GS Trần Văn Khê nói về cuốn “Nghĩ từ trái tim” của Đỗ Hồng Ngọc
( Ghi theo băng audio-cassette do chị Lý Thị Lý thu tại bệnh viện Triều An, ngày 17.10.2003. Chị Lý Thị Lý là phu nhân nhà báo Trần Trọng Thức, cũng là người đã thực hiện bộ Hồi ký Trần Văn Khê, NXB Trẻ, 2002).
Lời của Giáo sư Nhạc sĩ Trần Văn Khê:
Tôi đọc “Nghĩ từ trái tim” của Đỗ Hồng Ngọc trong lúc đang ở bệnh viện một cách say mê liên tục từ đầu tới cuối, vừa đọc vừa ghi chú bên lề những cảm giác có tại chỗ hoặc những ý gợi lại những chuyện xưa. Trước hết là con đường đi tới Tâm Kinh của tôi.
Thuở nhỏ tôi đã từng nghe đọc kinh, trong đó có Tâm Kinh. Khi đó tôi chỉ biết:
Quán Tự Tại Bồ tát hành thâm Bát Nhã Ba-la-mật-đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
Xá lợi tử! Sắc bất dị không. Không bất dị Sắc. Sắc tức thị Không. Không tức thị Sắc.
Đến năm 8 tuổi tôi theo gánh hát cải lương của cô Ba. Trong màn Võ Đông Sơ tưởng Bạch Thu Hà chết rồi nên tổ chức đàn làm chay, cậu Năm tôi đưa cả thầy tu lên sân khấu đọc kinh, tụng kinh, tán và có thay đổi một số vần điệu để có tính chất cải lương. Từ một bài Tâm Kinh cậu Năm phổ nhạc ra thành hai bài gồm “Phật y phổ niệm” là đoạn đầu cho tới “diệc vô vô minh tận nãi chí vô lão tử diệc vô lão tử tận”, phần sau mang hơi buồn là “Bạch hạc minh bi” (Con chim hạc trắng kêu lên một tiếng buồn thảm). Hồi đó tôi bị nhạc của cậu Năm làm cho có một quan điểm sai về Tâm Kinh vì cậu Năm vốn không phải là người hiểu rõ về Phật học mà chỉ phổ nhạc Tâm Kinh theo tư tưởng của người không nắm được Phật giáo.
Đến năm 1965 tôi viết về nhạc của Phật giáo nên thường xuyên được thầy Nhất Hạnh giảng cho nghe những bài kinh, bài tán, nhờ đó tôi hiểu được với từng nội dung có những nét nhạc khác nhau. Thầy chỉ nói một câu rằng Tâm Kinh chính là bản tóm tắt hầu hết những điều Phật dạy. Điều quan trọng đối với tôi lúc đó không phải là giáo lý Phật giáo mà là nhạc Phật giáo, có mấy cách tán, khi nào thì tán rơi, tán sấp hay tán trạo, nhạc đánh làm sao… Sau đó tôi học qua với thầy Viên Châu về những cách niệm hương, khai kinh.
Năm 1995 khi qua Mỹ tôi tình cờ đọc được bài viết của thầy Nhất Hạnh nói về Trái tim hiểu biết. Thầy dịch rất sát nghĩa, tuy tôi hiểu được chữ Hán một phần nhưng chỉ theo cách hiểu của bản thân. Quyển sách chủ yếu mang tính chất giáo khoa.
Con đường đi tới Tâm Kinh của tôi vòng vo như vậy, mãi cho tới khi gặp bà Karfung tôi mới hiểu rõ hơn. Bà Karfung là một thầy thúôc châm cứu, dạy khí công của tôi. Suốt một năm rưỡi bà chỉ chuyên tâm cắt nghĩa Tâm Kinh bằng tiếng Pháp..
Bà Karfung đọc và giảng từng câu cũng như Đỗ Hồng Ngọc đã đề cập trong cuốn sách của mình. Bà Karfung cho rằng không dịch ra mà để nguyên chữ Phạn, chỉ đọc ra âm thanh thôi. Âm thanh đó nhắc nhở con người phải hành, phải đi tìm chân lý, bến giác. Đến chữ “Yết đế” trong câu Yết đế, Yết đế, Bala yết đế, Bala tăng yết đế, bồ đề, tát bà ha!, bà dịch là avant, encore en avant, toujours en avant et plus loin en avant (đi tới, đi tới, còn đi tới nữa và luôn luôn đi xa tới hơn nữa) để tới đáo bĩ ngạn, tới Paramita.
Thêm một cái may nữa là lần này về Việt Nam được đọc cuốn sách Nghĩ từ trái tim của Đỗ Hồng Ngọc, những điều tôi biết về Tâm kinh từ bà Karfung đều được Đỗ Hồng Ngọc nói rõ ràng bằng tiếng Việt, văn phong chẳng những giản dị mà còn dí dỏm, kèm thêm những thí dụ trong cuộc đời, lâu lâu lại chêm vài câu Kiều, thơ của Xuân Diệu hay lời ca của Trịnh Công Sơn. Càng đọc tôi càng thấy thấm thía và có phần gần gũi. Tôi đọc mà vô cùng thú vị, qua đó cho thấy hiểu biết của tác giả rất sâu sắc. Có những điều tôi hoàn toàn đồng ý với tác giả. Mọi người cho rằng trong Tâm Kinh, đức Phật phủ định tất cả những gì mình đã dạy. Nhưng Đỗ Hồng Ngọc lại nghĩ ngài không phủ định mà chỉ khẳng định lại những điều mình đã dạy một cách rõ ràng hơn. Điều đó đúng quá, Đức Phật nói lần lần cho người ta hiểu.
Đỗ Hồng Ngọc là một bác sĩ, làm như phải có khoa học thì mới tìm được những chi tiết trong Tâm Kinh. Người bác sĩ này có cả tâm hồn hướng về con người nên đã viết cho trẻ con, cho những người già, người sản phụ, tìm hiểu căn bệnh để trừ bệnh, để giúp cho người ta bớt bệnh bớt khổ. Tâm tư đó là tâm từ đi tới bi. Người bác sĩ đó có được một tinh thần phóng khoáng, một tâm từ, còn là một nhà văn dí dỏm, một nhà thơ mộc mạc dễ thương nên hiểu được Tâm Kinh như thế. Phải trải qua một trận đau, một lần bị giải phẫu, khi đó cả một cơ thể mình chuyển động thay đổi, tâm tư thay đổi thì tự tìm lấy cách để trị bệnh cho mình. Trong khi học trị bệnh tức là đã hành. Tâm Kinh không chỉ đọc hiểu không thôi mà phải hành. Đỗ Hồng Ngọc nhờ tổng hợp được những yếu tố đó mà viết ra được quyển Nghĩ từ trái tim như thế này thì tôi cho đây là một tuyệt tác, nắm được tinh hoa của đạo Phật giảng ra một cách dễ hiểu, dễ dàng để cho người ta tìm thấy được mỗi chuyện làm ở trong đời….
Theo bà Karfung, Tâm kinh tuy gồm 260 chữ nhưng gút lại có bốn chữ vô cùng quan trọng là “ngũ uẩn giai không”, tôi thấy Đỗ Hồng Ngọc cũng nói về ngũ uẩn giai không như thế. Đỗ Hồng Ngọc còn đi xa hơn một chút. Bà Karfung cắt nghĩa chữ Không là vacuité, tức là không mà có rồi lần lần đi tới chỗ không mà không có là đi tới chữ vô. Đỗ Hồng Ngọc cắt nghĩa rõ ràng từ chữ không đi tới chữ vô. Cái vô đó không phải phủ nhận nhưng phải một người như Đức Phật mới dám nói tới chữ vô vì ông đưa ra Tứ diệu đế, đưa ra cái khổ của con người ai cũng phải có mà bây giờ ông nói là không khổ gì hết. Không khổ như thế mới là vô quái ngại, không sợ sệt, vượt ra khỏi vòng sanh tử rồi mới thanh thản đi tới chỗ đời sống. Đọc Tâm Kinh này mà mình thưởng thức và hành được thì mới thành công. Trong cái hành đó có cái thiền. Cái thiền đó tác giả nói cũng rõ ràng lắm. Thiền đó không phải học chơi mà phải làm. Trong đó có nhiều chuyện làm cho mình thích lắm. Người bác sĩ như Đỗ Hồng Ngọc không phải chỉ có cái nhìn của nhà khoa học không mà còn có cái nhìn từ bi của con người thương con người, thấu hiểu được tâm kinh, hiểu được biết bao nhiêu chuyện đời, chắt lọc được tất cả những cái gì hay, đưa ra một cách giản dị, làm cho người mới đọc lần đầu sơ sơ đã thấy có cái gì như ánh sáng loé lên, càng đọc càng thấy rõ. Tôi cho rằng quyển sách này tuyệt vời.
Trong trang 37 Đỗ Hồng Ngọc nói người nào kiểm soát được hơi thở thì kiểm soát được cái tâm của mình.Khi kiểm soát hơi thở mình kiểm soát được cái tâm, cái tình cảm của mình rất là đúng. Đó là kinh nghiệm bản thân của tôi.
Ngoài ra đến trang 102, Đỗ Hồng Ngọc nói rằng: “Biết sống hôm nay, ở đây và bây giờ”. Đó cũng là kinh nghiệm của tôi theo một câu kinh. “Không nên hối tiếc quá khứ, đừng quá bận tương lai vì quá khứ đã qua rồi mà tương lai thì chưa tới. Hãy biết sống trong hiện tại”.
Trang 80 Hồng Ngọc có ghi rằng: “Mây lang thang vô định, xây thành rồi tan biến rồi lại xây. Mây thành mưa. Mưa thành suối, sông hồ, biển cả rồi lại bốc hơi thành mây”. Tôi đọc câu đó mà nhớ đến thời điểm năm 1952, tôi đang ở bịnh viện thì người ta nói rằng ráng một tháng nữa sẽ được ra viện. Tôi chờ đợi cho hết tháng rồi tới gặp bác sĩ, ông nói chưa ra được ráng thêm ba tháng nữa. Từ tưởng tượng mình được ra viện bỗng cũng như mình được lên trời lại phải trở về chỗ cũ. Bữa đó buồn quá nên tôi ngồi viết bài “Mưa”. Lúc ấy tôi đang nghiên cứu về nhạc miền Trung nên bài Mưa mang hơi hướm của Nam bình Huế:
Hôm nay suối lạc dòng
Hôm nay suối lạc dòng
Dưới ánh nắng vàng nước tan thành hơi
Nước lên trời, lên trời thành mây, mây ơi!
Khi bay theo đám mây lành, bỗng gặp cơn gió lạnh
Hồn nước biến thành mưa trở về trần gian chảy kiếp thừa.
Đọc cuốn sách của Đỗ Hồng Ngọc, từng đoạn từng đoạn vừa hiểu được Tâm Kinh mà thấy rằng cách diễn tả đó nếu người nào chịu khó đọc rồi cũng sẽ hiểu được Tâm Kinh. Mà nếu chịu khó hành Tâm Kinh, trước nhứt là kiểm tra hơi thở của mình lần lần kiểm tra được tình cảm của mình, tìm thấy được mọi việc. Cái mà mình tưởng là có thì chỉ là ảo ảnh của chuyện đó. Từ đó mà cái mất cái còn đối với mình không còn quan trọng. Mất thì mình tiếc chuyện đó vì tưởng nó có hình thức nhưng thực ra nó không có gì hết, nó có mà không có, mất rồi thì sẽ có cái khác. Trong tất cả những chuyện đó mình đi lần tới chỗ vô ngã thì chừng đó người ta chửi thì mình cũng không giận. Mình giận là tại sao họ dám động tới “ta”. Làm sao đi tới chỗ mình thấy ngã không còn là quan trọng nữa. Thầy Thiện Siêu có nói vô ngã là niết bàn. Điều đó khi tôi đọc quyển sách hiểu thấu được như vậy, tôi vô cùng hoan nghênh.
Trang 54 Đỗ Hồng Ngọc có nói rằng khi có cảm gió thì thưởng thức lá xông, tô cháo hành. Cảm gió tùy theo loại cảm gió, nếu đó là gió luồng, gió mưa hay gió tuyết thì khi bị cảm thì khí âm nhập vào người mặc dầu nó làm mình nóng sốt nhưng trong cái sốt đó âm rất nhiều. Vì vậy mà khi cảm lạnh thì người Việt Nam mình ăn một chén cháo gừng vì gừng đem dương vô chế ngự khí âm. Nhưng nếu bị cảm nắng thì phải ăn cháo hành vì cảm nắng dương vô nhiều quá phải đem hành là cái âm vô để chế ngự lại. Cái đó chứng tỏ người Việt Nam mình trong cách ăn là đã trị bịnh phù hợp âm dương rồi. Cho nên có những câu cách ngôn thông thường mà suy nghĩ kỹ mình mới thấy hay thí dụ: “Mùa hè ăn cá sông mùa đông ăn cá biển”. Mùa hè thì chung quanh ta là khí dương mà cá sông có nước ngọt thấm vào có nhiều khí âm để chế ngự trong khi mùa đông khí âm tràn lan, cá biển thấm nước mặn và thấm cả khí dương nên ăn vô trị cái âm của trời đất.
Đọc cuốn sách của Đỗ Hồng Ngọc có nhiều cái suy tư, nhớ lại, trùng hợp nhiều cái thành ra thú vị vô cùng. Mỗi trang sách có sự thú vị khác nhau. Nhưng cảm giác này mãnh liệt dồi dào và xảy ra trong lúc đang bịnh nằm trong bịnh viện mà đọc đựơc Nghĩ Từ Trái Tim. Nhờ có cuốn sách mấy ngày đó tôi quên bịnh, chỉ đọc cái đó mà thú vị, đọc vô thấy khỏe trong người và ghi trở lại một vài điều hôm nay.
(tặng Thức-Lý)