40 Năm ngày mất của Nguyễn Hiến Lê…
Nhà văn Phụng Hoàng Anh, cháu họ của Nguyễn Hiến Lê ở Hà Nội, nhắn tin tôi sáng nay, nhắc ngày 22.12.2024 là tròn 40 năm ngày mất của Ông Nguyễn Hiến Lê, ở Sai Gòn có hoạt động nào kỷ niệm ông Lê không Bác?
Phụng Hoàng Anh cũng cho biết hiện có bà Tô Lệ Hằng, là cháu ruột của ông Nguyễn Hiến Lê ở Pháp, thỉnh thoảng có thư về cho Phụng Hoàng Anh ở quê nhà.
Tôi muốn dịp này ghi lại một vài kỷ niệm:
Nguyễn Hiến Lê
Con người & Tác phẩm
Năm 2003, nhóm chúng tôi có Trần Văn Chánh, Đỗ Hồng Ngọc, Lê Anh Dũng, Nguyễn Duy Chính, Trần Huiền Ân, Nguyễn Hướng Dương, Lê Ký Thương… đã làm một cuốn sách về Nguyễn Hiến Lê: Nguyễn Hiến Lê, Con người và Tác phẩm. Sách đã tuyệt bản từ lâu. Mới đây, Nhà xuất bản Tổng hợp Tp.HCM đã quyết định cho tái bản cuốn sách này với bổ sung từ các bài viết, phỏng vấn Nguyễn Hiến Lê của Nguiễn Ngu Í, Lê Phương Chi, Châu Hải Kỳ, Lê Anh Minh…
Đã có những nghiên cứu về sự nghiệp của Nguyễn Hiến Lê như luận văn thạc sĩ về “Vấn đề lao động nhà văn trong các trước tác của Nguyễn Hiến Lê” của Nguyễn Ngọc Điệp, do GS Huỳnh Như Phương hướng dẫn và gần đây luận văn nghiên cứu văn hóa, văn học của Nguyễn Hiến Lê” v.v…
Ảnh hưởng Nguyễn Hiến Lê ngày càng thấm sâu trên đất Bắc. Sáu năm trước (2012), tôi nhận được email của một bạn trẻ không quen biết từ Hà Nội, cho biết về chuyến “Hành trình Xuyên Việt vượt 2200km bằng xe máy tri ân thầy Nguyễn Hiến Lê”. Các bạn trẻ đi xuyên Việt bằng xe máy, từ Hà Nội vào thẳng chùa Phước Ân tại Lấp Vò, Đồng Tháp “để thắp hương tri ân tới thầy Nguyễn Hiến Lê”. Email viết: “sách của thầy Nguyễn Hiến Lê viết giản dị, chân thành, là thầy mà cũng như là bạn, chúng con rất vui là đã lan tỏa được sách của thầy tới anh em thanh niên, vì trước đây sách của thầy ngoài Bắc cũng hiếm ạ”.
“…thực ra đối với thanh niên ở ngoài Bắc có thiệt thòi hơn trong Nam nhiều, là ít được tiếp xúc với sách của cụ Lê(…), chân thành mong muốn tri thức Nguyễn Hiến Lê đến gần hơn, giúp đỡ cho thanh niên được nhiều hơn (…).
Saigon, Tp HCM hiện nay cũng đã có một con đường mang tên Nguyễn Hiến Lê. Một cách ghi nhận công lao của một “người Hà Nội” đã sống và làm việc miệt mài suốt nửa thế kỷ ở miền Nam và đã để lại một di sản đáng quý góp một phần không nhỏ vào nền văn hóa nước nhà.
Năm 2018, Nxb Tổng hợp Tp.HCM đã tái bản (có bổ sung) cuốn Nguyễn Hiến Lê, con người & tác phẩm với nhiều tác giả. Trần Văn Chánh đã nhận xét: Từ rất lâu, tên tuổi Nguyễn Hiến lê (1912-1984) đã được nhiều người biết tới như một nhà văn, một học giả, một nhà giáo dục và hoạt động văn hóa độc lập với 120 tác phẩm biên soạn và dịch thuật để đời có giá trị, thuộc mọi lãnh vực khác nhau như giáo dục, văn học, ngữ học, triết học, lịch sử, du ký… Ngoài ra thế hệ hậu bối còn noi gương được ở ông nhiều thứ: gương tự học, tinh thần làm việc nghiêm túc và nhất là nhân cách cao thượng của một người trí thức chân chính.”
Và với riêng tôi, Nguyễn Hiến Lê còn để lại biết bao niềm trân trọng và trìu mến.
ĐHN
***
Ông Nguyễn Hiến Lê và Tôi
Bài Đỗ Hồng Ngọc trên báo Bách Khoa số 426 (17.4.1975)
Tác phẩm đầu tiên của ông, Tổ chức công việc theo khoa học, ra đời năm 1949 nhưng mãi đến năm 1956 tôi mới được làm quen với tên tuổi ông. Còn nhớ lần đó tôi theo xe chở cá nước đá về Saigon “bổ hàng” cho mẹ – mẹ tôi có quán hàng xén tại chợ B.T. – một buổi trưa lang thang trên vỉa hè Trần Hưng Đạo, dừng chân ngắm hàng sách “sôn” bày la liệt, tình cờ thấy cuốn “Kim chỉ nam của học-sinh” của Nguyễn Hiến Lê, một tác giả hoàn toàn xa lạ với tôi lúc đó. Đọc qua lời Tựa, tôi mua ngay.
Tản cư về, tôi bị trễ học đến 4, 5 năm, nhà nghèo, cha mất sớm, tôi phải phụ giúp mẹ trông nom cửa hàng cho nên dù hiếu học, tôi cũng không biết cách nào để tiến thân. May quá, “Kim chỉ nam” đã mở cho tôi một chân trời mới. Đọc xong, tôi thấy mình gần gũi với ông kỳ lạ. Có những điều tôi đã thoáng nghĩ, đã từng làm nhưng vì thối chí ngã lòng, vì không được hướng dẫn nên không đạt được mấy kết quả. Ông đã hệ-thống-hóa, đặt ra những nguyên-tắc giúp cho việc học đỡ mệt, đỡ tốn thì giờ mà được nhiều kết quả hơn. Điều quan trọng là sách trình bày những phương pháp thực hành, không có những lý thuyết viển vông nhàm chán. Thời gian sau đó tôi lại tìm mượn được thêm các cuốn Tự học để thành công, Rèn nghị lực của ông tại nhà một anh bạn làm nghề may.
Với niềm tin mới, tôi bắt tay vào việc lập chương trình “học nhảy”. Tôi viết thư hỏi ý kiến ông về việc này và ông trả lời “được” vì qua bức thư thấy tôi khá già giặn và sức học đã vững. (Trong Kim chỉ nam của học sinh ông đả kích việc học nhảy lớp dữ lắm!). Lúc đó tôi đang theo học đệ thất – lớp đệ thất đầu tiên, mới mở của tỉnh – và tôi đã rất xấu hổ phải ngồi bên cạnh các học trò nhỏ hơn mình 4, 5 tuổi. Nhờ có chí và biết áp dụng những phương pháp học chỉ dẫn trong Kim chỉ nam và Bí quyết thi đậu, tôi đã rút ngắn chương trình Trung-học được ba năm, đuổi kịp các bạn bè cùng lứa. Được bà con khuyến khích, mẹ tôi bằng lòng cho tôi đi Saigon “du học”.
Đến Saigon, việc đầu tiên của tôi là tìm thăm ông, định bụng sẽ báo tin cho ông biết là đã thi đỗ và bày tỏ lòng ngưỡng mộ, biết ơn của tôi ; nhưng khi gặp ông, tôi đã lúng túng không biết phải nói gì, chỉ ấp úng trả lời ông vài ba câu rồi ra về. Thấy ông có vẻ nghiêm nghị quá, lại đang bận sửa bản vỗ cho một tác phẩm nào đó. Như thế là lần này tôi đã hoàn toàn thất bại, cuốn Đắc nhân tâm của ông không giúp tôi được tí gì cả! Từ đó, mỗi lần đến thăm ông tôi thường rất ngần ngại, lúc nào cũng có cảm tưởng như quấy rầy ông, không để cho ông “sống đủ 24 giờ một ngày”. Nhiều người quen biết ông chắc cũng cùng cảm tưởng đó lúc ban đầu. Về sau, nhiều năm trôi qua, quen thân ông nhiều hơn, tôi biết tôi đã lầm lẫn. Phong thái ông là phong thái của một nhà nho, giao tình dù thật thắm thiết thì bên ngoài vẫn có vẻ hờ hững, khác xa với cái vồn vã ồn ào của người Tây-phương. Chính cái ánh mắt ông và cái bắt tay chặt chẽ của ông đã bộc lộ tâm tình ông nhiều hơn. Bây giờ tóc ông đã bạc nhiều, da sậm và nhăn nheo nhiều hơn, nhưng ánh mắt vẫn tinh anh và cái bắt tay vẫn nồng nhiệt như thuở đó. Những lúc đến thăm, tôi thấy ông luôn mặc bộ bà ba trắng nhạt, cũ kỹ quen thuộc, cũ kỹ quen thuộc như loại bì thư ông quen dùng trong bao nhiêu năm qua. Ông không thích đổi thay. Hình như ông hút thuốc hơi nhiều quá! Lúc nào cũng có lon thuốc rê bên mình, ông vừa trò chuyện với khách vừa vấn vấn vê vê điếu thuốc lá, liếm nhẹ rồi bật quẹt hút. Các ngón tay ông nhanh nhẹn, thuần thục đến vàng sậm màu khói. Ông khen Lâm Ngữ Đường là “cận nhân tình” có lẽ vì họ Lâm “bồ” với ông, đã không cấm ông hút thuốc dù cái bao tử của ông cứ đau đi đau lại hoài!
Thỉnh thoảng khi có chuyện thắc mắc, chuyện vui buồn gì mà không tiện đến thăm, tôi viết thư cho ông. Lần nào ông cũng sốt sắng trả lời, ân cần chỉ dẫn, khuyến khích tôi.
Tôi chịu nhiều ảnh hưởng của ông. Cuốn sách đầu tay của tôi Những tật bệnh thông thường trong lức tuổi học trò, chỉ là một phần bổ túc cho cuốn Kim chỉ nam của học sinh. Sau đó tôi viết thêm một cuốn khác, cùng loại y-học phổ thông, cũng nằm trong chiều hướng nâng cao trình độ đại chúng mà ông đã vạch. Ông nói muốn cho nước giàu, dân mạnh thì không phải chỉ một người hay một nhóm người làm được, mà phải là toàn dân cùng ý thức, cùng thực hiện. Muốn vậy phải đặt nặng vấn đề giáo dục đại chúng.
Với tôi, ông là một tấm gương sáng. Tấm gương của Nghị lực, của Tự học và của Phụng sự. Ông tận tụy cả đời viết sách, đem kinh nghiệm bản thân ra hướng dẫn thanh thiếu niên, mong giúp được cho người khác chút gì ; lúc bỏ cây viết ra thì vớ ngay cuốn sách để đọc, để học không ngừng. Tôi đoán sở dĩ ông đã không nhận một chức vụ gì trong guồng máy công quyền là để giữ cho ngòi bút mình độc lập, để có thể đóng trọn vai trò giám sát của người trí thức mà Alain đã nói. Nhờ đó ông không có mặc cảm, thấy điều gì đáng khen thì khen, điều gì không ưa thì nói. Và ông đã nói bất cứ điều gì từ việc dịch sách, chuyển ngữ đến việc nhân mãn, ô nhiễm… Có thể đôi lúc ông cũng sai lầm, nhưng điều quan trọng là ông đã thành thực với chính ông.
Đến nay ông đã cho ra được 100 tác phẩm, có những tác phẩm dày vài ngàn trang, có những tác phẩm 3. 4 cuốn, về đủ mọi bộ môn, từ văn chương, y-học, giáo dục, đến lịch sử, triết học… làm nhiều người kinh ngạc về sức làm việc của ông. Tôi biết có những tác giả “sản xuất” còn nhiều hơn ông, viết mau và viết mạnh hơn ông, nhưng đọc họ người ta thấy rõ ràng là những tác phẩm máy móc, sản xuất hàng loạt. Ở ông thì không. Ở ông là con người. Tác phẩm ông là con người ông. Ông “dạy” cho thanh niên rèn nghị lực thì chính ông là một tấm gương nghị lực ; ông viết về tổ chức thì chính nếp sống ông là một sự tổ chức ; ông viết về tự học thì chính ông đã nhờ tự học mà thành công. Nhờ viết từ những kinh nghiệm sống thực đó, người đọc thấy gần gũi với ông và những lời ông chỉ dẫn đều có thể ứng dụng được.
Nhìn lại toàn bộ tác phẩm ông, không ai chối cãi giá trị của những Đông kinh nghĩa thục, Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười, Đại cương Triết-học Trung-quốc, Ngữ pháp Việt-nam… và những Chiến tranh và Hòa bình, Sử ký Tư Mã Thiên, Chiến quốc sách… Những tác phẩm đó thực sự có ích cho các nhà nghiên cứu, các sinh viên đại học và đã đóng góp một phần đáng kể cho nền văn hóa miền Nam. Nhưng theo tôi, những tác phẩm quan trọng trong đời ông, đáng cho ông hãnh diện chính là những tác phẩm nho nhỏ, ông viết nhằm giáo dục thanh thiếu niên, hướng dẫn họ trong việc tự huấn luyện trí, đức. Đó là Kim chỉ nam của học sinh, Tự học để thành công, Tương lai trong tay ta, Rèn nghị lực… và nhất là bộ Gương danh nhân của ông. Mà họ là ai? Là những thiếu niên thất chí bán hàng xén như tôi thuở đó, là anh thợ may lận đận như anh Chín NS, là một giáo viên tiểu học, một y tá hương thôn, một thơ ký nghèo trong một công tư sở nào đó. Họ là những người có thiện chí, có tinh thần cầu tiến, hiếu học nhưng vì hoàn cảnh mà lỡ dở. Họ là thành phần đông đảo nhất trong xã hội ta bây giờ, một xã hội có vốn liếng hơn ba mươi năm chiến tranh. Nhờ những cuốn sách đó, trước mắt họ mở ra những cánh cửa mới, trong lòng họ nhen lên ngọn lửa nồng, và dù họ có không “thành công” nhiều thì đời sống họ cũng sẽ được nâng cao ít ra là về mặt tinh thần. Thú thực, tôi rất bực mình khi thấy chính tác giả có lần đã xếp những loại sách đó vào hàng thứ yếu. Ông nói “… nhưng chẳng qua cũng chỉ để cho thanh niên đọc (Kỷ niệm Văn-thi-sĩ hiện đại – Bàng Bá Lân). André Maurois 80 tuổi mới viết “Thư ngỏ gởi tuổi đôi mươi”!
***
Mơ ước lớn nhất của đời ông bây giờ có lẽ là được thấy cảnh thanh bình, con cháu đoàn tụ, rồi lui về sống với mảnh vườn ở miền quê. Năm kia tôi gửi ông một bài thơ, bài “Đi cho đỡ nhớ” viết từ nỗi xúc động thấy những chuyến xe lửa lại lăn trên đường sắt, dù chỉ mới lăn đến… Biên Hòa, mà mơ một chuyến tàu nam bắc. Ông trả lời:
“(…) Nhưng cháu làm cho tôi thèm đi quá! A, bao giờ Saigon mới được nối với Hà-nội bằng xe lửa đây? Lúc đó tôi sẽ bỏ hết công việc, nhờ cháu làm revision gérénale cho bộ máy của tôi, rồi lên xe lửa thăm non sông Nam Trung Bắc một lần cuối cùng. Sẽ uống dừa Tam Quan, ăn cam xã Đoài, rồi ăn nhãn Hưng Yên, hồng Bạch Hạc, cốm Vòng v.v…”
Rồi cuối năm ngoái, có lẽ đã đợi mãi, hy vọng rồi thất vọng mãi vẫn chưa thấy thanh bình về trên quê hương mà chiến tranh càng ngày càng thêm thảm khốc, ông viết “Bây giờ tôi chỉ mong được nghỉ ở thôn quê thôi. Hai mươi mấy năm viết lách liên tiếp, chưa bao giờ được nghỉ lấy một tháng (…)” Ý muốn này ông đã lập đi lập lại như một điệp khúc từ nhiều năm qua mà không sao thực hiện được. Cứ nghỉ ít lâu ông lại chịu không nổi, phải cầm viết lại. Ông đã nghiện nặng rồi chăng?
Cuộc đời ông quả thực là một tác phẩm lớn. Tôi ước mong trong tuổi già ông sẽ viết hồi ký, kể lại đời mình cho bọn trẻ chúng tôi đọc như André Maurois viết “Portrait d’un ami qui s’appelait moi” vậy. Tôi là độc giả của ông từ ngày còn là một học trò đệ thất, lại được quen biết ông hơn 15 năm nay, nghĩ lại, nếu trong thời thơ ấu không được đọc những sách đó của ông, không được gặp ông, có lẽ tôi đã khác ; nên tuy không được may mắn học với ông ngày nào, từ lâu tôi vẫn xem ông là một vị thầy của mình, hơn thế, một người thân. Tôi đâu có cần phải nói cám ơn ông!
***
Còn nhớ năm 1978, tôi có dịp lần đầu tiên ra Hà Nội dự một hội nghị về y học. Hà Nội không hề xa lạ với tôi. Tôi như thuộc lòng từng ngõ ngách, từng phiến đá, từng mái tranh gốc rạ, từng phố xá thân quen… cũng nhờ từ nhỏ đã sống với tác phẩm của Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Nhất Linh, Khái Hưng… những buổi chiều vàng, những gánh hàng hoa, những anh phải sống… rồi với cả những người xa Hà Nội như Mai Thảo, như Vũ Bằng… Hà Nội với tôi còn là “Cùng ngước mắt về phương Thăng Long thành cao đứng…” rồi “Hà Nội ơi, hướng về thành phố xa xôi, ánh đèn giăng mắc muôn nơi, áo màu tung gió chơi vơi…” …
Tôi lẻn khỏi hội nghị đến thăm Văn Miếu, lòng lâng lâng như đi giữa ngàn xưa và bỗng nhớ Nguyễn Hiến Lê, nhớ một câu ông viết từ những năm 50 rằng bằng cấp không phải là thước đo giá trị của một con người. Có những người có tên trong văn bia tiến sĩ ở Văn Miếu mà chẳng mấy ai còn nhớ, trong khi những Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Chu Manh Trinh, Tản Đà, Tú Xương… luôn được người đời nhắc đến…
Tôi đến Bưu điện Hà Nội gởi ngay cho ông một tấm bưu thiếp. Chỉ viết mấy dòng vắn tắt. Cũng chẳng hy vọng gì nó đến được trong thời buổi đầy khó khăn này. Vậy mà hơn một tháng sau, Nguyễn Hiến Lê nhận được bưu thiếp và ông trả lời:
Saigon 3/11/78
Thân gởi cháu Ngọc,
Hôm qua tôi được bưu thiếp cùa cháu gởi từ Hà Nội ngày 29/9. Cảm động nhất là câu: “Cháu đến thăm Văn miếu , nghĩ đến bác nhiều”. Tôi hiểu rồi chắc cháu nhớ một đoạn cuối tập Bí quyết thi đậu của tôi. Cảm ơn cháu nhiều lắm. Cháu hiểu tôi. Cháu làm tôi nhớ hồi trẻ tôi học ở trường Bưởi (Chu Văn An) ngoài đó quá. Cháu có xem Hồ Tây, chùa Quan Thánh, đường Cổ ngư (nay là đường Thanh Niên?) không? Trường Bưởi của tôi ở bên bờ Hồ Tây đấy. Mà trường Yên Phụ (tiểu học) của tôi ở trên bờ hồ Trúc Bạch trông ra đường Cổ ngư đấy.
Đứng trên đường này nhìn về phía Bắc sẽ thấy núi Tản Viên, quê tôi ở gần chân núi đó. Nhớ quá đi. Cháu có đi thăm đền Ngọc Sơn, đền Voi Phục, chùa Láng … không? Toàn những cảnh mà hồi trẻ tôi mê.
Mê nhất là cái sắc trời, cái không khí trong trẻo, những làn sương lam nhẹ là là mặt đât, ngọn gió hây hẩy, những lá vàng, làn nước xanh, hương lúa của mùa thu ngoài đó. Toàn là những teintes douces, gợi những tình cảm buồn buồn mà nên thơ, nên thơ lắm. (…)
Nhớ lại trước đó nữa, đầu năm 1974, tôi gởi ông bài thơ mới viết: Đi cho đỡ nhớ, ghi lại cảm xúc của mình trong ngày đầu tiên trên chuyến xe lửa nối liền Saigon- Biên Hòa mà mơ một chuyến tàu Nam-Bắc… Ông trả lời:
Saigon 30/1/74
Cháu Đỗ Hồng Ngoc,
Tôi mới ở Long Xuyên lên. Bài “Đi cho đỡ nhớ” cảm hứng mới mẻ đấy, mà thú. Đọc hoài thơ yêu nhau và nhớ nhau, với thơ chiến tranh, ngán quá rồi. Nhưng cháu làm cho tôi thèm đi quá. A, bao giờ Saigon mới được nối với Hà Nội bằng xe lửa đây? Lúc đó tôi sẽ bỏ hết các công việc, nhờ cháu làm revision générale cho bộ máy của tôi, rồi lên xe lửa thăm non sông Nam, Trung, Bắc một lần cuối cùng. Sẽ uống dừa Tam Quan, ăn cam Xã Đoài, rồi ăn nhãn Hưng Yên, hồng Bạch Hạc, cốm Vòng v.v.. Thèm không cháu?(…)
Ông thường nhắc trong thư cảnh núi Tản hùng vĩ, cảnh ngã ba Bạch Hạc mênh mông mùa nước lớn, cảnh đồng ruộng văng vẳng tiếng sáo diều và thoang thoảng hương lúa, cảnh chợ quê lèo tèo mấy gian cột tre mái rạ với những quán chè tươi… làm tôi cũng nhớ quá!
Cơ hội đã đến với ông. Năm 1979, ông được mời đi dự Hội nghị khoa học toàn quốc về vấn đề Giữ gìn sự trong sáng trong tiếng Việt tại Hà Nội, thế nhưng lần đó ông không đi được vì bệnh. Rồi thôi, không còn dịp nào nữa!
22.10.79
Cháu Ngọc,
Tôi đã bỏ ý ra Hà Nội rồi. Cơ hội tốt, đáng tiếc thật. Nhưng ngại chỗ ở và ăn lắm, cũng ngại cuối Oct. thời tiết lạnh đau bao tử và rhinite trở lại. Cũng còn li do: ông Trương Văn Chình không được mời ra, không hiểu tại sao. Đi một mình, buồn.
(Ghi chú: Trương Văn Chình là người cùng hợp soạn với ông cuốn Khảo luận về Ngữ pháp Việt Nam. NXB Đại học Huế, 1963).
Rồi ông về ở hẳn Long Xuyên, quê hương thứ hai của ông ở miền Nam, ráng viết cho xong các tác phẩm triết học Trung Quốc mà ông nói là “hy vọng còn có giá trị trong vài mươi năm nữa”- và “cũng để bắt đầu óc phải làm việc” cho nó đừng sớm “lão hóa”. Cũng trong thời gian này, ông nói ông băn khoăn không biết có nên viết hồi ký hay không, và, nếu có viết thì sẽ viết những gì. Trong các thư riêng gởi tôi, ông tâm sự như thế và nghĩ rằng có lẽ cũng nên viết chút gì đó chừng vài trăm trang… Thế rồi Hồi ký Nguyễn Hiến Lê cũng như 120 tác phẩm của ông đã hình thành như ta được biết hôm nay.
Những năm cuối đời, ông thường ưu tư buồn bã, mà vẫn khôn nguôi nỗi nhớ quê xưa:
Nhớ lại hồi đó, mới đây thôi mà đã đúng như câu thơ cổ: ”Vạn sự tan như mây khói” cả rồi. Cả cái mộng đi một tua thăm Nam Trung Bắc cũng tan luôn nữa.
Tôi chưa về thăm ngoài đó….
(Long Xuyên 30.7.79)
Ông thường về Long Xuyên, quê hương thứ hai của ông, bùi ngùi nghe lại câu hò ngày xưa:
“… chèo vô Núi Sập lựa con cá khô sặt cho thiệt ngon,
lựa trái xoài cho thiệt giòn,
đem ra Long Xuyên lựa gạo cho thiệt trắng, thiệt thơm,
em về em dọn một bữa cơm
để cho người quân tử
hò ơ… để cho người quân tử ăn còn nhớ quê…” [1]
Với tấm lòng như vậy, dễ hiểu tại sao mặc dù ông có điều kiện để đi xa – vợ con ông ở Pháp từ nhiều năm trước– nhưng ông chọn ở quê nhà, chết ở quê nhà (ngày 22/12/1984), và được hoả táng tại Thủ Đức.
Bức thư NHL viết cho ĐHN năm 1979
Lá thư Thầy Nguyễn Hiến Lê gởi Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc
(Cám ơn anh Hai Trầu, Lương Thư Trung, đã đánh máy lại)
Long Xuyên 20. 7. 1979
Cháu Hồng Ngọc,
Tôi về đây từ 4.6, tính 1.8 mới trở lên Sàigòn. Về để chuẩn bị sang năm sẽ về ở hẳn dưới này: già rồi, nhà tôi muốn ở tại quê hương gần họ hàng, người thân.
Mới nắng được một tuần nay, mà nắng gắt; trước đó mưa liên tiếp ba tuần, buồn quá, không biết làm gì đọc lại báo cũ, số BK cuối cùng 25.4.75. Đọc lại bài cháu viết về tôi, rồi đọc lại bài Bàng Bá Lân ( trong Kỉ niệm nhà văn hiện đại), bài anh Ngư (trong Sống và Viết) và tập Châu Hải Kỳ viết về tôi.
Bài của cháu ngắn nhất mà tôi thích nhất, vì thành thật, tự nhiên, thân mật nhất. Lối viết của cháu cũng giống lối viết của tôi: Sáng sủa, gọn gàng, cụ thể, xen nhiều hồi kí, tình cảm, hấp dẫn. Không có những câu dài lúng túng như một số cây bút trẻ.
Tôi nghĩ cái buổi trưa cháu thấy cuốn Kim chỉ nam của tôi ở trên vỉa hè đường Trần Hưng Đạo đó. Không vì nó là một điểm quan trọng đánh dấu đời cháu mà cũng có ảnh hưởng ít nhiều đến đời của tôi nữa. Trong bảy tám năm nay cháu giúp tôi được nhiều khi tôi đau, nhờ cháu mà tôi biết cậu Hùng – cháu có gặp, cho tôi gởi lời thăm cậu ấy – mà hết được tật và bệnh thận. Rồi bài cháu viết về tôi chắc khiến cho nhiều người hiểu tôi hơn; lại còn những quà như bánh tráng, hột điều, mạch nha mà bây giờ không làm sao có được nữa. Ngon lạ.
Nhớ lại hồi đó, mới đây thôi mà đã đúng như câu thơ cổ: “Vạn sự tan như mây khói” cả rồi. Cả cái mộng đi một tua thăm Nam Trung Bắc cũng tan biến nữa. Tôi chưa về thăm ngoài đó mà cũng không muốn về nữa.
Còn sống ít năm nữa thì rán viết như bắt óc làm việc cho nó khỏi mau suy, và cũng để cho mau qua 24 giờ trong một ngày.
Tôi đã làm gần xong chương trình của tôi rồi: giới thiệu kĩ và dịch trọn hoặc gần trọn tác phẩm của tất cả các triết gia lớn của T.H. thời Tiên Tần: 7-8 bản thảo trung bình 400 trang một. Không biết giữ được bao lâu? 10 năm, 20 năm nữa?Tôi cũng tính viết qua loa (vài trăm trang thôi) hồi kí. B.B Lân đã viết xong 500 trang, Quách Tấn viết cả ngàn trang rồi mà chưa xong.
Nhưng tôi không biết viết gì bây giờ? Viết về hoạt động văn hóa của tôi? Thì các tác phẩm của tôi đó, viết thêm gì nữa?
Viết về đời sống của tôi hồi trẻ? Thì cũng đã lác đác có trong một số tác phẩm của tôi rồi. Viết về bạn văn? Tôi ít bạn văn, chỉ khoảng mươi người, khen họ thì tôi nghĩ nên vắn tắt thôi, không cần viết dài, còn chê thì tôi không có gì để chê!
Cháu nghĩ xem tôi nên viết gì đây? Tôi chưa đọc cuốn Mon ami qui s’appellait moi của A.Maurois mà cháu nhắc trong bài báo BK đó. Ông ta nói gì trong đó? Cháu có cuốn đó không? Tôi sẽ hỏi Lê Ngộ Châu xem có cuốn đó không.
Trong bài cháu viết, có nhắc tới “anh chín NS” thợ may. Nay ông ta vui không? Yên ổn làm ăn được không? Con cái khá không?
Từ 1975 tới nay, tôi vẫn thường được thư của thanh niên, toàn là những cậu mới hay sắp đậu tú tài thì nước nhà thống nhất. Họ vẫn tin tưởng ở sách của tôi. Tôi mong rằng họ sẽ không thất vọng, và tôi thương họ!
À, gần đây cháu có gặp Thầy Từ Mẫn không? Ông Nguyễn Hữu Vị nữa?
Năm ngoái Viện khoa học xã hội sai người (người này quen tôi) lại dò xem tôi còn ở đây không. Rồi mới hai tháng trước một cán bộ quen tôi từ mười mấy năm trước (sơ sơ thôi) cũng lại hỏi tôi có tính đi đâu không. Tôi đáp: Có, tính về Long Xuyên ở cho trọn cái tuổi trời. Họ ra về và chẳng trở lại nữa.
Thư này tôi viết ở L.X nhưng không nhớ địa chỉ của cháu, phải đợi về Sàigòn rồi mới gởi được. Khoảng đầu Aout, chưa biết ngày nào tôi sẽ lên. Xe cộ đi bây giờ mệt lắm mà tốn kém lắm.
Tôi chúc toàn thể gia đình cháu an vui.
Bệnh của nhà tôi bớt nhiều (8/10) rồi nhờ Gasepeline ở Pháp gởi về.
Thân ái,
Nguyễn Hiến Lê
mới mà thấm thoát thoi đưa
40 năm mấy gió mưa nghẹn ngào
cái gì cho chuyện mai sau?
cái gì…rồi cũng là Màu Thời Gian!