Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Tập hợp các bài viết của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Ghi chép lang thang
  • Nhận bài mới qua email

Thư gởi bạn xa xôi (Tân Sửu, 2021)

12/02/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Năm mới, tháng Giêng, Mùng một Tết

Còn nguyên vẹn cả một mùa Xuân…

(Nguyễn Bính)

Ghi chú: Nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp ở bển (chữ TVL) có nhã ý mời ĐHN viết một bài cho báo TRẺ, Xuân Tân Sửu 2021. Loay hoay mãi, không biết viết gì đây, thời gian lại gấp rút, lòng cũng muốn góp một chút gì đó cho vui với bạn bè, bèn thôi, trích đoạn những ghi chép lang thang đây đó gởi làm quà, như nhắc nơi xa một chút tình quê…

ĐHN.

 

Thư gởi bạn xa xôi

Lang thang mấy ngày Tết

 

Bạn nhớ đúng rồi đó. Đó là mấy câu trong bài thơ Mũi Né của mình viết năm 1970, đã đăng trên báo Bách Khoa thời đó, tính ra cũng đã nửa thế kỷ rồi chớ ít gì! Mới thôi.

Em có về thăm Mũi Né không?

Hình như trời đã sắp vào xuân

Hình như gió bấc lùa trong Tết

Những chuyến xe đò giục bước chân…

(…)

Mũi Né ơi người xưa đã xa

Mùa ơi gió bấc nhớ không ngờ

Năm nay người có về ăn Tết

Có ngậm ngùi nghe chút ấu thơ…

(ĐHN, 1970) 

Gió bấc. Nhớ không? Thứ gió rất lạ, thốc qua người, dán sát vào da người như có chút hỗn xược ớn lạnh làm nhớ cơn sốt rét rừng thường thổi mạnh trong Tết, quyện với hương cốm hộc, mứt gừng, mứt bí… rồi bánh căn, bánh xèo, bánh kẹp, cơm gà, bánh canh chả cá… của một vùng biển mang mang mùi nước mắm, những ai nghe quen thì đâm ghiền nặng… rồi sông Cà Ty, ga Mường Mán, con đường Gia Long đi mãi không cùng, và Trưng Trắc Trưng Nhị ôm sát dòng sông. Nhớ không?

Cho nên với mình, gió bấc là gió Tết, là tuổi thơ, là Phan Thiết, là Mũi Né, là Rạng, là Lagi, là Kê Gà, là Tà Cú…

Mùa xuân mừng tuổi thơm tho áo

Nắng cũng vàng phai ngày cũng xa

Anh thương nhớ quá làm sao nói

Gọi tên em vang động gốc cây già

Hái đóa hoa màu biển biếc

Chợt thương khung trời xa

Núi mờ trong mây trắng

Em mờ trong dáng hoa

Gió bấc mùa thơm ngát

Bâng khuâng một mái nhà

Biển xanh lùa sóng bạc

Cát vàng hoàng hôn xưa…

(…)

(Quê Nhà, Đỗ Hồng Ngọc)

Vậy đó. Cho nên về Phan Thiết, Mũi Né, La Gi… mấy ngày chẳng qua để tìm thứ gió quen mà lạ đó. Và để nghe cái Tết tuổi thơ thấm vào trong da thịt, trong nhớ nhung…

Phải khởi hành sớm. Lang thang mà. Đi quốc lộ 51 về hướng Bà Rịa, Vũng Tàu, đến xã Tóc Tiên thì quẹo trái vào thăm Thiền viện Viên Không núp sau một hòn núi nhỏ. Con đường quanh co len chân núi Dinh, lát đá thô rất đẹp, thỉnh thoảng có ao bông súng nhô ra. Những ngôi tịnh xá mọc rải rác, len lỏi giữa rừng cây thưa.

Rời thiền viện, xe qua cánh đồng cỏ mượt có những bầy cừu trắng rất dễ thương, .  cùng mấy con ngựa nhởn nhơ làm nhớ quá cảnh “thả ngựa chăn dê” thuở nào xa trên thảo nguyên… của Kiều Phong với A Châu!

Qua Bưng Riềng, vượt khu rừng Nguyên sinh từng có nhiều voi, cọp… ngày xưa. Ghé ăn sáng, cafe ở quán Vên Vên nhiều cây cao bóng cả, suối róc rách, gặp vị chủ nhân ngồi thiền mòn tảng đá bên bờ suối…

Rồi theo đường biển Hồ Tràm, Suối Nước Nóng, Láng Găng, Rừng Khỉ, qua Phò Trì ghé bãi Cam Bình, ở đó, nếu có thì giờ, làm một chuyến xe bò dạo biển cũng hay!

Đến La Gi (Bình Tuy xưa) thì phải tạt qua Đập Đá Dựng để biết tại sao đá lại dựng đứng như vậy. Ngồi đó, nhấm nháp cafe bên dòng sông Dinh tung tóe nước và nghe mình kể chuyện hồi nhỏ tắm truồng cùng bè bạn trên dòng sông này.

Từ đó, đi ngang Bàu Giòi về Dinh Thầy Thím hoặc đi dọc biển, ngang khu vực Nước Nhỉ, nơi có Giếng Nguồn Chung xưa của nhóm hướng đạo La Gi (giờ chẳng còn dấu vết!). Ghé Dốc Trâu ăn trưa. Ôi vô số là thuyền thúng. Xa xa là Hòn Bà.

Về Tam Tân, ghé thăm mộ Nguiễn Ngu Í. Đã thấy núi Tà Cú xa xa với Linh Sơn Trường Thọ Tự, nổi tiếng với tượng Phật nằm dài 49m được đặt từ năm 1960.

Từ đó, đi về hướng Kê Gà, có Hải đăng xưa nhất, cao nhất vùng nam Trung bộ này. Đường dọc biển qua vùng Đá Nhảy. Đá cứ nhảy chồm chồm lên mới lạ chứ! Đá “nhảy” thế nào mà cũng sinh nhiều đá con bò lổm ngổm?

Đến Phan Thiết rồi đó. Đừng quên bánh căn. Đừng quên chè Mộng Cầm. Đừng quên dốc đá có “Lầu Ông Hoàng đó…” (Trần Thiện Thanh) nhe.

Từ Phan Thiết, theo quốc lộ 28, qua Ma Lâm, leo đèo lên Đà Lạt chỉ hơn trăm cây số. Đà Lạt giờ lạ lắm “phố phường chật hẹp người đông đúc”. Hết rồi cái thuở “… thành phố nào vừa đi đã mỏi/ đường quanh co quyện gốc thông già…” (Lam Phương). Nhưng rốt cuộc mình cũng tìm được một nơi hẻo lánh. Suối Vàng có làng Cù Lần cũng ngộ.

Lúc mẹ mình còn sinh tiền, bà hay nói mình cù lần, “ngu nhất thiên hạ”, mình cãi, con chỉ dám “ngu hạng nhì” thôi! Rồi hai mẹ con “tranh luận” sôi nổi. Mình làm vậy thực ra là để cho bà có dịp luyện tập não bộ, đừng để sớm bị Alzheimer. Ái ố hỷ nộ… quý biết mấy bạn ơi!

Chiều lang thang ra bờ hồ Xuân Hương. Chút lòe loẹt. Chút diêm dúa. Thời thượng. Thôi kệ.

Một gánh hàng rong bán đủ thứ từ khoai nướng, bắp nướng… đến các thứ lai rai trên đời… Một con ngựa lơ ngơ. Anh xà ích hít thở. Mình mua mấy củ khoai nướng. Chị hàng rong dễ thương, gói cho mấy củ… Mở ra thấy toàn cháy đen cháy khét. Thì ra từ sáng giờ không bán được cho ai. Mình vừa đi vừa nhai vừa cười tủm tỉm. Chắc chị đang vui vì gặp ông cù lần. Mình vui vì chị vui. Thú vị bất ngờ là mình cũng đang cần một chút charcoal cho ấm bụng. Tối qua bị… Tào Tháo rượt. Ở đời, vậy đó bạn ơi!

Rời Đà Lạt, mình “xuống núi”. Về Miền Tây. “…Có ai về miền tây/ lúa mùa thơm, thơm mãi/ dừa xanh nghiêng chênh chếch/ cá ngược dòng sông đầy…/ Có ai về miền tây/ mái nghèo nhưng mà đẹp/ má gầy nhưng mà xinh… (Y Vân). Nhớ không?  .

Lần này đi Lai Vung. Lai Vung không chỉ có nem nổi tiếng mà còn có quít hồng rất đẹp. Đặc biệt vào mùa Tết.

Sadec thì mình đi lại đã nhiều lần, qua Lai Vung chỉ dừng ăn Nem chớ chưa lần nào vào sâu trong vườn quít.

Ghé Mỹ Tho trước. Ra tận bờ sông Tiền ăn hủ tiếu Mỹ Tho thứ thiệt vừa ngắm dòng sông Cửu Long. Nhớ Trang Thế Hy, xưa ở bên kia cầu Rạch Miễu, từng có một truyện ngắn Mỹ Thơ rất hay và bài thơ Quán Bên Đường độc đáo (Phạm Duy phổ nhạc) !

Rồi ghé thăm khu Di tích Rạch Gầm – Xoài Mút, nơi Quang Trung đại phá quân Xiêm. Dọc theo tả ngạn sông Tiền về phương Nam, hướng Cai Lậy, Cái Bè, giữa những khu vườn cây trái xum xuê Vĩnh Kim, với nhiều quán lá đơn sơ bày bán trái cây các loại. Chưa có vú sữa, xoài, măng cụt… nhưng nhiều sa-pô-chê, sầu riêng cũng rất ngon.

Qua cầu Mỹ Thuận quẹo phải thì về Sadec. Đi ngang Nha Mân, vùng nổi tiếng con gái rất đẹp. Theo truyền thuyết thì vua Gia Long lúc còn bôn ba vùng này đã “bỏ” lại nhiều mỹ nữ (lúc đó chưa gọi là phi tần!).

Ủa mà sao chẳng thấy người nào đẹp nào hết trơn vậy? Mình hỏi. Mấy người đẹp ở trong vườn chớ ai đứng đây cho ông thấy! Ai đó lên tiếng.

Từ Sadec về Lai Vung khoảng mười cây số, từ đó đi sâu vào tận xã Long Hậu, ngang chợ Long Thành, dọc theo những dòng kênh chằng chịt. Vùng này Long nhiều quá. Địa danh toàn Long. Thì ra vì vua Gia Long từng bôn ba ở đây khá lâu, cho nên vùng này bây giờ con gái… cũng rất đẹp! Xe quanh co qua mấy cây cầu ngang hẹp lé, một loại cầu khi… mở rộng, vừa đủ cho một chiếc xe lắc lư. Con kênh chính Long Hậu đây rồi. Kênh Cán Cờ. Sao lại cán cờ? theo Sơn Nam (?) thì lúc chạy đến đây, vua Gia Long bị gãy cán cờ, phải thay cán mới!

Anh Hai Quan, chị Bạch Huệ, là những người bạn thân thiết của Thân Trọng Minh. Sau bữa cơm… thịnh soạn, mọi người mời nhau xuống thuyền dạo chơi. Một trận mưa như trút nước. Có áp thấp nhiệt đới sắp thành bão. Mình không dám đi. Thuyền đi được một lúc rồi cũng phải vội quay về. Nhớ năm xưa, mình từng đi thuyền trên sông Hương, nửa chừng thuyền lủng lổ, nước vào ào ào. May kịp lội lóp ngóp vào bờ phía Kim Long. Lần đó có Thái Kim Lan, Tôn Nữ Hỷ Khương, Tường Vân, Như Mai, Như Ngân, Lê Gia Phàm… Ôi, nhớ đời.

Bữa cháo gà chiều rất ngon. Mấy ông bạn mình nói “nhớ nhà” quá, bèn xách ghế ra sân… hút thuốc! Thì ra “Nhớ nhà châm điếu thuốc”… là vậy!

Hôm sau đến giờ phải lên đường vì còn ghé thăm mấy nơi ở Sadec. Thăm chùa Kim Huê, xưa thầy Thích Trí Tịnh từng trú ngụ mấy năm, thăm ngôi nhà “Người Tình” của  Huỳnh Thủy Lê bên bờ Sa giang.

Trên đường về ghé Xẻo Mây ở Cái Bè. Một điểm khá đẹp. Ở vùng này, nhiều “Xẻo”, chỗ sông ăn sâu vào trong đất liền thành một cái vũng (mà ở biển thì gọi là vịnh?). Cái Bè có Xẻo Mây, Đồng Tháp có Xẻo Quít…

Mua mấy trái sầu riêng bán ven đường rồi ghé vào một quán nhỏ ở ngã ba sông mà nhìn dòng nước chảy… Một người đàn ông đứng tuổi trên chiếc ghe thương hồ đậu gần đó cỡi trần nhảy ùm tắm táp, xong leo lên thuyền mở bánh tét ra ăn bên cạnh chai rượu đế và một bình hoa vạn thọ…

Về Saigon lại nhớ gió bấc: Đi giữa sài gòn/ Phố nhà cao ngất/ Hoa nở rực vàng/ Mà không thấy tết/ Một sáng về quê/ Chợt nghe gió bấc/ Ơ hay xuân về/ Vỡ òa ngực biếc…(ĐHN). Lại chuẩn bị một chuyến về Mũi Né, La Gi…

Vậy đó bạn ơi.

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc

(TRẺ, Xuân Tân Sửu 2021)

 

 

 

Filed Under: Chẳng cũng khoái ru?, Ghi chép lang thang, Vài đoạn hồi ký

CHÚC MỪNG NĂM MỚI

11/02/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc 2 Comments

 

CHÚC MỪNG NĂM MỚI

Mấy hôm nay nhận được rất nhiều lời CHÚC TẾT của bạn bè anh em, nơi gần nơi xa với nhiều hình ảnh, thơ ca, tranh vẽ rực rỡ, đẹp tươi… cho một NĂM MỚI TÂN SỬU 2021.

Đỗ Hồng Ngọc cũng bắt chước chúc Tết anh chị em nè.
Kính chúc tất cả mọi người Năm Mới Tân Sửu 2021 

An Vui, Hạnh Phúc,

Và xin kèm tấm hình “chăn trâu” của Thằng Bờm mình, vốn treo trước cửa phòng  như một lời nhắc nhở:

“Không, chăn trâu sướng lắm chứ!” (QVGKT)

Do Hong Ngoc.
(Chiều 30 Tết, 11.2.2021)

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

Thư gởi bạn xa xôi (Tết)

08/02/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Thư gởi bạn xa xôi

Ngày Tết

Bạn hỏi Ngày Tết tôi làm gì ư? Không làm gì cả. Với tôi bây giờ, ngày nào cũng là Tết, ngày nào cũng là Ngày Tết. Có gì khác nhau đâu?

À mà nói vậy khó hiểu quá! Phải ngoài 80 một chút, như tôi bây giờ (có người còn bảo là U90!) thì mới hiểu.

Tuy vậy, cũng có vài chuyện “rất Tết” kể bạn nghe vui thôi nhe. Hôm qua, một người bác sĩ học trò cũ (mới ngoài 50) đặt một câu hỏi với tôi: Nhiều lúc em thấy giận con em quá, em phải làm gì thưa Thầy? Có cách nào chữa trị cái giận không?

Tôi trả lời: Em giận con em quá hả? Tốt lắm. Trước hết nó làm em đỏ mặt tía tai, bầm gan tím ruột, các hormone xuất tiết ào ào, huyết áp tăng cao, đường huyết tăng cao, và nếu em… ráng nuốt giận xuống bụng, lâu ngày thành ung thư đại tràng…

Thực ra có vài ba món thuốc em thử xem:

Một là em thử thở chánh niệm. Hít một hơi sâu và “dõi theo” (không phải theo dõi) hơi thở của em đi từ mũi xuống huyệt đan điền dưới rún, ấy là lúc cơ hoành được đẩy xuống như em biết. Sau đó thở ra nhẹ nhàng từ từ bằng cách đưa cơ hoành lên và cũng dõi theo hơi thở ra đó.  Sau đó lại có một quãng ngừng trước khi thở tiếp. Điều quan trọng là chú ý tới hơi thở “vào-ra-ngừng” đó của mình… Cái hay là khi đầu óc mình “bận bịu” với chuyện dõi theo hơi thở này thì mình… quên chuyện giận! Não mình nó vậy. Khi chỗ này được kích hoạt thì chỗ kia tắt ngấm, nhớ không?

Hai là em bắt “Ấn”… Cũng vậy. Tập trung vào một ấn nào đó, ấn Từ, Bi, Hỷ, Xả chẳng hạn… thì em sẽ quên giận. Nhớ coi, hồi nhỏ những lúc em cho con bú, thiếu sữa, nó cũng cắn em tưng bừng đó thôi, mà em đâu có giận hờn gì phải không?

Ba là… niệm “Chú”. Chú nhiều lắm. Em có thể đặt riêng cho mình một câu “thần chú” mà không ai biết để tự chữa bệnh cho chính em. Còn không, em niệm câu thần chú sẵn có và rất hiệu nghiệm: OM MANI PADME HUM. Trong đó chữ OM có thể hiểu là AUM, tập trung vào 3 giai đoạn hơi thở như trên nói. MANI là Ngọc “Ma Ní”, trong suốt, phản ánh tất cả màu sắc bên ngoài nhưng không lưu giữ bao giờ. PADME là hoa sen và HUM, là “như nguyện” “thành tựu”…

Vậy đó. Em bây giờ dạy con nào học ăn học nói học gói học mở, nào ăn coi nồi ngồi coi hướng, nào… nào… bao nhiêu là thứ mà em gọi là kỷ luật, là nếp nhà… làm nó mệt mỏi, phản đối. Thiệt ra chỉ cần truyền cho con “nội lực”, còn “chiêu thức” nó sẽ tùy cơ ứng biến. Nội lực là “ngũ giới” đó thôi: Không sát sanh/ không trộm cắp/ không nói dối/ không tà dâm/ không nghiện ngập… Giữ được các “giới” này là đủ cho con sống an vui, hạnh phúc để vào đời!

Mọi sự vô thường, nhớ không? Em bây giờ như “cá nước ngọt”, còn con như “cá biển”.

Cá biển với cá nước ngọt mà cứ hục hặc nhau hoài… cũng ngộ chớ phải không?

Chuyện vậy đó, kể bạn nghe cho vui thôi nha.

Hẹn thư sau,

Đỗ Hồng Ngọc.

 

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Lõm bõm học Phật

Mũi Né

07/02/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

MŨI NÉ

Đỗ Hồng Ngọc

(http://phovanblog.blogspot.com/2021/02/mui-ne.html)

 

Em có về thăm Mũi Né không?

Hình như trời đã sắp vào xuân

Hình như  gió bấc lùa trong Tết

Những chuyến xe đò giục bước chân.

 

Em có về thăm Mũi Né không?

Mùa xuân thương nhớ má em hồng

Nhớ môi em ngọt dừa xứ Rạng

Nhớ dáng thuyền đi trong mắt trong.

 

Em có về thăm Mũi Né xưa?

Con đường sỏi đá vẫn quanh co

Hoàng hôn sóng vỗ bên trời biếc

Sóng vỗ trong hồn ta ngẩn ngơ.

 

Em có về thăm Mũi Né yêu?

Mười năm như một thoáng mây chiều

Mười năm vườn cũ chim bay mỏi

Áo trắng chân mềm em hắt hiu.

 

Mũi Né ơi, người xưa đã xa

Mùa ơi gió bấc nhớ không ngờ

Năm nay người có về ăn Tết

Có ngậm ngùi nghe chút ấu thơ?

 

ĐỖ HỒNG NGỌC

1970

Xin vào Link này nghe Thu Vàng hát

Filed Under: Nghĩ từ trái tim

LaGi, chốn xưa

07/02/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

 

LaGi, chốn xưa

Đỗ Hồng Ngọc

Từ Saigòn, theo quốc lộ 1 về Phan Thiết, cách Phan Thiết khoảng 50 cây số, rẽ phải, về phía biển Đông là thị xã Lagi (trước thuộc huyện Hàm Tân), tỉnh Bình Thuận. Như một cái túi treo tòng teng trên quốc lộ 1, không để ý thì khó mà nhận ra, Lagi – Hàm Tân dựa lưng vào núi, hướng mặt ra biển, gắn Bình Thuận với Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu, nối liền núi đèo cheo leo hùng vĩ của miền Trung với đồng bằng cây ngọt trái lành của miền Nam nên Lagi vừa có núi cao, có biển rộng, lại có ruộng đồng xanh mướt, sông Dinh ngoằn ngoèo lững lờ theo con nước đầy vơi bên những động cát trùng điệp, những truông đèo hoang sơ huyền bí…Xa xa là Hòn Bà, một cù lao nhỏ chơ vơ bơi lạc giữa biển khơi, như còn đang vẫy tay về phía Núi Ông lạnh lẽo phía dãy Trường Sơn xa tít: Chuyện xưa rằng phút yếu lòng/Tách mình đứng giữa mênh mông đất trời/ Để nghe gió lộng trùng khơi/ Và nghe sóng mãi hát lời thiên thu (Thanh Trúc)

Nhiều người vẫn bỡ ngỡ sao lại Lagi? Có người cho là Phân Ly- do sự tích Hòn Bà chia tay cùng Núi Ông, một mình trôi dạt về biển – mà thời Tây người ta đã đọc trại đi thành địa danh Lagi bây giờ? Hỡi em Lagi là gì? Là thiên di thuở hàn vi đất trời? (Phạm Tường Đại). Tôi thì không nghĩ vậy. Hẳn Lagi phải có họ hàng gì đó với dòng họ La, nào La Ngà, La Ngâu, La Gàn… của vùng miền này, nối liền Đồng Nai, Lâm Đồng, Bình Thuận, cùng một giuộc đất từ thuở cha ông đi mở nước còn lưu dấu. Nhưng dù có “La” gì đi nữa thì Lagi – một vùng đất nghèo nàn hẻo lánh đó vẫn như một “vương quốc” cho những hồn thơ với núi non hùng vĩ, ruộng đồng bát ngát, sông nước lững lờ, Đá Dựng nên thơ, Đồi dương vi vút với bãi cát mênh mông đầy rau muống biển và lông chông vèo vèo giữa mùa gió lộng dưới nắng vàng rực rỡ, mặn nồng. Đêm đêm, những chiếc thuyền thúng câu mực lập loè như những thiên hà xa xôi … Một miền quê nghèo mà tươi ngon ai đến cũng gần, ai đi cũng nhớ : Là muôn chim đến hội bày/ Xây thành tổ ấm từ ngày hoang sơ/ Là con thuyền chở ước mơ/ Vượt phong ba đến bến bờ vinh quang (Phạm Tường Đại). Lagi còn có những đình miếu, cổ tự quằn theo tháng năm, những nóc giáo đường cao vút giữa hoàng hôn và những chốn linh thiêng như Dinh Thầy Thím nườm nựơp kẻ đi về, trên đường lên Tà Cú, Kê Gà. Cho nên không thể không thành thơ. Cho nên không thể không thành nhạc. Có lẽ là từ thuở cha ông khai sơn phá thạch, Lagi đã là một nơi sớm hình thành những nhóm thi ca tài tử, và một thi xã, Lagi Thi xã, đã ra đời gần trăm năm trước bây giờ vẫn còn đọng lại những vần thơ tao nhã của người xưa. Cho nên không lấy làm lạ là hôm nay được tiếp nối với Câu lạc bộ thơ ca Lagi hoạt động khá sôi nổi, không chỉ khu trú mà còn mở rộng giao lưu với các Câu lạc bộ thơ ca của Vũng Tàu, của Thành phố Hồ Chí Minh tạo thành một không khí đầm ấm của một vùng đất cổ xưa mà luôn mới mẻ…

Tôi sinh ra và lớn lên ở Lagi, tuổi thơ thả diều đá đế, tắm sông trần truồng cùng bè bạn, đen đẻm vì ngâm nước biển mặn, đuổi bắt còng gió bỡ hơi tai, nửa đêm chờ cá lưới sẩm, ruốc tươi xào xúc bánh tráng rau sống, rồi cá nục hấp, cá mòi nướng, cá ngoéo luộc với thứ ớt cay xé họng, thơm lừng… Rồi là những năm tháng lao đao tản cư trong rừng sâu nước độc, sốt rét triền miên, hết Phò Trì, đến Giếng Ngự, Láng Hàng, Bưng Riềng, Rừng Khỉ, rồi Hồ Tôm, Bàu Lời, Nước Ngọt, Ba Hòn, Bưng Cò Ke… Cho nên làm sao mà không rưng rứt với những câu thơ của một Trần Yên Thảo: Thương ai từ dạo tản cư/ Mắt nhìn đắm đuối mà như hửng hờ/ Thuỷ chung còn tới bây giờ… hay một Cao Hoàng Trầm: Những ngày Phước Lộc Hàm Tân/ Bom thù dội nát bao lần hoang sơ/ Đình chùa giặt đốt chơ vơ/ Tuổi xanh mang cả ước mơ lên đường…

Rời quê hương gần nửa thế kỷ, Lagi vẫn là nơi tôi thường tìm về vì ở đó còn là mồ mả ông bà và người cha thân yêu, ở đó còn có những thân quyến và bè bạn từ ngày thơ dại. Lagi, nơi tôi biết dõi mắt nhìn theo những tà áo mà bâng khuâng, để rồi như một Hứa Minh Tánh: Hình như trong biển có em/ Cho nên giọt mặn giọt mềm môi anh… để rồi Hình như chỉ hình như thôi/ Cớ sao cuối đất cùng trời xôn xao… Bỗng dưng hôm nay đựơc bạn bè ở quê hương gởi cho tập bản thảo thơ, Biển Hát, mà bảo viết đôi lời. Tôi đọc thơ mà như không đọc. Tôi thả lòng mình trôi giạt vào thơ. Bởi chỉ mới nghe những địa danh thôi mà lòng đã rưng rưng, tôi làm sao còn có đủ sáng suốt để đọc thơ của bạn bè, cha chú, lớp trước lớp sau, người quen kẻ lạ. Cứ mỗi một dòng chữ viết tay nắn nót (bản thảo chép tay) lại hiện lên trong tôi sông ngòi biển cả, rừng núi ao hồ, trưa hè nắng cháy nhảy ùm xuống sông Dinh, đập Đá Dựng, những ngày mưa lũ, nước cuốn trôi phăng cả nhà cửa trâu bò. Tôi cứ để lòng mình nhảy ùm như thế, cuốn trôi như thế khi đọc Biển Hát. Cả một dĩ vãng ùa sống lại. Rồi Lagi của bây giờ tôi mỏi gót qua cũng lạ như một Trần Kim Trung: Xóm nhỏ ngày nào tôi vẫn quen/ Hôm nay rực rỡ dưới hoa đèn/ Phố chiều mỏi gót qua cũng lạ/ Đường mới rộng dài xe bước chen hay như lời thì thầm của nhà thơ Hoàng Hương Trang, người khách “viễn phương” mới đặt chân tới Lagi đôi lần cũng đã kịp nhận ra: Biết bao điều muốn nói/ Vỏ ốc giữ trong lòng/ Biết bao điều thì thầm/ Vỏ ốc ơi giữ lấy!

Saigon có xa cách gì với Lagi đâu, vậy mà những người Lagi sống ở Saigon vẫn canh cánh bên lòng nỗi nhớ quê: Đêm đêm vỗ mộng về quê mẹ/ Nhặt nắng chiều hoang tắm biển xuân (Châu Anh). Lạ lùng biển mặn trời xanh có cái gì đó da diết, ray rứt, cứ như chất muối ngấm dần trên sớ thịt lằn da, và gió bấc nữa, gió bấc lạ kỳ chỉ nghe thôi đã thấy mùi cốm Tết, nhất là khi gió bấc thổi qua những cánh bướm tan trường. Nhớ nghĩ về Lagi, tôi bàng hoàng đọc Trần Yên Thảo: Hãy còn dáng đứng kiêu sa/ Đường truông thăm thẳm về qua Đá Hàng/ Trăm năm đâu đã muộn màng/ Ta còn ôn lại chuyện ngàn năm xưa.

Đỗ Hồng Ngọc

………………………………………………………………….

 

 

 

 

 

 

 

Filed Under: Ghi chép lang thang, Già ơi....chào bạn, Vài đoạn hồi ký

Bs Phạm Nguyên Quý: “Dược tính” trong tâm

03/02/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

“Dược tính” trong tâm

Bs Phạm Nguyên Quý (*)

 

Tôi từng khóc thầm vì bài học mà bệnh nhân của tôi đã vô tình dạy bác sĩ.

Tôi vẫn nhớ như in lần khám với bà, bệnh nhân 70 tuổi không may mắc ung thư tụy di căn phổi. Bà có nhiều dịch tích trong ngực, còn gọi là tràn dịch màng phổi, và cần chăm sóc giảm nhẹ. Bốn tháng trước, bà còn bị thêm di căn da – thành ngực, liên quan tới thủ thuật đặt ống thông để giảm dịch ngực ở một bệnh viện khác. Vì đau ở thành ngực, bà cũng đã được xạ trị vào khối u. Cơn đau được khống chế một thời gian, khi bị đau lại, bà được giới thiệu tới bệnh viện của tôi bởi gần nhà.

Chúng tôi nói chuyện thăm hỏi ban đầu khá vui vẻ, nhưng khi tôi sờ vào cục u trên da để thăm khám, bà đột nhiên bật khóc. Tôi hơi hoảng, liền hỏi ngay tại sao.

“Bàn tay bác sĩ ấm làm tôi dễ chịu quá”, bà nói. Bà thật tình kể tiếp một chuyện bất ngờ hơn. Đi khám ở các bệnh viện bốn tháng qua, bà không được ai chạm tới chỗ đau đó. Ở đâu, người ta cũng chỉ hỏi bệnh, kê đơn thuốc giảm đau, xem hình chụp CT rồi chỉ cho bà cục u trên màn hình máy tính.

Tôi vừa nghe chuyện vừa nghĩ tới cách giải thích để bênh vực cho những đồng nghiệp bận rộn của mình. Rằng khối u đã quá rõ ràng trên hình ảnh nên bác sĩ nghĩ rằng không cần phải chạm tới, hay bác sĩ bận rộn quá không thể chờ người bệnh kéo áo lên xem. Việc chạm vào cục u thường không thay đổi “chiến lược điều trị”, và có thể bác sĩ cũng đã không có thời gian nghĩ tới cảm xúc của bệnh nhân.

May thay, bà không khóc vì giận bác sĩ mà vì cơn đau dai dẳng tự nhiên mất đi không ngờ. Bà không biết rằng tôi cũng đã khóc thầm sau khi gặp bà, từ bài học mà bà đã vô tình dạy cho bác sĩ. Tôi khóc vì hóa ra bàn tay vụng về của mình lại có thể ý nghĩa đến vậy với một ai đó.

Mấy tháng sau, một bệnh nhân khác nói với tôi rằng cô cũng cảm thấy dễ chịu khi được bác sĩ thăm khám. Tôi thầm cảm ơn cô vì đã giúp các bác sĩ trẻ như tôi thêm động lực. Bệnh nhân vừa là người thầy của bác sĩ, vừa làm nghề thầy thuốc trở nên ý nghĩa.

Hầu hết bệnh nhân thật ra kỳ vọng khá lớn vào việc được bác sĩ thăm khám trực tiếp. Hầu hết họ vẫn nghĩ rằng bác sĩ phải sờ – nhìn – gõ – nghe hoặc ít nhất “sờ vào người” thì mới gọi là “đi khám”. Cho dù các chỉ số như huyết áp, nhịp tim đã có y tá lấy bằng máy hoặc đo tự động, nhiều bệnh nhân ở Nhật nói với tôi rằng họ vẫn muốn được bác sĩ bắt mạch “truyền thống” dù chỉ vài giây. Trong bối cảnh phòng khám bận rộn, nhu cầu “kinh điển” này có thể khó thực hiện, nhưng tôi luôn tự nhắc mình để không làm bệnh nhân buồn lòng.

Lần khác, tôi có duyên gặp một bệnh nhân bị khó thở vì ung thư phổi kèm tràn dịch màng phổi. Các bác sĩ trước đó đã nói với bà rằng khó thở vì “phổi đã ngập nước”. Sau khi gõ và nghe tiếng phổi của bà, tôi cười, nói với bà rằng dịch chỉ chiếm 1/3 ngực và 2/3 còn lại “vẫn chạy tốt”. Bà bớt khó thở ngay chiều hôm đó.

Thật khó tin, một bệnh nhân vẫn than khó thở với thuốc an thần, morphine liều tối ưu lại khỏe hơn chỉ nhờ một câu nói. Khó tin hơn, bà cũng đã là người nhận dự đoán “có lẽ chỉ còn sống tầm sáu tháng”, nhưng rốt cuộc sống lâu gấp bốn lần.

“Chính bác sĩ còn chưa biết chuyện gì sẽ xảy ra với họ vào ngày mai, sao có thể dự đoán chính xác thời gian sống của bà?”, bệnh nhân cười phá lên gật gù khi tôi nói tiếu lâm như vậy.

Bằng việc vực dậy niềm tin, tinh thần của bà đã cải thiện rõ rệt. Với một số biện pháp khác như thay đổi tư thế nằm, ngồi cho dễ chịu hơn, dùng thêm các dụng cụ hỗ trợ để bà tập trung vào hiện thực và tiếp tục sở thích đan len, chúng tôi đã giúp bà đã sống thêm một thời gian ý nghĩa.

Nói chuyện với bệnh nhân, nhất là người mắc ung thư giai đoạn cuối, là cả một nghệ thuật. Nhiều người hỏi rằng như vậy có gọi là nói dối bệnh nhân hay không?

Khi ly nước chỉ còn 1/3, tuyên bố “mất hết 2/3 rồi” hay “vẫn còn 1/3 đấy” không thay đổi sự thật phũ phàng, nhưng có thể thay đổi nhận thức về cuộc sống của người bệnh. Bệnh nhân không chỉ đau khổ vì sự thật, mà còn đau khổ vì cách diễn giải sự thật đó. Đôi khi, đau khổ là do chính người bệnh hoặc người thân tự ám thị, tự liên tưởng mà bác sĩ phải là người nhận ra và giải quyết những khúc mắc thầm kín đó.

Một bác sĩ đàn anh nói với tôi rằng điều này đã được viết trong Kinh Dược sư từ mấy nghìn năm trước. Người thầy thuốc cần uốn lưỡi bảy lần khi nói chuyện, với tâm thanh tịnh cầu nguyện sự tốt lành cho bệnh nhân. Nghe thật mơ hồ, nhưng những điều Đức Phật dạy không phải không có lý.

Nhiều bệnh nhân ở Việt Nam nói với tôi rằng, cũng là loại thuốc đó nhưng khi gặp được bác sĩ ân cần quan tâm, giao tiếp bằng thân, khẩu, ý tốt đẹp thì họ thường tự tin hơn vào kết quả điều trị.

Đức Bồ tát Phổ Hiền từng nói với đồ đệ rằng: “hãy vào rừng, tìm những loại cỏ cây không phải là thuốc mang về đây cho ta”, ngụ ý rằng cái gì cũng là thuốc mà cũng không phải là thuốc. Tất cả phụ thuộc cách dùng và hiệu quả còn phụ thuộc vào “dược tính” trong tâm mỗi người. Ai cũng có khả năng trở thành Phật dược, chính là bởi dược tính trong tâm mình.

Tôi viết những dòng này khi thế giới đang hoang mang vì dịch bệnh. Trong thời buổi vật chất được ưu ái, thông tin lan tràn trên mạng, nhiều bệnh nhân dễ bị lung lạc bởi các “bài thuốc” hay “điều trị tiên tiến” qua Youtube, Facebook, Google hoặc nghĩ rằng phải chụp chiếu bằng máy móc hiện đại mới yên tâm. Lời nói của bác sĩ nhiều khi không được xem trọng. Tuy nhiên, tôi vẫn tin rằng sẽ có lúc người ta nhận ra, không gì thay thế được giá trị của “dược tính” trong mỗi người thầy thuốc.

“Tiền bạc, danh vọng có thể là mục tiêu mà nhiều người hướng đến trong thời gian ngắn, nhưng nuôi dưỡng được dược tính mới là yếu tố giúp bình an lâu dài”, thầy tôi, một người Nhật, nói với chúng tôi như vậy.

Phạm Nguyên Quý

(*) Tiến sĩ, bác sĩ Phạm Nguyên Quý hiện là bác sĩ điều trị tại Khoa Ung thư nội, Bệnh viện Trung ương Kyoto Miniren; nghiên cứu viên tại Khoa Y, Đại học Kyoto.

(Nguồn: https://vnexpress.net/tac-gia/pham-nguyen-quy-1356.html)

 

Filed Under: Nghĩ từ trái tim, Thầy thuốc và bệnh nhân

Thêm một Tuổi Mới

30/01/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Thêm một tuổi mới

Đỗ Hồng Ngọc

Có người hỏi vì sao tôi không phải là bác sĩ lão khoa mà lại dám viết về… người già, nào Gió heo may đã về, nào Già ơi chào bạn, nào Già sao cho sướng…? Đúng vậy, tôi là một bác sĩ nhi khoa, bác sĩ của trẻ con, nhưng sở dĩ viết về người già là bởi vì  trước sau gì mấy nhóc nhỏ mà tôi đã và đang khám chữa bệnh cũng sẽ trở thành một người già, một ngày nào đó! Hơn năm mươi năm trước khi tôi thực tập ở bệnh viện Từ Dũ, đã có dịp đỡ đẻ cho một số trẻ sơ sinh, bây giờ nhớ lại, các nhóc đó  tuổi cũng đã “gió heo may” rồi còn gì! Còn mấy bệnh nhi tôi có dịp chữa trị ở Bệnh viện Nhi đồng Saigon và tại phòng mạch hằng mấy chục năm qua thì bây giờ cũng đã lại thấy mang con và cả cháu nữa đến khám bệnh. Cho nên làm gì có chuyện cách ngăn tuổi này tuổi nọ tuổi kia. Cuộc sống như một dòng sông đó thôi.

Lão khoa, nhi khoa…chẳng qua là một cách nói! Có người chưa hai mươi mà đã già…khú đế, có người tám mươi còn phơi phới tuổi xuân. Một thầy thuốc đàn anh của tôi thường nói : “Hãy chăm sóc các cụ từ trong bụng mẹ”! Đúng vậy, đợi các cụ ngáp ngáp rồi mới “tận tình chăm sóc” thì e rằng quá trễ, chẳng giúp ích được gì cho cuộc sống của họ, chẳng giúp các cụ  thêm vui, thêm khoẻ, thêm hạnh phúc…

Tổ chức Sức khoẻ Thế giới  (WHO) khi đưa ra những hướng dẫn cụ thể cho Năm quốc tế người cao tuổi, (1999) cũng đã khuyến cáo muốn cho các cụ được khoẻ mạnh thì phải cho Mẹ…các cụ được dinh dưỡng tốt trong lúc mang thai, trong lúc cho các cụ… bú mớm;  phải chích ngừa đầy đủ các bệnh nguy hiểm ngay từ nhỏ để các cụ không phải chịu cảnh tật nguyền bệnh hoạn sau này; phải dạy dỗ các cụ từ tuổi thiếu niên như không uống rượu, không hút thuốc lá… để các cụ sau này khỏi bị ung thư phổi, viêm phổi tắt nghẽn mạn tính,  xơ gan cổ trướng; giúp các cụ có thói quen tập thể dục, chơi thể thao, ăn uống đúng cách để sau này khỏi bị xơ vữa động mạch, cao huyết áp, tiểu đường v.v…Rồi khi lớn lên thì  tránh các nguy cơ bệnh lây truyền qua đường tình dục, tránh béo phì, loãng xương, thấp khớp…Và dĩ nhiên đảm bảo cho các cụ có một thu nhập hợp lý để không bị lệ thuộc, để sống có phẩm giá, tiếp tục hoạt động theo năng lực, đóng góp kinh nghiệm của mình cho con cháu,  được sự tôn trọng của xã hội, được thấy con thuận cháu hoà, gia đình hạnh phúc. Dĩ nhiên là bản thân các cụ  phải hiểu rõ những chuyển biến tâm sinh lý của mình qua từng lứa tuổi, nhờ đó mà thích nghi, mà điều chỉnh thái độ và hành vi của mình sao cho phù hợp với hoàn cảnh mới, với môi trường mới. Tóm lại, chăm sóc các cụ, nói cách nào đó, thực chất là công tác của … Nhi khoa. Hoặc cũng có thể nói nhi khoa chính là lão khoa, và lão khoa cũng chính là nhi khoa đó vậy! Ngành lão khoa ngày càng phát triển vì tuổi thọ con người ngày càng được nâng cao, không chỉ ở các nước giàu có mà ngay ở cả các nước nghčo cũng vậy là nhờ những tiến bộ của khoa học, của y học, của kiến thức vệ sinh phòng bệnh, chăm sóc sức khoẻ cũng như hiệu quả của sự cải thiện môi trường sống, của chế độ dinh dưỡng hợp lý…Thế nhưng, khi nói đến lão khoa, hình như người ta quá nặng về bệnh hoạn, về tàn phế hơn là đến sự sảng khoái toàn diện về thể chất, tâm thần và xã hội  phù hợp với tình trạng tuổi tác, giới tính, chất lượng cuộc sống của họ. Các thầy thuốc lão khoa  cũng thường lại là những thấy thuốc  trẻ, họ tuy có chuyên môn sâu trong chữa trị bệnh tật cho người cao tuổi nhưng chưa từng được trải nghiệm tuổi già, chưa được thưởng thức…cái già, chưa được hưởng thụ …cảnh già! Khi tôi viết cuốn “Gió heo may đã về” thì đó là lúc tôi đang thực sự nghe gió heo may, tôi đang sống với nó, sửng sốt và sảng khoái vì nó, âu lo và hồi hộp vì nó. Tôi  hiểu được nỗi khắc khoải “tôi ơi đừng tuyệt vọng”, nỗi bâng khuâng “tôi đang lắng nghe, tôi đang lắng nghe im lặng của tôi…” của Trịnh Công Sơn, và những bạn bč trang lứa. Nhưng phải đợi đến tuổi 60,  tôi mới dám viết  “Già ơi…chào bạn” – “Bonjour Vieillesse!”- như một tiếng reo vui, chào mừng nó, cái sự già đó! Đâu dễ mà già phải không?  Đến tuổi 75, tôi mới dám viết “Già sao cho sướng?”…

Cho mãi đến cuối thế kỷ 20, năm 1999, Liên Hợp Quốc mới có một “Năm” dành cho người cao tuổi, người già  trên toàn thế giới, gọi là “Năm quốc tế người cao tuổi” với khẩu hiệu là “Hãy sống một tuổi già tích cực” , bởi vì trước đó  người ta chỉ nghĩ tuổi già là tuổi của tàn phai, héo úa,  ăn hại, là gánh nặng xã hội…cho đến khi giật mình thấy không phải vậy! Con người ở tuổi nào cũng sẽ là gánh nặng cho xã hội, cũng ăn hại, cũng tàn phai… nếu sống không ra sống, sống mà như đã chết, sống mà không hạnh phúc, không có chất lượng cuộc sống, sống mà lệ thuộc, mà khổ đau triền miên…

Ngàn năm trước, ở nước ta, vào thời nhà Lý, Mãn Giác thiền sư đã có những câu thơ còn lưu truyền mãi đến nay với một cái nhìn tích cực về tuổi già:

Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai…
( Mãn Giác, 1052-1096)

Xuân ruỗi trăm hoa rụng
Xuân tới trăm hoa cười
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già tới rồi
Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai…

(Ngô Tất Tố dịch)

Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết! Thật vậy. Vẫn còn đó, nơi sân trước kia, đêm qua, một cành mai vàng rực rỡ đã nở, báo hiệu một sức sống mãnh liệt vẫn dâng tràn… Vậy đó, můa xuân dů đã phai, cành mai sân trước vẫn nở tươi thắm. Nụ cười vẫn lạc quan, cuộc sống vẫn tích cực, chủ động và sáng tạo không ngừng nếu những  người có tuổi được chuẩn bị trước để hiểu rõ sự đổi thay , để chấp nhận, để điều chỉnh, tưới tẩm những niềm vui cho chính bản thân mình, cùng với sự ý thức giúp đỡ của gia đình và xã hội thì sẽ giúp họ có một cuộc sống đầy chất lượng, nhiều hạnh phúc.

Theo WHO : “Sức khỏe của người già là phát triển và duy trì được sự sảng khoái và hoạt động chức năng tốt nhất về tâm thần (mental), xã hội (social) và thể chất (physical)”.
Phát triển và duy trì được sự sảng khoái (well-being) và hoạt động chức năng (function) , bởi đa số các hoạt động chức năng xài lâu quá đều rệu rả, phần lớn đã “quá date”, dễ cảm thấy chán nản, tuyệt vọng, lo âu, trầm cảm… nói khác đi là khó mà… hạnh phúc. Thể chất thì “ba cao một thấp” (ba cao là cao máu (HA); cao đường (Tiểu đường); cao mỡ (Cholesterol xấu); còn một thấp là… Thấp khớp) đã đành mà tâm thần thì tám vạn bốn ngàn phiền não! Cho nên đưa vấn đề “tâm thần” lên hàng đầu là hoàn toàn hợp lý so với định nghĩa về sức khỏe ở người trẻ.
“Khổ” thì dĩ nhiên không thể có hạnh phúc. Con đường của Phật là con đường “Diệt Khổ”, con đường dẫn đến giải thoát.

Ở góc độ y sinh học, tâm lý xã hội học, thì những điều kiện để có một tuổi già hạnh phúc gồm:

Có sức khỏe tương đối ;
Tài chánh tự chủ;
Nhà ở an toàn; an ninh, môi trường thuận lợi;
Tự tại: chủ động sắp xếp cuộc sống riêng của mình,
Duy trì các mối quan hệ gia đình/ bè bạn;
Có ký ức tốt về tuổi thơ và tuổi thanh niên,
Hoạt động phù hợp để thấy luôn sống hữu ích;
Gần gũi với thiên nhiên;
Hiểu luật vô thường và biết “Từ bi hỷ xả” với chính mình!

Cũng có thể nhìn theo Tháp MASLOW:

a) Nhu cầu sinh học: gồm những vấn đề cơ bản của tồn tại như : Ăn, Ngủ, Thở, Tình dục… (physical well-being).
b) Nhu cầu an toàn: nhà ở an toàn, môi trường xã hội tốt đẹp, an ninh, bảo đảm về kinh tế, đời sống quân bình…
c) Nhu cầu xã hội (social well-being): các mối quan hệ xã hội trong gia đình, hàng xóm, cộng đồng tốt đẹp…
d) Nhu cầu tự khẳng định: để luôn có được tôn trọng, đóng góp theo công sức cho xã hội, thấy mình sống có ích…
e) Nhu cầu tâm thần, tâm linh (mental well-being): hướng thượng, có một tôn giáo lành mạnh, tin tưởng ở sự sống thiện, nhân quả, nghiệp báo…

Có thể nhìn ở góc độ “Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức” ta cũng có thể hình dung gần giống với Tháp Nhu cầu của Maslow, và nếu có Chánh kiến để thấy Vô Thường/ Khổ/ Vô ngã/ Không/ Duyên sinh… thì đã có thể “độ nhất thiết khổ ách” rồi vậy!

(ĐHN)

Từ Quang, tập 35, Xuân Tân Sửu 2021

Filed Under: Già ơi....chào bạn, Góc nhìn - nhận định, Phật học & Đời sống

“Album THU VÀNG hát Thơ Đỗ Hồng Ngọc”

26/01/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Giới thiệu “Album Thu Vàng hát Thơ Đỗ Hồng Ngọc”

Ghi chú:

Có nhiều bài thơ của Đỗ Hồng Ngọc (Đỗ Nghê) từng được phổ nhạc bởi các nhạc sĩ Miên Đức Thắng (Lời Ru, 1967); Phạm Trọng Cầu (Thư cho bé sơ sinh, 1973); Trương Thìn (Mai sau dù có bao giờ, 1978); Hoàng Hiệp (Viết tên lên cát, 1978); Khúc Dương Đặng Ngọc Phú Hòa (Nước- Kể chuyện trăng tàn,1998); Vĩnh Điện (Mới hôm qua thôi, 2014); Hoàng Quốc Bảo (Mũi Né,  Có Không); Võ Tá Hân (Bông Hồng Cho Mẹ, Thư cho bé sơ sinh, Mới hôm qua thôi, Đồng hương); Thuần Nhiên Nguyễn Đức Vinh (Sông Ơi Cứ Chảy); Nguyễn Thanh Cảnh (Phan Thiết-Trên sông khói sóng); v.v…

Riêng giọng ca Thu Vàng đã thể hiện 4 nhạc bản phổ thơ Đỗ Hồng Ngọc dưới đây, xin trân trọng giới thiệu cùng bè bạn thân quen… (nhân dịp Sinh nhật Thu Vàng –  tranthinguyetmai.wordpress.com).

Mũi Né, nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo;

Bông hồng cho Mẹ, nhạc sĩ Võ Tá Hân;

Sông ơi cứ chảy, nhạc sĩ Thuần Nhiên Nguyễn Đức Vinh;

Có Không, nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo.

Album “Thu Vàng hát thơ Đỗ Hồng Ngọc” được thực hiện bởi Nguyễn Văn Quyền, 1.2021

Do Hong Ngoc.

 

Tu viện Khánh An (ảnh ĐHN 1.2021)

 

 

 

Filed Under: Gì đẹp bằng sen?, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Thư gởi bạn xa xôi (1.2021)

25/01/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Thư gởi bạn xa xôi 

Những ngày gần Tết

Bạn biết đó, gần Tết thì mình cũng thường lu bu. Thứ tư 20.1.2021 thay vì Nhóm Học Phật của bọn mình có buổi học kinh Lăng Già như thường lệ thì mình đề nghị đi thăm Tu viện Khánh An của Thầy Trí Chơn ở quận 12. Các bạn “OK” ngay.

Xin gởi vài hình ảnh như thường lệ thôi nhe.

Tu viện Khánh An, Quận 12. (ảnh Internet)

 

Đây là ngôi chùa mình đã có dịp đến trò chuyện với quý vị Phật tử vài lần. Một lần về Thiền và Thở dưới góc độ khoa học, một lần về Ăn và Chay trong “Một ngày sống tỉnh thức” được tổ chức hàng tháng tại Tu viện. Các đề tài này đã được quay video clip đưa lên youtube để chia sẻ rộng rãi đến bà con.

 

Thầy Trí Chơn tiếp mọi người ở nhà Thanh Lương, và mọi người đã có một buổi trà đàm thân mật nhân có thầy Mãn Pháp từ Hà Nội vào.

 

Ngoài Nhóm Học Phật còn có các bạn trẻ của Lớp Phật học & Đời sống cùng nhóm của Phật tử Lệ Mai (đệ tử thầy Trí Chơn) tham dự.

 

Mình đưa các bạn đi thăm Ao sen rất đẹp của Tu viện. Đã có lần Thầy Trí Chơn đích thân chèo thuyền cho mình đi dạo trên hồ sen…

 

…Và một cung đường thiền hành quanh hồ ngập hoa vàng… mùa Tết.

 

Một tấm hình kỷ niệm chuyến về Khánh An  (20.1.2021).

 

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc.

(25.1.2021)

 

 

Filed Under: Ghi chép lang thang, Gì đẹp bằng sen?

PHĐS: Buổi học cuối năm (16.1.2021).

25/01/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Lớp Phật Học và Đời Sống chùa Xá Lợi, 

Buổi học cuối năm, ngày 16.1.2021.

Buổi học cuối năm dành để trao đổi, rút kinh nghiệm những được, chưa được trong năm học vừa qua. Đây đã là năm thứ 3 của lớp Phật học và Đời sống tại chùa Phật học Xá Lợi này.

Năm thứ nhất đã có được 51 video clips, do Nguyễn Văn Quyền thực hiện và đã đưa lên youtube, được bạn bè khắp nơi theo dõi. Cuối năm đầu đã có một buổi “tổng kết” rất thú vị ở An Lạc Trang, Củ Chi. Năm thứ hai cũng có một buổi họp mặt thân mật ở Hồ Kỳ Hòa quận 10. Năm nay, do dịch Covid đã phải nghỉ vài tháng nhưng sau đó, lớp vẫn duy trì đều đặn nhờ anh Tô Văn Thiện “chủ xị”, anh Minh Ngọc thì bận với các lớp Hán văn Phật học, vì thế cũng thường vắng, tôi thì “già cả ốm yếu” vài ba tuần mới đến lớp một buổi. Lớp học do đó cũng “lõng lẽo” dần, nhưng các anh chị em vẫn tham dự tương đối đều đặn. Năm nay, phần “Phật học”, chủ yếu dựa vào cuốn Phật học phổ thông của thầy Thích Thiện Hoa (rất căn bản, nhưng đã viết từ 60 năm trước!) với một ít kinh sách khác (Tâm kinh, Pháp hoa…), nhưng  phần “Đời sống” quả là không dễ! Có những trao đổi khá “căng thẳng”, nhưng đó là phương cách của lớp đã đề ra từ đầu, với thảo luận, tranh luận, phản biện… để thấy phải “tùy duyên” “thuận pháp” thế nào cho đúng…

Mong rằng sắp tới, Năm Mới (vào năm thứ tư) các buổi học tập, chia sẻ sẽ mang nhiều hiệu quả thiết thực hơn.

Đỗ Hồng Ngọc.

 

Lớp Phật học và Đời sống, Buổi học cuối năm (ngày 16.1.2021)

 

 

từ trái: anh Tô Văn Thiện, anh Sơn, Thanh (Đào), Ngô, Thanh, Trí… hàng sau: Quyên, sau đó thêm Trung, Thủy, Trúc

 

 

từ trái: chị Ngọc, Loan, Hà, anh Vinh, Quyền, Thân, Linh…

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

………………………………………………………………………………………………………

 

Minh Trí, lớp PHĐS gởi một câu hỏi:

Tu là gì?

Trả lời: Tu là “sửa”. Sửa cái gì? Cái gì hư thì sửa. Sửa mình gọi là “tu thân” nhớ không? Tu thân, tề gia, trị quốc… người xưa nói vậy. Xe mà hỏng quá thì ta “đại tu”… hoặc quăng đi, mua xe mới!

Tu theo Phật là “chuyển đổi”. Khổ đau thành an lạc. Phiền não thành Bồ đề. Dĩ nhiên muốn vậy cũng phải quăng bỏ mấy thứ lăng nhăng nó quấy ta. Cho nên trong “lục độ” (sáu cách tu tập) thì Bố thí dẫn đầu. Bố thí là quăng đi, bỏ đi. Thôi kệ đi!

Nguyên nhân của hư là do Tham Sân và Si. Tham là muốn. Muốn đủ thứ. “… lòng muốn còn nhiều đập gương xưa tìm bóng” (Đoàn Chuẩn). Muốn không được thì nổi điên lên, đó là sân, sân hận, tức tối, đỏ mặt tía tai, bầm gan tím ruột, nuôi hận trong lòng “quân tử trả thù mười năm chưa muộn”, “thù trả chưa xong đầu đã bạc”… Tất cả chỉ vì cái gốc là vô minh, là Si, là ngu muội, không thấy biết cái sự thật sờ sờ ra đó.

Cái sự thật sờ sờ ra đó là cái “vô thường”. Trăng rồi khuyết, hoa rồi tàn. Bóng câu qua cửa sổ. Đời người chỉ là một hơi thở, một nhúm bụi tro…

Nhưng Tu với ai? Tu ở đâu? Tu cách nào…?

Có gì đâu. Bệnh thì có thuôc chữa. Có thầy giỏi thì tốt. Nhưng “bác sĩ tốt nhất là chính mình”. Cho nên Phật dạy “hãy quay về nương tựa chính mình”. Kêu “quay về” là vì lâu nay ta có khuynh hướng “quay ra” tìm kiếm bên ngoài đâu đâu. Nhớ rằng Bác sĩ cũng không thể thở giùm ta, ho giùm ta, đau bụng giùm ta được.

Để chữa Tham thì dùng “Giới” (ngũ giới). Chữa Sân thì dùng “Định”, chữa Si thì dùng Huệ (Trí huệ, trí tuệ). Ba thứ thuốc đó có khi trộn lẫn nhau, có khi dùng riêng tùy triệu chứng biểu hiện của mỗi “bệnh nhân”.

Cho nên có khi phải nhờ đến thầy. Thầy giỏi mới được, chớ gặp “lang băm” thì tiêu.

Tu ở đâu? Ở đâu cũng được. Có người tu ở chùa. Có người tu ở nhà. Có người tu ngoài chợ. “Thứ nhứt là tu tại gia. Thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa”. Ý nói tu tại gia là khó nhứt vì bao thứ chằng chịt quấn quít chung quanh.

Phật dạy “Văn, Tư, Tu”. Phải học, phải nghe, phải gần gũi Thiện tri thức. Rồi phải ngẫm ngợi, suy tư, tìm hiểu cho thấu đáo, chớ vội tin, chớ vội nghe, dễ bị “tẩu hỏa nhập ma”. Sau cùng là phải Tu, nghĩa là thực hành. Tu luôn đi với Hành (tu hành) là vậy! Nhớ câu này không? “Tu mà không học là Tu mù. Học mà không tu là cái đãy sách”.

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc.

 

 

 

 

 

Filed Under: Gì đẹp bằng sen?, Nghĩ từ trái tim, Phật học & Đời sống

Thư gởi bạn xa xôi (1.2021)

23/01/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Thư gởi bạn xa xôi (1.1.2021)

Năm nào cũng vậy, Tết (tây) là mình đi một vòng, lang thang đây đó một chút để “thay đổi không khí”, mặc dù bây giờ ở cái tuổi này thì… ngày nào cũng là Tết.

Như bạn đã căn dặn, làm biếng viết thì cũng nên chia sẻ mấy tấm hình coi cho vui. Vậy nha.

Trưa 1.1.2021 về đến Lagi. Cafe với các bạn văn thân thiết quê nhà…

 

Nhà thơ Trần Kim Trung, 91 tuổi, vài ba năm gần đây, năm nào cũng in vài tập thơ. Anh nói, nhờ có thơ mà anh sống… dai và vui khỏe vầy!

 

 

 

 

Rồi ký tặng sách cho nhà thơ Cao Hoàng Trầm…

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Và Thái Anh, Dũng Nguyên, Đỗ Ái Liên…

Gặp Huỳnh Thục Oanh, tác giả bài “Thăm Nước Nhỉ, nhớ Nguien Ngu I, một cây viết trẻ đầy tiềm năng của quê nhà.

Phan Chính đang ở Nha Trang. Lê Ngọc Trác bận đi đâu đó… Cùng nhắc La Thụy, Ngô Văn Tuấn, Nguyễn Huỳnh Sa, Đỗ Hồng Sa, Nguyễn Văn Mỹ v.v…  Từ xa xưa, xứ Lagi vốn đã có Lagi thi xã tiếng tăm với nhiều nhà thơ lớp trước.

Đi đường dọc biển để ghé thăm khu vực Nước Nhỉ có giếng Nguồn Chung ngày xưa (1944).

Nơi đây, xưa um tùm dứa dại. Nước ngọt nhỉ từ trong động cát ứa ra. Khách bộ hành đi giữa bãi biển trưa gắt nắng mà có ngụm nước mát dưới mấy bụi dứa chẳng khác đi trong sa mạc gặp ốc đảo. Người đi đường thường lấy mấy mảnh vỏ sò to hoặc gáo dừa làm muỗng múc nước uống. Một nhóm thanh niên Lagi, Tam Tân, Hiệp Nghĩa… đã chung tay xây một cái giếng gạch, đặt tên là giếng Nguồn Chung, theo gợi ý của Nguien Ngu Í. (Năm 1960, Cậu Ngu Í và Mợ Thoại Dung cùng ĐHN ghé thăm thì chỉ còn là đống gạch vụn…)

 

Hóa ra nước dã nhỉ từ những hồ nước sau đồi cát. Tưởng gần, ai dè đến vài ba trăm mét qua đụn cát trắng mênh mông này… 

 

Buổi tối, không gì ngon hơn ngồi lề đường ăn bánh xèo làng quê… để nhớ những ngày thơ ấu!

 

 

Và sáng sớm thì lang thang bên bờ biển vắng Mũi Né…

bãi Mũi Né… và những bé thơ (ảnh Do Hong Ngoc, Mũi Né 2.1.2021)

 

Chúc vui, và An lành luôn nhé!

Hẹn thư sau,

Do Hong Ngoc.

Filed Under: Ghi chép lang thang, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Thăm Nước Nhỉ, nhớ Nguiễn Ngu Í

23/01/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Thăm Nước Nhỉ, nhớ Nguiễn Ngu Í

Huỳnh Thục Oanh

 

Khi tôi nói, La Gi có địa điểm mang tên Nước Nhỉ, cô dạy cùng trường lắc đầu, nói: “Làm gì? Nhà chị ở đây bao năm có nghe ai nói tới Nước Nhỉ đâu!”. Còn ông giáo dạy ở một trường miền núi, lâu nay cứ hay chọn giờ khuya gọi tôi, cá biệt có  hôm, sau khi uống thuốc liều còn hẹn gặp hàn huyên tâm sự, à ôm: “ Nước Nhỉ, anh biết ở dưới chân núi Nhọn quê em. Chỉ gần núi, có nước mới nhỉ ra gọi là Nước Nhỉ. Đường đến đó thế nào cũng cúc dại ( sơn cúc, cúc núi) mọc dày hai bên đường, rất đẹp để làm mấy Pô ảnh. Anh tình nguyện chở em đi”.

Anh ta còn bảo thêm sẳn sàng phi đến chỗ tôi ngay lập tức.Tôi cười he he trong điện thoại rồi thêm: “Có ma le mới đi với ông” và cúp máy.

 

Sau những câu chuyện ấy, tôi vẫn không mảy may thay đổi ý định đi tìm Nước Nhỉ vì ba tôi, một người bảy mươi tuổi, siêng đọc sách hay nói: “ Nước Nhỉ,cái tên hay hay. Ba chưa đến, nhưng biết nó nằm trên cung đường biển La Gi đi Ngãnh Tam Tân. Thử đến đó một lần đi con. Một khi cố gắng tìm, con lại thêm hiểu biết”.  Ba tôi đọc sách tìm niềm vui, nhưng khi phát hiện điều gì cần thiết cho con, cho cháu, ông đều mong bọn trẻ thực hiện,  bởi ông nói:  “Cái sàn khôn mỗi con người có nhiều con đường tích luỹ… Đi cũng là một phương cách!”

Tôi đã nhiều ngày tìm hiểu Nước Nhỉ cho đến khi tôi gặp vợ chồng chú Hai Nhàn, sống trong căn nhà có phần biệt lập, cách nơi tôi dạy học không xa.

Vợ chồng ngoài 60,nom khoẻ mạnh. Riêng chú Hai tựa cây lim già tuổi, rắn rỏi, không  hề có bụng, đi lại  nhanh nhẹn.

Chú Hai Nhàn chỉ nơi Nước Nhỉ, giếng Nguồn Chung ngày xưa (ảnh HTO)

Chú Hai Nhàn nói: “Thời trẻ vợ chồng tui  sống bằng nghề kéo lưới rùng. Biển La Gi này đoạn nào vợ chồng tui không tới. Nước Nhỉ cách đây vài cây số.Có thể tới đó bằng hai con đường. Một, từ bãi biển Bàu Dòi (Hiệp An) đi ngược về Nam. Hai, từ chỗ công ty du lịch mới mở, có con đường chạy thẳng ra biển, từ đó đi ngược lên”.

Khi tôi nói  đã xác định được Nước Nhỉ, ba rất vui. Hai cha con  hẹn với chú Hai Nhàn sang nhà, nhờ dẫn đường.

Chúng tôi khởi hành từ chỗ con đường chạy ra biển của công ty du lịch, rồi men theo bãi đi lên, cho tới khi một triền đất lài lài hiện  ra. Chú Hai bảo đó là Nước Nhỉ. Điểm nhận biết  là  cái triền đất chạy lan ra sát bãi biển.

Chú Hai Nhàn kể: “Nước Nhỉ ngày trước um tùm cây bụi. Sau dứa dại là dương già. Trên dương là cát trắng, còn có tên gọi là Động Trâu. Ở về phía bên kia động, hướng ra đường cái có bàu sen rộng, cá nhiều. Ngày trước,  nơi này, quanh năm nước ngọt từ trong động cát nhỉ ra. Chỉ cần dùng tay đào một hố rộng, chờvài phút, nước đã đầy.

Từ lúc chú Hai xác định đến Nước Nhỉ, ba tôi như người đang phiêu du với điều riêng tư nào đó. Hết quay mặt ra biển, lại nhìn vào triền cát. Triền cát vào tháng năm này, sau khi rừng bị phá, chỉ còn mấy cây dương nhỏ, xơ xác gió biển ngày đêm thổi…

Không hề có dấu tích nước ngầm trong cát, thay vào đó đầy rác biển.

Nếu không có người dẫn đường, bạn sẽ không  hình dung  nơi nầy những người kéo lưới rùng từng lấy nước ngọt nấu cơm ăn, nước uống, trong thời gian hành nghề. Tôi đang định nói: “ ba lên chỗ cây dương cho đỡ nắng” thì ba bất ngờ ngồi bệt xuống cát.

Tôi nói sẽ rất nắng nhưng ông chẳng hề để ý điều đó. Ông nói: “Khi Ba theo bà nội con vào La Gi, đất này lắm rừng.  Cọp beo có đủ. Có con đường chạy xuyên qua rừng đến tận Núi Cú, nhưng không mấy người đi lại. Nếu đi, phải đông người. Trước 1945, người ở  làng Tam Tân(nay thuộc xã Tân Tiến),  và Hiệp Nghĩa (nay thuộc Hàm Thuận Nam), đi La Gi thường chọn đường biển. Hôm nay cha con mình biết: Nước Nhỉ chỉ cách bãi biển Đồi Dương,Tân Bình khoảng 6 km, nhưng với người đi giữa nắng trời, tay xách, nách mang, gánh nặng, mũi bàn chân cứ phải lao về phía trước nhằm lấy đà thì quả là xa, cần giải lao dưỡng sức. Đường dài, bên biển, bên đồi cát, tìm thấy một nơi có nước ngọt quả là tuyệt vời.

Năm 1944, một nhóm thanh niên Lagi, Tam Tân, mang vật liệu tới Nước Nhỉ, xây cái giếng gạch đặt tên là Nguồn Chung dành cho người đi đường. Giếng sau này đi vào thơ ca và một trong số người  có công ấy là ông Nguyễn Hữu Ngư, nhà văn, nhà báo, nhà thơ  với bút danh: Nguiễn Ngu Í. Ngoài bút danh ấy, ông còn ký: Trinh Nguiên, Tân Fong Hiêb, Phạm Hoàng Mĩ, Nghê Bá Lí, Lưu Nguiễn …”(1)

Mấy năm trước ba tôi có đọc lại cuốn sách cũ cho biết: thân sinh nhà văn là cụ Nguyễn Hữu Hoàn, còn có tên Nguyễn Hữu Sanh, Nguyễn Văn Hợi, sinh năm 1887 ở xã Phụng Hoàng (Hà Tĩnh), thi Hương một kỳ rồi bỏ hẳn khoa cử. Cụ Hoàn tham dự phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, và Duy Tân. Trên đường vào Nam , cụ dừng bước ở làng Tam Tân khi ấy thuộc tổng Phong Điền (Bình Thuận). Thân mẫu nhà văn là cụ bà : Nghê Thị Mĩ, người Tam Tân. Nhà văn sinh năm 1921 và như ông  kể trong bài viết trên tạp chí Bách khoa số xuân năm 1965: Năm 7 tuổi phải rời  thầy mẹ đi học xa. Từ đó đến năm 24 tuổi, mỗi năm về thăm cha mẹ một tháng.

Nguyễn Hữu Ngư có tài thơ văn. Bắt đầu tham gia làng văn năm 1939 trong loại sách Ngày Xanh dành cho thiếu nhi miền Nam Việt Nam . Nhà văn có một số năm tham gia cách mạng tại quê hương và cả khi ra Bắc, vô Trung. Từng làm thư ký đầu tiên UBND  cách mạng xã  nhà năm 1945.

Những năm sau này, do thần kinh không ổn định, có lúc ông phải dưỡng bệnh… nhưng  vì là người của công việc, tạm hết bệnh, ông lại lao vào viết, dạy học. Trong hầu hết  tác phẩm của nhà văn như: “Lịch sử Việt Nam”, “Hồ Thơm- Nguyễn Huệ- Quang Trung”, “Sống và viết với…”, “Suối bùn reo”, “Qê hương”… Tình yêu đất nước, tinh thần sống có trách nhiệm với quốc gia dân tộc, thương yêu đồng bào ruột thịt, yêu thương người thân… hiện ra  một cách đằm thắm trong nhiều trang sách.

Đúng vào lúc  ba kể chuyện, chú Hai Nhàn cũng ngồi xuống bên cạnh. Họ nói với nhau về con đường rừng La Gi- Tam Tân, và nhân đó ba đọc bài thơ “Về quê ai tết đầu sau khi ngưng chiến (1955)”của Nguiễn Ngu Í cũng in trong số xuân  Bách khoa.

 

“Gần đến nơi rồi em thấy chưa?

Đường đi lúc lắc, nắng lưa thưa

Có gì man rợ trong cây, đá

Em sợ  giờ đây, ngĩ cũng vừa….( 2)”

 

Ba nói với chú Hai: “Trong bài thơ này tác giả đi đường rừng. Song cũng có lúc tác giả đi đường biển. Trong một bài viết của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, cháu gọi nhà văn bằng cậu, cho hay: Năm 1960, nhà văn và vợ cùng ông đi đường biển về quê. Đến Nước Nhỉ, ông dừng lại.  Sau một lúc trầm tư, ông cảm tác bài thơ có những câu:

 

“Nằm đây mà ngó lên trời

Lá cây dứa đã mấy đời đong đưa

Nằm đây mà nhớ mơ hồ

Những xanh tóc ấy bây giờ về đâu?”…

 

Giọng thơ buồn man mác, nỗi buồn của nhớ nhung, luyến tiếc và có phần bất lực. Đây là đoạn thơ nhiều người nhớ.

Ba  tôi lại quay sang chú Hai Nhàn : Anh à, cuộc đời này, mọi cái đều không đứng yên, bất dịch. Con đường biển ngày xưa, giờ mình đang ngồi nhìn ra đây, nói với chúng ta về một thời gian khổ đã qua. Và nhờ đó mà nhiều người trưởng thành.Con đường này và  Nước Nhỉ gắn với tên tuổi Nguiễn Ngu Í vì ông từng tham gia xây giếng Nguồn Chung, cũng như đi lại trên đường. Thời gian sẽ phủ mờ tất cả. Thế hệ tương lai có dịp đi lại trên con đường ven biển La Gi- Tam Tân, nếu không ai nhắc, chắc gì biết đến Nước Nhỉ ? … Vì vậy, nếu dựng một tấm  bia ghi: “Nơi đây-  Nước Nhỉ, giếng Nguồn Chung- một thờï là điểm cung cấp nước ngọt cho người đi lại ven biển và tàu thuyền…” chắc chắn  sẽ có người tìm hiểu, trở thành câu chuyện về tình người.

Không dừng đó, Ba tôi đọc hai câu mà ông bảo mang nhiều tâm sự của nhà văn, nhà thơ, nhà báo quê La Gi:

“Bao nhiêu chí trẻ rồi tro bụi

Một thoáng tình xa cũng ngậm ngùi”. 

Chuyện của hai người lớn làm tôi thầm nhủ :Nước Nhỉ là câu chuyện sinh động về lịch sử, địa lý quê hương. Một hôm nào đó có thể đưa học trò mình đến Nước Nhỉ trong giờ lịch sử văn hóa địa phương?

(HTO)

 

—————————————————————————

Ghi chú: ( 1, 2): Trong bài có một số chữ giữ nguyên cách viết của nhà văn.

…………………………………………

Đọc thêm:

Đỗ Hồng Ngọc trả lời câu hỏi của một độc giả trên dutule.com (2013)

(nguồn www.dohongngoc.com)

Mẹ tôi và ông Nguyễn Hữu Ngư (Nguiễn Ngu Í, 1921-1979) là chị em Cô cậu ruột. Mẹ ông họ Nghê nên ông còn có bút hiệu là Ngê Bá Lí, với cách viết “đặc biệt” của ông. Tôi gọi ông bằng cậu, gần gũi và thân thiết. (…)

Ông viết văn, làm báo, có nhiều bút hiệu: Trinh Nguiên, Tân Fong Hiệb ( ghép điạ danh quê nhà Tam Tân, Phong Điền, Hiệp Nghĩa), Ngê Bá Lí, Trần Hồng Hừng, Ki Gob Jó Cì, Fạm Hoàn Mĩ… Bút danh Nguiễn Ngu Í được nhiều người biết đến, nổi tiếng là một ký giả chuyên phỏng vấn các vấn đề văn học nghệ thuật cho tạp chí Bách Khoa thập niên 60 tại Sài gòn.

Ông có lối viết tiếng Việt rất đặc biệt, rất riêng, gây ít nhiều tranh cãi, ít nhiều khó chịu cho người đọc, nhưng vẫn có cái lý riêng của ông. Thí dụ ông thấy không hợp lý khi ta viết NGA, nhưng lại NGHE (ông sửa lại NGE), GA nhưng GHE (ông sửa lại GE…).

Ông có một vài tác phẩm về sử, đặc biệt về Quang Trung và về Hồ Quý Ly trong thời gian dạy sử ở vài trường trung học, ký Fạm Hoàn Mĩ; ông cũng có vài cuốn tiểu thuyết như “Suối Bùn Reo”, “Khi người chết có mặt” v.v… Nhưng tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là “Sống và Viết với …”, do Ngèi xanh xuất bản (1966), tập hợp các bài phỏng vấn trên báo Bách Khoa với các nhà văn nổi tiếng đương thời Nhất Linh, Đông Hồ, Bình Nguyên Lộc, Nguyễn Hiến Lê, Hồ Hữu Tường, Sơn Nam, Doãn Quốc Sĩ….(sau này Xuân Thu in lại ở nước ngoài). Ông cũng chuẩn bị ra mắt các cuốn “Sống và Vẽ với…” phỏng vấn các hoạ sĩ, và “Sống và Đàn với…” phỏng vấn các nhạc sĩ. Tiếc thay ý nguyện chưa tròn. Ngoài ra ông còn có một tập thơ “Có những bài thơ”, do Trí Đăng xuất bản, 1973.

Trong thời gian nằm ở Dưỡng trí viện Biên Hòa vì bệnh thần kinh, ông cùng các “bạn điên” có ra một tập thơ, lấy tên là “Thơ điên thứ thiệt” rất thú vị, do ông làm chủ biên. (có mấy bài của Bùi Giáng). Thời đó, ngoài thuốc men, các bác sĩ ở Dưỡng trí viện Biên Hòa còn khuyến khích bệnh nhân làm thơ, vẽ tranh, đánh cờ, lao động tay chân v.v… như một liệu pháp chữa trị tâm bệnh. Khi được hỏi vì sao gọi là “Thơ điên thứ thiệt”, thì ông cười bảo vì lúc này có nhiều người làm thơ giả điên quá!

Ông thường xuyên ra vào các nhà thương điên Biên Hòa và Chợ Quán:

Cũng tưởng một đi không trở lại

Nào ngờ duyên nợ lại dằng dai

Bỗng nhiên sực tỉnh nằm trong “khám”

Khám của lòng ai, ai của ai…

(Bài thơ tái ngộ Dưỡng trí viện, 1966)

 

Trong một bài thơ khác, ông viết:

 

Ta đi lang thang

Ta nói tàng tàng

Ta cười nghinh ngang

Ta chửi đàng hoàng

…

(Bài thơ tự giết, 1966)

”Chửi đàng hoàng” quả không phải là chuyện dễ, nhưng với ông thì ông làm được. Hỏi chửi ai? Ông nói: ”Chửi cả và thiên hạ, trong đó có mình”!

 

Ông có nhiều bài thơ hay. Bài thơ viết cho Mẹ rất cảm động:
“Má ơi con má điên rồi
Má còn trông đứng đợi ngồi mà chi…”

Năm 1960, tôi có dịp đi với ông trên bãi biển từ Lagi về Ngãnh Tam Tân (Bình Thuận) đến Nước Nhỉ, ông dừng chân nghỉ và nằm lim dim trên đống cát gạch vụn, dưới bóng mát của các bụi dứa gai um tùm nhìn lên trời mây… Một lúc ông gọi tôi đến và đọc cho nghe bài thơ vừa làm xong. Tôi còn nhớ mấy câu:

Nằm đây mà ngó lên trời

Lá cây dứa đã mấy đời đong đưa

Nằm đây mà nhớ mơ hồ

Những xanh tóc ấy bây giờ về đâu…

 

Thì ra ông nhớ mấy người bạn cũ, trong đó có Ba tôi (Đỗ Đơn Trì, các cậu tôi là Nghê Nhã Ý, Nghê Cộng Hòa, Trần Minh Di…) đã cùng nhau xây cái giếng Nguồn Chung ở Nước Nhỉ này cho khách bộ hành qua đường nghỉ ngơi, uống bụm nước ngọt, nhỉ ra từ động cát, giữa trưa nắng gắt trên đường dọc biển mênh mông đầy nắng và gió.

Cuộc đời ông nhiều truân chuyên, tài hoa nhưng mắc bệnh không thể chữa được. Tuổi lớn, cơn điên ngày càng nhặt. Có lần ông nằm giữa xa lộ Biên Hòa cho xe Mỹ cán, nhưng họ kịp dừng, chở thẳng vào nhà thương điên. Có lần ông trốn viện, bắt đom đóm làm đèn đi trong giờ giới nghiêm cũng bị bắt lại…

Trước đó, hình như ông biết trước cái chết của mình, viết một bức thư như là một di chúc cho bà. Ông ước ao được thả trôi trên một chiếc thuyền nhỏ, đục thủng đáy, nhét nút lại, rồi để thuyền trôi lênh đênh trên biển Thái Bình Dương, để được nhìn trời mây nước cho thoả thích, rồi rút nút cho thuyền chìm dần và chết trong bụng cá, cho “Ngư về với Cá”. Thế nhưng ông chết với lửa. Ông được hoả táng ở An dưỡng địa Phú Lâm và đưa về đặt kề ông bà và dì Nga ở Ngãnh Tam Tân.

Tôi vẫn nhớ hai câu thơ từ lâu của ông:

Bao nhiêu chí trẻ rồi tro bụi
Một thoáng tình xa cũng ngậm ngùi.

Ông là bạn cùng lớp, cùng trường Pétrus Ký với Trần văn Khê, Lưu Hữu Phước… Gia đình có làm một tập tư liệu về ông: Ngu Í Nguyễn Hữu Ngư, qua ký ức người thân, do mợ tôi, bà Nguyễn Thị Thoại Dung thực hiện (1996), gồm các bài viết của Bà Tùng Long, Trần Văn Khê, Lê Ngộ Châu, Lê Phương Chi, Phan Chính, Hoàng Hương Trang, Hồ Trường An, Trần Huiền Ân, Tô Dương Hiệp, Đỗ Đơn Chiếu, Phan Khắc Khoan, Đỗ Hồng Ngọc…

Sau này (1990), khi về Lagi-Tam Tân, tôi có một bài thơ viết cho ông:

Đêm trên biển Lagi

( tặng cậu tôi, Nguiễn Ngu Í )

Sóng cuốn từng luồng trăng lại trăng
Đêm Hòn Bà dỗ giấc ai nồng
Phẳng lì bãi cát buồn hiu ngóng
Cao vút hàng dương quạnh quẽ trông
Đá cũ mòn rêu hoài đá Ngãnh
Nguồn xưa cạn nước vẫn Nguồn Chung
Về đâu mái tóc xanh ngày ấy
Câu hỏi ngàn năm có chạnh lòng…

                                   Đỗ Hồng Ngọc

                                                 (1990)

……………………

Dưới đây là nguyên văn bài thơ Nguiễn-Ngu-Í (NGÊ-BÁ-LÍ) viết về “giếng Nguồn Chung” với chú thích về “sự tích” hình thành giếng Nguồn chung năm 1944 ở Nước Nhỉ, Lagi. (Bài thơ viết năm 1960, in trong cuốn …”QÊ HƯƠNG”…, 1969 – chữ QÊ, kiểu viết NNI) với Lời giới thiệu của Nguyễn Hiến Lê. Trong cuốn sách mà Nguyễn Hiến Lê gọi là “kỳ thư” này, tôi viết bài “dẫn nhập” tựa Viết về Bình Tuy, với bút hiệu Giang Hồng Vân.

Đỗ Hồng Ngọc.

(Saigon, 24.1.2021)

(Nguồn: …”Qê Hương”… Nguiễn-Ngu-Í, Saigon 1969)

 

 

 

 

 

Filed Under: Ghi chép lang thang, Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

“Trò chuyện” với Cao Huy Thuần vài điều về cuốn SEN THƠM…

17/01/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

“Trò chuyện” với Cao Huy Thuần vài điều về cuốn SEN THƠM…

Anh Cao ơi,
Tôi đang đọc “mê man” cuốn sách mới của anh đây. Người đưa đò quá hay. Nhất là “mong manh” “tro bụi” và phần ngoại truyện. Tôi có hơi tiếc một chút: giá mà anh dịch theo giọng xưa của 20 thế kỷ trước thì càng thấm thía. Anh nói anh cố dịch sát, nhưng giọng mới quá, thành tưởng… của anh viết? Hay ông Lucien de Samosate… là Cao Huy Thuần giả bộ gạt độc giả là tui? Hy vọng Sharon sẽ được chở nhẹ một phen!

Lúc này đọc anh không biết đâu mà rờ, y như hai Tôn hành giả đánh nhau giữa thời buổi “Tin giả này mới là tin giả thật”.

DHN

(14.01.2021)

–…………………………………………………………………………..

Anh Đỗ ơi,

Ôi, vui biết bao khi đọc thư anh, biết anh “mê man” bài “Người đưa đò”. Đó là bài mà tôi lo nhất, sợ độc giả không theo dõi được một (bi) hài kịch.

Đi vào chi tiết một chút để trả lời thư anh:

– Tôi dịch rất sát nguyên văn. Khó nhất là phải lột cho được cái giọng tếu thú vị, nếu không thì chẳng còn gì hấp dẫn.

– Nhưng khó hơn nữa là phải sát, phải tếu, nhưng phải là giọng văn của thời đại này, chớ nếu cổ lổ sĩ thì khó mà lôi kéo độc giả đi theo. Rất may là giọng văn của nguyên văn rất hợp với giọng văn (tếu) của CHT. Anh nói không biết thật giả là CHT rất khoái.  Rất thật đấy nhưng cũng rất CHT.

– Nguyên văn của câu chuyện là dựa trên thơ của Homère, do đó trong nguyên văn không cần phải giải thích bao nhiêu là chi tiết thần thoại. Tôi phải giải thích như thử là tác giả viết. Do đó, phần giải thích ấy là phần thêm của tôi, nhưng thêm mà không phản với nội dung và văn khí. Thêm thế nào cho trơn tru như nước chảy xuôi dòng, không vướng ngại.

– Nói tóm lại, anh không phân biệt thật giả là tôi mừng. Rất thật vì tôi không phóng tác. Nhưng rất “tôi”.

– Cho nên “tôi” là “tôi” trong ngoại truyện. Thật chăm phần chăm.

Cám ơn ĐHN.

CHT.

(14 Jan 2021)

………………………………………………………………………………..

Anh Cao ơi,

Tôi thấy cần nói rõ với anh thêm: thí dụ Nguyễn Du mà “dịch” theo văn bây giờ sẽ hết hay! Kim Dung mà dịch huynh với muội thành anh với em cũng hết hay. Cho nên trừ phi anh cố tình “lộng giả thành chơn” thì dịch một tác già 20 thế kỷ trươc băng văn phong hiện đại cái đau mới quá, chưa mưng mủ, chưa thấm thía, giá mà cái đau đó nó đã 2000 năm thì thú vị hơn, đau hơn cho kiếp người…!  —

À anh đã đọc “Sách ở trên đường” viết về Đường Sách của tôi chưa?

ĐHN

(15.01.2021)

………………………………………………………………………………..

Anh Đỗ ơi,

Tất nhiên là tôi đã đọc “Sách ở trên đường” viết về Đường Sách của ĐHN rồi chớ! Tuy rằng mắt đã dở lắm rồi. Đánh máy mail cho bạn phải đọc lui đọc tới mỗi câu kẻo sai bét.

“Đường sách” còn thiếu nét họa của ĐHN tuy rằng nhìn photo vẫn mê quá. Có lẽ cũng thiếu một bài thơ. Nó nằm nhớ thơ ĐHN đó.

CHT

(15 Jan 2021)

……………………………………………………………………………………

 

Anh Cao ơi,

Đọc bài Thì thầm của anh, tôi phục lắm. Nói chuyên “Bát Nhã”, chuyện “Bát bất”, chuyện “Có Không” như vậy là… rạch ròi và thuyết phục. Lăng Già chỉ gút một câu:

Trí bất đắc Hữu Vô

Nhi hưng đại bi tâm. 

Tôi nhớ Vũ Khắc Khoan trong cuốn Đọc Kinh có nhắc một bài thơ cổ, không biết ai là tác giả:

Chàng như mây mùa thu

Thiếp như khói trong lò

Cao thấp tuy có khác

Một thả cũng tuyệt mù…

Dĩ nhiên anh và tôi không phải “chàng” với “thiếp”, nhưng một thả là vậy!

Vì anh nhắc thơ ĐHN, nên gởi anh bài này nghe chơi (mắt kém thì tai thính?):

CÓ KHÔNG, thơ Do Hong Ngoc, nhạc Hoàng Quốc Bảo, tiếng ca Thu Vàng.

Những hình minh họa là do tôi chụp trong chuyến đi Nepal 2018:  Hy-Mã-Lạp-Sơn, Lâm-Tì-Ni và Ca-Tỳ-La-Vệ…

 https://www.youtube.com/watch?v=I–qslaDEUM&feature=youtu.be

ĐHN

(SG 17.01.2021)

………………………………………………………………………………….

Reply của CHT

Tôi không biết câu trong Lăng Già, như vậy là học được từ anh, anh trích là đúng quá, tất cả nằm trong đó.

Mấy câu thơ, tôi cũng đã đọc, không biết từ đâu, vẫn tưởng là thơ cổ vì có “chàng” và “thiếp”, và vẫn tưởng là thơ Đường dịch ra. vì có chữ “thả” hơi ép, nhưng “một thả” thì lại mới và hay.

Thơ của ĐHN rất hay, giọng hát của Thu Vàng hợp quá, vì hay và vì chắc là thấm bài thơ. Ít khi tôi nghe phổ nhạc 4 câu mà đạt như vậy. Mà lại là nhạc đạo – vừa đạo vừa mới. Giọng hát bay lên, đúng là “một thả cũng tuyệt mù”.

Viết mà có “nữ thần Tiếng Dội” vọng lại từ ĐHN, hạnh phúc quá.

CHT

(17 Jan 2021)

 

 

Filed Under: Góc nhìn - nhận định, Lõm bõm học Phật, Vài đoạn hồi ký

Thơ Nguyễn Thị Khánh Minh: NHỚ ĐINH CƯỜNG

12/01/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc Leave a Comment

 

Thơ Nguyễn Thị Khánh Minh

NHỚ ĐINH CƯỜNG

tranh Đinh Cường

 

 

NHỚ XANH TRONG TRANH NGƯỜI

Những đàn cây gầy ốm
Đang rủ nhau đi
Cùng ánh mắt chiều muộn
Như mùa đông vừa phết lên giấc mơ
Người thiếu nữ cổ cao. Áo dài đen. Thánh thiện*
Nóc nhà thờ ứa lệ
Rơi xuống tiếng chuông xanh
Mùa của tình yêu

Nhà thờ như cây nến cô đơn. Lung linh dãy phố
Nửa vầng trăng kéo đêm xanh
Chia cô đơn cùng ánh đèn khuya dưới mái nhà im lặng**
Thời của bạn hữu
Thơ Prévert. Cà phê nhòa nâu. Bức tranh buồn
Người phết mạnh bạo một vệt dài màu đỏ
Những đốm đỏ khắc khoải suốt thời binh lửa
Tiếng bom nào rơi trong hồn tôi
đêm nay
đêm hãi hùng như loài thú dữ
 (Đinh Cường)
Một thời người đã đi qua…

Nỗi hoài hương rưng rức xanh
Người và những hàng cây hồi ức
Soi mình dòng Potomac
Lạc lâm. Mùa xanh xưa***
Một thời người đã xa
Một tiếng thở dài
Một ngụm khói tan…

Như tôi vừa nghe. Giấc mơ nào thời trẻ
Đêm nay khóc cùng vệt mầu dở dang nơi phòng tối
Có tiếng gào
Ưng ức bầy tranh
Khóc nhớ…

Ngày 7.1.2021
(Nhớ Họa Sĩ Đinh Cường, ra đi ngày 7 tháng 1, 2016)

*tranh: Chân Dung T.NH. Để Nhớ Đà Lạt
**tranh: Phố Đêm
*** Những bức tranh: Lạc Lâm- Nhà Bên Sông Potomac- Đà Lạt Nostalgia


MỘT LINH HỒN TRONG SUỐT ĐANG BAY*

– Tưởng niệm họa sĩ Đinh Cường, ra đi ngày 7.1.2016

Thử gạch một đường xem tới đâu**
Xa như cuối trời vừa đóng lại
Vắng như đêm vừa mở giấc mơ bay

Bay cuối dòng gặp bạn ngồi trông
Tiếng đàn rung gợn lòng chín suối
Những mảng mầu thơ dại trổ bông

Bông vỡ tiếng cười rền rền sương khói
Người nghe chút nhớ tuyết mùa xưa
Con đường ấy đã một lần đứng lại

Cột dây giày, ngó mông trời ly viễn
Thở hơi ra ngụm khói tàn mau**
Con chim hót giọng khan ngày nhuốm bệnh

Ngó lên trời hạt nước mắt ai bay
Hương cố xứ thơm mùi cọ mới
Có mùa đông khóc tiễn trong mây

Ngó xuống ngày vàng xao xác lạnh
Mơ ai cào lá ngoài sân đêm**
Bay bay lên những linh hồn lá mỏng

Con chim đỏ hót mầu tuyết bỏng
Tôi bưng mặt. Mùa đông qua lồng lộng
Nghe đất trời vừa gần lại, hôm nay…

9.1.2016

* Linh hồn trong suốt, chữ của nhà văn Khuất Đẩu.
** Thơ Đinh Cường. Cào Lá Ngoài Sân Đêm, tên một thi họa phẩm của họa sĩ Đinh Cường.

 

Filed Under: Nghĩ từ trái tim, Vài đoạn hồi ký

Sách Ở Trên Đường

08/01/2021 By Bac Si Do Hong Ngoc 2 Comments

 

9.1. 2021

Kỷ Niệm 5 Năm Đường Sách Sài Gòn

 

(“Nhà Dài”, Đường Sách Saigon, ảnh ĐHN 2021)

 

Sách ở trên Đường

tặng Mây Hồng

 

Tôi mê Sách ở trên Đường nên sau này mê cả Đường Sách.

Tuần nào gần như tôi cũng có mặt ở Đường Sách.

Làm gì ư? Không làm gì cả. Chỉ để dòm, để ngửi, để nghe, để ngóng…

Và… để nhớ. Nhớ gì? Nhớ những ngày mới lên mười, sống trong một ngôi chùa nhỏ với Cô tôi ở Phan Thiết. Cô tôi bị thương tật gãy cả hai chân vì tai nạn xe lửa trong thời chiến tranh. Hàng ngày tôi có nhiệm vụ đi qua đò mượn sách bên kia sông Cà Ty hoặc đến một nhà cho mướn sách nào đó ngoài phố. Cô cấm tôi đọc sách vì con nít mê sách sẽ làm biếng học. Tôi đành vừa đi vừa đọc trên đường, hoặc ngồi dưới bóng me, góc chùa, đọc hết cả cuốn mới về đến nhà…

Tôi lại nợ Sách trên Đường. Một lần về Saigon, lang thang trên đường Trần Hưng Đạo, trước rạp hát Eden, ai đó bày ra cả một… đường sách mênh mông, tôi vớ phải cuốn  Kim Chỉ Nam Của Học Sinh (Nguyễn Hiến Lê, 1956), để rồi từ một cậu bé thất học, tôi… bơi vào bể học.

Tôi biết ơn sách và đặc biệt biết ơn Sách ở trên Đường. Tôi quen Quách Tĩnh với Hoàng Dung, Vô Kỵ Triệu Minh… trên đường Cao Thắng, Lê Văn Duyệt… Tôi biết Cửu âm bạch cốt trảo với Giáng long thập bát chưởng, Lăng ba vi bộ, Vô chiêu thắng hữu chiêu… từ ngày còn là một sinh viên trường thuốc.

Rồi sau 1975, đường sách cũ Đặng Thị Nhu là nơi tôi loanh quanh không mỏi mỗi chiều, vì nơi đó, ngoài sách, tôi còn được gặp biết bao bạn bè thân thiết, nào họa sĩ Cù Nguyễn, nào nhà thơ Trần Yên Thảo, nào… nào…

Khi viết sách lai rai, tôi nghiệm rằng sách vốn là… thuốc, viết sách là bào chế thuốc, bán sách là bán thuốc, đọc sách là uống thuốc, không phải  chuyện chơi nhưng vẫn nhớ mãi sách trên đường…

Nên không thể không mê Đường Sách.

Năm năm nay có một cái Đường Sách rất dễ thương ở Sai Gòn. Nó dễ thương vì nó nhỏ xíu, nó làm cho mọi thứ trở nên thân mật và ấm cúng. Tôi luôn coi nó là một cái Nhà Dài nơi xứ Thượng, lợp bằng lá me, gia đình  toàn là những người kỳ cục, nam phụ lão ấu đều như bị một thứ bùa mê… qua lại có khi va vào nhau, không cần xin lỗi vì mắt mũi cứ dòm ngó đâu đâu!

Thỉnh thoảng có những dây con nít được mấy cô mẫu giáo xinh đẹp dẫn đi cho ngửi mùi sách làm quen, có những bà đầm hở rún dắt ông tây bụng bự, có những  người đẹp trình diễn xuyên thấu…, có cụ già trên chín chục, xách laptop ra gõ những dòng thơ tình đắm đuối, có những bạn bè phương xa, vừa xuống máy bay đã kéo lê cả vali túi xách chạy về Nhà Dài cho đúng hẹn…

Còn có những buổi trò chuyện ngoài trời ở Nhà Dài cho ông đi qua bà đi lại lõm bõm nghe. Có nhà văn trẻ ký tên tặng sách mỏi cả tay, năn nỉ xin nghỉ vài phút để vào restroom…!

Nhà Dài theo tôi còn có vẻ nghiêm trang quá, bày biện trang trí kiểu cọ quá, thiếu chút bừa bãi dễ thương như Sách ở trên Đường ngày xưa, hay như dãy nhà dài dọc sông Seine ở Paris. Đặc biệt Nhà Dài thiếu các tủ kính bày chân dung cùng trang sách viết tay, bản sửa morasse ngoằn ngoèo… của những nhà văn, nhà thơ, triết gia, thi sĩ… Và còn thiếu những giỏ cần-xé to đùng đựng đầy sách… biếu tặng, mặc ai muốn lấy cuốn nào thì lấy…

Nhắp một ly capuchino ở một quán café Book quen thuộc nơi Nhà Dài, lặng nhìn từng cánh lá me bay bay và ngó những người bị “quỷ ám” lang thang, khệ nệ ôm một túi sách trên tay đủ để hạnh phúc cho một ngày ở Đường Sách hôm nay đó vậy.

Đỗ Hồng Ngọc.

 

Sách cũ bên bờ sông Seine, Pháp (ảnh Internet)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Hàng sách cũ Đặng Thị Nhu, Saigon (ảnh Internet)

 

 

 

 

Sách Đỗ Hồng Ngọc cũng có mặt ở quày sách cũ trên Đường Sách… hôm nay.

……………………………………………………………………..

Đọc bài “Sách Ở Trên Đường” của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Hai Trầu Lương Thư Trung (Houston, 8 Jan 2021)

Không biết sao, khi tôi đọc “Tôi mê Sách ở trên Đường nên sau này mê cả Đường Sách.”, tôi nghe như đó là điệp khúc của một bản nhạc, “sách ở trên đường” rồi “đường sách” nó hòa vào nhau thành một, rồi nó trườn lên nhau như đợt sóng này trườn mình lên đợt sóng khác nơi bãi biển Nha Trang cách nay hơn nửa thế kỷ mà có lần tôi đã ngồi bên hàng dương với cát trắng mịn dưới chân, nhìn biển chập chùng…

Rồi tác giả lại viết: “Tôi lại nợ Sách trên Đường. Một lần về Saigon, lang thang trên đường Trần Hưng Đạo, trước rạp hát Eden, ai đó bày ra cả một… đường sách mênh mông, tôi vớ phải cuốn  Kim Chỉ Nam Của Học Sinh (Nguyễn Hiến Lê, 1956), để rồi từ một cậu bé thất học, tôi… bơi vào bể học.”

(…)

Đặc biệt khi tác giả viết:

“Tôi biết ơn sách và đặc biệt biết ơn Sách ở trên Đường.”

Cảm động quá! Là một người nhà quê già và cũng có chút chút mê sách trên đường vì hồi đó sách bán trên đường gọi là sách bán “son” (solde) giá rất rẻ nên hợp túi tiền con nhà nghèo, nên tôi cũng lang thang qua những đường sách và cũng để dòm dòm ngó ngó coi chơi cho vui chớ đâu có tiền để mua dù sách giá rất rẻ ấy.

Với tác giả, một người già giặn, lão luyện trường đời đã nhận ra sách không chỉ là sách trong các nhà sách lớn khang trang trùng trùng điệp điệp như nhà sách Khai Trí, nhà sách Tự Lực trên đại lộ Lê Lợi, hay nhà sách Xuân Thu trong thương xá Eden (Sài Gòn) …, mà còn là sách trên đường với giá rẻ mà vẫn quý và từ đó, tác giả nghiệm ra rằng:

“Khi viết sách lai rai, tôi nghiệm rằng sách vốn là… thuốc, viết sách là bào chế thuốc, bán sách là bán thuốc, đọc sách là uống thuốc, không phải chuyện chơi nhưng vẫn nhớ mãi sách trên đường…

Nên không thể không mê Đường Sách.”

Với đường sách Sài Gòn, tác giả dí dỏm ví nó như nhà Dài của người Thượng vùng cao nguyên dù nó đang nằm giữa chốn đô thành:

“Tôi luôn coi nó là một cái Nhà Dài nơi xứ Thượng, lợp bằng lá me, gia đình  toàn là những người kỳ cục, nam phụ lão ấu đều như bị một thứ bùa mê… qua lại có khi va vào nhau, không cần xin lỗi vì mắt mũi cứ dòm ngó đâu đâu!”

Tâm trạng này thì tôi có cái cảm được qua hai lần ghé ngang qua đường sách Sài Gòn mà anh gọi là Nhà Dài lợp bằng lá me nhỏ xíu ấy, nó rất đẹp và lãng mạn…

Lần đầu, vợ chồng tôi ghé ngang đường sách này với mục đích duy nhứt là để hy vọng tìm lại được chút gì về cái chất Sài Gòn xưa nó nằm trên những quầy “sách cũ”, ở đó có tuổi trẻ của tụi tôi hồi mới quen nhau rồi mãi tới những ngày dạo phố Sài Gòn vào những ngày cuối tuần hoặc chợ hoa giáp Tết cách nay hơn năm chục năm! Lần thứ hai, tôi trở lại đường Sách Sài Gòn qua hẹn gặp tác giả để ngồi nhăm nhi ly cà phê, như anh đã viết:

“Nhắp một ly capuchino ở một quán café Book quen thuộc nơi Nhà Dài, lặng nhìn từng cánh lá me bay bay và ngó những người bị “quỷ ám” lang thang, khệ nệ ôm một túi sách trên tay đủ để hạnh phúc cho một ngày ở Đường Sách hôm nay đó vậy.”

Vâng, đọc bài “Sách ở trên đường” của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc hôm nay (Saigon, 9.01.2021), tôi đã thấy được cái vui trong đôi mắt của tác giả mà cũng là dịp mình bắt gặp lại chính mình có một thời cũng mê tìm sách cũ, sách xưa và “sách ở trên đường” để biết mình cũng có một thời biết mê những con đường bán sách “son” (solde) ngày cũ nữa!

 

Hai Trầu Lương Thư Trung

Houston, ngày 08.1.2021

…………………………………………………………………

Cảm “Sách ở trên đường”

Minh Lê (Suối Tiên, Nha Trang)

10.1.2021

Đọc bài “Sách ở trên đường” của Anh Đỗ Hồng Ngọc, rồi bài cảm nghĩ của Anh Hai Trầu Lương Thư Trung, tôi thấy tôi bị “cảm” mất rồi. Ấy, “cảm” đây không phải cảm cúm của Covid-19, mà là đồng cảm và cảm kích.

Anh Ngọc mê Sách, nợ Sách, biết ơn Sách và trân trọng Sách, rõ ràng Anh coi Sách là người tri kỷ. Mỗi cảm xúc sâu nặng với Sách còn được “chứng minh” ngắn, rõ, sinh động, tiết tấu nhịp nhàng như một bài thơ. Anh còn nhấn mạnh “Sách ở trên đường”, vậy Sách-ở-trên-đường khác Sách-ở-trong-tiệm chỗ nào? Tôi cảm thấy sách ở trên đường gần gũi hơn, tự do hơn, lại thêm cái cảm giác “đãi cát tìm vàng”. Ai mê sách mà không từng có một thời hàn vi “vẫy vùng” trong những chồng sách cũ, kiếm ra được một cuốn mình thích thì mừng tới mức…khỏi ăn cơm? Nên dù kỷ niệm khác nhau, cảm nhận với Sách vẫn tương đồng.

Anh Ngọc mê “Sách ở trên đường”, nên mê luôn… “Đường Sách”. Tới đây phải cảm ơn Anh Hai Trầu Lương Thư Trung, hình dung của Anh về sự hòa lẫn của hai cụm từ này “như đợt sóng này trườn mình lên đợt sóng khác nơi bãi biển Nha Trang” rất sinh động và chính xác. Cũng bởi tôi là dân Nha Trang nên càng “cảm nặng” hơn một chút. Và vì Anh Ngọc mê Đường Sách, nên mới có mấy góp ý thiệt đáng giá cho Đường Sách. Tôi không ở Sài Gòn nên chỉ được ghé qua Đường Sách vài lần, vẫn thấy thiếu thiếu chút gì, giờ đọc xong liền thấy trúng ý quá. Nhứt là cái đề nghị “bày chân dung cùng trang sách viết tay, bản sửa morasse ngoằn ngoèo… của những nhà văn, nhà thơ, triết gia, thi sĩ…” và “chút bừa bãi dễ thương” trong việc trang trí và sắp xếp. Hai việc này, một gợi cho người ta nhớ tới người “mang nặng đẻ đau” ra Sách, một giúp tạo không khí thân mật và thoải mái trong Đường Sách để người ta càng lưu luyến. Nếu Sách là tri kỷ, thì Anh Ngọc ước mong Đường Sách sẽ thành chốn tri âm cho những người yêu sách.

Cuối cùng, ngoài bài viết rất “Đỗ Hồng Ngọc”, tôi còn khoái mấy bức hình minh họa, nhứt là hình chụp bộ sách của Anh Ngọc ở quầy sách cũ, mà bên dưới là cuốn sách lộ ra hai chữ “bụi đời”. “Cảm” thêm lần nữa! Giữa cõi trần ai mịt mù, mỗi lần đọc sách Anh Ngọc là một lần thấy lòng nhẹ nhàng, “bụi đời” dường như rơi xuống, lắng lại, để tâm thanh tịnh hơn. Hèn chi, Sách là thuốc, mà cái bịnh từ “bụi đời” mà ra này, chắc cũng chỉ có thuốc là Sách thôi.

Cám ơn Anh Đỗ Hồng Ngọc và Anh Hai Trầu Lương Thư Trung! Trời Suối Tiên (Khánh Hòa) giờ đang rất lạnh, nhưng có hề gì, bởi đã có nắng ấm từ lòng người “thiên lý hữu duyên”.

(ML)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Filed Under: Ghi chép lang thang, Góc nhìn - nhận định, Nghĩ từ trái tim

  • « Go to Previous Page
  • Go to page 1
  • Go to page 2
  • Go to page 3
  • Go to page 4
  • Interim pages omitted …
  • Go to page 75
  • Go to Next Page »

Thư đi Tin lại

  • Lịch “Trò chuyện, giao lưu…”
  • Lại đính chính: “SAIGON BÂY GIỜ”
  • ĐÍNH CHÍNH: BSNGOC không phải là BS ĐỖ HỒNG NGỌC
  • Đính chính: BS NGỌC không phải là Bs Đỗ Hồng Ngọc
  • bsngoc đã lên tiếng đính chính
  • Thư cảm ơn và Đính chính về FACEBOOK Bác sĩ NGỌC
  • ĐÍNH CHÍNH: Bài viết "TÀN NHẪN" không phải của Bs Đỗ Hồng Ngọc

PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG

TẠP GHI (Lõm bõm… Kỳ 4b)

Tạp Ghi (lõm bõm… kỳ 4): Mười Hạnh Phổ Hiền

TẠP GHI (Lõm bõm…) kỳ 3

Tạp Ghi (Lõm bõm kỳ 2)

TẠP GHI (Lõm Bõm)

Nguyễn Xuân Thiệp: VỴ ƠI…

Truyện Phan Tấn Hải: QUÊN NHAU LÀ CHUYỆN KHÓ

Thêm một Tuổi Mới

PHĐS: Buổi học cuối năm (16.1.2021).

Biết rồi còn hỏi

Xem thêm >>

Chuyên mục

  • Một chút tôi
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy

Bài viết mới nhất!

  • Thư gởi bạn xa xôi (tiếp)
  • Thư gởi bạn xa xôi,
  • Có Một Con Mọt Sách
  • TẠP GHI (Lõm bõm… Kỳ 4b)
  • Tạp Ghi (lõm bõm… kỳ 4): Mười Hạnh Phổ Hiền

Bài viết theo tháng

Ý kiến bạn đọc!

  • Nhã Trang trong Thư gởi bạn xa xôi,
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Giới thiệu
  • Duy Thao trong Giới thiệu
  • Đào Duy An trong Vài câu hỏi đáp về Y khoa ngày trước
  • Ngọc Điệp trong TẠP GHI (Lõm Bõm)
  • Diêu Trong trong TẠP GHI (Lõm bõm…) kỳ 3
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong CHÚC MỪNG NĂM MỚI
  • Diêu Trong trong CHÚC MỪNG NĂM MỚI
  • Bac Si Do Hong Ngoc trong Sách Ở Trên Đường
  • Su Su Do trong Sách Ở Trên Đường

Cùng một tác giả

  • 0
  • 1
  • 1
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6

Thống kê

Nhà tài trợ

biệt thự vũng tàu
biệt thự vũng tàu cho thuê | biệt thự vũng tàu cho thuê theo ngày giá rẻ | cho thuê biệt thự vũng tàu có hồ bơi
© 2009 - 2016 Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Phát triển & Hỗ trợ kỹ thuật bởi SGC.
Trích dịch nội dung để dùng trong nghiên cứu, học tập hay dùng cho cá nhân đều được tự do nhưng cần phải chú thích rõ nguồn tài liệu và đối với các trích dịch với mục đích khác, cần phải liên lạc với tác giả.
  • Một chút tôi
    ?
    • Một chút tiểu sử
    • Ghi chép lang thang
    • Các bài trả lời phỏng vấn
    • Vài đoạn hồi ký
  • Thư đi tin lại
  • “.com”… 2 năm nhìn lại!
  • Góc nhìn – nhận định
  • Ở nơi xa thầy thuốc
    ?
    • Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng
    • Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc
    • Nuôi con
    • Thầy thuốc và bệnh nhân
    • Hỏi đáp
  • Tuổi mới lớn
    ?
    • Viết cho tuổi mới lớn
    • Bỗng nhiên mà họ lớn
    • Bác sĩ và những câu hỏi thường gặp của tuổi mới lớn
    • Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò
    • Hỏi-đáp
  • Tuổi-hườm hườm
    ?
    • Gío heo may đã về ….
    • Già ơi….chào bạn
    • Chẳng cũng khoái ru?
    • Những người trẻ lạ lùng
    • Thư gởi người bận rộn
  • Lõm bõm học Phật
    ?
    • Nghĩ từ trái tim
    • Gươm báu trao tay
    • Thiền và Sức khỏe
    • Gì đẹp bằng sen?
  • Thư cho bé sơ sinh và các bài thơ khác
  • Đọc sách
  • Nghiên cứu khoa học, giảng dạy
  • Nhận bài mới qua email