Chữ ‘’em’’ trong thơ Đỗ Nghê
Trang Châu
Kể từ thời Thơ Mới, hiếm nhà thơ trong đời làm thơ mà không hơn một lần dùng chữ em trong thơ của mình. Thông thường em là người yêu, người tình của một mối tình, công khai hoặc câm nín, hai chiều hay một chiều. Và hình dáng, màu sắc, âm vang của em cũng đổi thay theo thời gian, theo cảnh huống cùng nỗi lòng nhà thơ.
Tôi biết không nhiều về nhà thơ Đỗ Nghê, bút danh của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Thời tôi làm trưởng ban Thơ cho tờ Nguyệt San Tình Thương của sinh viên Y khoa Sài Gòn, từ đầu năm 1964 đến hết năm 1965, là năm cuối y khoa của tôi, thỉnh thoảng tòa soạn Tình Thương nhận được thơ của anh Đỗ Nghê. Có một bài thơ đã làm tôi nặng trĩu lòng sau khi đọc. Nhân vật trong bài thơ được tác giả trìu mến gọi là em. Nhưng em ở đây không phải là người yêu, người tình mà là một em bé sơ sinh. Em bé đó là ca đỡ đẻ đầu tiên của anh sinh viên Y khoa năm thứ 3 ở bảo sanh viện Từ Dũ. Đứa bé vừa chào đời được anh bác sĩ tương lai dự đoán cho một tương lai không mấy sáng sủa, với khung cảnh máu lửa của đất nước lúc bấy giờ:
“ Anh nhỏ vào mắt em thứ thuốc màu nâu
Nói là để ngừa đau mắt
Ngay lúc đó em đã không nhìn đời qua mắt thực
Nhớ đừng hỏi vì sao đời tối đen
Khi em mở mắt ngỡ ngàng nhìn anh
Anh cũng ngỡ ngàng nhìn qua khung kính cửa
Một ngày đã thức giấc với vội vàng, với hoang mang,
Với những danh từ đao to búa lớn
Để bịp lừa để đổ máu đó em
Khi niềm tin chỉ còn là nỗi đắng cay:
Thôi trân trọng chào em
mời em nhập cuộc
chúng mình cùng chung
số phận…
con người.’’
Bài thơ, ở một khía cạnh nào đó, có thể được xếp vào loại phản chiến vào thời điểm ấy.
Đỗ Nghê bước vào tuổi trẻ đầu nặng đầy thế sự, lòng nghẹn ngào, cay đắng với nỗi ám ảnh tang tóc gây nên bởi chiến tranh. Nhà thơ, xuyên qua người em, chẳng cần rõ trai hay gái, miễn là một em nhỏ, để nhắc nhở, để phụ họa cho thảm cảnh mà chính mình cùng nhân dân cả nước đang chịu đựng:
“ Em khóc đi em, khóc đi rồi anh dỗ
khóc nhiều hơn, khóc nhiều nữa đi nghen
Này tủi nhục với niềm đau nỗi khổ
của quê mình không đáng khóc sao em?“
Tuy vậy vẫn còn chút an ủi: Cái may mắn cho Đỗ Nghê, tác giả mấy bài thơ viết vào dạo đó và cả tôi, người chọn đăng mấy bài thơ ấy, không đứng ở đất phía bên kia.
Sống ở hải ngoại, sau mấy mươi năm, qua các diễn đàn, thấy thơ của Đỗ Nghê tái xuất hiện, bên cạnh những bài viết về Phật học, về thiền, về vô thường, về sắc không, về tứ khổ, diệt khổ. Về thơ, tôi tò mò muốn biết chữ em trong thơ Đỗ Nghê bây giờ đi về đâu. Em bây giờ của Đỗ Nghê có lúc là đại diện cho nhà thơ để anh gởi gắm nỗi niềm nhớ quê của mình:
‘’Em có về thăm Mũi Né yêu
Mười năm như một thoáng mây chiều
Mười năm vườn cũ chim bay mỏi
Áo trắng, chân mềm em hắt hiu.
Mũi Né ơi, người xưa đã xa
Mùa ơi, gió bấc nhớ không ngờ
Năm nay người có về ăn Tết
Có ngậm ngùi nghe chút ấu thơ?“
Mình xa quê hương thì mình nhớ. Người yêu xa thành phố cũ của hai người cũng làm nhà thơ cảm thấy mất mát để luyến tiếc chốn xưa:
``Thành phố nơi ta đã lớn lên
nơi ta hò hẹn buổi đầu tiên…“
“Thôi thế từ nay em sẽ xa
Nửa vòng trái đất cõi người ta
Mai sau dù có bao giờ nữa
Thành phố – lòng mẹ vẫn bao la.``
Tạm rời xa quê hương để đi tu nghiệp ở xứ người, em trong thơ Đỗ Nghê bây giờ là một thứ hương gây mùi nhớ. Cho nên món quà em tặng anh đầy hương vị, không phải hương vị từ em cho anh, mà hương vị qua em làm anh nhớ quê hương:
“Chiếc áo của em
Món quà em tặng
Chiếc áo lạ lùng
Có mùi biển mặn
Có mùi dừa xiêm
Có mùi cát trắng
Có mùi quê hương.“
Em trong thơ Đỗ Nghê ở đây chỉ còn là cái cớ để tác giả từ đó khơi tìm một hình ảnh khác bao la hơn:
“ Tôi sẽ về thăm quê em
Trìu mến tình dân miền biển
Tháng năm nghèo một con thuyền
Sóng khơi suốt đời yêu mến…“
Nhưng rồi cuối cùng Đỗ Nghê cũng phải đi theo lề phải với chữ em muôn thuở là người tình trong tình yêu nam nữ. Thơ tình của Đỗ Nghê thường đằm thắm, kín đáo nhưng cũng có lúc sôi nổi, bạo dạn, đôi khi pha chút lập luận có tính xác suất (probabilité) nghiêng lợi phía mình. Đây không biết có phải là cái tính hay cái tật của mấy chàng “toubib“ làm thơ:
“Lá chín vàng
lá rụng về cội
Em chín vàng
chắc rụng
về anh.“
“Bởi em là riêng anh đó
Bởi anh là của em thôi
Như nắng là riêng của gió
Như biển là riêng của trời.“
Tuy vậy lập luận kiểu có tính xác suất đôi khi cũng đem lại âu lo cho nhà thơ: Nhận được thư người yêu không chịu mở ra xem ngay lại cất giữ mang về nhà mới đọc:
“Về nhà bó gối ngồi một mình
Sờ sờ nắn nắn thơ mong manh
Chắc chỉ đôi lời thăm hỏi vậy
Đọc chi cho thấy lòng buồn tênh.“
Cũng có đôi lúc nhà thơ nghe đời mình trống vắng, cô đơn khi tìm về chốn cũ thấy thiếu vắng người yêu:
“Ta về lối cũ
Nghe lòng lạnh băng
Thiếu em hoàng hậu
Ngai vàng như không.“
Hiếm lắm mới nhặt được một sợi buồn trên mái thơ tình của Đỗ Nghê:
“ Mới đó mà em đã cố nhân
Lòng đau như cắt hiểu gì không
Hoa vàng đã rụng đầy sân vắng
Tình cũng ngùi phai theo tháng năm.“
Nhưng nhìn chung, em mang vào cuộc đời nhà thơ niềm vui, hạnh phúc nhiều gấp bội so với nỗi buồn, nỗi khổ. Chính nhà thơ đã phải thốt lên lời cảm tạ:
“ Cám ơn em đến
Mùa xuân của anh
Hoa vàng nở muộn
Bên trời nắng hanh
Cám ơn em đến
Mùa xuân của anh
Nhịp đời bước chậm
Cho lòng còn xanh.“
“ Cám ơn em năm tháng
đã theo già cùng anh.“
“ Em mang biển mặn
lùa vào tay anh
Em mang rêu xanh
lùa vào ngực ấm
Em mang xuân thắm
lùa vào giá băng.’’
Để mong mỏi sự chăm sóc của người yêu, Đỗ Nghê tỏ ra hơi tham lam:
“Anh không có ngày sinh nhật
nên mỗi ngày
là sinh nhật của anh
Cám ơn em
nhớ đến anh
ngày sinh nhật.“
Nhà thơ còn táo bạo mang cả tôn giáo vào để dẫn chứng tình yêu của mình:
“Em tin có Chúa
ngự ở trên cao
còn anh tin Chúa
ngự ở trong nhau
Đưa em đi lễ
vầng trăng treo nghiêng
Em làm dấu thánh
anh làm dấu em.“
Bạo dạn khi cần nhưng đề cao nàng cũng đúng lúc. Viết tên nàng trên cát rồi nhờ gió cuốn đi, sóng cuốn đi để cho “tên em mênh mông đại dương“:
“Anh vẽ ngoằn ngoèo trên cát
không ngờ mà hóa tên em
Biển xanh, nắng vàng, sóng bạc
không ngờ cùng kéo nhau xem.“
Mặc dù ở đâu đó Đỗ Nghê có phát biểu chê những bài thơ sáng tác thời tuổi trẻ của mình là “nhà quê, na ná thơ tiền chiến. Thơ tình thì chẳng có gì đáng nói.“ Tôi cho đó là lời khiêm tốn của nhà thơ. Tôi nghĩ thơ hay, thì thời nào, dưới hình thức nào nó cũng vẫn hay.
Năm 1965, tôi có làm bài thơ tình ngắn:
“Nếu em không là Hồng, là Mai, là Cúc
thì xin gọi em là em
Người con gái phụng phịu trả lời: Em muốn
anh gọi em bằng… tên anh!“
Tài hoa và tên tuổi như Đỗ Nghê chắc không thiếu gì em xin gọi em bằng tên anh. Nhưng tôi tin người đầy Phật tính như Đỗ Nghê chắc chỉ cho một em lấy tên mình thôi.
Trang Châu
Montréal, 05/03/2024
(NGÔN NGỮ Số đặc biệt Đỗ Nghê – Đỗ Hồng Ngọc, tháng 5-2024)
Houston (Lấp Vò) ngày 19/05/2024
Kính chào bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc,
Theo thiển ý của tôi (một người đọc nhà quê già miệt Lấp Vò), qua bài viết này, tác giả Trang Châu đã đưa ra được cái nhìn khá đặc biệt về thơ Đỗ Nghê qua chữ “Em” rất quen mà nhiều nghĩa…
Và đặc biệt, tôi rất thích câu kết này của tác giả Trang Châu:
“Tài hoa và tên tuổi như Đỗ Nghê chắc không thiếu gì em xin gọi em bằng tên anh. Nhưng tôi tin người đầy Phật tính như Đỗ Nghê chắc chỉ cho một em lấy tên mình thôi.”
Riêng nói về bác sĩ/nhà văn Trang Châu, nhớ có lần qua làm quen và trò chuyện với ông qua email, tôi được biết ông là một nhà văn rất rành về tâm lý phụ nữ và các nhân vật phụ nữ của ông dường như nhân vật nào cũng mang nhiều nỗi bất trắc trong đời sống tình cảm của họ. Chẳng hạn như tôi có lần đã gởi cho ông mấy hàng này:
“Thưa ông Trang Châu,
Đó là nói về ký sự, còn riêng về truyện ngắn của Trang Châu viết sau này, tôi nhận thấy có một điểm chung là các nhân vật nữ trong truyện của ông phần nhiều đều là các người đàn bà có một khoảng đời không suôn sẻ chút nào. Họ có người buộc phải bỏ chồng, hoặc ly dị chồng hoặc chết chồng. Chẳng hạn với Xuyến thì chồng chết vì chiến tranh trong truyện “Chị Xuyến”; với Dì Thu thì bỏ chồng; với nhân vật trong truyện “Người Mang Mùa Xuân” lại ly dị chồng; hoặc như Nhung trong “Bên Bờ Hạnh Phúc” lúc nào cũng nặng mang nỗi ám ảnh khi mình dự tính kết chuyện trăm năm với ai thì người ấy y như rằng sẽ chẳng còn trên cõi đời này; với Tuyết Nga trong truyện “Lời mời bên kia vách tường”, chồng cũng qua đời vì bị bịnh ung thư; với Mai Hương trong truyện “Người Ăn Trưa Trong Xe”, chồng cũng chết và còn nhiều nữa những nhân vật nữ với những mảnh đời không êm xuôi chút nào…; giống như nhà văn Song Thao nhận xét:
“Nhân vật của Trang Châu là những người không dễ gì chúng ta quên được. Họ không có cuộc đời bình thường của những người đàn bà bình thường. Họ thua thiệt trong cuộc sống. Đời họ là những ngang trái, éo le, nghiệt ngã. Một gia đình hạnh phúc, một cuộc sống an lành, một cõi lòng yên ổn là những thứ xa lạ với họ.”(5)
Xin được nêu với ông một câu hỏi rất nhỏ: Ông có thể chia sẻ thêm về cách dựng truyện của mình và vì sao các nhân vật nữ của ông luôn luôn gặp những bất trắc như vậy? Và trong đời sống thật ngoài đời, ông có chứng kiến nhiều cảnh đời bất trắc như thế không?
——————————–
Cước chú:
1/ Trích trong “40 Năm Văn Học Chiến Tranh (1957-1997) của Nguyễn Vy Khanh, Đại Nam xuất bản, Hoa Kỳ, 1997, trang 28.
2/ “Văn Học Miền Nam” (Ký) của Võ Phiến, nhà xuất bản Văn Nghệ (Hoa Kỳ), 1999, trang 2201.
3/ Trích trong bài “Giới thiệu tập truyện Dì Thu của Trang Châu”, tác giả Song Thao, (trang nhà Song Thao)
4/ Trích trong bài “ Đọc Thơ Tuyển của Trang Châu” của Lê Văn, trang nhà Luân Hoán.
5/ Xem cước chú 3 đã dẫn.
Nhà văn Trang Châu (TC) đã trả lời:
Montréal ngày 14 tháng 02 năm 2014
Thưa Ông TL,
Xin lỗi đã hồi âm chậm vì computer tôi bị trục trặc 3 hôm nay. Cám ơn những mỹ ý ông dành cho các tác phẩm của tôi.
Về điều ông hỏi thì tôi xin trả lời như sau:
Những nhân vật trong truyện ngắn của tôi đều có thật ngoài đời, có liên hệ hay không hề liên hệ gì với tôi. Nhưng chỉ thật chừng 30% phần còn lại đều do trí tưởng tượng của tôi dựng nên theo chiều hướng mà mình muốn.
Xã hội và chiến tranh làm tôi thấy những nghịch cảnh nhiều hơn là những cuộc đời suôn sẽ . Tôi chọn những nhân vật nữ vì tôi tin tôi rành tâm lý đàn bà. Tôi có lối kết thúc truyện lơ lững, đóng mà mở bắt người đọc suy nghĩ hoặc phân vân. Mỗi truyện khi tôi thấy trước đoạn kết và ưng ý thì tôi mới bắt đầu viết.
Vài kinh nghiệm xin chia sẻ cùng ông.”
Ngoài ra, được biết, ông Trang Châu trước khi viết văn, ông còn là một nhà thơ, bài thơ đầu tiên ông làm vào năm 1964, bài Bức Họa:
““Trên khung lụa nhỏ
Anh vẽ một ngôi nhà
Cho em và cho anh
Để giữ nét trẻ trung
Anh tô mầu hồng lên vách tường
Mầu xanh lên của sổ
Cửa kính thì khép kín
Vì bây giờ là mùa đông
Nên anh muốn tìm ấm cúng
Trước ngõ vào
Anh vẽ một cây dạ lan
Mà anh yêu mùi hương đêm
Rất nhẹ
Trên một cành cây
Anh vẽ đôi vành khuyên đang rỉa cánh
Anh thích nhìn chúng tự do âu yếm
Hơn là nghe tiếng hót buồn
Tiếc một khoảng trời xanh
Bên thềm nhà
Anh vẽ anh
Ngồi tư lự
Ánh mắt mong chờ
Và nếu em không đến
Anh sẽ bôi đen bức tranh
Để nói lên niềm thất vọng”
Bức Họa.
(Thơ Trang Châu, 1964)
Nhơn dịp này, một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn hai vị bác sĩ Đỗ Nghê-Đỗ Hồng Ngọc và Trang Châu.
Kính chúc nhị vị nhiều sức khỏe, bình an và hạnh phúc.
Trân trọng,
Hai Trầu
(