã tốt nghiệp “Tiến sĩ y khoa quốc gia” năm 1969 của Đại học Y khoa Sài Gòn (tức Y khoa Đại học đường Sài Gòn)- Trong các buổi trò chuyện, làm diễn giả các buổi tọa đàm trao đổi về Y học, về Phật học…ở TP/HCM vẫn chiếc áo sơ mi trắng bỏ ngoài, khoác chiếc áo gió màu đen, chân mang dép…càng lạ lùng với người mới gặp lần đầu. Nhưng qua sách, qua cách nói chuyện của ông mới thấy đó là con người giản dị, trí tuệ, có tâm… Theo tôi, những tác phẩm của ông dễ đọc, dễ cảm nhận là do cái chất thơ đằm thắm trong ông đã “lậm” vào đó, mới mang lại sức truyền cảm cho từng trang sách, đến người đọc.
*PC (La Gi)
(Bài viết nhanh cho Fb)

 

Mang sách về chùa cho thư viện chùa thêm phong phú…

 

 

Thuộc chủ đề:Lõm bõm học Phật, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

  • « Chuyển đến Trang trước
  • Trang 1
  • Interim pages omitted …
  • Trang 10
  • Trang 11
  • Trang 12
  • Trang 13
  • Trang 14
  • Interim pages omitted …
  • Trang 122
  • Chuyển đến Trang sau »

Thư đi Tin lại

  • Lịch “Trò chuyện, giao lưu…”
  • Lại đính chính: “SAIGON BÂY GIỜ”
  • ĐÍNH CHÍNH: BSNGOC không phải là BS ĐỖ HỒNG NGỌC
  • Đính chính: BS NGỌC không phải là Bs Đỗ Hồng Ngọc
  • bsngoc đã lên tiếng đính chính
  • Thư cảm ơn và Đính chính về FACEBOOK Bác sĩ NGỌC
  • ĐÍNH CHÍNH: Bài viết "TÀN NHẪN" không phải của Bs Đỗ Hồng Ngọc

PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG

Bs Đỗ Hồng Ngọc với Khoá tu “Xuất gia gieo duyên” tại Tu viện Khánh An.

Hỏi chuyện Học Phật với Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Bản dịch tiếng Đức “Một Ngày Kia… Đến Bờ”

CON ĐƯỜNG AN LẠC Bài 6: Học cách Phật dạy con

Minh Lê: Đọc và Cảm “Một ngày kia… đến bờ”

Thăm Sư Giới Đức Triều Tâm Ảnh

Nguyên Cẩn: Đọc “Một ngày kia… đến bờ “của Đỗ Hồng Ngọc

“MỘT NGÀY KIA… ĐẾN BỜ” Tuỳ bút Đỗ Hồng Ngọc

Từ góc nhìn “Phê bình sinh thái” về bài thơ “Rùng mình” của Đỗ Hồng Ngọc

MỘT NGÀY KIA…ĐẾN BỜ V2

Xem thêm >>

Chuyên mục

  • Một chút tôi
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy

Bài viết mới nhất!

  • PNB giới thiệu: Sách “bỏ túi” CON ĐƯỜNG AN LẠC.
  • Video Podcast: Học cách Phật dạy con
  • Video Podcast: Vận động ở tuổi già
  • Video Podcast: Đỗ Hồng Ngọc “GIÚP CHA MẸ VUI TUỔI GIÀ”
  • Video Podcast. Phùng Minh Bảo: Chia sẻ trải nghiệm Chăm sóc Mẹ già

Bài viết theo tháng

Ý kiến bạn đọc!

  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Một vài góp ý về Video Podcasts trên dohongngoc com.
  • NamPhuong Ngo trong Một vài góp ý về Video Podcasts trên dohongngoc com.
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Phòng mạch của chim
  • H.Tuyen trong Phòng mạch của chim
  • Phạm Anh Trang trong Lịch “Trò chuyện, giao lưu…”
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Nước Mắm Phan Thiết
  • QN trong Thư gởi bạn xa xôi
  • Nguyễn Lê Hải Minh trong Nước Mắm Phan Thiết
  • Trần Liên Hương trong “Sách bỏ túi” cho người cao tuổi: CON ĐƯỜNG AN LẠC
  • Minh Trí trong Giao Lưu-Ra Mắt Sách Chuyện Hồi Đó của Đỗ Hồng Ngọc (10.8.2025)

Cùng một tác giả

  • 0
  • 1
  • 1
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6

Thống kê

Nhà tài trợ

biệt thự vũng tàu
biệt thự vũng tàu cho thuê | biệt thự vũng tàu cho thuê theo ngày giá rẻ | cho thuê biệt thự vũng tàu có hồ bơi
© 2009 - 2016 Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Phát triển & Hỗ trợ kỹ thuật bởi SGC.
Trích dịch nội dung để dùng trong nghiên cứu, học tập hay dùng cho cá nhân đều được tự do nhưng cần phải chú thích rõ nguồn tài liệu và đối với các trích dịch với mục đích khác, cần phải liên lạc với tác giả.
  • Một chút tôi
    ?
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    ?
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    ?
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    ?
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    ?
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy
  • Nhận bài mới qua email