Về thơ Đỗ Nghê/ Đỗ Hồng Ngọc
Ghi chú: Nguyên Minh – người chủ trương bán nguyệt san Ý thức và Nhà xuất bản Ý thức những năm 70 ở Saigon – sắp ra tập san Quán Văn số 9, trong đó có mấy bài viết về thơ Đỗ Nghê/ Đỗ Hồng Ngọc. Mới đây nhà thơ Luân Hoán cũng đã “vẽ” Đỗ Nghê một bức chân dung bằng thơ rất độc đáo được nhiều bạn trẻ quan tâm, muốn tìm hiểu thêm thế hệ 4X… ngày xưa. Vì vậy, xin được gởi đến các bạn vài bài Bạt và Tựa ở các tập thơ của Đỗ Nghê/ Đỗ Hồng Ngọc trước đây như một chia sẻ ở chỗ thân tình.
ĐHN (Đỗ Nghê)
Lời Bạt THƠ ĐỖ NGHÊ
( NXB Ý Thức, 1974)
Vài dòng sau một tập thơ
Lữ Kiều
Đọc xong một tập thơ, cảm tưởng hoàn toàn tùy thuộc phía người đọc – cho nên, viết thêm vài dòng về tập thơ là công việc thừa thải. Xác định điều đó, tôi tưởng như vậy có thể từ chối viết về anh – anh bạn Đỗ Nghê.
Tôi muốn anh đến với người đọc thơ anh một mình. Nhưng hôm nay, tập thơ anh đã thực hiện xong, Anh muốn tôi viết vài dòng. Công việc quả thật khó khăn với tôi. Viết về thơ anh? Tại sao phải viết về thơ anh, khi những dòng thơ đã ào ào muôn ý nghĩa – Tự nó nói lên từng thao thức của anh, nằm trong thao thức chung của thế hệ chúng ta?
Phải, thơ anh đã là một sự đầy đủ không cần bổ sung, nhất là với tôi – mà sự thân tình giữa chúng ta đã làm tôi trở nên chủ quan thái quá.
Nhưng còn viết về đời sống của anh trong những năm anh làm tập thơ này? Đây là ý kiến của một người bạn khác. Có lẽ, trong một ý nghĩa nào đó, tôi có thể viết về đời sống ấy, cho dù điều đó có chạm đến tính khiêm nhường của anh.
Đời sống của anh? Ta phải bắt đầu từ lúc nào nhỉ? Có lẽ từ tuổi hai mươi, khi chúng ta theo đuổi ngành Y khoa. Đó là năm 1963, trong buổi chiều nhạt nhòa ánh sáng, ở khu cơ thể học viện, tôi nhìn thấy anh đang lúi húi bên một xác chết, tay cầm dao, giải phẩu từng thớ thịt, từng đường máu, từng sợi gân. Bấy giờ chúng ta đang học về con người trong nghĩa đen của nó, tôi thấy anh đeo kính cận thị – khuôn mặt hồn nhiên, hơi mộc mạc giữa đám bạn bè – có lẽ vì màu da ngâm đen, mái tóc hơi quăn, rồi tôi nghe giọng anh nói, giọng nói vùng Bình Tuy hơi lạ tai, nhưng êm ái, không lớn, không nhỏ. Tôi nhìn thấy anh cười – không quá vui, không quá lộ, tôi cũng nhìn thấy anh nhíu mày nhìn xác chết – cái nhíu mày không quá xót xa, đau đớn. Tóm lại anh mang hình ảnh của một chàng sinh viên hiền lành, trầm tĩnh, tiết độ. Ấn tượng về sau để lại trong tôi một định kiến đặc biệt, và xác định với tôi một tĩnh từ mà tôi muốn dành riêng cho anh: Một người nghiêm túc.
Hơn mười năm qua, tôi đã không nhầm về anh. Một người nghiêm túc. Và điều quan trọng là anh làm thơ. Thơ anh cũng giống người anh vậy.
Hình như chúng ta chỉ bắt đầu thân nhau, khi cùng làm báo Tình Thương; những bài thơ anh ký Đỗ Nghê xuất hiện trên tờ báo của trường, những bài thơ, thoạt đầu không gây một chú ý nào quan trọng. Nhưng về sau, những số báo thiếu thơ anh, cho tôi cái cảm tưởng trống vắng điều gì đó.
Điều gì? Phải chăng là nét đặc thù của thơ anh. Tôi phải diễn đạt thế nào cho đúng?
Đầu tiên, anh là người tha thiết với quê nhà – anh sống và làm quen với Sàigòn là một điều không tự nhiên. Tuy nhiên, Sàigòn đối với chúng ta là một thực tế phải chấp nhận, cho nên chúng ta phải hòa mình với bạn bè, trường học, bệnh viện – Hòa nhi bất đồng, phải thế không anh?
Những bài thơ anh làm thời 59-60 về Phan Thiết, về Lagi, về Rạng – Những bài thơ anh làm ở lứa tuổi chưa đầy hai mươi mà ngôn ngữ thi ca đã già cỗi như thời tam thập nhi lập, đã chứng cho điều đó. Chính anh cũng xác nhận những bài thơ đầu tiên của anh là những bài Đường luật!
Và chính trong thời sinh viên, mà những biến động lịch sử đã vây đời ta tứ phía. Anh dự vào cuộc đấu tranh bằng tinh thần ôn hoà, trí thức, và nhất là trầm tỉnh. Lúc con người nghệ sĩ của anh tỏ rạng. Những cuộc xuống đường, hội thảo, gậy gộc, lựu đạn cay của thời 1966. Anh nhớ không, bao giờ chúng ta cũng có mặt, chúng ta cũng đã từng chạy vào những ngỏ hẻm Phan Đình Phùng để thoát thân, nhưng với anh, không bao giờ có sự phẫn nộ quá đáng, anh đưa tôi xem “Tâm sự Lạc Long Quân”, “Niềm tin”, “Lời ru”, “Cổ tích về ngôn ngữ”… những đêm cùng nhau trực gác ở Bệnh viện Nhi đồng, trong những đêm rất khuya, trên lầu 3 nội trú. Anh là một nghệ sĩ chứ không phải tay xách động. Rõ ràng như vậy. Nhưng những bài thơ anh, quả thật đã kích thích bạn bè lúc bấy giờ, gây cho họ một bầu máu nóng sôi sục. Càng đọc, càng chua cay, càng đọc càng muốn bạo động.
Thời trẻ rồi qua đi. Đã đến lúc chúng ta phải nghiêm trang đặt vấn đề với lịch sử. Bài “Điệp khúc” của anh ra đời. Đó là những câu hỏi thành thật, thẳng thắn mà anh đặt ra với những bậc đàn anh của chúng ta… Có lẽ sự thể đã khác đi, nhưng tôi nghĩ – một lần cho xong, đặt những câu hỏi như vậy là một thái độ can đảm – nằm trong sự nghiêm túc của anh.
Năm 1969 – Chúng ta rời mái trường Y khoa. Anh về một bệnh viện ở Nha Trang. Tôi ra một bệnh viện ở Đảo, giữa những người tù. Chính thời gian quân ngũ đã dạy cho ta nhiều điều. Những điều mà suốt bảy năm miệt mài nơi trường học, bệnh viện, các bậc thầy không dạy ta. Thời gian này anh bị bạo bệnh. Cơn loét dạ dày đã làm anh vật vả, đem anh đến gần cái chết.
Từ đảo về, tôi tìm đến thăm anh ở bệnh viện, người anh xanh như tàu lá – quả thật anh đã cận kề với cái chết của chính anh, như tôi đã kề cận với cái chết của những tù binh ngoài đảo. Hình như hôm ấy chúng ta không nói gì, anh không còn hơi sức để nói, nhưng anh đã mỉm cười. Một nụ cười nồng thắm làm lòng tôi se sắt. Tôi biết, kề bên cái chết lòng yêu đời phục sinh ta!
Tôi không nhầm – những bài “Niềm tin chưa mất”, “Bông hồng cho tuổi thơ” đã xác nhận với tôi điều đó. Phải rồi, anh là kẻ yêu cuộc đời này, dù bất hòa với nó.
Anh Lê Văn Ngăn nói đúng, có lẽ viết về anh, một dạng thức viết về tôi – là một điều dễ dàng. Nhưng thật sự thì nó chẳng soi tỏ được gì. Có lẽ nó là một thứ phụ đề vào thời gian tính của tập thơ anh.
Vậy một lần nữa, tôi thật ân hận nếu những dòng trên chạm đến tính khiêm tốn của anh. Có nó, hay không có nó, anh cũng đã làm thơ, đã in thơ, và đã có nhiều người đọc thơ anh.
Vậy, anh hãy đến với họ một mình.
Lữ Kiều (Thân Trọng Minh)
1973
Lời tựa GIỮA HOÀNG HÔN XƯA
thơ Đỗ Hồng Ngọc (NXB TRẺ, 1993)
Đỗ Trung Quân
Có một chàng thi sĩ một hôm vì lẽ gì đó bỏ đi làm thầy thuốc. Mười năm…hai mươi năm…anh cặm cụi chăm sóc, chữa lành, làm dịu nỗi đau của trẻ thơ; anh buồn vui cùng nỗi buồn vui của những người làm cha mẹ. Đời sống trôi đi trong bận rộn thường ngày.
Nhưng những hoàng hôn tím biếc ngày xưa vẫn còn loang mãi trong sâu thẳm riêng mình. Những sân ga ngày xưa vẫn còn nguyên vẹn bóng hai người không đi cùng chuyến tàu hạnh phúc. Sợi tóc ngày xưa vẫn thương hoài ngàn năm trong ký ức. Không có ai ngoài chính mình, người thầy thuốc ấy lại tự an ủi, tự băng bó bằng tiếng thì thầm của chàng thi sĩ buồn bã. Thơ – thứ không cần thiết cho người này nhưng cần thiết cho người khác. Mà kẻ khác đôi khi là chính ta.
Tôi xác tín. Ta đang có trong tay một thứ thơ đích thực. Không cố buồn khi chưa đủ buồn. Không cố vui khi chưa đủ vui. Không cố nhớ khi chưa đủ nhớ! Thứ Thơ mọc từ cội rễ tâm hồn, tự nhiên và giản dị như lời nói. Nhưng, là thứ lời nói đủ để làm giật mình: “Khi anh cắt rún cho em. Anh đã xin lỗi chân thành rồi đó nhé. Vì từ nay em đã phải cô đơn. Em đã phải xa địa đàng lòng mẹ…”
Có phải đó là nỗi cô đơn dằng dặc của thân phận con người? Con người đã mồ côi, lang thang vào đời sống ngay lúc mới lọt lòng? Nỗi cô đơn buộc con người đi tìm hạnh phúc. Nỗi cô đơn tạo thành tình yêu – ngay cả khi tình yêu đã mất, đã chia xa…
Và, có phải nhờ thế. Cái nỗi buồn rực rỡ, nỗi cô đơn tuyệt đẹp ấy của bất cứ ai như anh – Đỗ Hồng Ngọc. Đời sống vốn nhiều bất trắc đã bớt bất trắc hơn. Khổ đau cũng có thể mọc lên những bông hoa đẹp đẽ. Tuyệt vọng bỗng có vẻ đẹp riêng. Và đời sống vẫn vĩnh cửu ở một chiều không gian khác…”
(1993)
Lời Bạt THƯ CHO BÉ SƠ SINH & NHỮNG BÀI THƠ KHÁC
thơ Đỗ Hồng Ngọc (Đỗ Nghê)
(NXB Văn Nghệ, 2010)
Thơ Đỗ Hồng Ngọc: Ẩn hiện giữa cuộc đời
Huỳnh Như Phương
Không kể những bài thơ đầu tay thuở học trò, chỉ tính từ tác phẩm đầu tiên đăng trên tạp chí Bách khoa ở Sài Gòn năm 1960, đời thơ Đỗ Hồng Ngọc đến nay đã tròn nửa thế kỷ. Nửa thế kỷ với bốn tập thơ giữa những khoảng cách khá xa nhau: Tình người (1967), Thơ Đỗ Nghê (1974), Giữa hoàng hôn xưa (1993), Vòng quanh (1997), Đỗ Hồng Ngọc gây cho chúng ta cảm tưởng ông là một nhà thơ thoắt ẩn, thoắt hiện, ẩn mà hiện,hiện mà ẩn. Có phải vì cái tên Đỗ Hồng Ngọc đã quá nổi tiếng với tư cách một tiến sĩ y khoa đã phần nào che mờ tác giả như một nhà thơ? Hay là vì chính những tác phẩm bàn về y học, thiền học của ông, với chất thơ bàng bạc trong đó, cũng mang đủ những phẩm chất thi ca, cho nên người đọc không còn phân biệt ở ông đâu là nhà thơ, đâu là thiền giả và đâu là bác sĩ của tuổi thơ?
Tiếng Việt mình có những từ đồng âm thật là tuyệt diệu: thơ, tuổi thơ, trẻ thơ, ngây thơ, tình thơ, ngày thơ…, những từ khác nghĩa mà thật gần nghĩa, cộng hưởng vào nhau. Đọc Đỗ Hồng Ngọc từ gần 40 năm trước, tôi nhận ra rằng tất cả những “thơ” đó đều hiện diện trong thơ văn ông. Thì đây, hãy đọc lại một khổ thơ ông viết về Mũi Né năm 1970:
Mũi Né ơi người xưa đã xa
Mùa ơi gió bấc nhớ không ngờ
Năm nay người có về ăn Tết
Có ngậm ngùi nghe chút ấu thơ…
Chút ấu thơ lúc nào cũng làm ta ngậm ngùi, đó là một nét thuộc về phong cách Đỗ Hồng Ngọc. Hồn thơ này nhạy cảm với những gì đã qua, những gì đã xa, biết là mất mà không tin là mất, vẫn có thể níu kéo được, vẫn có thể gìn giữ được, bằng kỷ niệm, bằng tình yêu và bằng chính thơ ca:
* Mùa xuân mừng tuổi thơm tho áo
Nắng cũng vàng phai ngày cũng xa.
* Lòng em biết có ngàn xưa cũ
Hay cũng mòn phai theo bóng trăng
* Còn chuyến tàu nào say sân ga
Người về Mường Mán về Sông Pha
Người ra Mũi Né về Đại Nẫm
Thương giọt chuông chiều Lạc Đạo xa
Đỗ Hồng Ngọc chọn thơ ca và chọn nhi khoa là phải lắm. Ông chăm sóc thơ như chăm sóc tuổi thơ và chăm sóc tuổi thơ như chăm sóc mầm thơ. Ông không xem thơ như mục đích tự thân, cũng không xem thơ như một công cụ, mà để thơ tựa vào cuộc đời, tựa vào tình người. Câu thơ của ông chan hoà, giản dị, như tự bật ra từ trái tim, và khi thấy lòng mình đã lên tiếng vừa đủ, thì thơ ông nhẹ nhàng rút lui hay ẩn mình trong khói sóng.
Cung cách “ẩn mình” đó là cách hiện diện của thơ Đỗ Hồng Ngọc ngay từ trước 1975, khi ông chọn bút hiệu ghép từ họ cha và họ mẹ (Đỗ Nghê) và chọn hình thức phổ biến hạn chế bằng ronéotypé. Trong hồi ký Những chuyến ra đi, nhà văn Lữ Phương nhắc đến kỷ niệm về những câu thơ mà cho đến nay ông vẫn không hề biết tác giả là ai: “Một ông thầy dạy Pháp văn tên Nguyễn Khánh Long ở kế bên nhà tôi, trước khi bắt đầu giờ học đã đọc cho học sinh chép bài thơ đem từ Sài Gòn về, không biết ai là tác giả, ca ngợi Quách Thị Trang bị bắn chết trong một cuộc biểu tình chống Ngô Đình Diệm trước chợ Bến Thành, trong đó những câu tôi còn nhớ được:
“Có cần gì một con đường mang tên em
Một công trường hay một hoa viên
Vì tên em đã lồng khung tuổi trẻ
Vì tên em không còn là một tên riêng…”
Đây chính là bài Em còn sống mãi Đỗ Nghê viết năm 1964, lần đầu in báo Tình thương, sau được Kiên Giang Hà Huy Hà đăng lại trên báo Điện tín.
Riêng người viết bài này, thì lần đầu tiên đọc và thuộc thơ Đỗ Nghê là qua trung gian của báo chí và âm nhạc. Đó là những câu thơ biểu hiện hơi thở và mùi vị Phan Thiết mà Thu Thuỷ trích dẫn trong một bài giới thiệu trên nhật báo Chính luận (1974): Chân run rẩy cát bờ Thương Chánh/ Gió ở đâu về thơm bước khuya…
Trong bài giới thiệu đó, Thu Thuỷ tán đồng nhận xét của Lữ Kiều, một bạn văn và đồng môn của Đỗ Hồng Ngọc, rằng hai tố chất chủ đạo của người và thơ Đỗ Nghê là nghiêm túc và đôn hậu. Đó còn là bài Lời ru do Miên Đức Thắng phổ thơ Đỗ Nghê, một bài hát “thật chua xót và cũng thật dữ dội”, như Thế Uyên nhận xét. Chính Lời ru là một trong ba ca khúc phản chiến đã khiến chính quyền Sài Gòn đưa Miên Đức Thắng ra toà với bản án năm năm khổ sai:
Rất nhiều đêm rất nhiều đêm
Tôi vỗ về tôi thủ thỉ
Ngủ đi con ngủ đi con
Ngày mai rồi khôn lớn
Cầm súng với cầm gươm.
Ngủ đi con ngủ đi con
Ngày mai rồi khôn lớn
Giết bạn bè anh em
Ngủ cho ngon ngủ cho ngon
Ngày mai rồi khôn lớn
Bán nước mà làm quan
(…)
Cùng với hai bài thơ Em còn sống mãi và Lời ru nói trên, Thư cho bé sơ sinh tạo ra một “thế chân vạc” cho vị trí của thơ Đỗ Nghê, khiêm tốn mà riêng biệt, trong thơ đô thị miền Nam thời chiến. Rõ ràng là Đỗ Nghê có mặt trong dòng thơ tranh đấu lúc đó như một chọn lựa: chính ông đã từng thuyết trình về đề tài này ở Đại học Y khoa Sài Gòn năm 1964, như Nguiễn Ngu Í tường thuật lại trên tạp chí Bách khoa. Nhưng với bài Thư cho bé sơ sinh, ngòi bút Đỗ Nghê không chỉ tranh đấu cho hoà bình như một lẽ phải đương nhiên, mà còn suy ngẫm về thân phận con người trong một thời buổi nhiễu nhương và phả hơi ấm tình yêu con người trong một cấu trúc ngôn ngữ hiện đại. Thật kỳ lạ, ở tuổi 25, Đỗ Hồng Ngọc đã tự đặt cho mình một cột mốc thơ ca mà chính ông không dễ gì vượt qua. Ni sư Giải Nghiêm có lý khi cho rằng nhiều bài thơ và bài viết của Đỗ Hồng Ngọc về sau này dường như là một sự nối dài Thư cho bé sơ sinh.
Thư cho bé sơ sinh còn đặc trưng cho thơ Đỗ Hồng Ngọc ở điểm này: tác giả khai thác nhiều khía cạnh tương phản của đời sống: tiếng khóc và nụ cười, màu sáng và màu tối, thực chất và nhãn hiệu, cái bé bỏng nhỏ nhoi và cuộc đời rộng lớn; nhưng không đẩy nó vào thế đối lập mà đưa những tương phản đó thành những hợp thể. Phải chăng đây cũng là dấu ấn của lý tưởng hoà hợp trong thơ ông sau này, khi ông viết những bài thơ mang hơi thở thế sự hay mang tâm thức thiền học.
Giữa hoàng hôn xưa và Vòng quanh là một giai đoạn mới của thơ Đỗ Hồng Ngọc. Quả là một nghịch lý, khi hồn thơ mở ra những không gian mới, nó lại vẫn không thôi chịu sức hút của kỷ niệm. Cho nên, trong tuyển thơ này, tác giả cố ý để lẫn lộn những bài thơ của những thời kỳ khác nhau để bạn đọc cảm nhận được sự chan hoà của quá khứ và hiện tại, của chất “nghiêm túc” và đôn hậu, lý tưởng và lãng mạn, của đau thương và hy vọng.
Có thể nói Đỗ Hồng Ngọc là người nhặt thơ của chính mình đánh rơi trên những ngả đường. Đọc Giữa hoàng hôn xưa, ta tưởng chừng như nhà thơ để lại trái tim mình nơi những góc phố, những bến thuyền của thị xã Phan Thiết mà tuổi trẻ ông đã đi qua. Đến tập Vòng quanh, Đỗ Hồng Ngọc nhặt tiếp một lẵng thơ từ những chân trời xa: dưới một vầng trăng Boston, vào một muà tuyết Montréal hay trong màu nắng toả sáng vườn Luxembourg – nơi từng in dấu chân bao văn nhân thi sĩ. Thì ra chuyến đi nào cũng là một cuộc hành hương trên cõi đời này.Một lúc nào đó, dường như Đỗ Hồng Ngọc ngộ ra rằng đâu có phải mình đang đi mà chính là thời gian bước đi trong mình, bước đi qua những sợi tóc không còn xanh, bước đi qua kỷ niệm, bước đi qua nhớ thương.
Và như vậy thời gian không còn gợi lên niềm sợ hãi. Ngày tháng cứ trôi đi, đó là quyền lực của tạo hoá. Còn con người cũng biết cách biến tình yêu và niềm tin của mình thành “quyền lực”. Tin rằng một cái gì đã hiện hữu thì không thể nào là hư vô. Đó là niềm tin của nhà thơ khi cầu nguyện cho hình ảnh thân yêu đã chia lìa bước ra từ một phim trường hay hiện về trên màn hình vi tính. Thật ra, ý hướng thiền học và cảm xúc tâm linh đã ươm mầm trong thơ Đỗ Hồng Ngọc từ rất sớm. Nhưng phải qua những trải nghiệm nào đó về cuộc đời, người ta mới có thể nghĩ sâu về Tâm kinh như tác giả Nghĩ từ trái tim. Cũng như phải đạt đến một sự hoà hợp nào đó giữa “ngã” và “tha”, người ta mới viết được những câu thơ như Đỗ Hồng Ngọc:
Hội An còn ngái ngủ
Mái chùa ôm vầng trăng
Giật mình nghe tiếng chổi
Gà gáy vàng trong sương.
Tan biến giữa mênh mông, ta còn biết nhận ra mình ở đâu? Chỉ là ở cái giật mình. Và hễ còn giật mình là còn có thơ.
HNP
(5.2010)
Con chào bác,
Con muôn tim mua 03 quyen ve Phat hoc cua bac : 1/ Guom bau trao tay;2/ Thien & suc khoe ;3/ Gi dep bang sen? ( con da co quyen ” Nghi tu trai tim” roi) de gui cho Co con o ben Uc. Con co the tim mua o nha sach nao vay bác? Bac chi cho con voi. Con cam on bac nhieu a.
“Gươm báu trao tay” con hỏi ở nhà sách Trí Tuệ (góc Nguyen Dinh Chieu / CM Tháng 8. Hai cuốn kia… chưa ra! Tuy nhiên con có thể nói Cô con đọc trên http://www.dohongngoc.com/web/ cũng được.
Hôm nay mới được đọc những dòng thơ gọi là “phản chiến” của nhà thơ ĐN (ĐHN): “Em còn sống mãi”… Bài hát “Lời ru” thì đã nghe anh MĐT giới thiệu một lần.
Cám ơn HNP.