Mới hôm qua thôi
Ban Mai
Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc
Tập hợp các bài viết của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc
Mới hôm qua thôi
Ban Mai
Chè thưng
gánh chè thưng xưa (hình Internet)
Chè thưng coi ngọt ngào vậy mà lại là món “khó ăn” nhứt cho tôi, trước do cái tên bí hiểm, sau vì quá khứ đầy bí ẩn của nó. Sau hơn hai tháng ăn không ngon ngủ không yên, nhờ anh Google và các vị tiền bối, thêm chút máu trinh thám, tôi cuối cùng cũng hoàn tất một câu chuyện tương đối hợp lý để trình làng.
Nghĩ tới chè Sài Gòn, tôi nhớ ngay đến câu rao hàng dài nhứt, tha thiết và mùi mẫn nhứt mà tôi từng được nghe:
“Ai ăn chè bột khoai bún tàu… đậu xanh nước dừa đường cát…hôn…”
Thực ra vào thập niên 1980 và 1990 thưở tôi ở Sài Gòn, tiếng rao này đã vắng đi nhiều. Và khi bước sang thập kỷ 21, tiếng rao này không còn nữa. Cũng không thấy ai bán món chè có bột khoai – bún tàu – nước dừa nữa. Đó là lý do tôi chọn tiếng rao này để bắt đầu cuộc hành trình đi tìm một món chè xưa đã mất (?) của Sài Gòn.
Nhờ anh Google và thùng sách quý giấu đầu giường, tôi khám phá ra bí ẩn đầu tiên: tên gốc ngắn gọn của món chè này chính là chè tào/ tàu thưng. Xin hầu quý vị vài câu chuyện từ các bậc tiền bối để chứng minh cho sự liên hệ giữa tiếng rao trên và cái tên này.
Trên trang nhà của Giáo sư Trần văn Khê, ông tả lại một buổi đi thuyền trên sông Sầm Giang với hai nhà thơ Xuân Diệu và Huy Cận vào năm 1939. Thuyền đi từ Vĩnh Kim ra Rạch Gầm.
“Đáp lời mời của thi sĩ Khổng Nghi, hai nhà thơ lớn Xuân Diệu và Huy Cận đến Sầm Giang để cùng chúng tôi thưởng thức một đêm trăng trên sông, có nhạc, có thơ, có người đẹp và có cả những thức ăn đặc sản. Đêm đó có cháo gà xé phay, tráng miệng ngoài trái cây còn có món “tào thưng” (chè thưng gồm có bột khoai, bún tàu, nước dừa, đường cát). …Thuyền trôi đến chỗ nào ưng ý, chúng tôi neo thuyền lại rồi bắt đầu hòa đờn. Lúc nào cũng có người “lắng tai Chung Kỳ”. Rồi thưởng thức món cháo gà xé phay, ăn kèm rau ghém, bên cạnh đó cũng có vài chung rượu đế Vĩnh Kim cho ấm bụng. Chén “tào thưng” làm cho hai thi sĩ Miền Bắc tấm tắc khen ngon.” (Trên sông Sầm Giang đăng 5/6/2013, trang Trần văn Khê)
Sau này gặp lại, nhà thơ Xuân Diệu vẫn nhớ buổi du thuyền đêm đó và viết tặng Giáo sư một bài thơ, trong đó có câu:
“Dưới trăng, mời chén tào thưng,
Mà ba mươi lẻ năm chừng đã qua.”
(bài đã dẫn)
Trong khi đó ở Sài Gòn, nhà văn Minh Hương kể về tiếng rao hàng làm ông day dứt những đêm cô đơn trong tù (ông bị tù khoảng năm 1945-1954):
“…khi thấy nửa vành trăng khuyết treo lơ lửng trên ngọn cây sao, cây dầu. Rồi có tiếng rao lảnh lót ngân vang ngoài đường “Ai ăn chè đậu xanh… bột báng… nước dừa… đường cát không?” (Sách “Nhớ… Sài Gòn”, trang 247).
Minh Hương cũng nhớ “những câu rao hàng rất dài trong đêm vắng” ở đất Sài Gòn những năm sau đó: “Hò …hò…ai ăn chè đậu xanh, bột báng, nấm mèo, bột khoai, đường cát, nước dừa …không?” (Sách “Nhớ… Sài Gòn”, trang 99)
Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, trong bài “Thơm bàn tay nhỏ” viết về hàng rong Sài Gòn, cũng nhắc tới tiếng rao này:
“Ngày xưa khi Sài Gòn còn vắng, trưa nào cũng nghe tiếng rao lãnh lót ai bột khoai nước dừa bún tàu đường cát … hôn? Phải nói nghe riết thành ghiền. Trưa nào không nghe cũng cảm thấy bứt rứt không biết hôm nay chị bán chè tàu thưng đó có đau ốm gì chăng? “ (Trang nhà Đỗ Hổng Ngọc)
Câu rao này còn rất có duyên với âm nhạc và thơ ca. Văn sĩ kiêm thi sĩ Trúc Giang hồi năm 1950 có viết truyện thơ “Cô Sáu tào thưng”. Nhạc sĩ Thu An thì viết bài vọng cổ “Gánh chè khuya” sau khi cám cảnh cô gái nghèo mười lăm tuổi đi bán chè nuôi mẹ già. Danh ca Út Trà Ôn và Út Bạch Lan ca bài này hay hết chỗ chê, nhứt là giọng cô Út Bạch Lan rao câu “mở hàng” đến động lòng:
“Ai ăn chè bột khoai bún tàu đậu xanh nước dừa đường cát hôn….”
Trong lời bài hát, tên tào thưng đã rút gọn lại thành “chè thưng”:
“Em đi bán chè thưng. Nặng lo chữ hiếu cho tròn”.
Như vậy, chè bột khoai – bún tàu – nước dừa – đường cát, sau đó thêm đậu xanh – bột báng có tên cúng cơm là tào/tàu thưng, sau đó gọi rút gọn là chè thưng. Tới đây tôi tự hỏi: sao lại là tào/tàu thưng mà không phải một cái tên tiếng Việt?
Cụ Sơn Nam, khi nhắc đến các món ăn Nam bộ, đã nhân tiện giải thích cho tôi hai chữ tào/tàu thưng:
“Nên kể thêm các loại chè, như chè khoai môn nước cốt dừa, chè hột sen, chè đậu xanh đường cát (gọi tàu thưng, đậu và đường, tiếng Quảng đông âm lại)” (Nhiều tác giả – Nam bộ xưa và nay, trang 387 sách điện tử)
Tôi vỡ lẽ: tào thưng hay tàu thưng, cũng có chữ tào/ tàu như trong tào phớ, hay tào/tàu hủ. Tào/tàu là đậu, và theo cụ Sơn Nam, thưng là đường. Nhưng chè đậu xanh chính cống của người Hoa chỉ có đậu xanh, không có bột khoai – bún tàu – nước dừa nên tôi lại đi tìm tiếp, nhứt là cái vụ bún tàu trong chè nghe nó kỳ kỳ.
Tôi viết email xin Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc giải thích cho hai chữ bún tàu trong chè thưng. Bác sĩ trả lời:
“Con chịu khó nghe bài vọng cổ này của Út Trà Ôn nhé, trong đó có tiếng rao ngọt ngào của cô gái bán chè Tàu Thưng. Bác còn thiếu ”đậu xanh” nữa mới đầy đủ con ạ. Hình như cái gọi là ”bún tàu” trong chè ở đây không phải “miến” đâu. Nó to bản hơn, dai hơn, rời rạc chớ không cuộn thành tổ như tổ chim đâu. Hồi nhỏ bác cũng hay… ăn chè nên nhớ mang máng đó con ạ!”
Tôi đoán cái Bác Ngọc tả là bột khoai, vậy lúc Bác Ngọc ăn chè (chắc khoảng những năm 60 khi Bác vào Sài Gòn học Y khoa), bún tàu đã…không còn trong chè thưng nữa. Vì sao tiếng rao vẫn còn “bún tàu” như xưa?
Giây phút “A ha!” xảy ra bất ngờ khi tôi đọc “Những bước lang thang” của nhà văn Bình-nguyên Lộc, một cây bút kỳ cựu của Sài Gòn xưa. Cụ Lộc, thua cụ Vương Hồng Sển một giáp và hơn cụ Sơn Nam cũng đúng một giáp, sống hơn 45 năm ở Sài gòn từ đầu những năm 1930. Trong tập “Những bước lang thang”, xuất bản lần đầu vào năm 1966, cụ Lộc tả món “bột khoai” bán rong trên thuyền trong bài “Quà đêm trên sông Ông Lãnh”:
“Đó là thứ quà hỗn hợp và hỗn độn, hình ảnh của những đợt sóng người tràn vào đây khai hoang đất mới từ ba trăm năm nay. Thứ chè ấy gồm cả những món ăn dùng để nấu thức ăn mặn như là bún tàu (miến), nấm mèo (mộc nhĩ), vân vân…Đặc biệt nữa là khi rao quà, họ kể hết các món ấy ra:
Ai…ăn bột khoai, bún tàu…đậu xanh, nước dừa, đường cát…hôn?” (Những bước lang thang, trang 11-12 sách điện tử)
Tôi nghi cụ Lộc ở nhà thường xuyên nấu ăn, vì chỉ có cụ mới có cái nhận xét rất nghề của người hay nấu ăn là có những món mặn trong cái món chè vốn ngọt này. Cụ thật sự “gãi đúng chỗ ngứa” cho tôi khi xác nhận có bún tàu (miến) trong món chè này. Cái tinh tế thứ hai của cụ là nhận xét của một người quan sát bén nhạy: chè này đặc biệt vì khi rao, người bán kể hết các thức có trong chè ra, chứ không rao gói gọn. Cái tinh tế thứ ba, liên tưởng của một nhà văn hóa, rằng đây là món tượng trưng cho “hình ảnh của những đợt sóng người tràn vào đây khai hoang đất mới từ ba trăm năm nay”. Cụ dùng từ vô cùng chính xác: “hỗn hợp” vì là sự kết hợp giữa nguyên liệu của nhiều tộc dân khác nhau cư trú trên đất Sài Gòn – Gia Định khi đó, còn “hỗn độn” vì có nhiều thứ mặn ngọt xen lẫn. Có lẽ, chỉ có dân khai hoang mới dám thử và chế ra một món chè bạo gan như vậy!
Nhưng bạn có để ý không, cụ Lộc không gọi chè thưng mà gọi là món bột khoai. Một người kỹ tính, tinh tế như cụ chắc không gọi bừa tên một món ăn mà cụ nhắc tới với giọng điệu trân trọng như vậy. Cụ làm tôi phải giật mình: hóa ra ngoài cái tên chè thưng, món chè này còn có một cái tên Việt dễ thương chất phác như vậy – chè bột khoai.
Tôi vẫn chưa yên tâm nên lôi một trong các sách bửu bối ra tìm lần nữa. Cuốn “Từ điển văn hóa ẩm thực Việt Nam” ghi:
“Chè thưng: Đậu xanh ngâm mềm, đãi sạch vỏ, hấp chín, ướp với đường. Bột đao hòa với nước dão dừa, nước đường, bắc lên bếp vừa đun vừa khuấy đều tay cho bột chín đều, khi bột chín trong cho đậu xanh, hạt sen (hấp chín, ướp đường), mộc nhĩ (ngâm nở, thái chỉ), nước cốt dừa vào đảo đều. Ăn nguội.” (trang 349-350)
“Chè bột khoai nước dừa: Bột khoai ngâm nước cho nở. Đậu xanh ngâm mềm đai sạch vỏ nấu chín mềm. Lạc ngâm nước, bóc bỏ vỏ lụa, hầm mềm. Cho nước dão dừa vào xoong, bắc lên bếp, bỏ bột báng và bột khoai vào nấu trước cho chín cho tiếp lạc, đậu xanh và đường vào nấu để các thứ ngấm đường, chế nước cốt dừa vào đảo đều. Bắc xuống cho vani vào. Ăn nóng hoặc ăn nguội với đá.” (trang 450)
Theo các tác giả cuốn từ điển này, chè thưng có dạng đặc mà chè bột khoai là dạng lỏng. Cả hai đều có đậu xanh và nước dừa, ngoài ra chè thưng có hạt sen – mộc nhĩ còn chè bột khoai có bột khoai – bột báng – đậu phụng. Tôi nhờ anh Google tra coi bây giờ thiên hạ nấu chè thưng và chè bột khoai ra sao liền thấy xuất hiện thêm một cái tên – chè bà ba. Nhiều người giải thích một cách rất tự tin: chè thưng chính là chè bà ba. Và chè bà ba thì có thêm vô số kể các thứ mới như khoai lang, khoai mì, khoai môn…Tới đây tôi thật sự “tẩu hỏa nhập ma”: giờ biết tin ai? Trong thân tâm tôi vẫn thấy tin tưởng các vị tiền bối, các cụ đều là người đức cao trọng vọng, lời nói đáng tin. Vậy phải giải thích chuyện nguyên liệu một lần nữa “hỗn hợp” và “hỗn độn” như vầy ra sao?
Trước hết phải tìm ra xuất xứ chè bà ba. Theo Wikipedia tiếng Việt và giang hồ đồn đại thì chè này “là món chè được chế biến lại từ chè bột khoai đường cát của bà Ba bán chè nổi tiếng ở chợ Bình Tây (thuộc quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh) cách đây khoảng một phần hai thế kỉ. Từ món chè bột khoai công thức chỉ gồm có nước cốt dừa, đậu xanh cà, bột khoai, khoai lang… bà đã thêm vào đó phổ tai, táo tàu, hạt sen, mộc nhĩ… tổng cộng tất cả từ 9, 10 thứ nguyên liệu mới trong một chén chè tạo nên món chè bà ba.” Có người còn thêm cái tên bà ba là do “bởi món chè này ngon độc đáo, giống như người con gái đẹp miền Tây mặc chiếc áo bà ba mộc mạc mà hấp dẫn vô song”. Ý tưởng này nghe rất nịnh đầm nhưng sự thực chắc không nhiều lắm. Dù sao nó cũng làm tôi táy máy tra thử nguồn gốc “áo bà ba”.
Nhiều người dẫn lời nhà văn Sơn Nam rằng áo bà ba là từ áo truyền thống của người Baba – người Mã lai Hoa thay đổi mà thành. Tiếc thay, không ai nói rõ Sơn Nam viết như vậy trong cuốn sách nào của ông và trang bao nhiêu. “Trong nhà” chưa rõ, đành “ra ngõ” mà hỏi. Sách “Đông Nam Á bách khoa toàn thư” (Southeast Asia – A Historical Encyclopedia from Angkor Wat to East Timor), trang 199-200, cho biết Baba Nyonya là tên nhóm hậu duệ Hoa – Mã lai (cha Hoa, mẹ Mã lai) cư ngụ nhiều nhất tại Melacca, Penang (Mã lai) và Singapore . Các gia đình thuộc tộc này đa phần khá giả và hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, thương mại. Một số từ Melacca đã di cư đến Sài gòn mở các điểm chuyển tiền, cho vay và bao thầu nhiều tàu chở hàng giữa Sài Gòn và Singapore.
Rồi tôi thấy món Bubur Cha-cha của người Baba Nyonya với nguyên liệu gần tương tự chè bà ba: khoai lang, khoai mì, khoai môn, bột báng, nước dừa, có khác là họ nấu với đường thốt nốt thay vì đường cát trắng. Nhớ cụ Bình-nguyên Lộc có viết trong cuốn “Lột trần Việt ngữ”, trang 100 (sách điện tử trên trang binhnguyenloc.de), rằng người Việt thời đó gọi người Mã Lai bằng một trong năm từ sau: Miền Dưới, Chà Và, Mã Lai, Bà Lai và Bà Ba. Bà Ba có khả năng lớn là phiên âm của Baba Nyonya nhưng dân ta bỏ bớt chữ sau để gọi cho gọn. Dựa vào chuyện này, tôi mạnh dạn suy luận chè bà ba chính là chè của người Bà Ba do một người Hoa-Mã lai bán ở Sài Gòn. Người này có thể tên là Bà Ba, nhưng không ngẫu nhiên mà “truyền thuyết” nói bà này bán ở chợ Bình Tây. Đừng quên chợ Bình Tây còn được kêu là Chợ Lớn Mới do ông Quách Đàm, một thương gia người Hoa bỏ vốn xây cất vào năm 1928 và dĩ nhiên có rất nhiều người gốc Hoa buôn bán.
Rồi vì chè bà ba, chè thưng và chè bột khoai có nhiều nguyên liệu giống nhau, lại thêm lục tàu xá (chè sáu món của người Hoa, gồm đậu xanh, phổ tai, táo đỏ, hạt sen, nhãn nhục, hoa móng tay hay vỏ quýt), ngưòi Sài Gòn bắt đầu pha trộn theo khẩu vị của riêng mình. Kết quả, Sài Gòn có vô số phiên bản chè thưng và chè bà ba, còn chè bột khoai không hiểu sao ngày càng ít phổ biến.
Tới đây chắc sẽ có người cắc cớ hỏi tôi rằng sao lại đặt tên bài viết là chè thưng. Xin thưa, bởi tôi nghĩ chè thưng thực sự là con đẻ của đất Sài Gòn đa văn hóa, mạnh mẽ và phóng khoáng, sẵn sàng tiếp nhận cái mới và biến nó thành đặc trưng của riêng mình. Chè thưng bây giờ, không phải là chè tào/tàu thưng ngày xưa, không hoàn toàn là chè bột khoai, cũng không là chè của người Bà Ba, mà là một món chè chính hiệu Sài Gòn. Vàng ươm khoai lang, trắng bóc khoai mì, tím hồng khoai môn, xanh non phổ tai, trong ngần bột báng, vàng nắng đậu xanh, hồng hồng đậu phụng. Mềm dẻo của khoai, dai dai phổ tai – bột khoai – bột báng, sần sật đậu phụng, mềm nhừ đậu xanh, ngọt béo nước dừa. Có món chè nào trên đời đa sắc và đa vị được như vậy không?
Tôi tin chè thưng có thể tự tin cùng bánh mì thịt, nước mắm, phở đại diện “tinh hoa ẩm thực Việt Nam” đi thi đấu trên trường thế giới. Tôi tin một ngày nào đó, đánh vào tự điển Oxford hay tự điển Ẩm thực Larousse hai chữ chè thưng, tôi sẽ vui mừng đọc thấy dòng chữ “Món chè của Việt Nam” và lịch sử đa văn hóa của chè thưng. Tôi tin ở một hội chợ ẩm thực thế giới trong tương lai, gian hàng Việt Nam sẽ có chị gái mặc áo bà ba bán chè thưng, ngồi xổm cất tiếng rao:
“Ai ăn chè bột khoai bún tàu… đậu xanh nước dừa đường cát…hôn…”
Mong lắm thay!
Minh Lê (Suối Tiên, Khánh Hòa)
………………………………………………..
tác giả gởi ngày 17.10. 2020
Khoảnh khắc
Ảnh Lê Hồng Linh
Lê Hồng Linh muốn tôi ghé thăm phòng triển lãm ảnh với chủ đề Thấu Cảm của anh lần này một chút- một chút thôi- và ghi lại đôi dòng cảm nghĩ. Tôi đã ở vào cái tuổi tám mươi, lại chẳng biết gì về nghệ thuật, kỹ thuật nhiếp ảnh, nhất là trong một thế giới toàn cầu hóa, mỗi người đều như sẵn có một cái máy ảnh trong tay, bấm hoài chẳng sợ hết phim như những ngày xa xưa đó!
Thấu cảm (Empathy) tôi hiểu, không phải là đồng cảm, thông cảm… mà là Gaté, gaté, paragaté…vượt qua, qua “bờ bên kia” để mà hiểu cho “thấu”, để mà cảm cho “thấu”, rồi như Quán Thế Âm Bồ-tát nghìn mắt nghìn tay làm một cái gì đó cho cõi nhân sinh.
Thế là tôi bước vào phòng triễn lãm của bạn. Và tôi cảm thấy mình bị shoc. Một nỗi buồn mênh mông xâm nhập hồn tôi. Đất nước tôi, dân tộc tôi đó ư? Sau cuộc chiến tranh đằng đẵng đầy bom đạn chết chóc, tang thương để rồi cũng chỉ là những nỗi buồn mênh mông vậy sao? Hình như nhà nhiếp ảnh muốn bày ra để mọi người thấy và muốn kêu lên để mọi người nghe.
Thấy gì? Thấy ánh mắt buồn bã của một em bé vùng quê không được đến trường. Thấy những bà mẹ quê gồng gánh con như thời khói lửa, bà mẹ chợ đèo con trên xe đạp trong hai chiếc giỏ… Thấy một người đàn ông thân cò lặn lội trên vùng nước đọng, một người đàn ông khác ráng kéo con ngựa qua dòng thác lũ… Và thấy những nụ cười ngơ ngác của già nua…, ánh mắt sợ hãi của bé thơ…
Nghe gì? Nghe một tiếng kêu thương.
Rồi cũng thấy những tà áo dài trắng tinh khôi lướt qua cây cầu khỉ, soi mình xuống dòng kênh, một “con kênh xanh xanh những chiều êm ả nước trôi…” của ngày xưa, và chiếc xe vua chở ba cô học trò vút bay trong hoa nắng. Chiếc xe vua rồi cũng mất, cây cầu khỉ rồi chẳng còn. Chút kỷ niệm ngọt ngào trong trắng kia làm sao tồn tại trong một thế giới đảo điên, tràn đây vật chất mà thiếu tình người, thiếu hồn nhiên trong sáng…
Tôi thấy dâng lên một nỗi buồn. Sự nghèo khó. Sự cô đơn. Sự bất hạnh… Có thể từ đó mà có sự “thấu cảm”, từ đó mà có ánh mắt bàn tay của Quán Thế Âm chăng? Tôi nghĩ Từ bi là không đủ. Một đống rác khổng lồ sặc sở như núi kia bao giờ sẽ thành hoa? Những người già nua kia rồi về đâu? Những bé thơ hồn nhiên nọ bao giờ sẽ bình minh? Và những người tật nguyền…
Tôi cũng chợt nhận ra cái đẹp ở “Khoảng khắc” dưới ống kính của người nghệ sĩ. Bé sợ hãi chới với níu tay mẹ. Bà cõng bé như trốn chạy với những ngón tay quíu lại một vành đai. Cái ánh mắt của con khỉ ôm chặt lấy em bé như một chỗ dựa khi thiên nhiên bị tàn phá không còn là chốn nương thân… Và chiếc xe vua bay giữa ngàn sao…
Lê Hồng Linh chia sẻ về nghề:
Máy ảnh không phát hiện được cái đẹp.
Chỉ có độ nhạy cảm con người mới nhìn thấy và sáng tạo cái đẹp.
Tâm hồn là loại ống kính tốt nhất mà nhà nhiếp ảnh phải gìn giữ sự trong sáng của nó.
Quả thực, ảnh của Lê Hồng Linh là cái hồn, từ nụ cười đến ánh mắt, từ làn sóng đến cơn mưa… Với tôi, anh là một nhà thơ biết ‘tan vào nhau trong từng khoảnh khắc” khi anh viết những câu thơ cho một bức ảnh:
Anh/ như mây/ như sương
Trôi/ đến núi em/ thành thủy mặc
Tan vào nhau/ trong từng khoảnh khắc
Tuyệt mù
(LHL)
Tôi bỗng nhớ một bài thơ cổ:
Chàng như mây mùa thu
Thiếp như khói trong lò
Cao thấp tuy có khác
Một thả cũng tuyệt mù…
“Một thả”, ấy là “tan vào nhau” đó vậy.
Đỗ Hồng Ngọc
(Saigon, Trung thu 2020)
Ghi chú: Bác sĩ Hồ Đắc Đằng tác giả “tập truyện Phật giáo” Vô Kỵ Học Võ đã post trên trang này (https://www.dohongngoc.com/web/goc-nhin-nhan-dinh/ho-dac-dang-vo-ky-hoc-vo/) rất được bạn đọc ưa thích và đề nghị… viết tiếp. Hồ Đắc Đằng hứa sẽ cố gắng viết dài dài cho đến khi Vô Kỵ gặp được Triệu Minh mới buông viết… để Vô Kỵ về vẽ lông mày cho hiền thê! Mời bạn xem nhe.
Rất cám ơn Đèn Biển (Võ Quang) đã trợn trừng đèn pha thâu đêm để gõ bài này từ thứ chữ viết tay trời ơi của Bs Hồ Đắc Đằng!
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc
………………………………………………………………………..
Vốn là Vô Kỵ có 2 thằng bạn: một thằng ở gần nó và thằng kia thì ở xa lắm, nửa vòng trái đất. Thằng ở gần đâm ra ngã bệnh. Bệnh ung thư mới ghê chứ. Bữa nọ, nó gọi Vô Kỵ:
– Mới đi Chemo về như cái mền rách, cơm canh chẳng còn mùi vị gì cả, tóc thì rụng trụi lủi, chưa đi tu mà đã thành sư.
Rồi nó cười ha hả.
– Còn mấy cái muối vừng, muối mè thì sao?
– Được đáo để, chỉ còn mấy cái đó là còn nuốt được. Ngủ thì tốt lắm. Chẳng cần thuốc ngủ, thuốc an thần gì ráo. Có mấy thằng nó cứ lo mình depressed. Mình chẳng có depressed cái con m… gì cả. Cái ung thư để cho tụi oncologist nó lo. Mình lo chuyện mình. Quán vô thường, quán về Lão Bệnh Tử là đã nhất. Hết lo sợ chết, cụ ạ.
Đúng vậy, nhận xét mấy cái tiến bộ trong công việc tu tập tâm linh của hắn từ 6 tháng qua, Vô Kỵ nhận ra rõ rệt là cái thằng bạn gần này đã đạt được cái vô úy của Phật dạy: Hết sợ chết.
Nó bèn viết một cái thư cho thằng bạn ung thư Chemo, rụng tóc nầy:
– Nầy bạn, con người ta ai ai cũng biết là tất cả chúng ta đều phải chết một ngày nào đó. Con nít 10 tuổi là đã có cái kiến thức này. Cái kiến thức về Chết này là mình ở tầng thứ nhất của tâm thức đấy: tầng não.
Xuống một tầng là đến tầng tim. Ở tầng nầy, chẳng những mình biết là ai cũng sẽ chết, mình hiểu tận tâm can là nó như vậy: gọi là chết ở tầng tim.
Tự tại, ung dung, hết sợ chỉ còn bị Chemo giày vò xác thân mà tâm thì an bình. Hai anh em cười ha hả, đồng ý dời nhà từ tầng trên xuống tầng dưới cho nó sướng và để mấy cha oncologist muốn làm gì thì làm. Mình làm theo rơm rớp cho mấy ổng vui mà vợ con mình cũng vui luôn, buồn nôn, mất khẩu vị cũng chịu được.
Vô Kỵ nó mới gửi cái thư đó cho thằng bạn xa nửa vòng trái đất. Thằng nầy cũng cười ha hả lại chêm một câu:
– Khá lắm. Chết trên não đã dời đô xuống chết trong tim là khá lắm, nhưng chưa siêu! Dời đô xuống rốn thì mới siêu đấy!
Vô Kỵ nghe, nó ngẫm nghĩ khá lâu. Xuống rốn, xuống umbilicus có nghĩa gì nhỉ, mà thằng bạn xa này muốn chỉ? Nó lựa một lúc thầy nó rảnh rỗi, không ngồi thiền mà cũng không quét sân, nhổ cỏ, nó mang vấn đề ra hỏi thầy nó:
– Thưa thầy, thằng bạn kia muốn nói cái gì vậy? Dời nhà xuống ở cái rốn?
Thầy nó mỉm cười:
– Này Vô Kỵ, thầy không chắc là bạn con muốn nói gì. Nhưng thầy có vài cảm nghĩ về cái rốn nầy.
– Thưa thầy con biết rồi. Cái rốn là trọng tâm của cơ thể con người?
– Bậy bạ! Con chẳng biết giải phẫu học (Anatomy) của con người gì hết. Trọng tâm (Center of gravity) của con người không phải cái rún mà là cái nhiếp hộ tuyến (prostate)!
Vô Kỵ cụt hứng.
– Chắc con có nghe nói là trong võ thuật có nói đến chữ đan điền. Đó là chỗ cái rốn. Đem khí lực vào đan điền và xuất phát khí lực từ đan điền. Thầy không có hành pháp nầy nên thầy không chỉ dạy cho con được. Khí lực từ tâm. Muôn sự tại tâm mà tâm ở đâu thì không ai biết. Chỉ biết là khi con có tâm tại thân thì con tỉnh mà khi con tâm bất tại thân thì con ngủ mà Phật gọi là sleep walker. Thở vô, biết thở vô, thở ra, biết thở ra là tỉnh đấy. Tâm bay nhảy là tâm ngủ ngày. Thở là hiện tại, tại đây và bây giờ.
Cái rốn, cuống rốn và cái nhau (placenta)
Vô Kỵ con, con có biết cây trái nó cũng có nhau không? Cái hạt ở chính giữa là cái thai nhi. Cái gì nuôi cái hạt ở giữa sống được nhiều ngày nhiều tháng trước khi cái hột kia đụng mặt đất và đâm rễ ra để hấp thụ chất bổ dưỡng, nước từ đất? Chính là cái trái đó.
Cái trái của cái hột là cái nhau của thai nhi.
Này Vô Kỵ. Cả nhiều tuần sau khi trứng được thụ thai, thử máu, thử nước tiểu dương tính mà làm siêu âm chẳng thấy gì cả vì cái nhau còn nhỏ quá. Bao nhiêu phân bào là để tạo một cái cơ quan căn bản để tiếp tế, hậu cần cho thai nhi nầy: Cái nhau.
Kế đó, cái cuống rốn như sợi dây liên hệ của phi hành gia rời khỏi phi thuyền, chỉ còn sống được qua sợi dây cuống rún này.
Nhân loại mà sống được trong giai đoạn này là nhờ tiếp xúc hết sức chặt chẽ với mẹ. Quả địa cầu là mẹ của muôn loài, là lẽ sống của muôn loài, là nhân chứng của hiện hữu.
Con nhớ khi Đức Phật mới đắc đạo dưới cội Bồ đề, Ma Vương hiện lên cám dỗ. Ngài chỉ mỉm cười “Ta biết nhà ngươi rồi” và dùng bàn tay trái của Ngài chạm mặt đất như một nhân chứng: “My family is all humanity ; My home is Earth”. Chạm đất là về nhà. Nhà là vững vàng tám gió không động.
Ai ai cũng có một cái nhà mà mấy ai tìm trâu, thấy trâu và dắt trâu trở về nhà được!
Rốn là nhà mà từ đó con bám lúc con ra đời. Rốn cũng là đất mẹ, là nhà để con trở về lúc con tắt hơi.
Cắt cuống rốn, bơ vơ trong đời. Khi cái dây loằng ngoằng nhơn nhớt bị kẹp giữa 2 cái kềm nhỏ và cây dao của bà mụ cắt ra làm hai, con phải tự thở lấy, khóc oe oe và tự ăn lấy, nút chụt chụt. Con khóc là vì cái phòng sanh ồn ào quá, sáng chói quá, ai cười, ai khen con cóc cần. Con chỉ tiếc cái thiên đường êm ái, yên lặng, để con ngủ ngon mà không cần làm gì cả, cả ăn lẫn thở. Ôi, thời kỳ huyền diệu này không còn nữa khi bà mụ cắt cái cuống rốn này.
– Thưa thầy, tại sao khi tâm thức xuống đến rốn thì còn hơn là ở tầng tim nữa?
– Tầng tim là con hết sợ chết. Tầng rốn thì con đã về đến nhà rồi. Nếu sánh trong thập mục ngưu đồ (tranh chăn trâu), tầng tim là mục đồng ngồi mình trâu, thổi sáo, về nhà, tầng rốn là về đến nhà, tấm tranh thứ 10, không còn mục đồng cũng không còn trâu.
Vô Kỵ trầm ngâm, ngẫm nghĩ, lâu nay nó cứ muốn hỏi về tranh chăn trâu này mà nay có dịp thầy giảng luôn cũng được.
– Thưa thầy, khi người ta chết, có nhiều người muốn được về chết ở nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Cái nhau của mẹ đã được hỏa thiêu từ ngày mình sanh.
– Vô Kỵ, con không có biết y khoa gì ráo. Con nói cái nhau của mẹ. Thật ra cái nhau là của con đấy. Cái trứng vừa được thụ tinh chính là con. Dĩ nhiên, từ mẹ cha cung cấp vật liệu cho con cất nhà. Cái nhau nầy là của con đấy. Nhà thương đốt cái bộ phận này của con như đốt một cái cơ quan mà con không còn cần dùng nữa. Con tự ăn, tự thở được rồi. Nhau rốn trở về đất mẹ, chờ con đến lúc con cũng trở về đất mẹ, đoàn tụ lại. Trở về nhà là vậy.
Nơi chôn nhau, cắt rốn này không tùy thuộc địa dư, vì tất cả nhân loại chưa có người nào mà nhau, rốn của họ được chôn trên thiên hà Andromeda. Vì vậy thái tử Sĩ Đạt Đa mới tuyên bố nhà của người là địa cầu. Đâu đâu cũng là nơi chôn nhau cắt rốn của mình hết. Con học được gì, Vô Kỵ?
– Thưa thầy, nhau rốn là nhà của mình, cả nghĩa bóng lẫn nghĩa y khoa. Mới sanh ra thì một phần căn bản nhất đã chết rồi, sau 100 năm chết một lần nữa, lại quay về nhà cũ cũng được thôi. Không gì ung dung tự tại bằng về đến nhà, thưa thầy.
Thầy nó mỉm cười, vui thấy Vô Kỵ đã hiểu.
HĐĐ.
“Ba điều bốn chuyện”
Một bạn trẻ hỏi có “bí quyết” nào dễ nhớ để học Phật cho tốt không?
Có đó. Tôi gọi đó là “Ba điều bốn chuyện”.
Chuyện thứ nhất: Phật không phải là một thần linh, một giáo chủ… uy quyền tối thượng, ban bố ơn phước cho loài người. Phật là một người bình thường như ta, cũng trải qua khổ đau bệnh hoạn già nua và chết chóc như chúng sanh. Nhờ tìm được con đường thoát khổ mà chia sẻ với mọi người với lòng từ bi vô hạn, bởi ai cũng có Phật tính, ai cũng sẽ thành Phật mai hậu. Phật không độc quyền làm Phật một mình. Cho nên Phật là một đạo sư “Chánh đẳng Chánh giác”, một nhà giáo dục, một bậc y vương đáng quý đáng trọng.
Chuyện thứ hai: Phật khuyến khích hãy quay về nương tựa chính mình, đừng chạy vạy tìm kiếm đâu xa. Tự trách nhiệm về cuộc đời mình, chọn con đường mình đi. Không ai vào nước thiên đàng hay địa ngục vĩnh viễn, ai cũng có cơ hội để thay đổi vòng đời mình. Nói khác đi, tạo cho mọi người tự tin vào năng lực của riêng mình và hoàn toàn bình đẳng, không phân biệt.
Chuyện thứ ba: Thở là quan trọng số một của đời sống. Hãy biết thở đúng. Thở đúng để thấy thân tâm nhất như. Và nhìn kỹ vào hơi thở để thấy rõ sự sống chết, sự tạm bợ, sự đổi thay, sự không có cái tôi riêng mình vì thở cóc cần ta, chẳng phải của ta, chẳng phải là ta.
Chuyện thứ tư: Ăn là quan trọng. Cần phải hiểu tại sao ăn, ăn cái gì, ăn bao nhiêu, ăn cách nào… Phật mang bình bát đi khất thực vài tiếng đồng hồ mỗi ngày và ai cho cái gì cũng vui nhận, không đòi hỏi, chẳng từ chối. Mang về vo lại thành một cuộn tròn để ăn một cách chánh niệm gọi là “đoàn thực”. Đủ glucid, protid, lipid, mineral, vitamin… thành ngũ uẩn. Ăn ngũ uẩn để nuôi thân ngũ uẩn. Vẫn là tùy duyên, vô thường, vô ngã. “Ăn chay” là ngoài đoàn thực còn phải chú ý đến các món ăn khác là xúc thực, tư niệm thực, thức thực.
Đó là bốn chuyện.
Còn ba điều là sao?
Một là phải hiểu “thuật ngữ” Phật học. Không hiểu thuật ngữ thì sẽ bối rối, hiểu lầm, dễ dẫn tới dị đoan mê tín. Khi phải giảng về Phật pháp, tốt nhất là ”vô ngôn”, vì ngôn ngữ tự nó đầy rẫy những cạm bẫy. Thí dụ: “Tam- ma- địa” mới nghe tưởng là vùng đất của ba con ma! Thực ra Tam-ma-địa do phiên âm chữ Samadhi, nghĩa là Chánh định, một thứ định sâu. Chữ Niết-bàn chẳng hạn không phải là cái nơi thiên đàng, cực lạc, mà là chữ phiên âm của Nirvana, “tắt lửa”, nghĩa là không còn tham lam, sân hận, si mê gì nữa. Đã hoàn toàn giải thoát phiền não khổ đau. Ngay cả chữ “chúng sanh” cũng vậy. Cho nên Phật bảo “chúng sanh không phải là chúng sanh, chỉ tạm gọi là chúng sanh” (chúng sanh tức phi chúng sanh, thị danh chúng sanh- Kim Cang).
Hai là phải hiểu những ẩn dụ, ẩn nghĩa, mật nghĩa… khi đọc kinh sách Phật. Ta thấy trong kinh Pháp Hoa nói đến hóa thành, cùng tử, viên ngọc trong chéo áo… Niệm Quan Thế Âm thì gặp lửa lửa tắt, gặp nước cuốn trôi thì nước cạn, muốn sanh con trai có con trai, con gái có con gái… Tưởng thiệt thì nguy! Lửa ở đây là muốn chỉ lòng sân hận. Sân hận đưa ta vào chín tầng địa ngục. Nước ở đây là lòng tham cuồn cuộn cuốn ta vào hố thẳm không đáy… Con trai là Trí tuệ, con gái là Từ bi…
Ba là học Phật phải Thực hành. Từ từ, không nóng vội. Nóng vội sẽ dẫn tới “tẩu hỏa nhập ma”. Thực hành trong cách thở, cách ăn, cách nghĩ, cách làm. Học Bồ-tát Thường Bất Khinh để luôn kính trọng mọi người, không phân biệt. Học Bồ-tát Dược Vương để luôn chân thành, ai thấy cũng vui ai gặp cũng mừng (nhất thiết chúng sanh hỷ kiến). Học Bồ-tát Quán Thế Âm để biết thấu cảm, nghìn mắt nghìn tay, hóa thân đủ hình dạng tùy cơ ứng biến giúp người bất cứ nơi đâu có tiếng kêu khổ đau của trần thế. Đó chẳng phải là những đức tính tôn trọng (respect), chân thành (genuine), thấu cảm (empathy) giúp cho cuộc sống luôn an lạc, hạnh phúc ư?
Đỗ Hồng Ngọc
(9.2020)
Thư gởi bạn xa xôi
(25.9.2020)
Sáng mở email, thấy Bác sĩ Nguyễn Cầm, anh bạn cùng khóa ở Y khoa Đại học đường Saigon với mình (1962-1969) chuyển cho bạn bè một bài viết rất dễ thương của Nguyễn Nhật Ánh: Về giọng nói ở một nơi không có xe lam.
Nguyễn Cầm vui lòng cho mình post lại trên trang này nhé. Cám ơn bạn.
Dịp này mình cũng chia sẻ thêm vài câu chuyện quanh “giọng nói” đặc biệt vùng miền này để tặng ca sĩ Thu Vàng, nhà văn Trúc Hạ, Nguyễn Quang Chơn cùng các bạn ở Hội An nhe.
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc.
.
Về giọng nói ở một nơi không có xe lam
Nguyễn Nhật Ánh
Giọng Quảng phân biệt một cách rõ ràng giữa âm TR và CH, S và X, D và V, R và G… Nhưng âm giữa và âm cuối, người Quảng thường phát âm chệch.
“En không en tét đèn đi ngủ” (Ăn không ăn tắt đèn đi ngủ) có lẽ là câu nói phổ biến nhất nhằm giễu cợt cách phát âm của người Quảng. Người ta còn bảo ở Quảng Nam không có xe lam, xe đạp. Hỏi tại sao, đáp: Tại Quảng Nam chỉ có xe “lôm”, xe “độp”.
Liên quan đến chiếc xe đạp, còn có câu chuyện hài: Người Quảng Nam đi vào một cửa hàng bán phụ tùng xe ở Sài Gòn, cố uốn giọng để phát âm cho chuẩn, oái ăm sao rốt cuộc lại thành: “Bán cho tôi một cái… láp xe độp”.
Người bán sau một hồi gặng hỏi, bực mình: “Lốp xe đạp” thì nói đại là “lốp xe đạp” ngay từ đầu, còn bày đặt… nói lái là “láp xe độp”. Nào có cố tình lái liếc gì đâu, thật oan còn hơn oan Thị Kính! Những câu chuyện như thế, ngẫm ra còn rất nhiều.
Rủ nhau vô núi hái chơm chơm
Nhớ bạn hồi còn học chữ Nơm
Sáng sáng lơn tơn đi nhử cuốc
Chiều chiều xớ rớ đứng câu tơm
Mùa đông tơi lá che mưa bấc
Tiết hạ hiên tranh lộng gió nờm
Nghe chuyện xóm xưa thời khói lửa
Sảng hồn, sấm nổ tưởng đâu bơm!
Nhà thơ trào phúng Tú Rua cũng có một bài tương tự, nhưng trong bài thất ngôn bát cú này “a” biến thành “ô”:
Rứa mới kêu là chất Quảng Nôm
Ăn hòn nói cục chẳng thôm lôm
Có chàng công tử quê Đà Nẽng
Cưới ả Thúy Kiều xứ Phú Côm
Cha vợ đến thăm chào trọ trẹ
Mẹ chồng không hiểu nói cồm rồm
Thêm ông hàng xóm người Hà Nội
Chả hiểu mô tê cũng tọa đồm.
Cả hai bài đều hay.
“Khách đòi mua bánh bèo đem về, con Cúc kêu con Lệ:
– Chị kiếm cho em cái “bô”!
Chữ “cái bao” qua cái giọng nguyên chất của con Cúc biến thành “cái bô” khiến con Lệ thừ ra mất một lúc. Rốt cuộc, tuy không hiểu con Cúc kiếm cái bô làm chi, con Lệ vẫn vào toa lét cầm cái bô đem ra:
– Nè.
Con Cúc ré lên:
– Trời, lấy cái ni đựng bánh bèo cho khách răng được?”
Như vậy, giọng Quảng Nam không chỉ xuất hiện trong những câu chuyện tiếu lâm dân dã, mà còn đi vào cả văn thơ. Ở đây, không thể không để ý đến một điểm đặc biệt: nhà thơ Tường Linh, nhà thơ Tú Rua và tôi đều là… người Quảng Nam. Và tôi e rằng những mẩu chuyện cười về giọng Quảng đa phần đều do người Quảng Nam sáng tác.
Nếu để ý, bạn sẽ thấy trong những bàn trà, cuộc rượu, chính dân Quảng Nam là những người kể một cách sảng khoái nhất những mẩu chuyện cười về giọng Quảng chứ không ai khác. Những người dân của xứ “xe lôm”, “xe độp” đó cũng là những độc giả đón nhận những vần thơ “tự trào” của Tường Linh, Tú Rua một cách vô cùng nồng nhiệt.
Bên cạnh sự thích thú, còn có sự thân thương. Nhất là những người Quảng tha hương, đã bao nhiều năm không được sống trong khung cảnh quê nhà, bây giờ bỗng đọc thấy, bỗng nghe nói chữ “con tơm” thay vì “con tôm”, “cái bô” thay vì “cái bao”, “thôm lôm” thay vì “tham lam” tự nhiên thấy bao nhiêu kỷ niệm ấu thơ ùa về.
Cái giọng nói mộc mạc, quê kiểng đó là giọng nói của ông bà, cha mẹ, thầy cô, bạn bè, hàng xóm láng giềng mà mình đã quen tai từ nhỏ, ngay từ lúc còn nằm u ơ trong chiếc nôi ru. Chất giọng đó đã ngấm qua bao mưa nắng, trải qua bao bão giông của thiên nhiên và cuộc đời mà hình thành và trụ lại cho đến hôm nay.
Nó gợi lên những vùng đất, những mặt người, những ký ức mà người Quảng xa xứ nào cũng chất chứa trong lòng như một hành trang vô hình. Nó là một giá trị phi vật thể, không phải để tổ chức UNESCO công nhận mà để những người Quảng tự hào như một tấm “căn cước tinh thần” mà mình mang theo suốt cả đời người. Có thể nói, giọng Quảng là một phần của văn hóa Quảng.
Khi nhà thơ Lý Đợi (cũng người Quảng Nam) gửi cho tôi qua email bài Mưa chiều kỷ niệm được hát bằng giọng Quảng, tôi nghe, thoạt đầu thì bật cười, nhưng càng nghe càng xúc động, cuối cùng là rưng rưng nước mắt.
Lúc đó tôi chưa biết người hát là Ánh Tuyết. Tôi nghe đi nghe lại nhiều lần, mường tượng đó là giọng của người chị họ yêu dấu năm xưa, của cô bạn gái ngây thơ thời trung học. Càng nghe càng thấy nhớ và bồi hồi nhận ra cái chân chất trong giọng hát, trong tâm tình người Quảng chân quê.
Ánh Tuyết chưa ra album, những bài hát demo kia đã phát tán trên mạng nhanh như gió. Và tôi đọc thấy biết bao lời chia sẻ đượm thương yêu, trìu mến của người Quảng đang lưu lạc ở khắp nơi trên thế giới. Họ cảm ơn Ánh Tuyết, cảm ơn những ca khúc hát bằng giọng Quảng đã giúp những người Quảng tha hương được một lần thổn thức hoài vọng quê nhà.
Hiển nhiên, giọng Quảng không phải là giọng để chinh phục và phổ biến những ca khúc một cách chính thức, đại trà. Bên cạnh giọng Quảng, những ca khúc trong album Duyên kiếp còn được Ánh Tuyết trình bày bằng giọng Bắc – dành cho những thính giả chưa có “bằng B tiếng Quảng”.
Rõ ràng, Ánh Tuyết thực hiện album này như là một cuộc chơi của người con xứ Quảng. Như các nhà thơ Tường Linh, Tú Rua đã từng chơi những cuộc chơi của mình.
Những cuộc chơi nghiêm túc. Và giàu ý nghĩa, ít ra là với người Quảng Nam!
Nguyễn Nhật Ánh
(https://thanhnien.vn/van-hoa/ve-giong-noi-o-mot-noi-khong-co-xe-lam-439694.html)
………………………………………………………..
Viết thêm:
Nguyễn Nhật Ánh “ngán ngẩm” nhìn dòng người xếp hàng chờ đợi anh ký tên… tại Hội chợ sách năm kia ở Saigon (ảnh ĐHN).
2. Nhà văn Huỳnh Ngọc Chiến kể ở xứ Quảng có ông Dương Quốc Thạnh, biệt hiệu Sơn Hồ, chuyên làm thơ “nói lái” theo thể Đường luật rất hay. Có lần một cặp trai gái yêu nhau chưa cưới mà đã mang bầu mấy tháng. Đàng gái xin cho cưới gấp đàng trai không chịu. Nhà thơ quen biết cả hai bên nên nhà gái nhờ ông thuyết phục. Cuối cùng đám cưới vẫn được diễn ra với cô dâu mang bầu 6 tháng (!). Không khí nặng nề giữa hai họ được giải tỏa hoàn toàn khi nhà thơ – với tư cách chủ hôn- đọc bài thơ:
Ai bàn chi chuyện đã an bài
Trai khiển đồng tình gái triển khai
Cứ sợ cho nên thành cớ sự
Mai than mốt thở lỡ mang thai
Tính từ ngày tháng vương tình tứ
Khai ổ bây giờ báo khổ ai
Cưỡng chúng ông bà nghe cũng chướng
Thôi đành để chúng được thành đôi!
(chuyện kể của Huỳnh Ngọc Chiến).
Một bài thơ xưa thời vương phủ của Nguyễn Xuân Thiệp trong TÔI CÙNG GIÓ MÙA:
Nhịp bước mùa thu
sáng nay. tôi lắng bước mùa xưa
chim nhỏ. năm nao. đậu khóm dừa
sông chớm đôi bờ thu quạnh quẽ
đường dài, son đỏ. quán lau thưa
nhà ai. phơi áo. ngoài hiên nắng
nắng tắt trưa qua. lạnh bến chờ
cây ố. sắc tường. vương phủ ấy
trẻ nghèo. nhặt lá. ngói rơi. hư
nghìn mùa. sương khói. dậy âm vang
lộp bộp. hiên sau. trái rụng vàng
bóng sậu. kêu qua bờ mía dại
xa nhau. mùa thu. mưa trong trăng
em đi. nhịp bước dạo đôi mùa
áo biếc. chìm trong dáng núi xa
trống lẻ. trường bên. hờ hững điểm
hoàng thành vừa chợp giấc mơ trưa
thời đại xây trên lòng quá khứ
tiếng mùa. hốt gió. rắc ly tan
này em. nhìn lại nương cày cũ
mặt đất. khô se. bặt tiếng đàn
1956
………………………………………………..
Thư gởi bạn xa xôi (7.2019)…
Một hôm gặp lại Nguyễn Xuân Thiệp
Bạn biết đó, mình vừa mất toàn bộ các bài viết, draft, hình ảnh… trong cái “ổ cứng” kỳ cục gì đó của máy vi tính… Đứa cháu nói để con ráng “cứu” dữ liệu xem sao. Thất bại. Mà như bạn biết, “Thất bại là mẹ đẻ của… đại bại” nên không có gì đáng ngạc nhiên.
Lò mò thế nào, lượm được bài Nguyễn Xuân Thiệp đọc “Một Hôm Gặp Lại” của Đỗ Hồng Ngọc. Trời ơi, xưa giờ chưa thấy một bài “đọc sách” nào trời ơi đất hỡi như vậy. Nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp, chủ xị phovanblog bạn nhớ chứ? Mình chưa gặp anh lần nào mà đã thân thiết lắm. Anh lứa lớn, bạn với anh Cao Huy Thuần mà. Cao Huy Thuần bảo ngay từ hồi còn bé, chơi với nhau chỉ thấy Nguyễn Xuân Thiệp làm thơ! Và thơ anh ngay từ thời xa xưa đó không chỉ có từ có tứ có âm có vận mà còn rất “tân hình thức” nữa. Những dấu chấm đột ngột, những ngắt dòng đột ngột… đã khiến câu thơ sửng sốt thành vô số tứ thơ, bài thơ…
Và như thế, Nguyễn Xuân Thiệp đã “đọc sách” Một Hôm Gặp Lại của Đỗ Hồng Ngọc. Một bài đọc sách kỳ cục, một bài rất thơ nguyễn xuân thiệp… Rảnh đọc lai rai vậy nhé.
Ta sẽ giật mình “gặp lại” biết bao người, biết bao nỗi niềm từ Bồ Tùng Linh đến Nguyễn Du, Saint Exupery, rồi Bùi Giáng, Mai Thảo, Quách Thoại, Hoàng Ngọc Biên, Diễm Châu, Trịnh Công Sơn, Đỗ Trung Quân, Từ Thế Mộng, Nguyễn Bắc Sơn, rồi Đinh Cường, Bửu Ý, Nguyễn Đức Sơn, Hà Thanh, rồi Võ Phiến, Trang Thế Hy, Thận Nhiên, Diễm Tú, Hoàng Chu, Xuân Phước, Kim Phượng, rồi Trần Hoài Thư và Yến, Lữ Kiều, Lữ Quỳnh, Lê Ký Thương…
Và vì thế, không có lý do gì ta chẳng “gặp lại” Nguyễn Xuân Thiệp “một hôm”,
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc.
(Sg 22.7.2019)
…………………………………
Mời đọc lại bài đọc sách “trời ơi đất hỡi” của Nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp:
VÔ KỴ HỌC VÕ
truyện Hồ Đắc Đằng
Vui lòng chọn mủi tên trắng ở góc trái dưới trang sách để bấm coi tiếp.
ĐHN
VÔ KỴ HỌC VO (HDD-DHN)-converted
Thư gởi bạn (9.2020),
Nhớ Bác sĩ Hồ Đắc Đằng không? Anh là tác giả của tập truyện ngắn về “Phật học” khá lý thú VÔ KỴ HỌC VÕ đó – mà mình đã post dần trên trang này- nhớ không? Hồ Đắc Đằng cùng khóa với mình và Thân Trọng Minh, Nguyễn Kim Hưng, Lê Quang Khánh… ở Y khoa Đại học đường Saigon (1962-1969) bây giờ người ở Úc, người ở Mỹ, người SG, nói chung… tản mác bốn phương! Tháng 5 năm ngoái, Lớp mình tổ chức Họp mặt Kỷ niệm 50 năm Ngày ra trường ở Mỹ, bạn bè về tham dự rất đông vui. Mình chỉ gởi Thân Trọng Minh mang được 2 cuốn “Về thu xếp lại” riêng tặng Bs Bùi Thị Ngọc Diệp và Hồ Đắc Đằng vì TTMinh bảo hành trang nặng quá rồi…
Đằng mới về hưu chưa lâu, cũng muốn “về thu xếp lại” lắm mà làm biếng quá, không làm chi được dù chỉ để thu xếp cái garage… và hôm nay bạn gởi về mình một bức thư này xin chia sẻ cùng bè bạn thân quen…
HĐĐ không quen gõ tiếng Việt trên vi tính nên thích viết thư tay- thứ chữ bác sĩ trời ơi không đọc nổi. May thay, mình có người em là Đèn Biển (Võ Quang) gõ giùm ra word cái vèo! Cảm ơn Đèn Biển nhe.
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc
(15.9.2020)
……………………………………………………………….
“Làm gì bây giờ?”
Hồ Đắc Đằng
Ngọc ơi, tự nhiên nhớ đến bạn, viết cho bạn vài chữ chơi.
Từ ngày hồi hưu đến giờ, tôi mới có một cái công thức mới để sống trên đời.
“Cái gì mà để ngày mai làm được, là để ngày mai hãy làm”.
Đúng phong phóc vô cái tánh làm biếng của mình hồi còn con nít. Thầy giáo toán cho 20 bài toán lúc bãi trường năm đệ lục. Vừa dở toán, vừa sợ toán lại thêm tật khoái bắn mấy con chim chít, toát mồ hôi còn có 2 ngày nữa tựu trường mà chẳng có làm bài nào cả.
Sướng thay bây giờ, không còn home work, không còn dead line, không còn trách nhiệm gì cả. Chỉ còn có một cái là đóng thuế thì đã có bà xã lo liệu đầy đủ, mình ung dung, tự tại như một ông Phật con.
Đọc quyển “Về thu xếp lại” của bạn tôi, thấy khoái quá. Đúng phong phóc. Gần đất, xa trời, tìm cái nursing home nào gần nhà để vô đó dưỡng già. Tìm cái funeral home nào gần đó để khỏi mất công ông giám đốc chuyên chở. Ôi chu choa, nhà tôi ở đây gần cả hai cái. Nursing home thì có 4 blocks là đến. Tôi lại quen hầu hết nhân viên trong đó, hồi thăm nuôi bà già ở đó. Cái funeral home thì chỉ 3 bước là đến. Nó lại có cái nhà thiêu ngay sau cái parking lot của nó. Tiện ơi là tiện.
Thế là tôi nghe lời bạn, về thu xếp lại… cái garage.
Ối chu choa, sao mà nó nhiều đồ thế. Nhiều cho đến đỗi mà cái xe Subaru lão niên 20 tuổi đời của tôi phải đậu ở ngoài. Thấy mà ngán. Ngán còn hơn cái 20 bài toán cho bãi trường hồi đệ lục nữa. Rốt cuộc, đâu vô đó, hồi hưu 3 tháng rồi mà xe vẫn phải đậu ở ngoài.
“Ai có thể thở giùm ai?” của bạn gởi. Ối chu choa hay ơi là hay. Thật là đến đúng lúc. Nó cho tôi một cái lý do vững chắc để chẳng phải cần lo dọn dẹp cái garage của tôi nữa. Bừa bãi, thì đâu còn đó, một ngày thêm bừa bãi cũng chẳng chết ai. Tôi tự nhủ: Để mai làm tiếp. Thế là tà tà đi nhổ cỏ, tưới hoa, sợ nó khát nước, nó buồn. Ngó quanh, ngó quẩn xem có con dế, con nhện nào mới rơi xuống nước thì đem nó ra, tội nghiệp nó suýt chết chìm.
“Làm gì bây giờ?” Đây mới chính là cái câu hỏi của tôi mà bạn đã trả lời đó: “Tôi thở giùm tôi”.
Đúng vậy Ngọc ơi. Chỉ có mấy cái thở vô thở ra là tôi không dám để ngày mai làm.
Rốt cuộc, “về thu xếp lại” cứ để mai hãy làm. Hôm nay, thở vô thở ra cũng đủ sướng rồi. Khi nào vô hòm ở nhà quàng thì khỏi cần thở vô thở ra nữa. Cũng không có lo, ngày mai lại thở lại dễ như chơi. Chỉ có ai thở thì không chắc lắm. Làm người cũng được nhưng mà ngại một chút.
Nhìn chung quanh mình có nhiều người mình sợ quá, làm người kiểu mấy người này thì mình thà làm cây thông như Nguyễn Công Trứ:
“Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo”
HĐĐ
(11.9.2020)
Hồ Đắc Đằng và Thân Trọng Minh (5.2019)
“Về Thu Xếp Lại”
Hai Trầu: NHỮNG LÁ THƯ TỪ KINH XÁNG
Ghi chú: Anh Hai Trầu Lương Thư Trung năm nay mới 78 tuổi nhưng cũng muốn bắt chước tôi “Về thu xếp lại”, nhất là vào thời buổi co ro do Corona virus này, đã phải ru rú trong xó nhà nhiều ngày nhớ bè nhớ bạn, bèn gom góp mấy bức thư viết từ Kinh xáng Bốn Tổng “phỏng vấn” tôi trên trang nhà dutule.com từ năm 2013, gởi tôi gọi là “để dành” coi cho vui.
Xin post lại đây, chia sẻ cùng bè bạn thân quen, rỗi rảnh, lai rai đọc nhe.
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc.
(12.9.2020)
……………………………….
Lời thưa của Hai Trầu:
Thưa bạn,
Trong cuộc trò chuyện với Bác sĩ, nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc trên trang nhà dutule.com kéo dài tròn ba tháng (từ 15-3-2013 đến 14-6-2013), tôi có 4 “Lá Thư Từ Kinh Xáng”để trò chuyện với bác sĩ; vì là một diễn đàn chung có nhiều bạn đọc cùng vào đặt câu hỏi với Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc về mọi vấn đề nên những lá thư trao đổi qua lại giữa tôi và bác sĩ thường bị cách quãng nhưng nó lại liền một mạch vì mục đích của tôi là muốn hỏi thăm bác sĩ về việc sáng tác của ông cũng như về nhà văn Nguyễn Hiến Lê và bác sĩ Ngô Thế Vinh là hai nhân vật mà bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc rất thân quen và gần gũi. Đó là chưa kể vì lý do giới hạn của các trang trò chuyện trên dutule.com, do vậy mà các lá thư từ kinh xáng đều bị lược bớt cho ngắn lại nên không còn nguyên vẹn các chi tiết mà tôi muốn bày tỏ. Chính vì vậy nên nay tôi có ý đúc kết lại các lần trao đổi này theo các lá thư đã gởi và xin được trân trọng giới thiệu cùng các bạn.
Trân trọng,
Hai Trầu
Kinh xáng Bốn Tổng ngày 16 tháng 6 năm 2013
—————-
I. Kinh xáng Bốn Tổng ngày 15 tháng 03 năm 2013
Kính chào Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc,
Nhắc đến Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, không thể không nhắc đến bài viết “Nguyễn Hiến Lê và tôi”, đăng trên tạp chí Bách Khoa số 426 ngày 24-4-1975, tác giả viết:
“Tôi biết có những tác giả sản xuất còn mạnh hơn ông, viết mau và viết mạnh hơn ông, nhưng đọc họ, người ta thấy rõ ràng là những tác phẩm máy móc, sản xuất hàng loạt..Ở ông [Nguyễn Hiến Lê] thì không. Ở ông là con người. Tác phẩm của ông là con người ông. Ông “dạy” cho thanh niên rèn nghị lực thì chính ông là một tấm gương nghị lực; ông viết về tổ chức thì nếp sống của ông là một sự tổ chức; ông viết về tự học thì chính ông đã nhờ tự học mà thành công.Nhờ viết từ những kinh nghiệm sống thực đó, người đọc thấy gần gũi với ông và những lời ông chỉ dẫn đều ứng dụng được.”
Qua đoạn văn của bác sĩ mà tôi vừa trích dẫn, xin thưa bác sĩ, ngoài nhận xét vừa nêu, bác sĩ có thể chia sẻ thêm với bạn đọc về các nội dung khác trong bài viết ấy không?
Qua rồi 38 năm, thời gian cũng đã khá dài, nếu có phải nhận định lại, bác sĩ có thay đổi hoặc bổ túc thêm về cài nhìn của mình đối với thầy Nguyễn Hiến Lê không và nếu có bác sĩ sẽ bổ túc những điểm nào?
Bác sĩ có thể kể lại những lần bác sĩ gần gũi hoặc gặp gỡ cùng những kỷ niệm đáng nhớ với nhà văn Nguyễn Hiến Lê không?
Ngoài ra, dù là một người sống với ruộng đồng, nhưng qua theo dõi các sinh hoạt văn chương, tôi nhận thấy có nhiều vị bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ viết văn làm thơ như xa xưa có bác sĩ William Somerset Maugham viết Kiếp Người; Việt Nam mình có bác sĩ Ngô Thế Vinh với Vòng Đai Xanh và nhiều tác phẩm nổi tiếng khác lúc sau này như “Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng”, “Mekong, Dòng Sông Nghẽn Mạch”; rồi còn có bác sĩ Thân Trọng Minh với bút hiệu Lữ Kiều với tập truyện Trên Đồi Là Lô Cốt, một tập truyện gợi cho tôi biết bao nhung nhớ về những ngày thơ mộng của tuổi hai mươi thuở nào; thêm nữa có dược sĩ Ngô Nguyên Nghiễm ở Châu Đốc làm thơ, bác sĩ Nguyễn Đức Tùng làm thơ ở bên Canada, bác sĩ Hoàng Chính viết văn cũng ở bên Canada, nha sĩ Đăng Khánh làm thơ ở Houston, bên Mỹ ; bác sĩ Trần Văn Tích viết văn bên Đức và có lẽ còn nhiều vị khác nữa mà tôi chưa được biết… Ngay như bác sĩ, qua lời giới thiệu trên trang nhà Du Tử Lê, bác sĩ vừa viết văn vừa làm thơ. Vậy qua kinh nghiệm chính mình, bác sĩ có thể chia sẻ với bạn đọc vì sao các vị theo ngành thuốc thường lại mê viết văn làm thơ nhiều như vậy ? Có phải do bẩm sinh của mỗi cá nhân hay là do có một truyền thống lâu đời nào không, thưa bác sĩ ?
Trân trọng kính chào bác sĩ.
Hai Trầu
Đỗ Hồng Ngọc trả lời:
Sài Gòn, ngày 19.3.2013
Anh Hai Trầu ơi,
Rất cám ơn anh đã “mở hàng” cho mục Trò chuyện lần này trên trang Du Tử Lê. Khi nhận lời làm “khách mời” kỳ này tôi cũng lo lo, sợ “ế” thì tội nghiệp cho dutule.com lắm!
Xin được trả lời 2 câu hỏi của anh: Về Nguyễn Hiến Lê (NHL), anh Hai Trầu ơi, tôi phục anh còn nhớ bài viết của tôi trên tạp chí BK số 426 ngày 24-4-1975. Đó cũng là số báo cuối cùng của BK. Đã 38 năm rồi chớ ít gì! Tôi may mắn được quen biết với ông NHL từ năm 1957 đến năm ông mất, 1984. Suốt thời gian đó, tôi thường gặp ông, khi trực tiếp khi thư từ qua lại. Đến nay tôi vẫn còn giữ nhiều thư viết tay của ông như một kỷ niệm. Tôi học được ở ông lối sống và lối viết.Ông là tấm gương nghị lực, gương tự học, chọn con đường làm văn hoá suốt đời mình.Câu “châm ngôn” của ông là “Viết để học và học để viết”.Tôi chịu lắm.Chỉ có cách đó mình mới học được nhiều, học được sâu. Tôi bây giờ còn đi dạy và vẫn nghĩ: “Dạy để học và học để dạy”. Ấy là bắt chước ông đó.
Anh hỏi tôi có “bổ túc” gì thêm không trong nhận định của tôi về ông trước đây? Xin thưa tôi vẫn luôn nghĩ ông là một “người hiền”- người hiền Nam bộ, dù sinh ở đất Bắc. Khiêm tốn, giản dị, chính trực. Chắc anh đã đọc Hồi ký của ông rồi thì biết.Ông sống tri túc, kham nhẫn, hết lòng vì sự nghiệp “trồng người”.Năm 1986, hai năm sau ngày ông mất, báo Thanh Niên nhờ tôi viết một bài về ông.Đó là bài đầu tiên viết về Nguyễn Hiến Lê sau 1975.Tôi đặt tựa là “Nguyễn Hiến Lê, nhà giáo dục”, nhưng tòa soạn sửa thành “NHL, một tấm gương kiên nhẫn”.Tôi nghĩ ông xứng đáng được gọi là “Nhà giáo dục”.Anh biết không, thật bất ngờ khi sách của ông bây giờ được rất nhiều bạn trẻ ở miền Bắc đọc, nghiền ngẫm, ứng dụng.Họ thực hiện các tủ sách Nguyễn Hiến Lê, trao đổi cho nhau. Vừa rồi còn có nhóm thanh niên tổ chức một chuyến đi xuyên Việt bằng xe gắn máy từ Bắc vào tận Đồng Tháp viếng mộ cụ Nguyễn, họ mặc áo pull có in hình ông, gắn cờ có hình ông lên xe nữa! Tóm lại, họ đã coi ông là một “thần tượng”.Ngộ quá chớ phải không anh?
Trong cuốn “Nhớ đến một người” tôi có viết kỹ hơn về Nguyễn Hiến Lê. Có dịp tôi sẽ xin gởi tặng anh Hai một cuốn!
Về câu hỏi thứ hai của anh vì sao mà nhiều thầy thuốc (y nha dược sĩ…) viết văn, làm thơ làm nhạc, vẽ tranh…? Anh có kể trường hợp Somerset Maugham, chắc cũng nên nhắc Tchekov, Cronin v.v… Việt Nam mình không thiếu.Tôi nghĩ những người thầy thuốc viết văn thì cũng như nhà giáo, kỹ sư, luật sư… viết văn vậy thôi.Một đằng là cái “nghề” và một đằng là cái “nghiệp”.Cái “nghiệp” thì nó gắn vào trong gène rồi, còn cái “nghề” thì ai cũng phải có để kiếm sống. Anh nhớ Huy Cận là kỹ sư nông nghiệp, còn Xuân Diệu là công chức nhà Đoan?… Viết văn làm thơ phải là chuyện “máu mê” từ nhỏ, trước khi người ta học để trở thành thầy giáo, bác sĩ, kỹ sư… Dĩ nhiên, môi trường hành nghề cũng có tác động. Người làm nghề y gần gũi với nỗi đau nỗi khổ của kiếp người, dễ xúc động, dễ trầm tư và thúc đẩy cầm lấy cây viết! Tôi thì mê văn chương từ nhỏ. Hồi đậu tú tài toàn phần xong, tôi hỏi ý kiến ông Nguyễn Hiến Lê nên học văn khoa (theosở thích mình) hay học y khoa (theo ý muốn gia đình). Ông khuyên nên học… y khoa để giúp ích cho đời cụ thể hơn. Rồi nếu nuôi dưỡng được năng khiếu văn chương thì hành nghề y chừng mươi năm sẽ có nhiều điều để viết lắm! Nghe lời ông, tôi thi vào y khoa và ghi danh học… văn khoa!
Kính mến,
Đỗ Hồng Ngọc
……………………………………………………………….
II. Kinh xáng Bốn Tổng ngày 20 tháng 3 năm 2013
Kính chào bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc,
Xin chân thành đa tạ bác sĩ đã có lòng yêu mến và giải đáp vài ba ý kiến của một bạn đọc nhà quê già như tôi rất tận tình, những lời giải đáp ấy rất gần gũi, thân ái giống như tấm lòng của một vị thầy thuốc ân cần, tử tế, nhân từ dành cho một bệnh nhân đang cần một vị lương y vậy!
Theo tài liệu bút lục của nhiều nhà thì số báo Bách Khoa 426 ngày 24-4-1975 là số chót, có các bài tạp chí Bách Khoa giới thiệu nhà văn Nguyễn Hiến Lê nhân cuốn sách thứ 100 của ông ra đời, đó là cuốn “Mười Câu Chuyện Văn Chương” do nhà Trí Đăng xuất bản. Được biết, sau này thầy Nguyễn Hiến Lê còn nhiều cuốn sách biên khảo quý báu nữa, và có lẽ cuốn sau cùng là cuốn “Sử Trung Quốc” do nhà Văn Nghệ bên California xuất bản vào năm 2003.
Thưa bác sĩ, tôi hồi nhỏ , những năm 1950, từ kinh xáng Bốn Tổng có dịp theo xuồng ra Long Xuyên , rồi sau này, khi tôi được vào học trường Khuyến Học, rồi trường Trung học Thoại Ngọc Hầu ở Long Xuyên thì Thầy đã lên Sài Gòn, nhưng hình bóng Thầy vẫn thấp thoáng nơi các lớp học vào hai năm Thầy dạy tại trường Thoại Ngọc Hầu này vào thời ông Nguyễn Ngọc Thơ còn làm Tỉnh Trưởng. Mãi đến sau năm 1975, khoảng cuối năm 1979 hoặc tháng 02 năm 1980, Thầy Nguyễn Hiến Lê mới dọn về lại Long Xuyên ở luôn những ngày tuổi già nơi đường Gia Long ấy.
Hồi nhỏ tôi ở trọ trên Cua Lò Thiêu, đi học phải đi bộ dọc theo con đường Tạ Thu Thâu qua cây cầu sắt ngay Ty Trường Tiền, rồi đi dọc theo đường Gia Long tới trường; chúng tôi thường đi bộ ngang qua nhà Thầy nằm trên đường Gia Long với con kinh lộ mùa nước cỏ tháng mười một, tháng chạp âm lịch, nhằm mùa cá dại nên cá lòng tong, cá nhái nổi bèo mặt nước.
Là dân quê tụi tôi, dường như ai cũng thích đọc sách của Thầy. Từ cuốn đầu tay “Bảy Ngày Trong Đồng Tháp Mười” tới cuốn sau cùng , cuốn nào cũng thích mà nhất là các cuốn thuộc loại sách “Học Làm Người” nhưng chỉ âm thầm tìm đọc sách thôi chứ không có ý tìm gặp hoặc viết thư từ gì vì hổng dám làm phiền, làm quen với những người nổi tiếng. Hồi xưa khác chứ không có hiện tượng như ngày nay người ta ngưỡng mộ Nguyễn Hiến Lê như bác sĩ vừa nhắc:
“Anh biết không, thật bất ngờ khi sách của ông bây giờ được rất nhiều bạn trẻ ở miền Bắc đọc, nghiền ngẫm, ứng dụng.Họ thực hiện các tủ sách Nguyễn Hiến Lê, trao đổi cho nhau. Vừa rồi còn có nhóm thanh niên tổ chức một chuyến đi xuyên Việt bằng xe gắn máy từ Bắc vào tận Đồng Tháp viếng mộ cụ Nguyễn, họ mặc áo pull có in hình ông, gắn cờ có hình ông lên xe nữa! Tóm lại, họ đã coi ông là một “thần tượng”.Ngộ quá chớ phải không anh? “
Thú thật với bác sĩ, ngày nay tuổi tôi cũng già quá mạng rồi, mỗi ngày tôi ngoài việc nhìn đồng ruộng mà tiếc cho những ngày mùa lúa mùa cách nay sáu bảy chục năm, lúa thôi là lúa, bạt ngàn san dã, chạy mút tận chân trời, mà chợt buồn sao thời gian trôi qua quá mau, tuổi ấu thơ nhà quê với những ngày mùa cắt gặt theo cộ trâu, cộ bò mót lúa bông rơi rớt hồi xa xưa ấy nay chẳng còn! Ngoài những thương nhớ ấy, tôi chỉ còn mỗi việc là đọc lại sách của thầy Nguyễn Hiến Lê, tôi có khoảng gần 100 cuốn của Thầy. Thú thiệt nhe bác sĩ, mình chỉ đọc các bài “TỰA” trong các cuốn sách ấy của Thầy thôi là thấy cũng đáng đồng tiền bát gạo rồi bác sĩ ơi! Còn bác sĩ thì sao, bác sĩ có nhận xét gì về các bài “TỰA” trong các sách của Nguyễn Hiến Lê?Ngoài ra, bác sĩ có nhận xét gì về bút pháp của Nguyễn Hiến Lê trong các sách của Thầy?
Thêm vào đó, bác sĩ đã trải qua nhiều thời kỳ văn học Việt Nam, bác sĩ có thể chia sẽ với bạn đọc về cái nhìn của mình qua các thời kỳ văn học ấy được không, chẳng hạn thời kỳ văn học Miền Nam Việt Nam 1954-1975, thời kỳ văn học Việt Nam từ 1975 tới nay ở Sài Gòn cũng như ở hải ngoại sau 38 năm qua? Trong các giai đoạn văn học này của Việt Nam, theo bác sĩ, có những tác giả và tác phẩm nào bất hủ không, thưa bác sĩ?
Vì “trò chuyện với bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc”, nên tôi có ý hơi lòng vòng, mong bác sĩ và bạn đọc rộng lòng bỏ lỗi cho. Xin cảm ơn bác sĩ và bạn đọc nhiều lắm.Và không quên cảm ơn bác sĩ có nhã ý tặng sách.
Kính thư,
Hai Trầu
Đỗ Hồng Ngọc trả lời:
Sài Gòn ngày 14-04-2013
Kính anh Hai Trầu,
Rất cảm động, lại được thư anh hỏi han và chia sẻ trên dutule.com. Thú thực, có một “bạn đọc nhà quê già” như anh Hai, với tôi, là một hạnh phúc, bởi tôi cũng là một bác sĩ “nhà quê già” không kém đó anh Hai (*). Thế hệ chúng ta có lẽ cũng lại là một thế hệ lạc lõng, cho nên rất gần gũi nhau.
Đúng như anh nói.Sử Trung Quốc là cuốn biên khảo sau cùng của Nguyễn Hiến Lê.À, anh vừa gọi “Thầy” Nguyễn Hiến Lê mặc dù chưa hề học với ông ngày nào.Và có lẽ thế hệ chúng ta nhiều người cũng nhận ông là “Thầy” dù chưa hề học với ông ngày nào anh nhỉ?Trong bài báo “Ông Nguyễn Hiến Lê và tôi” viết năm 1975 trên Bách Khoa, tôi cũng đã nói lên điều này. Câu anh viết: “nhưng hình bóng Thầy vẫn thấp thoáng nơi các lớp học vào hai năm Thầy dạy tại trường Thoại Ngọc Hầu này” rất cảm động, chứng tỏ mặc dù chỉ dạy học có hai năm, ông cũng đã để lại “hình bóng” tốt đẹp cho nhiều lứa học trò về sau. Nhờ cái gì vậy?Nhờ tấm lòng của một “bậc thầy” phải không anh?Không chỉ là kiến thức đâu mà chính là “thân giáo” đó.
Về cách viết TỰA của Nguyễn Hiến Lê, đúng vậy đó anh Hai.Cách viết TỰA của ông cũng đặc biệt, đáng “đồng tiền bát gạo” lắm.Nó chân thành và thấu cảm thực sự anh à, cho nên nó mới đi vào lòng người.Không phải chỉ những bài tựa viết cho riêng sách của mình đâu mà cả những bài tựa ông viết cho người khác. Anh thử đọc bài tựa ông viết cho cuốn “QÊ HƯƠNG” của Nguiễn Ngu Í thì thấy. Tôi may mắn cũng được ông viết cho một bài tựa ở cuốn “Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò”, cuốn sách đầu tay của tôi do La Ngà xuất bản và Lá Bối phát hành, năm 1972. Tôi vẫn còn giữ “thủ bút” của ông như một kỷ niệm đó anh Hai. Tôi nhớ câu kết của ông trong bài tựa này:“Một bác sĩ mà lại là một thi sĩ thì luôn luôn làm cho chúng ta ngạc nhiên một cách thú vị”! Ông viết vậy có lẽ vì từ năm 1967, tôi đã gởi tặng ông tập thơ đầu tay của tôi Tình Người (thơ Đỗ Nghê).(**)
Ôi, “chia sẻ với bạn đọc về cái nhìn của mình qua các thời kỳ văn học” ư? Dạ cái “vụ” này xin anh Hai tha cho! Tôi làm sao dám nói về những điều to tát như vậy! Xin anh hỏi các nhà phê bình văn học vậy nhé. Hình như Võ Phiến, một nhà văn lớn, đã có một cuốn nhận định gì đó về văn học Việt Nam cũng gặp không ít những phiền toái! Ngay cả Hoài Thanh và Hoài Chân, Vũ Ngọc Phan… ngày xưa cũng vậy! Nhưng vì anh Hai đã hỏi thì tôi cũng xin thưa rằng tôi chỉ thấy các đợt sóng văn học cứ tuần tự luân phiên vỗ bờ, và bên dưới đó là… mênh mông nước!
Cảm ơn anh Hai đã chịu khó đọc.
Thân kính.
Đỗ Hồng Ngọc
………………………………………..
(*)http://www.dohongngoc.com/web/o-noi-xa-thay-thuoc/thay-thuoc-va-benh-nhan/bac-si-nha-que/
…………………………………………………………………
III. Kinh xáng Bốn Tổng ngày 15 tháng 04 năm 2013
Kính chào bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc,
Tôi vừa nhận được thơ hồi âm của bác sĩ, nên trong bụng tôi mừng quá mạng! Thơ bác sĩ viết cho một bạn đọc nhà quê già mà rất chí tình, đồng cảm, chẳng hạn có đoạn bác sĩ viết rất cảm động: “Thế hệ chúng ta có lẽ cũng lại là một thế hệ lạc lõng, cho nên rất gần gũi nhau.”
Qua giới thiệu của trang nhà Du Tử Lê, được biết bác sĩ tuổi Canh Thìn, sanh năm 1940, tôi tuổi Nhâm Ngọ, nhỏ hơn bác sĩ hai tuổi, nhưng chắc tôi cũng cùng với bác sĩ là được sanh ra giữa những mùa ly loạn nơi các làng quê rồi lớn lên giữa ruộng vườn, theo học trường làng; rồi sống qua mấy mươi năm chiến tranh nên lúc nào cũng thấp thoáng bên mình những “lạc lõng”; “lạc lõng” từ những ngày thơ ấu chạy giặc tản cư cho tới những ngày già nua lụm cụm như bây giờ; “lạc lõng” từ trong gia đình cho tới bà con, chòm xóm, láng giềng và bằng hữu nữa khi mỗi người mỗi ngã trôi giạt bềnh bồng khắp mọi miền, chẳng khác nào khi một mình đi trên bờ bi nhìn cánh đồng lúa mênh mông mà bóng hình mình in lên mặt ruộng lúc nắng chiều chênh chếch về hướng tây giữa lúc chiều tà! Thành ra, nhiều lúc tôi tự nhìn lại mình, nhìn lại thân phận dân quê tụi tôi, tôi thầm cảm ơn bác sĩ có lòng với dân quê tụi tôi dữ lắm! Một người không thể làm hết mọi việc nhưng làm được một việc ý nghĩa cũng xứng đáng sống với đời sống này rồi vậy!
Qua trả lời thơ của Cô Sáu Sa Đéc trên Dutule.com, bác sĩ đã viết: “Cảm ơn Cô Sáu. Tôi viết cuốn “Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng” năm 1974, lúc đó tôi cũng vừa mới có 3 đứa con “đầu lòng” nên đã có ít nhiều kinh nghiệm, lại đang làm ở khoa Cấp Cứu bệnh viện Nhi đồng Saigon nên hằng ngày gặp nhiều trường hợp rất thương tâm, vì thế mà thấy cần phải viết. Viết xong, tôi có đưa nhờ ông Nguyễn Hiến Lê coi qua. Ông nói: “Đọc cuốn này thấy cháu là một bác sĩ nhi khoa tốt.Nhưng cháu viết cho ai đây? Cho những người có học ở thành thị, còn bà con ở thôn quê ít học thì sao?”. Vì câu nói này, sau đó tôi có viết thêm cuốn : “Săn sóc con em nơi xa thầy thuốc…”
Theo tôi, với “Săn sóc con em nơi xa thầy thuốc…”, bác sĩ đã mang tặng cho đời, cho dân quê chúng tôi một món quà đầy ý nghĩa vậy!
Ngoài ra, trong thơ bác sĩ có nhắc cách tôi gọi Thầy Nguyễn Hiến Lê bằng “Thầy”, bác sĩ viết: “À, anh vừa gọi “Thầy” Nguyễn Hiến Lê mặc dù chưa hề học với ông ngày nào. Và có lẽ thế hệ chúng ta nhiều người cũng nhận ông là “Thầy” dù chưa hề học với ông ngày nào anh nhỉ?”
Thưa bác sĩ,
Dân quê tụi tôi dường như không biết từ lúc nào, họ luôn luôn có lòng kính trọng những người biết chữ. Hồi đời xưa thì các bậc túc Nho đều được bà con tôn xưng là Thầy. Chẳng hạn như ở làng Cái Tàu Thượng nằm bên bờ sông Tiền Giang, những năm 1930-1940, có Thầy Bùi Xuân Hòa một bậc tinh thông chữ Nho, những bài minh trên bảo tháp của ngài Yết Ma Trụ Trì chùa Tân Phước Tự tại làng Tân Bình thuộc quận Lấp Vò trước kia thuộc Long Xuyên, sau này thuộc Sa Đéc, là do Thầy đặt để và được khắc lên bảo tháp, nay vẫn còn. Rồi có dịp tôi về ngang qua làng Tân Bình, tôi may mắn được gặp Thầy Bảy Lạc, cũng là một bậc túc Nho của làng Tân Bình, Thầy mới chép cho tôi xin sáu bài minh trên bảo tháp ấy qua nét chữ rất sắc sảo, tài hoa của Thầy Bảy Lạc gợi cho chúng tôi, các thế hệ hậu sinh trong làng như tôi, rất lấy làm vinh hạnh làng quê mình có vị các vị Thầy hay chữ; nhưng nay thì các bậc tiền hiền ấy cũng đã ra người thiên cổ hết rồi, bác sĩ ơi!
Đó là nói về dân quê quý trọng các bậc túc Nho một thời và ai biết chữ là họ tôn xưng là bậc Thầy. Rồi trong cái nề nếp đạo đức “tôn sư trọng đạo” ấy, dân quê chúng tôi còn được các đấng sanh thành, các bậc tiền hiền dìu dắt dạy dỗ theo cái nếp nhà xưa cũ nữa. Chẳng hạn có lần tôi kể với anh Tô Thẩm Huy về cái nếp nhà này và nay xin lò mò chép lại tỏ bày cùng bác sĩ:
“Thêm vào đó, cái nền lễ nghĩa nơi các làng quê vào những năm xa xưa ấy một phần nữa nó còn được tô bồi bằng việc thờ phượng Thánh Thần, Trời Phật qua các đình miếu, chùa chiền, những nơi chốn trang nghiêm ấy là một trong những biểu tượng của sự kết hợp giữa các đấng thiêng liêng với con người một cách hài hoà; nó chẳng những phù hợp với đời sống tinh thần của dân quê mình vốn coi Trời Đất là trọng, mà còn là biểu hiện một quan niệm về đời sống thuận cùng Trời Đất và hợp Con Người lân láng vậy ! Tôi cũng xin được gợi nhớ ra đây những lời dạy từ các trang sách rầt cũ của các bậc thánh hiền như Minh Tâm Bửu Giám, Quốc Văn Giáo Khoa Thư; những trang sách rất cũ và thật là đơn sơ mà hàm súc ấy, nó rất thâm thuý mà gần với làng quê, nó rất cao siêu mà thiết thực trong đời sống thường ngày của cư dân nơi những miếng ruộng, mảnh vườn quanh năm xanh một màu xanh của thiên nhiên tươi mát ấy… Trải qua nhiều đời, từ ông Cố, ông Nội tôi, rồi đến đời Tía Má tôi, tôi còn giữ được mấy trang sách Minh Tâm Bửu Giám này được nẹp bằng hai thanh tre với chỉ gai kết lại là một trong những vật quí báu còn sót lại qua biết bao mùa binh biến, những trang sách có tuổi thọ nhiều hơn tuổi đời những người cùng thế hệ với tôi mà tôi đã được học từ những ngày còn nhỏ, cũng xin gởi kèm theo đây như một di tích về cái nền đạo nghĩa ở nhà quê vùng làng Tân Bình tôi qua gần trăm năm ấy đến bây giờ. Tất cả, đó có thể gọi là những tinh chất làm nền cho một phong vị sống đẹp của dân quê miệt vườn ruộng miền Tây Nam Phần từ những năm xa xưa ấy vậy.”
Thưa bác sĩ,
Từ cái nền lễ nghĩa đó, nó được truyền đi truyền lại nhiều đời, rồi lâu dần hết đời này tới đời khác, nó hóa thành cái nếp quen tôn kính các bậc thánh hiền, và việc kính thầy, trọng thầy dạy chữ, dạy nghề nó thấm vào lòng mình như máu chảy trong tim vậy!
Người nhà quê nó lớn được một phần là nhờ có lòng biết tôn kính các bậc ân sư dạy cho mình vậy. Thuở nhỏ, chúng tôi học vở lòng với thầy Chín Nhậm ở Cầu Nhà Lầu (Mặc Cần Dưng), rồi học Sơ Đẳng Tiểu Học bắt đầu lớp Năm với Thầy Cầm, lớp Tư với Thầy Trang, lớp Ba với Thầy Ngân; lên bậc Tiểu Học, chúng tôi học với Thầy Nhì dạy lớp Nhì, lớp Nhứt vớ Thầy Nguyễn Văn Chánh kiêm Hiệu Trưởng trường Tiểu Học Bổ Túc Bình Hòa (Mặc Cần Dưng, Long Xuyên). Vậy mà rồi từ những năm 1949-1956, cách nay sáu bảy chục năm và các Thầy thì đã ra người thiên cổ hết rồi, nhưng mỗi lần có dịp nhắc lại, như hôm nay chia sẻ cùng bác sĩ sao trong lòng tôi vẫn thấy bồi hồi thương Thầy hoài như lúc mình còn bé bỏng ê a học vần xuôi vần ngược vậy! Tiếp theo cái lòng kính và trọng Thầy ấy, dường như học trò chúng tôi thuở ấy khi lên tới Trung Học, đứa nào cũng gọi các Thầy dạy lớp mình bằng Thầy đã đành, mà các Thầy không trực tiếp dạy mình, mình cũng tôn xưng bằng THẦY với tất cả lòng kính nễ. Chẳng những học trò gọi Thầy mình bằng Thầy như vậy mà ngay cả “Phụ Huynh Học Sinh” cũng gọi các vị Thầy của con mình bằng Thầy nữa. Thế nên, có thể nói cái nề nếp giáo dục ngày xưa ở thôn quê là lấy cái nề nếp kính trọng Thầy làm cái đạo chánh vậy! Nhớ có lần học trò chúng tôi mấy ngàn đứa gồm tất cả các trường trong tỉnh lỵ Long Xuyên tiễn Thầy Lê Công Chánh dạy môn Sử Ký lớp Đệ Ngũ đến nơi an nghỉ cuối cùng ở nghĩa trang Long Xuyên trên đường đi vô Núi Sập, mà ngày nay là chỗ Viện Đại Học An Giang cất gần đó, đứa nào cũng khóc khi nghe bài điếu văn vô cùng cảm động của Thầy Nguyễn Văn Mùi tiễn Thầy Chánh về bên kia thế giới!
Do vậy, theo ý nhà quê của tôi, cái đạo trọng Thầy là cái đạo cũ nhưng nó vẫn mới và rất cần dù ở thời nào! Cái đạo ấy nó làm mới đời sống trong mỗi người; người biết giữ cái đạo ấy, tâm hồn của họ sẽ giàu có còn hơn là tiền bạc và danh vọng, chức phận cao vòi vọi vậy!
Thưa bác sĩ,
Đó là vài ba ý nghĩ khi tôi gọi bác sĩ hay gọi nhà văn Nguyễn Hiến Lê bằng THẦY là có ý vậy. Giờ xin bác sĩ chia sẻ vài điều về việc trước tác của bác sĩ nhe bác sĩ! Khi nào thì bác sĩ dùng VĂN và khi nào bác sĩ dùng THƠ để chuyên chở những ý tưởng của mình? Bài thơ đầu tiên bác sĩ gởi đăng ở tạp chí nào?Có lần nào bác sĩ bị các ông chủ bút từ chối đăng bài của bác sĩ không?Nếu có, cảm tưởng của bác sĩ lúc bấy giờ thế nào?Bác sĩ có làm thơ tình lãng mạn không, nếu có, xin bác sĩ cho bạn đọc được đọc một bài mà bác sĩ ưng ý nhứt nhe bác sĩ?
Kính chúc bác sĩ vạn an.
Kính thư,
Hai Trầu
Đỗ Hồng Ngọc trả lời:
22-5-2013
Thưa anh Hai Trầu,
Cảm ơn thạnh tình của anh Hai.Anh nói rất đúng, lứa mình phải nói là lứa “lạc lõng”, học hành cà ịch cà đụi là chuyện bình thường.Suốt những năm tản cư tôi cứ học hoài một lớp, lớp 3. Sau này nhờ biết tổchức việc học theo hướng dẫn trong cuốn “Kim chỉ nam của học sinh” của Nguyễn Hiến Lê (1957) mà tôi học nhảy lớp, bỏ cả đệ tứ và đệ tam để thi Tú tài I và II, rồi đậu vào Y khoa. Anh nhớ hồi đó thi Tú tài đậu chừng 10% , mỗi năm thi 2 kỳ, gồm cả thi viết và thi vấn đáp. Anh nhớ hồi đó lứa mình mà “rớt Tú tài…”. Nhưng thôi, nói mãi chuyện xưa không nên! Người ta bảo đời người có ba hồi: “hồi trẻ”, “hồi trung niên” và… “hồi đó”! Khi nào mình cứ “hồi đó” hoài chứng tỏ là mình “già quá mạng” rồi phải không anh Hai.
Giờ xin nói chuyện “trước tác” của tôi nhe. Tôi mê văn thơ từ hồi nhỏ, đọc gần hết tủ sách trong một tiệm cho mướn sách ở Phan Thiết. Cô Hai tôi ( xe lửa trúng mìn, gãy cả 2 chân) cư ngụ trong một ngôi chùa nhỏ,thường kêu tôi đi mướn sách về cho cô đọc, nhưng lại cấm tôi đọc vì con nít đọc truyện không tốt, mê, bỏhọc. Mỗi lần đi mướn truyện, tôi lén đọc hết dọc đường đi, có khi ngồi gốc cây đọc xong mới về.Tôi còn ghi chép tóm tắt nội dung, các nhận xét của mình vào một cuốn vở.Tôi nhớ những bài văn của mình hồi học lớp Nhứt (lớp 5) thường được thầy khen và đọc trước lớp.Rồi cậu tôi là ông Ngu Í Nguyễn Hữu Ngư làm báo ở Saigon về thăm, cho một đống sách báo, tranh ảnh.Tôi mê tít.
Những bài thơ học trò thôi không nhắc. Bài thơ đầu tiên đăng trên báo Bách Khoa năm 1960, ký với một cái tên tắt. Tuy biết ông Ngu Í cậu mình làm ở đó nhưng tôi giấu ông. Khi báo đăng, tôi mới nói.Ông ngạc nhiên và khen ngợi. Sau đó tôi lấy bút hiệu Đỗ Nghê và đăng nhiều thơ trên Bách Khoa, Mai, trong Ban biên tập báo Tình Thương (với Phạm Đình Vy, Ngô Thế Vinh, Trần Mộng Lâm…) rồi ở trong nhóm chủ trương bán nguyệt san văn học nghệ thuật Ý Thức (Nguyên Minh, Lữ Kiều, Lữ Quỳnh, Trần Hoài Thư, Lê Ký Thương…)
Năm 1967, đang là sinh viên y, tôi in tập thơ đầu tay: Tình Người và sau đó là các tập Thơ ĐỗNghê (1974), Giữa hoàng hôn xưa (1993), Vòng quanh (1997), Thưcho bé sơ sinh & những bài thơ khác (2010)…
Tôi không viết “chuyên nghiệp” được như Thầy Nguyễn Hiến Lê, tôi chỉ viết khi có hứng. Bây giờ có máy vi tính cũng tiện. Khi hứng đến, tôi cứ viết ào ào rồi để đó, năm bảy ngày sau cho nó “hoai” đi mới “chỉnh”lại đôi chút. Tuy nhiên, khi báo đặt bài gấp thì cũng viết ngay được. Lâu lâu gom lại có thể in thành một cuốn sách như Thư gởi người bận rộn, Chẳng cũng khoái ru, Nhớ đến một người… Tôi không viết được truyện anh Hai à, vì không có khả năng… hư cấu!
Nhớ lại, năm 1965 tôi cũng có một truyện ngắn đã đăng trên báo Mai, sau này thấy in lại trong tuyển tập truyện ngắn nhiều tác giả của NXB TRẺ, năm 1998: CUỘC ĐI DẠO TÌNH CẢM.
Đây cũng là truyện ngắn duy nhất của tôi đó anh Hai Trầu ơi.
“Để đáp lại tấm thạnh tình” của anh và bạn đọc, xin gởi tặng một bài thơ, viết ngày sóng thần ập vào Fukushima, Nhật Bản:
Giả sử
Giả sử sóng thần ập vào Nha Trang
Ập vào Mũi Né
Anh chỉ kịp quẳng em lên một chiếc thuyền thúng
Vút qua những ngọn dừa
Những đồi cát trắng
Em nhớ mang theo đôi quả trứng
Vài nắm cơm
Vài hạt giống
Đừng quên mấy trái ớt xanh…
Biếtđâu mai này
Ta làm An Tiêm
Trở về làng cũ
Nơi này ta sẽ gọi là Nha Trang
Nơi kia gọi là Mũi Né…
Cho nên
Sao chẳng sớm mà thương nhau hơn?
ĐỗNghê
(2011)
……………………………………………………………………
IV. Kinh xáng Bốn Tổng ngày 22 tháng 5 năm 2013.
Kính chào bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc,
Nhận được lá thơ trả lời của Bác sĩ về việc trước tác thơ văn, mà nhất là được đọc bài thơ Mũi Né, mà Bác sĩ làm cách nay 43 năm, làm tôi nhớ quá một thời lang bạt khắp các vùng Mũi Né, Sông Mao (Hải Ninh), Phan Lý Chàm, Tuy Phong ngoài Phan Thiết của Bác sĩ quá mạng! Những ngày tháng khi tuổi đời vừa mới lớn ấy rồi lại có mộng đi đó đi đây, vậy mà rồi tôi lại được đi tới quê nhà của Bác sĩ. Tôi còn nhớ tỉnh Bình Thuận nằm dọc theo quốc lộ I chạy dài từ trong này giáp với Bình Tuy với Rừng Lá, Căn Cứ 4, Căn Cứ 5 ra tới ngoài kia giáp với Suối Vĩnh Hảo, bải biển Cà Ná của tỉnh Ninh Thuận mà hai bên quốc lộ là rừng chồi rải đều lên mặt đất với phía trong xa xa là dãy Trường Sơn chập chùng núi là núi và bên này quốc lộ xa xa chạy về hướng biển bạt ngàn… Dường như từ lâu lắm rồi, có tới hơn bốn mươi năm, tôi chưa có dịp trở lại Phan Thiết lần nào nhưng sao trong lòng tôi vẫn không quên Phan Thiết của Bác sĩ, mà nhất là lại được đọc bài thơ Mũi Né của bác sĩ nữa!
“Em có về thăm Mũi Né không?
Hình như trời đã sắp vào xuân
Hình như gió bấc lùa trong Tết
Những chuyến xe đò giục bước chân.”
…..
Thưa Bác sĩ,
Trong thư vừa rồi bác sĩ có nhắc Bác sĩ Ngô Thế Vinh, tôi có lần đã đọc vài tác phẩm của nhà văn Ngô Thế Vinh như Mây Bão (1963), Bóng Đêm (1964), Vòng Đai Xanh (1970, 1987), Mặt Trận Ở Sài Gòn (1996), “Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng”(2000), và “Mékong Dòng Sông Nghẽn Mạch” (2007), được biết thời còn là sinh viên đại học Y Khoa Sài Gòn, bác sĩ và nhà văn Ngô Thế Vinh cùng làm tờ báo Tình Thương của trường này, bác sĩ có thể chia sẻ với bạn đọc vài kỷ niệm giữa Bác sĩ và nhà văn Ngô Thế Vinh trong những ngày làm báo sinh viên này được không? Và khi nào báo Tình Thương đình bản và vì sao báo đình bản, thưa bác sĩ?
Đặc biệt, giữa hai tờ báo Tình Thương và Ý Thức, bác sĩ là một trong các tên tuổi trong Ban Biên Tập, nay qua rồi hơn 40 năm, bác sĩ có cái nhìn nào về cách làm tờ báo sinh viên và tờ báo ở ngoài đời, chẳng hạn làm báo nào dễ hơn hoặc khó hơn, thuận lợi hoặc trở ngại, và có lần nào Bác sĩ hạnh phúc cũng như mệt mỏi với các tờ báo mà Bác sĩ cùng các nhà văn khác đồng khai sinh ra nó?
Kính chúc bác sĩ luôn dồi dào sức khỏe và hạnh phúc.
Kính thư,
Hai Trầu
Đỗ Hồng Ngọc trả lời:
Sài Gòn ngày 14 tháng 6 năm 2013
Anh Hai Trầu ơi,
Tôi với anh Hai mà cứ trao đổi qua lại trên dutule.com như vầy hoài chắc bạn đọc sẽ ngán! Cũng có mấy câu hỏi về… Phật pháp, về… bệnh hoạn, nhưng đã ra ngoài khuôn khổ cuộc Trò chuyện về văn học nghệ thuật trên dutule.com rồi!
Kỳ này, anh hỏi tôi về chuyện nguyệt san Tình Thương của sinh viên y khoa 50 năm về trước với Ngô Thế Vinh và về bán nguyệt san Ý Thức của Nguyên Minh và bằng hữu là hai tờ báo tôi có dịp tham gia nên xin được trả lời anh vắn tắt như sau:
Nhà văn – bác sĩ Ngô Thế Vinh học trên tôi một năm, nhưng như anh biết, hồi đó học y khoa đến 7 năm, lại cùng làm báo Tình Thương chung với nhau nên chúng tôi rất thân thiết. Ngay hồi sinh viên, Ngô Thế Vinhđã nổi tiếng với các tiểu thuyết Mây Bão, Bóng Đêm, rồi sau này là Vòng Đai Xanh và những năm gần đây, anh chuyên khảo về dòng sông Cửu Long với những cuốn sách rất có giá trị. Anh từng lặn lội lên đến tận nguồn Mékong và cảnh báo dòng Mékong sẽ nghẽn mạch, cũng như đã thấy trước Biển Động sẽ dậy sóng như thế nào.Nói về Tình Thương của Sinh viên Y khoa thời đó, không ai viết rõ hơn Ngô Thế Vinh vì anh là Thư ký tòa soạn. Anh Hai chịu khó đọc bài viết năm 2009 này của Ngô Thế Vinh theo địa chỉ: www.luanhoan.net/GioiThieuTacGia/html/22-3-13%20gttg%2010.pdf nhé. Tôi chỉ ghi lại đây vài dòng phần mở đầu và kết:
“Thời gian ở trường Y khoa, đó thực sự là những năm xanh của một đời người. Không phải chỉ có học, chúng tôi còn có những bận rộn ngoài chuyên môn y khoa nhưhoạt động sinh viên và cùng với các bạn trông nom tờ báo Tình Thương. Tờ báo ấy ra đời trong một hoàn cảnh và thời điểm đặc biệt ngay sau biến động tháng 11 năm 1963”.
(…)
“Có thể khái quát mà nói rằng, cho dù giữa những năm chiến tranh, báo Tình Thương đã thể hiện được một tinh thần tự trị đại học, trong sinh hoạt tương đối có tựdo, có tinh thần dân chủ, tôn trọng khác biệt, trong một mẫu số chung rộng rãi và đoàn kết cùng hướng tới một xã hội nhân bản. Viết về lịch sử trường Đại học Y Khoa Sài Gòn, có lẽ không nên lãng quên tờ báo Tình Thương. Điều đáng tiếc là Tình Thương đã không tồn tại lâu dài để trở thành một truyền thống và như một nhịp cầu giữa vòng thành y khoa ra bên ngoài xã hội”.
(“Tìm lại thời gian đã mất, Nguyệt san Tình Thương, 1963-1967. Tiếng nói của Sinh viên Y khoa”, Ngô Thế Vinh, 2009)
Còn về Bán nguyệt san Ý Thức, cũng xin mời anh xem bài viết của Lữ Quỳnh, một người trong nhóm chủ trương trên www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=13905
(…) Cho đến khoảng năm 1969, Lữ Kiều từ Phú Quốc, Lữ Quỳnh, Châu Văn Thuận từ Qui Nhơn, Hồ Thủy Giũ từ Quảng Nam, Nguyên Minh, Trần Hữu Ngũ ở Phan Rang đã có cuộc họp mặt bàn chuyện làm báo. Tờ Gió Mai được đổi tên: tạp chí Ý Thức. Và,tòa soạn theo chân người viết.Tuy in ronéo, tờ báo được trình bày rất đẹp và phổ biến khá rộng. Nhóm chủ trương có thêm Lê Ký Thương, Ðỗ Nghê (Ðỗ Hồng Ngọc ), Trần Hoài Thư, Võ Tấn Khanh.
Qua năm 1970, tạp chí Ý Thức xin giấy phép ấn hành ở Sài Gòn. Mỗi tháng 2 số ( bán nguyệt san). Số báo ra mắt ngày 01-10-1970 dưới tiêu đề Bán Nguyệt San Văn Học Nghệ Thuật Ý Thứcvới truyện ngắn Lữ Quỳnh, Trần Hoài Thư, Ngụy Ngữ, Nguyên Minh; Truyện dài Từ Kế Tường; Kịch Lữ Kiều; Ðọc sách: Quê Người của Dương Nghiễm Mậu… Nhóm chủ trương lúc này thêm: Ngụy Ngữ, Nguyễn Mộng Giác, Lê Văn Ngăn, Trần Hữu Lục.
Bên cạnh Bán Nguyệt San Ý Thức, còn có nhà xuất bản Ý Thức. Trong mấy năm đầu của thập kỷ 70, đã lần lượt ấn hành nhiều tác phẩm của Ðỗ Nghê, Lê Ký Thương, Trần Hoài Thư, Lữ Quỳnh, Nguyên Minh, Nàng Lai. Nhiều bản dịch văn học và lịch sửcủa Trần Quang Huề, Nguyên Thạnh, Minh Quân, Lê Ký Thương… Bán nguyệt san Ý Thức qua năm thứ hai có phần chệch hướng, không còn là tờ báo vốn có tiếng dấn thân tích cực, chống lại thứ văn nghệ salon, viễn mơ tràn ngập lúc bấy giờ.Ý Thức số 24 phát hành xong thì đình bản.
Bấy giờ giữa năm 2008 này, nhìn lại, nhóm chủ trương tạp chí Ý Thức đã phiêu bạt khắp nơi, thật khó để hình dung ra một buổi họp mặt như ngày nào! Nhưng, không như Nguyễn Mộng Giác nghĩ “40 năm qua, từ những thanh niên hăm hở đi tìm một giải pháp cho thời thế và cho văn chương, họ đã bắt đầu trở thành những ông già chậm rãi, mỏi mệt, cuộc vui hằng ngày không phải là những hăm hở mở đường phá núi, mà là ngồi lặng yên bên chồng sách cũ”. Họ, tuy tuổi tác có cao, sức khỏe không còn như ngày nào, nhưng vẫn giữ liên lạc với nhau, vẫn trao đổi chuyện văn chương, vẫn viết lách, in ấn: một Trần Hoài Thư ở New Jersey miệt mài với Thư Quán Bản Thảo, một Nguyên Minh ở Saigon vẫn đều đặn ra tập san Quán Văn…
(Những kỷ niệm của một thời Ý Thức. Lữ Quỳnh, 2008).
Anh thấy đó, tất cả chúng ta đều có một thời tuổi trẻ như vậy!
Chúc anh Hai Trầu sức khỏe,
Thân mến.
Nguyễn Thị Khánh Minh
LAGI, NGÀY CON VỀ
(Cảm xúc bức hình Nhà Mẹ của anh Đỗ Hồng Ngọc 18/01/2017)
Căn nhà cũ Lagi của Mẹ (Đỗ Hồng Ngọc)
Có mùa xuân theo con về trước ngõ
Gọi Mẹ ơi. Hàng giấy đỏ xôn xao
Then cổng gỗ từ lâu rồi chưa mở
Trời Lagi mừng vội một câu chào
Có thời gian theo con về tung cửa
Hiên nhà xưa kỷ niệm mọc xanh um
Cội xoài vắng. Mầm cây khô nói mớ:
Ai về kia. Lẫn bóng mẹ mùa xuân…
Vâng thưa Mẹ. Con về cùng tuổi nhỏ
Lòng ấu thơ khua giấc nắng chiêm bao
Hương xoài non khan giọng nhớ cồn cào
Gầy dáng Mẹ. Bên thềm hong tóc gió
Con ngồi đây. Một vuông sân lặng lẽ
Ôi nón quen. Mẹ cài đó. Thiu thiu
Nón mồ côi lâu rồi hương tóc Mẹ
Con mồ côi. Đường viễn xứ liêu xiêu
Nghe rất khẽ. Nghe như mơ. Tiếng chổi
Xào theo chân. Bóng mẹ mỏng như mây
Vườn thức giấc. Hồn tinh sương mẹ gọi
Con bướm bay về. Lá trổ trên cây
Vâng thưa Mẹ. Bếp nhà vừa cơi lửa
Cơm chiều ngon thơm lúa vụ mùa tươi
Mai mẹ về. Về với Ngoại xa xôi
Chiếc nón lá Mẹ cứ cài trên cửa
Là cột mốc nhắc con. Đường xa ngái
Đất Lagi cát mặn biển theo chân
Mai con đi. Khép cổng nhẹ như thầm
Hàng giấy đỏ lại một mình. Ở lại…
Nguyễn Thị Khánh Minh
Bãi biển Tam Tân LaGi
(by Do Hong Ngoc)
Vu Lan 2020
Ngày Giỗ Mẹ 17.7 âm lịch
Đỗ Hồng Ngọc
Thư gởi bạn (31.8.2020)
Vậy là hết “Tháng Sinh Nhật” của mình. Ngộ ghê!
Vì không có Ngày Sinh nhật mà mình hóa ra có nguyên cả một tháng…”Sinh nhật” Trời ạ. Không có ai hát “Happy Birthday to you” (vì không lẽ hát “Happy Birthmonth to you”?), cũng chẳng có cái bánh SN nào cả, chẳng thổi một cây đèn cầy… ‘truyền thống” nào cả… Vậy mà vui ghê bạn ơi. Vui “âm ỉ”. Vui nhẹ nhàng. Từng ngày. Từng ngày. Đúng là chẳng phải Hỷ mà Lạc!
Ngày 1/8, mở meo thấy một “chùm” bong bóng với bao nhiêu là bài viết, tranh vẽ “Chúc mừng Sinh Nhật” tuổi 80 của mình trên Blog Trần Thị Nguyệt Mai từ bạn bè gần xa rất cảm động. Rồi hôm nay, 31.8 lại bất ngờ được một email của Khiếu Thị Hoài từ Hội An gởi một đường link trên Youtube một bài đọc Nguyên Giác Phan Tấn Hải và Nguyễn Thị Khánh Minh trên Blog Nguyệt Mai do cô tự thực hiện với một app trên labtop gì đó, “cây nhà lá vườn”… Một giọng đọc trong sáng, chân thành rất dễ thương.
Thôi cứ chia sẻ nơi đây vậy nhé.
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc
(31.8.2020)
Thêm một món quà bất ngờ từ Khiếu Thị Hoài: “CÁ BẢY MÀU”
Khiếu Thị Hoài ở Hội An vừa gởi tôi đường link này: Một buổi đọc sách thật thú vị trong Chương trình Đọc Truyện Cho Thiếu Nhi do cô thực hiện tại Hội An. Đó là truyện Cá Bảy Màu trong cuốn CÓ MỘT CON MỌT SÁCH của tôi do First News Trí Việt xuất bản (2015).
Đây là một cuốn sách tập hợp từ những truyện nho nhỏ, tôi viết dành cho thiếu nhi đã đăng trên báo Nhi Đồng từ những năm 80… của thế kỷ trước, lấy tên chung là Có Một Con Mọt Sách, được NXB Thanh niên in lần đầu, sau này Hội Quán Các Bà Mẹ cùng tôi bàn bạc hình thành một cuốn sách “tranh truyện” (không phải truyện tranh) cho trẻ em với các tranh minh họa rất dễ thương của họa sĩ Đỗ Đức Thuận.
Sách không ngờ đến tận… Mỹ, do Bà nội tên “duyên” mang về đọc cho mấy cháu nhỏ nghe. Cô cháu gái 5 tuổi đi đâu cũng ôm cuốn sách và gần như thuộc các câu chuyện, nhất là chuyện Giếng Nước Mùa Xuân… bắt bà Nội dịch sang tiếng Mỹ mới chịu.
Cảm ơn Khiếu Thị Hoài và các cháu.
Bs Đỗ Hồng Ngọc.
…………………………………………………………………………………………………..
Huyền Chiêu (Nha Trang)
Sắp đến hè, vào nhà sách tìm mua vài quyển truyện cho cháu, tôi thật vui khi bắt gặp trên kệ sách một tập truyện mỏng dành cho trẻ em của Bác Sĩ Đỗ Hồng Ngọc.
Đã từng đọc những tác phẩm rất đáng yêu của ông dành cho những người đang bâng khuâng lìa xa tuổi trẻ để bước vào tuổi chớm già, đã từng cảm thấy an ủi khi đọc những bài viết cổ xúy cho một tâm thức sống trẻ vĩnh viễn cho những người sắp vĩnh viễn lìa xa cõi đời, tôi hồi hộp chờ xem ông có thể nói gì với những em bé lên tám lên mười…
Sách có bìa thật đẹp. Khen cho họa sĩ trình bày khi vẽ chú bé đang ngồi đọc sách có chiếc mũi của pinocchio, nhưng rõ ràng mái tóc và chiếc gương cận thị đích thực là hình ảnh của tác giả Đỗ Hồng Ngọc hồi còn bé.
Bên trong sách là 7 câu chuyện kể vô cùng hấp dẫn cho trẻ em lẫn người lớn.
Đọc xong tập sách, tôi nghĩ thật đáng tiếc cho trẻ em khi Đỗ Hống Ngọc không làm thầy giáo làng mà lại đi làm Bác sĩ.
Ông thật sự là một nhà giáo dục tuyệt vời, một nhà tâm lý sâu sắc.
“Có một con mọt sách” là tựa của câu chuyện cổ tích đầu tiên.
Con mọt sách, trước vốn là một cậu bé ham đọc sách. Cậu mê đọc sách mà quên cả giữ gìn sức khỏe cho mắt
“Đêm trăng sáng đã đành mà đêm trăng mờ cũng mang sách ra đọc ngoài hiên…”
“mới đầu còn ngồi ngay ngắn trước án thư, sau nằm dài trên chỏng mà đọc..”
Thiếu nắng, thiếu gió cậu bé trở nên gầy ốm xanh xao và sau khi bị cha cấm đọc sách :
“Sinh lén cha trùm kín mền giả bịnh mà đọc”
Tất nhiên là mắt của cậu bé yếu dần và cậu phải dán mắt vào trang sách mới đọc được.
Một đêm, dưới ánh trăng hạ tuần vàng vọt, cậu bé đang nằm bẹp trên trang sách, người bổng thu nhỏ dần thành một con mọt mãi mê bò trên đống chữ.
Tác giả muốn dạy cho các bé phải biết đọc sách nơi có đủ ánh sáng, trong tư thề ngồi ngay ngắn và đọc có chọn lựa, không bạ thứ gì cũng đọc. Nhưng nói như thế thì có khác gì lời dặn dò của thầy cô giáo ở trường. Mà trẻ em thì rất hay quên lời thầy cô. Nếu biết vâng lời thì không đến nỗi hiện giờ có đến gần một phần ba học sinh trong một lớp phải mang gương cận. “Thầy” Đỗ Hồng Ngọc đã dùng thủ pháp “hăm dọa”. Trẻ em có óc tưởng tượng vô cùng phong phú, hay tin vào chuyện đòi xưa hơn lời nói của cha mẹ thầy cô và nhất là hay… sợ.
Chúng sợ… ông ngáo ộp, sợ ma, và sợ mình biến thành con sâu, con bướm, con dế, con cào cào… và khủng khiếp biết bao khi mẹ mình không nhận ra mình còn mình thì không thể kêu lên “mẹ ơi con đây nè…”
“Cá bảy màu” kể lại chuyện 7 hoàng tử cá tìm cách trổ tài để vua cha nhường ngôi.
Hoàng tử út xuất hiện sau cùng và có vẻ không muốn tranh đua cùng các anh. Sau khi được hoàng hậu hỏi han và thúc giục chàng mới lúng túng cho biết vừa qua chàng chu du tới một nơi xa lạ và ở đây chàng gặp một loài vật hung ác. Chúng có cánh bay đi hút máu người, và truyền bệnh làm chết nhiều trẻ em. Quái vật này đẻ trứng dưới nước và chàng đã tiêu diệt bọn chúng khi chúng nở thành những con sâu bơi lăng quăng.
Cả triều đình hoan hô và tất nhiên chàng được vua cha trao cho ngôi báu.
Diệt muỗi bằng cách diệt bọ gậy (lăng quăng) là điều các em cần nhớ.
Trong câu chuyện này Tác giả đánh vào bản chất mơ làm hiệp sĩ, giữa đường thấy chuyện bất bình chẳng tha của trẻ em.
Chẳng phải tất cả trẻ em đều yêu chàng Thạch Sanh chém chằng và ghét gã Lý Thông gian trá?
Trẻ em yếu đuối là thế nhưng luôn mê say những cuộc phiêu lưu, những chuyến đi thật xa một mình, không có mẹ bên cạnh như Remi trong Vô Gia Đình, như Thằng Người Gỗ, như Sinbad….
Biết quá rõ điều này “thầy” Đỗ Hồng Ngọc đã kể cho các bé nghe cuộc phiêu lưu kỳ thú của chú lãi đũa từ khi còn là một cái trứng bé xíu cho đến khi biến thành một chú ấu trùng (vẫn nằm trong vỏ trứng) được đem ra chợ bán kèm với cọng rau mà chú cố bám chắc vào (truyện Một cuộc du lịch kỳ quái). May mắn là cọng rau ấy là rau ăn sống chứ không phải rau luộc. Một cuộc phiêu lưu kỳ thú đưa chú lãi con từ dạ dày sang ruột non, theo tĩnh mạch vào đến gan rồi từ gan bơi lên phổi. Không khí trong lành ấm áp ở phổi không dừng được bước chân giang hồ của lãi và chú tiếp tục nhoi lên cổ họng để được một lần nữa lọt xuống dạ dày. Bây giờ chú đã an cư, lạc nghiệp ở ruột non và
“Chú bèn lập gia đình và tiếp tục đẻ mỗi ngày hai trăm ngàn trứng lãi”
Ghê quá!
Bài học về cuộc đời của con lãi thì trong sách khoa học đã có nhưng học trò học mãi không thuộc. Cám ơn “thầy” Ngọc đã có cách dạy khác đi để học trò không học vẫn thuộc bài.
Các bài học trong “Có chí thì hư”, “Cái mũi để chi”, “Nghỉ hè, nên làm gì” cũng là những bài học nhẹ nhàng thú vị mà trẻ em chắc chắn không mệt mỏi khi học.
Tôi thì thích nhất chuyện “Giếng nước mùa Xuân” vì chuyện này “thầy” muốn dạy các bậc cha mẹ nhiều hơn dạy trẻ em.
Muốn cho con cái khỏe mạnh và nên người thì nên tập cho con được sống như…con nhà nghèo.
Đứa bé phải biết đói thì mới biết “khoai lùi bếp nóng ngon hơn là vàng (*) Đứa bé phải thích lao động chân tay, phải biết xách nước, bửa củi, phải được chạy nhảy nơi núi đồi, được tắm ánh nắng chói chang, hít thở khí trời trong sạch.
Để khỏi ốm o gầy còm, chán ăn biếng ngủ, để khỏi béo phì, mê ăn mê ngủ nhưng lười vận động, lười học, đứa bé phải cảm thấy cái hạnh phúc được … đi chăn trâu.
“ai bảo chăn trâu là khổ
Chăn trâu sướng lắm chứ
Ngồi mình trâu phất ngọn cờ lau
Và miệng hát nghêu ngao” (*)
Miển là:
“Vui thú không quên học đâu” (*)
“Thầy” Ngọc nhắn nhủ:
“siêng năng, cần mẫn, không ỷ lại, lười biếng… Sức khỏe là vốn quý nhất không thể mua được bằng vàng bạc, gấm vóc, bằng sức mạnh quyền uy…”
Và cha mẹ cũng phải biết tu nhân, tích đức để xứng đáng làm bậc sinh thành của đứa con hoàn hảo về thể chất lẫn tinh thần.
Điều giản dị như thế nhưng thực ra rất khó thực hiện trong cuộc sống bề bộn, quay cuồng của ngày hôm nay.
Cám ơn tác giả của tập sách mỏng nhưng gói ghém rất nhiều bài học tưởng rằng giản dị nhưng vô cùng cần thiết dành cho các bậc cha mẹ và các bé con thân yêu.
Cũng xin cám ơn họa sĩ Đỗ Đức Thuận đã có những bức tranh minh họa thật dễ thương làm cho tập truyện vô cùng ấn tượng..
Đọc xong tập truyện, tôi tiếc rằng thời tôi còn bé, tôi không được cầm trên tay một tác phẩm cho trẻ em đẹp và hay như thế.
(tháng 5- 2015)
(*) trong bài hát “Em Bé Quê” của Phạm Duy
Nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp, phovanblog giới thiệu trên Trẻ Magazine 20.8.2020
NHƯ MẸ. NHƯ EM. VÀ NHƯ BẠN
Lê Ký Thương
I believe that you are the only root
that keeps me still standing
Nikos Kazantzakis
Tôi về giữa cơn mưa
gió xé làn áo mỏng
con chim cu gù trên ngọn sầu đông
chào tôi rỉa cánh
Mẹ rang nhã bắp vừa xong
bếp lửa còn thơm mùi bã mía
Bàn tay mẹ xương khô
mà vẫn đẹp như bàn tay người bạn gái
bàn tay – đôi cánh bao dung
ấp ủ tôi – chú gà nhỏ dại
chú gà con sợ những cơn mưa
những cơn mưa nhọn hoắc móng diều hâu
những cơn mưa tàn nhẫn phủ quanh đời
trùng trùng đường dây nghiệt ngã
Tôi ngồi bên Mẹ đêm nay
tóc Mẹ điểm hoa cau
nụ cười hân hoan mùa vạn thọ
bàn tay Mẹ nắm tay con
lời nói thoảng qua tàu lá chuối
vườn khuya sương bọc đốm sao
lòng tôi mảnh như giọt sương
ngủ yên trên sóng lá
quên hết thời phiêu bạt
Quên hết – quên hết
những ngày xuống đường tranh đấu
sau khi tuyệt thực về nhà
tay run run cầm ly sữa Mẹ pha
nhìn Mẹ nghẹn ngào…
con không còn hơi uống
Phải chăng tôi đã phản bội bạn bè
bởi vì tôi lãng mạn?
Quên hết – quên hết
tách nước trà miếng bánh đậu xanh
ở tòa soạn trên gác lửng nhà in
hay nửa đêm cùng cô bạn phóng viên
đi làm phóng sự
giữa đường trốn mưa dưới giàn thiên lý
nàng đã hát cho tôi nghe
tiếng hát vang vang mấy cành ly biệt
Quên hết – quên hết
phòng triễn lãm chỉ có hai người
những bức tranh màu lạnh
hay ly rượu mừng chưa kịp uống vội say
môi tê tái
Bây giờ tôi còn có mỗi niềm tin
nơi người bạn gái
dù chưa biết khi nào tôi vẽ được lòng nàng
nhưng nàng đã vẽ lên lòng tôi một tuyệt tác
bao năm qua trên bước đường lưu lạc
trên lòng tôi màu hoa khế chưa phai
đôi mắt mở tròn đôi mắt thỏ sớm mai
đã soi sáng đường tôi tiến tới
ôi! cái nhếch môi cười sao mà dịu vợi
suốt ngàn năm còn mãi vẻ thanh tân
nốt ruồi đen bên sóng mũi quá gần
đã điểm xuyết cho tình thêm cao quí
nét bút cao xa nhưng quả là ủy mị
tất cả đều kết tụ một NÀNG THƠ
dạy tôi YÊU – dạy tôi SỐNG – dạy tôi CHỜ
như MẸ – như EM – và như BẠN
Bây giờ tôi còn có mỗi niềm tin
nơi người bạn gái
nàng là cội rễ duy nhất
giữ tôi đứng mãi.
LKT
1970 – 1974
(trong Bếp Lửa Còn Thơm Mùi Bã Mía)
……………………………..
Nguồn: http://phovanblog.blogspot.com/2020/08/nhu-me-nhu-em-va-nhu-ban.html