Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Tập hợp các bài viết của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Ghi chép lang thang
  • Nhận bài mới qua email

Ngô Nguyên Nghiễm: Đọc “TỬ SINH CA” của Trần Yên Thảo

08/01/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

Đọc TỬ SINH CA của Trần Yên Thảo

Ngô Nguyên Nghiễm

 

Ghi chú: Trần Yên Thảo (Trần Ngọc Minh) là người bạn thiết từ thuở thiếu thời của tôi ở Hàm Tân, Lagi, lúc chúng tôi mới lên 7 lên 8, cùng sống trong vùng tản cư Cù Mi, Láng Găng, Giếng Ngự, Láng Hàng, Bàu Mưa, Rừng Khỉ… cùng sốt rét rừng, cùng suy dinh dưỡng, và thiệt ngộ: cùng viết lách, thơ thẩn… sau này.

Trần Yên Thảo “chuyên trị” lục bát từ những ngày chúng tôi có những tập thơ chép tay truyền nhau. Anh sống như một Ông đạo, râu tóc lênh đênh như vừa ở Núi tuyết Hymalaya về.

Tử Sinh Ca là tập thơ mới của anh, gồm 351 bài thơ lục bát 4 câu, theo tôi là rất “đáng nể”.

Và bài viết của Ngô Nguyên Nghiễm cũng thiệt hay!

Xin đa tạ.

Đỗ Hồng Ngọc.

(7.1.2021)

 

 

Trần Yên Thảo
TỬ SINH CA
Nxb Thanh Niên, 2020

 

Đọc TỬ SINH CA của TRẦN YÊN THẢO

*Ngô Nguyên Nghiễm

 

        Trên lộ vắng, bước di hành vòng quanh mịt mịt trên một không-thời gian hiu quạnh của một kiếp người. Dù muốn thoát thai trở về một bản ngã sáng láng trong một vòng tròn luân hồi, hành giả chắc chắn phải hiểu rằng: Bước đi đốn ngộ chỉ dành cho một bừng ngộ mà a tăng tỳ kiếp mới hạnh ngộ một lần trong sác na đạo pháp.

Thiện căn của thi tập Tử Sinh Ca cũng hy vọng khai hóa, không thể gọi là cơ bản thiền hành cho một căn cơ đạo hạnh, vì tâm thức cũng chỉ còn vướng víu trong hữu vi. Điều chắc chắn, hành giả có ý niệm rải từng đóa hoa vô ưu trên dọc lộ trình đã bước qua, hy vọng như ngọn mộc đăng le lói trong khu rừng tịch mịch, mà người đi sau có lối bước về.

Chính vậy, khách quen chỉ muốn vén màn trên một quan điểm cổ sơ, về ý niệm Sinh Ca và Tử Ca, trong 12 nhân duyên hẹn gặp, dù không biết đến bao giờ thoát được vòng luân chuyển hằng sa?

Khao khát trên lộ trình bước lên bản ngã, hành trang là yếu tính của người lữ hành trong giai đoạn cập nhập vào hướng đạo. Giai đoạn chập chững nhập thân trong những bước sơ khai, tâm trí còn mờ mịt chưa định tâm nhớ quên, thất lạc mảnh trăng cổ đại một thời hữu vi còn không trong rừng già nẻo quê !

Vô tình lạc đến phố hoa, chân còn vướng mê muội giữa thánh phàm, mong một tiếng gọi chân thành từ quá khứ, nhưng bước đường thưa dần, làm sao trở bước lui chân. Hóa ra:

Cầm canh nhịp mõ đều đều

          ban mai nắng đón về chiều gió đưa 

Khiến cho trăm cõi sơ khai còn loạn mù sương khói, nên bước đi của kẻ lữ hành giữa đất trời quang lạnh, phải hiểu vì:

Đèn le lói suốt canh khuya

         xới tung kinh kệ còn chưa vỡ lòng 

       Lẫn trong tiếng gió đêm thâu, mà từ vô thủy đến hiện tại, lão tiều vẫn còn ngẩn ngơ dưới núi. Lạc lỏng giữa đêm về, khách thầm tự nghĩ đã đành Phật chẳng nói gì/ xưa nay báo nghiệp có trì hoãn đâu ( ?).

Chính vậy, chỉ vì cần ao ước giọt nước trên đồng khô, hành giả chợt hiểu và bước đi:

Sơn chưa tận thủy chưa cùng

         giấc Nam Kha đã cháy bùng ruột gan. 

        Lối về không tìm thấy, chân hoang bất chợt mất dấu cội nguồn, nhân dạng thay đổi theo từng bước đi. Thì thôi:

Bèo duyên mấy kiếp lạc bờ

        gậy tre bình bát nương nhờ thập phương

        ngựa về tháo bỏ yên cương

        trên mê lộ hãy còn vương lụy phiền 

Bao nhiêu kiếp nạn vấn vương từ bên kia tả ngạn, nên hành nhân còn ngơ ngác trong mịt mùng bốn phương. Bởi vì, tâm hoang còn lãng đãng trên đường cố lý. Muốn vô tình quên bẵng không màng vướng bận hữu thể, cho quang niên soi rọi được đường đi lối về:

Trăm sông xé nát mạch nguồn

        ………

         Trải đời bất kể gai chông

         thịnh suy chưa tỏ hưng vong chưa tường

        ……..

         Lê la áo rách giày mòn

         tới đây lụy những mối hờn con con

         khi về rủ áo đầu non

         ngoảnh trông dưới núi phấn son dập dìu 

     Mê lộ cuộc tình trần của hành giả, còn trong giai thể ba vá của một tiều tăng. Trên bước hội nhập làm sao sàng lọc tình và lý, khiến cuộc nhập thể đường trường còn nhiều phân vân trước hữu thể:

Long đong mấy bận nổi chìm

         Hết ham bước tới chẳng hiềm bước lui        

Vì rằng, trong cơn ảo giác của người ban sơ bước giữa đạo tràng :

         Phụ phàng đâu phải chơi ngông

         đóa hoa vô sắc nở trong vườn trần      

        Lành thay, chỉ là cơn mơ ảo diệu làm rối tung tâm thức khách du phương, vì hoa vô sắc cũng đâu bằng vô hoa. Nên, hành trình không thể là thi khúc tơ vương lộn mối, nên tử sinh thuyền đã ghé bờ/ hành nhân nấn ná còn chờ tiễn đưa. Tại sao vậy? Thế giới hằng sa, kẻ sơ đạo sao cứ ngoãnh lại nhìn về chân trời sau lưng. Khiến kỷ niệm vẫn là ảo giác hiện thực đã có, nhưng xòe tay ra xem, trong tay còn vướng đọng hình thể gì không? Nên ngồi chưa ấm chiếu vội vàng bỏ đi/ rạch ròi từng sợi lông mi/ cũng chưa thấu được lẽ nghi ngờ nầy. Chính vì vậy, hiễn dụ rõ rằng:

         Mất còn có cũng như không

         nên chi trời đất uổng công hẹn hò

         từ vô lượng kiếp đến giờ

         vượt sinh tử cũng tới bờ tử sinh 

         Trong chương Gót Tục bước vào những thi khúc: 

         Lang thang khắp cõi luân hồi 

         giữa cơn bĩ cực thấy đời đẹp hơn

         đâu cần lánh  ngụy tìm chơn

         thoát ly sinh tử nào hơn kém gì

         ………..

         Cầm bằng công lực kỳ khu

         thách ai ép được lá thu đừng vàng

        ………..

         Quanh đây chiếu lạnh gương mờ

         chuyến đò hóa nghiệp còn chờ đưa ai 

        Ranh giới cõi tục, khiến miếu thiêng quạnh quẽ, quỷ thần đứng dưới mưa mà khóc òa. Sự hoang dại địa giới thổ cư của quỷ thần, lô nhô sắc đá, rơi nhào từng viên gạch rụng giữa  thiên thu. Thì khác gì, mê trận đang bao quanh con người trong trận đồ đầy rẫy gót chân tục lụy còn quanh quẩn nhiều.

       Gót chân sơ thiền như những bước chân sơ khai của trẻ mới lớn, chập chững bước đi tự tại trên từng vuông đất vô tâm, trên từng phiến đá vô tri… Người sơ đạo vẫn còn chập chờn trên gót tục. Từ giáp vòng cũng lộn về đây/dù xưa chẳng hẹn đến nay chẳng hò/ tử sinh cùng đốt một lò/ chòm ong lũ kiến dẹp trò quỉ ma. Quanh quẩn trong tư niệm, nên kẻ còn dạo gót tục trên một không gian tục lụy, ảo giác cho tư tưởng Vốn từ phiến đá vô tri/ dầy công điểm nhãn có khi nhập thần/chẳng qua nhân sự bày đàng/ đẫm mùi nhang khói dần dần hóa thiêng. Chính vì sơ hoang trên gót tục, nên người đi đối mặt kẻ về/ ngu ngơ thiện ác vụng bề cương nhu/ gót phàm lê lết cõi tu/ cần đâu tách bạch xuân thu hai mùa. Còn vương vấn trên bước du hành chưa tròn thiện ý, làm sao chẳng trầm tư hướng tới:

       Đôi lần chùn bước tay du

       phân thân hành giả muốn thu gậy về

       trời tây hối đã gần kề

       nặng vai công đức khó bề thối lui

Chắc chắn là vậy, không thể dừng bước hay phải tìm phương hướng để hoàn tu qua núi khác:

       Một giây chểnh mảng ơ thờ

       đò qua bến khác có chờ ai đâu

       ai còn tưởng vọng bến sau

       khó hơn núi dựng sông sâu mấy trùng. 

Chuyển bước trong chương Những Vì Sao Bỏ Ngôi, bước qua thời dù đã xa bờ người khách lữ dù rằng âm thanh đời trước bây giờ còn nghe, khiến rách y sờn bát hình như mươi năm kinh sách đã trở thành hư vọng:

Cam lòng nhện đứt dây tơ

      từ niên thiếu đã bạc phơ mái đầu

     ……….

      Ta nằm chờ đá đơm bông

      chờ cơn gió núi cảm thông mây trời

    ………..

      Nãn lòng tiếng vạc kêu sương

      còn đôi ba khách hành hương lạc loài

      trăng thì soi suốt dặm dài

      hiềm vì khách đã đi ngoài ánh trăng

     ………..

      Chập chờn bóng quế hồn ma

      lẫn trong tiếng khóc vài ba giọng cười

      miếu thiêng quạnh quẽ lâu rồi

      thần linh chừng cũng kén người khói nhang 

Bước đi thầm lặng trên bến đời, khác gì con thuyền dộc mộc tiền kiếp, vật vã di hành qua các nẻo không gian nhiều thế hệ. Bước tới thế hệ, là bước tới miền tương lai, có một cuộc sống chưa biết rõ. Bước lùi về quá khứ, là trở về với bản lai, thành tụ hoại diệt đã trải qua như một tiền kiếp. Vậy, có thay đổi được gì trong quá khứ hay thành đạt được gì ở vị lai? Vì vậy, những vì sao bỏ ngôi chung quy phải tan biến thế nào vào lỗ đen vũ trụ, để quá khứ vị lai là một thế giới không ngày tháng, cho người hành giả? Vậy là, dễ gì tính sổ ngàn năm/ nợ từ bao kiếp đã thâm hụt nhiều/ chợ tan còn quán với lều/ đời tan, vắng cả cánh bèo trôi sông. Hay là, ước chừng cách chẳng bao xa/ tới khi rạc gót, thì ra ngàn trùng. Nợ từ bao kiếp (quá khứ), rạc gót thì ra ngàn trùng (vị lai)… Tất cả, thời-không bất biến trong cái tụ-thành-hư-hoại có ý nghĩa gì với vô vi. Chính vậy, hành giả có vội gì vượt núi qua đồi/ dựng cao vách đá tạc lời vô ngôn: 

          Nghiêng vai trút gánh quan hoài

          bỏ nơi mắt thấy bỏ ngoài tai nghe 

          đội trời bỏ lớp khăn che 

          bỏ luôn tích trượng bên khe hữu tình 

Để lắng nghe, có muộn gì trăm năm:

        Ngại gì tóc trắng hơn xưa 

        trong vườn diệu pháp mai chưa kịp vàng 

        trăm năm đâu đã muộn màng 

        còn kiên gan đợi đến ngàn năm sau. 

Hành trình bước sang giai đoạn mặc cho sức ngựa đường trường/ cổ lai vạn vật có thường hằng đâu/ bạt ngàn đồng thấp nương cao/ chừng nghe đất dậy lao xao sóng dồn. Chương Lớp Lớp Sóng Đùa, tất cả đều động và người sơ đạo chớp nhoáng nhìn ra cảnh tượng biến dịch trong cuộc sống:

Từng bước lạ giữa đường quen

      trần ai trót đã mấy phen lỗi thề

      vai bao tay gậy cặp kề

      chuyến đò cuối bến biết về nơi đâu

      ……….

      Miệng đời khó tỏ nông sâu

      vần xoay ác thiện lấy đâu nghĩ bàn

      ác nhân trừ kẻ bạo tàn

      thiện nhân cứu kẻ lăng loàn nhớp nhơ   

      ……….

      Suối còn róc rách qua khe

      có ngờ đâu núi đã xê dịch rồi

      chuông khua động dấu chân người

      hồn tu mấy kiếp đã rời đất tu 

     Người du phương bỗng dưng tâm thức hiển hiện, trùng trùng những hình bóng của bản ngã cổ sơ. Một giai đoạn còn khai nguồn trong ý niệm, qua đò trong tiếng réo gọi của thiện nghiệp.Vì vậy, làm sao thoát ra khỏi vòng vây của hữu vi, nên mọi phán đoán thể hiện một thường hằng của thế sự. Ý niệm chơn phương của bước sơ khởi còn mong manh giữa lối đi nẻo về, nên mọi tư hướng còn vắt trên vai một vùng sương muối thế nhân. Phán đoán mặc cho sức ngựa đường trường/ cổ lai vạn vật có thường hằng đâu. Có chứ, nhưng đồng hóa vạn vật hữu vi và vạn vật vô vi, cũng như phân biệt hai thái cực hoàn toàn khác biệt, nhưng cũng chìm đắm trong vạn vật đồng nhất thể. Sự ngổn ngang thế sự nghiêng bầu với ai, hoặc cung tên bỏ mặc bên bờ / mải mê nhác khỉ với trò rung cây. Thì bản lai không còn diện mục, mà thuyền giác đang xoay vòng trong vùng nước xoáy đa mang. Thì ra, một kiếp người du sĩ giữa cánh hạc chân mây trùng trùng bóng núi, tưởng chừng lạ hoắc chưa hề đi qua …

Thoáng đó, ảo giác vẫn bám bụi trần trên gót chân du phương. Trăm bề chụp xuống dầy đặc che kín không gian của kẻ đang đối bóng với vạch mây tìm lửa chân như….Xác xơ trong cuộc nổi chìm / sóng trùng khơi quét sạch niềm riêng tư.

      Cơn nổi chìm xơ xác như thế, có phải chăng ý niệm cho cơn sóng quy hồi:

Lũng sâu giờ đã thành đồi

         tận cùng qui hợp tới hồi phân ly

         dù sung mãn lúc ra đi

         chớ hoang sức ngựa phòng khi trở về

       Dù vậy, chương Nước Động Bóng Rung có lời thầy dặn, lấy nhiêu khê làm thường.Khổ hạnh của  khách du phương, trong thế sự trăm đường oan nghiệt nên ý và lời nhiều khi đùa cợt lẫn nhau: lên non được ý quên lời  / kể gì khổ hạnh một đời chơn tu…

     Một hòn đá cuội đánh võng trên mặt nước dòng sông, từng vòng chu luân hiện lên dầy đặc, rồi từng vòng tròn như luân xa dần dần tan biến trong từng khoảnh khắc hư vô. Chính vậy,

quanh năm thờ thẩn đi tìm / bóng hình tại chỗ sao nhìn không ra/ càng mỏi mắt tận phương xa / thì càng không thấy trong ta có mình. Câu hỏi nghiệm thể từ những tưởng như bất thường trong cuộc đời, thực chất vẫn còn sắp lớp như một thực thể bất biến mà người vô tình không thấy rõ:

Người người nương tựa bóng nhau 

        chen chân lối cỏ vượt bao núi đồi

        đâu đây tiếng vọng không lời

        pháp âm chuyển động lòng người thập phương 

Và như vậy, là:

        Dăm đăm vào cõi không hư

        cố hình dung lại chỗ Như Lai ngồi 

        tòa sen bỏ trống lâu rồi 

        trang kinh còn hiện rõ thời lập ngôn 

    Du sĩ bước vào chánh pháp, mọi tư hướng vật thể buông xã một cách không thương tiếc. Tất cả vay mượn như là chiếc bóng lung linh giữa thiên thu, chập chờn theo ngọn lửa phù hư.

có-không trong nghiệp chứng, là nước động bóng rung hằng sa ảo giác. Vì vậy, đâu còn rào giậu cách ngăn / chẳng còn thiện-ác không phân chánh-tà / khoanh tay đứng giữa ta bà / thản nhiên như cụm tre già bên sông.

Nhìn lại, quả nhiên tất cả hình dáng, âm thanh huyền hoặc giữa không gian cũng thể hiện lòng người, từ tâm ẩn hiện. Chính thế, kẻ du hành trong sơ nguyện cũng có nhiều khi ngơ ngẩn giữa thực hư:

Đắm nhìn trăng nước vu vơ

        lạc trong giấc ngủ bâng quơ đầu hè

        sáng ra chợt thấy e dè

        hình như mới bị bóng đè hôm qua

Ngôn từ phát khởi, cũng là tư hướng của tâm niệm duyên khởi ôn cố từ chương Góp Nhặt Lời Quê:      

         Khắc ghi lời tổ trong tâm

         trước giờ rũ áo về thăm cõi người

         cần đâu mắt biếc môi cười

         cái duyên thầm lặng chết người như chơi

Chắc phải như thế:

        Lá rơi vào cõi vô tình  

        thì đâu cần biết phận mình nông sâu 

        người về hỏi lá phương nao  

        lá không nghe được làm sao đáp lời

        .. ……………

        Vòng sinh tử khéo bông đùa

        hết cơn nắng hạ tới mùa mưa ngâu

        trải từng cội thóc nương dâu 

        lời quê góp nhặt dám đâu dông dài. 

Tư hướng của kẻ du sinh trên bước đường dài hoàn chỉnh bản thể, nhiều lúc cũng thấy thấp thoáng mở rộng vài chiêu thức rao truyền.Trong ngôn ngữ lập thể của mấy ngàn ký tự, dù thế nào cũng chỉ hóa hợp với thiện căn của từng bộ lạc có duyên phần. Vì vậy, ở mỗi không phận đạo pháp chỉ hành xử huyền đạo theo căn cơ phong thổ và tâm linh. Vượt thoát ra ngoại vi đó, chắc chắn là bóng ma ngày trước rập rình / hình như có vạn bóng hình trong ta / vẫy chào ngày tháng đi qua / thản nhiên như một bông hoa lìa cành.

     Thấy gì và nghĩ gì, cũng phiêu du trong vòng hữu hạn có sẵn giữa trời đất cũng thân tứ đại như mình vậy thôi.

Cái hữu hạn của chính bản ngã đã đưa hành giả bước vào vòng quay rao truyền một cách hoang sơ, tưởng tượng hình thái đầy mê tưởng sẵn có giăng đầy ngập trong giả tướng chung quanh. Dĩ nhiên, cái thực vẫn chồng lấp trong cái hư, khiến tâm thức u hoài trông ngóng vô minh:

Có nhà sư trẻ ngẩn ngơ

       tay vin tích trượng mắt lơ láo nhìn

       phấn son ở cõi nhơn tình

       cũng thân tứ đại như mình vậy thôi 

      Vì vậy, nghiệp vẫn được hồi báo như một bản thể sinh tồn vun quén từ vạn cổ kéo dài hàng ngàn kiếp sẽ tới. Nhắc nhở như tự thầm nhủ chính bản thể, người du sĩ chậm bước lê thầm trên hướng bước về nguồn cội của vô vi, gởi lại vài chiếc lá ngôn từ trong cơn gió lạnh phiêu bạt thiên thu:

       Chim xanh đáp xuống vườn lê

       hót rằng vạn vật còn xê dịch nhiều

       nhắn ai sầu sớm lo chiều

       thuyền vô ngạn cũng có nhiều bến sông 

Cố nhân có hồi báo hay không, chắc cũng phải chờ duyên nghiệp. Căn cơ cội nguồn xuyên suốt kéo dài vô tận, là kết quả của nhân quả của vạn thể sinh ra. Người hành giả mang theo trong hành trang, những ý niệm sơ đẳng, gọn nhẹ vài ký hiệu rao truyền. Từ sơ khởi đó, ngôn ngữ phát huy âm điệu, cho ca khúc tử sinh vời vợi thấm sâu vào tư chất người thừa nghiệp sẽ nắm bắt…Chính vậy, đối nhân lời lẽ chưa cùng / hoang mang cái thị ngại ngùng cái phi / nghi ngờ đến cả lương tri / khiến cho tâm sự  thường khi nặng nề…Chương Nước Tìm Chỗ Thấp nói lên điều tự nhiên hoằng hóa trong vô niệm : Thái sơn rồi cũng lạc loài / ích gì mơ tưởng đến nòi trâm anh / tìm người tri kỷ trong tranh … Muốn thành quả như vậy, người du sĩ cũng phải vạch trước một khung trời hoằng hóa ban đầu là: đến từ thăm thẳm tầng cao / đường vô ngại biết nói sao cạn lời / phất tay biệt cả núi đồi / tìm về chỗ thấp vui đời bể dâu…

      Tạo gióng gánh hành trang bước vội trên lộ trình chiêu hóa, dẫn nhập dung nhan cho tròn thị phi, hòa hợp nơi trở về … Đó là những bước tiến hóa độ trì theo cơ địa phong thổ nhân gian lưu xứ, người du sĩ cũng hiểu thâm sâu rằng:    

       Hóa ra về chẳng phùng thời

       sinh cơ lỡ hội lòng người đa đoan

       ngại đời lem luốc dung nhan

       ta bôi bùn đất tự trang điểm mình

      ………….

       Thuận đường về lại chốn xưa

       bến chưa kịp đón đò chưa kịp mời

       lòng mừng rơm rả với đời

       đất xưa dù đã vắng người ngàn xưa 

Nước tìm chỗ thấp, trở thành một cảnh ngộ trở thành người hôm nay tìm tri độ người hôm qua. Người của tiền kiếp đã bước qua thời gian nên không còn duyên ngộ, thuyền qua tả ngạn lâu rồi / ở đây còn nuối tiếc thời chưa xa. Trần duyên như gió thoảng, chỉ ngoái lại thời gian mà nương dấu về: 

       Lênh đênh lời nổi ý chìm

       khuất mờ nhân diện càng tìm càng xa

       dấu người lạnh ngắt tha ma

       khổ bao năm, tạc chưa ra hình hài

       ………… 

Tạc chưa ra hình hài, có thể đã bước qua hai phong cách. Một, là người xưa huyễn hóa theo duyên ngộ từ sơ khởi của một kiếp người, từ hạt bụi ngàn thu mà phủi qua cõi sống mà vọng tu cõi thiền. Hai, là hoại hóa theo luật thừa trừ của tạo hóa tử sinh.

Chương Trăng Tỏ Đường Về, báo hiệu sự huyển hóa như cây khô trốc gốc bao đời / sớm nay chợt thốt mấy lời an cư…

     Tâm nguyện của khách xưa, bản thể mịt mờ, soi trong trăm ánh đuốc. Giữa truông sâu, bao lần nguyệt khuyết, nguyệt tròn … dò dẫm ngỡ ngàng bên lối mòn hành hương. Giữa cái hư và cái thực mờ nhạt trong khuôn sáo của vô thường. Chốn đến và nơi về cũng mờ nhạt dấu tích, phương nầy mai kia còn tìm lại được chút gì hài cốt xưa?

Phàm trần đến cũng như đi 

       rừng hương dệt gấm sá chi vân đài

       chỉ xin tạc dấu phương nầy

       mai kia tìm lại chút hài cốt xưa

      ………….

       Biết mình lạc giữa truông sâu 

       hoa bao độ nở nguyệt bao lần tròn 

       kẻ đi dấu tích đâu còn  

       phí công dọ dẫm lối mòn hành hương

      ………….

       Khắc giờ đảo lộn tháng năm 

       đêm đi, bóng tối còn xâm lấn ngày 

       núi xưa biến đổi hình hài 

       thềm xưa rêu đã phủ dầy hơn xưa 

Từ cái hữu hạn bỗng nhiên phải thầm bước vào mệnh số. Chính thể vô hạn mênh mông, mọi phương hướng đều trôi lạc, như trở về cái hoang vắng tận cùng.

        Quay theo trời đất quay cuồng 

        thần xiêu phách lạc rẫy ruồng đôi nơi 

        cũng vì mộng mị xa xôi 

        đem thân hữu hạn vào nơi vô cùng

        ………….

        Ngại gì trời đất mênh mông

        sông không cách trở núi không bủa rào

        trớ trêu lòng vẫn héo sầu

        đường trăm ngả biết ngả nào cố hương 

Suốt đoạn đường chính lộ của ngày ra đi, từng ngỏ vắng băng qua, từng vườn hoang đón lối, người du sĩ vẫn bâng khuâng mịt mờ giữa lộ trình hướng tới chân như. Giai đoạn nầy, hình như cũng gieo rắc nhiều nỗi nghi ngờ trong tâm thức của người đang đo phương hướng.

Lối về đích vẫn như ảo giác, mờ mịt vô cùng. Nên dù sao, cũng nhiều phen gầy dựng trong lòng khách xưa, cảm thấy cô độc hoang mang bên hướng tới.

Hồ đồ bất kể tây đông

        rẽ bao lối tắt cũng không thấy gần

        hốt nhiên tâm trí bần thần

…………

Ngón đàn chừng đã mất thần

        hoang vu phách tấu lạc dần cung thương

        trông ra trời đã mù sương

        muốn tìm lại bóng thì gương đã mờ 

Quả thật vậy, thánh phàm khi đã tương thông / cõi viên dung có cần mong đợi gì. Đường về trăng đã tỏ, bước viên thông cũng mở được lối thoát ngàn xưa. Người trí không cần khuếch đại tri thức, mà bản thể cũng phiều phen tương ứng hoạt mở cánh cửa không…

Vì vậy, đâu còn ngỡ ngàng gì khi đã mà phải quanh co khi Bước Qua Cầu Sinh Tử, bởi

Khúc sông eo hẹp đã đành / lòng người eo hẹp mới thành trái ngang:     

        Lang thang một góc trời mờ

        trót ham phiêu lãng bây giờ nhớ nhau

        cựa mình từ giấc chiêm bao

        kịp khi tỉnh thức thì mau quay về 

 

        Giữa dòng gác mái buông câu

        nước- mây tự tại cần đâu cõi bờ

        chẳng mong tìm cõi nương nhờ

        không theo lối tục, phớt lờ nẻo tu 

Bỏ lại tất cả bụi hồng trên khoảnh khắc bước lên cầu sinh tử, là chính du sĩ bất chợt cũng hiểu rõ, tứ đại bất chợt lóe sáng như hư không. Những tạo vật chung quanh lối đi như hằng sa cát đá, lót giữa đường cho thưc-hư hỗn mang tụ thành thế giới ta bà. Chân dung ngày xưa sẽ rơi rớt từng mảng vụn trên nẻo đường hiu quạnh bước qua.

Lối đi đã chạm chân tường    

         thì trăm sự cũng hết đường mưu toan

         nổi chìm trong cuộc bi hoan

         làm sao thấy được dung nhan chính mình

 

         Tắt đèn, gởi lại kinh thư

         đêm vô tận, đã hầu như canh tàn

         hành trang gói ghém lìa ngàn

         câu kinh vô tự tiếng đàn vô âm 

Dù muốn dù không, đã bước lên lộ trình tìm cứu cánh giải thoát, thì cầu sinh tử mờ ảo hoa sắc dị hương. Đã thông thấu, nhìn ra trăm cõi hư phù, hư ảnh phù du dù lung linh réo gọi, người khách lữ hành như đã đạt được chút căn cơ. Căn cơ bồi đấp bằng ánh trăng huyền đạo trên đường giao tiếp giữa vạn vật và hư vô. Chiếc cầu ngũ sắc vắt ngang hai bến bờ hữu hình và vô vi, luôn thông thấu một tìm năng cho kẻ đạo hữu phần.

         Nhờ vào cung bậc tri âm

         cũng còn chỗ gởi chút tâm sự thừa

 

         nắng mưa chẳng đợi giao mùa

         hiềm vì phàm-thánh mãi đùa cợt nhau

 

         Bận lòng chi chút hẹn xưa

         gió đem ly biệt, gió đưa trùng phùng

         từ vô thỉ đến vô cùng

         hóa thân với gió chưa từng hoài nghi 

Tuy bước lên cầu sinh tử,  thiện giả vẫn còn đôi tâm thức bâng khuâng bởi chẳng qua thói tục được đuôi quên đầu nên cõi ngưởi vẫn vấn vương như gió thoảng trên lớp y lam còn vương chút phấn bụi sơ nguyên.Vì vậy, quanh đây gió bãi sương đồng / và ta với một cõi lòng quạnh hiu. Phải chăng, giữa phân thể vật chất hiện hữu vướng nỗi băn khoăn vật lý, là sự cô lẻ trong vũ trụ lưỡng nghi, khiến thiện giả bay phiêu hốt trong chân không hư tưởng? Giây phút trên cầu sinh tử, lành thay chợt thức ngộ được rằng:

       Tử sinh đương lúc cận cùng

       ngọn tây phong thổi qua vùng si mê

       đạp phăng xiềng xích ta đi

       ngoài vòng ngoảnh lại nhiều khi giật mình… 

Trên cầu lặng lẽ ngọn gió tử sinh, phủ đạo cho hàng hàng lớp lớp thiện giả. Dù nước vẫn lưu chảy mãi thế nầy, nhưng vẫn cuốn không trôi khỏi không-thời gian chiếc bóng ảo diệu của phi thường đạo. Chiếc Bóng Ngàn Trùng khơi lại nỗi chiêm nghiệm lặng lẽ trong suốt quá trình trôi nổi trên đường sinh diệt. Vì vậy, thiện giả vẫn băn khoăn trong tư hướng của trần tục chưa diệt thoát nẻo phù sinh:

Đành liều thuyền dạt sóng trôi

        con quay hóa chuyển còn vô số lần

        thác thân chưa phú đã bần

        chưa sinh đã diệt chưa gần đã xa

        ………….

        Quản gì đầu núi chân mây

        đôi bờ phúc-họa từ đây nối liền

        ta ôm một nửa buồn phiền

        nửa kia đem vãi khắp miền vô ưu

       …………..

        Du tăng cất bước qua cầu

        bỗng dưng sực nhớ mái đầu xuân thu

        từ ngày nương bóng chân sư

        tóc xanh chẳng biết phiêu du cõi nào

        ………….

        Tạm thời quán trọ qua đêm

        bầy chim én cũ không đem xuân về

        không hành trang,cũng nặng nề

        biết ai mách lối ta về cõi ta 

  Như thế, tư thế hướng ngoại vẫn còn như sương mù giăng mắc rải rác trong không gian tiềm thức. Chân như dù bàng bạc trên lộ trình đi tìm chân thể, thì sự phân cách khốc liệt giữa bản thể và hiện tượng vẫn giằng co hỗn loạn giữa hữu vi và vô vi. Minh chứng, trước ngưỡng cửa qua cầu sinh tử, thiện giả vẫn nhìn chiếc bóng ngàn trùng, mà rằng:

Chiều nay đứng trước ba đào

        hốt nghe tiếng sóng vỗ vào tâm cang

        ý lòng chưa kịp giải phân

        dư âm ngọn sóng đã tan vào chiều 

Trước dư âm ngọn sóng đã tan vào chiều, dư âm mang nhiều tâm thức rao truyền mà thiện giả phủ dầy đặc trên Tử Sinh Ca. Chương Sóng Lòng Chưa Lặng, kết thúc 12 phân khúc Tử Sinh Ca. Nhìn xem tư hướng cuối cùng của một tư tưởng lặng thầm, đành lòng trút hết cho người đến sau: 

        Sóng xô lớp lớp xa bờ

        còn nghe từng đợt reo hò trong ta

        Sóng trùng dương sóng đi xa

        thanh âm réo gọi thì ra sóng lòng

        …………..

        Tình nhà xé nát tim gan

        từ sơ sinh đã lang thang đến giờ

        Tóc xanh rẽ sóng tìm bờ

        bạc đầu còn mãi vật vờ giữa khơi

        ……………

        Về đây mất dấu quê làng

        trải dài cảnh lạ ngút ngàn chân mây

        Nhủ lòng thềm cũ đâu đây

        chẳng qua tâm địa bấy nay lạc loài

        …………….

         Đường trần lắm ngả phân ly

         lòng không an định biết đi hướng nào

         Thác thân nhầm cõi ba đào

         liệu đem sinh tử cấy vào tay ai. 

Trong lớp y quan của thi phẩm Tử Sinh Ca, hình thể lục bát là một tiêu biểu năng lực phù ảo trong thơ của Trần Yên Thảo. Yếu tính phát huy chân tướng thực thể sáng tạo cổ phong, chứa đựng mênh mông bản thể sáng láng huyền nhiệm trong thơ…

 

NGÔ NGUYÊN NGHIỄM

Thư trang Quang Hạnh

Viết xong tháng 6/2019.

……………………………………………………………………………….

*Thi phẩm TỬ SINH CA của Trần Yên Thảo gồm 12 chương:

Giọt Nước Trên Đồng Khô – Du Phương Khúc – Gót Tục – Những Vì Sao Bỏ Ngôi – Lớp Lớp Sóng Đùa – Nước Động Bóng Rung – Góp Nhặt Lời Quê – Nước Tìm Chỗ Thấp – Trăng Tỏ Đường Về – Bước Qua Cầu Sinh Tử – Chiếc Bóng Ngàn Trùng – Sóng Lòng Chưa Lặng.

 

 

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Đọc sách

Nguyên Giác (PTH): Thêm một ngày, học vô cùng

06/01/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

 

Thêm một ngày, học vô cùng
Nguyên Giác
.
Thêm một ngày bạc râu tóc
nhẩm từng chữ gió vô thường
trang sách cũ mỏi gân cốt
nghe thiên cổ lạnh buốt xương.
.
Học vô cùng tâm như nắng
soi khắp cõi chiều rất vàng
đêm Niết bàn vui tịch lặng
ngày Bồ Tát hạnh cưu mang.
.
Thêm một ngày đi rất mỏi
từng bước tâm từng bước thiền
ngồi bên sông, xem mây nổi
thấy không ta, thấy không thuyền.
.
Học vô cùng hạnh như đá
không tham ái, không giận hờn
xây vô lượng cầu huyễn hóa
đưa khắp cõi người qua sông.
.
Thêm một ngày tai mắt yếu
tâm bất hoại sáng như gương
lời Thầy dạy năm xưa hiểu
không một pháp, tâm bình thường.
.
Học vô cùng hạnh như núi
tâm bất động, bão ngàn khơi
tận đỉnh cao khơi dòng suối
chở từ bi tắm muôn người.
.
Thêm một ngày thân cùng tử
muôn kiếp rồi lạc muôn nhà
ngay tâm này Kinh vô tự
Niết bàn tâm chưa từng xa.
.
Học vô cùng hạnh như gió
không từ đâu, không về đâu
nghe sinh diệt từng hơi thở
không hoan hỷ, không ưu sầu.
.
Thêm một ngày nhìn gió nghiệp
nhẫn nhẫn nhẫn tắm vô thường
bạn ghé hỏi chuyện muôn kiếp
có nụ cười, tớ vô ngôn.
.
Học vô cùng tâm chư Phật
trăng đầu núi, hạnh viễn ly
chứng vô ngã, như thị pháp
không một tâm, thế mới kỳ.
.
Nguyên Giác — 1/1/2021

Filed Under: Gì đẹp bằng sen?, Nghĩ từ trái tim

Truyện đọc mùa Noel: DUYÊN PHẬN

27/12/2020 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Ghi chú: Truyện đọc trong mùa Noel.
Tự nhiên thấy chảy nước mắt.
Đa tạ bạn Nguyễn Cầm yksg1969
Do Hong Ngoc
DUYÊN PHẬN
Tác Giả: Fulton Oursler
Dịch Giả: Nguyễn Hiến Lê
🍀 – Ngày cô bé Joan Grace đẩy cửa bước vào tiệm của Pierre Richard thì Pierre là con người cô độc nhất thành phố. Có lẽ hồi ấy các bạn đã được nghe phong phanh câu chuyện đó. Nhưng báo chí không nêu tên mà cũng không kể chi tiết nên hôm nay tôi xin thuật lại tường tận.
Pierre đã được ông nội để lại cho một cửa tiệm bán đồ cổ. Trong cái tủ kính nhỏ xíu anh chất đủ các thứ đồ kỳ cục: vòng, mề đay đeo vào dây chuyền có từ thế kỷ trước, nhẫn vàng, hộp bạc, ngọc thạch hoặc ngà chạm trổ, tượng nhỏ bằng sứ.
Buổi chiều, mùa đông hôm đó, một em gái đứng áp trán vào tủ kính, trố mắt ngó kỹ từng vật cổ lỗ đó như muốn kiếm một vật gì. Bỗng em ngững đầu lên, vẻ khoan khoái rồi đẩy cửa bước vào tiệm.
Tiệm tối tăm mà còn bừa bãi hơn mặt tiền nữa. Có những ngăn tủ muốn sập vì chất quá nặng: hộp đựng tư trang, súng lục cũ không còn dùng được nữa, đồng hồ chuông đèn; còn trên sàn thì chất đống nào là giá để củi trong lò sưởi, đờn măng-đô-lin và những đồ cũ kỹ khó mà phân loại được.
Pierre ngồi ở sau quầy. Mặc dầu mới ngoài ba mươi mà tóc của anh đã hoa râm. Anh ngó cô bé.
Em hỏi:
– Thưa ông, con có thể coi chuỗi ngọc lam bày ở tủ kính không ạ?
Pierre kéo tấm màn, lấy chuỗi ngọc ra đưa cho cô bé xem. Những viên ngọc lam chiếu rực rỡ trong bàn tay xanh xao của anh. Em đỡ lấy, thốt lên lời khen:
– Đẹp quá! Xin ông gói lại thành một gói đẹp cho con.
Pierre lạnh lùng ngó em:
– Có ai sai em đi mua hả?
-Thưa không. Con mua cho chị Hai con. Chị đã nuôi nấng con từ khi má mất. Đây là lễ Noel đầu tiên chị em con được ở gần nhau. Con muốn tặng chị một món quà đẹp.
Pierre nghi ngờ hỏi:
– Em có bao nhiêu tiền?
Em mở khăn tay ra, đổ lên bàn một nắm bạc xu, bảo:
– Con đã đập con heo của con ra đấy.
Pierre Richard ngó em, vẻ trầm tư. Rồi anh ý tứ cầm chuỗi ngọc lên, sợ em trông thấy giá tiền. Nói thẳng cách nào cho em biết được? Cặp mắt xanh đầy tin tưởng của em gợi cho anh nhớ lại vết thương lòng thời trước.
Quay lưng lại em, anh bảo:
– Em đợi một chút nhé.
Rồi vừa lúi húi làm một việc gì đó, anh vừa quay lại hỏi:
– Em tên gì?
– Thưa, Joan Grace.
Khi quay lại thì trong tay anh đã cầm một gói nhỏ bao bằng giấy lụa đỏ và cột bằng một băng lụa màu xanh lá cây. Anh đưa cho em bé và bảo:
– Này, coi chừng em đừng đánh rơi nhé.
Em Joan mỉm cười rạng rỡ, chạy vụt về nhà. Anh nhìn theo, một nỗi buồn mênh mông dâng lên trong lòng. Em nhỏ đó và chuỗi ngọc lam khêu gợi lại một vết thương lòng không bao giờ lành hẳn của anh. Tóc em vàng như lúa chín, mắt em xanh như nước biển; mới mấy năm trước, anh đã yêu một thiếu nữ cũng có mớ tóc đó, cặp mắt đó. Chuỗi ngọc đã tính để tặng nàng.
Nhưng một chiếc cam nhông trượt bánh trên con đường trơn trợt một đêm mưa đã làm tiêu tan ước mơ.
Từ đó anh sống cô độc, ôn lại hoài nỗi khổ tâm. Anh ân cần lễ độ tiếp khách, nhưng ngoài công việc ra, anh thấy đời trống rỗng vô nghĩa một cách khủng khiếp. Lầm lì, không giao thiệp với ai, anh rán quên mà không quên được, nỗi thất vọng như sương mù cứ mỗi ngày mỗi dày đặc.
Cặp mắt xanh của em Joan Grace gợi cho anh hình ảnh người yêu. Vào dịp lễ này, khách hàng tới đông, ai cũng bộc lộ niềm vui làm cho anh càng đau lòng. Khách qua đường bước vào tiệm, chuyện trò, sờ mó các món đồ, trả giá lăng xăng. 
Đêm Noel đã khuya rồi, khi người khách cuối cùng bước ra, Pierre Richard thở phào nhẹ nhàng. Thôi thế là qua được năm nay. Nhưng anh đã lầm.
Cửa thình lình mở ra, một thiếu nữ xông vào. Anh thấy nhói ở tim: thiếu nữ có vẻ mặt quen quen nhưng anh không nhớ rõ đã gặp ở đâu, hồi nào. Tóc cô vàng hoe, mắt xanh thăm thẳm. Cô im lặng lấy trong túi xách ra một gói nhỏ bao vội vàng một thứ giấy lụa đỏ, lại có cả cái băng lụa màu xanh lá cây đã mở ra rồi. Và những viên ngọc lam chiếu rực rỡ trên bàn:
– Chiếc chuỗi ngọc lam này có phải của tiệm ông không?
Pierre ngước mắt lên nhìn cô, nhẹ nhàng trả lời:
– Phải.
– Phải ngọc thật không?
– Nhất định rồi. Không phải thứ ngọc quý nhất nhưng ngọc thật đó.
– Ông có nhớ đã bán cho ai không?
– Bán cho một cô bé. Tên em là Joan. Em mua để tặng quà Noel cho chị Hai của em.
– Giá bao nhiêu?
Pierre nghiêm mặt đáp:
– Tôi không khi nào nói giá tiền khách hàng đã trả cho tôi.
– Em Joan chỉ có ít đồng tiền tiêu vặt làm sao em có đủ tiền mua chuỗi ngọc này?
Trong lúc đó, Pierre vuốt kỹ lại tờ giấy lụa, gói lại chuỗi ngọc. Anh bảo:
– Em đã trả đắt hơn hết thảy các người khác. Có bao nhiêu tiền em đưa tôi hết.
Hai người làm thinh. Cửa hàng bỗng tĩnh mịch lạ thường. Tiếng chuông từ một giáo đường ở gần đó bắt đầu đổ, văng vẳng đưa lại. Cái gói nhỏ đặt trên bàn, vẻ thắc mắc dò hỏi trong cặp mắt thiếu nữ và cảm giác hồi sinh kỳ dị dồn dập dâng lên trong lòng Pierre, tất cả những cái đó đều là do tình yêu của một em nhỏ.
– Nhưng sao ông lại làm như vậy?
Pierre vừa đưa gói nhỏ đó cho cô vừa trả lời:
– Hôm nay là ngày Noel. Tôi bất hạnh không có ai để tặng quà. Cô cho phép tôi đưa cô về nhà và chúc cô một lễ Noel vui vẻ với gia đình nhé!
Thế là trong tiếng chuông đổ hồi, giữa một đám đông vui vẻ, Pierre Richard và một thiếu nữ mà anh chưa biết tên, cùng nhau bước qua một ngày mới đem lại nguồn hy vọng tràn trề trong lòng mọi người.❤️

 

Filed Under: Nghĩ từ trái tim

Chuyến về Đà Lạt cùng Quán Văn

14/12/2020 By Bac Si Do Hong Ngoc 2 Comments

 

Thư gởi bạn xa xôi (12.2020)

Chuyến về Đà Lạt cùng Quán Văn

 

Bạn biết rồi đó. Bậy giờ sao làm biếng tổ rồi. Ngay cả chỉ muốn chuyển hình cho bạn coi chơi cũng làm biếng.

Giờ thì chọn ít hình ảnh coi vui thôi nhe.

Tạp chí Quán Văn của Nguyên Minh thường tổ chức hằng năm vài chuyến đi tỉnh này tỉnh nọ, giới thiệu sách, báo hoặc một “chân dung văn học” tại địa phương cho vui. Lần này chọn Đa Lạt, mùa lạnh.

Mình thì nhiều lần ngại không đi. Tuổi già sức yếu sợ làm phiền “Ban tổ chức”, mặc dù Mỹ Lệ và Đình An rất giỏi, rất chu đáo. Dù sao mình vẫn là người… già nhứt. Sau đó là Nguyên Minh, “chủ xị”, nhỏ hơn một tuổi. Lần này còn có Thân Trọng Minh, Lê Ký Thương, Lê Triều Điển… cũng già bộn rồi. Lại có Hiếu Tân , Nguyên Cẩn… những người từng trải qua những cuộc mổ tim khá … kinh khủng nên chắc đồng bệnh tương lân cả thôi!

Thú vị, lượt đi thì mình được An Bình chuyển cuốn Cảm tạ Văn Chương rất cảm động của Trần Hoài Thư gởi về ĐHN; lượt về thì được Tịnh Thy gởi cuốn Đối thoại giữa Mật giáo và Hiển giáo  do Nguyễn Phố dịch. Dọc đường có sách đọc quên cả đường dài phải không?

À này, bạn nhớ không, cái hình bìa 4 cuốn Cảm tạ văn chương của Trần Hoài Thư là cuộc gặp gỡ giữa “Ngưu Lang Chức Nữ” thời Covid mà mình đã viết mấy câu Cảm đề tặng Thư và Yến từ hôm nọ:

Người đi marchette

Người ngồi xe lăn

Gần nhau gang tấc

Mà như ngàn trùng

Lời lời khấn nghẹn

Sương nhòe mù tăm…

(ĐHN)

 

Phải nói, chuyến về Đalạt lần này (7-10/12/2020) thiệt vui. Có đến gần 50 người chớ ít đâu. Văn nghệ sĩ, cộng tác viên và cả gia đình nên Nguyên Minh gọi là “Gia đình Quán Văn” cũng phải. Có người từ Vũng Tàu, có người từ Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Tiền Giang…

Đến Đalạt chiều 7.12, mưa ào ào. Bỏ chuyến tham quan Cầu Đất Farm, cả nhóm vào Cafe Tùng cho đỡ nhớ.

Nhà trọ Sơn Cước nhìn xuống hồ Xuân Hương.

 

 

Nhiếp ảnh gia MPK nổi tiếng của Dalat… nay mới được người ta chụp ảnh cho vui lắm (ảnh ĐHN)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Ra mắt Quán Văn: Duyên nợ Đà Lạt khá đông.

 

 

 

 

 

 

 

 

Bất ngờ cả bọn nhận được cú phone từ nơi xa xôi gọi về của Lữ Quỳnh. Cảm ơn Internet. Từ trái: Đỗ Nghê, Lê Ký Thương, Lữ Kiều, Nguyên Minh, Ban Mai, Kim Quy (đứng).

 

Buổi tối, chương trình “văn nghệ” rất vui: Lần đầu tiên, Nguyên Minh “xuất tướng” hát “Anh còn nợ em” mà… không khóc! Từ trái: Vân thị Dung, Hiếu Tân, Nguyên Minh, Nghĩa (đứng sau), Quách Mạnh Kha, Đình An (nhạc sĩ) và Ban Mai…

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Tuy chuong trình dày đặc, mình cũng “tranh thủ” đến Trà đàm một chút với Nhóm Thiền ca Hoa sen Dalat (nhạc sĩ Thuần Nhiên Nguyễn Đưc Vinh, người đã phỏ nhạc bài thơ Sông Ơi Cứ Chảy mình viết cho La Ngà dạo nọ).

 

Chịu khó đi xa xa một chút, Đa Lạt vẫn còn đó những nét quyến rũ riêng.

 

Đập Suối Vàng ANKROET. Nhiều bạn trẻ lang thang dưới chân đập, chắc là có một lời nguyền nào chăng?

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Từ trái: Trúc Hạ, Tịnh Thy, Đỗ Hồng Ngọc, Nguyên Cẩn… cafe Hòa Bình trước khi rời Đà Lạt để người về Huế, người về Đà Nẵng, người về Saigon… Hẹn tái ngộ.

 

Bữa cơm chiều với Thân Trọng Minh, Thanh Hằng, Kim Kê, Hiếu Tân, Lê Ký Thương, Kim Quy, Nguyên Minh, Đỗ Hồng Ngọc… Hai bạn già ngồi hong lửa… Tối còn ghé qua Palace nghe Võ Chí Hiền đàn và Thân Trọng Minh thổi Harmonica!

 

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc

(14.12.2020)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Filed Under: Ghi chép lang thang, Vài đoạn hồi ký

Biết rồi còn hỏi

11/12/2020 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Biết rồi còn hỏi!

 

Tôi ngồi trước tượng Phật

Viết lăng nhăng mỗi ngày

Để khi nào bí thì hỏi

Phật tủm tỉm cười

“Biết rồi còn hỏi!”

 

Sáng ra đường phố

Từng bước như đi dạo

Không thấy nở hoa sen (*)

Ngước mắt nhìn lên

Một tấm biển to chữ đỏ

“Đồ ngu cao cấp”

Cửa hàng Fashion

Rơi dấu hỏi…

 

Đâu cần trốn ra khỏi cổng thành

Xóm nghèo nơi tôi ở

Bên phải là nhà bảo sanh

Bên trái là bệnh viện

Đằng kia lớp dưỡng sinh

Đằng nọ nhà quàn vô lượng thọ…

 

Hằng ngày nghe tiếng khóc trẻ con

Nghe tiếng rên người lớn

Tôi nhắc Phật đừng buồn

Không được quạu quọ, không được cau có

Không được nhăn nhó…

Phật cười

“Phải! Nó vậy đó”

 

Đỗ Hồng Ngọc

(4.12.2020)

 

(Nursing House Q7)

Ghi chú: “Nursing House” (không phải Nursing Home) do tôi tự đặt ra để gọi căn nhà nhỏ… dành riêng để chăm sóc cho người già trong gia đình khi ốm đau cần tĩnh dưỡng…

……………………………….

(*) Từng bước nở hoa sen, Nhất Hạnh

Filed Under: Lõm bõm học Phật, Phật học & Đời sống, Vài đoạn hồi ký

Thơ Trần Thị Nguyệt Mai trên TUỔI HOA xưa

01/12/2020 By Bac Si Do Hong Ngoc 3 Comments

 

thơ Tuổi Học Trò trên Tạp chí Tuổi Hoa 

của Trần Thị Nguyệt Mai

 

Ghi chú: Nhắc dến Trần Thị Nguyệt Mai, người ta nhớ ngay đến Trang Văn học Nghệ thuật tranthinguyetmai.wordpress.com với tiêu đề “Xin những tình thân ái/ Còn hoài như hôm nay…” khá phổ biến trong giới cầm bút. “Trang chủ” hiền lành, dễ thương, luôn sẵn lòng làm “Cô cò” (correctrice) giúp sửa morasse bản thảo cho bạn bè, nổi tiếng nghiêm túc, chính xác, ai cũng quý mến.

Lần này, nhờ có anh Hai Trầu Lương Thư Trung vừa làm một cuộc “Trò chuyện với Trần Thị Nguyệt Mai, tác giả các bài thơ trên Bán Nguyệt San Tuổi Hoa Saigon những năm 1970-1975”  mới biết Nguyệt Mai còn là một “cây thơ” ở tuổi học trò xa xưa đó. Xin phép giới thiệu nơi đây vài bài thơ tiêu biểu của TTNM. Chân thành cảm tạ anh Lương Thư Trung và anh Vũ Thất.

Trân trọng,

Đỗ Hồng Ngọc.

(1.12.2020)

 

(nguồn: tuoihoand.blogspot.com)

 

KHI MÙA XUÂN ĐẾN

BÊN TRỜI THÁNG GIÊNG

Những cành lộc mới đùa trong gió
Bé đứng bên trời Xuân, tháng giêng
Nghe lòng một chút hương hoa cỏ
Xanh ngát hồn thơ trổ ý hiền.

LẬP XUÂN

Có con chim én về mừng tuổi
Nắng lụa trải đường cho bé đi
Anh thấy trong mây trời buổi sáng
Mắt bé màu xanh ngát lưu ly…

SUỐI NGỌT

Tặng me một đóa cúc vàng
Khi mùa Xuân đến dịu dàng trong con
Tình thương mãi đậm tim non
Me là bóng mát, suối nguồn bao dung.

Trần Thị Nguyệt Mai

(Tạp chí Tuổi Hoa số 231, Tết Ất Mão, 1975)

 

SẦU MƯA THÁNG HẠ

Rồi mùa hạ trở về cùng bóng phượng
Cùng tiếng ve, cùng mưa ướt đầu mùa
Bé nghe lòng bỗng dưng mà xao xuyến
Dội trong hồn vang vọng mấy âm thưa!

Mưa tháng hạ sao hồn mềm quá đỗi
Bé có hay đã tàn hết cuộc vui
Rồi mỗi người một đời sau trôi nổi
Còn lại chăng chút kỷ niệm ngậm ngùi?

Mùa hạ, lỡ tay chào cách biệt
Thì bé ơi mòn mỏi đến bao giờ
Mùa hạ, lỡ gọi người tha thiết
Những cung buồn rụng xuống cõi hồn thơ…

TRẦN THỊ NGUYỆT MAI

(Tạp chí Tuổi Hoa số 224, 1974)

 

CŨNG LÀ MÙA THU

Khi lá ngoài đường rụng đầy ngõ phố
và bầu trời như thấp xuống – nhiều mây –
mùa thu nào me âu yếm nắm tay
dẫn con gái nón nghiêng che đi học

gió heo may len lén hôn lên tóc
em thẹn thùng nép dưới vạt áo dài
cô bé mang chiếc cặp nhỏ trên vai
và chợt nghĩ mình bây giờ đã lớn!

con đường đi vương đầy sương buổi sớm
những bé như em chúng cũng đến trường
cơ hồ như một niềm vui ngát hương
đang ngự ở trong tim em bé bỏng

ồ trường kia nơi em đang mong ngóng
tí nữa đây me sẽ dẫn em vào
chọn cho con ngồi ngay ở bàn đầu
“me muốn con đầu lớp luôn đó nhé!”

rồi trống trường điểm lên ba tiếng nhẹ
cô giáo bước vào với áo hồng tươi
trên môi cô trang điểm những nụ cười
cô bé thấy thương cô làm sao lạ …

oOo

Và bây giờ khi mùa thu rụng lá
vẫn đến trường lòng vương chút bâng khuâng
cố ngăn đi giòng nước mắt bao lần
em vào lớp, ngôi vị chừ thay đổi

vẫn bảng đen, vẫn phấn còn hương mới
nhưng bàn thầy – chỗ ngồi của em đây
mi mắt sao bỗng dưng lại cay cay
khi nhìn xuống bàn học trò xưa đó

những em bé trước mặt là tập vở
còn thơm mùi giấy trắng thuở ban đầu
nắn nót từng hàng và viết từng câu
bài học mới cô giáo vừa giảng dạy

những gương mặt ban đầu còn ái ngại
len lén nhìn xem cô giáo dữ hiền
(hành động xưa được lặp lại y nguyên)
em bỗng nhớ ngày vàng son thơ ấu …

Trần Thị Nguyệt Mai

(Bán nguyệt san Tuổi Hoa số 208, 1973)

 

HƯƠNG MÙA ĐÔNG 

  • EM, ĐÊM THÁNG CHẠP

    tiếng chuông xa đổ vang rền
    kinh cầu nào nguyện giữa đêm vô cùng
    thấy mùa đông đến bao dung
    em chiên ngoan nhỏ ngập ngừng lễ đêm.
  • ● HÔM QUA

    sương khuya rơi ướt áo vàng
    mùa đông đã đến bàng hoàng tim em
    hôm qua ai bước qua thềm
    thổi vào hồn ngọn gió đêm lạnh lùng.

    ● MƯA ĐÔNG


    cơ hồ ngày tháng vây quanh
    nhớ chi đến thuở lâm hành quan san
    mimosa đã nở vàng
    mưa rơi đủ nhỏ cho hàng lệ sa.
  • ● HOAN CA NGÀY VỀ

    đường khuya gió lạnh buốt vai
    xin lời thánh sủng mãi đầy trong tim
    chim bay về đêm giáng sinh
    cất cao tiếng hót giữa thinh không buồn.

    Trần Thị Nguyệt Mai
    (Tạp chí Tuổi Hoa số 229, 1974)

Filed Under: Gì đẹp bằng sen?, Góc nhìn - nhận định, Vài đoạn hồi ký

Minh Lê: Đọc “VÒNG QUANH” – Thơ Đỗ Hồng Ngọc.

28/11/2020 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Đọc “Vòng quanh” – Thơ Đỗ Hồng Ngọc

 

Một ngày rất xưa, cách đây đã hơn 20 năm, tôi đứng trong hiệu sách Nguyễn Huệ với cuốn sách thật mỏng trên tay có tựa: “Đỗ Hồng Ngọc – Vòng quanh – Thơ” (nhà xuất bản Trẻ 1997). Phải nói ngay rằng tôi không có duyên, cũng không có nợ với… thơ. Cầm sách lên chỉ vì tò mò, bởi tôi rất thích văn Đỗ Hồng Ngọc. Đọc xong vài bài, tôi quyết định khiêng về nhà để đọc cho kỹ. Đọc xong rồi, mỗi lần đọc lại, vẫn tủm tỉm cười.

Như bài Affiche (trang 16) tả cô gái tuyệt trần trên bảng quảng cáo trong hành lang xe điện ngầm ở Paris:

“Có kẻ nào táy máy vẽ chơi

Bôi đen chiếc răng làm cô sún

Có kẻ trời ơi vẽ vời lên rún

Làm cô cựa mình…”

Từ đó về sau, mỗi lần thấy quảng cáo có cô gái đẹp, là tôi lại nhớ tới đoạn thơ này. Một cô gái đẹp răng…sún, lại đang cười mím chi vì…nhột, chà chà, dễ thương tới mức đó làm sao quên được! Bài “Ở bảo tàng sáp Grevin” (trang 60) có chuyện còn ngộ hơn:

“Tưởng người thiệt

Chào, không nói

Tưởng người sáp

Sờ một cái!”

Vỏn vẹn 12 từ, còn ngắn hơn một bài haiku của Nhật, vậy mà thành nguyên một câu chuyện, thậm chí như một bộ phim. Trước mắt tôi có một thi sĩ tha thẩn trong viện bảo tàng, nhìn ngắm tượng và người. Không biết do tượng qúa giống người, hay do người giống…tượng, mà thi sĩ nhìn tượng thành người, nhìn người thành tượng? Suy thêm tí nữa, tượng và người khác nhau ở chỗ có… hồn, cho nên thi sĩ nhìn nhầm như vậy, kể cũng…đúng! Bởi đâu có thiếu tượng có hồn, người lại không có? Thiệt dí dỏm, duyên dáng mà sâu sắc, từ tuy ít mà ý ở ngoài lời.

Bài “Ở Montmartre” (trang 48) tả phố nghệ sĩ ở Paris, nơi nghệ thuật thấm đẫm trong không khí và những con đường lát đá nhấp nhô:

“Con đường là một dòng sông,

Sóng lăn tăn gợn vỗ quanh ghế ngồi…

Ta nhìn xuôi ngược ơ hay

Những làn gạch sóng lắt lay cõi người…”

Có lẽ phải một lần đã tới Montmartre, nhìn các họa sĩ say mê vẽ tranh, nghĩ tới Picasso, Renoir và Van Gogh từng ở đây, rồi nhìn lên nhà thờ Sacré-Cœur hình trái tim trắng muốt ở trên cao, mới cảm được ý tưởng về “sông” và “sóng” của thi sĩ. Cuộc đời như một dòng sông nhiều sóng, sóng to sóng nhỏ, rồi cũng chảy về biển. Dù khó so sánh, nhưng nếu cho tôi chọn, tôi thích hình ảnh dòng sông này hơn là hình ảnh “hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi” của nhạc sĩ Trịnh.

Nhân nói tới nhạc, thơ Đỗ Hồng Ngọc có nhạc, họa, lại có văn:

“Ngõ cũ

Ao xưa

Vầng trăng bạc

 

Lầu văn

Gác tía

Bước chân son.”

(Văn Miếu, trang 42)

Nhạc nằm trong tiết tấu 2-2-3, trong thanh điệu trắc trắc – bằng bằng- bằng bằng trắc của đoạn 1 đối xứng với bằng bằng – trắc trắc – trắc bằng bằng của đoạn 2. Họa tới từ những nét bút rất thoáng vẽ nên cảnh vật, từ bối cảnh bên ngoài “ngõ, ao, trăng” đến mảng hình chính “lầu văn, gác tía” và tâm điểm “bước chân son”. Văn nằm trong ý tưởng ở trong và ở ngoài từ ngữ, người đọc tự thấm và… tự hiểu. Cũng có bài, thi sĩ nói thẳng tưng, kèm theo một nụ cười tinh nghịch:

“Chiều thu

Nghe tiếng quạ

 

Giật mình

Nỗi xa nhà

 

Nhớ sao

Mà nhớ

 

Quá!”

(Thu, trang 34)

Quạ – quá, vần cũng chỉnh mà nghĩa cũng chỉnh. Sao các nhà soạn sách của chúng ta không đem bài thơ này vào chương trình lớp 1 cải cách nhỉ, khỏi phải khổ sở sửa tới sửa lui truyện của người khác cho mệt óc?

Ngày xưa, Phật giơ cành sen lên, ngài Ca Diếp mỉm cười vì ngài đã ngộ. Tôi, vốn rất không có duyên nợ với thơ, nhờ cành sen “thơ Đỗ Hồng Ngọc” mà ngộ ra một chút về thơ. Mà cũng cùng những bài thơ đó, cái “ngộ” của tôi bây giờ đã khác 20 năm trước. Xin cám ơn thi sĩ Đỗ Hồng Ngọc!

 

Minh Lê (Suối Tiên 11/2020)

 

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Vài đoạn hồi ký

Thư gởi bạn xa xôi (11.2020)

22/11/2020 By Bac Si Do Hong Ngoc 1 Comment

 

Thư gởi bạn xa xôi (11.2020)

Lâu quá chẳng thư từ gì cả, bạn  trách là phải. Bây giờ chỉ biết xin tạ lỗi bằng cách lai rai kể vài ba chuyện cho vui thôi nha.

  1. Ở Việt Nam có Ngày Nhà Giáo 20.11. Cũng hay. Nhờ có ngày này mà mình có dịp gặp lại mấy em học trò cũ, có dịp hàn huyên với nhau. Nhiều khi cũng chẳng nhớ em nào với em nào, vừa giới thiệu tên tuổi xong đã quên ngay. Thì ra tuổi 80 cũng sắp vào tuổi alzheimer rồi thì phải. Dù sao cũng rất vui gặp các em hiện là đồng nghiệp trẻ, cùng Bộ môn ngày xưa do mình phụ trách ở ĐHYK PNT. Có thầy Trương Trọng Hoàng, các em Lê Thành Tân, Kiều Chinh…  Rồi gặp cả một đồng nghiệp trẻ, mới hơn 70 là GS Võ Văn Thành bàn bên chạy đến bắt tay chúc mừng “đàn anh” cũng thật cảm động.

 

 

2. Rồi có em hỏi thầy muốn đi thăm đâu nữa không, em đưa đi. Mình nói thầy nhớ… Bình Quới quá, nhớ Đỗ Trung Quân, nhớ Cao Lập và nhất là nhớ Quán Hội Ngộ của Trịnh Công Sơn… không biết giờ ra sao.

Bình Quới đây rồi! Nét đồng quê Nam bộ còn đó, còn có tiếng hát tiếng hò, còn có bến thuyền, cầu khỉ… nhưng mọi thứ đã xuống cấp trầm trọng, lưa thưa du khách , hình như cả khu vực Bình Quới ngày nào sắp… vươn vai phù đổng thành những khu đất vàng với những building ngất ngưỡng. Đặc biệt Quán Hội Ngộ của Trịnh Công Sơn thì hoang phế ngậm ngùi… .

Chỉ xin ghi lại một vài hình ảnh.

 

Hẹn thư sau.

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc.

Filed Under: Ghi chép lang thang, Vài đoạn hồi ký

Nguyên Giác: Đọc “NHỮNG BÀI VIẾT VỀ THƠ ĐỖ HỒNG NGỌC…”

09/11/2020 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

 

ĐỌC TUYỂN TẬP
“NHỮNG BÀI VIẾT VỀ THƠ ĐỖ HỒNG NGỌC…”

Nguyên Giác

 

 

Đó là một tuyển tập nhiều người viết. Tên đầy đủ của tuyển tập này là “Những Bài Viết Về Thơ Đỗ Hồng Ngọc (Đỗ Nghê): Như Không Thôi Đi Được…!” Sách phổ biến trong dạng e-book, chủ yếu để tặng.

Các tác giả trong tuyển tập — Ngô Nguyên Nghiễm, Đỗ Trung Quân, Trần Vấn Lệ, Ý Nhi, Lam Điền, Huỳnh Như Phương, Thu Thủy (Võ Phiến), Lữ Kiều Thân Trọng Minh, Nguyễn Thánh Ngã, Phat’s Blog, Đỗ Hồng Ngọc, Hồ Đình Nghiêm, Nguyễn Thị Khánh Minh, Nguyễn Thị Tịnh Thy, Lương Thư Trung, Lê Uyển Văn, Thy Ngọc, Tô Thẩm Huy, Huỳnh Ngọc Chiến, Phan Chính, Lê Ngọc Trác, Du Tử Lê, Elena Pucillo Truong, Phan Tấn Hải, Luân Hoán — đưa ra những ghi nhận về thơ Đỗ Nghê, hay dịch môt số bài thơ của họ Đỗ…

Một cách đa dạng, các nhận định nhiều tác giả đã cho thấy một chân dung đầy đủ hơn về bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, cũng là nhà thơ Đỗ Nghê. Trong đó, các nhà phê bình nhìn Đỗ Hồng Ngọc như một người làm thơ và viết văn để hiển lộ ra các tư tưởng Thiền vốn đã ẩn kín trong dòng chảy vô thường của đời sống, nơi người sống phải vật lộn với cái chết trong các bệnh viện, nơi đời sống hé lộ trên chiếc bàn sản khoa, nơi đau khổ không ngưng tiếng khóc nơi các nhà quàn phía sau bệnh viện… và nơi đó, thơ là chiếc thang tựa vào mây để bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc leo từng bước lên trời…

Tuyển tập này thực hiện với hỗ trợ của nhà nghiên cứu Nguyễn Hiền-Đức (thường được bạn hữu thân mật gọi là anh 5 Hiền), và được Đỗ Hồng Ngọc ghi chú là: “’Như Không Thôi Đi Được’ là những bài viết về Thơ Đỗ Hồng Ngọc (Đỗ Nghê) do tôi gom góp như một “Tệp tuyển” (Bản thảo) đọc vui trong những ngày tháng “Về thu xếp lại” này, một kỷ niệm rất riêng tư và chỉ mong được chia sẻ cùng những bạn bè thân thiết…”

Nơi đây, xin phép trích lời các nhà văn trong tuyển tập này.

— Ngô Nguyên Nghiễm: Như không thôi đi được…, trích một vấn đáp phỏng vấn:

“Ngô Nguyên Nghiễm: Hình như tản văn viết về y học dưới bút pháp Đỗ Hồng Ngọc lại là những tác phẩm văn chương tuyệt diệu. Anh có xem cả hai như một khối duy nhất? Vì sao?

Đỗ Hồng Ngọc: Hình như trong tôi có sự lẫn lộn nào đó.  Thân và tâm đâu có tách rời. Sắc thọ tưởng hành thức vẫn là một. “Ngũ uẩn giai Không” mà! Tôi không biết cách nào phân biệt rạch ròi hai lãnh vực nầy. Tại cái “tạng” nó vậy. Người đọc thơ tôi bảo “đời thường” quá, không có gì bay bỗng tuyệt vời cả, người đọc tạp văn tôi lại bảo cứ như thơ…” (trang 9)

— Đỗ Trung Quân: Tựa Giữa Hoàng Hôn Xưa…, nơi đây Đỗ Trung Quân nói tới thơ Đỗ Hồng Ngọc thâm cảm về một Khổ Đế bất tận trong trần gian, trích:

“Cái nỗi buồn rực rỡ, nỗi cô đơn tuyệt đẹp ấy của bất cứ ai như anh – Đỗ Hồng Ngọc. Đời sống vốn nhiều bất trắc đã bớt bất trắc hơn. Khổ đau cũng có thể mọc lên những bông hoa đẹp đẽ. Tuyệt vọng bỗng có vẻ đẹp riêng. Và đời sống vẫn vĩnh cửu ở một chiều không gian khác. Như vậy, cuộc đời và nhà thơ – Ai sẽ phải cám ơn ai vậy?” (trang 13)

— Trần Vấn Lệ: Cảm Nhận Về Thơ Đỗ Hồng Ngọc… nhà thơ họ Trần đọc thơ họ Đỗ và cảm nhận thấy những trận gió Bấc quê nhà thổi trên các trang giấy, trích:

“Thơ Đỗ Hồng Ngọc / Đỗ Nghê không rườm rà, không làm duyên làm dáng, không lập dị. Thơ ông là Thơ Hồn Nhiên, Thơ Nhã Nhặn, Thơ Ngọt Ngào.  Tôi đọc thơ ông rồi úp cuốn sách lên ngực nghe ấm… Gió Bấc đang thổi ở quê nhà, ngày Xuân đang đến không riêng ai…” (trang 14)

— Ý Nhi: Đọc Anh,Tôi Chưa Khi Nào Có Cảm Giác Ngờ Vực… Nhà thơ Ý Nhi nói rằng đọc thơ Đỗ Hồng Ngọc là cảm nhận các tình cảm rất mực tin cậy. Trích:

“Thơ Đỗ Hồng Ngọc là thơ của sự  chân thành. Từ những bài thơ tình cảm viết cho cha mẹ, vợ con, bạn bè đến những bài thơ thế sự viết về đất nước, quê hương, từ những chuyện đời thường đến những chuyện cao siêu, những câu hỏi không lời đáp… Đọc anh, tôi chưa khi nào có cảm giác ngờ vực. Sau căn bệnh ngặt nghèo, Đỗ Hồng Ngọc đã viết bài thơ rất hay Xin cảm ơn. Tôi nghĩ, những độc giả của anh cũng cần nói lời cảm ơn anh, bởi chắc chắn, anh đã góp phần giúp chúng ta thanh lọc tâm hồn mình, giữa đời sống nhiều bụi bặm này.” (trang 15)

— Lam Điền: Chu Hy Xưa Kia Từng Gọi Rằng “Như Không Thôi Đi Được”… Nhà phê bình Lam Điền nhìn ngược về chiều dài hơn nửa thế kỷ làm thơ của Đỗ Hồng Ngọc. Trích:

“…từ những tác phẩm đầu tiên trình làng hồi thập niên 1960-1970, Đỗ Nghê đã có một kiểu duyên ngầm trong những bài thơ tượng thành từ sự bùng phát của cảm xúc hay ông tự chưng cất những suy tư đến cái độ mà Chu Hy xưa kia từng gọi rằng: như không thôi đi được.” (trang 16)

— Huỳnh Như Phương: Đỗ Hồng Ngọc: Thơ Ẩn Hiện Giữa Đời… Nhà nghiên cứu văn học họ Huỳnh nhìn thấy tư tưởng Thiền đã nằm sâu trong thơ họ Đỗ, và dẫn ra 4 dòng thơ rất Thiền. Trích:

“…ý hướng thiền học và cảm xúc tâm linh đã ươm mầm trong thơ Đỗ Hồng Ngọc từ rất sớm. Nhưng phải qua những trải nghiệm nào đó về cuộc đời, người ta mới có thể nghĩ sâu về Tâm kinh như tác giả Nghĩ từ trái tim. Cũng như phải đạt đến một sự hòa hợp nào đó giữa “ngã” và “tha”, người ta mới viết được những câu thơ như Đỗ Hồng Ngọc:

Hội An còn ngái ngủ
Mái chùa ôm vầng trăng
Giật mình nghe tiếng chổi
Gà gáy vàng trong sương.” (trang 24)

— Thu Thủy (Võ Phiến): Thơ Đỗ Nghê…  Võ Phiến là một Thái Sơn Bắc Đẩu của văn học, Nơi đây, Võ Phiến nhìn về các trang thơ họ Đỗ, nơi có nhiều hình ảnh bom đạn, chết chóc, nhưng nhà thơ lại có văn phong rất mực từ bi ân cần với cuộc đời. Trích:

“Lời thơ không chút gì cầu kỳ, đọc lên lại nghe có vẻ quen quen như từng gặp ở đâu đó. Thế mà những lời giản dị quen thuộc đó lại làm ta xúc cảm, bâng khuâng. Ấy chính bởi cái vẻ chân thành, cái đôn hậu tỏ từ tấm lòng người thơ. Họ Đỗ nói đến chiến tranh, nói đến bom đạn, đến chết chóc, đủ mọi thứ đáng khiếp đáng hãi; nhưng không một lần nào lời thơ có vẻ ác liệt bạo tàn. Không thể tìm ở đâu ra trên đời này một con người hiền lành hơn.” (trang 29)

— Lữ Kiều Thân Trọng Minh: Vài Dòng Sau Một Tập Thơ… Nhà thơ Lữ Kiều cũng là một bác sĩ, bạn học của nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc. Họ quen từ trường Đại học Y Khoa, cùng viết cho báo trường, cùng chia sẻ các cảm xúc thời quê nhà rất mực sóng gió. Lữ Kiều nói rằng các số báo trong sân đại học khi thiếu thơ họ Đỗ là một trống vắng lạ lùng. Trích:

“Và điều quan trọng là anh làm thơ. Thơ anh cũng giống người anh vậy. Hình như chúng ta chỉ bắt đầu thân nhau, khi cùng làm báo Tình Thương; những bài thơ anh ký Đỗ Nghê xuất hiện trên tờ báo của trường, những bài thơ, thoạt đầu không gây một chú ý nào quan trọng. Nhưng về sau, những số báo thiếu thơ anh, cho tôi cái cảm tưởng trống vắng điều gì đó. Điều gì? Phải chăng là nét đặc thù của thơ anh. Tôi phải diễn đạt thế nào cho đúng?” (trang 31)

— Nguyễn Thánh Ngã: Viết Gửi Những Cụ Già Ở Montreal… Họ Nguyễn viết rằng có những bài thơ của họ Đỗ nghe y hệt kinh, và đặc biệt là bài thơ Đỗ Nghê tặng một em bé sơ sinh nghe tuyệt hảo như một kinh thơ để thai giáo. Trích như sau:

“Đỗ Nghê thi sĩ tên thật là Người Cầm Ống Tiêm. Đối tượng Trẻ Sơ Sinh. Trong cái sát-na rung cảm chàng dám đại diện cho Đời giới thiệu cho “tính bổn thiện” số phận Con người thông qua ngũ uẩn. Bé Sơ Sinh ơi, Ngươi là đứa bé nào ở  không- thời- gian  Từ Dũ-1965 mà diễm phúc vậy. Mới sinh ra liền được nghe Kinh Bát Nhã? Tôi lăn lộn ba đường sáu nẻo giờ mới được nghe lẫn lộn giữa ngộ -mê dày cộp. Sao có thể hiểu được điều gì. Ngươi mới là được nghe cái nghe tuyệt hảo, cái nghe nguyên vẹn gần như là thai giáo- một thứ kinh thơ bất tuyệt giữa chào đời…

Trân trọng chào em
mời em nhập cuộc
chúng mình cùng chung
số phận
con người…” (trang 50)

— Nguyễn Thị Khánh Minh: Đỗ Hồng Ngọc, Lang Thang Nghìn Dặm Trái Tim… Nhà thơ nữ họ Nguyễn nói rằng các trang sách của họ Đỗ không để đọc một lần, vì trong thơ họ Đỗ là Kinh Phật, là Thiền… Trích:

“Và ngay lúc này, khi tuổi đang vào lúc đi xuống đồi ngắm mặt trời hoàng hôn, qua những đớn đau bệnh tật, tôi tập tành tu dưỡng, đến với Thiền Và Sức Khỏe, để học biết được Thiền định qua cách thở. Đến với Nghĩ Từ Trái Tim, xem thiền giả kia lắng nghe mình ra sao sau khi qua đường ranh sống chết, và trái tim đã mở con đường dẫn người đến Tâm Kinh Bát Nhã.  “Ngẫm nghĩ rồi nghe ngóng. Nghiền ngẫm rồi ngập ngừng…”. Tôi hình dung được nỗi miệt mài tìm hiểu nghiêm túc này. Và đó là điều cần để đi vào hành trình gian nan ấy. Cái gian nan tủm tỉm một mình… thiền hành mỗi phút mỗi giây. Cũng như những lúc say đọc Gươm Báu Trao Tay. Viết, luận về kinh với một văn phong như thế thật đã kéo được người đọc ngồi lại với mình để nghe như to nhỏ chuyện trò. Ông dùng hình ảnh trong Chinh Phụ Ngâm, Chín tầng gươm báu trao tay / Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh… ví von thanh gươm báu Kim Cang trao cho người thiện tâm để truyền bá đạo giải thoát chặt đứt mọi khổ nạn kiếp người. Với những sách như thế đâu chỉ đọc một lần.” (trang 75)

— Nguyễn Thị Tịnh Thy: Yếu Tố Bất Ngờ Trong Bài Thơ Bông Hồng Cho Mẹ…. Về một bài thơ hay dị thường, và rất ngắn, chỉ 4 dòng, của họ Đỗ. Trích:

“Bông hồng cho Mẹ của bác sĩ – thi sĩ Đỗ Hồng Ngọc là một bài thơ hay về mẹ. Hay đến mức nào? Hay đến mức lặng người, lạnh người. Hay đến mức phải gọi đó là tuyệt tác. Và tuyệt tác này xứng đáng được hiện diện trong tang lễ của những bà mẹ. Bởi vì Bông hồng cho Mẹ là một cách viếng mẹ, khóc mẹ vô cùng đặc biệt – đầy uyên áo nhưng rất đỗi giản đơn. Bài thơ được viết theo thể tứ tuyệt ngũ ngôn, chỉ vẻn vẹn bốn câu, hai mươi chữ nhưng đủ để khiến người đọc có nhiều phức cảm buồn vui, thấu đạt lẽ sinh tử, cảm ngộ điều được mất… để có thể tỉnh thức, an nhiên trước sự nghiệt ngã của quy luật sinh ly tử biệt.

“Con cài bông hoa trắng
Dành cho mẹ đóa hồng
Mẹ nhớ gài lên ngực
Ngoại chờ bên kia sông…”(trang 85)

— Lê Uyển Văn: Đôi Dòng… nơi đây, nhìn thấy trong thơ họ Đỗ như hoa nở muộn bên trời hanh nắng. Trích:

“Thật sự, không có gì thâm sâu, bí hiểm cả, chỉ là niềm cô đơn thầm kín, nỗi buồn rực rỡ của xưa xa nhưng làm cho đời sống “bớt bất trắc hơn”, “tuyệt vọng bỗng có vẻ đẹp riêng” như bông hoa nở muộn mằn bên trời hanh nắng.” (trang 95)

— Thy Ngọc: Bác Sĩ Nhà Thơ… gọi thơ họ Đỗ là một hồn thơ đích thực. Trích:

“… tôi hiểu sau Giữa hoàng hôn xưa của 1994 này, sau bài Đâu có phải tự nhiên ghi năm 1983 ở cuối tập, sẽ còn những tập thơ tiếp theo, dù chuyên môn của anh đã choán hết ngày, giờ, chỉ mới đọc một tập thơ này đã gặp một tâm hồn thơ đích thực.” (trang 102)

— Hồ Đình Nghiêm: Ngọc Hồng… Nhà văn họ Hồ từ Canada gửi lời ca ngợi thơ họ Đỗ. Trích:

“Và hôm nay, tôi cảm ơn anh Đỗ Hồng Ngọc, ngoài việc “cứu nhân độ thế” với vai trò một y sĩ, thì tay trái của anh (tạm gọi vậy) đã không mỏi mòn viết nên những dòng chữ đẹp.” (trang 104)

— Hai Trầu Lương Thư Trung: Tuổi Già Thử Đọc “Thơ Ngắn Đỗ Nghê”…  nhìn thấy đọc thơ họ Đỗ y hệt được thi sĩ nắm tay đi qua một dòng sông đời. Trích:

“Đọc bài thơ “Mới hôm qua thôi”, tác giả dưới con mắt của một vị thầy thuốc và dưới con mắt của một nhà nghiên cứu về đạo Phật, và dưới con mắt của một người thương người cùng chất lãng mạn của một nghệ sĩ, thi sĩ Đỗ Nghê nắm tay chúng ta và anh đã dắt chúng ta đi qua một dòng sông đời trôi qua mấy mươi năm rồi với biết bao gian truân, vinh nhục, được và mất rồi ra chỉ còn là “mênh mông” với “mênh mông…” thôi!!!. Chẳng còn lại gì! Chẳng còn lại chút gì!” (trang 141)

— Tô Thẩm Huy: Thơ Ngắn Đỗ Nghê… Thơ 5 chữ của ho Đỗ nghe như Kinh Kim Cang… Trích:

“Chỉ năm chữ, mà gói cả tư tưởng của Kim Cang Bát Nhã kinh. Năm chữ hiền lành. An nhiên, tự tại. Năm chữ đã biến cái phù du ngắn ngủi của thân phận con người thành vĩnh cửu. Đã biến Thơ Ngắn Đỗ Nghê thành tiếng thơ dằng dặc đến vô cùng.” (trang 152)

— Huỳnh Ngọc Chiến: Một Chút Lá Rơi… Nhà phê bình họ Huỳnh nói rằng thơ họ Đỗ đầy tâm sự. Trích:

“Anh có làm thơ đâu! Anh đang ngồi tâm sự. Với chính mình, với đứa con gái yêu muôn đời vẫn  “mãi mãi tuổi đôi mươi”! Những vần thơ bình dị, quá đỗi bình dị kia nghe mênh mang một nỗi đau rưng rứt. Dường như chính những điều bình dị nhất của thơ lại dẫn con người đi vào những cảm xúc mênh mông nhất. Nhưng những nỗi đau, những sự mất mát trong đời có khi là cơ duyên để ta hiểu cuộc đời hơn.”(trang 156)

— Phan Chính: Bên Bờ Mây Lãng Đãng… Thơ Đỗ Hồng Ngọc còn mang theo ánh sáng nhà Phật, trích:

“Anh viết “Nhẹ như không có/ Có mà như không…”, hay là “Thực chẳng dễ dàng/ Sống trong cái chết/ Và chết trong cái sống…”. Chỉ có ở người ngộ được cái giá trị cuộc sống nhân sinh theo triết lý Phật giáo trong cõi vô vi tự tại. Những tập sách  Nghĩ từ trái tim, Như thị, Cành mai sân trước, Gió heo may đã về… lại liên tiếp tái bản nhiều lần mà vẫn được đón nhận, là sao? Bởi trong đó không những mang cái tư tưởng Phật học,Thiền học mà sự biểu cảm chân thực của một tâm hồn thơ nên đã dễ dàng chạm đến trái tim của con người. Cũng không thể thoát ly khỏi phiền não trong cuộc sống rộn ràng, Đỗ Nghê bất chợt nhận ra mình “Lá chín vàng/ lá rụng/ về cội/ Em chín vàng/ chắc rụng về anh”. Và cũng không khỏi những vướng bận theo vòng hệ lụy: “Hoa vàng đã rụng đầy sân vắng/ Tình cũng ngùi phai theo tháng năm…”.(trang 160)

— Lê Ngọc Trác: Nắng Vàng Thơm Quê Nhà… Nhà phê bình họ Lê nhìn thấy nắng vàng trên trang giấy họ Đỗ. Trích:

“Chúng tôi nghe “nắng vàng thơm quê nhà” trong thơ Đỗ Hồng Ngọc. Nắng. Gió. Thấm đẫm yêu thương trong cuộc đời này khi mùa xuân đang đến gần với con người và đất trời…” (trang 167)

— Du Tử Lê: Đỗ Hồng Ngọc, Thơ Và Thiền Song Sinh? Có phải thơ họ Đỗ cũng là Thiền:

“Tôi thấy trong Đỗ Nghê không chỉ có một thi sĩ mà, thi sĩ ấy, còn song sinh với một thiền gia nữa. Như thiên/địa, nhật/nguyệt, tuy hai mà, thực ra cũng chỉ là một thôi.” (trang 179)

— Luân Hoán: Đỗ Nghê…  Nhà thơ Luân Hoán từ Canada gửi thơ về tặng nhà thơ Đỗ Nghê, trích 2 đoạn trong bài như sau:

“ông anh mang tên thật
lấp lánh ngọc màu hồng
hẳn ông muốn sống mãi
bên cạnh những mỹ nhân.

về ý nghĩa bút hiệu
tôi nghĩ hoài không ra
Nghê là một linh vật
trên đỉnh thờ trong nhà?” (trang 199)

— Phan Tấn Hải: Dịch thơ “Bông Hồng Cho Mẹ”…  Bài thơ của Đỗ Hồng Ngọc chỉ có 4 dòng, ghi hình ảnh ngày Lễ Vu Lan, và nhà báo họ Phan đã dịch sang tiếng Anh. Bản gốc và bản dịch như sau.

Bông hồng cho Mẹ

Con cài bông hoa trắng
Dành cho mẹ đóa hồng
Mẹ nhớ gài lên ngực
Ngoại chờ bên kia sông…

ENGLISH:

A rose for Mom

I put on myself a white rose
and give Mom a red one
Mom, be sure to put it on a lapel
Grandma is waiting at the other shore of the river…” (trang 191)

……………………………………………………………..

Tất cả các bài trong tuyển tập E-book này đã đăng rải rác trên trang nhà: https://www.dohongngoc.com/ Nơi đây độc giả có thể đọc nhiều hơn, kể cả nhiều bài trong nhiều thể loại.

NG-PTH

.

 

 

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Nguyễn thị khánh minh: CÙNG SÔNG

05/11/2020 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

 

CÙNG SÔNG

Nguyễn thị khánh minh

 

Một buổi, đọc lại tập thơ Thơ Ngắn Đỗ Nghê, tập thơ mà có lần tôi đã viết, con đường dài qua thơ ngắn Đỗ Nghê, phải nói là dặm trường cái trùng phùng của nghìn năm và phút giây, cái hội ngộ giữa hạnh phúc và sầu buồn, khiến chạm đến mấy tầng cảm xúc người đọc, hôm đó, đọc bài Giỗ Một Dòng Sông (Nhạc sĩ Thuần Nhiên Nguyễn Đức Vinh đã phổ thành ca khúc: “Sông Ơi Cứ Chảy”)

…

Sông ơi cứ chảy

Chảy khắp châu thân

Chảy tràn ra mắt

Chảy vùi bên tai

 

Dòng sông không tắt

Dòng sông chảy hoài…

 

tôi cảm xúc viết bài thơ tặng 

CÙNG SÔNG
Kính tặng anh Đỗ Hồng Ngọc


Lang thang… Một hôm gặp lại*

Dòng sông xanh ngỡ đã mãi xa. Xa

Mắt nguồn trong suốt La Ngà*

Hạt thương ở lại. Chan hòa. Xưa sau

 

Nhé sông. Cùng hơi thở sâu

Nghe thinh lặng hết những lao xao đời
Nhé sông. Mình thở ra chơi
Bước đi nhé với mặt trời đang đi

 

Một ngàn bước với sông đi

Một ngàn bước của sông về. Nơi đây

Tùm tỉm từng phút giây này…

9.2020

*tên một tác phẩm của Đỗ Hồng Ngọc

*La Ngà, là tên cô con gái đầu lòng mất sớm của nhà thơ ĐHN

Trái đất nhỏ xíu

 

Filed Under: Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Trái đất nhỏ xíu

01/11/2020 By Bac Si Do Hong Ngoc 1 Comment

 

Trái đất nhỏ xíu

Hôm qua (31.10.2020), Bs Lê Quang Khánh ở Melbourne – người bạn cùng khóa với tôi ở Y khoa đại học đường Saigon (1962-1969) gởi về tôi bài viết của Minh Ngọc, người bạn cùng lớp với Đỗ Châu La Ngà, con gái đầu lòng của tôi, đã mất năm 1990 vì tai nạn giao thông trong một chuyến đi công tác xã hội tại Bình Chánh.

Khánh cho biết cũng thông qua một người quen, Minh Ngọc hiện ở Mỹ, là Associate Prof ngành gây mê nhi khoa. MN cũng viết văn đăng ở báo Văn của Nguyễn Xuân Hoàng.

Sáng nay, tôi nhận email của Minh Ngọc.

Vậy đó. Trái đất nhỏ xíu!

Xin phép chia sẻ cùng bè bạn…,

 

Đỗ Hồng Ngọc

(ngày 1.11.2020)

………………………………………………………………………………………..

Minh Ngọc gởi:

Thưa chú,

Cháu đã nhận được lời nhắn từ Bs. Khánh do dì cháu (Bs. Bích Phương) chuyển nên viết cho chú.

Cháu rất vui mừng được biết chú vẫn khoẻ và viết nhiều, viết hay. Cháu đi Mỹ ngay sau ngày tốt nghiệp (1994) nên không biết nhiều tin tức trong nước.

Thấm thoắt đã 30 năm từ ngày Ngà ra đi, bạn bè lớp cháu vẫn thường nhắc nhở và thương nhớ Ngà (tụi cháu có group riêng trên FB) như ngày hôm qua. Ngà ở tổ 21 chơi thân với các bạn cùng tổ như Thùy Ngân, Thúy Nga; còn cháu ở tổ 22, chỉ thân hơn với Ngà vào cuối năm Y2, vì 2 tổ đi thực tập Ngoại chung ở bệnh viện Chợ Rẫy. Hè năm đó Ngà rất vui và trông ngóng lên năm 3 đi thực tập BV toàn thời gian, không ngờ mơ ước không thành.

Cháu có cắt bài thơ của chú trên báo Tuổi Trẻ đem theo.

Cháu,

Minh Ngọc

(đính kèm bài thơ).

……………………………………………………………….

 

Người bạn trong mơ

Đỗ Châu La Ngà, con gái đầu lòng của BS. Đỗ Hồng Ngọc, là bạn cùng lớp với tôi hai năm đầu sinh viên. Lúc đó BS. Đỗ Hồng Ngọc phụ trách Trung tâm Truyền thông – Giáo dục sức khỏe Sở Y Tế, ông bà dạy con rất nghiêm theo nề nếp gia đình trí thức hồi xưa nên Ngà giản dị hồn nhiên, bạn bè ai cũng thương mến. Tôi bây giờ gần nửa đời, gặp gỡ không biết bao nhiêu người, vẫn thấy hiếm có ai như Ngà, luôn luôn nở nụ cười tươi tắn trên môi, hòa nhã ôn tồn với mọi người, không hề thấy Ngà cao giọng hay lớn tiếng, giận hờn trách móc ai.

Lúc đó chúng tôi chuẩn bị lên năm thứ ba. Nghỉ hè, các lớp được phân công trực đêm ở trường. Đêm đó lớp tôi trực, cũng đủ trò như mọi khi, ăn uống, cười giỡn, kể chuyện ma, đánh bài, đàn hát. Đám con gái ngồi bàn tán chuyện mua sách giáo khoa vì đã lâu trường chưa tái bản nên rất khó tìm. Tôi khoe vừa mua được ở tiệm sách cũ gần trường Dự bị Đại học, Ngà biết tiệm đó nhưng không hiểu sao một mực bắt tôi hứa phải đi mua sách với Ngà, tôi hứa để hai ba bữa nữa rồi đi. Sáng, chúng tôi thu dọn đồ đạc đi về, Ngà ngồi một mình trên băng đá trước phòng bảo vệ đọc cuốn “Kiến và chim bồ câu” của Leo Tolstoy. Tôi hỏi sao chưa về, Ngà cười nói Ngà chờ đoàn công tác xã hội của trường. Tôi nói vậy đi vui nghe, rồi tôi về nhà ngủ.

Buổi chiều trời mưa giông nên sập tối sớm, tôi mới ngủ dậy thì nghe đám con trai trong lớp kêu cửa inh ỏi. Chị tôi ra mở cửa và lấy nước cho rửa chân. Kim Minh thấy mặt tôi nói liền: “Bà thay đồ đi với tụi tui. La Ngà chết rồi!”. Tôi nói: “Giỡn gì kỳ vậy?”. Mân và Thái Minh kể sáng hôm đó Ngà đi theo đoàn công tác xã hội lên trường khuyết tật ở Bình Chánh. Ngà đạp xe đi song song với Thúy Nga, tới Phú Lâm thì bị chiếc xe bus từ phía sau tông trúng. Lúc đó đường vắng không có xe, anh trưởng đoàn phải kêu chiếc xích lô chở Ngà về Chợ Rẫy, một nhóm chạy về nhà báo tin cho ba mẹ Ngà. BS. Đỗ Hồng Ngọc chạy tới phòng cấp cứu bệnh viện Chợ Rẫy thì Ngà đã tắt thở trên đường đến bệnh viện, ông đứng khóc ròng. Ngà bị thương tích quá nặng.

Tôi vào hỏi ba má tôi, chắc mặt tôi thất thần lắm nên ba má tôi khuyên để hôm sau hãy đi, sợ tôi xúc động quá (tôi vốn bị loạn nhịp tim nhanh, supraventricular tachycardia). Chiều hôm sau tôi đến, đã có một nhóm bạn trong lớp. Ngà nằm trên chiếc giường trong phòng khách, mặc chiếc áo trắng quen thuộc, thanh thản như ngủ say. Chúng tôi lên thăm căn phòng xinh xắn của Ngà, những cuốn nhật ký, sổ tay chép thơ dán ảnh trang trí, Ngà cũng có làm thơ nữa mà chúng tôi không biết. Ngày đưa tang Ngà lên nghĩa trang nằm bên bờ sông La Ngà quê nội, trời mưa dầm sụt sùi. Chúng tôi nhìn tấm ảnh Ngà tươi cười lồng trên bia mộ mà không cầm được nước mắt, nụ cười và đôi mắt tinh nghịch sau cặp kính đó vĩnh viễn chúng tôi không bao giờ còn thấy được nữa.

Sau ngày đưa tang Ngà, đêm nào ngủ mơ tôi cũng thấy Ngà mặc chiếc áo trắng, năn nỉ đi mua sách với Ngà đi. Má tôi bàn hay là đem cuốn sách đốt cho Ngà rồi khấn cho Ngà siêu thoát. Chưa kịp làm thì cuốn sách của tôi tự nhiên biến mất tìm không ra, rồi tôi cũng không thấy Ngà nữa.

Ngày Ngà mất, BS. Đỗ Hồng Ngọc làm một bài thơ với những câu cuối như sau:

“Cô học trò Minh Khai

– Gia Long của mẹ –

Cô sinh viên trường thuốc

– Tuổi trẻ của ba –

Con đã lớn lúc nào ba má không hay biết

Cứ tưởng con còn nhỏ xíu thôi

Đến khi con mất đi rồi

Mới biết con đã lớn!”

Minh Ngọc

Tháng 10/2018

……………………………………………..

 

Thư gởi Minh Ngọc:

Chú Đỗ Hồng Ngọc đây. Chú vô cùng cảm ơn cháu đã nhắc đến La Ngà, con đầu lòng của chú đã gặp tai nạn trong một chuyến đi làm từ thiện với các bạn ở trường Y.

Vậy mà đã đúng 30 năm, vắng bóng LN, nhưng không lúc nào chú có thể quên. Hôm qua, chú mới nhìn hình LN, vẫn thấy cười rất tươi. Cháu có biết La Ngà là tên một con sông lớn, trên đường đi Dalat, chảy về Saigon, Lagi quê chú không?

Mấy năm trước chú có viết bài thơ “Sông ơi cứ chảy”, nhạc sĩ Thuần Nhiên ở Đà lạt đã phổ nhạc và ca sĩ Thu Vàng hát. Chú gởi đây cho cháu và các bạn LN nghe nhé.

Chú không ngờ cháu làm báo Văn với Nguyễn Xuân Hoàng, một người bạn của chú. Lúc này cháu còn viết cho báo nào không? Cháu ở NewYork, kỳ rồi chắc rất mệt vì Covid-19.

Cám ơn cháu lúc đi Mỹ đã mang theo bài thơ chú viết cho LN.

Chú xin phép cho chú post lại bài cháu viết về LN trên blog của chú nhé. Cảm ơn Minh Ngọc.

 

Do Hong Ngoc.

Bái thơ Minh Ngọc gởi kèm:

 

 

 

Filed Under: Vài đoạn hồi ký

Quán Văn 76: Chân dung văn học KHÁNH MINH

25/10/2020 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

thục nữ

gởi khánh minh

 

em bảo vẽ cho em một bức chân dung

chân dung người làm thơ

một người làm thơ nữ

trời đất ơi

làm sao vẽ được chân dung

một người làm thơ nữ

đom đóm hái sao

 

tôi nhắm mắt lại nhìn em

cho rõ

lần đầu gặp ở trương thìn,

đây khánh minh

rồi làm thinh

 

tôi thấy em thục nữ,

tại sao mà làm thơ

rồi nhìn thêm lần nữa

oan oan thư cưu

 

cho đến một hôm nơi ồn ào kia

quanh bè bạn thân quen đâu từ kiếp trước

em tặng mỗi người tập thơ còn ướt

những bài thơ hình hiện muôn đời

như không thôi đi được…

 

tôi nhắm mắt nhìn em cho rõ

thử hình dung ra cái hình dung

rồi vẽ vào không gian trong

một người làm thơ nữ

 

khi mở mắt ra

em tan biến

đành ghi vội mấy dòng

tạ lỗi!

 

đỗ nghê

(9.2014)

 

SẮC MẦU BAY

Và, Nhà Thơ Đỗ Nghê …

“Làm sao em có thể lấy được bức tranh trong thinh không?”*

Tôi đang là tia nắng
Xin giữ tôi. Gió ơi, bằng sợi mềm mại mùa thu
Hàng cây cọ đang tỏa lời chiếc lá mũi tên
Có thể tôi sẽ là nạn nhân
Tan không hối tiếc. Khuôn mặt màu nắng si dại
Hãy để tôi rơi
Nơi bàn tay đang xòe rộng. Cỏ ngát xanh
Như tôi là con diều ngơi nghỉ
Với đôi mắt trẻ thơ
Đựng một khung trời trong suốt
Đưa tôi về bên triền sông thơ ấu
Khúc khích đuổi bắt
Đom đóm bay đầy trong váy trắng
Ánh sáng xanh ấy tôi nắm được trong tay
Ánh sáng xanh. Ánh mắt bạn bè
Soi tôi gần gũi

Gió ơi. Vẽ cho tôi đường bay
Những vì sao sáng ở rất xa. Đến nỗi vô vọng
Ảo ảnh không một lần chạm được
Chân dung mây những khoảnh khắc hợp tan
Vọng âm hạt nước vỡ
Một ngày mưa Sài Gòn. Rất xa
Như thể mầu của ký ức
Ngôi sao của chúng ta lấp lánh trong tàn cây khuya

Và gió ơi xin du dương
Nhịp của trái tim tôi mơ mộng
Đem đến khu vườn bức tranh kia
Nhỏ xuống hạt lệ
Cho dẫu nơi ấy có là bảng palette thinh không…

Trong âm vang của sương mù
Tôi thấy
Những sắc mầu bay**

nguyễn thị khánh minh
9.2014

*Thơ Đỗ Nghê “…Rồi vẽ vào không gian trong…”
**Thơ Đinh Cường “…những câu thơ đầy sắc màu bay …”

 

Nguyễn Thị Khánh Minh Ngọc vẽ, par mémoire, 10.2014

Nguyễn Thị Khánh Minh
ĐHN vẽ, par mémoire, 10.2014

 

 

 

 

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Nguyễn Kim Hưng: Một bài thơ cũ của Đỗ Hồng Ngọc

25/10/2020 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Nguyễn Kim Hưng: Một bài thơ cũ của Đỗ Hồng Ngọc

Hung Kim Nguyen    Oct 22, 2020, 12:38 AM

Bài thơ này Đỗ Hồng Ngọc đã viết khá lâu (14/ 8/1998). Ngọc có nhờ tôi gởi cho bạn bè, nhưng tôi chưa bao giờ gởi! Nội dung là tình bạn YK 69 xin chuyển tới các bạn. Tôi tìm được lá thơ này trong tập tài liệu cũ sau 22 năm! …

Covid19 làm chúng ta gần nhau hay xa nhau? Theo tôi thì nó làm chúng ta xa mặt nhưng không cách lòng.
NKH

(kèm attachment 2 hình chụp bài thơ)


Ghi chú: Bác sĩ Nguyễn Kim Hưng bạn cùng khóa với tôi tại Y khoa Đại học đường Saigon (1962-1969), cùng làm việc chung nhiều năm tháng tại Bênh viện Nhi Đồng Saigon (nay là BVNĐ 1), hiện cư ngụ tại Mỹ. Khi từ biệt để lên đường, anh gởi lại tôi tập thơ Tình Người của Đỗ Nghê (1967) do Thân Trọng Minh vẽ bìa mà tôi đã bị thất lạc từ lâu, tập thơ tôi ký tặng anh ngày đó, khi chúng tôi còn là những sinh viên dưới mái trường Y khoa Saigon.

Bài thơ này cũng nhờ Nguyễn Kim Hưng gìn giữ bấy nay mà tôi được dịp đọc lại và xin chia sẻ cùng bè bạn. Tôi đã viết bài thơ này năm 1998, ngay sau buổi họp mặt rất cảm động tại Equatorial những bạn bè cùng lớp cùng trường sau 30 năm xa cách nhân dịp có Bs Nguyễn Đỗ Duy về nước…  Năm ngoái, 2019, Khóa chúng tôi cũng đã tổ chức Họp mặt kỷ niệm 50 năm ngày ra trường tại Hoa Kỳ.

Đa tạ Nguyễn Kim Hưng.

Đỗ Hồng Ngọc

Filed Under: Già ơi....chào bạn, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Ban Mai (QN): Mới hôm qua thôi

18/10/2020 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Mới hôm qua thôi

Ban Mai

Mới hôm qua thôi, các bạn tôi cùng làm việc trong trường đại học đã về hưu gặp nhau cà phê tán chuyện, ai cũng bàn khi nào tụi mình về già không làm gì được nữa thì cùng nhau vào một Viện dưỡng lão ở chung cho vui. Tụi trẻ bây giờ đều có công việc, gia đình, sẽ không có thời gian chăm sóc mình, nếu ở chung với chúng, mình sẽ bị bó buộc, không tự do sống theo ý của mình, rồi mình sẽ cô độc ngồi im lặng giữa bốn bức tường, thà vào Viện dưỡng lão có bạn bè cùng trang lứa để nói chuyện, cùng sinh hoạt với nhau.
Nói là nói vậy thôi, chứ trong lòng tôi là một khoảng lặng. Bởi vì người dân Việt không phải ai cũng có điều kiện, và cũng không phải ai cũng hiểu thông suốt ở Viện dưỡng lão là một giải pháp hay khi về già. Thuận tiện cho con cháu và cho cả mình.
Tôi nhớ, mẹ tôi những buổi chiều ngồi trước hiên nhà chờ các con đến thăm, mặc dù đông con nhưng cuối đời bà vẫn sống một mình, không một đứa con nào bên cạnh.
Có lần tôi hỏi mẹ cần gì con sẽ mua cho mẹ, bà nói bà không cần gì cả, bà chỉ cần hàng ngày có con đến thăm là bà vui rồi. Bây giờ, hàng ngày tôi đem cơm cho bà.
Người già họ sợ sự cô đơn, họ cần tình yêu thương. Rồi tôi cũng sẽ vậy.
Khác với Phương Tây, truyền thống Á Đông người ta vẫn luôn mong sống nhiều thế hệ cùng nhau, chẳng đặng đừng cuối đời mới đến Viện dưỡng lão. Và không phải ai cũng có cuộc đời may mắn.
Sáng nay, BS. Đỗ Hồng Ngọc gửi tôi một video  bài hát “Mới hôm qua thôi” lấy từ bài thơ “Trong một nhà giữ lão ở Montreal”, nhạc sĩ Võ Tá Hân phổ nhạc, những ca từ đầy trãi nghiệm và giai điệu trầm buồn, làm tôi bần thần cả một ngày. Dù biết rằng cuộc đời này rồi ai cũng sẽ vậy nhưng sao vẫn thấy buồn cho kiếp con người.
” Họ ngồi đó, bên nhau.  Đàn ông, đàn bà.  Không nhìn. Không nói.
…
Mới hôm qua thôi.  Nào Vương.  Nào Tướng.  Nào Tài Tử.  Nào Giai Nhân.  Ngựa xe.  Võng lọng.
Mới hôm qua thôi.  Nào lọc lừa.  Nào thủ đoạn.  Khoác lác.  Huênh hoang.
Mới hôm qua thôi.  Nào galant.  Nào quý phái.  Nói nói.  Cười cười.  Ghen tuông.  Hờn giận.
…
Họ ngồi đó.  Không nói năng.  Không nghe ngóng.  Gục đầu.  Ngửa cổ.  Móm sọm.  Nhăn nheo.
Ngoài kia.  Tuyết bay.  Trắng xóa.
Ngoài kia.  Dòng sông.  Mênh mông.  Mênh mông…”
(Trích bài thơ ” Trong một nhà giữ lão ở Montreal” BS. Đỗ Hồng Ngọc)
……………………………………..
xin mời nghe:

Filed Under: Già ơi....chào bạn, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

Minh Lê: Chè thưng

18/10/2020 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Chè thưng

gánh chè thưng xưa (hình Internet)

Chè thưng coi ngọt ngào vậy mà lại là món “khó ăn” nhứt cho tôi, trước do cái tên bí hiểm, sau vì quá khứ đầy bí ẩn của nó. Sau hơn hai tháng ăn không ngon ngủ không yên, nhờ anh Google và các vị tiền bối, thêm chút máu trinh thám, tôi cuối cùng cũng hoàn tất một câu chuyện tương đối hợp lý để trình làng.

Nghĩ tới chè Sài Gòn, tôi nhớ ngay đến câu rao hàng dài nhứt, tha thiết và mùi mẫn nhứt mà tôi từng được nghe:

“Ai ăn chè bột khoai bún tàu… đậu xanh nước dừa đường cát…hôn…”

Thực ra vào thập niên 1980 và 1990 thưở tôi ở Sài Gòn, tiếng rao này đã vắng đi nhiều. Và khi bước sang thập kỷ 21, tiếng rao này không còn nữa. Cũng không thấy ai bán món chè có bột khoai – bún tàu – nước dừa nữa. Đó là lý do tôi chọn tiếng rao này để bắt đầu cuộc hành trình đi tìm một món chè xưa đã mất (?) của Sài Gòn. 

Nhờ anh Google và thùng sách quý giấu đầu giường, tôi khám phá ra bí ẩn đầu tiên: tên gốc ngắn gọn của món chè này chính là chè tào/ tàu thưng. Xin hầu quý vị vài câu chuyện từ các bậc tiền bối để chứng minh cho sự liên hệ giữa tiếng rao trên và cái tên này.

Trên trang nhà của Giáo sư Trần văn Khê, ông tả lại một buổi đi thuyền trên sông Sầm Giang với hai nhà thơ Xuân Diệu và Huy Cận vào năm 1939. Thuyền đi từ Vĩnh Kim ra Rạch Gầm. 

“Đáp lời mời của thi sĩ Khổng Nghi, hai nhà thơ lớn Xuân Diệu và Huy Cận đến Sầm Giang để cùng chúng tôi thưởng thức một đêm trăng trên sông, có nhạc, có thơ, có người đẹp và có cả những thức ăn đặc sản. Đêm đó có cháo gà xé phay, tráng miệng ngoài trái cây còn có món “tào thưng” (chè thưng gồm có bột khoai, bún tàu, nước dừa, đường cát). …Thuyền trôi đến chỗ nào ưng ý, chúng tôi neo thuyền lại rồi bắt đầu hòa đờn. Lúc nào cũng có người “lắng tai Chung Kỳ”. Rồi thưởng thức món cháo gà xé phay, ăn kèm rau ghém, bên cạnh đó cũng có vài chung rượu đế Vĩnh Kim cho ấm bụng. Chén “tào thưng” làm cho hai thi sĩ Miền Bắc tấm tắc khen ngon.” (Trên sông Sầm Giang đăng 5/6/2013, trang Trần văn Khê)

Sau này gặp lại, nhà thơ Xuân Diệu vẫn nhớ buổi du thuyền đêm đó và viết tặng Giáo sư một bài thơ, trong đó có câu:

“Dưới trăng, mời chén tào thưng,

Mà ba mươi lẻ năm chừng đã qua.”

                                                          (bài đã dẫn)

Trong khi đó ở Sài Gòn, nhà văn Minh Hương kể về tiếng rao hàng làm ông day dứt những đêm cô đơn trong tù (ông bị tù khoảng năm 1945-1954):  

“…khi thấy nửa vành trăng khuyết treo lơ lửng trên ngọn cây sao, cây dầu. Rồi có tiếng rao lảnh lót ngân vang ngoài đường “Ai ăn chè đậu xanh… bột báng… nước dừa… đường cát không?” (Sách “Nhớ… Sài Gòn”, trang 247). 

Minh Hương cũng nhớ “những câu rao hàng rất dài trong đêm vắng” ở đất Sài Gòn những năm sau đó: “Hò …hò…ai ăn chè đậu xanh, bột báng, nấm mèo, bột khoai, đường cát, nước dừa …không?” (Sách “Nhớ… Sài Gòn”, trang 99)

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, trong bài “Thơm bàn tay nhỏ” viết về hàng rong Sài Gòn, cũng nhắc tới tiếng rao này: 

“Ngày xưa khi Sài Gòn còn vắng, trưa nào cũng nghe tiếng rao lãnh lót ai bột khoai nước dừa bún tàu đường cát … hôn? Phải nói nghe riết thành ghiền. Trưa nào không nghe cũng cảm thấy bứt rứt không biết hôm nay chị bán chè tàu thưng đó có đau ốm gì chăng? “ (Trang nhà Đỗ Hổng Ngọc) 

Câu rao này còn rất có duyên với âm nhạc và thơ ca. Văn sĩ kiêm thi sĩ Trúc Giang hồi năm 1950 có viết truyện thơ “Cô Sáu tào thưng”. Nhạc sĩ Thu An thì viết bài vọng cổ “Gánh chè khuya” sau khi cám cảnh cô gái nghèo mười lăm tuổi đi bán chè nuôi mẹ già. Danh ca Út Trà Ôn và Út Bạch Lan ca bài này hay hết chỗ chê, nhứt là giọng cô Út Bạch Lan rao câu “mở hàng” đến động lòng:

“Ai ăn chè bột khoai bún tàu đậu xanh nước dừa đường cát hôn….”

Trong lời bài hát, tên tào thưng đã rút gọn lại thành “chè thưng”: 

“Em đi bán chè thưng. Nặng lo chữ hiếu cho tròn”. 

Như vậy, chè bột khoai – bún tàu – nước dừa – đường cát, sau đó thêm đậu xanh – bột báng có tên cúng cơm là tào/tàu thưng, sau đó gọi rút gọn là chè thưng. Tới đây tôi tự hỏi: sao lại là tào/tàu thưng mà không phải một cái tên tiếng Việt?

Cụ Sơn Nam, khi nhắc đến các món ăn Nam bộ, đã nhân tiện giải thích cho tôi hai chữ tào/tàu thưng: 

“Nên kể thêm các loại chè, như chè khoai môn nước cốt dừa, chè hột sen, chè đậu xanh đường cát (gọi tàu thưng, đậu và đường, tiếng Quảng đông âm lại)” (Nhiều tác giả – Nam bộ xưa và nay, trang 387 sách điện tử) 

Tôi vỡ lẽ: tào thưng hay tàu thưng, cũng có chữ tào/ tàu như trong tào phớ, hay tào/tàu hủ. Tào/tàu là đậu, và theo cụ Sơn Nam, thưng là đường. Nhưng chè đậu xanh chính cống của người Hoa chỉ có đậu xanh, không có bột khoai – bún tàu – nước dừa nên tôi lại đi tìm tiếp, nhứt là cái vụ bún tàu trong chè nghe nó kỳ kỳ.

Tôi viết email xin Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc giải thích cho hai chữ bún tàu trong chè thưng. Bác sĩ trả lời: 

“Con chịu khó nghe bài vọng cổ này của Út Trà Ôn nhé, trong đó có tiếng rao ngọt ngào của cô gái bán chè Tàu Thưng. Bác còn thiếu ”đậu xanh” nữa mới đầy đủ con ạ. Hình như cái gọi là ”bún tàu” trong chè ở đây không phải “miến” đâu. Nó to bản hơn, dai hơn, rời rạc chớ không cuộn thành tổ như tổ chim đâu. Hồi nhỏ bác cũng hay… ăn chè nên nhớ mang máng đó con ạ!” 

Tôi đoán cái Bác Ngọc tả là bột khoai, vậy lúc Bác Ngọc ăn chè (chắc khoảng những năm 60 khi Bác vào Sài Gòn học Y khoa), bún tàu đã…không còn trong chè thưng nữa. Vì sao tiếng rao vẫn còn “bún tàu” như xưa?

Giây phút “A ha!” xảy ra bất ngờ khi tôi đọc “Những bước lang thang” của nhà văn Bình-nguyên Lộc, một cây bút kỳ cựu của Sài Gòn xưa. Cụ Lộc, thua cụ Vương Hồng Sển một giáp và hơn cụ Sơn Nam cũng đúng một giáp, sống hơn 45 năm ở Sài gòn từ đầu những năm 1930. Trong tập “Những bước lang thang”, xuất bản lần đầu vào năm 1966, cụ Lộc tả món “bột khoai” bán rong trên thuyền trong bài “Quà đêm trên sông Ông Lãnh”: 

“Đó là thứ quà hỗn hợp và hỗn độn, hình ảnh của những đợt sóng người tràn vào đây khai hoang đất mới từ ba trăm năm nay. Thứ chè ấy gồm cả những món ăn dùng để nấu thức ăn mặn như là bún tàu (miến), nấm mèo (mộc nhĩ), vân vân…Đặc biệt nữa là khi rao quà, họ kể hết các món ấy ra:

Ai…ăn bột khoai, bún tàu…đậu xanh, nước dừa, đường cát…hôn?” (Những bước lang thang, trang 11-12 sách điện tử)

Tôi nghi cụ Lộc ở nhà thường xuyên nấu ăn, vì chỉ có cụ mới có cái nhận xét rất nghề của người hay nấu ăn là có những món mặn trong cái món chè vốn ngọt này. Cụ thật sự “gãi đúng chỗ ngứa” cho tôi khi xác nhận có bún tàu (miến) trong món chè này. Cái tinh tế thứ hai của cụ là nhận xét của một người quan sát bén nhạy: chè này đặc biệt vì khi rao, người bán kể hết các thức có trong chè ra, chứ không rao gói gọn. Cái tinh tế thứ ba, liên tưởng của một nhà văn hóa, rằng đây là món tượng trưng cho “hình ảnh của những đợt sóng người tràn vào đây khai hoang đất mới từ ba trăm năm nay”. Cụ dùng từ vô cùng chính xác: “hỗn hợp” vì là sự kết hợp giữa nguyên liệu của nhiều tộc dân khác nhau cư trú trên đất Sài Gòn – Gia Định khi đó, còn “hỗn độn” vì có nhiều thứ mặn ngọt xen lẫn. Có lẽ, chỉ có dân khai hoang mới dám thử và chế ra một món chè bạo gan như vậy!

Nhưng bạn có để ý không, cụ Lộc không gọi chè thưng mà gọi là món bột khoai. Một người kỹ tính, tinh tế như cụ chắc không gọi bừa tên một món ăn mà cụ nhắc tới với giọng điệu trân trọng như vậy. Cụ làm tôi phải giật mình: hóa ra ngoài cái tên chè thưng, món chè này còn có một cái tên Việt dễ thương chất phác như vậy – chè bột khoai. 

Tôi vẫn chưa yên tâm nên lôi một trong các sách bửu bối ra tìm lần nữa. Cuốn “Từ điển văn hóa ẩm thực Việt Nam” ghi:

“Chè thưng: Đậu xanh ngâm mềm, đãi sạch vỏ, hấp chín, ướp với đường. Bột đao hòa với nước dão dừa, nước đường, bắc lên bếp vừa đun vừa khuấy đều tay cho bột chín đều, khi bột chín trong cho đậu xanh, hạt sen (hấp chín, ướp đường), mộc nhĩ (ngâm nở, thái chỉ), nước cốt dừa vào đảo đều. Ăn nguội.” (trang 349-350)

“Chè bột khoai nước dừa: Bột khoai ngâm nước cho nở. Đậu xanh ngâm mềm đai sạch vỏ nấu chín mềm. Lạc ngâm nước, bóc bỏ vỏ lụa, hầm mềm. Cho nước dão dừa vào xoong, bắc lên bếp, bỏ bột báng và bột khoai vào nấu trước cho chín cho tiếp lạc, đậu xanh và đường vào nấu để các thứ ngấm đường, chế nước cốt dừa vào đảo đều. Bắc xuống cho vani vào. Ăn nóng hoặc ăn nguội với đá.” (trang 450)

Theo các tác giả cuốn từ điển này, chè thưng có dạng đặc mà chè bột khoai là dạng lỏng. Cả hai đều có đậu xanh và nước dừa, ngoài ra chè thưng có hạt sen – mộc nhĩ còn chè bột khoai có bột khoai – bột báng – đậu phụng. Tôi nhờ anh Google tra coi bây giờ thiên hạ nấu chè thưng và chè bột khoai ra sao liền thấy xuất hiện thêm một cái tên – chè bà ba. Nhiều người giải thích một cách rất tự tin: chè thưng chính là chè bà ba. Và chè bà ba thì có thêm vô số kể các thứ mới như khoai lang, khoai mì, khoai môn…Tới đây tôi thật sự “tẩu hỏa nhập ma”: giờ biết tin ai? Trong thân tâm tôi vẫn thấy tin tưởng các vị tiền bối, các cụ đều là người đức cao trọng vọng, lời nói đáng tin. Vậy phải giải thích chuyện nguyên liệu một lần nữa “hỗn hợp” và “hỗn độn” như vầy ra sao?

Trước hết phải tìm ra xuất xứ chè bà ba. Theo Wikipedia tiếng Việt và giang hồ đồn đại thì chè này “là món chè được chế biến lại từ chè bột khoai đường cát của bà Ba bán chè nổi tiếng ở chợ Bình Tây (thuộc quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh) cách đây khoảng một phần hai thế kỉ. Từ món chè bột khoai công thức chỉ gồm có nước cốt dừa, đậu xanh cà, bột khoai, khoai lang… bà đã thêm vào đó phổ tai, táo tàu, hạt sen, mộc nhĩ… tổng cộng tất cả từ 9, 10 thứ nguyên liệu mới trong một chén chè tạo nên món chè bà ba.”  Có người còn thêm cái tên bà ba là do “bởi món chè này ngon độc đáo, giống như người con gái đẹp miền Tây mặc chiếc áo bà ba mộc mạc mà hấp dẫn vô song”. Ý tưởng này nghe rất nịnh đầm nhưng sự thực chắc không nhiều lắm. Dù sao nó cũng làm tôi táy máy tra thử nguồn gốc “áo bà ba”. 

Nhiều người dẫn lời nhà văn Sơn Nam rằng áo bà ba là từ áo truyền thống của người Baba – người Mã lai Hoa thay đổi mà thành. Tiếc thay, không ai nói rõ Sơn Nam viết như vậy trong cuốn sách nào của ông và trang bao nhiêu. “Trong nhà” chưa rõ, đành “ra ngõ” mà hỏi. Sách “Đông Nam Á bách khoa toàn thư” (Southeast Asia – A Historical Encyclopedia from Angkor Wat to East Timor), trang 199-200, cho biết Baba Nyonya là tên nhóm hậu duệ Hoa – Mã lai (cha Hoa, mẹ Mã lai) cư ngụ nhiều nhất tại Melacca, Penang (Mã lai) và Singapore . Các gia đình thuộc tộc này đa phần khá giả và hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, thương mại. Một số từ Melacca đã di cư đến Sài gòn mở các điểm chuyển tiền, cho vay và bao thầu nhiều tàu chở hàng giữa Sài Gòn và Singapore.

Rồi tôi thấy món Bubur Cha-cha của người Baba Nyonya với nguyên liệu gần tương tự chè bà ba: khoai lang, khoai mì, khoai môn, bột báng, nước dừa, có khác là họ nấu với đường thốt nốt thay vì đường cát trắng. Nhớ cụ Bình-nguyên Lộc có viết trong cuốn “Lột trần Việt ngữ”, trang 100 (sách điện tử trên trang binhnguyenloc.de), rằng người Việt thời đó gọi người Mã Lai bằng một trong năm từ sau: Miền Dưới, Chà Và, Mã Lai, Bà Lai và Bà Ba. Bà Ba có khả năng lớn là phiên âm của Baba Nyonya nhưng dân ta bỏ bớt chữ sau để gọi cho gọn. Dựa vào chuyện này, tôi mạnh dạn suy luận chè bà ba chính là chè của người Bà Ba do một người Hoa-Mã lai bán ở Sài Gòn. Người này có thể tên là Bà Ba, nhưng không ngẫu nhiên mà “truyền thuyết” nói bà này bán ở chợ Bình Tây. Đừng quên chợ Bình Tây còn được kêu là Chợ Lớn Mới do ông Quách Đàm, một thương gia người Hoa bỏ vốn xây cất vào năm 1928 và dĩ nhiên có rất nhiều người gốc Hoa buôn bán.

Rồi vì chè bà ba, chè thưng và chè bột khoai có nhiều nguyên liệu giống nhau, lại thêm lục tàu xá (chè sáu món của người Hoa, gồm đậu xanh, phổ tai, táo đỏ, hạt sen, nhãn nhục, hoa móng tay hay vỏ quýt), ngưòi Sài Gòn bắt đầu pha trộn theo khẩu vị của riêng mình. Kết quả, Sài Gòn có vô số phiên bản chè thưng và chè bà ba, còn chè bột khoai không hiểu sao ngày càng ít phổ biến. 

Tới đây chắc sẽ có người cắc cớ hỏi tôi rằng sao lại đặt tên bài viết là chè thưng. Xin thưa, bởi tôi nghĩ chè thưng thực sự là con đẻ của đất Sài Gòn đa văn hóa, mạnh mẽ và phóng khoáng, sẵn sàng tiếp nhận cái mới và biến nó thành đặc trưng của riêng mình. Chè thưng bây giờ, không phải là chè tào/tàu thưng ngày xưa, không hoàn toàn là chè bột khoai, cũng không là chè của người Bà Ba, mà là một món chè chính hiệu Sài Gòn. Vàng ươm khoai lang, trắng bóc khoai mì, tím hồng khoai môn, xanh non phổ tai, trong ngần bột báng, vàng nắng đậu xanh, hồng hồng đậu phụng. Mềm dẻo của khoai, dai dai phổ tai – bột khoai – bột báng, sần sật đậu phụng, mềm nhừ đậu xanh, ngọt béo nước dừa. Có món chè nào trên đời đa sắc và đa vị được như vậy không?

Tôi tin chè thưng có thể tự tin cùng bánh mì thịt, nước mắm, phở đại diện “tinh hoa ẩm thực Việt Nam” đi thi đấu trên trường thế giới. Tôi tin một ngày nào đó, đánh vào tự điển Oxford hay tự điển Ẩm thực Larousse hai chữ chè thưng, tôi sẽ vui mừng đọc thấy dòng chữ “Món chè của Việt Nam” và lịch sử đa văn hóa của chè thưng. Tôi tin ở một hội chợ ẩm thực thế giới trong tương lai, gian hàng Việt Nam sẽ có chị gái mặc áo bà ba bán chè thưng, ngồi xổm cất tiếng rao:

“Ai ăn chè bột khoai bún tàu… đậu xanh nước dừa đường cát…hôn…”

Mong lắm thay!

 

Minh Lê (Suối Tiên, Khánh Hòa)

………………………………………………..

tác giả gởi ngày 17.10. 2020

 

Filed Under: Chẳng cũng khoái ru?, Ghi chép lang thang, Góc nhìn - nhận định

  • « Go to Previous Page
  • Go to page 1
  • Go to page 2
  • Go to page 3
  • Go to page 4
  • Go to page 5
  • Interim pages omitted …
  • Go to page 75
  • Go to Next Page »

Thư đi Tin lại

  • Lịch “Trò chuyện, giao lưu…”
  • Lại đính chính: “SAIGON BÂY GIỜ”
  • ĐÍNH CHÍNH: BSNGOC không phải là BS ĐỖ HỒNG NGỌC
  • Đính chính: BS NGỌC không phải là Bs Đỗ Hồng Ngọc
  • bsngoc đã lên tiếng đính chính
  • Thư cảm ơn và Đính chính về FACEBOOK Bác sĩ NGỌC
  • ĐÍNH CHÍNH: Bài viết "TÀN NHẪN" không phải của Bs Đỗ Hồng Ngọc

PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG

TẠP GHI (Lõm bõm… Kỳ 4b)

Tạp Ghi (lõm bõm… kỳ 4): Mười Hạnh Phổ Hiền

TẠP GHI (Lõm bõm…) kỳ 3

Tạp Ghi (Lõm bõm kỳ 2)

TẠP GHI (Lõm Bõm)

Nguyễn Xuân Thiệp: VỴ ƠI…

Truyện Phan Tấn Hải: QUÊN NHAU LÀ CHUYỆN KHÓ

Thêm một Tuổi Mới

PHĐS: Buổi học cuối năm (16.1.2021).

Biết rồi còn hỏi

Xem thêm >>

Chuyên mục

  • Một chút tôi
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy

Bài viết mới nhất!

  • Thư gởi bạn xa xôi (tiếp)
  • Thư gởi bạn xa xôi,
  • Có Một Con Mọt Sách
  • TẠP GHI (Lõm bõm… Kỳ 4b)
  • Tạp Ghi (lõm bõm… kỳ 4): Mười Hạnh Phổ Hiền

Bài viết theo tháng

Ý kiến bạn đọc!

  • Nhã Trang trong Thư gởi bạn xa xôi,
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Giới thiệu
  • Duy Thao trong Giới thiệu
  • Đào Duy An trong Vài câu hỏi đáp về Y khoa ngày trước
  • Ngọc Điệp trong TẠP GHI (Lõm Bõm)
  • Diêu Trong trong TẠP GHI (Lõm bõm…) kỳ 3
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong CHÚC MỪNG NĂM MỚI
  • Diêu Trong trong CHÚC MỪNG NĂM MỚI
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Sách Ở Trên Đường
  • Su Su Do trong Sách Ở Trên Đường

Cùng một tác giả

  • 0
  • 1
  • 1
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6

Thống kê

Nhà tài trợ

biệt thự vũng tàu
biệt thự vũng tàu cho thuê | biệt thự vũng tàu cho thuê theo ngày giá rẻ | cho thuê biệt thự vũng tàu có hồ bơi
© 2009 - 2016 Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Phát triển & Hỗ trợ kỹ thuật bởi SGC.
Trích dịch nội dung để dùng trong nghiên cứu, học tập hay dùng cho cá nhân đều được tự do nhưng cần phải chú thích rõ nguồn tài liệu và đối với các trích dịch với mục đích khác, cần phải liên lạc với tác giả.
  • Một chút tôi
    ?
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    ?
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    ?
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    ?
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    ?
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy
  • Nhận bài mới qua email