TUỔI GIÀ THỬ ĐỌC “CHUYỆN HỒI ĐÓ”
CỦA BÁC SĨ ĐỖ HỒNG NGỌC
Ghi chú: Anh Hai Trầu (Lương Thư Trung), tác giả Lá thư từ Kinh Xáng, Mùa màng ngày cũ, Bến bờ còn lại... là những tác phẩm đặc sắc về đời sống Nam Bộ thuở xưa, tự xưng mình là “Người đọc nhà quê già miệt ruộng Lấp Vò”, vừa gởi tôi bài này, thiệt ra là những trích đoạn anh tâm đắc khi đọc Chuyện Hồi Đó của tôi (Phanbook, 2025).
Anh Hai Trầu năm nay mới lên 84, thua tôi vài tuổi, vẫn luôn tự coi mình là người già khú đế… nhưng anh vẫn còn trẻ lắm, chịu đọc chịu viết lắm, rất đáng phục.
Bài gọi là “đọc” này chỉ ghi lại vài trang anh thích thú và chấm phá vài nét bình luận rất dễ thương…
Thân mến,
ĐHN
…………………………………………………..
Thưa bạn,
Dà, được biết cuốn sách này rất dày nhưng khi in thì nhà in rút gọn chỉ còn lại gần 500 trg.
Sách gồm bảy chương:
Chương I MỘT CHÚT TÔI
Chương II NGHỀ và NGHIỆP
Chương III DẠY ĐỂ HỌC
Chương IV ĐI ĐỂ HỌC
Chương V CHÚT VĂN CHƯƠNG CHỮ NGHĨA
Chương VI NHỮNG GẦN GŨI & THÂN THIẾT
Chương VII CON ĐƯỜNG AN LẠC

Dà, thưa bạn, tuổi tôi năm nay cũng tạm gọi là “già khú đế” rồi vì nhớ hồi tụi tôi còn con nít thì các chú các bác ở quê tôi mà ở vào tuổi chừng năm chục có hơn thì trong giao tiếp hằng ngày bà con đã được thỉnh lên ngồi bàn dài giữa nhà mỗi khi có đám tiệc như cưới hỏi hoặc giỗ chạp rồi! Huống hồ gì ngày nay tôi cũng ở ngoài tám chục thì không gọi là già thì gọi là gì? Nhưng có điều đọc “Chuyện Hồi Đó” của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc xuất bản tháng ba năm 2025, theo tôi là thú vị nhứt vì trong đó có những điều mà tác giả ghi lại nó xảy ra cùng thời với thế hệ của tôi mới lớn nên có nhiều chi tiết khá thích thú mà hồi trước đó, lúc mình còn nhỏ không được nghe ai nói và chính mình cũng không hế biết nữa. Chẳng hạn như về việc thi vô trường Y Khoa Đại Học Đường Sài Gòn với điều kiện và thể thức thi như thế nào, làm sao mình biết được vì hồi đó ít ai dám thi vô mấy trường khó ăn này, nhứt là học trò tỉnh lẻ như tụi tôi làm sao thi đậu vô trường danh giá này cho được; mà nếu có may mắn được đậu chăng nữa thì lấy tiền đâu lên Sài Gòn ăn ở để học ròng rã tới bảy năm trới! Do vậy, mà nghe tác giả kể mình mới mê:
“Năm 1962, tôi thi đậu vào Dự bị Y khoa (APM) Đại học Y khoa Sài Gòn. Đây là khóa thi APM đầu tiên, trước đó, chỉ cần đậu bằng PCB hoặc SPCN bên Đại học khoa học thì có thể vào thẳng y khoa. Hồi đó y khoa học bảy năm, gồm một năm Dự bị (APM) – học tại Đại học Khoa học – cuối năm nếu đậu thì học tiếp sáu năm nữa ở Y khoa Đại học đường Sài Gòn, đường Trần Quý Cáp, nay là Võ Văn Tần, ra trường với một luận án Tiến sĩ Y khoa Quốc gia, hay thường gọi là “Bác sĩ”. Thi vào APM không dễ chút nào! Tỷ lệ đậu chỉ vào khoảng 10%. Tôi còn nhớ lúc đó thi APM có các môn lý, hóa, sinh, sinh ngữ và đặc biệt có thi môn “kiến thức tổng quát” với 20 câu hỏi: Thủ đô Brazil là gì? Ai là ông tổ y khoa thế giới? Ai là ông tổ y khoa Việt Nam? Người thầy thuốc nổi tiếng thời Tam Quốc tên gì? Người thầy thuốc nổi tiếng thời Xuân Thu tên gì?… và… Giá gạo trên thị trường bao nhiêu một ký? Giá than bao nhiêu một ký? Nhờ hồi nhỏ đọc cả bụng truyện Tàu nên tôi không lạ Hoa Đà, Biển Thước, lại nhờ ở trọ ăn cơm tháng trong xóm nghèo Bàn Cờ nên không lạ giá gạo giá than! Vậy là đậu, đậu khá cao, dù là dân tỉnh lẻ lên Sài Gòn “du học”. Khi vào năm thứ nhất y khoa thì ấn tượng là buổi giáo sư khoa trưởng, Bác sĩ Phạm Biểu Tâm gặp gỡ với các tân sinh viên. Thầy nói: “Y khoa là một nghề cao quý nếu ta muốn cao quý, cũng là một nghề thấp hèn nếu ta muốn thấp hèn. Bác sĩ là một sinh viên y khoa suốt đời. Trong khi hành nghề khó tránh khỏi đôi lúc ân hận nhưng đừng bao giờ để phải hối hận”. Những lời thầy nói từ ngày đó vẫn được lứa học trò chúng tôi nhắc lại trong những buổi họp mặt đồng khóa hằng năm.
Tại Mỹ, Canada và các nước phát triển hiện nay, đa số các trường y khoa đào tạo bác sĩ sau cử nhân. Thí sinh buộc phải có chứng chỉ MCAT (Medical College Admission Test) cùng một số điều kiện khác như điểm học lực, giấy giới thiệu, năng khiếu hoạt động ngọai khóa (thể thao, văn nghệ…) và qua một cuộc phỏng vấn sàng lọc. MCAT là một cuộc thi tổng hợp, gồm 4 phần: vật lý và hóa vô cơ, sinh học và hóa hữu cơ; một trắc nghiệm nhằm đánh giá khả năng suy luận, giải quyết tình huống của thí sinh; và một bài luận văn để đánh giá kỹ năng viết, bình luận, nhận định về một hoặc hai chủ đề cho sẵn. MCAT như vậy không chỉ nhằm để khảo sát kiến thức các khoa học liên quan đến ngành y mà đặc biệt chú trọng đến các năng lực khác của người thầy thuốc tương lai.
Tại Singapore, ngoài hệ đào tạo bác sĩ sau cử nhân đòi hỏi phải có MCAT như trên thì hệ đào tạo sau phổ thông (Tú tài) cũng sàng lọc đầu vào rất chặt chẽ. Không chỉ dựa vào học lực hàn lâm, điểm của các môn sinh học, vật lý, hóa học mà còn xem xét nhiều khía cạnh khác. Điểm của ba môn khoa học căn bản trên dù cao cũng không được coi là ưu tiên. Theo họ, nghề y là một nghề đặc biệt, muốn đào tạo người thầy thuốc vừa có năng lực chuyên môn vừa có lòng nhân ái thì điều kiện tuyển chọn cũng phải đặc biệt. Tại Singapore, năm 2007 chẳng hạn, điều kiện tuyển chọn như sau: Ngoài các môn sinh, lý, hóa phải đạt điểm A, thí sinh phải qua hai đợt phỏng vấn, một của Hội đồng khoa nhà trường và một của nhóm bác sĩ, điều dưỡng, sinh viên đàn anh. Đây quả là
một điểm lý thú trong tuyển sinh. Phỏng vấn viên được chọn lựa, tập huấn kỹ để cuộc phỏng vấn trung thực và chất lượng. Nếu thí sinh là người quen thì phỏng vấn viên phải từ chối để chọn người khác. Trước đó thí sinh phải nộp một bộ hồ sơ gồm hai giấy giới thiệu, bản cam kết, một lý lịch hoạt động ngoại khóa. Hồ sơ này sẽ được nghiên cứu kỹ trước khi phỏng vấn. Thí sinh còn phải viết luận văn về một đề tài cho ngay tại chỗ trong vòng 45 phút để đánh giá trình độ nhận thức, kỹ năng viết của họ.
Từ nhiều năm qua, các trường y khoa của nước ta từ Bắc chí Nam thi tuyển sinh chỉ dựa vào một kỳ thi có 3 môn là toán, hóa, sinh. Hai môn hóa và sinh “ai cũng như ai” nên chỉ hơn thua nhau chủ yếu ở môn toán. Như vậy, có thể nói chỉ những ai giỏi toán mới dễ đậu vào y khoa. Đây quả là một nghịch lý đối với một ngành học đặc biệt đòi hỏi nhiều đức tính khác ngoài khả năng suy luận toán học.
Có lẽ đã đến lúc coi lại “đầu vào” khi tuyển sinh đào tạo người thầy thuốc tương lai, nhất là vào thời buổi “hội nhập” như hiện nay chăng?
Niên khóa Y khoa đầu 1946-1947 chỉ có 12 người cho tất cả các lớp. Niên khóa 1947-1948 có 32 người. Niên khóa 1948-1949 tăng lên tới trên 80 người. Vào thập niên 1970 Trường Y khoa có 1.400 sinh viên theo học và mỗi năm cho ra trường hơn 200 người. Số sinh viên nộp đơn dự tuyển là hơn 5.000 để chiếm 200 chỗ nhập học mỗi năm.
Thời đó ở Việt Nam cũng như bên Pháp, muốn đậu bằng y khoa bác sĩ phải đậu xong hai phần Tú tài (I và II), qua một năm đầu tiên tại Đại học Khoa Học và sáu năm y khoa. Từ 1954 đến 1962, muốn vào y khoa phải có chứng chỉ PCB (Physique – Chimie – Biologie) rồi ghi danh vào học. Từ 1962 đến 1969, nhà trường tuyển sinh từ Tú Tài 2, sau đó gởi sang Đại học Khoa học học chứng chỉ APM (Année Pré-Medicine, Dự bị Y khoa).
Văn bằng Tiến sĩ Y khoa Quốc gia được cấp phát sau khi bảo vệ thành công luận án trước hội đồng do khoa trưởng bổ nhiệm.
Theo tài liệu của GS Nguyễn Đức Nguyên, tổng số luận án được trình và chấp thuận tại Y khoa Đại học đường Sài Gòn từ năm 1947 cho tới 1972 là 1.779 luận án. Số luận án từ 1972 tới 1975 là bao nhiêu không rõ vì không có ghi chép trong tài liệu nào. Tuy nhiên với sĩ số 200 người một lớp, ta có thể ước tính là có vào khoảng trên dưới 600 luận án đã được trình trong thời kỳ đó. Như vậy, tổng số luận án ra trường của Y khoa Đại học đường Sài Gòn từ 1947 cho tới 1975 là vào khoảng 2.380 luận án.”
Phần hấp dẫn tiếp theo là các chương trả lời phỏng vấn của nhiều người, đặc biệt tôi thích bài phỏng vấn của độc giả về việc trình luận án Tiến sĩ:
Hỏi: Kính thưa Bác sĩ, tôi năm nay cũng đã 64 tuổi. Qua diễn đàn y khoa tôi được biết Bác sĩ đã tốt nghiệp khá lâu trước 1975. Nhờ Bác sĩ vui lòng giải đáp thắc mắc sau đây của tôi: Khoảng những năm 1965 đến năm 1974, những sinh viên y khoa năm cuối đã trình luận án được chấm đậu thì được cấp văn bằng Tiến sĩ Y khoa Quốc gia và sẽ hành nghề bác sĩ để chữa bệnh.
Thế còn những người không trình luận án thì có được hành nghề bác sĩ để chữa bệnh không? Có được gọi là bác sĩ không? Cám ơn nhiều, chúc Bác sĩ khỏe mạnh.
(Độc giả Khanh, 29/7/2014)
Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc trả lời:
Kính chào anh Khanh. Tôi học Y khoa Sài Gòn (thời đó gọi là Y khoa Đại học đường Sài Gòn) từ 1962 đến 1969 thì tốt nghiệp. Thời đó học y khoa chương trình bảy năm, ra trường phải thi tốt nghiệp, đậu bốn môn bệnh lý (nội, ngoại, sản, nhi) thì được gọi là bác sĩ và hành nghề bác sĩ, sau khi đã đăng ký vào Y sĩ đoàn và thực hiện đúng Nghĩa vụ luận Y khoa. Sau đó, những ai làm luận án và bảo vệ thành công thì được nhận văn bằng Tiến sĩ Y khoa Quốc gia (Doctorat en Médecine, Diplôme d’Etat). Có nhiều người không làm luận án, có người ba – bốn năm sau mới xong luận án vì là thời chiến, nhiều khó khăn. Tôi trình luận án vào năm 1970, một năm sau khi ra trường, đề tài về bệnh Sốt rét ở trẻ em, hội đồng giám khảo gồm Giáo sư Phan Đình Tuân, Giáo sư Nguyễn Văn Út và Giáo sư Nguyễn Thế Minh, nhận văn bằng Tiến sĩ Y khoa Quốc gia vào năm 1972. Cùng lượt trình luận án với tôi có Bác sĩ Nguyễn Dương, Bác sĩ Nguyễn Kim Hưng…
Xin nói rõ thêm với anh Khanh và các bạn là chữ y sĩ trong “Y sĩ đoàn” ngày xưa có nghĩa là người bác sĩ, người hành nghề y chớ không phải chỉ cho một cấp bậc (y sĩ), thấp hơn bác sĩ như ta biết sau này. Ngoài Y sĩ đoàn còn có Dược sĩ đoàn, Nha sĩ đoàn v.v. Họ quản lý các thành viên bằng luật chuyên ngành, gọi là Nghĩa vụ luận Y khoa (Déontologie médicale), có những điều đảm bảo y đức trong hành nghề như đối với bệnh nhân phải thế nào, đối với đồng nghiệp ra sao, và đối với cộng đồng có nghĩa vụ gì…
Từ năm thứ năm y khoa, sinh viên phải được học rất kỹ để chuẩn bị ra trường. Khi ra trường phải ghi danh vào Y sĩ đoàn mới được mở phòng mạch (phòng khám). Vì cùng trong nghề, họ tổ chức “tự quản” rất tốt để điều chỉnh hành vi người thầy thuốc và đồng thời bảo vệ họ, bảo vệ nghề nghiệp để luôn có được sự tôn trọng của xã hội.
30/7/2014 (trang 64-trang 65)
Dá, cái hấp dẫn thứ hai của cuốn “Chuyện Hồi Đó” là các trang sách tác giả trả lời cho bạn đọc trẻ, cho học trò, ví như bài trả lời phỏng vấn của sinh viên Phạm Bảo Hồng:
Hỏi: Đọc các bài viết của bác, lúc nào trong cháu cũng cảm thấy một nỗi niềm nhẹ nhàng, man mác. Bác thường trích dẫn những lời nhạc của Trịnh Công Sơn, những lời thơ của bạn bè bác. Những người thân quen, những mối quan hệ xung quanh có phải là nguồn cảm hứng cho bác?
BS ĐHN: Cảm ơn đã đặt một câu hỏi rất “nhẹ nhàng, man mác” như vậy, khiến tôi cũng lúng túng không biết trả lời sao. Cái “nỗi niềm nhẹ nhàng, man mác” đó – khi đọc những bài viết của tôi – hẳn là một lời khen, cho thấy bài viết đã chia sẻ được những cảm xúc, nghĩ suy cùng người đọc, ít ra trong một cuộc sống đầy bon chen, căng thẳng… hiện nay, không chỉ riêng ta mà cả một thế giới phẳng, toàn cầu hóa! Tôi thường trích dẫn những ca từ của Trịnh Công Sơn, những câu thơ của người này người khác… khi thì Bùi Giáng, khi thì Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ… (không phải bạn bè tôi đâu!) chẳng qua vì nó phù hợp với tâm trạng tôi lúc đó, nó tự nhiên đến với tôi chứ không phải do tôi cố ý kiếm tìm. Và, thực ra, với người viết nào thì những mối quan hệ, những người thân quen… bao giờ chẳng là nguồn cảm hứng bất tận?
Hỏi: Từ khi nào bác nhận ra trong bác có cả hai con người: một vị thầy thuốc hết lòng yêu nghề, nghiêm túc và một người cầm bút, tâm hồn nghệ sĩ? Bác làm sao để dung hòa hai tính cách trong một con người mình? Có bao giờ hai tính cách này đấu tranh lẫn nhau, buộc bác phải suy nghĩ?
BS ĐHN: Không. Tôi chẳng bao giờ thấy “nó” đấu đá hay tranh giành gì cả. Trái lại, nó cứ quấn quít lấy nhau, bổ sung cho nhau. Giống như đất sét thì phải có nước mới nặn nên hình được. Ai bảo nghệ sĩ không yêu nghề, không nghiêm túc còn thầy thuốc sao lại không thể có tâm hồn bay bổng… nhỉ? Y khoa là một khoa học nhưng cũng là một nghệ thuật mà! Dĩ nhiên khi trả lời y học thì phải hết sức thận trọng, chính xác và phải luôn quan tâm tới góc cạnh tâm lý xã hội của vấn đề chứ không đơn thuần chỉ ở góc độ bệnh lý. Khi làm thơ, viết tùy bút chẳng hạn thì có thể tự cho phép mình bay bổng hơn…
Hỏi: Lượng độc giả yêu thương và dõi theo bác gồm mọi lứa tuổi, từ thanh thiếu niên, trung niên và cao niên. Viết cho mỗi lứa tuổi là một cách hành văn khác nhau, phải luôn thay đổi, làm mới cho phù hợp với nội dung. Làm sao bác có thể “phân thân” mình được như vậy?
BS ĐHN: Thường tôi không viết theo sách vở mà theo trải nghiệm của riêng mình. Như khi viết cho tuổi mới lớn thì vì tôi cũng vừa trải qua tuổi mới lớn; khi viết cho các bà mẹ về chăm sóc nuôi dạy con thì vì tôi đã có vài ba nhóc tì; viết cho tuổi gió heo may vì tôi đã hườm hườm, còn viết cho tuổi già vì tôi đã bắt đầu thấy mình gần… khú! Tóm lại, phải có kinh nghiệm bản thân rồi mới chia sẻ được chứ phải không? Do vậy, tôi viết với sự chân thành và thấu cảm, không “làm văn chương” nên bạn đọc của tôi khi đọc thấy có mình trong đó. Mỗi khi viết, tôi thấy mình không phải… viết mà đang trực tiếp được trò chuyện, trao đổi với người đọc của mình.
Hỏi: Có bao giờ bác cảm thấy mệt mỏi, như mình không muốn viết nữa, hay những gì viết ra chỉ để “cất cho riêng mình một chút thôi vấn vương gió mây hoài niệm”, không muốn sẻ chia, dù rằng bác đã viết “sẻ chia, ấy chính là hạnh phúc”? Trong trường hợp đó, động lực nào thúc đẩy bác vượt qua giai đoạn ấy?
BS ĐHN: Dĩ nhiên có lúc mệt mỏi chứ. Tôi phụ trách trang mục “Phòng mạch Mực Tím” báo Mực Tím của tuổi mới lớn hằng chục năm trời, mỗi tuần nhận cả đống thư các em gởi về (hồi đó toàn viết tay rất dễ thương). Sau tôi đầu hàng. Phải nhờ một đồng nghiệp trẻ thay thế. Vả lại, càng về sau, các em càng hỏi những điều “trời ơi” tôi không trả lời nổi. Sau đó tôi giữ mục “Thư gởi người bận rộn” trên báo Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần cũng được vài ba năm, rồi mục “Gia đình vui khỏe” trên báo Phụ nữ TP.HCM cũng được vài năm… Viết báo, với tôi là một cách giữ cho mình một “áp lực” thường xuyên, không để cho mình làm biếng. Nhưng viết hoài cũng oải chứ. Oải quá thì nghỉ. Vậy thôi. Động lực nào ư? Có người đọc là vui rồi. Vả lại, cái nghề thầy thuốc của tôi, mệt cũng phải… làm mà!
Hỏi: Dù biết trên đời này không có gì là hoàn hảo, nhìn lại quãng thời gian đã qua, có khi nào bác cảm thấy hối tiếc vì một việc nào đó mà mình chưa hoàn thành trọn vẹn, hoặc kết quả không như ý?
BS ĐHN: Tôi không đặt nhiều kỳ vọng, mục tiêu gì cao vời cho mình cả. Tôi thường lững thững, đôi khi lang thang và chấp nhận mình như mình. Vậy vậy thôi. Ngay từ hồi trẻ, tôi vừa thích “làm bác sĩ” lại thích làm nhà văn, nhà giáo… nên vừa học y khoa lại vừa học văn khoa, vừa học xã hội học ở… 3 trường đại học khác nhau. Tôi “học cho đã” và thấy vui trong việc học. Bây giờ tôi vẫn cứ còn mê học. Có cơ hội thì học. Tôi chủ trương dạy học, viết lách cũng chính là để học. Còn thế nào là “hoàn thành trọn vẹn, kết quả như ý” thì quả thật tôi… không biết.
Hỏi: Ngày càng có nhiều cây bút trẻ xuất hiện trên văn đàn, với nội dung tác phẩm na ná nhau về các vấn đề hiện nay trong xã hội (như đồng tính, yêu người đã có gia đình, những bế tắc, sự thất vọng, buồn bã trong cuộc sống dù họ còn khá trẻ), bác nghĩ sao về vấn đề này?
BS ĐHN: Tôi chấp nhận và tôn trọng điều đó. Chính vì “họ còn khá trẻ” nên họ thấy những điều mà tôi không thấy. Thời nào cũng vậy. Có người trẻ và có người già. Họ nhìn, họ thấy, họ nghĩ, họ cảm khác nhau chớ sao. Văn hoá nền cũng khác nhau, môi trường xã hội và thiên nhiên cũng đã thay đổi. Điều đó càng làm phong phú thêm cuộc sống. Các nhà văn trẻ có những vấn đề thời đại của họ. Họ phản ánh nó qua văn chương là điều đáng quý. Quan trọng là cần có giọng điệu riêng, bản sắc riêng của mỗi người. Do vậy họ phải tự đào luyện không ngừng và có một không gian để thể hiện và chia sẻ. Họ cần tự do và cô đơn.
Hỏi: Là người hiểu nhiều, đọc nhiều, bác có yêu thích tác giả nào không? Vì sao? Nếu có, cách viết của bác có bị ảnh hưởng bởi họ không?
BS ĐHN: Tôi đặc biệt quý mến Nguyễn Hiến Lê. Dù không học trực tiếp với ông ngày nào, tôi vẫn coi ông là thầy mình. Cách viết của ông trong sáng, giản dị. Viết từ trải nghiệm, không lý thuyết viển vông. Còn dịch, ông nói phải dịch sao cho người đọc không thấy dấu vết dịch, nghĩa là phải thật thấu hiểu, thật nhuần nhuyễn cả hai nền văn hóa, ngôn ngữ. Ông làm việc nghiêm túc, khắc kỷ, đọc sách lúc nào cũng có cây viết chì trên tay. Ông nói: viết là để học và học là để viết. Muốn “học” một điều gì cho thấu đáo thì hãy “viết” về nó. Tôi cũng thấy vậy. Viết sách hay dạy học… với tôi đều là những cơ hội tốt để học tập, rèn luyện, thể nghiệm, chia sẻ. Tôi cũng đặc biệt thích André Maurois và Lâm Ngữ Đường… Tôi thấy hình như họ hạp với cái tạng của mình. Dĩ nhiên tôi viết theo cách của riêng tôi.
Hỏi: Bác có hài lòng với cuộc sống hiện tại? Hạnh phúc vẫn luôn hiện diện xung quanh bác chứ? Bác có thể bật mí những dự định sắp tới của mình?
BS ĐHN: Tôi cảm thấy hài lòng với cuộc sống hiện tại, bởi “dĩ vãng đã qua rồi, tương lai thì chưa tới”. Hiện tại là món quà của cuộc sống. Trong tiếng Anh có một từ dễ thương, đó là “present”, cùng lúc có ba nghĩa: hiện tại, sự có mặt, và món quà. Sống trong hiện tại, ở đây và bây giờ, là sống trong hạnh phúc. “Hạnh phúc rất đơn sơ” như một nhà thơ đã nói. Đơn sơ nhưng không dễ thấy biết. Phải khám phá. Nó như một bí mật, chập chờn, khi ẩn khi hiện quanh ta, nên phải biết khám phá. Nhiều khi phải nhìn một cách khác, phải nghe một cách khác, phải nếm ngửi một cách khác… Quyết tâm tìm kiếm nó, lùng sục nó… thì nó biến mất. Nó thường gặp gỡ, vui đùa với trẻ thơ, nên em hồn nhiên rồi em sẽ bình minh (Trịnh Công Sơn) là vậy.
Sài Gòn, 25/10/2011(trang 95- trang 99)
Phạm Bảo Hồng (thực hiện)
Và đây là bài trả lời vừa khéo, vừa hấp dẫn nữa, tại Trung tâm Truyền thông – Giáo dục Sức khoẻ, Tp HCM (2010):
“Biết tôi sắp thôi làm việc ở trung tâm Truyền thông – Giáo dục sức khỏe TP.HCM sau 25 năm công tác tại đây, các bạn trẻ của Trung tâm đã có sáng kiến tổ chức một buổi giao lưu thân mật giữa “thầy-trò” với nhau vào dịp cuối năm. Chủ đề buổi giao lưu hoàn toàn mở rộng. Các em có thể đặt bất cứ câu hỏi gì về chuyện đời, chuyện nghề, chuyện tình…
Để giúp các em “mạnh dạn” đặt câu hỏi, tôi đề nghị hỏi bằng giấy và nặc danh…
Hỏi: Thầy ơi, cho con hỏi ước mơ của thầy bây giờ là gì?
BS ĐHN: Hơn hai ngàn năm trước, Khổng Phu Tử có lẽ cũng khoảng tuổi thầy bây giờ, một hôm dẫn các đồ đệ đi tắm sông, một đồ đệ hỏi: Thầy ơi, cho con hỏi ước mơ của thầy bây giờ là gì? Khổng Tử cười bảo ước mơ của ta bây giờ là dẫn tụi con đi tắm sông!
Dĩ nhiên thầy không phải là… Khổng Tử, nên ước mơ của thầy là… dẫn tụi con đi chơi núi Thị Vải, ở đó có một con đường đèo đẹp như Đà Lạt, dẫn xuống một cái dốc sâu rồi đi vào khu rừng có một con suối róc rách gọi là Suối Tiên – cẩn thận đó, đừng tắm lâu quá sẽ biến thành trẻ con đó nghe! Quanh đó còn có những ngôi chùa cổ dưới những tàng cây… (Cho con đi với, cho con đi với, nhiều cánh tay đưa lên…).
Dĩ nhiên thầy cũng ước mơ được truyền trao kinh nghiệm sống, kinh nghiệm học tập, kinh nghiệm làm việc cho các bạn trẻ… nếu họ muốn. Thầy ra trường đã hơn 40 năm, làm ở phòng cấp cứu Bệnh viện Nhi Đồng Sài Gòn (Bệnh viện Nhi Đồng 1 TP.HCM) 16 năm nên đã tập một thói quen rất chính xác về giờ giấc. Ở phòng cấp cứu nhi, trễ một phút đã có thể gây chết người. Cho nên phải quý từng giây phút. Hôm nay chúng ta đã bắt đầu trễ 10 phút rồi đó. Thầy làm ở cấp cứu ngày nào cũng thấy trẻ con chết, nhiều cái chết rất “vô duyên” vì có thể phòng tránh được. Chẳng qua vì thiếu kiến thức, vì mê tín dị đoan, cho nên thầy tình nguyện về công tác ở Trung tâm Truyền thông – Giáo dục Sức khỏe này tới nay đã 25 năm! 25 năm, thời gian khá dài đó chứ. Hồi thầy về đây, mẹ QA mới sanh QA vài tháng, mà nay QA đang ngồi đây với chúng ta, làm việc cùng chúng ta rồi đó! Tụi con đang làm trong một ngành thấy như không có gì… hấp dẫn như trong bệnh viện nhưng thật ra có ích cho đời sống, nhằm nâng cao dân trí, làm cho người dân hiểu biết để tự bảo vệ và nâng cao sức khỏe của mình, giảm bệnh tật và tử vong, nhất là cho trẻ con… Ngành của ta có lợi ích rất lớn mà nhiều khi không thấy hết. Một bài báo có hàng trăm ngàn người đọc, một chương trình truyền hình hàng triệu người xem. Tác động lớn lắm, nên ta phải hết sức thận trọng trong từng thông điệp, không thể coi thường.
Hỏi: Thầy ơi, tuổi trẻ của thầy khác gì tuổi trẻ tụi con bây giờ? Theo thầy trong cuộc sống, điều gì là quan trọng đối với thầy?
BS ĐHN: Tuổi trẻ thời nào cũng giống nhau, cũng đầy nhiệt huyết, năng động, lý tưởng, nhiều hoài bão, ước mơ. Nhưng hình như thời của thầy sống đơn giản hơn, nhiều lý tưởng hơn, lãng mạn nhiều hơn. Con người bây giờ tất bật mà hạnh phúc hiếm hoi, lúc nào cũng căng thẳng, thậm chí trong những tình huống không cần thiết như những va chạm lặt vặt trong mối quan hệ làm việc. Chúng ta biết quá nhiều chuyện xa vời, chuyện trên cung trăng, nhưng bản thân mình thì ít biết, bạn bè xung quanh cũng ít biết nhau vì ta không quan tâm, lơ là. Thử hỏi phòng con đang ngồi làm việc có bao nhiêu cửa sổ, cầu thang lên tầng 1 này có bao nhiêu bậc, chưa chắc con đã biết. Tại sao? Tại không quan tâm. Chúng ta sống bên nhau trong một cơ quan làm việc hằng ngày gặp nhau 7 – 8 giờ mà như xa lạ, không hiểu tâm ý nhau, dễ căng thẳng, thấy ai cũng toàn tính xấu… Thử nhìn một cách khác xem, chẳng hạn lấy giấy ghi ra những… tính tốt của kẻ mà mình không ưa…
Trong cuộc sống, điều quan trọng nhất có lẽ là thấy mình sống có ích, sống hạnh phúc và sống thảnh thơi. Có lúc thầy cũng được mời vào vị trí này khác, nhưng thầy đều từ chối, vì chỉ muốn làm điều mình thích, trong khả năng mình, nhờ vậy mà làm việc gì cũng thấy vui, thấy hăng say. Một người làm việc trong tinh thần bất mãn, không hài lòng với chính mình, căm ghét những người xung quanh hoặc làm việc chỉ vì sợ hãi, vì kiếm sống, vì đồng lương thì rất dễ so đo tính toán, thiếu nhiệt tâm, thiếu sảng khoái… và công việc được giao trở nên một gánh nặng…
Hỏi: Thưa thầy, em rất khâm phục sức lao động miệt mài của thầy trong suốt hơn 50 năm qua (em lấy tuổi thầy trừ khoảng gần 20 năm tuổi thơ của thầy để đề ra tuổi nghề). Thầy làm thế nào để có được một sức khỏe dẻo dai, một tinh thần vững chãi cũng như một tâm hồn trẻ trung để sống và làm việc trong bao nhiêu năm như vậy?
BS ĐHN: Thực ra chính hai mươi năm đầu đó mới là bệ phóng, định hướng cho tương lai ta. Thầy sớm mồ côi cha, 12 tuổi vào ở trong chùa với người cô. Cô thầy bị tật hai chân không đi lại được nhưng rất mê đọc truyện, tiểu thuyết. Cô thường bắt thầy đi mướn truyện ở ngoài phố và cấm thầy đọc truyện vì nghĩ con nít đọc truyện không tốt, sợ mê, phải để thì giờ lo học. Nhưng khi đi mướn truyện như vậy thầy tranh thủ đọc dọc đường, có khi ngồi ở gốc cây mà đọc, có khi đang đi trên thuyền qua sông cũng đọc. Hết cuốn mới đem về cho cô. Cũng có lúc trùm mền mà đọc lén nữa! Nhờ vậy thầy ngốn hết truyện Tàu, Tự Lực Văn Đoàn, kiếm hiệp, tiểu thuyết trinh thám, tình cảm… không chừa thứ nào. Nhờ vậy truyện xưa tích cũ, đông tây kim cổ gì cũng biết. Dĩ nhiên sau này thì đọc có chọn lọc, nghiên cứu sâu hơn, nhưng cái tính ham đọc, ham học đã sẵn có. Không ai thành công mà không tự học. Học ở trường không đủ đâu. Thầy thấy thói quen đọc sách rất có lợi cho thanh niên. Phải đọc, vì đó là túi khôn của muôn đời. Đọc các danh gia ngày xưa ta như được sống cùng họ, trò chuyện cùng họ, làm bạn với họ chẳng thú sao? Sau này, thầy đọc sách Nguyễn Hiến Lê, học với ông, nào Tự học để thành công, Tương lai trong tay ta, rồi nào Gương danh nhân, Gương chiến đấu, Gương kiên nhẫn… nó rất cần thiết cho thanh niên. Tóm lại thầy học qua sách nhiều lắm. Bây giờ ít thấy bạn trẻ đọc sách, mê sách. Họ để thì giờ lên mạng, chơi games, đi shopping, ngồi quán cà phê, tán gẫu… nhiều hơn. Sinh viên không đọc sách văn học, học y mà không đọc Cronin, Somerset Maugham, Chekhov, Lỗ Tấn thì uổng quá! Tâm hồn sẽ cằn khô đi và chỉ còn biết kỹ thuật, dễ trở thành máy móc, lạnh lùng, vô cảm. Tụi con thử đọc Liêu trai chí dị, đọc 24 giờ trong đời một người đàn bà xem… hoặc đọc Alexis Zorba, Câu chuyện dòng sông… xem. Dĩ nhiên ta không bỏ qua những sách viết ở thời đại ta. Nhờ đọc, kiến thức ta mới mở rộng, cảm thức nghệ thuật được nâng cao, cuộc sống thêm hạnh phúc, nhưng quan trọng hơn ta hiểu được con người, ta nuôi dưỡng được tình người…
Còn để có một sức khỏe dẻo dai thì phải rèn luyện thôi. Cách đây hơn mười năm, thầy bị một cơn tai biến mạch máu não nặng, mổ cấp cứu, đục sọ, đặt hai ống dẫn lưu. Tưởng đã hết đi hết nói được nữa rồi. Sau mấy ngày nằm liệt giường, khi đi được vài bước lẫm đẫm như em bé, thầy thấy quả là một phép lạ, một hạnh phúc rất tuyệt vời! Khi đứng được trong toilet như mọi người quả là một hạnh phúc lớn. Thầy nhìn vào gương soi, thấy cái đầu trọc lóc… dễ thương của mình và liền lấy viết vẽ mấy tấm hình thú vị! Sau đó thầy nghiền ngẫm thực tập phương pháp thở bụng, thiền… để dần dần hồi phục sức khỏe. Thầy rút kinh nghiệm bản thân và chia sẻ với bạn bè, viết vài cuốn sách như Nghĩ từ trái tim, Như thị, Gươm báu trao tay… Vừa rồi, thầy mới nói chuyện về “Thiền và Sức khỏe” cho các nhà doanh nghiệp trẻ do báo Sài Gòn Tiếp Thị tổ chức, rồi năm kia cũng nói chuyện về đề tài này tại chùa Từ Đàm, rồi ở Nha Trang trong tuần Văn hóa Phật giáo, thỉnh thoảng thầy cũng được mời nói chuyện với các bác sĩ về “quan hệ thầy thuốc bệnh nhân”, với các nhà báo, thầy cô giáo về cách giảm stress trong nghề nghiệp… có khi nói chuyện với phụ huynh học sinh về giáo dục giới tính cho con em v.v. (hôm nào thầy nói về thiền cho T4G một bữa nha thầy!).
Rèn luyện thân thể phải gồm cả việc nghỉ ngơi, ăn uống, thể dục, thiền… một cách toàn diện. Quan trọng là giữ tâm hồn thanh thản. Việc làm có phù hợp, đúng sở thích thì mới làm hăng say, bền bỉ được.
Hỏi: Thầy cho con hỏi làm sao để mình tăng tính kỷ luật với bản thân để làm tốt công việc? Vì con biết kẻ thù lớn nhất của đời mình là chính mình…
BS ĐHN: Phải có ý chí và nghị lực thôi. Nghĩa là cũng phải rèn luyện. Thầy nhớ hồi trẻ mình rèn luyện bằng cách đọc cuốn Bảy bước đến thành công, Rèn nghị lực để lập thân chẳng hạn, rất có ích. Nhưng không chỉ đọc, chỉ học mà phải hành. Có khi phải khắt khe với mình một chút. Nghị lực sẽ tăng tiến dần. Và từ đó mình mới tự tin hơn. Loại sách này ngày nay cũng có rất nhiều. Phải biết chọn lựa để đọc, không thì dễ bị “tẩu hỏa”!
Đừng bao giờ coi mình là kẻ thù của mình. Hãy biết yêu thương mình, cho nó ăn, cho nó ngủ, và dạy dỗ nó. Nó có hư thì đánh nó vài roi, rồi thương nó nhiều hơn. Một người mà không thể từ bi với chính mình thì làm sao có thể từ bi với người khác được?
Hỏi: Thầy nghĩ thế nào về tiền tài và danh vọng?
BS ĐHN: Tiền rất cần cho cuộc sống. Nhưng biết đến đâu là đủ thì phải có ý thức, biết tự hạn chế, không chạy theo đồng tiền, nhất là đồng tiền phi nghĩa. Sự giàu có do đồng tiền phi nghĩa không bền vững, gia đình có thể đổ vỡ, con cái hư hỏng nữa. Phải chọn lựa. Kiếm tiền chính đáng, tiêu dùng chính đáng thì sẽ có được hạnh phúc. Người giàu có là người ít nhu cầu chứ không phải nhiều tiền, vung tiền qua cửa sổ. Bây giờ nhiều bạn trẻ ỷ lại cha mẹ, chạy theo hàng hiệu, rượu, thuốc… tốn kém thật đáng tiếc. Danh vọng cũng vậy. Cũng cần thiết, nhưng phải chính đáng, và phải biết dừng lại đúng lúc, lui về đúng lúc. Nếu danh vọng xây trên năng lực thực sự của mình thì là điều đáng mừng. Còn “danh vọng” mà xây trên một cái nền giả tạo rất dễ sụp đổ.
Hỏi: Thưa thầy, là thanh niên thế kỷ 21, theo thầy, mỗi buổi sáng / buổi chiều (sau giờ làm việc) điều gì nên nghĩ đầu tiên và cuối cùng trong ngày? Cảm ơn thầy.
BS ĐHN: Kahlil Gibran có hai câu thơ dễ thương: ”Cảm ơn đời mỗi sớm mai thức dậy/ Ta được thêm ngày nữa để yêu thương”. Ngày nữa để yêu thương, thấy chưa, chớ không phải ngày nữa để oán thù, căm giận. Dù ở thế kỷ nào đi nữa, mỗi sớm mai thức dậy cũng nên “cảm ơn đời” đã cho ta một ngày mới, một ngày mới để yêu thương! Dĩ nhiên thanh niên phải rèn luyện thể lực. “Bắp thịt trước đã”, có một cuốn sách như vậy. Thanh niên mà đi đứng co ro, lụm cụm, bụng to, thịt nhão, sáng sáng ngồi đốt thì giờ trong quán cà phê nhả khói mù trời thì thật đáng tiếc. Một tâm hồn minh mẫn trong một thân thể tráng kiện, nhớ không? Sau đó phải thực hiện cho được những dự định đã vạch ra từ… ngày hôm trước. Dĩ nhiên phải chọn ưu tiên, linh hoạt. Cái nào phải làm, cái nào nên làm. Vui mà làm, thích mà làm. Hòa mình với bạn bè chung quanh. Buổi chiều, buổi tối, là cơ hội học tập thêm. Nhiều thứ cần phải học lắm. Ngoại ngữ, vi tính, kỹ thuật chuyên môn. Rồi học một thứ để nuôi dưỡng tâm hồn: văn chương, nghệ thuật, âm nhạc, hội họa… ngay cả làm bánh, nấu ăn, cắm hoa… Một giấc ngủ êm đềm sẽ đến thay vì nhậu nhẹt ở quán bia ôm để rồi sáng mai dậy trễ, uể oải và nhìn mọi người với ánh mắt… mang hình viên đạn!
Hỏi: Thưa thầy, kinh nghiệm của thầy khi đi nước ngoài, bài học thầy áp dụng vào ngành truyền thông – giáo dục sức khỏe của Việt Nam?
BS ĐHN: Thầy không có nhiều dịp đi nước ngoài, nên mỗi dịp đều là một cơ hội tốt để được học thêm và rút kinh nghiệm đem về áp dụng những điều hay. Lần nào thầy cũng mang về một lô sách và tài liệu để sử dụng cho ngành mình và kể cả về đào tạo y khoa, như lần dự hội nghị về “Đào tạo chuyên viên phát triển sức khỏe” của WHO tại Ai Cập. Thầy đã tham gia trong nhóm sáng lập Trung tâm Đào tạo và Bồi dưỡng Cán bộ Y tế Thành phố Hồ Chí Minh. Nhờ thời gian tu nghiệp ở Đại học Harvard, thầy về triển khai hình thành bộ môn Khoa học Hành vi & Giáo dục Sức khỏe cho trường. Lúc tu nghiệp ở CFES, Paris, thầy thấy họ làm nghiên cứu về Giáo dục Sức khỏe rất bài bản, dựa trên đó xây dựng các chương trình can thiệp có hiệu quả; khi về, thầy củng cố thư viện T4G, lập bộ phận tổ chức tư liệu (documentation) và đẩy mạnh các nghiên cứu khoa học trong lãnh vực giáo dục sức khỏe. Khi đi Ấn Độ dự Hội thảo quốc tế về HIV/AIDS thầy ứng dụng “truyền thông thay đổi hành vi” cho nhiều lớp huấn luyện theo phương pháp giáo dục chủ động, tạo tham gia… Tóm lại, học đối với thầy bao giờ cũng phải đi đôi với hành. Học mà không hành thì không thể nào “chín” được. Thầy cũng mong các em: đi học, nhất là du học không chỉ để lấy cái bằng cấp về treo, để “hù” thiên hạ…
mà phải rút ra được bài học gì ứng dụng phù hợp vào hoàn cảnh nước ta với sự sáng tạo riêng của mình. Nhân dịp cũng nói thêm với các em rằng khi tiếp các đoàn chuyên gia quốc tế, đừng thụ động lo đối phó, lo trả lời những câu hỏi của họ đặt ra mà phải chủ động… đặt lại câu hỏi, đưa ra những ý tưởng của mình để tranh luận, từ đó mới có cơ hội học hỏi lẫn nhau…
Hỏi: Thưa thầy, trong thời gian 25 năm công tác tại T4G, điều gì làm cho thầy cảm thấy buồn nhất, điều gì làm cho thầy vui nhất?
BS ĐHN: Vui nhất ấy là cho đến nay, ngành Truyền thông – Giáo dục Sức khỏe đã trở thành một hệ thống – một mạng lưới rộng khắp trên cả nước, và có những con người thực sự yêu nghề, hết lòng với nghề, thấy được cái “y đạo” của nghề – thực hiện quan điểm phòng bệnh tích cực; vui nhất nữa là hiện nay có nhiều bạn trẻ được học bài bản về lãnh vực này, ngành Y tế Công cộng đã và đang phát triển. Tại T4G, như các em thấy, cũng đã có nhiều cán bộ trẻ xuất thân từ Y tế Công cộng. Còn buồn nhất là trên thực tế, ngành y tế nước ta vẫn lấy “điều trị làm chính”, vì điều trị mới mang lại nhiều tiền, danh vọng. Chưa quan tâm đầu tư đúng mức cho dự phòng, trong đó có giáo dục sức khỏe, nâng cao sức khỏe. Nhiều cán bộ giỏi bỏ cuộc vì đời sống khó khăn, chạy về bệnh viện tư, về kỹ thuật cao hoặc làm dự án kiếm tiền nhiều hơn…
Hỏi: Trong suốt quãng đường thành công, thầy có mấy lần “vấp ngã” chưa ạ?
BS ĐHN: Thầy không biết thành công hay vấp ngã là sao? Nhưng hình như sự thành công nào cũng là kết quả của 95% cố gắng và 5% may mắn, còn vấp ngã thì cũng là một cơ hội. Thầy được đi học rất trễ. Cha mất sớm, tản cư trên rừng về, thầy được người cậu dẫn vào cho học lớp Ba một trường tư, vài tháng sau, thầy giáo cho lên lớp Nhì, rồi lớp Nhất (lớp 5 bây giờ) ngay sau đó vì cho rằng đủ “năng lực”. Học trong chùa. Cuối năm thi đậu Tiểu học hạng cao, rồi đậu vào Đệ thất (lớp 6), được học bổng.
Đùng cái bỏ học, về quê, bán hàng xén ở chợ Lagi. Thất học ba năm. Khi tỉnh mới có lớp Đệ thất đầu tiên đặt trong một nhà thờ, thầy lại cắp sách đến trường. Thầy tổ chức tự học, học nhảy hai ba lớp liền, đậu Tú tài 1 và 2 rồi đậu vào y khoa. Miệt mài bảy năm (thời đó y khoa học bảy năm) ra trường với bằng Tiến sĩ Y khoa Quốc gia… Vì thích ngành Nhi nên thầy làm nội trú ủy nhiệm vài năm liền ở Bệnh viện Nhi Đồng Sài Gòn, nhờ vậy mà có thể nói là một bác sĩ có kinh nghiệm về Nhi khoa. Thầy có cảm tưởng trong cái rủi có cái may, trong cái vấp ngã có cái mầm của sự… thành công. Vấp ngã, mình càng rèn chí, quyết tâm tự học, và may thay, đức tính này vẫn còn tới bây giờ. Tự học rất sướng các em ạ, vì học cho mình, không ai ép buộc mình cả. Nhưng tự học cũng phải có phương pháp. Thầy rất biết ơn ông Nguyễn Hiến Lê, tác giả cuốn Tự học để thành công. Thầy thấy những người thành công nói chung đều nhờ tự học. Abraham Lincoln, Benjamin Franklin… chẳng hạn, cũng là những tấm gương tự học. Ông Châu Trí quét lá đa ở chùa mà đỗ giải nguyên… Các sinh viên đậu thủ khoa ở các trường đại học bây giờ thường cũng là những em ở nhà quê tự học là chính, không học thêm, không kèm cặp gì cả! Thầy thích Nguyễn Công Trứ, lúc làm quan to, lúc làm lính thú đều… vui cả. Ông là một nhà nho khoáng đạt, một thi sĩ đích thực. Thầy cũng thích Tô Đông Pha nữa…
Hỏi: Suốt một đời sống và làm nghề, thầy còn đọng lại điều gì?
BS ĐHN: Thầy sống theo một triết lý… thảnh thơi, có bạn bảo là hồn nhiên, ngây thơ nữa. Làm việc hơi tùy hứng, linh hoạt mà không theo một kế hoạch cứng ngắc… Bút hiệu từ nhỏ của thầy là Đỗ Nghê (ghép họ cha và họ mẹ) nhưng các bạn bảo nghe dễ thương vì có vẻ gì đó ngô nghê! Người cậu có ảnh hưởng nhiều nhất tới thầy có bút hiệu là Nguiễn Ngu Í. Ông tự cho mình luôn có những ý ngu! Là một bác sĩ Nhi khoa khá có tiếng tăm, bệnh nhân đông, muốn làm giàu không khó, nhưng thầy chỉ làm… vừa đủ. Vẫn luôn nhớ câu thơ của Nguyễn Công Trứ: Tri túc tiện túc, đãi túc hà thời túc / Tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn hà thời nhàn! (Biết đủ thì đủ, đợi đủ bao giờ cho đủ? / Biết nhàn thì nhàn, đợi nhàn bao giờ mới nhàn?) Nhỏ thì thích dấn thân, khi có tuổi thì thích an nhàn và về… già thì say mê nghiên cứu Phật học để ứng dụng vào đời sống, vào nghề nghiệp! Lúc còn là sinh viên y khoa, thầy đồng thời ghi danh học thêm Xã hội học và Văn khoa. Học nhiều mới đã, mới sướng! Bây giờ có tuổi cũng không biết mình già, vẫn còn ham học lắm. Chia sẻ kinh nghiệm, hướng dẫn đàn em là mơ ước của thầy… vì đó cũng là cơ hội để học.
“Còn đọng lại điều gì” ư? Có lẽ là nỗi băn khoăn về sự phát triển của ngành Truyền thông – Giáo dục Sức khỏe (health education), Nâng cao sức khỏe (health promotion) của mình. Ngoài chuyện lãnh đạo chưa nhận rõ vai trò của nó trong thời đại “nhiễu loạn” thông tin, gây hại sức khỏe cho con người, dẫn đến bệnh tật triền miên và phải liên tục mở bệnh viện để đáp ứng… còn là vấn đề nhân sự của ngành, vì không chỉ cần có kỹ năng, có học thuật mà còn cần đến tấm lòng, vì đó là con đường của y đức và y đạo.
Hỏi: Rung động đầu đời của thầy lúc thầy bao nhiêu tuổi?
BS ĐHN: Ồ, cái này nói nhỏ thôi nha! Thầy nhớ không lầm thì “rung động đầu đời” của thầy hồi đó, lúc thầy… tám tuổi! (Nhiều tiếng ồ, nhưng có một tiếng: hơi trễ đó thầy!). Quả là có hơi trễ. Con gái út của thầy nói nó… rung động đầu đời lúc ba tuổi! Thực ra tám tuổi là tuổi có hoạt động của kích thích tố sinh dục rồi, phân biệt trai gái rồi. Thầy nhớ hồi đó tản cư, học trong rừng, thầy giáo rất dữ, đánh học trò bằng roi mây, bắt quỳ xơ mít. Thầy giáo có thói quen bắt đứa học trò có lỗi nằm sấp trên bục, rồi kêu một học trò khác lên đánh ba roi. Có lần thầy được kêu lên đánh bạn như vậy, thầy đánh ba roi nhẹ hều nên bị bắt nằm xuống cho bạn đánh lại. Có lần thầy còn bị bắt quỳ xơ mít vì dám bắt chước thầy giáo gõ thước lên bàn để các bạn im lặng lúc thầy giáo đến trễ.
Gần trường có một con suối sâu. Trưa nào học trò cũng kéo nhau đi tắm suối. Trai gái đều tắm trần truồng cả. Riêng thầy, khi đang tắm mà trông thấy một cô bạn – chỉ cô bạn đó mà thôi – xuất hiện ở bờ suối thì thầy vội vàng chạy lên mặc quần áo lại ngay. Mắc cỡ! Cũng lạ! (cười ồ!). Nhưng phải nói là đến 12 tuổi thầy mới thực sự “mê” một cô trong lớp… Đó đúng là mối tình đầu. Trong một vài bài thơ của thầy còn nhắc đến. Cái thời đó, ở một thành phố nhỏ, học trò còn đi học với guốc xuồng lộp cộp trên vệ đường lót gạch… Nhà cô có tiệm chụp hình, trong tủ có chưng tấm hình cô ấy. Ngày nào thầy cũng phải qua lại ngắm một cái, mặc dù đã gặp nhau trong lớp. Lúc đi ngang nhà phải xách guốc lên, sợ lộp cộp cô bắt gặp! Khi thầy phải bỏ học, theo gia đình về quê, và bị thất học mất ba năm, mọi chuyện đã khác. Mấy năm sau, có dịp gặp lại, thầy viết trong một bài thơ: Em đến nắng vàng theo tóc xanh / Tôi nghe xa vắng vạn ân tình / Có gì vương víu trong hơi thở / Ơi những ngày xưa của chúng mình… Thơ xưa quá! Đã nửa thế kỷ rồi còn gì!
Hỏi: Thầy ơi, thầy tâm sự tiếp chuyện tình của thầy…
BS ĐHN: Thầy nghĩ tất cả đều có duyên số. Thầy gặp cô – vợ thầy – trong một tình huống cũng ngộ. Bạn thầy có người yêu tự nguyện làm em nuôi của thầy. Một hôm thầy theo bạn đến nhà cô chơi thấy cô đang ngóng một ai đó ở ngoài cửa. Thầy hỏi, cô nói “đợi má về”. Một lúc “má” về tới… Thì ra là một cô gái xinh xắn, có vẻ hiền lành, là chị ruột của cô, tại khó tánh nên các em trong nhà gọi là “má”… Thầy bị “choáng” và nhận ra đây là người mình tìm kiếm bấy lâu. (Thầy có gọi cô bằng má không vậy thầy?) Có, “Má sắp nhỏ”.
Hỏi: Thầy ơi, khi nào thầy sẽ hết yêu?
BS ĐHN: Không biết. Hình như người nào đã bắt đầu yêu hồi 8 tuổi thì sẽ hết yêu vào tuổi 88 thì phải?
(trang 100 – trang 114)
Thay lời kết:
Trước tiên xin chân thành cảm ơn Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc tác giả cuốn “Chuyện Hồi Đó”cho người đọc già khú đế như tôi có dịp biết nhiều điều mà thế hệ tôi hồi còn nhỏ (chỉ nhỏ hơn tác giả vài ba tuổi) nhưng thú thật chúng tôi, những học trò tỉnh lẻ tuốt dưới Lấp Vò này, không biết chút gì về ngành y khoa mà tác giả đã học.
Thêm nữa, qua các cuộc trò chuyện với những câu hỏi rất khó của bạn đọc, của những người trẻ, của học trò nhưng tác giả đã thực lòng bày tỏ hết nỗi lòng của mình qua những câu trả lời rất rõ ràng mạch lạc khó có thể nào rõ ràng hơn và hay hơn thế được và có lẽ chính vì thế mà cuốn sách này vô cùng bổ ích và hấp dẫn là do vậy!
(…)
2010
Hai Trầu
(Người đọc nhà quê già miệt ruộng Lấp Vò)
Houston, ngày 12 tháng 11 năm 2025.

Để lại một bình luận