Ghi chú: Có lẽ vì bạn Mimi Chung đã có nhận xét khi đọc bài “Cứu lấy… cầu khỉ” của tôi trên trang này rằng “cầu khỉ – noi len tinh chat luoi bieng cua dan tinh, chi lap liem vai mieng van de qua vung nuoc sau. neu muon noi la ‘Van Hoa Cau khi’ cua dan toc VN – cau tha , luoi bieng – thi hay “Cứu lấy… Cầu Khỉ!” (05/08/2014) nên anh Hai Trầu từ Kinh Xáng Bốn Tổng đã gởi tôi bài viết này. Xin chia sẻ cùng các bạn.
Cảm ơn anh Hai Trầu nha!
(ĐHN)
LỜI TỰ SỰ CỦA CÂY CẦU KHỈ
“Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắt lẻo, gập ghình khó đi …”
(Ca dao)
Bạn ơi, nhiều lúc tôi cũng không biết tôi có mặt trên ngã ba con rạch Cái Nai này tự lúc nào! Mỗi ngày như mọi ngày, dòng nước cứ chảy ngang qua những chân tôi cấm sâu trong con rạch rào rào; khi thì êm đềm như mơn man, vỗ về, thân ái ; khi thì con nước chảy xiết như giận dỗi làm đung đưa chân cầu rung rinh giống đôi chân một cụ già; khi thì con nước trong leo lẻo như thấy bóng hình mình in đậm xuống dòng nước rồi hắt nhẹ lên bầu trời xanh; khi thì dòng nước ngầu đục như những năm tháng mảnh đời tôi phủ đầy những lớp bùn từ dưới ruộng bám theo bàn chân trần của người nhà quê cơ cực…
Thế đó bạn, mảnh đời tôi tuồng như lúc nào cũng đơn sơ và giản dị như vậy . Với vài ngọn tre, năm ba cây gáo, cây bần, cây cau, cây dừa, cây sao, cây sến và thêm một mớ dây cổ rùa, dây mây rừng, dây choại là tôi có mặt bên dòng đời nơi thôn dã miền sông nước quê mùa này. Không cầu kỳ, cũng chẳng cao sang gì nhưng tôi chan hòa lòng mình vào cuộc sống ở kinh rạch, nối liền hai bờ bên lở bên bồi, bên nghèo bên khá, bên sáng sủa bên um tùm cây cỏ hoang vu hầu mang mọi người qua lại giao hòa cùng nhau mỗi ngày như mọi ngày… Đêm đêm, ngày ngày, năm năm, tháng tháng, cứ mỗi lần tôi nghe tiếng chân ai chạm vào da thịt, lòng tôi mừng lên như đời mình mang đến niềm vui hạnh ngộ đôi bờ của con rạch làng quê… Bạn ạ, ở chỗ những cây cầu khỉ ở là những nơi quạnh hiu, vắng vẻ vô cùng, phần lớn là nơi cỏ hoang vườn vắng, không bến không bờ… Đôi lúc, chúng tôi cũng có mặt gần nơi đình làng, chùa miếu, trường học như những nơi công cộng nơi làng quê. Bởi lẽ, óc mê tín làm cho người ta sợ những cây cầu khỉ bắt ngang sông đâm thẳng vào nhà, rồi gặp những điều không may, nên tôi phải ở những nơi chốn chơ vơ, quạnh vắng như vậy đến mãn đời. Vì thế tôi mừng hết sức là mừng khi có tiếng kẽo kẹt của đôi chân người kéo qua lưng trần đầy nắng mưa, sương gió mà nghe như có bạn ghé thăm nhà… Xa xa, bạn nhìn tôi như một người gầy nằm vắt vỏng qua một dòng sông không hẹn mùa nước trôi, nước cạn… Tôi gầy guộc như những ngọn tre, những khúc cây khô chát thân tròn lớn bằng những bước chân người nhưng mảnh hồn tôi không gầy guộc chút nào! Tôi nằm im lắng tai nghe những tiếng trách thầm cầu khỉ khó qua sông hơn là người ta khen tôi mang nhiều tiện lợi cho nhà quê. Tôi không buồn về điều này, âu cũng là thân phận của mình! Tôi chẳng mong cầu những gì xa xôi và cũng không bao giờ phụ lòng ai khi người ta dò dẵm bước chân lên thân thể mình lúc họ muốn tìm gặp nhau. Từ em bé đến trường đến chị nhà quê đi ra chợ quận, từ anh nông phu ra đồng đến ông làng ông xã lên xã lên làng, từ người ở các tỉnh thành về quê đến người thợ thiến heo xuống ruộng kiếm chút tiền còm, từ vị sĩ quan ghé lại thăm quê cha đất tổ đến chú lính nghĩa quân đi rong trong xóm, trong thôn, từ anh chạy xe đạp qua sông cõng trên vai con ngựa sắt đến ông Cả, ông Hương Hào, Hương Chánh đi họp việc đình Thần, từ ông thầy giáo hiền lành đến đám bắt nhái rầm rầm rồ rộ cũng bước nhẹ lên lưng tôi khi êm êm, khi giậm mạnh như muốn nhừ khúc xương sống khô khốc vỡ tung… Tôi mang họ qua bờ, qua bến không mong lấy một tiếng chào, không mong lấy một tiếng cảm ơn, không mong lấy một tiếng giã từ khi bàn chân họ đặt lên bờ đất nhưng trong lòng tôi lại mong họ thêm những lần trở lại để tôi có dịp cõng họ qua sông trên tấm lưng trần …
Bạn ơi, bạn có lẽ muốn hỏi tôi về nguồn cội đời tôi, một nguồn cội trước mắt bạn nhưng tôi không dễ gì nói cho bạn nghe về ông cha tôi một cách tường tận được. Đại khái, tôi là một sự góp nhặt từ nhiều nơi, nhiều loài cây như gáo mọc bên bờ mương; như bần đứng ngâm chân trong nước với những chiếc rễ từ đất bùn chui lên suông đuột hứng lấy khí trời; như tre non tre già xin được từ tấm lòng từ thiện của chòm xóm láng giềng; như cây sao, cây sến mọc nơi bến chùa mấy mươi năm già cỗi; như cau lão với những mùa hoa nở thơm thơm cùng câu đố dân gian “đầu rồng đuôi phụng le the, mùa xuân ấp trứng, mùa hè nở con”; như dừa lão thân cao sừng sững như chống trời qua bao mùa rồi mang dâng tặng Thiên Hoàng những trái dừa nước ngọt giữa trời cao; như những sợi dây mây đầy gai sau những ngày gần gũi thân thiết với mấy ổ chim dòng dọc ấm êm làm những căn nhà hạnh phúc của loài chim nhỏ giữa bụi mây gai hoang rậm; như những dây cổ rùa bò ngoằn ngoèo quấn quanh thân cây tràm, cây bớm…
“Thân tôi đấy như đời tôi đơn giản,
Vài ngọn tre năm ba khúc gáo bần,
Nắng thì vàng, mưa vẫn ngửa mặt trông,
Nhìn nước chảy, nhìn dòng đời lặng lẽ …”
Tôi là một cái thúng đựng đầy những tấm lòng vị tha, từ thiện vì mọi người, vì ích lợi nhân loài hơn là làm đẹp cảnh vật làng quê khi những con đường bị dòng sông, kinh rạch ngăn đôi, cản bước mọi người… Dòng nước cạn, con rạch nhỏ, thân tôi gọn gàng nối bên này bên kia bằng khúc gỗ gòn gọn gàng. Dòng nước sâu, con sông rộng, thân tôi cũng nối dài thêm nhiều nhịp thành cây cầu lắt lẻo trên dòng nước bao mùa… Những cầu khỉ dài có từ ba nhịp, năm nhịp, bảy nhịp là những cây cầu qua những con rạch có bờ bến xa vời. Đời tôi luôn có những nhịp lẻ như vậy vì người đời muốn dành nhịp giữa ngay giữa dòng nước sâu cho ghe xuồng chở nặng tiện đường qua lại, nên cầu khỉ lúc nào cũng công bằng, chia dòng sông làm hai phần đều nhau, không thiên vị bên nhiều bên ít, bên trọng bên khinh. Vì nắng mưa, sương gió tung hoành tắm ướt mỗi ngày mà thân tôi thì trần trụi dãi dầu nhuần gội với biết bao mùa mưa nắng, nên đời tôi, như bạn biết rồi, chỉ là những cây gỗ tạp không bền, làm sao mà bền bỉ với thời gian. Mới đó mà đầu này đứt dây tay vịn, đầu kia gỗ mục, bù sè, ong bầu khoét đục. Rồi hồi hôm nhịp giữa với những chiếc chân tre bị ghe xuồng đâm sầm té xấp vào làm chân tôi xiêu vẹo, èo uột… Tôi lại phải thay đời đổi lốt nhiều phen, nhưng xin bạn nhớ giùm điều đó cũng không dễ dàng chút nào bạn ạ! Dân vùng tôi ngụ là dân nghèo, cây vùng tôi ở cũng ít khi dư thừa, còn làng nước của vùng tôi đứng, họ ít khi thấy những thân “cầu tre lắt lẻo gập ghình khó đi” khi chúng tôi ngã bịnh trẹo gân gẫy cốt nửa chừng. Thế là, tôi nằm chơ vơ nhiều năm tháng nơi bờ sông vắng ngắt mà chẳng ai màng ngó tới, thăm lom lấy nửa lời. Người ta không đi qua cầu tre, cầu khỉ được chỉ còn có nước vắt quần qua cần cổ rồi lội ngang sông hoặc đón xuồng quá giang, quá bến. Nhiều đêm tôi nghe ê ẩm khắp châu thân mà buồn cho đời mình, mà cũng thương dân vùng quê tôi sao mà nghèo xơ nghèo xác, nên đời tôi cũng theo đó mà “sơ vơ sửng vửng” giữa trời.
Bạn ạ, dường như tôi là bạn của vùng nghèo khó nên tôi cả đời cứ quẩn quanh nơi nghèo khó mãi hoài! Bạn ở chợ, ở thành, có bao giờ bạn thấy tôi lên chợ lên thành bao giờ! Cầu khỉ ở trong kinh, trong rạch, nên tôi mang trên mình cái nét riêng nào đó của kinh, của rạch bùn lầy, quê mùa… Không có bùn trên lưng, không có nắng trên tay vịn, không có mưa trên đầu, không có nước làm đung đưa chân cầu như chân cụ già, có lẽ, tôi sẽ không còn là cầu khỉ lắt lẻo nữa rồi bạn ạ! Tôi luôn đến với người nghèo, tôi cận kề người lam lũ ruộng đồng và tôi cũng bắc nhịp để bạn có lần nào về qua làng, qua xóm nữa mà! Nơi miền thôn dã đó, đêm đêm có ánh trăng, có tiếng chài giã gạo vào mùa lúa mới, có hương thơm ngạt ngào của cớm dẹp tháng chạp, tháng giêng, có tiếng hò vào mùa gặt lúa, có tiếng ca vọng cổ trên đồng vẳng đưa vào những đêm giăng câu mùa nước ngập và có cả những đôi tình nhân hẹn nhau mùa cưới năm nào trúng mùa lúa đầy bồ, mùa khoai nhiều củ, mùa bắp đầy trái, mùa dưa hấu đỏ au ngọt ngào… Tình tự lắm mà cũng thân yêu lắm bạn ạ! Vài chiếc vó cất bên cạnh tôi rào rào nước rỏ xuống dòng sông, cá ơi là cá! Mùa cá lên đồng tháng năm, mùa cá ra tháng chín, tháng mười. Bạn có biết tại sao không? Vì cầu khỉ thường ở những ngã ba rạch, ngã ba sông; mà cá lại theo rạch, theo sông để ra vàm, ra vịnh. Dưới những chân tôi, cá cũng dựa vào làm nhà, làm ổ lút nhút như chỗ không người, vì tôi đâu có la rầy gì, nên cá cũng thân thiện với cầu khỉ quá chừng! Cả tôm càng nữa chứ! Những cái bửng bằng đăng tre được căng dựa vào chân tôi, người ta xây thành những cái rọ và rồi nào là tôm càng lửa, càng xanh, tôm trứng thè lè cái bụng thong dong đi vào cái rọ, chui vào miệng lọp như đang đi vào con đường cùng buồn thảm mà những chị tôm luôn đi lùi này không hề hay biết số phận hẩm hiu. Đó là tôi chưa kể cho bạn nghe những chú chim thằng chài lúc nào cũng đứng trên tay vịn của tôi mà rình cá dưới sông. Thoắt một cái vù, con chim màu tím này nhảy bổ xuống nước và gắp một con cá lòng tong vào cái mỏ nhọn một cách gọn khô như nhà ảo thuật tài tình. Tôi mê nhìn con chim nhỏ khôn ngoan này bắt cá mà quên nó đang đứng trên vai mình tự lúc nào, không thấy mỏi vai… Nếu nơi tôi ở là một bãi cỏ ống um tùm bên bờ kinh với sậy đế chen lẫn vào nhau, đêm đêm tôi ngắm nhìn đàn chuột cơm chạy ào ào trong cuộc đua tìm lương thực, con này theo đuôi con kia kêu “tí tục…tí tục” như đi chợ…Tết. Còn ban ngày, trong cái im vắng của buổi trưa hè, nắng chang chang rát mặt, thỉnh thoảng tôi lại gặp vài chị chim ốc cao, chim chằn nghịch, chim quốc rón rén bước nhẹ trong lùm sậy rồi lẹ làng chạy một mạch xuống mé nước uống vội mấy ngụm nước giữa cơn khát nước cháy cổ… Vào những đêm hè tịch mịch, tôi cũng nghe tiếng chim quốc kêu rả rít đến não nuột mà nhớ hồn vua Thục Đế hay tiếng chim đỗ quyên huyền thoại, rồi nghe văng vẳng trong gió câu Kiều bên tai mà bồn chồn:” Ấy hồn Thục Đế hay mình đỗ quyên?” Và, dĩ nhiên bạn ạ, tiếng kêu thương ấy khác đi nhiều so với tiếng rào rào của đàn vịt tàu về ngang dưới chân tôi vào buổi chiều sau một ngày lên đồng lượm cua, lượm ốc… Và còn nhiều lắm bạn ạ, nói sao cho hết được những tiếng vọng của muôn loài chung quanh tôi vào những sáng, nhũng trưa, những chiều, những tối theo vầng nhật nguyệt tuần hoàn…
Bạn ơi, có lẽ bạn cũng muốn hỏi dòng tộc tôi có mặt tại vùng quê này từ lúc nào? Điều này cũng dễ nhận ra bạn ạ! Từ hồi dân tộc Việt đến vùng đất ngập nước hướng Tây Nam này, cách nay hơn hai trăm bốn mươi năm, ruộng đất nơi đây hoang vu lắm, thú dữ nhiều lắm nhất là cọp, beo, voi, sấu, rắn độc đủ loại. Những con rạch thiên nhiên phần lớn là những con đường do voi đi mà thành rạch, thành sông. Rạch không lớn nhưng cá sấu nằm chờ đầy trong bãi, trong bùn để sẵn sàng cắn bậy vài cái giò, vài cái cẳng của người nào ngây thơ bước xuống. Từ đó những cư dân đầu tiên đến nơi vùng hoang dã này mới tìm cách qua rạch khỏi bị sấu ăn thịt bằng cách trèo lên ngọn cây cặp mé rạch, rồi đu mình qua bên kia bờ giống như khỉ chuyền mình trên cây vậy mà. Bằng chứng là vùng Vàm Nao thời cụ Thoại Ngọc Hầu đào kinh Vĩnh Tế ở Châu Đốc, những dân công đào kinh trốn về nhà qua ngã này, lúc bấy giờ Vàm Nao còn hẹp lắm mà sấu thì nằm đặc sệt dưới nước, nên người ta cũng qua Vàm Nao bằng cách chuyền cây như vậy để tránh sấu chực chờ. Sau này tên gọi cầu khỉ có lẽ bắt đầu từ nguyên thủy như vậy. Dân dần đời sống vùng này mở mang phát triển, nên việc đi lại, giao tiếp là việc tự nhiên như mưa, như nắng. Người ta không thể trèo lên cây hoài để bước qua một con mương, con rạch, do đó, mà có những thân cây bên bờ mương, bờ rạch được chặt cò xuống, nằm dài nối liền hai bờ đất và người ta bước nương lên thân cây vừa ngã mà qua xóm, qua làng, xuống ruộng, xuống nương. Dần dà, cư dân vùng sông rạch chằng chịt này nối những nhịp cầu khỉ mà một thân cây không thể vươn mình gác đủ một bề ngang rộng phình của những dòng sông rạch lớn hơn. Từ đó, bạn ạ, những chiếc cầu khỉ chúng tôi có mặt rầm rộ khắp vùng đồng bằng này.
Bạn ơi, lịch sử đời tôi qua hằng trăm năm cùng với lịch sử vùng sông nước miền quê Lục Tỉnh này, nên nhiêu khê lắm. Là một vật tưởng chừng vô tri nhưng tôi đã chứng kiến nhiều vở tuồng nơi những xóm quê qua mỗi thời kỳ…
Lúc hưng thịnh cũng như thời ly loạn, lúc nào tôi cũng đứng giữa dòng đời nhìn thế cuộc xoay vần, điên đảo mà dưới chân tôi dòng nước cũng nhiều bận đổi dòng… Bạn ạ, một cách thầm lặng, thân cầu khỉ khẳng khiu này đã hiểu thế nào là biển dâu, là dời đổi trong làng, trong xóm. Biết bao phen tôi chứng kiến cảnh ghe xuồng chở đầy những người dân vô tội trên đường tản cư khỏi vùng lửa đạn và cũng biết bao phen họ lại rón rén trở lại ngang cầu thăm mảnh vườn xưa mà không cầm được nước mắt trước cảnh nhà trống, vườn hoang sao quá tiêu điều! Thời chiến tranh còn âm ỉ, ban đêm tôi bị người ta vứt vài nhịp trôi theo dòng nước lớn, nước ròng; rồi ban ngày tôi lại được người dân trong xóm kiếm tìm những khúc gỗ lạc loài vớt lên hoặc chặt thêm một vài thân cây mới để nối lại thân thể tôi lành lặn. Bạn đừng buồn, chẳng qua đó là một trong muôn ngàn trường hợp mà người nhà quê quen gọi “qua sông, rút cầu” thường tình.
Thế đó bạn, vật vô tri như tôi mà còn có kẻ ưa, người ghét, huống hồ gì là con người như bạn, làm sao mà tránh khỏi kẻ ghét, người ưa! Bên này sông, bên kia sông, giữa dòng nước, chiếc cầu tre lắt lẻo biết bao phen nhìn mẹ già tiễn con đi xa mà lòng nghẹn ngào, để rồi ngày con trở về theo “đường xưa lối cũ” thì, hỡi ơi, mẹ già đã ra người thiên cổ từ bao năm rồi! Tôi cũng bao lần nhìn người vợ quê tiễn chồng ra đơn vị những năm tháng còn chiến tranh mà nghe lòng tê tái buổi phân kỳ… Sau khi chiến chinh tàn, “mấy người trở lại?” Và biết bao người chồng lên núi, vô rừng hay về “đầm dạ trạch” phá rừng, đào kinh không hẹn ngày về, phú cho Trời vợ yếu con thơ khắp chốn, khắp nơi cơ hàn, quạnh quẽ nhiều phen! Tôi nghe văng vẳng tiếng người mẹ trẻ hát lại câu ca dao cũ à ơi … nghe sao quá đắng cay:
“Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắt lẻo gập ghình khó đi,
Khó đi mẹ dắt con đi,
Con thi trường học, mẹ thi trường đời!”
Tôi cũng nghe tiếng thở dài của ông thầy giáo già cõng trên lưng đứa học trò nhỏ qua sông ngày xưa ấy, bên lớp học cạnh đầu cầu, như tình cha con đằm thắm nơi xóm quê. Và còn nhiều lắm, như chứng nhân giữa dòng đời, tôi man mác buồn vui theo từng mảnh đời nơi miền quê lầy lội nhưng nhiều tình tự này… Và rồi, một ngày nào, những thân gỗ tạp làm nên cây cầu khỉ qua dòng sông cạn, sông sâu bị mục, chúng tôi muốn thì thầm cùng bạn một chút niềm riêng:
“Thân tôi đấy, như đời tôi đơn giản,
Vài ngọn tre, năm ba khúc gáo bần.
Nắng thì vàng, mưa vẫn ngửa mặt trông,
Nhìn nước chảy, nhìn dòng đời trôi lặng lẽ!
Khi gỗ mục chiếc cầu tre bấn loạn,
Người ta mang tôi vào bếp vào lò,
Lửa cháy đỏ lòng tôi đây đau đớn
Nhưng không buồn vì viết trọn bài thơ .”
Bây giờ là thời kỳ làng quê đang chạy theo những ngày hết thế kỷ hai mươi, lòng người ta cũng háo hức lắm cho những ngày mới! Có ai trong các bạn đã có lần nào đặt bàn chân lên lưng tôi mà đi chưa? Những bước đi làm bạn run run đôi chân có lẽ một ngày nào bạn sẽ ít có cơ hội bước nhẹ lên chiếc lưng trần của cây cầu khỉ! Những cây cầu ván với loại cây căm xe, cà chất hay cầu đúc bằng xi măng dần dần xuất hiện rải rác hết khúc sông này đến đầu sông nọ, cũng có nghĩa dòng tộc tôi cũng xa dần trên những con rạch quê mùa, những dòng kinh đào khắp miền đồng bằng này… Nhưng trong hồn bạn, có lẽ tôi không như “Chiếc giường cũ ” của Trần Tiêu, bị người chủ vứt bỏ trong chái hè tăm tối, mà tôi mãi hoài ngự trị vào mỗi lần bạn có dịp hồi tưởng lại chốn cố hương, nơi có con đường đất, con rạch cạn, con sông sâu chảy qua ruộng gần, ruộng xa, chảy qua bờ tre, vườn xoài, vườn cam, vườn mận tỏa ngát hương thơm cùng những mùa trái sai oằn, trĩu nhánh mà nghe nhớ quá những cây cầu khỉ gập ghình ngày nào qua câu ca dao mộc mạc, quê mùa như khúc hát ân tình…
“Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắt lẻo gập ghình khó đi.
……..
Khó đi mượn chén ăn cơm,
Mượn ly uống rượu, mượn đờn kéo chơi.”
(Ca dao)
Hai Trầu
Kinh Xáng Bốn Tổng, tháng 10-98
Chào Anh Hai Trầu &BS Đỗ Hồng Ngọc!Phải nói là…Trời quá hay ngây ngất mê miết!Từng chi tiết thê thiết rất là tuyệt!Cây cầu Khỉ được Văn khắc họa tỉ mỉ.Tuyệt kỹ ly kỳ hơn ThơThi?Tràn ngập hình ảnh tình ý cầu Khỉ Ở chốn quê cũng đầy thi vị?Vui buồn cùng cầu Khỉ ai bị ái hỉ?Đóng đinh cầu Ván-Lắt lẻo cầu Tre.Nắng vàng cầu khô mưa ngửa trông…Gỗ cầu mục bỏ bếp hồng nấu nước sôi?Điều ấy cấm kỵ nào có thấy đâu bao giờ?!Nhà quê làm gì thiếu gỗ đến tệ hại phát rầu quậy?Nói qua nói lại nói tới nói lui nói xuôi nói ngược nói đã đời..Vẫn là ngàn lời cảm ơn Anh Hai Trầu thông qua BS Đỗ Hồng Ngọc….
Kinh Xáng Bốn Tổng, ngày 20 tháng 08 năm 2014
Kính chào Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc và chị Aitrinhngoctran,
Trước hết xin chân thành cảm ơn Bác sĩ Đỗ Hồng Hồng Ngọc đã có nhã ý giới thiệu bài “Lời Tự Sự Của Cây Cầu Khỉ” trên trang nhà của Bác sĩ. Là một bác sĩ và nhà văn, nhà thơ tên tuổi mà Bác sĩ lúc nào cũng để lòng mình thương mến chốn quê mùa giống như ngày trước cụ Nguyễn Khuyến luôn luôn để lòng mình “vui cái vui của người nông dân và buồn cái buồn của người nông dân” vậy!
Thứ đến xin chân thành cảm ơn những lời khen ngợi đầy khích lệ của chị Aitrinhngoctran; có được những bạn đọc như chị làm cho người viết vốn gốc nhà quê già như tôi vui mừng và hạnh phúc biết bao! Hy vọng, qua Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, có dịp sẽ chia sẻ thêm với chị và bạn đọc trên trang nhà “dohongngoc.com” những tình quê khác nơi miền sông nước Hậu Giang mà tôi đã một đời ngụp lặn…
Kính chúc Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc dồi dào sức khỏe và không quên cảm ơn chị Aitrinhngoctran cùng cầu chúc chị cùng quý quyến vạn an, hạnh phúc.
Trân trọng,
Hai Trầu
Oi troi oi ! doc xong bai viet cua anh – bai viet that nhe nhang voi chut nang, chut mua, chut sinh lay, cay cau khi, con song…- ma no lam toi nhu bi tat tho vi nhung xuc cam dang dang trao. Bay gio toi chua viet gi duoc ..vi.. con dang mat tho ! Toi chi nhu dam luc binh troi noi , benh bong tren con nuoc cua cuoc doi ; gio nhu duoc tua vao chan cay cau khi cua anh, va toi dang that su em -a, nghi ngoi.. cam on anh nhieu. bai viet qua hay.
Kinh chao anh Hai Trau, luc nay moi goi anh loi cam kich ma` quen viet ten anh, xin tha thu cho co em gai ut nha. Vay chu Kinh Xang Bon Tong la o dau vay anh Hai ?
Anh Hai Trầu ơi, vậy là anh đã làm hại người ta rồi! Có người đọc bài “cầu khỉ” của anh mà bị… tắt thở!! Nhưng anh đừng quên, cũng nhờ có 3 tấm hình minh họa tôi đã chon cho bài anh đó nhe! Sao, Tết nhứt thế nào?
Kinh Xáng Bốn Tổng ngày 10 tháng 03 năm 2015
Thưa bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc và cô Nguyễn Kim Dung,
Lâu quá rồi tui chưa có dịp lên trang nhà của Bác sĩ vì Tết nhứt vừa qua Hai Trầu lu bu quá mạng Bác sĩ ơi! Nay nhờ Bác sĩ nhắc mới đọc được mấy lời nhận xét của Cô Nguyễn Kim Dung mà tui cũng ớn quá như Bác sĩ nói: “Anh Hai Trầu ơi, vậy là anh đã làm hại người ta rồi! Có người đọc bài “cầu khỉ” của anh mà bị… tắt thở!!” Thiệt tình, tui cũng hú hồn hú vía luôn nữa nhe Bác sĩ!
Xin có lời chân thành cảm ơn Bác sĩ và cô Kim Dung nhiều lắm đó!
Còn Cô Kim Dung có hỏi “Kinh xáng Bốn Tổng ở đâu vậy anh Hai?”.
Xin thưa, Cô xuống Long Xuyên rồi nếu Cô muốn đi đò máy thì Cô xuống bến đò Long Xuyên-Núi Sập, Cô hỏi cho tui mua vé đò đi tới “Kinh Xáng Bốn Tổng” thì họ sẽ bán cho Cô một vé. Có vé rồi Cô cứ kiếm chỗ ngồi, đò sẽ bắt đầu chạy. Từ bến đò Long Xuyên nằm ngay bên chưn cầu Duy Tân tại thị xã Long Xuyên, đò sẽ rời bến và lần lượt chạy qua các địa danh quen thuộc là Rạch Bà Bầu, vô chợ Vĩnh Chánh thuộc xã Phú Hòa, rồi đò đi tiếp nữa tới rạch Ba Bần, tiếp theo là Kinh Xáng Bốn Tổng, rồi nếu Cô tiếp tục đi vô nữa thì tới xã Định Mỹ (Núi Sập) và đi dài dài là tới tuốt vô Rạch Giá luôn… Còn nếu cô đi đường xe thì có xe đưa cô đi song song với con kinh Long Xuyên-Rạch Giá và cô cũng đi ngang qua những địa danh như vừa kể. Hồi đời xưa đường làng đường đất đi chậm lắm nhưng nay đường tráng nhựa rồi nên đi mau hơn nhưng đi mau thì cũng dễ té lắm nên hồi nào tới giờ tui thích đi đò máy hơn đi xe Cô à, nhứt lại là người già thì cái gì cũng muốn chậm và an toàn là tui ưa dữ lắm.
Một lần nữa xin chân thành cám ơn Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc và Cô Km Dung thương mến cây cầu khỉ và dân ruộng dưới này nhiều lắm. Tui không quên kính chúc Bác sĩ và Cô Kim Dung thân tâm luôn an lạc, vạn sự cát-tường.
Kính thư,
Hai Trầu
Anh Hai Trầu kính mến ! Tôi là Bùi Tấn Quy, quê xã Hòa Đồng ,huyện Tây Hòa,tỉnh Phú Yên .
Tôi thật sự cảm động đến rớm nước mắt khi đọc bài tản văn của anh, thật tình mà nói : nếu anh ở gần đâu đây tôi sẽ : quyết đến gặp anh để hầu anh chén rượu ! Đúng như ông bà mình nói :” Văn hay chẳng nệ câu dài ! ” Anh đã nhập vào hồn cốt những cây cầu khỉ để vẽ nên một bức tranh sông nước rạch ngòi của vùng quê nam bộ hào sảng ,chơn chất nhưng anh cũng cho tôi cái liên tưởng thâm trầm về nhà thơ ngụ ngôn ” La phông Ten” -bằng những câu văn cảm khái đột ngột tài tình của anh !
Kính chúc anh cùng gia quyến mạnh giỏi hạnh phúc !
Kinh xáng Bốn Tổng ngày 10-10-2016
Kính chào Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc và anh Bùi Tấn Quy,
Trước hết tôi xin thành thật cảm ơn Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đã chuyển thơ anh Bùi Tấn quy đến kinh xáng cho tôi vì lúc rày tôi rầu rĩ ba cái nước năm nay khô hạn quá nên it lên “net” coi thơ văn hay thư từ ai gởi tới cho mình. Riêng Bác sĩ Đỗ Hồng ngọc thì thương tình bạn đọc nhà quê già này nên khi nào có gì hay hay Bác sĩ hay tiếp chuyển cho tôi đọc. Một lần nữa rất đa tạ Bác sĩ.
Thưa anh bùi Tấn Quy,
Nhận được lời chia sẻ cảm tưởng của anh, thú thật lúc mình đang già này còn gì vui cho bằng. Được biết anh ở tuốt ngoài Phú Yên, nhiều khi anh em mình muốn gặp nhau làm sao gặp được vì đường xá xa xôi quá mạng nhưng có điều qua những tình cảm anh dành cho Hai Trầu thì tôi thấy anh em mình rất gần, gần lắm anh BTQ ơi!
Hối bốn năm chục năm về trước lúc còn trai tráng, tôi có nhiều bận đi ngang qua Phú Yên của anh, mà nay mỗi lần có ai nhắc Phú Yên là tôi hay nhớ về những ngày lang bạt ấy lắm!
Khi xưa mỗi lần tới Đại Lành bên này chưn Đèo Cả, xe bò bò lên đèo. Đèo cao đường hẹp, khi xe lên tới đỉnh đèo nhìn bên tay mặt thấy biển xanh xanh một màu xanh lặt lìa đến chóng mặt. Rồi xe lại lần hồi bò qua đèo khúc khủy cong queo, rồi cùng xuống tới chân đèo lần qua trại đóng quân của sư đoàn Đại Hàn thuộc quận Hiếu Xương với quốc lộ 1 thoai thoải ngang qua những thửa ruộng dọc hai bên quốc lộ dẫn đến cầu Đà Rằng mà tôi nhớ dường như hồi ấy cây cầu này dài nhứt miền Nam bắc qua con sông Ba tới hơn một cây số. Rồi lần hồi xe chạy về tỉnh lỵ Phú Yên nằm khiêm nhường bên quốc lộ 1. Hối đó tôi chưa lần nào có dịp ngủ lại Tuy Hòa nhưng tôi có xuống bãi biển. Biển thì xanh nhưng cát không trắng như Nha Trang vì dường như ở Phú Yên không có núi che làn nước biển như Nha Trang có Hòn Yến, Hòn Khói, nên biển Tuy Hòa song dữ ơn Nha Trang nhiều.
Rôi tôi theo quốc lộ cặp bờ biển dần qua Tuy An, Cù Mông, Sông Cầu với sự thích thú của gió biển thơm thơm mùi rong biển. Ghé Sông Cầu phải nhìn nhận cua tôm ở đây quá ngon và những hang dừa cũng tình tứ lãng mạn với gió biển rì rào suốt bốn mùa…
Hồi đó với những chuyến đi chơi ấy qua vùng quê anh mà tôi vẫn còn miên man nhớ đến bây giờ. Dường như làng Ngân Sơn (Phú Yên) cũng là quê của nhà văn Võ Hồng. Nhớ mấy năm tôi ghé Nha Trang, rồi lây lất cuộc đời ở đó vơi cơm tháng ngủ nhờ có mấy lần tôi cùng vài anh bạn ghé nhà thăm nhà văn Võ Hồng ở đường Hồng Bàng (hay đường cây Bàng, tôi quên rồi), lần nào cũng được ông tiếp đón niềm nỡ. Hồi còn nhỏ tôi mê đọc văn ông vì ông viết hay mà lại hiền nữa nên tuổi học trò dường như đứa nào cũng thích Võ Hồng.
Vài hàng cảm ơn anh Bùi Tấn Quy, trái đất tròn chắc có dịp nào đó anh em mình sẽ có dịp gặp nhau uống cà phê chơi cho vui.
Kính chúc Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc cùng anh Búi Tấn Quy dồi dào sức khỏe, cùng gia đình nhị vị luôn an vui, hặnh phúc.
Thân mến,
Hai trầu
Anh Hai Trầu kính mến ! cảm ơn anh thật nhiều về những lời hồi âm của anh ! chẳng ngờ là anh lại có một dĩ vãng thật phiêu lãng đáng thèm đến vậy !
Hơn bốn mươi năm rồi mà anh viết như thể anh vừa đi qua Phú Yên quê tôi hôm nào !
Một trí nhớ tỉ mỉ cộng với một tâm hồn thơ văn đôn hậu hẳn là anh phải hạnh phúc với bản ngã của mình !
thật đáng quý cái “Ngã” của anh – Nếu như anh hạnh phúc !
Bởi vậy nên anh hai Trầu ơi ! Đôi lúc tôi lại thích câu nói của ai đó : ” Sung sướng thay người dẽ quên ” ! Dường như chỉ là mỉa mai !
Thưa anh ! Tôi rất yêu văn thơ và nhạc và tôi tuổi nhâm Dần 55 tuổi – Tôi làm nghề chụp ảnh – Tôi có vợ và hai con gái !
Tôi mường tượng rằng tôi chắc là đàn em của anh mà thôi ,và tôi có cảm giác rằng anh phải là một Tôn Danh nào đó trong làng văn nghệ trước 75 !
Nếu có thể được rất mong được anh cho biết để tiện đường tôn ti giữa anh em mình anh Hai ạ !
Tôi rất thích giọng văn hoài cổ, hoài niệm, hoài thương , hoài nhớ, hoài vọng… của anh và tôi nghĩ hẳn là anh có một dĩ vãng đẹp – Đẹp theo nghĩa rất đời – Dẫu là buồn thương hay hạnh phúc !
và vì vậy tôi nghĩ rằng sẽ vui khi được làm quen anh để anh em mình tán gẫu về đủ thứ chuyện trên đời ! nhân tiện xin phép mời anh vào trang web ” Tạp Chí Sông Ba ” của Phú Yên đọc cho vui Và hẳn là anh không giận nếu tôi trích đăng bài ” Lời Tự Sự của Cây Cầu Khỉ ” của anh !
Chúc anh và gia đinh vui !