Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Tập hợp các bài viết của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Ghi chép lang thang
  • Nhận bài mới qua email

PNO: Hãy nhớ mẹ ngay phút giây này, dù mẹ ở kề bên hay xa xôi…

10/08/2022 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc:

Hãy nhớ mẹ ngay phút giây này, dù mẹ ở kề bên hay xa xôi…

(https://www.phunuonline.com.vn/bac-si-do-hong-ngoc-hay-nho-me-ngay-phut-giay-nay-du-me-o-ke-ben-hay-xa-xoi-a1470115.html)

 08/08/2022 – 16:44

PNO – Đó là một buổi tiệc cảm xúc với những ký ức về mẹ trong buổi giới thiệu sách “Bông hồng cho mẹ và những cảm nhận học Phật” của tác giả Đỗ Hồng Ngọc.

Những ký ức về mẹ luôn làm lòng người thổn thức. Dù người con có được lớn lên trong vòng tay mẹ hay không, dù mẹ vẫn còn ở nhân gian hay đã về chốn suối vàng, tiếng Mẹ không khỏi khiến ta rưng rưng khi nhắc về.

Bởi thế, vào mùa Vu lan này, buổi giới thiệu sách Bông hồng cho mẹ và những cảm nhận học Phật của tác giả Đỗ Hồng Ngọc tại Hội quán Các Bà Mẹ (Q.1, TPHCM) bỗng trở thành cuộc hội ngộ cảm xúc của những người con. Người tóc bạc, kẻ đầu xanh cùng thả hồn theo tiếng đàn lời ca, cùng trò chuyện về nghề về đời, về sống vui sống khỏe, cùng tập thiền và thở.

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc nhắc lại những kỷ niệm trong mái nhà xưa ở miền quê Phan Thiết (Bình Thuận). Cha ông mất trong rừng, do bị bệnh mà không được thuốc thang, nên ở tuổi 12 thời điểm đó, ông nguyện lớn lên sẽ làm nghề y.

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đa tài cũng đã sớm bén duyên với nghiệp văn thơ. Hồn thơ thức dậy ngay khi ông đỡ đẻ, săn sóc em bé sơ sinh, kê thuốc cho bệnh nhi… tạo nên những vần thơ độc lạ riêng có ở nhà thơ áo blouse trắng.

Năm 2012, giỗ đầu của mẹ cũng vào mùa Vu lan, ông viết bài thơ Bông hồng cho mẹ: “Con cài bông hoa trắng/ Dành cho mẹ đóa hồng/ Mẹ nhớ gài lên ngực/ Ngoại chờ bên kia sông”.

Nỗi đau mất mẹ qua lời thơ của thi sĩ Đỗ Nghê – Đỗ Hồng Ngọc trở nên nhẹ nhàng như áng mây, như cơn gió. Mẹ xa con để mà gần ngoại, tưởng chừng không có mất mát, không có chia ly chỉ có tình thương xuyên thế hệ, lưu chuyển ấm nồng trong cõi vô thường. Ông giải thích đơn giản về bút danh của mình: Đỗ là họ cha, Nghê là họ mẹ.

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc - nhà thơ Đỗ Nghê trong vòng tay bạn bè, người hâm mộ
Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc – nhà thơ Đỗ Nghê (áo xanh nhạt) trong vòng tay bạn bè, người hâm mộ

Chị Kim Anh (Q.Tân Phú, TPHCM) chia sẻ: “Lúc mẹ mới mất, tôi rất nhớ mẹ, cứ nặng lòng day dứt về chuyện mình đã vô tâm, về những việc chưa làm kịp cho mẹ. Nhưng giờ tôi đã hiểu mình cần làm nhiều việc tốt cho gia đình, giúp đỡ trẻ em nghèo được đi học như thuở sinh thời mẹ vẫn làm thì ở nơi xa, mẹ sẽ thỏa lòng. Và điều quan trọng nhất là phải biết yêu thương bản thân, sống thật khỏe mạnh, hạnh phúc. Mẹ cũng chỉ mong con gái cưng của mẹ được như thế”.

Vì công việc bận rộn nên anh Hoàng Quân (Q.7, TPHCM) ít về thăm cha mẹ ở quê, cũng ít gọi điện thoại trò chuyện, hỏi han, chỉ gọi khi thực sự cần thiết. Gửi tiền về cho cha mẹ, anh chỉ cần chuyển khoản cho đứa cháu. Một hôm anh gọi điện thoại, đứa cháu bắt máy. Đang lấy quần áo ở ngoài sân vì trời đổ mưa, mẹ hớt hơ hớt hải chạy vào và vấp té. Mẹ vội vã vì nghĩ chắc có chuyện gì anh mới gọi về và vì sợ con mình phải đợi lâu, con làm gì có dư thời gian.

Nhắc lại chuyện này, đôi mắt anh đỏ hoe. Anh bộc bạch: “Thời nay, câu nói cửa miệng là “bận rộn quá” đã thành quen. Thực ra ai mà chẳng có 24 giờ mỗi ngày, chỉ có điều là mình ưu tiên điều gì mà thôi. Và tại sao mẹ không nằm trong sự ưu tiên đó? Chính mẹ là người đưa mình đến thế giới này để mà tiếp cận những mối quan hệ, những cơ hội, những vui sướng, vinh quang, nói chung để mà… bận rộn”.

Một lần trò chuyện trong dịp ra mắt sách Những thằng già nhớ mẹ của Vũ Thế Thành, thi sĩ Đỗ Hồng Ngọc đã cuộn trào cảm xúc và viết lên bài thơ Gởi người bạn trẻ: “Người bạn trẻ ơi! Đừng bao giờ như chúng tôi, những thằng già nhớ mẹ/ Hãy nhớ mẹ ngay phút giây này/ Dù mẹ ở kề bên hay xa xôi…”. Những “phút giây này”, những “kề bên”, “xa xôi” đưa chúng ta trở về với cội nguồn thân yêu và tình gia đình thiêng liêng.

Tô Diệu Hiền

 

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Vài đoạn hồi ký

Có một cuốn sách mới: “BUÔNG”

05/08/2022 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Có một cuốn sách mới: “BUÔNG”

 

 

Thay lời tựa

Thư Cao Huy Thuần gởi Đỗ Hồng Ngọc

Anh Đỗ,

Thư anh đến trong lúc tôi đang đọc quyển sách của Mark Epstein, nhan đề là “Advice not given”. Đây là quyển sách thứ ba của cùng tác giả mà tôi đọc, toàn là xếp vào hạng best-sellers ở Mỹ. Epstein là bác sĩ tâm thần nổi tiếng. Nổi tiếng vì là thầy thuốc giỏi. Và nổi tiếng là nhà Phật học uyên thâm. Có gì lạ đâu, phải không anh Đỗ? Đức Phật của chúng ta đã chẳng là thầy thuốc đó sao! Lặn lội trong chuyên môn phân tâm học với Freud, với Jung, ông chợt thấy đức Phật, ông lặn lội qua Tây Tạng “học Phật”, học cả với các danh sư ở Mỹ, và ông đem đạo Phật áp dụng vào chuyên môn của ông, rốt cuộc ông nổi tiếng cả hai, cả cách trị liệu tâm thần, cả tư tưởng Phật giáo. Ông sống với đạo Phật trong chuyên môn, ông sống với đạo Phật trong đời thường, càng sống ông càng hiểu thêm đạo Phật, ông đem hiểu biết đó vun trồng trên đất Mỹ cho hợp với thủy thổ xa lạ, và đạo Phật bây giờ sáng trên thủy thổ ấy, anh Đỗ à, tôi cho rằng đích thị hai chữ “học Phật” là như vậy.

Hay thật, anh đâu có biết ông ấy, ông ấy đâu có biết anh, vậy mà tay trong tay, anh đi cùng đường và cùng “học Phật” như thế. Lý tưởng, hành động, cuộc đời, cao đẹp thay là ông thầy thuốc tương chao!

Anh Đỗ, bây giờ tôi hỏi anh câu này nhé, vì anh với tôi đều đã đọc “Tổng Quan về Nghiệp” của Thầy Tuệ Sỹ: Anh “học Phật” trước hay học Y trước? Chắc anh sẽ trả lời: hiển nhiên là học Y. Nhưng mà, nghĩ thêm chút nữa, cái gì xúi anh học Y? Cái gì xúi anh thích Y? Cái gì xúi anh thành ông bác sĩ như thế, lúi húi hành nghề rồi lúi húi dùi mài kinh kệ? “Cái đó”, tôi chắc là anh có trước khi học Y. “Cái đó”, tôi cũng chắc là ông Epstein có trước khi thành danh với bác sĩ tâm thần. “Cái đó”, chính là cái xúi anh đến với Phật mà anh không biết đó thôi, anh đến với Phật trước khi học Y. Anh “học Phật” từ lâu rồi, từ kiếp nảo kiếp nao, để bây giờ thành danh với… Đỗ Hồng Ngọc. Cho nên tôi nói: “Tiên học Phật, hậu học…”. Hậu học cái gì cũng được, cái gì cũng thành danh, ít nhất là thành danh con người.

Nhưng tôi chưa nói hết: anh đâu phải chỉ là ông thầy thuốc, cái danh của Đỗ Hồng Ngọc còn là con người thơ. Cũng vậy, tôi cũng lấy từ “Tổng Quan…” mà ra: thơ đến với anh từ trước khi anh làm thơ. Thơ là tiếng nói trong tận cùng thâm cung bí sử của tư tưởng. Cái gì mà tư tưởng không nói nên lời được thì phải diễn tả bằng thơ. Thơ đời Lý đời Trần là như vậy. Và thơ đó, chắc anh đã đọc không phải chỉ ở trong kiếp này. Cho nên bây giờ hồn anh nhập vào thơ của Thầy Tuệ Sỹ. Cho nên bây giờ anh thấy Phật trong thơ. Cho nên bây giờ một tay anh bốc thuốc, một tay anh viết thơ, thuốc thơm mùi thơ, thơ thơm mùi thuốc.

Còn có chuyện này nữa, hơi khó nói. Tôi thấy thấp thoáng có một người thứ ba nữa nấp sau hai con người kia. Thấp thoáng thôi, đây đó, kín đáo, chỉ nghe tiếng cười cười, tinh tế lắm mới nghe. Chẳng hạn khi anh nói chuyện ngồi thiền. Tất cả đều nghiêm trang, tôi chỉ trích mấy câu cuối:

Hơi thở xẹp xì

                             Thân tâm an tịnh

                             Không còn ý tưởng

                             Chẳng có thời gian

                             Hạt bụi lang thang

                             Dính vào hơi thở

                             Duyên sinh vô ngã

                             Ngủ uẩn giai không

                             Từ đó thong dong

                             Thõng tay vào chợ.

Rất nghiêm chỉnh, kể cả lúc anh vô chợ mà chẳng để mua gì, vì hai tay thõng thế kia thì làm thế nào móc túi lấy tiền? Thế rồi anh cắt nghĩa: “Mặt hồ tĩnh lặng thì không cần ghi bóng con hạc bay qua, không cần biết hạc vàng hay hạc đỏ, hạc trống hay hạc mái…” Ối giời, hạc vàng thì chỉ bay trên lầu Hoàng Hạc trong thơ Đường, đâu có bay trên mặt hồ Sài Gòn hay Phan Thiết? Bạn tôi nhầm với con vạc “như cánh vạc bay” rồi chăng? Không phải đâu. Nhà thơ nghĩ ra hai chữ “trống mái” rồi nhà thơ khoái chí vừa hạ bút vừa cười cười, hạc hay vạc thì có gì đáng quan tâm?. Ấy là bụng để ngoài da, con người thứ ba “anh linh phát tiết ra ngoài” đấy nhé. Có ai đa tài mà chẳng đa… tình?

Tôi “học Phật”, ngồi thiền với anh, thỉnh thoảng thấy tâm có hơi lộn xộn như thế, chắc anh cũng cười cười mà thông cảm nhau. Nhưng, nói nghiêm chỉnh nhé, con người thứ ba là cái duyên của anh. Chữ nghĩa mà không có duyên thì buồn lắm. Cho nên thỉnh thoảng anh cứ cho anh chàng thứ ba ấy cười cười một chút như thế, và mọi người sẽ cùng vui mà “học Phật” với anh.

Thân mến,

Cao Huy Thuần

(Oct 29, 2021)

 

MỤC LỤC

Thay lời tựa: Thư Cao Huy Thuần gởi Đỗ Hồng Ngọc

1. Biết rồi còn hỏi! 13
2. “BUÔNG” 17
3. Ngoài hư không có dấu chim bay? 25
4. Sáng, trưa, chiều, tối… 33
5. Thiền và Trí thức 43
6. “Ba điều bốn chuyện” 55
7. Mùa Cô-vi: Nhắc chuyện Độc cư/ Thiền định/
Kham nhẫn/ Tri túc

8. Nói thêm về Thở Bụng 69
9. Con đường an tịnh 79
10. Phật cười dưới trăng… 93
11. Học cùng “Từ Huyền Thoại tới Tâm Kinh”
của Nguyên Giác 97
12. Về thăm đất Phật, Nepal 107
13. Úc du và vài bài học hay 115
14. Mười hạnh Phổ Hiền 119
15. “Bốn lời nguyện rộng lớn” 135

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Thư gởi bạn xa xôi (8/2022)

03/08/2022 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

Thư gởi bạn xa xôi (8/2022)Đúng là mình không có Ngày Sinh Nhật thiệt bạn à, vì Bà Má mình nói chỉ nhớ tháng 8. Thời chiến tranh mà!

Vì thế, có lần mình viết cho một người bạn trẻ ở phương xa mấy câu khi hỏi Ngày Sinh Nhật:

Anh không có Ngày Sinh Nhật

Nên mỗi ngày là Sinh Nhật của anh

Cảm ơn em

Nhớ đến anh

Ngày Sinh Nhật…

Ai dè có người Minh Lê, nhớ “Tháng Sinh Nhật” của mình, từ nơi xa xôi gởi một món quà nhỏ.

Mình thấy không nhỏ tí nào. Giấu biệt. Ai dè blog tranthinguyetmai “xin những tình thân ái/ còn hoài như hôm nay”, đưa lên mạng…

 

Nhẹ hẫng bụi trần

(nguồn https://tranthinguyetmai.wordpress.com/2022/08/02/nhe-hang-bui-tran/)

Minh Lê

Đỗ Hồng Ngọc
self-portrait

Có nhiều cách lý giải việc ra đời một sinh mạng mới, từ sinh học đến triết học, chỉ riêng Bác sĩ – Thi sĩ Đỗ Hồng Ngọc viết:
“Một hôm hơi thở tình cờ
Dính vào hạt bụi thành ra của mình.”

(Thở) (1)

Hợp lý và dễ hiểu hết sức: có thở mới có sự sống mà. Nhưng nhà thơ lại kín đáo “dính” vô một chút bụi để thành “của mình”, làm chi vậy? Thì “của mình” là cái “ngã” theo cách nói của Phật đó. Cái “ngã” này nó xúi mình “tham – sân – si”, “ngã” càng nhiều thì “bụi” càng dày, hơi thở càng mệt mỏi.

Mà không phải ai cũng biết mình đang tích “bụi” đâu nghen, nhứt là cái thời son trẻ “chân son bước giữa bụi hồng không hay” (Qua trường) (2) Từ tuổi thanh niên nhiều ước mơ và hy vọng, rồi sang tuổi trung niên thành đam mê và tham vọng. Tới một lúc nào đó, bụi trĩu vai người, giựt mình nhìn lại, bỗng thấy mình:
“Một gùi đầy ắp chân không
Lênh đênh xuống núi giữa mênh mông người…”

(Chân không) (3)

Đã “chân không” mà lại “đầy ắp” mới hay! Chắc tác giả vừa viết vừa cười tủm tỉm: ai hiểu sao tùy… hỉ. Người chưa thấy mình đang tích “bụi” thì cái “chân không” đó nặng trĩu những thứ vô thường như tiền tài danh lợi. Người biết mình đang tích “bụi” thì cảm được lượng “bụi” mình đang mang ngày nào đó sẽ hóa “chân không”. Còn người đã “ngộ” thì gùi trên vai nhẹ hẫng, “tâm không” luôn rồi.

Gùi nặng thì lưng còng, chân loạng choạng, nên “lênh đênh” giữa hồng trần một cách trôi nổi, không biết đi về đâu, “giữa mênh mông người” bỗng thấy lẻ loi. Gùi nhẹ thì lưng thẳng và chân cũng nhẹ, cứ thong thả mà “lênh đênh xuống núi”, “giữa mênh mông người” vẫn thấy an vui. Chỉ hai câu thơ mà “tùy người, tùy tâm” có thể hiểu ba cách khác nhau.

Nếu nói trạng thái tâm đắc cuối cùng là “tâm không”, không có cái gì là “của mình”, vậy mình tồn tại trong cuộc đời này làm cái gì? Lý do đây:
“Của mình chẳng phải của mình
Thì ra hơi thở của nghìn năm sau…”

(Thở) (4)

Hơi thở “của mình” trong hiện tại sẽ được tiếp nối bằng những hiển hiện “mình” trong tương lai, nghìn năm sau và lâu hơn thế nữa. Nên giờ mình phải sống cho đẹp, cho vui để “mình” trong tương lai sống càng đẹp, càng vui.
Thi sĩ Đỗ Hồng Ngọc luôn có những câu thơ dễ hiểu mà không dễ để… hiểu khiến người đọc phải chịu khó nghĩ và ngẫm. Lại như câu này:
“Mới hay năm tháng phôi pha
Mỗi đêm là mỗi giao thừa… thiệt vui!”

(Tuổi Tôi) (5)

Hồi nhỏ đón giao thừa mỗi năm một lần, giờ qua “năm tháng phôi pha” lại đón giao thừa mỗi… đêm. Thời gian với cuộc đời đã ngắn lại, nên mỗi ngày mới đều đáng vui đáng quý. Nhưng tôi nghi tác giả lại đang “tùy hỉ” ở đây, bởi cũng có thể hiểu rằng khi biết “năm tháng” sẽ “phôi pha” thì sẽ biết trân quý mỗi 24 giờ đang tới.
Trở lại chuyện hơi thở. Bởi thi sĩ cũng là Bác sĩ nên không nỡ để người đọc bơ vơ trong chốn bụi trần mà từ tốn chỉ vẽ cách thở:

“Thả lỏng toàn thân
Như treo móc áo
Ngồi xếp bằng tròn
Vai ngang lưng sổ
Dõi theo hơi thở
Như mượn từ xa
Khi vào khi ra
Khi sâu khi cạn
Chú tâm quãng lặng”

(Thả lỏng toàn thân thả lỏng chưa) (6)

Tác giả khiêm tốn nói đây chỉ là một bài vè “tập thở” nhưng trong thực tế làm được như vậy là dư sức có “thân tâm an tịnh” (6) Hơi thở giờ đây đã sạch bụi rồi!

Càng đọc Đỗ Hồng Ngọc, tôi càng thấy nụ cười tủm tỉm của Anh nhẹ và sâu hơn. Xin tặng Anh một “chân dung” từ một người không có tài vẽ, cũng không có tài làm thơ:

Có một người

Cười tủm tỉm chữa bịnh
Cười tủm tỉm mà làm thơ
Cười tủm tỉm học Phật

Nụ cười anh
Nhẹ hẫng bụi trần.

Minh Lê
(31/7/2022)

Ghi chú:
(1), (2), (3), (4), (5) Thơ Đỗ Hồng Ngọc, trích từ “Thơ gởi bạn xa xôi (4): Lục bát” 9/2/2022, dohongngoc.com https://www.dohongngoc.com/web/lom-bom-hoc-phat/nghi-tu-trai-tim-lom-bom-hoc-phat/thu-goi-ban-xa-xoi-4-luc-bat/
(6) trích từ “Thả lỏng toàn thân thả lỏng chưa?” 25/1/2017, dohongngoc.com https://www.dohongngoc.com/web/o-noi-xa-thay-thuoc/thay-thuoc-va-benh-nhan/tha-long-toan-tha-long-chua/

Thuộc chủ đề:Ghi chép lang thang, Góc nhìn - nhận định, Vài đoạn hồi ký

Hội quán Các Bà Mẹ: Giao lưu với Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc về cuốn “Bông Hồng Cho Mẹ & Những Cảm Nhận Học Phật”

30/07/2022 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Hội quán Các Bà Mẹ:

Giao lưu với Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc về cuốn “Bông Hồng Cho Mẹ & Những Cảm Nhận Học Phật”

Ngày 17.7.2022

Cảm ơn Ng. Văn Quyền đã thực hiện một clip thật dễ thương cho buổi Trò chuyện thân mật giữa Đỗ Hồng Ngọc và các bà mẹ, các thân hữu tại Hội Quán Các Bà Mẹ, số 7 Nguyễn Thị Minh Khai, Quận 1, Tp HCM, ngày 17.7.2022.

Địa điểm nằm trong khung cảnh một Chợ quê, dưới bóng cây đa cổ thụ, giữa lòng Saigon ồn ào náo nhiệt trong một buổi sáng Chủ nhật, quả là không dễ tìm! Lại còn cái căn gác nhỏ, ọp ẹp, chật chội, không cả ghế ngồi… Nhiều bạn đến trễ, không lên gác được phải bỏ về, cằn nhằn mãi…

Hội quán CBM thì nói có chỗ khang trang, rộng rãi, bề thế hơn… nhưng lỗi tại bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc cứ đòi lấy một chỗ quê mùa, cũ kỹ, như chỗ một Bà Mẹ Quê ngày xa xưa đó vậy.

Mong thông cảm.

Đỗ Hồng Ngọc.

 

 

 

 

 

 

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Gươm báu trao tay, Phật học & Đời sống, Vài đoạn hồi ký

Trần Vấn Lệ “May Mà Còn Nhớ Thương!”

29/07/2022 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Trần Vấn Lệ “May Mà Còn Nhớ Thương!”

Đỗ Hồng Ngọc

Trần Vấn Lệ ở Mỹ, về Việt Nam chơi mấy hôm! Ái chà. Không dễ đâu nha. Anh chàng thi sĩ từng đòi “một đi không trở lại” mà lần này quyết về thăm “người ta ở bển…”, nơi Cồn Thới Sơn sông nước Tiền Giang một chuyến. Lại vừa có tập thơ Dã Quỳ Thương Nhớ ra mắt! Rồi làm một vòng lên Dalat, đến Dran, về Phan Thiết… rất vui.

Về Đàlat, không khóc mà nước mắt cứ chảy, Lệ nói. Đã ở đó 32 năm mà! Rồi về Tiền Giang, qua Cồn Thới Sơn thăm… người xưa, chỉ để vuốt mái tóc bạc phơ của nàng (một cái)… Còn về Phan Thiết thì chỉ kịp thăm mồ mả ông bà!

 

 

 

May Mà Còn Nhớ Thương     

Thơ Trần Vấn Lệ                                                                                     Gửi bạn tôi,

Bây giờ Phan Thiết mình dọc bờ sông phượng đỏ.  Ngọc ơi sao mình nhớ ngày xưa thuở học trò…

Ngày xưa ôi ngày xưa khi cây cầu đúc gãy, đò xé dòng nước chảy, hoa phượng trôi theo đò…

Mấy mươi năm không chờ, con sông đó chừ khác:  ba cây cầu được bắc…mà một người đi xa…

Mỗi năm một mùa hoa không bao giờ thay đổi, hoa phượng tàn, rơi, nổi, con sông đỏ ráng chiều…

Bạn mình cứ nhắc hoài – chuyện thời gian, hoa phượng.  Lòng mình thật đau đớn:  Tại sao mình bỏ quê?

Ngày xưa mỗi độ Hè, mình ra bờ sông hứng, hoa phượng bay trong nắng, lòng mình như nắng trong…

Hồi đó, Ngọc nửa chừng bỏ trường và xa bạn, mãi đến năm chin tám mình mới tìm lại nhau!

Thời gian qua thật mau, năm mươi năm thiếu chút, tưởng người còn người mất…té ra hai đứa còn!

Mình đang ở đầu non, đang trông về cuối biển:  Phan Thiết mình hiển hiện, Ngọc tóc bạc gió đùa…

Đang cũng vào mùa Hè, mình thấy thêm hoa phượng, đỏ rực trong trời nắng…mà tím hườm trong mơ!

Ngọc ơi, một chút thơ gửi về cho Ngọc ngó – mình, con thuyền chưa đỗ, mình, con thuyền còn trôi…

Mình đang rất xa xôi.  Ngọc cũng không gần gũi.  Phận người, con dế nhũi…May mà còn nhớ thương!

 

Trần Vấn Lệ viết ngày về thăm lại quê hương:

Năm 2016 tôi có chuyến về thăm gia đình ở Phan Thiết, tôi có gặp Đỗ Hồng Ngọc bằng-da-bằng-thịt tại Sài Gòn ngay lúc tôi vừa rời phi trường Tân Sơn Nhứt để về khách sạn.  Ôi bạn tôi…giống tôi:  Già!  Xa nhau từ năm 1955 đến năm 2016 mới gặp lại, ai còn sống mà không già khú đế?  Tay bắt mặt mừng, và khách sáo như không khách sáo: Cả hai đều ứa nước mắt.  Cả hai đều gọi tên nhau như…hổi nhỏ:  Ồ Ngọc!  Ồ Lệ!  Rồi, trước khi cầm đũa bữa cơm trưa, hai đứa mặc kệ lu bù người khách mời của BS Đỗ Hồng Ngọc, hai đứa chúng tôi nhắc lại một vài chuyện của thời tí hon:  Trong lớp mìnhcó hai thằng trùng họ trùng tên, chỉ khác có tên lót là Đỗ Hồng Ngọc và Đỗ Hoàng Ngọc.  Đỗ Hồng Ngọc biến mất khỏi trường Trung Học Phan Bội Châu Phan Thiết từ niên khóa 1955-1956 trở đi…biền biệt.  Năm 1989, tôi mới thấy lại cái tên Đỗ Hồng Ngọc trên báo trong nước.  Nay, hội ngộ Đỗ Hồng Ngọc thật tình…cứ ngỡ mình gặp ma!  Thời gian như nước chảy qua, tại sao con người hay đi ngược lại nhỉ? Tìm gì trong quá khứ?  Những nụ cười thắm tươi?  Những giọt lệ đoanh tròng?  Ôi, tìm gì cũng được…cốt là thấy cái bóng cái hình của cố nhân!

Trong chuyến về của tôi sau hai mươi bảy năm “trời ơi đất hỡi”, Đỗ Hồng Ngọc ký tặng cho tôi tập Tùy Bút mới nhất, Một Hôm Gặp Lại.

Đây là một cuốn sách khá dày của Đỗ Hồng Ngọc, 300 trang, khổ sách, vuông vắn, dễ thương.  Tôi từng “mê” tùy bút của Nguyễn Tuân, Vũ Bằng.  Có nhiều năm rất chờ mong tác phẩm mới của Võ Phiến về Tùy Bút.  Nay đọc Một Hôm Gặp Lại…của Đỗ Hồng Ngọc tôi thấy Tùy Bút là một thể văn đẹp, mềm mại, tao nhã không khác gì Thơ!  Xưa, xưa lắm Phạm Đình Hổ có cuốn Vũ Trung Tùy Bút…mô tả, cô đọng, hâm nóng chỉ vài ba giọt mưa trên tàu lá chuối mà đã ấm cả lòng người.  Bậy giờ đọc Một Hôm Gặp Lại của Đỗ Hồng Ngọc, xếp sách mấy lần, gần hai năm tròn trịa, vẫn nghe lòng nao nao, êm ru và diệu vợi…

Còn tôi, mỗi khi viết cho Trần Vấn Lệ không bao giờ quên nhắc Phan Thiết, lần nào đi ngang núi Tà Cú, dãy Ba Hòn, lang thang bên bờ sông Cà Ty (sông Mương Mán) … không thể không nhớ Hoài Khanh, nhà thơ xứ mình. Nhất là khi đi ngang Ba Hòn mình thường nhẩm câu thơ của Hoài Khanh “Người đi để dãy Ba Hòn chơ vơ” và cái Bưng Cò Ke ở ngay dưới chân dãy núi đó . Thế nhưng, nhớ lần ghé thăm Hoài Khanh ở Biên Hòa, anh đính chánh “Người đi nhớ dãy Ba Hòn trơ vơ” chứ!

Hoài Khanh sinh ra và lớn lên ở Đức Nghĩa, Phan Thiết. Nhà anh cách chỗ chùa mình ở không xa. Anh lứa lớn, đã phiêu bạt… giang hồ tự thuở nào, lúc mình còn cắp sách đến trường tiểu học bên bờ sông Cà Ty! Anh vào Saigon, làm thơ, làm báo và một mình dựng nên Nhà xuất bản Ca Dao nổi tiếng một thời. Và thơ Hoài Khanh thì thời tụi mình không ai không thuộc ít nhiều. Trong bài thơ Đức Nghĩa, Hoài Khanh viết:

Biển mang niềm nhớ đi hoang
Gió Trường Sơn luyến mây ngàn Tà Dôn
Ôi sương Núi Cú lạnh hồn
Người đi nhớ dẫy Ba Hòn trơ vơ
Cành dương cát trắng hững hờ
Nhìn nhau thuở ấy bây giờ nhớ nhau.

Hoài Khanh

Vậy đó. Nói tới Phan Thiết là vậy đó. Biển. Cát trắng. Đồi dương. Mây ngàn. Tà Dôn. Tà Cú. Ba Hòn…Tình cờ gặp Phạm Gia Cẩn, ở Úc về, là học sinh đệ thất Phan Bội Châu Phan Thiết 1956, sau bọn mình 2 lớp. Cẩn nhận ra mình, anh em bèn kéo vào quán café ngồi nhắc ngôi trường Phan Bội Châu cũ – là chỗ trường Tiến Đức ngày xưa bọn mình đã học ở đường Trần Hưng Đạo- trước khi dời qua trường mới sau này… Rồi nhắc Phan Đổng Lý, Trần Vấn Lệ, Phan Bá Thụy Dương… và những con đường làm mình không thể không kêu lên:

Ơi những con đường ta đã đi

Gia Long Đồng Khánh mượt xuân thì

Chân run rẩy cát bờ Thương Chánh

Gió ở đâu về thơm bước khuya…

(Đỗ Hồng Ngọc, Trên sông khói sóng 1970)

Núi Tà Cú, bạn nhớ không? Bọn mình ở Phan Thiết ngày xưa Mùng 2 Tết thường đi xe đò hay xe đạp lên Núi Cú chơi. Ôi nam thanh nữ tú. Đường bộ leo suốt vài giờ không thấy mệt. Riêng mình, nhà bà Ngoại ở ngay dưới chân núi Cú nên  từ hồi 4,5 tuổi đã được các cậu cõng lên núi cùng Bamá, có khi ở luôn mấy ngày liền, ăn tương chao cũng đã quen.

Bây giờ Tà Cú đã có cáp treo. Trong đoàn có nhà văn Elena, người Ý, vợ nhà văn Trương Văn Dân cứ nhứt định “Tà Cu, Tà Cu” dù đã học tiếng Việt mấy năm vẫn chưa phát âm đúng!

Tà là “núi”, vùng này mình có Tà Cú, Tà Dôn, Tà Đặng, Tà Lài, Tà Bao… Cũng như La là “sông”, có La Gi, La Gàn, La Ngà, La Ngâu v.v… (tiếng Chăm).

Tà Cú nổi tiếng với tượng Phật nằm, dài 49m, được xây dựng từ năm 1960 đến nay vẫn là một thắng cảnh tuyệt đẹp. Nguiễn Ngu Í đã có mấy câu thơ về Tà Cú:

Nhè nhẹ sương bông ôm núi lịm 

Êm đềm cây cỏ đắm trong mơ

Tiếng chuông đâu bỗng rung lòng đá

Ngó xuống trần ai thấy mịt mờ…

(Nguien Ngu I, 1945)

 

Hãy đọc Trần Vấn Lệ qua ngòi bút Kiều Minh Mạnh, người xư Dran dịp ra mắt tập thơ Dã Quỳ Thương Nhớ:

“Ông là người con của Phan Thiết- Bình Thuận. Nhưng là một người đã ở trọ Đà Lạt suốt 31 năm thì thành phố sương mù đối với Trần Vấn Lệ chắc chắn không chỉ “là nơi đất ở”, như ông đã tâm sự: “… Mình coi Đà Lạt như Cha Mẹ. Cha Mẹ đổi thay nét mặt, thân hình…nhưng không đổi thay tấm lòng…”. “Ai đã lên Đà Lạt, quả thật không muốn về…Tôi nhớ quá rừng thông, xanh xanh từng dốc núi. Nhớ cả con dế nhũi, chạy dưới gốc dã quỳ. Đà Lạt- tôi ở đây, mấy mươi năm khôn lớn…”

Hơn 15 năm làm thầy giáo: “Đà Lạt tôi thắm thiết, thời tôi dạy học trò, có em thơm như ngo, có em hiền như liễu…”  Chắc chỉ có thầy giáo nhà thơ thì mới cảm nhận học trò mình “thơm như ngo, hiền như liễu”. Ngo và liễu ở Đà Lạt thì nhiều lắm…mà sao lại không “thơm như thông” mà lại “thơm như ngo” nhỉ? Ngo được chẻ ra từ thân cây thông, là những đoạn thân đọng nhiều tinh dầu nhất, người ta dùng nhóm lửa.

Trong màu vàng thủy chung nhưng đầy tiếc nuối xuyên suốt Dã Quỳ Thương Nhớ, có một địa danh thi nhân thường nhắc đến bên cạnh Đà Lạt, đó là Dran- Đơn Dương: “Chiếc xe đò Đà Lạt xuống dốc về Dran, đường xe lửa nghiến răng chỉ còn trong ký ức. Lạy trời em đừng mất…vì còn hoa quỳ kia”…(TVL).

Thơ Trần Vấn Lệ như văn xuôi nhưng có vần có điệu. Nhiều bài chẳng có dấu câu khiến người đọc phải tự tìm ngắt điệu, có người tưởng đó là lỗi của biên tập in ấn, đọc đến bài gần cuối mới vỡ lẽ. Thơ ông lạ, nhưng ông làm thơ dễ dàng như hơi thở, câu từ bình dị, cấu tứ giản đơn, dễ tìm được sự đồng cảm. Trần Vấn Lệ  suy nghĩ bằng thơ, hoài niệm thành thơ, khóc cười cũng nên thơ…” (KMM).

 

Trần Vấn Lệ và Đỗ Hồng Ngọc (Saigon, 2016)

Cũng nên thêm một bài thơ nữa kiểu Trần Vấn Lệ:

Mỗi Bước Em Mùa Xuân

Tôi không biết bây giờ bãi biển Phan Thiết sao; nhưng tôi nhớ hồi nào…bãi biển Phan Thiết đẹp bởi em không mang dép, em đi hai chân trần, mỗi bước em, mùa Xuân gờn gợn như làn sóng… 

Buổi chiều không gió lộng, tóc em vẫn bềnh bồng.  Nắng hoàng hôn cửa sông (con sông Cà Ty đó), em trong manh áo gió, lồng lộng môt hình dung.  Em là đóa hoa hồng, tôi bồng mà được nhỉ, hôn bao nhiêu cho phỉ…cho trọn lòng nhớ nhung… 

Em đuổi những con còng / vòng quanh bàn chân ngọc.  Em đã quên mái tóc / thổi ngược về phía tôi.  Em em à em ơi…ngày đầu đời tôi biết mình yêu người ta thiệt (hồi đó tuổi hai mươi). 

…Rồi thì lặn mặt trời.  Rồi em về, bỏ biển.  Những con còng đau điếng cũng lội về biển sâu.  Em biết tôi đứng đâu cúi đầu thương nhớ lắm?  Bãi biển Phan Thiết ấm…còn hương thừa tóc em… 

Nhiều năm tôi lênh đênh trên rừng và trên núi.  Biển Phan Thiết vời vợi thấy ngang đường chân mây.  Nhiều năm tôi ở đây, nghẹn ngào đời viễn xứ, biển Phan Thiết…ai đó, có còn đi đuổi còng?  Tôi hỏi và tôi không nghe một lời vọng lại.  Tôi biết đời tang hải.  Tôi hiểu chữ đổi đời.  Nhưng tôi nhớ một người tóc thề thơm gió biển! 

Như…con còng đau điếng, tôi làm bài thơ này… Đó, là chiều hôm nay / lòng tôi đây yêu quý.  Tôi nhớ về tới Huế, ôi ai đó tóc thề… 

Trần Vấn Lệ

Bài thơ viết về sông Cà Ty Phan Thiết mà bỗng nhớ tới sông Hương khiến cho tôn nữ thu dung cũng phải kêu lên:

Nỗi nhớ từ Phan Thiết
Lang thang về sông Hương
Bởi con còng …đau điếng
Ngậm hoài một vết thương !( tntd)

 

Lần nọ, Trần Vấn Lệ nghe tôi có dịp về Mỹ Tho bèn nhắn:

Người ta ở bển…

                        bạn có qua cồn Thới Sơn
người ta ở bển…

(Trần Vấn Lệ)

bạn nhắn nhờ thăm người ta ở bển

cồn Thới Sơn giữa dòng Mekong

ta lặn lội trăm lần tìm kiếm

ngược xuôi khắp ngã chằng chịt bóng dừa xanh.

sông rạch quanh co lách con thuyền nhỏ

bập bềnh sóng nước phương Nam

 

bạn dặn người ta mười bảy

tóc chải mượt dầu dừa

môi thơm mùi kẹo

nước da trắng muốt

nhờ tắm nước dừa xiêm

ta lang thang kiếm tìm

gặp ai cũng hỏi

những cô gái Thới Sơn

má hồng hây hẩy

lắc đầu quầy quậy

hổng quen!

 

cho đến một hôm trời cũng chiều lòng

có một cô răng khểnh,

bẻ gảy sừng trâu,

rất xinh

đúng là người xưa của bạn

nàng nhìn ta đôi mắt long lanh

khi ta nhắc tên,

nàng ôm chầm lấy ta rồi kêu to

ngoại ơi ngoại ơi…

trần vấn lệ

ổng dìa nè!

 

Đỗ Hồng Ngọc

(Saigon, 22.01.2015)

 

Khi đọc tập thơ “Thư cho Bé Sơ Sinh & Những bài thơ khác” của Đỗ Hồng Ngọc / Đỗ Nghê  (2010), Trần Vấn Lệ viết: “… VUI VÌ NGHE TRÁI TIM MÌNH ĐẬP”, bởi vì “Thơ ông không rườm rà, không làm duyên làm dáng, không lập dị. Thơ ông là Thơ Hồn Nhiên, Thơ Nhã Nhặn, Thơ Ngọt Ngào. Tôi đọc thơ ông rồi úp cuốn sách lên ngực nghe ấm…Gió Bấc đang thổi ở quê nhà, ngày Xuân đang đến không riêng ai…”.

Khuất Đẩu ở Nha Trang bảo bài viết rất lạ. Mới nghe như có vẻ cà rỡn, bông lơn. Nhưng càng nghe càng thấy người viết cũng vào hạng thượng thừa. Viết như chơi, như giỡn, mà bóc tách được cái ẩn tàng của thi sĩ tình yêu. Xa cách đến vậy mà cũng gần nhau đến vậy. Điều ấy chỉ có văn chương mới làm được. Lại nữa, trong số hiếm hoi ấy có một người luôn tự nhận mình không phải là nhà thơ mà làm được như Đỗ Nghê.

(Nha Trang, 10.1.2010)

Còn cô giáo Lê Uyển Văn ở Trà Vinh thì bảo: Em đọc liền một mạch bài viết dài 9 trang này. Lòng rung lên theo chữ, nghẹn ngào theo chữ. Hạnh phúc vì tìm thấy trong bài viết đó những suy nghĩ của mình nhưng ở một tầm cao hơn, sâu rộng hơn, đáng ngả mũ kính trọng vì cái tâm, cái tài của người viết. Em thích nhiều đoạn lắm, nhưng đoạn này mới tuyệt vời làm sao! “Thơ Đỗ Hồng Ngoc / Đỗ Nghê không rườm rà, không làm duyên làm dáng, không lập dị. Thơ ông là Thơ Hồn Nhiên, Thơ Nhã Nhặn, Thơ Ngọt Ngào. Tôi đọc thơ ông rồi úp cuốn sách lên ngực nghe ấm… Gió Bấc đang thổi ở quê nhà, ngày Xuân đang đến không riêng ai…” Cái hình ảnh úp một quyển sách nào đó của anh lên ngực mà nghe ấm quả rất thực, và em tin nó thực với nhiều người. Ngoài kia, có chút lạnh, em hôm nay có chút buồn, buồn cho một đồng nghiệp trẻ sắp qua đời vì bệnh nan y, nhưng đọc bài viết này, em nghe ấm lắm! Em xin cảm ơn rất nhiều vì sự chia sẻ bài viết này. (Trà Vinh 1.2010).

Nói cách nào khác, phải chăng cái chất muối mặn, cái mùi gió Bấc thoảng hương của xứ sở Phan Thiết kia đã làm cho bọn họ gần nhau đến vậy?

(ĐHN, Saigon 7.2022)

………………………………………………………………………………………

 

Viết thêm:

Nhắc nhóm bạn lớp Đệ thất 1954 (lớp 6 bây giờ) Trường Phan Bội Châu Phan Thiết không thể không nhớ Phan Bá Thụy Dương (Thụy sỹ), Trần Vấn Lệ (Mỹ), Phan Đổng Lý (Úc), Huỳnh Tấn Thời, Đỗ Hồng Ngọc (VN)…   rải rác khắp chân trời góc biển, mãi 60 năm sau ngơ ngác gặp nhau cứ ngỡ là… ma như TVL nói, nhưng chỉ ngơ ngác rồi mày tao mi tớ một lúc thì vẫn là một… bầy học sinh non choẹt như hồi nào chẳng khác!

Một người bạn trong nhóm mới gởi lại tôi bài viết khi cả bọn có dịp gặp nhau sau 60 năm xa cách:

 

“Không biết Phan Đổng Lý đã “gieo trồng” mầm thơ thế nào mà bây giờ tuổi trên 70 bỗng nổi hứng làm thơ “vịnh” bạn bè, mà bài nào cũng… hay, cũng bộc lộ “bản sắc” của từng đứa!

… chỉ bằng vài nét chấm phá đã cho thấy một Phan Bá Thụy Dương tài hoa, khinh bạc:

… Trích tiên tại thế, vấy bụi trần hụp lặn kiếp đam mê!

Nay quỳnh tương đối ẩm, mai hương sắc giao kề

Lỡ ngồi ôm góc núi, mỉm môi cười nhân thế

Ánh dương quang rực rỡ, sao lại lạc đường về?

rồi Trần Vấn Lệ, thấy ngay một chàng thi sĩ hào hoa “mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”:

Ta vốn mịt mờ đường về bến cũ

Nên thuyền tình lơ lửng mãi dòng sông

Ta nào phải kẽ thả mồi bắt bóng

Mệnh an bài nên tình kiếp long đong…

Riêng bài thứ ba, dành cho Đỗ Hồng Ngọc, không biết “thần giao cách cảm” thế nào, có lẽ PĐL nhớ Đỗ Hồng Ngọc qua bài thơ “Thư cho bé sơ sinh” bèn “vịnh”

HÀNH Y

(Viết cho Đỗ Hồng Ngọc)

 

Là một kẻ phụng thừa y đạo

Mang huyết tâm trả nợ nhân sinh

Nhìn thai nhi tượng hình trong bụng mẹ

Ta thấy được gì trong cõi u minh

 

Tiếng u oa, em chừng vừa tỉnh giấc

Mang vào đời chút âm vọng bi ai

Mắt ngấn lệ em nhìn quanh ngơ ngác

Nợ tiền thân có trĩu nặng bờ vai

 

Ta nhìn em lòng bâng khuâng thương cảm

Mai đây rồi xuôi ngược biết về đâu

Đường vạn lý ta chúc em nhẹ bước

Có hoa vàng nắng rải, ngợp trăng sao

 

Ta nào phải kẻ bi quan yếm thế

Chỉ xót thương cho tuổi trẻ bạc phần

Vòng tay ta đã bao lần ôm ấp

Những mãnh đời, ôi, ngắn ngủi mệnh căn!

 

Ta chọn hành y, cứu nhân độ thế

Ta độ được gì, đã cứu được ai!

Đêm chập chờn ta nằm đợi ban mai

Ngày thoi thóp ta lại chờ đêm xuống

 

Ta đã lớn lên giữa thời lửa loạn

Gió bụi mịt mù Nam Bắc phân ranh

Tim quặn thắt trước cảnh đời tang tóc

Hồn đớn đau cho thân phận Lạc Hồng

 

Ta vẫn biết hữu sinh thì hữu diệt

Nhưng đầu xanh nào đã tội tình gì

Một chữ Nghiệp có vơi niềm oán khí

Một hồi Kinh có dịu nỗi sầu bi

 

 Ta đã một lần rong chơi địa phủ

Cầu Nại Hà, nhìn sóng gợn lăn tăn

Tâm tĩnh lặng giữa hai bờ sinh tử

Hồn nổi trôi theo con nước bập bềnh

 

Một kiếp nhân sinh chưa tròn cuộc nợ

Ngày tiếp ngày cười khóc với thế nhân

Lấy đạo tâm làm thế đạo tu thân

Mang  y đạo vào luân hồi chuyển thế .

 

Phan Đổng-Lý

(Melbourne Feb. 2013)

 

Ấn tượng nhất với Phan Đổng Lý là cái tính bộc trực, đôi khi có vẻ như “ngổ ngáo”  mà trong lòng tràn đầy cảm xúc. PĐL thường kể chuyện hồi đi học, anh rất ghét thầy Hiệu trưởng “ gặp mặt thì làm ngơ” nhưng với cô con gái của Thầy thì anh “mê mẩn ngó theo”. Cái đó anh gọi là “Thù cha mà không ghét con”! Cô bé đó vào trường sau bọn mình vài năm thì phải, nay chắc cũng đã 70 nhưng kiểu này gặp lại, có khi PĐL vẫn còn ngó theo mải miết chớ chẳng chơi!…”

(www.dohongngoc.com, 2013)

 

Chuyện còn dài. Hồi sau sẽ rõ.

Đỗ Hồng Ngọc.

(31.7.2022)

……………………………………………………….

Tg Anh Hai Trầu, Lương Thư Trung

Anh đã hỏi, không dám không trả lời. Tôi gởi anh và nhóm bạn bè Phan Bội Châu Phan Thiết cũ đọc vài bài thơ “trời ơi” này cho vui nhe.

ĐHN

 

PHAN BÁ THUỴ  DƯƠNG

Phan Bá Thụy Dương tên thật là Phan Bá Dương. Sinh năm 1940 tại quận Tuy Phong, Bình Thuận.
Khởi viết từ 1958 với các bút hiệu Thùy Dương, Người Áo Xanh, Vương Hầu… và từ năm 1966 về sau là Phan Bá Thụy Dương.

“Chủ nhân” trang Văn Hữu Vườn Tao Ngộ. Viết rất nhiều báo, làm Nhà xuất bản in sách cho thiên hạ, và thiên hạ in giùm lại cho một tập thơ duy nhất: Lời Gọi Cỏ May (2012).

(ĐHN)

……………………………………………………………………..

 

Lời Gọi Cỏ May của Phan Bá Thụy Dương

Đỗ Hồng Ngọc

Phan Bá Thụy Dương, tên thật Phan Bá Dương, sinh năm 1940 tại Tuy Phong, Bình Thuận, cùng học chung lớp Đệ thất A1 trường Phan Bội Châu Phan Thiết năm 1954 với Trần Vấn Lệ, Phan Đổng Lý, Huỳnh Ngọc Hùng, Huỳnh Tấn Thời, Đỗ Hồng Ngọc…

Bọn tôi “thất lạc” nhau mấy chục năm, người góc biển kẻ chân trời, năm nay bỗng gặp lại nhau- tình cờ cũng là dịp kỷ niệm 60 năm ngày thành lập trường Phan Bội Châu, Phan Thiết – đứa nào đứa nấy ngớ ra, đầu bạc răng long, ú ú ớ ớ rồi mày mày tao tao tíu tít như những cậu học trò nhỏ nghich ngợm ngày xưa bên bờ sông Cà Ty và bãi biển Thương Chánh!

Phan Bá Thụy Dương viết văn làm báo sớm, từ năm 1958 với nhiều bút hiệu, thân quen  nhiều người trong giới văn nghệ sĩ. Anh là một người “khoái hoạt”, vui tính, náo nhiệt, chuyện trên trời dưới đất gì cũng biết nên ai gặp cũng vui. Anh làm sách cho nhiều tác giả mà quên làm cho mình cuốn nào. Mãi nay bạn bè hối thúc quá mới in một cuốn “tuyển tập thơ văn Lời Gọi Cỏ May” cho vui. Lời gọi cỏ may có nhiều bài thơ cảm động, anh em bè bạn viết cho nhau.

Thơ Phan Bá Thụy Dương phải nói là hay, khoái hoạt mà khinh bạt… Thử đọc một đoạn trong liên khúc vô thường:

 

liên khúc vô thường

 

ném công án, vất kinh thư bất ngộ

theo đường trăng-

trăng khi tỏ khi lu

tìm người hiền nơi thâm cốc âm u

thõng tay vào rừng giả làm ẩn sĩ

giòng sinh mệnh

chừng nhuộm màu chướng khí

bến nhân gian ai quán niệm vô thường

hành trình xa ngựa đà lỏng dây cương

trên vách núi chân dung in mờ tỏ

…….

(LGCM, tr 4)

 

PHAN BÁ THUỴ DƯƠNG

Nói Với Thiền Khách

Gởi ĐỗHồngNgọc, TrầnThiệnHiệp

 

Cánh vạc nào bay trong triền nắng sớm

Tiếng hót xa xăm như tận cõi trời

Sao u trầm chất ngất khách thiền ơi

Xin nhẹ bước trên lối mòn tỉnh lặng

 

Rừng cô tịch có gì đâu tra vấn

Lửa Chân Như có đủ ấm linh hồn

Đất bùn nào còn ghi lại dấu chân

Tâm vô niệm đường xa gần đi mãi

 

Có phải người đang quay về bến đợi

Gom lá vàng gỗ mục dưới trăng trong

Về đi thôi, đêm lạnh giá mênh mông

Áo nâu mỏng sao che mưa đở gió

 

Chim thức giấc cất lời ru thanh nhã

Người phong trần qua mấy độ truân chuyên

Thấy gì chưa tự ngã với uyên nguyên

Hay ngần ngại chia xa lòng thung lũng

 

Từ tiềm thức đã lạc quên long trượng

Đâu đây chừng thấp thoáng ánh vô ưu

Thiền khách này, thiền khách đã về chưa

Xin trả lại cho ta quê, tình cũ.

………………………………………………………………..

Phan Đổng Lý “vẽ” PBTD:

Nhớ Phan Bá Thụy Dương

 

Nhớ đến bạn già mà lòng ta ngán ngẩm

Nặng nhẹ bao lần như đàn khảy tai trâu

Miệng phập phì phèo, nặc nồng mùi khói tỏa

Mắt mở mơ màng, trầm mặc cuộc bể dâu!

Mải miết rong chơi trăm đường thành ngỏ cụt

(…)

Trời xanh chơi ác

Tuổi thơ ngổ ngáo, già lại ngu ngơ

Trầm thân vào chốn bụi mờ

Bạc đầu lưu lãng làm thơ gọi tình

(…)

 

Trần Vấn Lệ

Gửi Theo Phan Bá Thụy Dương

Bạn đã về chưa? Bạn đã về?

Đến nơi chưa vậy mà im khe!

Hỏi ai, chẳng biết ai han hỏi

Đợi bạn, không nghe bạn nói gì…

Tôi độ rày sao hay tức thở

Bạn hồn nhiên nhỉ vẫn ham đi

Tuổi người, chớp mắt, tôi thường chớp

Chắc khó có ngày ngó lại quê…

 

Đỗ Hồng Ngọc

(họa lại mấy vần)

Về đi! Sao bạn chẳng đi về?

Khế ngọt sim rừng đợi: nín khe

Bè bạn ấu thời còn mấy đứa

Người thơ cơm áo chớ lo gì!

Ruộng vườn hoang rậm thôi, đừng nhắc

Sông nước gập ghềnh mặc, bỏ đi

Áo ngoại vẫn phơi ngoài giậu trúc

Cơi trầu thơm mãi chút hồn quê…

 

Sg 16.9.2012

(www.dohongngoc.com)

………………………………………….

 

 

 

 

 

 

………………………………………….

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Vài hình ảnh Kết thúc khóa Hạ 2022 tại Chùa Phật học Xá Lợi, Tp.HCM.

27/07/2022 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

 

Vài hình ảnh

Kết thúc khóa Hạ 2022 tại Chùa Phật học Xá Lợi, Tp.HCM

(26.7.2022)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Thuộc chủ đề:Nghĩ từ trái tim

ĐỖ HỒNG NGỌC – Du Tử Lê, “tung cánh vàng xưa hạc vút bay”

25/07/2022 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

ĐỖ HỒNG NGỌC – Du Tử Lê, “tung cánh vàng xưa hạc vút bay”

24 Tháng Bảy 2022 9:13 SA
(Nguồn: https://dutule.com/a10487/do-hong-ngoc-du-tu-le-tung-canh-vang-xua-hac-vut-bay-)

 

Trang dutule.com, ngày 3 tháng 9-2010 có một tin ngộ:

“ Đỗ Hồng Ngọc và, puzzle… thơ!”

Tháng 10 năm 2009, Cơ sở H.T. Productions ấn hành thi phẩm “năm chữ du tử lê và, mười hai bài thơ, mới.” 

Bằng vào tình bạn có với nhau tự những năm đầu thập niên 1960 ở Saigòn, nhà thơ Đỗ Nghê (Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc,) đã nhặt một số câu trong nhiều bài năm chữ khác nhau của Du Tử Lê, sắp lại theo kiểu…những mảnh puzzle, thành một bài thơ khác. Khá dài. Gửi ngược lại cho bạn.

Tác giả “năm chữ du tử lê và, mười hai bài thơ, mới” cho biết, ông thích lắm, cuộc đùa nghịch mang tính văn chương và, ý nghĩa này.

Hôm nay, chúng tôi xin gửi tới quý thân hữu trang nhà dutule.com tác phẩm “phối hợp nghệ thuật” của nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc, nhan đề “năm chữ du tử lê và,”. Như một món quà tinh thần nhỏ, trong lãnh vực chữ nghĩa của hai tác giả hiện đang sống ở hai đầu… trái đất.

Trân trọng. 

______

DoHongNgoc_600

Nhà văn Đỗ Nghê (trái) và nhà thơ Du Tử Lê (Hình: dutule.com)

Xin được nói rõ thêm một chút.

Cuối năm ngoái, Lữ Quỳnh mang về tôi tập thơ “năm chữ du tử lê và, mười hai bài thơ, mới” với những minh họa rất thơ của Đinh Cường, có kèm cả CD do chính Du Tử Lê đọc. Anh ghi: “gửi người thầy thuốc – nhà thơ dễ thương nhất nước, Đỗ Hồng Ngọc”.

Tôi lần giở. Ngạc nhiên thấy có mấy dòng “căn dặn” độc giả: “… Xin đừng đọc quá 3 bài thơ năm chữ, và không nhiều hơn 1 bài, ở những thể loại thơ khác của tôi, trong mỗi lần đọc. Trân trọng. DTL”.

Tôi cười. Đúng là dutule! Rõ ràng nhà thơ đã tự “chẩn đoán” ra cái bệnh của thơ mình. Anh biết nếu độc giả mà đọc một lèo nhiều bài thơ 5 chữ của anh thế nào cũng mắc nghẹn, phát ách, hoặc… tẩu hỏa nhập ma! Nhiều năm nay, đọc thơ Du Tử Lê đôi khi tôi cũng “phát ách” như thế. Nào phẩy, nào chấm, nào gạch ngang, gạch dọc… Dĩ nhiên nó đều mang những thông điệp, những ý nghĩa. Nhưng… phát ách! Làm như cứ phải nhập “vô lượng nghĩa xứ định” trước khi đọc vậy! Tôi bèn thử nghe CD xem sao. Ô kìa, trong CD lại khác hẳn. Anh đọc thơ trơn tru bằng thứ chất giọng truyền cảm của mình như ngày nào. Thì ra khi đọc, anh đọc theo cái nghĩa. Khi viết, anh viết theo cái ngữ.

Tôi vốn thích thơ dutule vì cái tình, hình ảnh, nhạc điệu, nhất là cái “tứ” rất riêng của anh. Lần này, vì bị anh “cấm” không cho đọc quá 3 bài thơ năm chữ của anh, tôi bèn lật xem thử cái Mục lục trước. Và ơ hay! Tôi phát hiện ra một bài thơ năm chữ rất dutule ở đây. Chính cái Mục Lục đó với tôi, đã là một bài thơ năm chữ, có thể còn là một bài hay nhất trong tập thơ này. Tôi tủm tỉm cười, chép lại và gởi cho bạn xem anh có nhận ra là bài thơ nào, tự đâu, bao giờ không. Anh rất vui, đúng là thơ dutule nhưng đã… không nhận ra bài thơ “trời ơi” này đã từ cái Mục lục ghép thành!

(dưới đây là bài “thơ” do Đỗ Nghê ghép từ tựa các bài thơ 5 chữ trong Mục Lục tập thơ DTL)

 

 năm chữ du tử lê và, 

trở giấc cùng hư vô,
chưa ai từng có mặt,
chúng ta những đứa trẻ
cần quá đi tình yêu.

bão đi qua bàn tay,
sương, chiều, trên môi đấy,
tôi: được người cứu chuộc,
gai lũy thừa vết xước,

nuôi tôi lời hứa, dối,
môi nhỏ nhắn nỗi buồn,
những ngón tay biệt, ly,
trong tiếng cười quặt quẹo,

tâm chất đầy phế liệu,
xúc xiểm tôi, mùi hương,
trăng khuyết chiều hóa trị,
môi nhỏ nhắn nỗi buồn,

tín cẩn tôi: nỗi đau
chúng ta ngoài thế giới
nhận mũi đinh tuyệt vọng,
niết bàn nanh chó sói,

dutule

 

Dĩ nhiên, đúng như anh nói, chỉ là một chuyện đùa vui trong chỗ bạn bè.

______

DoHongNgoc-DTL-2008-content-content

Phải nói dutule “lừng lẫy” với thơ đã từ lâu, xứng đáng ngồi một mình một vuôn chiếu (luân hoán), nhưng với tôi, có một điều muốn nói riêng với bạn: du tử lê khổ quá, với thơ!

Mà không phải mình tôi đâu. Đọc Nguyễn Vy Khanh coi. Ông có những nhận xét thấu đáo. (https://luanhoan.net/Bai%20Moi%20Trong%20Ngay/html/bm%2016-4-03.htm)

Du Tử Lê đã liên tục thử nghiệm, canh tân, suốt cuộc đời làm thơ và có vẻ không lùi bước! Ông muốn làm mới ngôn ngữ, biến hóa cấu trúc, cách đặt câu, chấm câu, làm mới cách diễn tả thơ (và văn) trên trang giấy, đem thị giác mới đến với thơ.

 Du Tử Lê cho rằng đời sống hiện nay như những mảnh vụn, nên xử dụng những dấu chấm, phẩy để cắt vụn câu thơ…. Dùng dấu gạch chéo slash / để cho phép người đọc đổi vị trí chữ theo ý riêng, làm nhịp đi của câu thơ được ngắt lại; tính và chiều đi tới của câu thơ được cởi bỏ để thơ có tự do chuyển động hai chiều và (…), người đọc tự do đổi vị trí các chữ hoặc nhóm chữ đứng trước gạch chéo đến một vị trí khác trong câu thơ nếu muốn (…) thay thế giới tự (preposition) với thí dụ “Rừng / tôi / sâu / thở / nốt chân trời” trong đó ba chữ Tôi / Sâu / Thở có thể đổi vị trí để thành những câu và ý nghĩa khác câu nguyên bản. Rồi “chẻ chữ để thêm nghĩa”: “Sương, trần thân mây chia, ly / nhập chung nỗi chết : sầu khô, héo về” ( Chấm Dứt Luân Hồi : Em Bước Ra). “Và, ngày cù sương: bay lên / nắng thâu phế liệu; em truyền nhiễm, thơ / (…) và chiều cù ta: chìm, rơi / ai /vai / bồ tát / tim / ngồi ghế sau” (Sông Núi Người Thơm Nỗi Nhớ Nhà).

(…)

Tôi thấy thương dutule! Tự nhiên làm khổ mình với thơ! Khi về Việt Nam năm 2009, anh vạch bụng, chìa tôi xem vết mổ K đại tràng với cái túi đeo lủng lẳng bên hông… Tôi nhìn khí sắc anh nói không sao đâu. Rồi tôi nghĩ thơ anh phải chăng cũng ít nhiều bị ảnh hưởng với những  “buổi chiều hóa trị”, và cái tủi lủng lẳng kia… Những lần sau, tôi cùng Du Tử Lê, Vũ Hoàng, Phạm Chu Sa ngồi cafe quán cốc, cũng có nhắc một chút về chuyện… “mần” thơ. Chàng có vẻ lắng nghe. Những lần sau nữa, với Thân Trọng Minh, Hạnh Tuyền và vài thân hữu, chúng tôi chỉ nói chuyên món ăn… quán Lục Tỉnh dưới cơn mưa mùa hạ…

Tôi thấy thơ dutule tự nó đã hay từ trong cốt cách, từ trong tiếng Mẹ của anh, không cần “phu chữ” thịt bắp vai u…

Bởi thơ đi thẳng vào tâm hồn người mà tâm hồn vốn… “vô tướng” (phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, Kim Cang kinh)…

Vốn nhà quê thứ thiệt, tôi ưa những câu thơ như thò tay ngắt một cọng ngò/ thương anh đứt ruột giả đò ngó lơ, hoặc trèo lên cây bưởi hái hoa… nó chân chất, mà thiệt ra đàng sau đó là cả một mênh mông của chân không diệu hữu…

_______
DoHongNgoc-DTL-content

Hơn nửa thế kỷ trước, Đỗ Nghê là người giới thiệu Thơ Du Tử Lê, trên tập san Tin Sách do Trung Tâm Văn Bút Việt Nam xuất bản, bộ mới, số 38, tháng 5-1965, tập thơ đầu tay của anh, do chính tác giả tự xuất bản.

. Chúng tôi chưa hề quen biết nhau. Tôi viết bằng tâm cảm của một người yêu thơ.

Tôi chưa biết Du tử Lê, nhưng đọc thơ anh tôi thấy như quen đã từ lâu, rất gần gũi (…). Du tử Lê đến bằng bước chân ca dao, ngọt ngào, tình tứ, bằng một tâm hồn yếu đuối, đam mê và rất nhiều dằn vặt, xót xa về quê hương, về số kiếp…

tôi còn tiếng nói

tôi còn linh hồn

tôi còn dĩ vãng

tôi còn quê hương

tôi còn lịch sử

tôi còn là tôi

(tuyên ngôn)

(…) Thơ Du tử Lê giản dị mà không thiếu truyền cảm vì đã nói lên ý nghĩ thực: không cầu kỳ, không ngạo nghễ, kiêu sa như phần đông những nhà làm thơ thời thượng.

Bắt đầu một ngày

Con người múa may

…..

Kết thúc một ngày

Con người thua cay…

(Một ngày của con người)

(…) Bên cạnh một Du tử Lê đầy hoang mang, khắc khoải, thao thức đó, còn có một Du tử Lê mềm yếu, đam mê, lãng mạn. Ở đây Du tử Lê cũng trung thành với kỹ thuật của anh. Không có những cầu kỳ, bí hiểm, sáo ngữ mà là những lời ca dao (…)

* tình tôi đam mê hồn tôi yếu đuối

ánh mắt nụ cười em đã giết tôi…

* mai em có con tay bế tay bồng

mai em yêu con, mai em thương chồng

tôi chỉ xin em một lần kể lại

chuyện em sang sông: có tôi đau lòng

                          (thư cho em)

Và cái nhìn đầy triết lý bi quan:

cầm bằng bãi gió mây qua

đôi chân nhỏ dại lỡ sa vào đời

cầm bằng nước mắt trôi xuôi

tiếng đâu thê thảm ru dài không gian

(Cầm bằng) 

(Đỗ Nghê- Tin sách Bộ mới, số 38, tháng 5-1965 trang 9-11)

Không biết Du Tử Lê bây giờ khi đọc lại những dòng này thấy sao, có ngượng, có thấy hồi xưa mình… ngây thơ quá, thơ gì mà thiệt thà quá! Lúc đó bọn tôi đều mới ngoài hai mươi!

Những năm gần đây, khi có dịp gặp lại nhau ở Saigon, Du Tử Lê  thường nhắc: Thời đó, một nhà thơ trẻ, có tập thơ đầu tay bao giờ cũng bị… đập, vậy mà Đỗ Nghê đã viết những lời trang trọng. Còn tôi, tôi cũng nói với bạn rằng tôi nghĩ thơ là tấc lòng, “thốn tâm thiên cổ”, cái còn lại là cái tình. Chẳng hạn, với tôi, khi nhắc Du Tử Lê tôi chỉ còn nhớ  “Như loài chim bói cá. Trên cọc nhọn trăm năm. Tôi tìm đời đánh mất… Thụy ơi, và tình ơi…” (Khúc thụy du, DTL) hay gần đây “Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển / Đời lưu vong không cả một ngôi mồ / Vùi đất lạ thịt xương e khó rã / Hồn không đi, sao trở lại quê nhà” (DTL). Nhiều câu chữ, chấm, phẩy, cấu trúc nọ kia tôi không nhớ đâu, mà cũng chẳng cần nhớ, nhưng cái tình trong thụy ơi và tình ơi hay hãy đem tôi ra biển thì tôi không thể nào quên.

Tôi bỗng nhớ trên Tạp chí Thơ, có một bài viết về thơ “tương tác”, rằng với hai câu thơ của Vũ Hoàng Chương:

“Em ơi lửa tắt bình khô rượu

Đời vắng em rồi say với ai?”

có thể đọc theo lối ngắt dòng, ngắt chữ thành:

Em ơi /

Bình rượu khô /

Lửa tắt.

Vắng em /

Say với ai /

Rồi đời!

 

Nhớ năm 1973 thì phải, dutule ôm thằng con nhỏ chạy vào bệnh viện Nhi đồng tìm tôi ở phòng Cấp cứu. Thằng nhỏ bị bệnh Bạch hầu (Dipthérie) nặng, màng giả (fausse membrane) đã lan rộng, chặn nghẹt cổ họng làm hết thở!  Bé lập tức được đặt ống nội khí quản giúp thở, làm hô hấp nhân tạo và chích huyết thanh, vaccin, cùng kháng sinh các thứ…

Rồi một tối nọ, anh gọi tôi khẩn cấp: Đỗ Nghê đến “cứu” mình với! Thì ra có một nữ độc giả ái mộ thơ Du Tử Lê đang ngồi đợi anh ở quán café H, Đakao. Anh kẹt vì một lý do gì đó không biết, nhờ tôi tới “cứu bồ”. Tôi xách xe đến gặp cô nàng trò truyện… suốt buổi về thơ Du Tử Lê!  Mấy chục năm sau, gặp lại Du Tử Lê và phu nhân của anh về thăm quê hương hóa ra là nàng… Chính là cô gái mê thơ dutule tôi đã gặp năm xưa ở quán café!

Có người nói anh có số đào hoa! Có người nói anh có cái giọng khiến con kiến… trong hang cũng phải bò ra! Tôi không biết. Với tôi, anh vẫn vậy. Nhỏ nhẹ. Dễ thương. Lãng mạn. Sâu sắc.
Năm 2017, bỗng có bài viết trên dutule.com về thơ đỗ hồng ngọc/ đỗ nghê, như là một lời trần tình, một trao đổi những nghĩ suy về thơ và “mần” thơ của chúng tôi:

           Đỗ Hồng Ngọc, thơ như một hạnh phúc?

dutule.com  21.11. 2017

Du Tử Lê

Nhiều độc giả (kể cả một số người có làm thơ), nói với tôi rằng, biết làm thơ và làm được thơ là một hạnh phúc! Tôi nghĩ khác.

Với tôi, trừ những người đến với thi ca như một thời thượng, làm dáng, hoặc, một cuộc du ngoạn ngắn hạn thì; làm thơ là một lao động (tinh thần,) vất vả. Một thao tác trí tuệ ngặt nghèo. Thường khi bất lực. Đuối sức. Với tôi, đó là một cuộc chạy đua việt dã không đích đến. Không bạn đồng hành. Khi đối diện với bài thơ thì, chỉ có mình y, cùng lắm là… chiếc bóng.

Ngoài ra, tôi chưa thấy một cá nhân bình thường, không bị một khuyết tật tinh thần nào, lại ở được bền lâu, với thi ca. Tôi cũng chưa thấy một cá nhân thỏa mãn mọi lãnh vực trong đời thường, có thể tạo được một hôn phối tốt đẹp với thi ca. Tại sao?

Xin thưa, vì căn bản, thi ca là đỉnh ngọn chênh vênh, nhọn, sắc nhất của định mệnh bất toàn.
Vì căn bản, thi ca là cõi trú đầu tiên và, cuối cùng của những tâm hồn bất an.
Những sinh phần liu điu, cần sự cân bằng sinh-thái-tinh-thần…

Hiểu như thế, với tôi, nhà thơ trước nhất, là người thợ đào bới để làm mới những con chữ đã cũ, hoặc hình ảnh, chân dung những mảnh đời đã mất. Khi tìm được những hầm mỏ chữ, nghĩa, những “trầm tích” gặp được ở độ sâu đủ thì, tôi cho, đó là lúc nhà thơ sức thả mình, rớt xuống. Y hoàn tất cuộc đua việt-dã-trí-tuệ (một mình.) Y hoàn tất trận đánh sinh, tử (dài lâu), với địch thủ trên cơ: Định mệnh. Y san bằng mọi bất toàn. Y cân bằng sinh-thái-thân-tâm. Nhưng, đau đớn thay, đó cũng là lúc, y thấy tận cùng vẫn là thất bại, hiểu theo nghĩa nào đấy – – Để rồi y lại khởi sự một lên đường khác (?)

Trên hành trình chữ nghĩa, ở đôi ba giao lộ, tôi may mắn được gặp một số bằng hữu. Những thi sĩ. Trong đó, có Đỗ Hồng Ngọc. Thi sĩ.
Tôi không chủ quan nghĩ rằng, Đỗ Hồng Ngọc, sẽ sẵn sàng chia sẻ những quan điểm của tôi về thi ca và, đời sống: Chữ nghĩa và sự bất toàn. Khuyết tật và định mệnh.
Nhưng, là người dõi theo hành trình văn chương của Đỗ Hồng Ngọc, trên dưới sáu mươi năm qua – – Từ những bài thơ đầu đời, tới những bài thơ mới nhất trong thi phẩm “Thơ Ngắn / Đỗ Nghê” (của năm 2017), tôi nghĩ, Đỗ Nghê / Đỗ Hồng Ngọc, thi sĩ, không chỉ muốn hoàn tất cuộc đua việt-dã-trí-tuệ (một mình). Ông cũng không chỉ muốn hoàn tất trận đánh sinh, tử (dài lâu,) với địch thủ trên cơ, định mệnh. Mà, ông còn muốn trả ơn người, tạ ơn đời bằng chính những lao tác tinh thần, song song với những lao động đời thường, với tư cách một bác sĩ, của ông nữa.
Ở quá xa, tôi không thể tìm đến ông (như ngày nào), để ngả mũ chào ông: Một thi sĩ. Tôi viết xuống, những dòng chữ này, như một lời xin lỗi, thi sĩ.

Hôm nay, giữa thập niên 2010s của một thiên niên kỷ khác, tôi lại thấy tôi sẽ rất không phải với họ Đỗ, nếu không sớm nói với Đỗ Nghê / Đỗ Hồng Ngọc rằng, cá nhân tôi, cũng rất biết ơn ông với những trang văn xuôi đẹp như thơ, ông gửi cho người, cho đời. Thí dụ “Gió heo may đã về”. Thí dụ “Già ơi…Chào bạn”. Thí dụ “Nghĩ từ trái tim”. Thí dụ mới đây: “Ghi chép lang thang”… và nhiều nữa!

Tôi thích lắm tựa đề của tác phẩm của họ Đỗ. Ông gọi đó là những “Ghi chép lang thang”, đúng nghĩa… lang thang – – Nơi trang 287 và 288 của tác phẩm này, khi phải trả lời câu hỏi của độc giả Lê Uyển Văn, tác giả giải thích, ghi chép lang thang, thực ra là những ghi chép không đầu không đuôi, kiểu “cà kê dê ngỗng” trong lúc lang thang nơi này hay nơi khác. Ông chợt nghĩ, chợt nghe, chợt nhớ… một điều gì đó có khi chỉ là mùi khoai nướng, có khi chỉ là mùi dĩa bánh căn, mùi cá khô đuối xúc hột vịt…, thậm chí mùi phân trâu bò trên đường làng cũ, nhưng cũng có khi là một câu nói đanh thép của nhà vua trong bảo tàng viện với hàng trăm chiếc… thuyền thúng giăng ngang bãi biển Mỹ Khê Đà Nẵng một ngày lộng gió…

Cũng trong 2 trang sách vừa kể, với bản chất khiêm cung, luôn chọn vị trí cách xa ánh đèn sân khấu tiền trường, giấu mặt trước những lời khen dù chân thật của đám đông, Đỗ Hồng Ngọc đã viết thêm:
Tác phẩm “Ghi chép lang thang” của ông, không phải là chuyện ‘văn chương chi sự’ mà, chỉ là những ghi chép riêng tư cho đừng quên với người tuổi tác.

Thế rồi thế giới bỗng nhiên phẳng, người người trong nháy mắt có thể tâm tình trao đổi cùng nhau, bèn cùng mò mẫm mà “tung” lên cho bạn bè gần xa khắng khít nhau hơn. Ghi chép lang thang như vậy cũng chỉ là những cảm xúc bất chợt, không tính toán, không… hư cấu. Mà thực ra ‘ghi chép’ cũng chẳng phải là “ghi chép”… Ông nói:

“… Có khi viết lách lăng nhăng dòm trông giống bài thơ mà không biết có phải thơ không, hoặc có khi ngoằn ngoèo như một phác thảo… mà không biết phải họa không”…

Sau này, được đọc nhiều bài biết của bằng hữu về cõi giới văn chương Đỗ Nghê / Đỗ Hồng Ngọc, tôi thấy dường như quan điểm của tôi về văn chương của Đỗ Nghê / Đỗ Hồng Ngọc, có nhiều phần nghịch với quan điểm của nhiều tác giả khác.

Thí dụ nhà văn Nguyễn Lệ Uyên, khi viết về thế giới thi ca Đỗ Nghê / Đỗ Hồng Ngọc, trong bài tựa đề “Khói trời phương đông”, đã ghi nhận rằng, Với hơn 30 tác phẩm đã xuất bản từ năm 1967 đến nay, từ những bài tùy bút cho đến thơ, họ Đỗ luôn trân trọng với chữ nghĩa. Ông không hề đùa cợt với chữ nghĩa, “lên gân” cho mọi sự vật… Ông cẩn thận quan sát những hiện tượng quanh mình, trong chính cuộc đời mình y như người thầy thuốc chẩn đoán căn bệnh cho bệnh nhân. Bởi vì căn bản ông là một thầy thuốc yêu nghề, có lương tâm.

Ngoài cốt cách văn chương, những suy nghĩ của họ Đỗ về các vấn đề xã hội, đời sống, không xa vời; nó gần gũi, quanh quẩn, ẩn núp đâu đó quanh ta mà ta chưa thể nhìn thấy; chỉ đợi khi ông viết lên, đọc lại, ta mới chợt thấy ra…Nó vẫn có đấy nhưng ta không nhìn thấy, không nghĩ ra được nhỉ?

Nhà văn Nguyễn Lệ Uyên nhấn mạnh rằng, những điều bình thường cũ rích, trong đời sống, nhưng qua ngòi bút của Đỗ Hồng Ngọc, chúng được “hóa giải, đã giúp ta từ bỏ thói quen nhìn, nghĩ đời sống quanh ta, một cách hạn hẹp… bất cập –  Để từ đó, ta có được cái nhìn cởi mở, thênh thang, không thiên kiến…”

Tôi cũng không quên mới đây, nhà thơ Phạm Chu Sa đã ghi nhận một cách chi tiết, chân tình về Đỗ Nghê – Đỗ Hồng Ngọc. Nhưng dù các bài viết về cõi-giới văn chương của ông, thâm trầm hay nhẹ nhàng, đơn giản thì, tự thân những bài viết ấy, cũng đã thắp sáng những thành tựu, hiểu theo nghĩa “hạnh phúc” mà Đỗ Hồng Ngọc đã đạt được.

Nhà thơ Phạm Chu Sa cho rằng, nhiều người nghĩ Đỗ Hồng Ngọc là một bác sĩ làm thơ, viết văn và gọi anh là bác sĩ-nhà văn, nhưng Phạm Chu Sa cho biết, ông vẫn thích gọi Đỗ Hồng Ngọc là “thi sĩ hơn là bác sĩ,” bởi vì Đỗ Hồng Ngọc có cốt cách thi sĩ trong con người bác sĩ.

Phạm Chu Sa kể rằng Đỗ Hồng Ngọc làm thơ và có thơ in từ thời sinh viên – tập “Tình Người” (xuất bản năm 1967), ký bút hiệu Đỗ Nghê. Mấy năm sau khi ra trường là “Thơ Đỗ Nghê” (in năm 1973). Tập thơ đã gây được tiếng vang trong văn đàn thuở đó. Sau này ông trích một số bài trong hai tập thơ trên in lại trong các tập thơ “Giữa Hoàng Hôn Xưa” (1993), “Thư Cho Bé Sơ Sinh và Những Bài Thơ Khác” (2010).

Bài thơ làm tựa chính “Thư Cho Bé Sơ Sinh…” Đỗ Hồng Ngọc viết năm 1965, khi còn là sinh viên y khoa thực tập tại bệnh viện Từ Dũ: “Khi em cất tiếng khóc chào đời/ Anh đại diện đời chào em bằng nụ cười/ Lớn lên nhớ đừng hỏi tại sao kẻ cười người khóc/ Trong cùng một cảnh ngộ nghe em…/ Khi anh cắt rún cho em/ Anh đã xin lỗi chân thành rồi đó nhé/ Vì từ nay em đã phải cô đơn/ Em đã phải xa địa đàng lòng mẹ… Thôi trân trọng chào em/ Mời em nhập cuộc/ Chúng mình cùng chung/ Số phận con người” (Một bài thơ đặc biệt vì dường như chưa nhà thơ nào viết về đề tài này).

(…) Để chấm dứt bài viết của mình, nhà thơ Phạm Chu Sa khẳng định: “Tôi nghĩ sau này người ta có thể quên một bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc nhưng người ta không quên Đỗ Hồng Ngọc thi sĩ.”

Không chỉ Nguyễn Lệ Uyên hay Phạm Chu Sa mà còn nhiều bằng hữu khác, ghi nhận về tiếng thơ Đỗ Nghê – Đỗ Hồng Ngọc như một thành tựu tốt đẹp, dẫn người đọc tới kết luận những người làm thơ, được nhiều người ưa thích, là những người có được cho họ niềm hạnh phúc tinh khiết trong cuộc sống thực tế chấp chới những khổ đau, bất toàn này.

Đa số bằng hữu của họ Đỗ cho rằng về hạnh phúc có được từ thơ, của Đỗ Nghê – Đỗ Hồng Ngọc khiến tôi thấy cảm nhận của tôi về những “lao động” thi ca của những người làm thơ có phần không đúng. Ít nhất cũng đối với Đỗ Nghê.

Tôi càng thấy sự “cường điệu hóa” (?) của tôi về hành trình của thi ca của Đỗ Nghê trong quá khứ là những nhận định thiếu cơ sở – tiêu biểu là thi phẩm mới nhất, có tên “Thơ Ngắn / Đỗ Nghê” của ông.

Tôi không muốn nói về những bài thơ ngắn của họ Đỗ, có xu hướng thơ Haiku của Nhật bản: Ngợi ca thiên nhiên hoặc tương tác giữa con người và vũ trụ,… đã hiện diện khá nhiều trong thi phẩm mới nhất của ông.

Người đọc sẽ rất khó tìm thấy những bày tỏ bi quan, hoặc than thở, “vật vã” trong thơ Đỗ Nghê, nhất là với thi phẩm “Thơ Ngắn/Đỗ Nghê” mới ấn hành những ngày cuối năm 2017 này. Ngay cả khi tác giả viết về phần thịt, xương đã mất, như:

“Mỗi năm
Mỗi người
Thêm một tuổi
Chỉ mình con
Mãi mãi
Tuổi đôi mươi…”

(Bài “La Ngà 3” – 1990)

Hoặc tương quan với kẻ khác:

“Khi nhìn nhau xa lạ
Là rất đỗi thân quen
Khi nói năng vô nghĩa
Là thác reo trong hồn.”
(Bài “Không Tên”)

“Lá chín vàng
Lá rụng
Về cội
Em chín vàng
Chắc rụng
Về anh.”
(Bài “Lá”)

Hay ảnh hưởng của thiên nhiên, vũ trụ lớn vào vũ trụ nhỏ là cá nhân con người:

“Tuyết bay
Bay nhẹ
Phố tàu

Gió co
Ro lạnh
Phố
Đìu hiu
Theo”
(Bài “Tuyết” – Boston, 1993)

“Chiều thu
Nghe tiếng quạ

Giật mình
Nỗi xa nhà

Nhớ sao
Mà nhớ
Quá!”
(Bài “Thu” – Boston, 1993)

“Nước xanh như ngọc
Sâu đến tận trời
Vốc lên một vốc
Ơi mùa Xuân ơi!”
(Bài “Tuyền Lâm”)

Ngay cả khi nhớ tới và viết về đứa con đã mất của mình, một tai họa khủng khiếp, ai cũng tưởng, Đỗ Nghê sẽ không thể vượt qua được. Nhưng, tâm thái của một hành giả: Hiểu thấu sống, chết… cách gì cũng không ra khỏi lẽ vô thường, họ Đỗ đã nhìn sự việc như một bài học tự nhiên đời sống mà thôi:

“Ba dạy con
Mỗi ngày
Một chút

Không bài học nào
Như ba đã học
Từ con

Nỗi mất!”
(Bài “La Ngà 5” – 1990)

Hoặc về người mẹ đã qua đời mình, ông vẫn có cái thanh tịnh lạc quan, của một tâm thức không còn trụ, bám vào mất còn:

“Con cài bông hoa trắng
Dành cho mẹ đóa hồng
Mẹ nhớ gài lên ngực
Ngoại chờ bên kia sông…”
(Bài “Bông Hồng Cho Mẹ” – 2012)

Hoặc:

“Mẹ tôi cứ vẫn cười cười như thế
suốt ba năm trên bàn thờ!”
(Trích “Nụ Cười Của Mẹ” – 2014)

Tôi cho những phong thái kể trên của Đỗ Nghê là phong thái của một hành giả đã khu trừ được cái tâm nhiễu loạn, nguồn gốc của cái “tôi,” để thong dong dạo chơi giữa vườn đời…

Tôi thấy trong Đỗ Nghê không chỉ có một thi sĩ mà, thi sĩ ấy, còn song sinh với một thiền gia nữa. Như thiên/địa, nhật/nguyệt, tuy hai mà, thực ra cũng chỉ là một thôi. (Du Tử Lê)

 

Ngày 7.10.2019 Du Tử Lê qua đời tại Mỹ. Không ai đưa anh ra biển, nhưng dẫu sao anh cũng đã trở về quê mẹ.

Tôi đang ở Úc, chỉ kịp viết gởi về bạn mấy câu:

Rồi cũng về thôi du tử ơi

Bao năm lưu lạc xứ con người

Một hôm sực nhớ về quê mẹ

Tung cánh vàng xưa hạc vút bay…

 

Đỗ Hồng Ngọc

(2019).

 

 

Thuộc chủ đề:Các bài trả lời phỏng vấn, Góc nhìn - nhận định, Vài đoạn hồi ký

Dương Mình Trí: cảm nghĩ nhân đọc “Bông hồng cho Mẹ & Những cảm nhận học Phật”

19/07/2022 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

 

Vài cảm nghĩ nhân đọc

“Bông hồng cho Mẹ & Những cảm nhận học Phật”

của Bs. Đỗ Hồng Ngọc

 

Cách đây khoảng hai tuần, tôi nhận được cuốn sách này vào buổi học Phật chiều thư Bảy hàng tuần ở lớp Phật học & Đời sống (PH&ĐS) tại Chùa Phật học Xá Lợi. Nhìn thấy bác “khệ nệ” xách giỏ sách để phân phát cho các Phật tử “thấy mà thương”.

Tôi không có cơ duyên được bác chữa bệnh khi còn nhỏ và cũng không có nhiều cơ hội đọc thơ của bác, nhưng lại có may mắn được học Phật với bác một thời gian đủ để hiểu những vấn đề cơ bản trong Phật học. Một nhân duyên thiện lành.

Lần đầu tiên tôi biết đến bác, không phải được diện kiến dung nhan mà qua cuốn sách “Thiền và sức khỏe”. Nhớ lúc đó mỗi lần chở con đi học thêm Anh văn tại các trung tâm ngoại ngữ tôi thường mang theo nó để đọc trong khi chờ đợi con tan lớp. Một cuốn sách hấp dẫn.

Cơ duyên đưa đẩy tôi đến lớp PH&ĐS (lúc đó lớp chưa mang tên này) tại chùa XL cũng nhờ … bác. Nhớ lại buổi chiều hôm đó tôi có tham dự một buổi nói chuyện của bác về Thiền tại giảng đường Chánh Trí, khi kết thúc đi ra tình cờ thấy một tờ thông báo về lớp Phật học, thế là tìm hiểu và tham gia cho đến bây giờ. Một khởi đầu lạ lùng.

Đọc các bài viết của bác, một đặc điểm nổi bật mà tôi cảm nhận được là thường có lồng thêm những kiến thức về y học, tâm lý học và xã hội học như là một phương tiện khoa học nhằm minh họa, chứng minh thêm cho nội dung bài viết. Nhờ vậy ngoài nội dung bài viết, độc giả cũng có thêm những hiểu biết cơ bản của các lãnh vực trên. Một đặc điểm khác là bác viết những chủ đề về Phật học không bị lạc vào cách kiến giải hàn lâm, rắc rối mà rất đời thường, gần gũi, dễ nhớ nhưng cũng không lạc khỏi ý kinh. Lối viết như chơi với văn phong nhẹ nhàng, đôi lúc dí dõm nhưng cũng rất sâu sắc. Một cách viết thú vị.

Hãy cùng nhau đi dạo qua vài bài bác viết trong cuốn sách bác vừa tặng.

Trong bài “Cha mẹ và con cái”, bác đã đưa ra hình ảnh về tấm lòng bao la của cha mẹ đối với con cái từ khi con còn là một bào thai trong bụng mẹ cho đến khi con trưởng thành để nói về Tứ vô lượng tâm (Từ, Bi  Hỷ, Xả), bốn đức tính cao đẹp mà giáo lý nhà Phật thường hay đề cập. Thật là sống động, trực quan và gần gũi biết bao, đọc là cảm nhận được ngay. Bác kết luận: “Từ – Bi – Hỷ – Xả chính là cách mà cha mẹ đã dành cho con cái suốt cả cuộc đời đó vậy.”

Khi bắt đầu tìm hiểu về Thiền, tôi có thắc mắc “Tại sao lại dùng hơi thở làm đề mục chú tâm, quan sát mà không là một đối tượng khác? Tôi nghĩ đơn giản đối tượng nào cũng được vì mục đích là dừng cái tâm lăng xăng như con khỉ, con ngựa là được”. Trong bài “Thiền và Thở”, tôi đã thấy câu trả lời: “Thật ra thì quán sát cái gì cũng được cả, bởi tất cả đều là pháp- nhứt thiết pháp giai thị Phật pháp- nhưng quán sát hơi thở thì có điều kiện để thấy ‘ngũ uẩn giai không’ hơn, tức thấy vô ngã hơn. Vô ngã ở đây không còn là một ý niệm, một khái niệm mà là một trạng thái. Để thấy “vô ngã” thì tốt nhất là quán sát từ “ngã”, từ hơi thở là tốt nhất, một đối tượng sẵn có ngay trong bản thân mình. […] Hơi thở dễ quan sát nhất vì nó nằm ngay trước mũi mình, ngay dưới mắt mình! Lúc nào cũng phải thở. Ở đâu cũng phải thở. Cái hay nữa là quán sát nó thì không ai nhìn thấy, chỉ riêng ta biết với ta thôi! […] Hơi thở lại rất nhạy với cảm xúc. Trước một cảnh đẹp, ta “nín thở”. Lúc lo âu, ta hổn hển. Lúc sảng khoái ta lâng lâng. Lúc sợ hãi, hồi hộp ta thở nhiều kiểu khác nhau, muôn hình vạn trạng. Và nhờ đó mà thấy vô thường. Nhờ đó mà ta quán sát được cái tâm ta. Thở cũng gắn với các hoạt động cơ bắp. Khi mệt, ta mệt “bỡ hơi tai”, mệt đứt hơi, mệt hết hơi; khi khỏe, ta thở nhẹ nhàng sảng khoái! Nhờ đó mà ta quán sát được cái thân ta. Rõ ràng chỉ có hơi thở mới là một sợi dây nhạy cảm buộc vào thân vào tâm, là cái cầu nối giữa thân và tâm. Không chỉ thế, thở còn vừa là ý thức, vừa là vô thức. Như không cần ta. Như ở ngoài ta. Như không có ta. Quan sát thở, ta còn có dịp đào sâu xuống…vô thức. Ta thấy thở gắn với sự sống chết của kiếp người. Còn sống là còn thở, chết là hết thở, là tắt thở, là ngừng thở. Để ý một chút ta sẽ thấy đời người thực ra chỉ là… một hơi thở! […] Quán sát hơi thở do đó ta thấy đựơc sự sinh diệt”. Rỏ ràng cho thắc mắc của tôi rồi.

Trong bài“Trời cao đất rộng một mình tôi đi“, một kiến thức cơ bản về y học mà tôi học được: “Loài người có trí thông minh vượt trội là nhờ vỏ não phát triển, với hàng trăm tỷ tế bào thần kinh, hàng trăm nghìn tỷ tỷ các mối nối… dày đặc nhưng sự điều hành hô hấp của ta lại không nằm ở vỏ não. Nó nằm ở hành tủy, dưới vỏ não. Các trung khu hô hấp nằm ở đó, điều hành sự thở. Vì thế mà dù vỏ não không hoạt động (ngủ, hôn mê…) thì sự thở (hô hấp) vẫn được duy trì. Khi tập trung (sati) vào hơi thở là ta đã giải phóng cho vỏ não được nghỉ ngơi! ‘Tâm an’ nhờ đó”. Thực tế cho thấy khi quan sát một em bé đang ngủ say, ý thức không hoạt động nhưng cái bụng của bé vẫn phình lên, xẹp xuống đó thôi! Hơi thở vẫn vào ra đó thôi! Trong tình trạng vô thức này mình không làm chủ được hơi thở, nó như ở ngoài ta. Đó là vô ngã.

Trong nhà Phật, khái niệm sanh tử luân hồi nhằm để chỉ sự sống chết cứ xoay vần, nối tiếp nơi một chúng sanh, tức là một chúng sanh sau khi chết sẽ trở lại thế giới dưới một hình hài khác theo một trong sáu đường: thiên, nhân, Atula, ngạ quỷ, súc sanh và địa ngục. Nếu chỉ hiểu sống chết một cách đơn thuần theo kiểu thế gian thì chúng ta chỉ còn cách là tin như thế mà không thế thấy hoặc cảm nhận được gì. Trong bài “Luân hồi sanh tử”, Bác đã chỉ cho ta thấy: “Luân hồi sanh tử còn là tiến trình tâm trong mỗi sát-na. Từ sáng đến chiều, từ trưa đến tối ta đã… lang thang sáu nẻo biết bao lần. Hết thiên, nhân lại đến atula rồi ngạ quỷ súc sanh địa ngục xà quần không ngưng nghỉ. Sáng bảnh mắt ra, người sảng khoái, lâng lâng, quần là áo lượt có thua gì… tiên nhân đâu, vậy mà trưa nghe một cú điện thoại từ đâu đó bỗng đùng đùng nổi giận, đỏ mặt tía tai, bầm gan tím ruột, lọt tõm vào địa ngục… Chỉ một thoáng thôi, đã từ thiên đàng rơi xuống địa ngục, từ thiên nhân thành Atula, ngạ quỹ… Một thoáng thôi, tiến trình tâm đã trải qua muôn ngàn kiếp rồi vậy!“. À thì ra thế, trong một thời gian ngắn thôi tâm ta cũng đã luân hồi sanh tử biết bao nhiêu lần: tâm bình thường là đang ở cõi người, tâm vui như đang ở cõi thiên, tâm sân như đang đọa địa ngục, …rồi lại lặp đi lặp lại cứ như thế.

Là con người sống trong thế gian này, cũng có lúc chúng ta tự hỏi: “Ta từ đâu đến, sinh ra đời để làm gì và chết sẽ đi về đâu? “Ở đây không bàn về chuyện tâm linh sâu xa, có thể trả lời đơn giản theo kiểu thế gian: “Ta từ bụng mẹ chui ra, sinh ra đời để sống như bao nhiêu người khác và chết sẽ trở về với cát bụi. Thế là hết cuộc đời!”. Đây là hành trình của một đời người, sanh ra để mà chết và hành trình này đã được diễn giải rất rỏ, pha lẫn đôi chút dí dỏm trong bài “Chọn những nụ cười”: “Từ trứng và tinh trùng, ta hình thành một cái phôi phải nhìn dưới kính hiển vi mới thấy. Rồi rất nhanh, trở thành một thai nhi loi ngoi trong vũng nước ối, trong bụng mẹ. Không thở. Không ăn. Không ngủ. […]Thế rồi chín tháng mười ngày ta bung ra ngoài cứ y như cánh hoa phải xòe nở đúng thời đúng tiết vậy. Việc đầu tiên là… thở. […] Mệt mỏi rồi nhé! Từ đó đã phải lệ thuộc vào cái gì đó bên ngoài. Rồi phải bú nữa trời ạ. [..]. Cứ thế mà chùn chụt để nuôi thân. Rồi biết lật, biết ngồi, biết bò, biết đứng chựng, biết đi, biết chạy nhảy, leo trèo… Rồi biết nói năng, suy nghĩ. Nhớ, tiếc, giận hờn, giành giựt, đấu đá, ghen tuông, ích kỷ, thất tình lục dục đủ thứ không lúc nào ngưng. Và dĩ nhiên vẫn thở và vẫn ăn. Rồi nam tu nữ nhũ. Rồi chọn lựa. Rồi giao cấu. Rồi đẻ ra một lô một lốc chẳng biết từ đâu ra. Đến một hôm, ta từ hùng hục chạy, ta… lững thững đi, rồi chập chững đứng, vật vựa, nghiêng ngả, rồi ngồi một chỗ, mắt lờ đờ nhìn xa xăm, rồi lồm cồm, bò lê, bò lết… Từ chùn chụt, ngấu nghiến, ừng ực, dô dô 100%… ta bỏ ăn bỏ uống, thấy cái gì cũng rệu rạo, nhóp nhép vì xệu xạo răng cỏ. Rồi thở cũng cà giật, cà hước… Ta trở lại cái hồi thai nhi trong bụng mẹ, bây giờ là “mẹ Như Lai”, một vòng khép kín. Thì ra, ta đã từ đó mà đến để rồi loay hoay một vòng về lại chốn xưa”. Rồi bác nhận xét: “Nhìn suốt cuộc hành trình đó, có cái gì tức cười, vừa tàn nhẫn vừa thương tâm. Cái hiện hữu chỉ là thị hiện, trình hiện chút chơi vậy thôi. Nó giả. Nó tạm. Vậy mà sao ta cứ tưởng thiệt mới đáng thương làm sao. Gieo rắc và sinh sôi. Cứ vậy”.Đến đây lại nhớ nhà thơ Bùi Giáng: “Ta cứ ngỡ trần gian là cõi thực/ Thế cho nên tất bật tới bây giờ”.

“Độc cư”, một bài viết khác của bác. Độc cư có phải là sống một mình, không có ai chung quanh? Hãy xem bác diễn giải: “Ở một mình, ăn một mình, đi một mình, ngủ một mình mà đầu óc quẩn quanh biết bao hình bóng, biết bao câu chuyện, nhớ tiếc dĩ vãng, mơ tưởng tương lai thì không thật độc cư ! Dĩ vãng qua rồi. Quấn quít với nó mãi thì gánh nặng đeo mang bao giờ đặt xuống ? Tương lai chưa tới, Que sera sera. Biết ra sao ngày sau. Chuyện ngày mai của ngày mai. What will be will be. Tướng như vậy, tánh như vậy…bổn mạt cứu cánh nó như vậy…Vậy phải chăng an trú trong hiện tại, sống “hiện sinh” xả láng?Hiện sinh kiểu đó cũng chẳng phải hiện sinh chút nào! Độc cư không chỉ rời xa dĩ vãng, không đắm đuối tương lai mà hiện tại cũng phải nhìn bằng con mắt khác. Mắt tuệ: vô thường, khổ, không, duyên sinh, vô ngã…Độc cư và Thiền định không hai. Độc cư thứ thiệt thì nghe ngóng được vận hành của Như Lai trong từng sát na, là sống với Như Lai, sống cùng Như Lai, sống như lai. Và như vậy, người ta có thể sống ‘độc cư’ bất cứ ở đâu, giữa chợ đời, trong gia đình, dưới gốc cây, nơi rừng thẩm, … Cho nên càng sớm “độc cư” thì càng không cảm thấy cô đơn…”. Như vậy sống độc cư không phải là sống một mình mà sống an trú vững chải trong giây phút hiện tại và ý thức được những gì đang xảy ra trong hiện tại, không mắc kẹt vào quá khứ và cũng không bay bổng đến tương lai, nhờ vậy tâm không phóng dật và quay về bên trong chính mình.

Con người được cấu tạo bởi năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) và tưởng là một uẩn trong năm uẩn. Tưởng là sự nhận thức, nhận biết qua giác quan, nó còn được gọi là tri giác. Tưởng cũng giống như cặp mắt kính ta đeo để nhìn sự vật, nếu đeo mắt kính màu gì thì sẽ cảnh vật giống như màu đó. Chúng ta đau khổ hay hạnh phúc đều do cái tưởng này. Vậy muốn chấm dứt khổ đau, ta phải biết sửa đổi cách nhận thức của mình, tức là sửa lại cách tưởng của mình, tập bỏ dần những cặp mắt kính màu để nhìn trực tiếp sự vật. Trong bài “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác”, bác có viết: “Có tưởng là bắt đầu sinh sự. Tưởng vô vàn. Tưởng vô tận. Muốn thiên đàng có thiên đàng. Muốn điạ ngục có địa ngục. Cho nên tu là tu Tâm. ‘Nhất thiết duy tâm tạo’. Tất cả là do tâm bày vẽ ra. Phật từ thời Hoa Nghiêm đã nói rõ như thế. Hạnh phúc khổ đau từ đó. So sánh hơn thua, chém giết nhau từ đó. Tiếng Việt ta còn hay hơn: Tướng và Tưởng, chỉ khác nhau có mỗi cái dấu sắc, dấu hỏi… Mà đã ngàn trùng cách xa!”.

Tưởng cũng được nhắc đến trong bài “Quán Thế Âm Bồ Tát”: “Nỗi sợ của con người là ghê gớm nhất. Sợ chết, sợ khổ, sợ nghèo, sợ xấu xí, sợ bệnh hoạn, sợ già nua… Cho nên làm cho con người ta hết sợ là đủ để mang lại hạnh phúc, đủ để  ‘cứu vớt chúng sanh’. Nhưng vì đâu mà người ta sợ? Vì tưởng. Tưởng nên mới thấy sợi dây thành con rắn. Tưởng nên mới cho cái gì của mình cũng nhất thiên hạ. Tưởng nên vô thường mà thấy là thường, vô ngã mà thấy là ngã… Tưởng là của ta, là ta, là tự ngã của ta nên mới tính chuyện gồm thâu lục quốc, nhất thống giang hồ, muôn năm trường trị, trường sanh bất tử…”. Rồi tác giả chỉ ra thuốc đặc trị cái tưởng: ” ‘Một lòng xưng danh’ Quán Thế Âm Bồ tát, lập tức vô lượng vô số khổ não sẽ được xóa mất ngay vì Quán Thế Âm là vị Bồ-tát có khả năng “nghe được tiếng kêu của trần thế!” với lòng đại từ đại bi, sẵn sàng ra tay cứu độ. Có thể được ư ? Có thể được. Vì vỏ não ta một lúc không thể có hai ý tưởng cùng tồn tại. Các ý tưởng có thể nối tiếp nhau, dắt dây nhau, niệm này vừa dứt niệm kia đã sanh, chen chúc nhau thì có, nhưng cùng lúc thì không. Nếu đã ‘một lòng’ thực sự ‘xưng danh’ Quán Thế Âm thì không thể cùng lúc ‘xưng danh’ vị Bồ tát nào khác hay ý tưởng nào khác. Cái khó là ‘một lòng’, tức ‘nhất tâm’: nhất tâm bất loạn. Gọi tên, xưng danh Quán Thế Âm bởi vì chỉ có Quán Thế Âm mới có nghìn mắt nghìn tay, mới có nước cam lồ rưới tắt tất cả tham sân si của chúng sanh, mới có khả năng giúp ta hết sợ hãi với một pháp thí tuyệt diệu: vô úy thí!”. Tại sao hay như vậy? linh như vậy? Bác đã chỉ ra ẩn dụ, ẩn nghĩa trong đoạn trên:“Thì ra Quán Thế Âm Bồ tát chẳng phải ai xa lạ: Ngài chính là Quán Tự tại Bồ tát. ‘Quán Tự tại Bồ-tát hành thâm Bát Nhã Ba-la-mật-đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai Không, độ nhất thiết khổ ách’!  Một khi ‘Sắc tức thị Không/ Không tức thị Sắc’ thì lửa sao còn làm cháy được, nước sao còn làm trôi được, gió sao còn thổi bay được, dao gậy xiềng xích sao còn hung hăng được? Và tham sân si cũng đã không tồn tại nữa rồi, đã gaté, gaté, paragaté, parasamgaté rồi, đã “đáo bỉ ngạn”, đã qua bờ bên kia rồi… thì còn sợ hãi điều chi? “Vô úy thí” là vậy!”

Trong kinh Pháp Hoa, ngoài Bồ tát Quán Thế Âm kinh còn nói đến một vị Bồ tát khác cũng rất thú vị, có một pháp tu khá đơn giản và lạ kỳ. Hãy nghe bác nói đến pháp tu của Ngài trong bài viết “Thường Bất Khinh Bồ tát”: “Thường là luôn luôn, bất là không và khinh là coi nhẹ- Thường Bất Khinh là không bao giờ coi nhẹ, không bao giờ khinh người, nói khác đi luôn tôn trọng người, bất cứ là ai, ở đâu, không phân biệt. Bởi vì dưới mắt Thường Bất Khinh, ai cũng sẵn có Phật tri kiến, Phật tánh đó rồi, chẳng qua vì không thấy biết mà không rõ được sự thực, nên không tìm ra hạnh phúc đích thực của kiếp người mà quằn quại trong nỗi khổ đau, bất hạnh. […] ông chỉ làm mỗi việc: chắp tay xá lạy mọi người, bất kể là ai và nói với họ rằng : Tôi không dám coi thường ngài. Ngài chính là một vị Phật tương lai. Ngài sẽ thành Phật ! Nghe ông nói, ai cũng chưng hửng. Phật ư ? Thành Phật tương lai ư ? Còn lâu ! Giỡn chơi sao chớ. Chế giễu hả? Và người ta đánh đuổi ông, nguyền rủa ông, ném đá vào ông. Mặc kệ, ông vẫn kiên trì, không một chút nao lòng, vẫn cứ mỗi một câu nói đó : Tôi không dám khinh ngài, ngài sẽ là một vị Phật tương lai, ngài sẽ thành Phật. Nghe một lần hai lần thì nổi giận, nghe trăm lần ngàn lần thì giật mình, ngạc nhiên và sửng sốt. Rồi nhìn ngắm lại mình. Ủa, mà cũng dám lắm chớ. Ai cũng có hạt giống Phật mà, chịu khó tưới tẩm có ngày dám mọc lên một cây Bồ đề lắm chớ. Phật là chúng sanh đã giác ngộ còn chúng sanh là Phật sẽ thành đó thôi. Và từ đó, lòng tự tin trỗi dậy. Tín thì tấn, rồi niệm, rồi định rồi huệ. Con đường tất yếu nó vậy“.Liên hệ đến giao tiếp truyền thông giữa người với người trong cuộc sốngbácnhận xét: “Tôn trọng, đức tính thứ nhất để thiết lập truyền thông hiệu quả giữa người với người. Thiếu tôn trọng thì truyền thông lập tức gẫy đổ. Tôn trọng phải xuất phát từ lòng thành, nếu không chỉ là sự giả vờ, đóng kịch, không qua mắt được ai.Thường Bất Khinh bằng tất cả lòng thành nên mới nhẫn nhục và tinh tấn đến vậy”. Chúng ta thử áp dụng pháp tu của Ngài khi bị ai xúc phạm, ghét bỏ hay thậm chí muốn hãm hại xem sao!

Dân gian có câu: “Một trăm lần nghe không bằng một lần thấy” hay có thể suy ra “một trăm lần đọc về từ bi không bằng một lần thấy hành động từ bi nơi vị thầy”. Một vị thầy trong đạo dạy ta giáo lý qua khẩu giáo và giới đức qua thân giáo, chính thân giáo, tức hành động, nhân cách, giới phẩm và đức hạnh của vị thầy mới quan trọng, nó làm gương cho ta noi theo. Đây một bài học không lời. Hãy đọc đoạn bác viết trong bài “Với kinh Kim Cang Bát Nhã”: “Cái điều bỡ ngỡ và chưng hửng đầu tiên khi học Kim Cang là hy vọng được đọc, được nghe những lời hay ý đẹp, những khuôn vàng thước ngọc, những bài giảng uyên áo. Thế mà, trời ạ, Kim Cang lại đi kể ngay một chuyện rất đỗi bình thường, nếu không muốn nói là tầm thường nữa, chẳng ăn nhập vào đâu, đó là chuyện Phật tới giờ ăn, đói bụng, bèn mặc áo, ôm bình bát đi… khất thực, chẳng thèm nói lấy một tiếng! Nghĩ mà coi, giữa lúc có hàng ngàn người, cả các vị Đại Bồ tát, A la hán, các vị ‘chức sắc’ và các đại đệ tử thân tín ngồi hồi hộp chờ nghe những lời giáo huấn sâu xa thì Phật chẳng nói chẳng rằng, mặc áo, cầm bình bát, vào thành khất thực. Đến khi khất thực thấy vừa đủ rồi ung dung trở lại ‘hội trường’, bày ra ăn, ăn xong, thu dọn y bát đâu đó đàng hoàng rồi rửa chân sạch sẽ, ngồi xếp bằng… thở, nghĩa là… nhập định! Chẳng thèm nói lấy một tiếng. Chẳng thèm ban cho một chút huấn từ […]. Bỗng dưng, Tu Bồ Đề xuất hiện. Ngồi giữa đám đông như mọi người bỗng ông đứng phắt dậy, cung kính cúi chào đúng nghi lễ với bậc Thế Tôn rồi cất lời ca ngợi: ‘Thật là tuyệt vời! Thật là tuyệt diệu! Thật xưa nay chưa từng có! Thế Tôn đã khéo léo dạy dỗ, khéo léo trao truyền, khéo léo gởi gắm cho các vị đang có mặt tại đây hôm nay!’ Lúc đó thì quả thực mới bùng nổ bài học vừa được truyền trao mà chẳng ai ngờ! Lúc đó thì sự chưng hửng đã trở thành nỗi áy náy. Chết rồi, nãy giờ không để ý, không theo dõi kỹ bài giảng không lời kia của Đức Phật! May mà có Tu Bồ Đề phát hiện! Những người không để ý quan sát kỹ sẽ mất đi một cơ hội đáng tiếc”.Rồi bác nhận xét rằng:“Phật có cách dạy riêng của ngài: Không nói một lời mà chỉ làm cho coi. Đó là một phương pháp giáo dục rất mới mà bây giờ người ta gọi là “demonstration”, tức biểu diễn, làm gương, làm cho bắt chước, một lối dạy kỹ năng sống (life skills) rất hiện đại. Một lần nữa cho thấy học Phật, tu Phật là làm chớ không phải nói. Làm trước, nói sau. Hoặc cũng chẳng cần nói”.

 

Saigon 17/07/2022

Dương Minh Trí

(Thành viên lớp Phật Học & Đời Sống)

 

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống

Nguyễn Quang Chơn: Dự buổi Ra mắt sách BÔNG HỒNG CHO MẸ & Những Cảm Nhận Học Phật

18/07/2022 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Nguyễn Quang Chơn

Dự buổi Ra mắt sách BÔNG HỒNG CHO MẸ & Những Cảm Nhận Học Phật của Đỗ Hồng Ngọc

(http://www.phamcaohoang.com/2022/07/2526-nguyen-quang-chon.html)

 

 

 

Như là một cái duyên. Lâu lắm không gặp bác sĩ, nhà thơ ĐHN kể từ 2019. Và mấy tháng nay anh em không liên lạc nhau, bỗng nhiên nhận tin nhắn hỏi thăm của anh. Kèm lời mời buổi ra mắt sách “ BÔNG HỒNG CHO MẸ VÀ NHỮNG CẢM NHẬN HỌC PHẬT” của anh tại số 7 Nguyễn Thị Minh Khai Sài Gòn. Cũng là dịp tôi vào thăm cháu nội. Nên kéo con trai Quang Dũng cùng đi….

Số 7 NTMK chỉ một con số mà dài lòng thòng với bao nhiêu hẻm. Chúng tôi đến đúng giờ nhưng tìm đúng nơi đã trễ 15 phút, anh đang bắt đầu buổi ra mắt. Khán phòng nhỏ thuộc về “Hội quán các bà mẹ”. Mà chẳng hiểu vì là của “các bà mẹ” hay sao mà tôi đảo mắt nhìn, tham dự có tất thảy 53 người, mà chỉ có 12 “men”, còn lại là các bà các cô với áo dài nghiêm cẩn. Tưởng sẽ gặp nhiều bạn bè “Quán Văn”, nhưng không, chỉ có chị HKO…

Anh ĐHN vẫn vậy. Từ tốn. Nhẹ nhàng. Nhưng dường như dấu ấn thời gian vẫn khắc trên anh một chút mõi mệt, một chút chậm chạp, một chút…quên quên, so với…3 năm trước!…

Trời ạ. Anh đã tuổi 80. Tuổi 80 mà anh còn ngồi trên diễn đàn, còn trả lời rành rọt mấy câu hỏi của bạn bè, là mừng lắm rồi mặc dầu, “bạn hỏi như dzậy phải không?” đã là quá giỏi!…

Trong cuộc vui còn gặp anh Nguyễn Tiến Nhân, nhà Phật học. Tàn cuộc, anh Nhân nói nhỏ, “Đi uống bia!” Nhưng bận hẹn với cháu nội yêu thương An Chi nên phải vội vã kiếu từ!……

Nói gì đây? Hai tiếng đồng hồ ngắn ngủi để nghe giọng nói, được nhìn những khuôn mặt hiền an mình quí mến. Để nhìn một khung cảnh thân quen của bạn bè ngày ra sách. Để cảm nhận sự gặp gỡ là chia ly, của anh em bè bạn, của những tình thân. Thì cũng đã là cảm nhận sự vô ưu của người “học Phật” rồi còn gì!…

Thi sĩ Đỗ Nghê-Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, vẫn hít vào, thở ra, hồn nhiên tự tại, như tôi như anh, như mọi người, nhưng có lẽ trong sáng hôm nay, tôi “quán” được rằng, anh đã thở ra, thở đến chúng tôi hơi thở bằng an, khi chia tay anh lui bước, thì dưới chân cầu thang kia là một góc chợ, rất đời thường!…

Cám ơn anh ĐHN, một chủ nhật hồn nhiên!

 

Nguyễn Quang Chơn

17.7.22

 

 

Thuộc chủ đề:Ghi chép lang thang, Góc nhìn - nhận định

Đỗ Hồng Ngọc với “Bông hồng cho mẹ và những cảm nhận học Phật”

17/07/2022 By Bac Si Do Hong Ngoc 2 Bình luận

 

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc với “Bông hồng cho mẹ và những cảm nhận học Phật”

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc chia sẻ kinh nghiệm học Phật đến bạn đọc
Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc chia sẻ kinh nghiệm học Phật đến bạn đọc
GNO – Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc vừa có buổi trò chuyện với người yêu sách nhân dịp giới thiệu tác phẩm mới “Bông hồng cho mẹ và những cảm nhận học Phật”, vào sáng nay 17-7, tại “Hội quán Các bà mẹ” (Q.1, TP.HCM).

TIN LIÊN QUAN

  • Đọc “Tôi học Phật” của Đỗ Hồng Ngọc
  • BS.Đỗ Hồng Ngọc với “Thư gởi bạn trong mùa Co-vi 19”
  • Tản mạn “Về thu xếp lại” của Đỗ Hồng Ngọc
  • BS.Đỗ Hồng Ngọc: “Đức Phật, bậc Y vương”
Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc với “Bông hồng cho mẹ và những cảm nhận học Phật” ảnh 1
Trò chuyện với bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc: “Bông hồng cho mẹ và những cảm nhận học Phật”

Trong buổi gặp gỡ, bạn đọc lắng nghe những chia sẻ thân tình của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc về con đường thi ca, nhân duyên với ngành y và cảm nhận ban đầu về Phật học của mình. Ông cũng chia sẻ thêm về những kiến thức cơ bản cho người mới đầu học đạo cũng như kinh nghiệm thực hành trong cuộc sống hàng ngày, giúp thân và tâm an lạc hơn.

Dịp này, mọi người có cơ hội tìm hiểu sâu hơn pháp môn “Thiền và Thở”, cách thức vận dụng nó để phòng, chữa các bệnh lý về thân, giảm các lo âu, stress trong công việc và mang lại an tịnh cho tâm hơn qua sự chia sẻ rất sinh động và thiết thực của vị bác sĩ này.

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc với “Bông hồng cho mẹ và những cảm nhận học Phật” ảnh 2
Tác phẩm “Bông hồng cho mẹ và những cảm nhận học Phật”

“Thân tâm của mình dường như được làm mới lại, trước đây thấy sự mất mát đó là một nỗi đau nhưng sau khi nghe bác sĩ chia sẻ thì nhận thấy, đôi khi nỗi đau đó là niềm may mắn để mình thể ngộ nhiều điều mới hơn trong cuộc sống bộn bề này”, bạn trẻ Hà Thúy Vi (26 tuổi, quận 8) xúc động khi nghe 4 câu thơ:

Con cài bông hoa trắng

Dành cho mẹ đóa hồng

Mẹ nhớ gài lên ngực

Ngoại chờ bên kia sông…

(Bông hồng cho mẹ – Đỗ Hồng Ngọc)

Tác phẩm “Bông hồng cho mẹ và những cảm nhận học Phật”, tập hợp 37 bài viết của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc trên Phật học Từ Quang tục bản (2012-2022), do Nhà xuất bản Hồng Đức ấn hành. Với Mùa Vu lan: Bông hồng cho mẹ, Thương nhớ đòn roi, Vè thiền tập, Nói thêm về thiền bụng, Luân hồi sanh tử, Quán Thế Âm Bồ-tat,… trong tác phẩm mới này gợi mở sự truyền thông về tình mẫu tử thiêng liêng và nhận thức về giáo lý Phật đà một cách nhẹ nhàng, dễ hiểu, dễ thực hành.

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc với “Bông hồng cho mẹ và những cảm nhận học Phật” ảnh 3
Niềm hoan hỷ trên khuôn mặt của nhiều người khi tham dự buổi trò chuyện

“Cuốn sách này ra đời nhân dịp Vu Lan sắp về, nó thể hiện nỗi nhớ về mẹ, cũng như cảm nhận về Phật học và một số trải nghiệm của tôi khi thực hành nó”, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc chia sẻ.

Đỗ Hồng Ngọc là tác giả của nhiều tác phẩm đã đi vào lòng người, với giọng văn nhẹ nhàng như lời tự sự, trong đó có nhiều tác phẩm liên quan Phật học đã tái bản nhiều lần, như Nghĩ từ trái tim, Gươm báu trao tay, Thiền và Sức khỏe, Gì đẹp bằng sen?…

Quảng Đạo/Báo Giác Ngộ

 

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Phật học & Đời sống, Thiền và Sức khỏe

Giao lưu với BS Đỗ Hồng Ngọc về “BÔNG HỒNG CHO MẸ & Những Cảm Nhận Học PHẬT”

12/07/2022 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

 

GIẤY MỜI

Mời các bạn đến tham dự buổi Trò Chuyện thân mật này nhé!

do Hội quán Các Bà Mẹ tổ chức, ngày CN 17.7.2022, tại số 7 Nguyễn Thị Minh Khai, từ 8:30-10:30.

Sách do Quỹ Ấn Tống Hoa Sen chùa Phật học Xá Lợi thực hiện. Mỗi bạn tham dự được tặng một cuốn sách với chữ ký của tác giả để kỷ niệm.

Thân mến,

ĐHN

 

blue white halftone modern bright art. Blurred pattern raster effect background. Abstract creative graphic template. Business style.

Thuộc chủ đề:Gì đẹp bằng sen?, Gươm báu trao tay, Nghĩ từ trái tim, Thiền và Sức khỏe

Nguyễn Thị Khánh Minh, “Còn Chút Để Dành”

11/07/2022 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

 

Nguyễn Thị Khánh Minh

                “Còn Chút Để Dành”

Đỗ Hồng Ngọc

Nguyễn Thị Khánh Minh làm thơ rất sớm. 11 tuổi đã có thơ đăng báo nhi đồng, 15-16 tuổi làm thơ tình và 20 tuổi đã có những tập thơ đầu tay là Tặng Phẩm và Trăm Năm… và theo Khánh Minh nói, “nếu không có sự thúc đẩy của Nữ sĩ Tuệ Mai và nhà thơ Phạm Thiên Thư, thì chắc Khánh Minh không mạnh dạn với thơ như thế”.

Sanh ở Hà Nội, vài tháng tuổi đã về Nha Trang quê Nội và sau đó, về Saigòn với trường Luật, rồi bây giờ Los Angeles.

Thơ đã xuất bản: Tặng Phẩm, 1991 Trăm Năm, 1991, Tơ Tóc Cũng Buồn, 1997, Đêm Hoa, 1999, Những Buổi Sáng, 2002, Bùa Hương, 2009, Hoa Mùa Cổ Tích, 2012, Ký Ức Của Bóng, 2013, Tản Văn Thi, 2018, Ngôn Ngữ Xanh, 2019, Đêm, 2021.

Văn đã xuất bản: Bóng Bay Gió Ơi, Tản Văn, 2015, Lang Thang Nghìn Dặm, Tản văn, 2017, Còn Chút Để Dành, (“đọc” Đỗ Hồng Ngọc/ Đỗ Nghê) 2022, in tại Sài Gòn, lưu hành trong vòng thân hữu.

Phạm Thiên Thư và Khánh Minh (2009)

 

Khánh Minh nói về thơ của mình:

“Không theo một công thức nào khi viết, chỉ viết theo cảm xúc. Cảm xúc là điều đầu tiên quyết định nó phải được biểu lộ như thế nào. Nếu những cảm xúc đã tạo cho thơ tôi một dáng vẻ nào đó thì nó cũng nằm ngoài ý thức của tôi”. (Saigonline.com).

Trên gio.o.com, trong bài phòng vấn của Lê Thị Huệ, Khánh Minh cho biết: Tôi vẫn luôn luôn viết từ cảm xúc tức thời của mình, về những điều tôi chợt thấy, hay về những điều ám ảnh và trở đi trở lại trong ý nghĩ mình, và tôi thường diễn đạt theo một thi pháp trong sáng nhất, trong sáng với nghĩa dễ hiểu, không nhiều ẩn dụ. Tôi mong là người đọc thơ tôi cảm được cái Thơ của nó không qua suy nghĩ. Một cái hiểu và cảm tức thì.

 Một ý thơ bật trong một khoảnh khắc cảm hứng nào đó, lập tức, nhạc lấp lánh trên chữ. Ý, Nhạc, Chữ, cả ba hầu như cùng lúc, theo cảm xúc mà hòa quyện một cách rất tự nhiên, đó là điều kỳ diệu của phút giây làm Thơ như tôi đã nói ở trên, đó là lúc tôi thấy mình rất là hiện hữu. Phải chăng, âm trong mỗi con chữ chính là hồn cốt của chữ? Và khi các chữ được gắn bó với nhau một cách như là “hòa âm” thì tạo nên Thơ hay, dù theo thi pháp nào đi nữa. Đầu óc hàn lâm sẽ giết chết thơ, nhưng cái “lý sự” của nhà thơ thì khác, nó là một thứ trực-giác-hồn-nhiên (tôi mượn chữ của nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ) -“thấy” ngay lập tức- đó là cái gạch nối giữa Nhà Thơ và người đọc, có được điều ấy từ người đọc thì sẽ có nhiều thiện duyên cảm ứng với nhà thơ.

Ngoài những việc làm để duy trì cuộc sống, tôi chỉ miệt mài với Thơ, chỉ Thơ, đối với tôi đó là sinh hoạt tâm linh và tôi chỉ thật sự tồn tại để được là mình trong những giây phút ấy, đến lúc nào thời lượng đó càng nhiều thì tôi càng nhận ra ý nghĩa của sự tồn tại.

Còn với văn thì sao?

Hãy nghe Nguyễn Xuân Thiệp:
Đọc tản văn của Nguyễn Thị Khánh Minh – Bóng Bay, Gió Ơi chẳng hạn – nhiều người bị mê hoặc bởi vẻ đẹp của tác phẩm. Tầng tầng những vẻ đẹp hiển lộng trước mắt: vẻ đẹp của tu từ, vẻ đẹp của hình ảnh, ý tưởng và cảm xúc. Nói chung là nghệ thuật trứ tác và tâm hồn của Nguyễn Thị Khánh Minh.

Đọc Lang Thang Nghìn Dặm của tác giả, ta lại thấy mình một lần nữa bị mê hoặc bởi vẻ đẹp của văn chương Nguyễn Thị Khánh Minh. Chiều ấy rất nhiều gió / đàn chim nhớ phố bay về. Và ta thấy Đinh Cường như một linh hồn trong suốt đang bay. Và trái tim ai kia mãi lang thang ngoài nghìn dặm khi ngoại chờ bên kia sông để nhận một đóa hồng. Và ai, ai về như hài cỏ trong lặng im của lá. Tôi bắt gặp hồn chữ phiêu du trong âm âm tiếng gió va vào ô cửa kính, trong ảo hóa mây trời trong dòng mưa vũng nắng. Đọc thơ người thấy mình nhỏ bé đi dưới cái huyễn lộng, hay chỗ nào, vì sao hay, hỏi như hỏi mây xanh, theo như đuối dòng nước trôi hoài kia. Chuyện trăng tàn là chuyện gì, chưa nghe thấu nỗi đã thấy rúng động. Trăng tàn giật mình thấy sững sờ cái núi lạnh biển im, tấm lòng kiên định băng khiết.  Vân vân… Những con chữ của Khánh Minh như những cái lá, những tia nắng đưa ta vào cõi thơ, cõi đẹp.

Có ai đó lại nói, con đường từ trái tim này đến trái tim nọ là con đường thăm thẳm của cảm thông, lại có khi chỉ cần nghe một nhịp đập của cảm ứng là khoảng cách trở nên vô nghĩa. Trên hành trình nghìn dặm này, tôi đã cảm được điều vô nghĩa ấy của không gian tâm linh. Một hành trình mà theo Tim Cahill thực sự không phải được tính bằng dặm mà bằng những người bạn…

Trần Thị Nguyệt Mai thì bảo “bằng trái tim mẫn cảm và ngòi bút thơ mộng, chị đã như một gạch nối đưa thơ văn vào trong tim người đọc với những bài giới thiệu thật đặc sắc. Và, hẳn nhiên, tác giả rất cảm động vì được chia sẻ. Như là: “Nguyễn Lương Vỵ, người thơ hát âm”, “Bất chợt thơ Nguyễn Xuân Thiệp. Và gió…”, “Du Tử Lê, dòng sông hẹn hò biển cả”, “Lữ Quỳnh, Thơ. Và con mắt của giấc mơ”, “Lữ Kiều, chàng lãng tử của thời gian”, “Khuất Đẩu. Và cõi đẹp”, “Phan Tấn Hải. Người Tới Như Mộng”, “Lê Giang Trần. Chiếc vòng kim cô nhớ”, “Vũ Hoàng Thư. Hạt Nắng Phiêu Du”, “Hoàng Xuân Sơn. Quỳnh ơi, hồn nhiên một đóa…”, “Đỗ Hồng Ngọc. Ngoại chờ bên kia sông”, “Trịnh Y Thư, lắng nghe hài cỏ”, “Nguyên Minh, chân kiến dặm trường”…

Còn nhớ, khi đọc Tản Văn Thi của Khánh Minh, tôi viết:

Nhiều người bảo Tản Văn Thi của Khánh Minh là giấc mơ, là huyền thoại, là chiêm bao. Tôi không tin. Trái lại, nó rất hiện thực. Nó rất ở đây và bây giờ. “Đó là bức tranh sắc mầu cuộc sống”: bức tranh của một gia đình hạnh phúc, thứ hạnh phúc đơn sơ như ‘Me tôi ngồi khâu áo bên cây đèn dầu hao/ Cha tôi ngồi xem báo… Tôi nghe tiếng còi tàu… ’(Kỷ Niệm, Phạm Duy).

Tiếng chim ríu rít mách tôi sự trong trẻo ban mai trao lòng tin cậy.

Bóng đêm mở nỗi sợ cho tôi tìm ra ánh sáng bờ vai nương tựa.

Những vì sao tặng tôi cách nhìn ngây thơ trong sáng.

Gió cho tôi đôi cánh và đường bay mơ ước con người.

Bóng mây tan nhắc tôi mỗi phút giây ở lại bên mình yêu dấu.

Tiếng cười bé thơ cho tôi nghe reo vui lời tâm kinh bát nhã.

 

(Khánh Minh, Khoảnh khắc giấc mơ)

Và chỉ ở đó: Và một khi đã thấy biết (tri kiến) như thế, khi đã reo vui như thế, thì người ta sống với yêu thương, sống trong yêu thương, sống vì yêu thương:

“Yêu thương nhé” “ nói cùng lá cứ sống hết mình xanh”,

“yêu thương ơi xin thức dậy cùng người…”

“yêu thương ơi khoảnh khắc sum vầy đơn sơ thế xin một lần được cất cánh bay”.

“yêu thương ơi chút lòng riêng xin chắt chiu nghe…”

“ Cho dẫu chiều rồi phai nắng…”

(Khánh Minh, Yêu thương ơi)

Những ngày triền miên đau yếu, Khánh Minh tìm thấy một niềm tin: “Sẽ đem theo trái tim đầy tin cậy”. Trái tim đầy tin cậy, ấy chính là ‘Tín tâm”. Hãy giữ lấy. Dù “Ngày xám đục những mây/ đứng dưới một cây phong bay những chiếc lá khô/ Không có loài chim nào đến hót/ Cơn bão rớt đem mưa làm nước mắt…”.

Thì cũng vịn câu thơ mà đứng dậy!

“Tôi đi tìm những trang bản thảo, mảnh đất tị nạn bình yên của tôi. Nơi có trò chơi trốn tìm dưới ánh chớp những chùm sao đang va vào nhau vang dội. Âm thanh ẩn mật là chiếc chìa khóa cuối cùng tôi phải mở, cõi thách thức cảm xúc phục sinh. Tôi nhặt được một trang bản thảo lem luốc đầy vết xóa và tôi nghe tiếng tim mình còn hồi hộp đập…”. (Khánh Minh. Trong cơn bệnh).

“…còn hồi hộp đập” nghĩa là còn sẽ nhặt nhạnh thêm nhé Khánh Minh.

Khi đọc Đêm, tập thơ mới nhất của Khánh Minh, tôi chợt nhớ Đêm thơm như một dòng sữa của Phạm Duy (Dạ lai hương)

Hiu hiu hương tự ngàn xa
Bỗng quay về dạt dào trên hè ngoài trời khuya…

(Phạm Duy)

Đêm qua anh cùng em

Dặm đường nghe gió biếc

Đêm nay em nhìn lên

Thấy một vầng trăng khuyết

 

Chuyện hình như của Tagore: người chồng có chuyến buôn xa, từ biệt vợ, nàng âu yếm năm lần bảy lượt dặn đừng quên lúc về mua cho nàng một tấm gương tròn sáng như vầng trăng vành vạnh kia. Ngày về, chàng nhìn lên trăng, thấy một vầng trăng lưỡi liềm cong vút, vội vã mua một chiếc lược ngà…

Lại nhớ Trịnh: “Em đi qua chuyến đò, ối a con trăng còn trẻ/ Con sông đâu có ngờ, ngày kia trăng sẽ già” (Biết đâu nguồn cội).

Ở Khánh Minh, thơ không chỉ là thơ mà còn là tiếng nói, còn là hạt lệ… còn là vòng tay, còn là hơi ấm từ trái tim biết đau xót nỗi đau chung:

Người đem theo nụ cười

Đi vào những biên giới

Những biên giới đôi co

Những biên giới gào thét

Bỗng nhận ra mình

Những phân chia hổ thẹn

 

Để rồi:

… Ngây ngô họ xúm gần tôi

Chỉ trỏ vào nụ tôi cười, ngạc nhiên

Quệt vào tôi những ánh nhìn

Hỏi tôi hạt nước mắt tìm ở đâu

Thưa, tôi nhặt ở tim đau…

 

Trong thơ Khánh Minh, ngọn cỏ với Ta là một, cùng uống ánh mặt trời, cùng tỏa ngát hương thơm, cùng rúng động vì tiếng chuông chùa trên núi xa kia để hòa vào vũ trụ mênh mông, không thể không nhớ…

Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.

(Phong Kiều Dạ bạc, Trương Kế)

 

Một hôm, Khánh Minh kêu anh Ngọc ơi, vẽ cho em một bức chân dung nhe, tôi ngẩn người đành làm một bài thơ tạ lỗi vầy:

thục nữ

gởi khánh minh 

 

em bảo vẽ cho em một bức chân dung

chân dung người làm thơ

một người làm thơ nữ

trời đất ơi

làm sao vẽ được chân dung

một người làm thơ nữ

đom đóm hái sao

 

tôi nhắm mắt lại nhìn em

cho rõ

lần đầu gặp ở trương thìn,

đây khánh minh

rồi làm thinh

 

tôi thấy em thục nữ,

tại sao mà làm thơ

rồi nhìn thêm lần nữa

oan oan thư cưu

 

cho đến một hôm nơi ồn ào kia

quanh bè bạn thân quen đâu từ kiếp trước

em tặng mỗi người tập thơ còn ướt

những bài thơ hình hiện muôn đời

như không thôi đi được…

 

tôi nhắm mắt nhìn em cho rõ

thử hình dung ra cái hình dung

rồi vẽ vào không gian trong

một người làm thơ nữ

 

khi mở mắt ra

em tan biến

đành ghi vội mấy dòng

tạ lỗi!

 

đỗ nghê

(9.2014)

Ra mắt tập thơ Bùa Hương của Khánh Minh, 2009, Cafe Du Miên Từ trái: Lê Ký Thương, Kim Quy, Ngọc Bích, Khánh Minh, Thân Trọng Minh, Đỗ Hồng Ngọc, Nguyên Minh

Biết tôi vừa vượt tuổi 80, Khánh Minh tặng cuốn Còn Chút Để Dành, gồm những bài viết của Khánh Minh về Đỗ Hồng Ngọc/ Đỗ Nghê bấy nay như một kỷ niệm, tôi đọc mà không khỏi giựt mình, vì Khánh Minh đã viết với một cảm xúc thi ca hiếm có, lại “nhìn ra” một Đỗ Hồng Ngọc/ Đỗ Nghê còn hơn mình “thấy biết” chính mình.

Tô Thẩm Huy bảo “Tuyển tập Còn Chút Để Dành thu góp những bài viết đẹp đẽ đầy tình người của Nguyễn Thị Khánh Minh về Đỗ Hồng Ngọc/ Đỗ Nghê một lần nữa cho thấy có lẽ anh là người hạnh phúc và giàu có nhất trên đời.
Xin được chung vui cùng anh. Và xin chúc anh an lạc trong lòng thương yêu, quý mến của mọi người”.

Lê Uyển Văn ở tận Trà Vinh thì bảo: Hạnh phúc của người viết là nhận được sự đồng điệu nơi người đọc. Em nghĩ người viết Đỗ Hồng Ngọc hạnh phúc muôn phần khi nghe được khúc hòa âm từ tác giả Nguyễn Thị Khánh Minh.
Hơn tuần nay, em may mắn được đọc “REO TUỔI”, ngưỡng mộ vô cùng ngòi bút sắc sảo, uyên thâm mà dạt dào khôn tả; lại xuýt xoa với câu từ của chị Khánh Minh, thú vị và đẹp đẽ!
Đúng lúc hoang mang vì tuổi tác chất chồng, em cảm thấy an lòng đón thêm tuổi mới khi được đọc những dòng này!
Cảm ơn thật lâu với “Còn chút để dành”!

Nguyệt Mai cũng kêu lên: Càng đọc càng thấy nữ sĩ Khánh Minh là một tri âm tri kỷ – rất quý của Đỗ Hồng Ngọc (Đỗ Nghê). Đã hiểu anh một cách rất sâu sắc. Hình như chưa có người nào đọc ĐHN mà thấu đáo tận cùng như vậy.

Vũ Hoàng Thư cũng bảo “Đọc tập Còn Chút Để Dành của Nguyễn Thị Khánh Minh viết về nhà thơ Đỗ Nghê – Đỗ Hồng Ngọc không thể không liên tưởng đến Bá Nha – Tử Kỳ, mối tri kỷ chỉ hiện hữu ở tình bạn tuy giữa hai người mà đã là như một. Tưởng là chuyện chỉ xảy ra thời Xuân Thu Chiến Quốc, ngờ đâu truyền kỳ ấy lặp lại giữa thời đại chúng ta. Thật là một tương lân thân tình hiếm có!
Với một bút pháp sâu sắc, diễm lệ, Khánh Minh bắt đúng mạch và dẫn người đọc đến một thế giới thơ mộng Đỗ Nghê chan hòa giữa đạo và đời, nói đúng ra một nếp sống an lạc trong lục hòa. Từ đó ta bắt gặp một Bồ tát không tuổi bởi “Anh không có ngày sinh nhật/ Nên mỗi ngày/ Là sinh nhật của anh.”  Anh sống trong hiện thị đương là, từng giây phút ngập tràn luân sinh chất ngất, vô thủy vô chung nên vô sinh, không sinh ra nên không chết đi cho lý nhân quả dừng lại. Không những thế ta còn khám phá ra những dòng thơ ngắn, cô đọng, đời thường của Đỗ Nghê vậy mà “vỡ òa ngực biếc” bởi những gì là thân yêu nhất không thể thay thế: tình quê, tình Mẹ. Và rất nhiều nữa.
Cám ơn nhà văn Khánh Minh, không có những tản văn cô đọng và đúc kết như thế của cô, có lẽ chúng ta sẽ không thấy hết, thấy đầy đủ một viên ngọc quý: Đỗ Hồng Ngọc.

Thanh Lương chỉ nói đơn sơ: “Còn Chút Để Dành”, cuốn sách tuy mỏng mà nặng… Bìa đẹp với mùa thu thơ mộng và lãng mạn, rất thích hợp với văn phong NTKM. Thanh Lương cảm nhận được một mối hòa điệu tri kỷ của người đọc và người được đọc. Thật không gì hạnh phúc hơn khi viết mà nhận được những đáp ứng sâu sắc ân tình như 7 bài viết của Khánh Minh. Tự nhiên Thanh Lương nhớ mấy chữ Hiểu và Thương của thiền sư Nhất Hạnh, Khánh Minh viết cảm nhận về văn Đỗ Hồng Ngọc như thế, không chỉ là Hiểu mà còn Thương.

***

Lâu nay, ở cuối mỗi điện thư, Khánh Minh thường ký tắt km, chữ nhỏ, không hoa. Là “khánh minh”. Ai cũng hiểu vậy. Tôi bèn gởi mấy dòng cho km:

khánh minh ký tên mình
km khiêm tốn
thư cho bè bạn
nhiều lúc đọc nhầm
tưởng ki-lô-met
nhiều lúc nhủ thầm
từ đây đến đó
bao nhiêu khánh minh?

 

Saigon 11.7.2022

ĐHN

 

Thuộc chủ đề:Ghi chép lang thang, Góc nhìn - nhận định, Vài đoạn hồi ký

Quan Thế Dân: Lối thoát cho ngành y

10/07/2022 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

Lối thoát cho ngành y

Quan Thế Dân

Bác sĩ, Tiến sĩ Y học

Năm 2005, tôi được bổ nhiệm làm trưởng khoa trong bệnh viện lúc ngoài 40 tuổi.

Vị trí tôi giữ với đa số mọi người thường gần đến lúc nghỉ hưu mới được ngồi vào. Vì thế tôi cảm động lắm, lúc nào cũng sục sôi muốn đóng góp xây dựng bệnh viện.

Thời gian ấy, xã hội đang sôi nổi khí thế đổi mới nền kinh tế. Ngành y bao năm bị mang tiếng trì trệ, lương thấp, lạc hậu… cũng muốn hòa vào trào lưu đổi mới đó.

Ngành y tế TP HCM lúc bấy giờ có đề án cổ phần hóa Bệnh viện Bình Dân. Dư luận rất quan tâm. Giới y chúng tôi bàn tán sôi nổi. Nhiều người mong có luồng gió mới mẻ xua tan những trì trệ trong ngành.

Trong kỳ đại hội công nhân viên chức bệnh viện năm ấy, mang cảm hứng từ hy vọng đổi mới, tôi có bài tham luận nảy lửa kêu gọi đổi mới trong bệnh viện. Khỏi phải nói, anh chị em vỗ tay ủng hộ quá trời, 100% phiếu bầu tôi làm thanh tra nhân dân.

Sau này tôi mới biết, ban giám đốc hoảng hồn họp kín, gọi sự kiện hôm ấy là “làm loạn” mà tôi là người đầu têu.

Giữa năm 2007, chuyện cổ phần hóa Bệnh viện Bình Dân bị hủy bỏ. Nhiệt tình đổi mới quản lý ngành y bị dội thùng nước lạnh.

15 năm trôi qua, tôi đã về hưu. Các khuyết điểm đã được chỉ ra từ 15 năm trước vẫn y nguyên và ngày càng trầm trọng hơn. Ngành y hôm nay sa vào khủng hoảng, quan chức từ cấp bộ đến sở rồi tới bệnh viện bị bắt, tiền tham nhũng hối lộ tính bằng hàng chục, hàng trăm tỷ đồng.

Ở thế kỷ 21, không còn ai tranh luận kinh tế thị trường tốt hay kinh tế kế hoạch hóa tốt nữa, mà vận dụng mặt mạnh của cả hai loại hình kinh tế này.

Dù mang nhiều chức năng cao đẹp, ngành y về cơ bản vẫn là một ngành dịch vụ, một ngành kinh tế. Vì thế y tế muốn phát triển vẫn phải tuân theo sự điều khiển vô hình của kinh tế thị trường. Thực tế này có thể nhìn thấy trong ngành y hiện nay: chuyên khoa nào người dân có nhu cầu cao thì trở nên “hot”, thu nhập cao, đông người theo học. Bệnh viện nào uy tín thì nhiều người đến, doanh thu cao.

Dù muốn dù không, vận hành bệnh viện phải theo các quy luật kinh tế. Phải hòa vốn để tồn tại. Phải có lãi để tăng trưởng.

Giá khám chữa bệnh hiện nay ở bệnh viện được thừa nhận là chưa bao gồm đủ các chi phí. Vậy tại sao hệ thống y tế không sụp đổ. Vì nó đang gắng gượng trụ được bằng các nguồn lực khác như sau: Một là nguồn kinh phí của nhà nước cấp để chi lương, chi đầu tư, hỗ trợ thuế… Thứ hai là chi phí mà người bệnh phải trả, mà phần ngầm có khi chiếm đến 50% tổng chi phí khám chữa bệnh, gồm tiền trả thêm cho các dịch vụ, tiền mua thuốc ngoài… Nguồn lực thứ ba là tệ nạn tham nhũng. Chính tham nhũng là một cách giải quyết tự phát những bất hợp lý của vận hành bệnh viện. Tôi không ủng hộ lấy một cái sai này để giải quyết một cái sai khác, nhưng hiện tượng tham nhũng diện rộng trong ngành y đang phản ánh một vấn đề có tính quy luật.

Như vậy, nếu cắt đi ba nguồn lực trên thì y tế hiện nay sẽ sụp đổ.

Vậy lối thoát của y tế Việt Nam là ở đâu. 15 năm trước, những người tâm huyết đã nhận ra, ngành y muốn phát triển lành mạnh cần phải đa dạng: y tế công, y tế tư, y tế từ thiện (phi lợi nhuận). Ý tưởng cổ phần hóa bệnh viện công là một bước đi dũng cảm.

Y tế tư nhân là con đẻ của kinh tế thị trường, từ khi mới ra đời đã nhận nhiều nghi kỵ, nhưng vẫn âm thầm phát triển. Đến nay y tế tư nhân đã trở thành bộ phận ngày càng quan trọng của y tế Việt Nam. Về nhiều mặt, chính y tế tư nhân đã buộc y tế công phải thay đổi, phải chuyển mình. Bệnh viện công phải tự hỏi chính mình: Tại sao bệnh viện tư phải tự bỏ tiền ra mua đất, tự bỏ tiền ra xây bệnh viện mua máy móc, trả lương cao cho nhân viên mà vẫn có tăng trưởng.

Có nhiều người lo ngại nếu chuyển tư nhân hóa bệnh viện sẽ dẫn đến tăng giá dịch vụ y tế. Theo tôi, giá dịch vụ y tế rẻ hiện nay của bệnh viện công là danh nghĩa, còn thực chất bệnh nhân phải chi ngoài nhiều và đang ăn vào vốn của nhà nước. Còn giá dịch vụ của y tế tư là công khai minh bạch, tính đúng tính đủ chi phí, và đang dần được xã hội chấp nhận. Giá của dịch vụ y tế tương lai sẽ do quy luật cạnh tranh, các cơ sở y tế sẽ phải thu hút khách hàng bằng chất lượng và giá cả. Song song với đó không thể thiếu vai trò điều tiết của Nhà nước thông qua đặt hàng của Bảo hiểm y tế, giá trần của các dịch vụ y tế.

Tôi hình dung ngành y Việt Nam sẽ bao gồm các thành phần như sau. Một là y tế công bao gồm y tế cơ sở, y tế dự phòng, các bệnh viện điều trị bệnh xã hội, bệnh viện người có công, bệnh viện của quân đội, công an. Hai là y tế tư nhân gồm bệnh viện công cổ phần hóa và bệnh viện tư. Thành phần thứ ba của nền y tế là y tế từ thiện, hoạt động phi lợi nhuận, do các tổ chức từ thiện tài trợ.

Cổ phần hóa các bệnh viện công nhà nước sẽ giảm được gánh nặng chi phí nuôi bộ máy y tế cồng kềnh tốn kém. Bệnh viện sẽ tiếp nhận cách quản lý mới, nguồn vốn đầu tư mới để thay đổi. Nhân viên y tế có cổ phần trong bệnh viện sẽ gắn bó xây dựng bệnh viện hơn. Các tiêu cực trong đấu thầu thuốc, máy móc, trong xây dựng cơ bản sẽ tự nhiên hạn chế. Bán cổ phần trong các bệnh viện công, nhà nước sẽ thu lại được nguồn lực khổng lồ, để đầu tư cho y tế cơ sở, nâng cấp cho các bệnh viện công còn lại.

Các ý kiến trên đây của tôi là cách thế giới đã làm từ rất lâu. Người trăn trở với nghề y ở Việt Nam cũng nói đến những điều này hàng chục năm qua. Nhưng tất cả trôi đi trong sự loay hoay lúng túng của quản lý.

Giáo dục và y tế miễn phí phản ánh bản chất tốt đẹp của một xã hội. Nhưng khi y tế miễn phí còn ở tương lai xa, việc thực hiện được y tế công bằng đã là rất tốt cho dân rồi.

Quan Thế Dân

(Nguồn https://vnexpress.net/loi-thoat-cho-nganh-y-4485674.html)

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Thầy thuốc và bệnh nhân

Phật học & Đời sống: Bốn Lời Nguyện Rộng Lớn (Tứ Hoằng Thệ Nguyện)

07/07/2022 By Bac Si Do Hong Ngoc Để lại bình luận

 

Lớp Phật học & Đời sống, Chùa Xá Lợi Tp.HCM 25.6.2022:

Bốn Lời Nguyện Rộng Lớn (Tứ Hoằng Thệ Nguyện)

 

Buổi trao đổi về “Bốn Lời Nguyện Rộng Lớn” (Tứ Hoằng Thệ Nguyện) tại Lớp Phật học & Đời sống, chùa Phật học Xá Lợi Tp. HCM ngày 25.06.2022

Cảm ơn Nguyễn Văn Quyền (vquyen n) đã thực hiện clip này để chia sẻ cùng bè bạn.

Đỗ Hồng Ngọc.

 

 

 

Thuộc chủ đề:Góc nhìn - nhận định, Gươm báu trao tay, Nghĩ từ trái tim

Mùa Vu Lan: “Bông Hồng Cho Mẹ & Những cảm nhận học Phật”

05/07/2022 By admin 1 Bình luận

 

“Bông Hồng Cho Mẹ & Những cảm nhận học Phật”

Đỗ Hồng Ngọc

 

 

Duyên khởi

Cơ duyên đưa đẩy, tôi được gặp rồi quen thân với Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc hơn chục năm nay. Khi Tạp chí Phật học Từ Quang tục bản (số 1, 2012), đến nay tròn 10 năm, số nào cũng có bài viết của anh. Tôi mời anh và anh cũng hoan hỉ tham gia Ban Phật Học (Cố vấn), phụ trách Nhóm Học Phật và là người đồng hình thành lớp “Phật học & Đời sống”, đến nay vẫn hoạt động tốt.

Mấy năm gần đây, anh là một trong số cư sĩ được mời tham gia hướng dẫn lớp An cư kiết hạ truyền thống hằng năm dành cho các tu sĩ tại Chùa Phật học Xá Lợi Tp. Hồ Chí Minh.

Từ những bài viết của anh đăng trên Phật học Từ Quang được tập hợp để có cuốn sách “Bông hồng cho Mẹ & Những cảm nhận học Phật” này, tôi tin người đọc dễ thấy Đỗ Hồng Ngọc học Phật qua lăng kính của nhà thơ, nhà khoa học, của người thầy thuốc tận tâm.

(…)

Khi được hỏi “kinh nghiệm” về học Phật, anh nghĩ “Trước hết cần nắm được các thuật ngữ, sau đó là hiểu được các ẩn dụ, ẩn nghĩa, hàm chứa trong lời Kinh và quan trọng nhất là thực hành, ứng dụng vào đời sống, ở đây và bây giờ…”.

Với tôi, đây là kinh nghiệm quý cho những người muốn học Phật. Nhân mùa Vu lan này (2022, PL 2566), Quỹ Ấn tống Hoa Sen (Chùa Phật học Xá Lợi) cùng với Nhà xuất bản Hồng Đức ấn hành cuốn sách “Bông hồng cho Mẹ & Những cảm nhận học Phật” của nhà thơ Đỗ Nghê – bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc trên tinh thần bố thí pháp của nhà Phật. Trong Kinh Tap A Hàm (số 299), đức Phật trả lời cho một vị Tỳ kheo hỏi về pháp Duyên khởi, Ngài có nói: “Cái này có nên cái kia có, cái này khởi nên cái kia khởi”, nên “Bông hồng cho Mẹ & Những cảm nhận học Phật” của Đỗ Hồng Ngọc đến với bạn đọc chính là như thế.

(Thay lời tựa)

HT-TS THÍCH ĐỒNG BỔN

Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam.

 

Thuộc chủ đề:Gì đẹp bằng sen?, Nghĩ từ trái tim, Đọc sách Tag với:sách điện tử

  • « Chuyển đến Trang trước
  • Trang 1
  • Interim pages omitted …
  • Trang 12
  • Trang 13
  • Trang 14
  • Trang 15
  • Trang 16
  • Interim pages omitted …
  • Trang 122
  • Chuyển đến Trang sau »

Thư đi Tin lại

  • Lịch “Trò chuyện, giao lưu…”
  • Lại đính chính: “SAIGON BÂY GIỜ”
  • ĐÍNH CHÍNH: BSNGOC không phải là BS ĐỖ HỒNG NGỌC
  • Đính chính: BS NGỌC không phải là Bs Đỗ Hồng Ngọc
  • bsngoc đã lên tiếng đính chính
  • Thư cảm ơn và Đính chính về FACEBOOK Bác sĩ NGỌC
  • ĐÍNH CHÍNH: Bài viết "TÀN NHẪN" không phải của Bs Đỗ Hồng Ngọc

PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG

Bs Đỗ Hồng Ngọc với Khoá tu “Xuất gia gieo duyên” tại Tu viện Khánh An.

Hỏi chuyện Học Phật với Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Bản dịch tiếng Đức “Một Ngày Kia… Đến Bờ”

CON ĐƯỜNG AN LẠC Bài 6: Học cách Phật dạy con

Minh Lê: Đọc và Cảm “Một ngày kia… đến bờ”

Thăm Sư Giới Đức Triều Tâm Ảnh

Nguyên Cẩn: Đọc “Một ngày kia… đến bờ “của Đỗ Hồng Ngọc

“MỘT NGÀY KIA… ĐẾN BỜ” Tuỳ bút Đỗ Hồng Ngọc

Từ góc nhìn “Phê bình sinh thái” về bài thơ “Rùng mình” của Đỗ Hồng Ngọc

MỘT NGÀY KIA…ĐẾN BỜ V2

Xem thêm >>

Chuyên mục

  • Một chút tôi
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy

Bài viết mới nhất!

  • PNB giới thiệu: Sách “bỏ túi” CON ĐƯỜNG AN LẠC.
  • Video Podcast: Học cách Phật dạy con
  • Video Podcast: Vận động ở tuổi già
  • Video Podcast: Đỗ Hồng Ngọc “GIÚP CHA MẸ VUI TUỔI GIÀ”
  • Video Podcast. Phùng Minh Bảo: Chia sẻ trải nghiệm Chăm sóc Mẹ già

Bài viết theo tháng

Ý kiến bạn đọc!

  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Một vài góp ý về Video Podcasts trên dohongngoc com.
  • NamPhuong Ngo trong Một vài góp ý về Video Podcasts trên dohongngoc com.
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Phòng mạch của chim
  • H.Tuyen trong Phòng mạch của chim
  • Phạm Anh Trang trong Lịch “Trò chuyện, giao lưu…”
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Nước Mắm Phan Thiết
  • QN trong Thư gởi bạn xa xôi
  • Nguyễn Lê Hải Minh trong Nước Mắm Phan Thiết
  • Trần Liên Hương trong “Sách bỏ túi” cho người cao tuổi: CON ĐƯỜNG AN LẠC
  • Minh Trí trong Giao Lưu-Ra Mắt Sách Chuyện Hồi Đó của Đỗ Hồng Ngọc (10.8.2025)

Cùng một tác giả

  • 0
  • 1
  • 1
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6

Thống kê

Nhà tài trợ

biệt thự vũng tàu
biệt thự vũng tàu cho thuê | biệt thự vũng tàu cho thuê theo ngày giá rẻ | cho thuê biệt thự vũng tàu có hồ bơi
© 2009 - 2016 Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Phát triển & Hỗ trợ kỹ thuật bởi SGC.
Trích dịch nội dung để dùng trong nghiên cứu, học tập hay dùng cho cá nhân đều được tự do nhưng cần phải chú thích rõ nguồn tài liệu và đối với các trích dịch với mục đích khác, cần phải liên lạc với tác giả.
  • Một chút tôi
    ?
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    ?
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    ?
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    ?
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    ?
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy
  • Nhận bài mới qua email