Báo THẾ GIỚI TIẾP THỊ ONLINE
Thứ hai, 26/02/2018
20:10 GMT + 7
thegioitiepthi.vn Y khoa là một môn khoa học nhưng cũng là một nghệ thuật. Nó gắn liền với thân và tâm của con người. Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đã chia sẻ với Thế Giới Tiếp Thị Online như vậy nhân ngày Thầy thuốc Việt Nam (27/2).
Thế Giới Tiếp Thị Online: Là một người làm chuyên môn về khoa học có vẻ hơi khô khan, nhưng những tác phẩm của ông lại cho thấy ông là một nghệ sĩ khoáng đạt, trẻ trung và rất nhạy cảm. Vậy thực ra ông “ưa” con người nào của mình?
Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc: Tôi “làm thơ” trước khi “làm bác sĩ”… Bác sĩ là một cái “nghề”, còn thơ là một cái “nghiệp”. Thời trung học, tôi đã có những bài thơ đăng báo. Nó tự nhiên mà đến. Nó gần như không học, gần như không “làm”. Khi đậu Tú tài II xong (năm 1962) thì tôi thi vào trường Y để học “làm bác sĩ’’. Vùng quê tôi nghèo, thiếu thầy thiếu thuốc, tôi nghĩ làm bác sĩ thì có thể giúp ích được cho mình và cho nhiều người hơn. Nhưng vì đam mê văn chương, tôi ghi danh học thêm bên Văn khoa, và sau đó còn học thêm bên Xã hội học. Thời đó, chỉ có y khoa, sư phạm và kỹ thuật Phú Thọ mới phải thi đầu vào, còn các ngành khác chỉ cần ghi danh học. Nên học thiệt là “sướng’’!
Chính học giả Nguyễn Hiến Lê cũng đã khuyên tôi nên học bác sĩ. Ông nói, làm bác sĩ giúp ích được cụ thể cho người, rồi chừng mươi năm hành nghề, có dịp tiếp xúc với bao cảnh đời, bao con người, nếu có tâm hồn nghệ thuật thì sẽ có thể viết văn. Nhiều nhà văn xuất thân bác sĩ như Sommerset Maugham, Tchekov, Cronin…
Y khoa là một khoa học nhưng cũng là một nghệ thuật. Nó gắn liền với thân và tâm của con người. Mà cái gì đã liên quan đến con người thì luôn là một “nghệ thuật’’ chứ, phải không? Cho nên ngày nào y khoa trở thành hoàn toàn máy móc thì nguy cho con người lắm! Khi máy móc hóa hay thương mại hóa mối quan hệ “thầy thuốc – bệnh nhân’’ thì có nhiều vấn đề đặt ra.
Khi thực tập ca “đỡ đẻ” đầu tiên ở Bênh viện Từ Dũ (1965) tôi đã viết bài thơ “Thư cho bé sơ sinh’’. Tập thơ đầu tay của tôi, năm 1967, có tên là Tình Người, khi đang học năm thứ 5 tại Y khoa Đại học đường Saigon.
Tóm lại, y khoa không xa lạ với “một nghệ sĩ khoáng đạt, trẻ trung và nhạy cảm”.
Vậy “Ưa con người nào của mình hơn” đâu cần phải trả lời nữa phải không?
Theo ông, nghề bác sĩ ở Việt Nam có thể coi là thiệt thòi không khi thu nhập và áp lực công việc chưa tương xứng?
– Tôi là một thầy thuốc già, cho phép hay nhắc chuyện xưa để “ôn cố tri tân” nhé. Thời tôi học Y phải 7 năm. Thi đầu vào không dễ, đậu chừng hơn 10%. Tôi còn nhớ ngoài những môn lý, hóa, sinh, sinh ngữ… thường lệ, còn có thêm 20 câu hỏi tổng quát về văn hóa… như âm nhạc, hội họa, sử, địa, về Biển Thước, Hoa Đà, Hải Thượng Lãn Ông, Hippocrate và những câu về đời sống xã hội như “giá gạo trên thị trường bao nhiêu một ký?”, “giá than trên thị trường bao nhiêu một ký?”… Rõ ràng là một cách thăm dò không chỉ kiến thức tổng quát của người thầy thuốc tương lai mà thăm dò cả sự hiểu biết về tình hình đời sống thực tế xung quanh.
Ra trường phải trình luận án để được cấp bằng Tiến sĩ Y khoa quốc gia (Doctorat en Medecine, Diplôme d’’Etat) và phải ghi danh vào Y sĩ đoàn (Chữ Y sĩ ở đây để chỉ người làm nghề y chớ không phải một cấp bực trung cấp trong ngành y như sau năm 1975). Y sĩ đoàn (nghiệp đoàn nghề nghiệp của bác sĩ) sẽ quản lý, giám sát nghề nghiệp cho bác sĩ, đảm bảo hành nghề đúng nghĩa vụ và lời thề Hippocrate khi tốt nghiệp, xử phạt khi có sai phạm, bênh vực khi bị oan khuất, hành hung… Nhờ hệ thống này, nghề y được tôn trọng vì họ luôn xử lý công bằng, tránh những ảnh hưởng tác động từ bên ngoài, đỡ gánh nặng cho quản lý nhà nước, hành chánh. Tiếc thay, sau này không còn nữa nên nhiều vụ kiện tụng xảy ra, nhiều vụ bạo lực hành hung bác sĩ đáng tiếc!
Về đời sống bác sĩ, thì lương hướng khi ra trường với chỉ số 720 (học 7 năm) được khoảng 12 ngàn đồng (giá vàng thị trường là 9 ngàn) nên họ chỉ phải lo tập trung cho nghề nghiệp, sao cho giỏi, cho có đạo đức tốt, thăng tiến trong nghề nghiệp. Dĩ nhiên cũng có những vụ không hay… nhưng đều được Y sĩ đoàn xử lý thỏa đáng.
Ngày nay, bác sĩ học 6 năm, cũng “trầy vi tróc vẩy” nhưng ra trường được coi như ngang cấp cử nhân 4 năm, hệ số lương 2.34… gì đó nên nơi nào, người nào cũng phải lo “cải thiện đời sống”… Dĩ nhiên bác sĩ thời nay nhờ tiến bộ khoa học kỹ thuật, khoa học y học nên tài năng hơn chúng tôi ngày xưa nhiều. Sự vô lý ở chỗ một cử nhân 4 năm, học thêm 2 năm thì đã là “thạc sĩ” còn bác sĩ 6 năm thì coi như cử nhân!
Rõ ràng với nghề y ở Việt Nam ngày nay “thu nhập và áp lực công việc chưa tương xứng”, nhưng đáng ngại hơn là ngày càng nhiều vụ vi phạm đạo đức, càng nhiều vụ hành hung thầy thuốc không được giải quyết rốt ráo. Có cái gì đó bất thường ở đây trong mối tương quan thầy thuốc – bệnh nhân vốn đầm ấm từ ngày xa xưa.
Mối tương quan thầy thuốc – bệnh nhân đã có nhiều thay đổi, thưa bác sĩ?
– Thời xa xưa, thầy thuốc là “phù thủy”, mối quan hệ là bất bình đẳng, cha chú, gọi dạ bảo vâng. Rồi khi ngành y bị thương mại hóa, bệnh nhân trở thành khách hàng, người tiêu thụ (consumer) còn thầy thuốc thành người cung cấp dịch vụ (health care provider) thì “khách hàng là Thượng đế”, nên phải chiều chuộng bệnh nhân, cung cấp càng nhiều dịch vụ càng tốt để làm… kinh tế!
Mới đây, ở Mỹ đã có một phim báo động: Một nền y học vì đồng tiền (Money-driven Medicine). Cả hai mối tương quan đó đều không tốt, không phải. Ngày nay khuynh hướng là cần có sự hợp tác, đồng thuận hai chiều và cần tôn trọng tính tự chủ của hai bên (autonomy). Vì thế vai trò truyền thông giữa thầy thuốc bệnh nhân trở nên rất quyết định, nên đã có khái niệm “truyền thông trị liệu” (therapeutic communication).
Người thầy thuốc hôm nay cần có nền tảng văn hóa rộng. Học về truyền thông, về khoa học hành vi (tâm lý, xã hội, nhân chủng…), về giáo dục sức khỏe, nâng cao sức khỏe, quan tâm tới chất lượng cuộc sống chứ không chỉ biết chữa bệnh tật. Mô hình bệnh tật nay cũng đã thay đổi. Bệnh nhân ngày càng trở thành “thầy thuốc” cho chính mình, không bị lệ thuộc vào thầy vào thuốc như xưa. Thế nhưng cũng có những nguy cơ như dựa vào thông tin trên Internet bệnh nhân tự chẩn đoán, tự điều trị dẫn đến những hậu quả đáng tiếc khác.
Một cuộc sống hạnh phúc, một cá nhân hạnh phúc, theo quan điểm của ông là gì?
– Có thứ hạnh phúc bền bỉ, lâu dài và có thứ hạnh phúc mong manh, chốc lát. Một người trúng số độc đắc sẽ rất hạnh phúc, một người đoạt vương miện hoa hậu sẽ rất hạnh phúc… Nhưng đó thường là hạnh phúc trong chốc lát, vì chẳng bao lâu nó bay biến… Hạnh phúc lâu dài thì đó chính là sự an lạc trong thân tâm. Có thể tóm trong mấy chữ là từ bi hỷ xả. Có tâm Từ ái thì tâm hồn luôn rộng mở, biết yêu mình, yêu người, yêu thiên nhiên, biết bảo về môi trường sống, môi trường văn hóa tốt đẹp; có tâm Bi mẫn thì biết sẻ chia, đùm bọc, giúp đỡ… Có tâm Hỷ thì xóa bỏ được lòng ghen ghét, ganh tỵ, hận thù và có tâm Xả thì biết đủ, kham nhẫn tri túc…Thứ hạnh phúc đó có thể sẻ chia, lan tỏa.
Hiện nay trong thời đại đầy bất trắc, lo âu, một số quốc gia đã đi tìm một thứ hạnh phúc bền bỉ lâu dài cho quốc dân qua khái niệm GNH (Gross National Happiness = Tổng hạnh phúc quốc gia) thay vì GNP (Gross National Product = Tổng sản phẩm quốc nội) là chỉ dựa trên tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Người ta nhận ra nhiều quốc gia có tăng trưởng kinh tế cao mà người dân không có được hạnh phúc. GNH dựa trên 4 yếu tố chính: bảo vệ môi trường thiên nhiên, môi trường văn hóa, sức khỏe và tuổi thọ, chánh quyền vì dân…
Tóm lại, hạnh phúc cá nhân quyện trong hạnh phúc tổng thể.
Trân trọng cảm ơn bác sĩ đã chia sẻ với bạn đọc Thế Giới Tiếp Thị Online.
…………………………………………………………………………………..
Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, nguyên Giám đốc Trung tâm Truyền thông – giáo dục sức khỏe, được biết đến với nhiều tư cách: bác sĩ, nhà văn; nhà thơ, nhà tư vấn tâm lý…
Ông đã xuất bản 40 tác phẩm với nhiều chủ đề, cho nhiều đối tượng, lứa tuổi khác nhau. Một số tác phẩm của ông được tái bản nhiều lần và được công chúng yêu thích: Già ơi chào bạn, Gió heo may đã về, Thư gửi người bận rộn, Nghĩ từ trái tim, Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng, Những người trẻ lạ lùng, Viết cho tuổi mới lớn…
……………………………………………………………………………………