THỬ SƠ PHÁC CHÂN DUNG
ĐỖ HỒNG NGỌC
Nguyễn Hiền Đức
(Tổng hợp và giới thiệu)
Bài 2 : “DU HỌC SÀI GÒN”
VÀ HƠN 40 NĂM GẮN BÓ VỚI NGÀNH Y
2.1. Học và hành nghề y
– Đậu Tú tài II, Đỗ Hồng Ngọc băn khoăn trước ngã ba đường: Vừa muốn học y, lại muốn học sư phạm, học văn khoa. Ông được học giả Nguyễn Hiến Lê khuyên “nên học y để giúp đỡ cụ thể cho gia đình, nếu học giỏi sau này có thể làm “thầy giáo” và nếu có năng khiếu, cũng có thể viết lách được…!”, … thế là ông học y, rồi học thêm văn, rồi viết lách, giảng dạy… lai rai mấy chục năm nay.
– Năm 1962, Đỗ Hồng Ngọc đậu vào trường y khoa. Vốn là người ham đọc, ham học, ngoài việc học y, ông cũng đã ghi danh học thêm những ngành mà ông thích như văn khoa, xã hội học. Đỗ Hồng Ngọc tự bạch: “… tôi mê học và học cho đã. Tôi thấy mình hên, thi đâu đậu đó, nhưng phải nói là nhờ biết cách học, nhất là biết cách tự học. Tôi nghĩ học sinh muốn giỏi phải có chí và biết tự học”.
Những năm vào Sài Gòn “du học”, ông ở nhà trọ, ăn cơm tháng trong khu ổ chuột Bàn Cờ (nay thuộc quận 3, Tp. Hồ Chí Minh – NHĐ) và thường xuyên đến thăm Nguyễn Hiến Lê. Cụ Lê luôn động viên, khuyến khích việc học của ông và mong sau này ông dùng ngòi bút để mang lại lợi ích cho nhiều người hơn trong nghề nghiệp của mình.
– Năm 1962, Đỗ Hồng Ngọc đã vào học APM (thay cho PCB trước kia). Sinh viên muốn học y khoa phải thi đậu vào APM. Rất khó. Đậu chừng 10%. Cuối năm nếu đậu sẽ lên học tiếp 6 năm nữa ở Y khoa Đại học đường Sài Gòn, 28 Trần Quý Cáp (nay là Võ Văn Tần). Đó là khóa đầu tiên học theo chương trình mới này…Ông kể ngoài các môn thi Lý, Hóa, Sinh, sinh ngữ… còn có 20 câu hỏi tổng quát như tên ông Tồ ngành y thế giới ? ông Tổ ngành y Việt Nam ? thầy thuốc nổi tiếng thời Tam Quốc ? thầy thuốc nổi tiếng thời Đông Châu liệt quốc ? nhạc, họa v.v… và đặc biệt « giá gạo trên thị trường bao nhiêu một ký ? », « giá than trên thị trường bao nhiêu một ký » ?… những trắc nghiệm như vậy rất có ý nghĩa cho một người thầy thuốc tương lai !
Y khoa thời đó học 7 năm, vì thích ngành Nhi nên từ năm thứ ba, ông thực tập tại Bệnh viện Từ Dũ, sau làm nội trú ủy nhiệm ở Bệnh viện Nhi Đồng Sài Gòn, nên có thể nói là một bác sĩ có kinh nghiệm về Nhi khoa.
Năm 1969, Đỗ Hồng Ngọc tốt nghiệp Y khoa, trình luận án năm 1970 về bệnh Sốt rét ở trẻ em và nhận văn bằng Tiến sĩ y khoa quốc gia. Ông làm việc ở khoa Cấp cứu Bệnh viện Nhi Đồng Sài Gòn (Tp. Hồ Chí Minh) 12 năm, hằng ngày thấy trẻ con chết nhiều quá nên nghĩ cần phải đẩy mạnh công tác truyền thông, giáo dục sức khỏe, nâng cao dân trí để người dân tự biết bảo vệ, chăm sóc sức khỏe mình, gia đình mình. Sau đó, rời Bệnh viện Nhi đồng, về phụ trách Trung tâm Truyền thông – Giáo dục sức khỏe Tp. Hồ Chí Minh suốt hơn 25 năm và đã hình thành Bộ môn Khoa học hành vi & Giáo dục sức khỏe tại Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch từ năm 1995 đến nay.
Tóm tắt quá trình hành nghề y của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc như sau:
– Tốt nghiệp Đại học Y khoa Sài Gòn, 1969.
– Tu nghiệp Y tế công cộng tại Đại học Harvard Hoa Kỳ và Giáo dục Sức khỏe tại CFES Paris, Pháp.
– Nguyên Trưởng khu Phòng Khám và Cấp cứu Bệnh viện Nhi Đồng I Tp.HCM.
– Nguyên Giám đốc Trung tâm Truyền thông – Giáo dục Sức khỏe Thành phố Hồ Chí Minh.
– Năm 1971, Đỗ Hồng Ngọc làm bác sĩ điều trị tại Dưỡng đường Nhi khoa Trần Bình Trọng, Chợ Lớn. Từ 1972 tham gia giảng dạy môn Nhi khoa cho trường Nữ Hộ Sinh quốc gia (trong BV Từ Dũ).
– Từ năm 1985, ông về phụ trách Trung tâm Truyền thông và Giáo dục Sức khỏe Thành phố. Ông triển khai hai bộ môn mới do ông làm chủ nhiệm là Bộ môn “Khoa học hành vi và Giáo dục Sức khỏe” của Trung tâm Đào tạo và Bồi dưỡng cán bộ Y tế thành phố (tức Đại học y khoa Phạm Ngọc Thạch sau này) và Tổ Bộ môn Sức khỏe Phụ nữ của Đại học Mở Bán công.
Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc bắt đầu thực hiện các buổi nói chuyện trên Đài truyền hình và Đài Tiếng nói nhân dân thành phố. Từ những năm 1984 – 1986, ông triển khai các Chương trình “Săn sóc sức khỏe ban đầu cho trẻ em » (Primary Child Care) phường 13, quận 6 (nay là phường 10), để làm thí điểm phòng bệnh từ xa với một chiến lược mới với sự tham gia của cộng đồng và sự phối hợp liên ngành. Ông được sự đồng tình ủng hộ của nhiều đồng nghiệp và trường Đại học Y dược thành phố lúc đó đã gởi nhiều sinh viên theo học và làm luận văn về hướng Nhi khoa xã hội này. Sau đó tham gia Chương trình Săn sóc sức khỏe ban đầu toàn diện tại xã Hiệp Phước, Nhà Bè. Ông còn thực hiện Chương trình Giáo dục sức khỏe phòng chống HIV/AIDS, và Phòng chống tác hại hại thuốc lá v. v…
– Nguyên Giảng viên thỉnh giảng Bộ môn Nhi, Đại học Y Dược. Trong thời gian ông công tác tại đây từ năm 1981 và đỡ đầu luận văn hơn 10 đề tài cho các bác sĩ Sơ bộ chuyên khoa Nhi. Rồi ông còn viết nhiều cuốn sách phổ cập khác như Những bệnh nguy hiểm thường gặp ở trẻ em, Nuôi con, Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc.
– Thầy thuốc Ưu tú năm 1999.
Nhân dịp bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc chính thức nghỉ hưu, Nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh đã cho tái bản cuốn Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng (tái bản lần thứ XX) – được cập nhật và bổ sung – gần 400 trang trên giấy trắng tốt, bìa cứng mà ông xem là một món quà nhỏ gởi đến các ông bố, bà mẹ trẻ mới sinh con đầu lòng…
Trả lời câu hỏi của học trò cũ, trong một buổi giao lưu: “Thưa thầy, kinh nghiệm của thầy khi đi nước ngoài, bài học thầy áp dụng vào ngành truyền thông – giáo dục sức khỏe của Việt Nam”?
Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc chia sẻ:
“Thầy có không nhiều dịp đi nước ngoài, nên mỗi dịp đều là một cơ hội để được học thêm và rút kinh nghiệm đem về áp dụng những điều hay. Lần nào thầy cũng mang về một lô sách và tài liệu để sử dụng cho ngành mình và kể cả về đào tạo y khoa, như lần đi dự hội nghị về “Đào tạo chuyên viên phát triển sức khỏe” của WHO tại Ai Cập. Thầy được tham gia trong nhóm sáng lập Trung tâm Đào tạo và Bồi dưỡng cán bộ y tế thành phố, sau này là Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch. Nhờ thời gian tu nghiệp ở Đại học Havard, thầy về triển khai hình thành Bộ môn Khoa học hành vi và Giáo dục sức khỏe cho trường. Lúc tu nghiệp ở CFES, Paris, thầy thấy họ làm nghiên cứu về Giáo dục sức khỏe rất bài bản, dựa trên đó xây dựng các chương trình can thiệp có hiệu quả, khi về, thầy củng cố thư viện T4G, lập bộ phận tổ chức tư liệu (documentation) và đẩy mạnh các nghiên cứu khoa học trong lãnh vực giáo dục sức khỏe. Khi đi Ấn Độ dự Hội thảo quốc tế về HIV/AIDS thầy ứng dụng “truyền thông thay đổi hành vi” cho những lớp huấn luyện theo phương pháp giáo dục chủ động, tạo tham gia…
Tóm lại, học đối với thầy bao giờ cũng đi đôi với hành. Học mà không hành thì không thể nào “chín” được. Thầy cũng mong các em: đi học, nhất là du học không chỉ để lấy cái bằng cấp về treo, để “hù” thiên hạ… mà phải rút ra được bài học gì ứng dụng phù hợp vào hoàn cảnh nước ta với sự sáng tạo riêng của mình. Nhân dịp cũng nói thêm với các em rằng khi tiếp các đoàn chuyên gia quốc tế, đừng thụ động đối phó, lo trả lời những câu hỏi của họ đặt ra mà phải chủ động… đặt câu hỏi, đưa ra những ý tưởng của mình để tranh luận, từ đó mới có cơ hội học hỏi lẫn nhau…”.
2.2. Đỗ Hồng Ngọc và những “sở đắc” trong ngành y
Năm 1972, tức là chỉ ba năm sau khi tốt nghiệp bác sĩ y khoa, Đỗ Hồng Ngọc đã xuất bản cuốn Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò trong loại y học phổ cập. “Cuốn sách đầu tay không những được các em học sinh mà cả các bậc phụ huynh cũng nồng nhiệt đón nhận. Nhà văn Trần Phong Giao – Tổng thư ký báo Văn lúc đó – bảo tôi là anh đã bắt con mình học… thuộc lòng cả một chương trong sách! Nhà xuất bản Lá Bối của thầy Từ Mẫn độc quyền phát hành và chỉ vài tháng sau sách đã được tái bản”.
Trong lời Tựa cuốn này, học giả Nguyễn Hiến Lê viết: “Tập này là tác phẩm đầu tay của ông. Ông dùng kinh nghiệm bản thân khi đi học và đi dạy (vì như một số sinh viên khác, ông phải tự túc), cùng những sở đắc trong ngành y để hướng dẫn các bạn học sinh trong việc giữ gìn sức khỏe, ngừa trước những bệnh thông thường và khi bệnh đã phát thì nên làm gì. Yêu nghề và có lương tâm, ông không mách thuốc bừa bãi như thỉnh thoảng chúng ta thấy trên một số báo, ông phản đối thái độ ‘vô trách nhiệm’ đó”.
Từ nhận xét đó, chúng ta có thể thấy, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc tuy mới ra trường 3 năm mà đã dùng kinh nghiệm bản thân khi đi học và đi dạy, cùng những sở đắc trong ngành y để hướng dẫn các bạn trẻ giữ gìn sức khỏe… Ông lại rất yêu nghề và có lương tâm. Tri thức chuyên ngành và lương tâm của người thầy thuốc ngày càng khẳng định “sở đắc”, tầm nhìn mới của ông trong ngành y.
Rồi đến năm 1974, Đỗ Hồng Ngọc hoàn thành bản thảo Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng, lúc ông đang làm việc tại Bệnh viện Nhi đồng Sài Gòn và cũng vừa có đến 3 đứa con “đầu lòng”. Cuốn này được cụ Nguyễn Hiến Lê góp ý, sửa chữa tận tình và “khen” Đỗ Hồng Ngọc là một thầy thuốc nhi khoa tốt, yêu trẻ con.
Tôi thực sự cảm kích và vui mừng cho những bước khởi đầu viết lách của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc khi đọc những nhận xét, “đánh giá” về tác phẩm này của những người đồng nghiệp, những bậc đàn anh, những người Thầy của Đỗ Hồng Ngọc. Trước hết là bài Tựa của Giáo sư Phan Đình Tuân, Giám đốc Bệnh viện Nhi Đồng Sài Gòn, cũng là người đỡ đầu luận án tốt nghiệp Tiến sĩ Y khoa Quốc gia của Đỗ Hồng Ngọc. Bài Tựa có đoạn viết:
“Đọc quyển sách Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, các bà mẹ sẽ tìm thấy những lời chỉ dẫn ân cần về những vấn đề thiết thực, để bớt những bỡ ngỡ băn khoăn, lo lắng vô ích. Thêm vào đó, tác giả còn đả phá những thành kiến sai lầm, những tập quán nguy hiểm từ lâu vẫn lan tràn ở nước ta gây nhiều tai hại cho trẻ nhỏ (…)
Một quyển sách về y học, dù là y học phổ thông, thường thường rất khô khan, ít ai muốn đọc, nhưng quyển sách của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc lại khác. Tác giả có lối hành văn trong sáng, nhẹ nhàng, thân mật, gần gũi, có chỗ dí dỏm nên thơ, đọc không biết chán.
Tôi mong rằng quyển sách này sẽ là sách gối đầu giường không những của các bà mẹ sanh con đầu lòng mà còn của tất cả các bà mẹ vậy”.
(Thư gởi người bận rộn, tập 2, NXB Văn hóa – Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh, 2011, tr. 74).
Đến năm 1978, cuốn sách này được Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh tái bản với tên mới Chăm sóc trẻ từ sơ sinh đến 3 tuổi với số lượng in là 10.500 bản, sau khi được một bác sĩ “cách mạng” có uy tín là bác sĩ Trần Hữu Nghiệp thẩm định! Đỗ Hồng Ngọc cho biết: “Về sau, anh Lã Quang Quỳnh [biên tập viên mảng Khoa học của Nhà xuất bản] cho biết: Bác sĩ Trần Hữu Nghiệp khen hết lời, rằng đây là một cuốn sách quý, cần thiết, của một người thầy thuốc giỏi nghề, yêu trẻ, viết một cách khoa học mà nhẹ nhàng v.v… »
Sau đây tôi xin bạo gan lượm lặt đây đó trong các cuốn sách, các bài trả lời phỏng vấn của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc để nêu lên một vài những “sở đắc” trong ngành y của ông.
– Y khoa là một khoa học nhưng cũng là một nghệ thuật. Kỹ thuật y khoa càng tiến bộ thì càng cần hơn tính nhân văn trong y học vì nó đứng trước cái sống, cái chết, cái đau, cái khổ của kiếp người.
– Đa số cáí bệnh là do cái hoạn, cái đau là do cái khổ mà ra. Cuộc sống đầy stress, căng thẳng, tranh giành, được mất, hơn thua… phát sinh từ lòng tham sân si của mỗi người. Nếu có một trái tim biết “từ bi hỷ xả” thì mọi thứ đã khác hẳn.
– Hai thứ “bệnh” “bệnh do từ tâm bệnh chuyển qua thân bệnh” luôn gắn bó mật thiết với nhau. “Bệnh” luôn đi đôi với “hoạn”, cũng như “đau” luôn đi đôi với “khổ” vậy! Khi tiếp xúc với một bệnh nhân, phải luôn tìm hiểu thêm những nỗi băn khoăn, sợ hãi, lo lắng của họ bên cạnh bệnh chứng. Điều trị như vậy mới có thể toàn diện được. Nhiều khi trên lâm sàng rất rõ là bệnh loét dạ dày, bệnh tim mạch nhưng nguyên nhân sâu xa của nó lại là do những stress chất chồng trong đời sống của họ, những ganh tỵ, ghen tuông, những bất an, bất mãn. Một bà mẹ đang cho con bú chẳng hạn mà khổ vì ghen thì sẽ bị mất sữa đột ngột. Bác sĩ cho thuốc làm tăng tiết sữa vô ích, vì phải chữa ở… ông chồng! Một đứa trẻ bị đái dầm, nguyên nhân sâu xa lại là do sự ganh tỵ với đứa em mới sinh, cảm thấy cha mẹ bỏ rơi mình nên kêu gọi sự quan tâm của họ bằng cách… đái dầm như thế! Trường hợp này phải chữa cho cả nhà! Đây là những thí dụ cụ thể để thấy sự gắn bó giữa thân và tâm.
– Tiếng Việt của mình rất hay! Đau khổ. Bệnh hoạn. Cái đau sinh ra cái khổ, cái khổ sinh ra cái đau… Bác sĩ được học để chữa cái đau. Mấy ai quan tâm đến cái khổ của người bệnh đằng sau cái đau đó? Cho nên bác sĩ chỉ biết “đau đâu chữa đó” thì không bao giờ chữa dứt bệnh, hết bệnh này sinh bệnh khác, vì cái “khổ” vẫn ẩn tàng bên trong! Mà cái khổ không dễ chữa chút nào!
– “Truyền thông trị liệu”, “Truyền thông thay đổi hành vi” là một khoa học, bao gồm cả tâm lý – xã hội – nhân chủng (văn hóa) ứng dụng vào ngành y, giúp cải thiện mối quan hệ thầy thuốc – bệnh nhân và nâng cao y đức. Làm sao người thầy thuốc thấy được nỗi khổ sau nỗi đau, để thấu cảm với người bệnh. Một lời nói, một cử chỉ của thầy thuốc có thể làm cho bệnh nặng hơn hay nhẹ đi, vơi đi. Những kỹ năng ứng dụng này phải bằng cái tâm của người thầy thuốc.
– Muốn giải quyết vấn đề này [bệnh ngày càng nhiều, bệnh viện quá tải…], phải giải quyết cái gốc từ xã hội, tức là phải giải quyết trên vấn đề sức khỏe toàn diện chứ không chỉ là vấn đề y tế đơn thuần. Y tế chỉ cung cấp dịch vụ chữa bệnh, còn sức khỏe bao gồm cả môi trường sống, môi trường xã hội và thiên nhiên, cho đến hành vi, lối sống của mỗi cá nhân. Đã đến lúc cần giải quyết trên một bình diện rộng. Một mặt, ngành y tế tổ chức lại hệ thống chăm sóc sức khỏe tốt hơn, mang tính dự phòng tích cực từ cơ sở, nâng cao dân trí để mọi người biết tự bảo vệ sức khỏe cho cá nhân mình, gia đình và cộng đồng. Mặt khác, xã hội phải coi trọng việc đầu tư chăm sóc sức khỏe người dân hơn là tập trung mở thêm nhiều bệnh viện để hứng bệnh tật, tức là chăm lo bảo vệ môi trường, quan tâm giáo dục từ tuổi ấu thơ nhằm thay đổi hành vi, lối sống với các chương trình Nâng cao sức khỏe (health promotion).
Để làm được điều này không thể một mình ngành y tế làm được mà cần có sự phối hợp liên ngành từ cấp cao nhất!
– Riêng vấn đề y đức phải được quan tâm đúng mức, đặt trong hệ thống đào tạo người thầy thuốc tương lai. Rồi đây, quản lý bệnh viện dần dần sẽ là những doanh nhân chứ không phải là bác sĩ, các bác sĩ sẽ chỉ là người làm công tác ăn lương. Y đức như vậy phải được mở rộng cho giới doanh nhân “khai thác” ngành y.
– Nhà nước có một cơ chế để doanh nghiệp sẵn sàng bỏ một tỷ lệ lợi nhuận của họ vào đầu tư sức khỏe cộng đồng. Muốn vậy, phải miễn giảm thuế một phần cho doanh nhân để động viên họ làm nghĩa vụ, trách nhiệm đối với xã hội, chăm lo sức khỏe cho người dân.
– Nói y đức suông mà không có tay nghề thì… hại người ta nhiều hơn, làm người ta “đau” nhiều hơn. Còn giỏi kỹ thuật chuyên môn mà thiếu y đức thì làm cho người ta “khổ” nhiều hơn.
– Suốt một đời sống và làm nghề, Đỗ Hồng Ngọc luôn băn khoăn về sự phát triển của ngành Truyền thông – Giáo dục sức khỏe (health education) và Nâng cao sức khỏe (health promotion). Ngoài chuyện lãnh đạo chưa nhận rõ vai trò của nó trong thời đại “nhiễu loạn” thông tin, gây hại sức khỏe cho con người, dẫn đến bệnh tật triền miên và phải liên tục mở bệnh viện để đáp ứng… còn vấn đề nhân sự của ngành, vì không chỉ cần có kỹ năng, có học thuật mà còn cần đến tấm lòng, vì đó là con đường của y đức và y đạo.
– Không phải vô cớ mà Phật được gọi là Y vương, vì Phật mới chữa được nỗi khổ của chúng sanh! Ta thấy khoa học y học ngày càng phát triển mà bệnh tật vẫn triền miên, ngày càng có vẻ trầm trọng hơn, nguy hiểm hơn. Sức khỏe không phải chỉ là không có bệnh, tật. Sức khỏe là sự sảng khoái (well-being) về cả ba mặt: thể chất, tâm thần và xã hội. Cho nên môi trường sống – môi trường thiên nhiên và cả môi trường xã hội – cũng như lối sống cá nhân quyết định tình trạng sức khỏe của họ. Một người có “tật” như Nick Vujicic đã cho thấy anh là một người có sức khỏe tốt. Trong khi đó, nhiều ca sĩ, tài tử xinh đẹp giàu có ở xứ Hàn xứ Nhật, một hôm tự tử chết vì những bức xúc khổ đau trong đời sống, vì những vấn đề tâm thần và xã hội không tìm ra lối thoát. Các nghiên cứu gần đây cũng cho thấy có từ 60% đến 90% các trường hợp đến khám bác sĩ vì bệnh này hay bệnh khác thực ra đằng sau đó là stress, sự căng thẳng trong lối sống, sự mất cân bằng trong đời sống. Mà bác sĩ chỉ thấy cái bệnh trước mắt, chữa được cái đau trước mắt, không chữa được nỗi khổ sau lưng vì thế mà không thể chữa dứt hẳn “bệnh” được!
– Khi “chẩn đoán” ra cái bệnh khổ của kiếp người là “tham, sân, si” thì bậc Y vương cũng đề ra cách chữa với các thuốc đặc trị là “giới, định, huệ”. Giới để chữa tham, Định để chữa sân và Huệ để chữa si. Tùy bệnh trạng mà phối hợp cả ba hoặc gia giảm nhiều ít. Đây là một tam giác cân, tác động hai chiều, có hiệu quả rõ rệt. Khi người ta bớt đi lòng tham, dứt lòng tham thì sân cũng tắt ngấm, và “huệ” sẽ phát triển, sẽ có được sự “an tịnh trong tâm hồn, hồi phục những bản năng tự nhiên đẹp đẽ của con người” như vốn có…
– Tôi thấy nghiên cứu, ứng dụng và thực tập thiền, làm cho cuộc sống của mình uyển chuyển, nhẹ nhàng, thanh thản, vui sống hơn và hạnh phúc hơn. Nhờ bớt vướng bận, mình dễ sáng suốt hơn, nhờ tập trung tốt và ít hao tổn năng lượng vô bổ, mình dễ có hiệu năng hơn. Riêng đối với sức khỏe cũng thấy được cải thiện nhiều hơn.
– Bớt kỹ thuật, thêm nhân văn.
Nguy cơ lớn nhất của ngành y hiện nay là đi quá sâu vào kỹ thuật và tách hẳn cái thân ra khỏi cái tâm, thậm chí trong cái thân lại chẻ nhỏ ra thành những mảnh thân nhỏ hơn nữa để đi chuyên sâu. Điều đó có lợi về mặt khoa học nhưng lại làm cho con người không còn toàn vẹn nữa. Thật ra thân và tâm không thể chia chẻ được và không thể nào có cái thân mà không có cái tâm và ngược lại: Hai cái đó vốn là một. Với cái nhìn như vậy, những bệnh thường gặp trong xã hội hiện đại chính là những bệnh từ tâm chuyển qua thân. Bệnh do lối sống, do hành vi cũng chính là nó. Một người thầy thuốc khi chữa bệnh cho bệnh nhân, nếu chỉ thấy cái thân bệnh, mà không thấy cái tâm bệnh, tức là chỉ thấy cái “đau” mà không thấy được cái “khổ” của họ thì không thể chữa thành công. Hiện nay ngành y khoa – tâm thể (médecine psychosomatique) dần phát triển trở lại. Các Trung tâm y khoa lớn ở các nước phát triển đã đưa thiền, yoga vào chữa bệnh rất có hiệu quả. Ngành y, trong hướng phát triển tới cần phải quan tâm nhiều hơn nữa về mảng tâm thay vì chỉ quan tâm tới thân như hiện nay!
– Stress là một phản ứng sinh học giúp con người thoát hiểm trước thú dữ, hòn tên mũi đạn ngày xa xưa. Thế nhưng trong thời buổi hiện đại, stress chính là sự căng thẳng trong đời sống, khiến cơ thể lúc nào cũng căng cứng, phòng vệ, không thư giãn được trong một thế giới vật chất đua đòi, đấu đá tranh giành nên tình trạng stress đã âm thầm dẫn tới những tác hại đến thân tâm. Bác sĩ có thể chữa được cái đau trước mắt nhưng cái khổ chập chùng đằng sau thì bác sĩ không quan tâm. Mà con người thì đau và khổ luôn gắn với nhau, cái này sinh cái kia và ngược lại. Hiện nay các dịch bệnh không lây như tim mạch, tiểu đường… có nguồn gốc từ stress như ta đã biết.
– Đối với các bạn trẻ mong muốn chọn ngành y làm con đường nghề nghiệp, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc chia sẻ:
“Rất hoan nghênh các bác sĩ trẻ này. Đây là một ngành đang có nhu cầu rất lớn của xã hội. Nhưng chọn học y là chọn con đường gian nan, hằng ngày trực diện với những nỗi đau nỗi khổ của kiếp người (sanh, bệnh, lão, tử)… Phải thực sự yêu nghề và có năng lực. Nói chung, học y cần có một lý tưởng nhân đạo, một “tiếng gọi sâu thẳm” (vocation) của nghề nghiệp. Nếu học y để mong đầu tư… làm giàu trên bệnh nhân thì không nên! Thực ra học y cũng rất thú vị, nhiều thử thách đòi hỏi trách nhiệm cao. Luôn đứng trước lương tâm của mình. Hạnh phúc rất lớn khi thấy mình sống hữu ích cho gia đình, cho cộng đồng, cho xã hội. Bà con mình thường nói: “Cứu sống một mạng người bằng… lập năm bảy kiểng chùa” phải không”?
– Y khoa là một khoa học nhưng cũng là một nghệ thuật! Ai bảo người nghệ sĩ không yêu nghề, không nghiêm túc còn vị thầy thuốc sao lại không có tâm hồn bay bổng… nhỉ? Dĩ nhiên khi viết về y học thì phải hết sức thận trọng, chính xác và phải luôn luôn quan tâm tới góc cạnh tâm lý xã hội của vấn đề chứ không đơn thuần ở góc độ bệnh lý. Khi làm thơ, viết tùy bút chẳng hạn thì có thể tự cho phép mình bay bổng hơn… Tiếp cận với những cảnh đời, những con người, chẳng phải cũng là một nguồn cảm xúc để cầm lấy cây bút sao? (còn tiếp).
Nguyễn Hiền Đức
(2014)

Để lại một bình luận